PHẦN 2.4 "Này, có chuyện gì thế?" Ando nhận ra lơ mơ tận đâu đâu cho đến khi Miyashita với . Nhưng cảm giác cách đây hai tiếng đồng hồ trở thành con sóng triều đe dọa cuốn phăng tận gốc tỉnh táo của . điên cuồng chống đỡ, và nổi da gà vì nhưng nỗ lực của mình. Lời độc thoại đầy nhiệt tình của Miyashita thỉnh thoảng mới chạm được vào não . "Cậu có nghe tôi đấy?" Giọng Miyashita vẻ khó chịu. "Ồ có, tôi nghe đây," Ando đáp, nhưng vẻ mặt lại rằng tâm trí ở nơi khác. "Cái gì hớp hồn cậu rồi à, có lẽ cậu nên kể cho tôi nghe." Miyashita kéo chiếc ghế từ dưới bàn ra, gác chân lên đó, và ngửa người ra sau. ta là khách trong phòng của Ando, nhưng xử như thể chính ta là chủ. Lúc ấy trong phòng Xét nghiệm Pháp y chỉ có Ando và Miyashita. Mặc dù trời bên ngoài tối dần, vẫn chưa đến sáu giờ tối. Sau việc kinh hoàng ở căn hộ của Mai, Ando thẳng về văn phòng và gặp Miyashita. Vì thế, chưa có chút thời gian để lấy lại căn bằng. Còn Miyashita từ lúc đó đến giờ cứ thao thao bất tuyệt với về loại virus ấy. ", chẳng có gì phiền tôi cả." định kể cho Miyashita điều trải qua ở căn hộ của Mai. Trước hết là vì tìm ra lời để diễn tả. nghĩ ra được dụ phù hợp. có nên so sánh điều đó với cảm giác người ta đôi lúc gặp phải, khi đứng trong toilet lúc nửa đêm và có ai đấy ở sau lưng ? Cái cảm giác mà, khi ta cảm thấy, những con quái vật trong trí tưởng tượng cứ lớn dần lớn dần cho đến khi ta quay lưng lại và dập tắt mọi ảo ảnh? Nhưng điều Ando vừa trải qua lại tầm thường nhưn thế. chắc chắn có cái gì đó sau lưng, khi mất thăng bằng trong phòng tắm của Mai và má đè lên toilet. Đó phải là sản phẩm của trí tưởng tượng. Cái gì đó phát ra tiếng cười khúc khích. Cái gì đó khiến Ando, vốn bình thường phải là người nhát gan, cũng sợ hãi đến mức dám quay lưng lại. "Nhưng trông cậu nhợt nhạt lắm. Tức là nhợt nhạt hơn bình thường," Miyashita , tay dùng áo blu lau kính. "Gần đây tôi ngủ tốt lắm, chỉ thế thôi." Đó phải là lời dối. Gần đây thường thức giấc lúc nửa đêm và rất khó ngủ lại. "Thôi quên . Chỉ cần đừng có hỏi hỏi lại cùng câu hỏi với tôi. ai muốn bị ngắt lời cả." "Xin lỗi." "Giờ để tôi tiếp được ?" "Cứ " "Về loại virus mà người ta phát ra trong các thi thể ở Yokohama ..." "Loại virus giống virus đậu mùa," Ando theo. "Đúng loại virus đó." "Vậy là nó trông giống như virus đậu mùa à?" Miyashita đập lên mặt bàn. ta ném cho Ando cái nhìn cáu tiết. "Đúng là cậu chả nghe gì cả. Tôi vừa bảo với cậu: họ chạy loại virus mới này qua máy giải mã AND để phân tích các bazơ của nó. Sau đó họ chạy nó qua máy tính. Rồi tìm ra được nó gần như tương tự với dữ liệu thư viện về bệnh đậu mùa." "Nhưng chúng hoàn toàn giống nhau?" ". Chúng ta có lẽ khoảng bảy mươi phần trăm giống nhau." "Vậy ba mươi phần trăm còn lại sao?" "Cậu sẵn sàng mà nghe này. Nó giống hệt như chuỗi bazơ của enzym mã hóa gen." "Enzym à? Của loài nào?" "Homo sapiens." "Cậu đùa chắc." "Tôi biết là rất khó tin. Nhưng đúng thế đấy. mẫu khác của loại virus đó cũng chứa các gen protein của người. cách khác, loại virus mới này được cấu tạo từ gen của bệnh đậu mùa và gen người." Virus phiên mã ngược, có gì lạ khi phát ra nó có chứa gen người. Loại virus như thế có các enzym phiên mã ngược 1. Nhưng virus AND có các enzym đó, làm thế nào chúng có thể lấy gen người và lồng ghép vào nhau được? Ando thể nghĩ ra bất cứ quá trình nào. Nếu virus chứa enzym và những protein khác, nhưng trong những phần tách biệt nhau. Giống như là cơ thể người bị phân tách ra thành hàng trăm ngàn phần, và những phần đó được chia ra thành những mẫu riêng rẽ để bảo vệ an toàn. "Loại virus từ cơ thể của Ryuji có giống thế ?" "Cuối cùng, chúng ta cũng đến được đấy. Chỉ hôm kia, chúng tôi phát virus gần như giống hệt thế trong mẫu máu đông lạnh của Ryuji." " kiểu kết hợp khác giữa virus bệnh đậu mùa với gen người?" "Tôi gần như." "Rồi." "Nó gần như giống hệt. Nhưng trong đoạn chúng tôi thấy lặp lại cùng chuỗi bazơ." Ando đợi Miyashita tiếp tục. "Cho dù có cắt đoạn đó ở chỗ nào, chúng tôi vẫn tìm thấy đoạn mã y như vậy gồm 40 bazơ lạ." Ando biết gì về điều này. "Cậu có nghe tôi đấy? Họ thấy điều này ở trong hai thi thể tại Yokohama." "Cậu là loại virus tìm thấy trong thi thể họ hơi khác so với loại virus giết chết Ryuji?" "Đúng thế. Chúng trông tương tự nhau, nhưng hơi khác chút. Tất nhiên, chúng ta thể gì nhiều cho đến khi có được dữ liệu từ những trường đại học khác." Lúc đó chiếc điện thoại cách họ hai bàn đổ chuông Miyashita rủa thầm. "Cái gì nữa đây?" "Cậu chờ chút nhé, được chứ?" Ando vươn người và nhấc ống nghe lên. "A lô?" "Tôi là Yoshino ở báo Tin tức Hàng ngày. Tôi muốn gặp bác sĩ Ando." "Là tôi đây." "Tôi được biết tiến hành mổ tử thi của Ryuji Takayama tại Phòng Giám định Pháp y Tokyo vào ngày 21 tháng trước. Điều đó có đúng ?" "Đúng thế, tôi được giao ca đó." "Tôi hiểu. Vậy, nếu có thể, tôi muốn hỏi vài câu về việc này. Chúng ta có thể gặp nhau ?" "Hừmm." Trong khi Ando cân nhắc, Miyashita nghiêng người thầm vào tai . "Ai đây?" Ando lấy tay che ống trước khi trả lời. " phóng viên của báo Tin tức Hàng ngày." Rồi nhanh chóng đưa điện thoại lại gần miệng và hỏi, " muốn hỏi về việc gì?" "Tôi muốn hỏi ý kiến của về chuỗi các biến cố nhất định." Câu của người đàn ông này làm Ando ngạc nhiên. Giới truyền thông đánh hơi thấy điều gì chăng? Dường như quá sớm. Thậm chí nhiều trường y được giao mổ tử thi cũng chỉ mới bắt đầu phát ra mối liên hệ giữa những người chết trong hai tuần qua. " chuỗi biến cố nghĩa là sao?" Ando quyết định chơi trò giả vờ để cố tìm hiểu xem Yoshino biết được bao nhiêu. "Ý tôi là những cái chết bí của Ryuji Takayama, của Tomoko Oishi, Haruko Tsuji, Shuichi Iwata và Takehiko Nomi - rồi Shizu Asakawa và ấy." Ando cảm giác như vừa bị phiến gỗ nện vào đầu. Ai làm rò rỉ những thông tin đó. biết phải gì. "Vậy có được , bác sĩ? có rãnh để gặp tôi ?" Ando toan tính. Có thể thông tin luôn chảy theo chiều xuống dốc, từ những người biết nhiều đến những người biết ít. Nếu phóng viên này có nhiều thông tin hơn Ando, có lẽ Ando nên cố lấy thông tin từ ta. Ando cần lật toàn bộ quân bài có. Điều phải làm là tìm ra những thông tin cần mà cần đánh đổi bí mật của mình. "Được, chúng ta gặp nhau." "Lúc nào tiện cho nhất?" Ando lấy sổ xem lịch. "Tôi cho rằng muốn gặp càng sớm càng tốt. Ngày mai có được ? Tôi rảnh hai tiếng sau buổi trưa." Yoshino dừng lúc để xem lại lịch. "Được. Tôi đến văn phòng của ngay buổi trưa." Họ gác máy gần như đồng thời. "Tất cả chuyện này là thế nào?" Miyashita hỏi, giật ống tay áo Ando. "Đó là nhà báo." " muốn gì?" " muốn gặp tôi." "Tại sao?" " muốn hỏi tôi vài câu hỏi." "Hừmm," Miyashita thở dài, suy nghĩ. "Có vẻ như biết mọi chuyện." "Vậy nghĩa là sao? Rò rĩ?" "Tôi nghĩ phải hỏi điều đó khi gặp ngày mai." "Ừ, đừng với bất cứ điều gì." "Tôi biết." "Đặc biệt là chuyện liên quan đến virus." "Chắc ý cậu là nếu chưa biết." Đột nhiên Ando nhớ ra là Asakawa cũng làm việc cho công ty phát hành tờ Tin tức Hàng ngày. Nếu ta và Yoshino biết nhau, có lẽ Yoshino cùng tham gia khá sâu vào vụ này. Có lẽ cuộc gặp ngày mai hé mở số thông tin thú vị. Trí tò mò của Ando bị kích thích. -------------------------------- 1 Loại enzyme lấy ARN của virus làm khuôn để tổng hợp sợi AND bổ sung PHẦN 2.5 Yoshino liên tục với lấy cốc nước. ta vờ như định lấy nó, nhưng rồi lại liếc đồng hồ đeo tay. ta dường như lo lắng về vấn đề thời gian. Có lẽ ta có cuộc hẹn khác ngay sau đó. "Xin lỗi, chờ tôi chút nhé?" Yoshino cúi đầu rồi đứng dậy khỏi bàn. ta len qua dãy bàn nơi sân hiên quán cà phê, đến quầy điện thoại công cộng cũng gần bàn thu ngân. Khi Yoshino lật mở cuốn sổ ghi chép và bắt đầu nhấn phím điện thoại, Ando cuối cùng cũng có thể dừng lại để thở. tựa lưng vào ghế. Cách đây giờ, đúng giữa trưa, Yoshino xuất tại văn phòng của ở trường đại học. Ando dẫn ta đến quán cà phê trước nhà ga. Danh thiếp của Yoshino vẫn còn nằm bàn trước mặt . Kenzo Yoshino. Tin tức Hàng ngày, Văn phòng Yokosuka. Điều Yoshino với , Ando thể tin được. Nó khiến đầu óc quay cuồng. Yoshino đến, ngồi xuống, và lao vào cuộc độc thoại có tác dụng gì ngoài việc gieo mầm những nghi ngờ trong đầu Ando. Giờ ta gọi điện thoại cho người mà có trời mới biết ta là ai. Theo Yoshino kể, toàn bộ câu chuyện bắt đầu từ đêm 29 tháng Tám, ở nơi có tên là Villa Log Cabin, thuộc khu nghỉ mát Pacific Land, Nam Hakone, nằm ở điểm giao nhau giữa bán đảo Izu và đất liền. nhóm bốn thanh niên cả nam lẫn nữ qua đêm tại ngôi nhà gỗ B-4 tìm thấy cuốn băng video do người phụ nữ nào đó ghi lại bằng phép ngoại cảm. cuốn video giết chết bất cứ ai xem nó đúng tuần sau khi xem. Cái quái gì thế này? Nghe có vẻ vớ vẩn cho dù Ando có nghĩ lại bao nhiêu lần. "Có thể là cái gì đấy giống như chụp ảnh bằng ý nghĩ," Yoshino , như thể điều đó được giải thích được câu chuyện. Dùng ý nghĩ để ghi hình ảnh lên cuốn băng video? Điều đó hoàn toàn thể được. Nhưng... giả sử kể cho người nào đó nghe về những con số tìm thấy mẫu báo lòi ra khỏi bụng Ryuji? Hoặc cảm giác kỳ lạ của khi ở trong căn hộ của Mai? Liệu mọi người có nghĩ chuyện phi lý ? Giữa điều chính ta chứng kiến với điều ta được nghe từ người khác hề có ngang bằng nhau; người này bao giờ có thể cảm thấy chính xác như người kia cảm thấy được. Nhưng Yoshino trực tiếp tham gia, và ít nhất điều ta được chính trải nghiệm của Ando minh chứng. ta giúp Asakawa và Takayama điều tra vụ việc. Lời của ta phải hoàn toàn thiếu tính thuyết phục. "Xin lỗi để phải đợi," Yoshino , ngồi xuống ghế. ta viết nhanh điều gì đó lên cuốn sổ ghi chép, rồi gại đầu bút lên má đầy râu của mình. Râu ta cứng, dài và dày, như thể bù đắp cho đám tóc mỏng ở đầu. "Giờ, tôi đến đâu rồi nhỉ?" ta nhoài người ra trước, áp khuôn mặt râu ria đến gần Ando hơn. ta có sức hút nhất định, biểu trong khi . " bắt đầu về việc Ryuji tham gia vào như thế nào." "Đúng rồi. Giờ, nếu phiền, mối quan hệ giữa với vị giáo sư quá cố ấy là thế nào?" "Chúng tôi là bạn cùng lớp ở trường y." "Tôi cũng nghe thế." Ando hiểu câu này có nghĩa là Yoshino kiểm tra thông tin về trước khi liên hệ với . "Nhân thể, Yoshino, xem cuốn băng đó chưa?" Ando cân nhắc câu hỏi đó trong đầu trong lúc. " đùa đấy à," Yoshino , mắt mở to. "Nếu thế gặp tôi trong phòng mổ tử thi rồi. , tôi có gan để xem." ta cười khùng khục. Tất nhiên, cho đến lúc này, đôi khi Ando nhầm ngờ vực rằng cuốn băng video có liên quan đến những cái chết kia. Nhưng chưa bao giờ trong những lúc tưởng tượng hoang đường nhất của mình, lại ngờ đến tồn tại của cuốn băng, cuốn băng giết chết bất cứ người nào xem nó sau đúng tuần. vẫn thể hoàn toàn tin được. Làm sao có thể? thể chấp nhận chuyện như thế? Trừ phi chính xem cuốn băng đó. Thậm chí nếu có xem nữa, chỉ có thể thực tin chuyện này trong tuần sau đó, khi mà cái chết xảy ra với . Yoshino tranh thú uống tách cà phê giờ nguội lạnh. ta hẳn là có được chút rảnh rỗi trong lịch làm việc của mình, vì hành động của ta có dấu hiệu vội vã nữa. "Vậy tại sao Asakawa vẫn còn sống? ta xem cuốn băng đúng ?" Giọng Ando có vẻ chế nhạo. Asakawa có thể bị căng trương lực, nhưng ta vẫn sống. Điều đó dường như ăn khớp với câu chuyện của Yoshino. " hoàn toàn đúng. Đó cũng chính là điều tôi băn khoăn," Yoshino , rướn người ra trước. Tôi nghĩ tốt nhất là nên hỏi chính ta, nhưng tôi cố và chẳng đến đâu cả." Yoshino cũng đến bệnh viện ở Shinagawa, và cũng chuyện được với Asakawa. Rồi Yoshino dường như có ý. "Có lẽ ..." ta hãm lại, đầy vẻ quan trọng. "Có lẽ sao?" "Tôi nghĩ biết tôi định gì. Giá mà chúng ta có thể lấy được nó." "Lấy cái gì?" "Asakawa là phóng viên tạp chí tin tức trong tuần chỗ chúng tôi." Ando hiểu Yoshino muốn gì. "Tôi biết." "À, ta có với tôi rằng ta viết phóng đầy đủ về vụ việc này. Ý tôi là, lúc đầu lý do duy nhất ta quan tâm chuyện này vì nghĩ rằng có câu chuyện hấp dẫn. ta kết hợp với Takayama, và hai người họ vội vã đến Atami, rồi đến đảo Oshima, hy vọng có thể tìm ra đầu mối để giải đáp bí của cuốn băng. Tôi cho rằng họ tìm thấy điều gì đó. Và tôi cá với bất cứ cái gì rằng tất cả được viết lại và lưu trong đĩa mềm." Yoshino quay đầu, để Ando nhìn ta bán diện. "À ha." Yoshino quay về phía Ando, lần này với nét mặt cay đắng hơn. "Tôi chỉ biết giờ đĩa mềm ở đâu. Tôi thể tìm thấy nó trong căn hộ của ta." Vừa ta vừa ngước nhìn khoảng . Asakawa được mang vào bệnh viện, vợ và con ta chết. Căn hộ bỏ trống. Có phải Yoshino ta đột nhập vào tìm chiếc đĩa mềm? "Trong căn hộ của ta?" "Đúng, quản lý tòa nhà là ông lão dễ tính. Tất cả những gì tôi phải làm là đến đó trình bày lý do phù hợp, thế là ông ta để tôi vào bằng chìa khóa tổng." Việc đó giống y như Ando làm ngày hôm kia, vì lo lắng cho Mai, nên biết là thể chỉ trích hành vi của Yoshino. Động cơ có thể khác nhau, nhưng rốt cuộc họ làm những việc giống nhau: họ lục lọi các căn hộ khi người chủ vắng mặt. Trông Yoshino chút xấu hổ, chỉ có vẻ khó chịu. "Tôi soát mọi ngóc ngách chỗ đó. tìm thấy gì cả. thấy máy xử lý văn bản, thấy đĩa mềm." Đầu gối Yoshino run lẩy bẩy. Rồi ta nhận ra và đặt tay lên gối, thoáng mỉm cười buồn bã với Ando. Ando nhớ lại những tấm ảnh chụp trường tai nạn của Asakawa. nhớ đến tấm ảnh chụp bên trong xe từ điểm thuận lợi bên cửa sổ ghế phụ. Thứ mà cho là đầu máy video nằm ghế phụ, kẹt dưới phần lưng ghế bị đẩy lên phía trước; sàn bên ghế phụ có vật trông giống máy tính xách tay. Hai vật màu đen này gây ấn tượng sâu sắc cho Ando. Và bây giờ chúng gợi cho ý nghĩ. ngửa đầu, cố gắng cực độ để suy nghĩ, vờ như theo dõi dòng người đổ ra khỏi nhà ga như làn sóng. Ando nhận ra biết nơi phải tìm bản phóng có thể giải thích mọi chuyện. Chắc chắn Yoshino rất cần mẫn tìm kiếm trong căn hộ của Asakawa, nhưng chiếc máy xử lý văn bản và đĩa mềm hề có ở đó. Yoshino biết rằng đâu Asakawa cũng mang theo bên mình, và chúng nằm trong chiếc xe vào thời điểm ta bị tai nạn. Giờ Ando khá tự tin mình có thể lấy được chiếc đĩa, và có ý định chia sẻ thông tin này cho Yoshino. quyết định có tiết lộ cho giới truyền thông hay , chỉ sau khi đọc bài phóng của Asakawa. Lúc này, tất cả những gì biết là loại virus tương tự virus đậu mùa được tìm thấy trong tất cả bảy thi thể có liên quan. Nhưng những người phát vẫn chưa sẵn sàng công bố điều này trong giới chuyên môn. Thực tế, họ vừa mới chỉ bắt đầu thành lập nhóm nghiên cứu chủ yếu gồm những người ở Đại học Shuwa và Đại học Yokodai. Nếu cho giới truyền thông biết vào thời điểm này, thể lường nổi dấy lên cơn hoảng loạn đến mức nào. phải thận trọng tối đa trong hành động để đảm bảo mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Phần sau của cuộc gặp, Yoshino dành để tung ra những câu hỏi mà Ando có thể đoán được. Kết quả mổ pháp y như thế nào? xác định đâu là nguyên nhân cái chết? Liệu có phần nào trong câu chuyện của Yoshino gợi cho liên tưởng đến kết quả mổ pháp y ? Tay phóng viên vẫn chúi mặt vào cuốn sổ ghi chép trong khi lướt qua danh sách câu hỏi của mình. Ando cố gắng trả lời mỗi câu hỏi các lịch và khó bác bỏ càng tốt. Nhưng cùng lúc, suy nghĩ của lại dồn về hướng khác. phải lấy được chiếc đĩa mềm đó ngay. cần làm gì để có được nó? PHẦN 2.6 Hôm sau là thứ bảy. Sau khi kết thúc hai ca mổ, Ando kéo chàng cảnh sát trẻ có mặt ở đó làm nhân chứng ra bên cạnh, và hỏi ta chuyện gì xảy ra với những chiếc xe gặp tai nạn. Nếu chiếc xe bị hư hỏng vì tai nạn gần lối ra Oi đường cao tốc Metropolitan Bayside, nó được xử lý như thế nào? "À, trước tiên chúng tôi khám xét nó." ta là thanh niên đeo kính, trông thà. Ando gặp ta vài lần trước đó, nhưng chuyện đây là lần đầu tiên. "Rồi sau đó?" "Chúng tôi trả nó về cho chủ." "Nếu là chiếc xe được cho thuê?" "Tất nhiên là chúng tôi trả nó về hãng cho thuê xe." "Thế này. Có ba người ở trong chiếc xe, đôi vợ chồng trẻ và đứa con . Họ, à, sống trong chung cư tại Shinagawa, chỉ có ba người họ thôi. Người vợ và đứa bé chết lúc tai nạn, còn người chồng trong tình trạng nguy kịch. Vậy , chuyện gì xảy ra với những đồ đạc có trong xe?" "Người ta tạm giữ chúng ở kho của phòng quản lý giao thông khu vực đó." "Nếu vụ tai nạn xảy ra ở lối ra đường hầm phía Oi đường cao tốc Metropolitan, thuộc khu vực nào?" "Lối ra à?" "Đúng, ở đó đấy. Gần lối ra." ", ý tôi là vẫn đường cao tốc hay ra khỏi đó rồi? Chúng thuộc các khu vực quản lý khác nhau." Ando nhớ lại những tấm ảnh trường vụ tai nạn. chắc chắn là nó xảy ra đường cao tốc. nhớ mang máng nhìn thấy dòng chữ "đường vào Hầm Tokyo Harbor" được viết hồ sơ ở đâu đó. "Chắc chắn là đường cao tốc." "Vậy nó thuộc Đội Tuần tra Giao thông Metropolitan Expressway." Ando chưa bao giờ nghe đến cái tên này trước đây. "Trụ sở của nó ở đâu?" "Shintomi." "Hiểu rồi. Vậy là những đồ vật được lưu kho tạm thời ở đấy. Điều gì xảy ra sau đó?" "Người ta liên lạc với gia đình gọi người đến nhận lại đồ." "Giả sử, như tôi , mọi người trong gia đình chết." "Cả chị em và bố mẹ của người đàn ông trong viện?" Ando biết gì về bố mẹ hay chị em của Asakawa cả. Cứ xét theo tuổi, nhiều khả năng là bố mẹ ta còn sống. Dẫn đến khả năng, họ giữ tất cả những món đồ có trong chiếc xe. Asakawa và Ryuji là bạn từ hồi trung học. Vì bố mẹ Ryuji sống ở Sagami Ohno, có thể bố mẹ của Asakawa cũng sống trong vùng đó. Trong trường hợp nào nữa, điều đầu tiên Ando nên làm là tìm và liên lạc với họ. "Tôi hiểu rồi. Cảm ơn rất nhiều." Ando buông tha chàng cảnh sát và ngay lập tức bắt đầu tìm bố mẹ Asakawa. xác định được cả hai người vẫn còn sống và cư ngụ ở khu Kurihana, thành phố Zama, xa Sagami Ohno. gọi điện hỏi xem chuyện gì xảy ra với những đồ đạc trong chiếc xe của con trai họ. Bố Asakawa báo , bằng giọng căng thẳng, hãy gọi điện cho người con trai cả của ông, sống ở Kanda, Tokyo. ra Kazuyuki là con trai út trong ba em; người cả làm việc cho ban sách nghệ thuật của Shotoku, nhà xuất bản lớn, trong khi người thứ hai là giáo viên phổ thông dạy tiếng Nhật. Bố Asakawa rằng cảnh sát gọi điện cho ông đề nghị đến nhận số đồ được giữ ở sở cảnh sát, nhưng ông đến mà bảo họ liên lạc với con trai sống ở Kanda. Kanda cách xa Shintomi, nơi có trụ sở của Đội Tuần tra Giao thông Metropolitan Expressway, mà ở đó tuổi ngoài bảy mươi ông cụ Asakawa thích mang về nhà chiếc máy xử lý căn bản và đầu VCR về nhà. Do đó ông dàn xếp với cảnh sát để con trai mình đến lấy đồ. Tiếp theo Ando liên lạc với Junichiro Asakawa, sống cùng vợ trong khu tập thể ở Kanda. Khi cuối cùng cũng liên lạc được với ta qua điện thoại vào tối hôm đó, Ando ngay vào vấn đề, kể cho ta tình hình, hay ít nhất cũng gần như toàn bộ. sợ rằng nếu khiến Junichiro sinh nghi bằng cách dối hoặc vụng về che giấu, bao giờ có được chiếc đĩa. Mặt khác, thể đơn giản lặp lại câu chuyện Yoshino kể. Chính Ando cũng hẳn tin cả câu chuyện, và Junichiro chắc chắn nghĩ điên. Do đó, tóm lược lại những điều cho là phù hợp, kết thúc bằng cách nhấn mạng rằng có khả năng Asakawa để lại tài liệu có thể soi sáng cho câu chuyện. mình thực muốn có được tài liệu đó và hỏi liệu có được phép sao lại bản, thỉnh cầu và cảm ơn. "Tôi chắc là có cái gì đó giống như thế trong những thứ mà tôi nhận được." Junichiro dường như hoàn toàn bị thuyết phục. Nghe giọng có thể thấy rằng ta chưa xem kỹ những món đồ đó. "Có chiếc máy xử lý văn bản ?" "Có. Nhưng tôi nghĩ nó hỏng rồi." "Trong máy có chiếc đĩa mềm nào ?" " là tôi chưa kiểm tra. Tôi còn chưa lấy nó ra khỏi hộp các tông mà họ đưa cho tôi." "Kèm theo hộp có đầu máy video ?" "Có, nhưng tôi vứt rồi. Chuyện đó có gì sai trái ?" Hơi thở Ando bị chặn lại ở họng. " vứt nó rồi?" "Tôi có thể hiểu tại sao em tôi mang theo chiếc máy xử lý văn bản, vì công việc, nhưng tại sao nó lại mang theo đầu máy VCR?" "Tôi xin lỗi, nhưng có phải vứt đầu video rồi ?" "Đúng. Nó hỏng hẳn rồi mà. Hôm trước tôi gọi hàng đồng nát đến lấy chiếc TV, rồi tôi bảo họ mang đầu VCR luôn. Nó sửa chữa được nữa. Dù sao, tôi nghĩ Kazuyuki phiền lòng." Ando hầu như sắp đạt đến hai mục tiêu của mình, vậy mà giờ đây, vào phút cuối, trong số chúng vượt khỏi . Có nhiều khả năng cuốn băng video mấu chốt của toàn bộ việc nằm trong chiếc đầu VCR, và hy vọng mình may mắn có được cả cuốn băng lẫn chiếc đĩa. tự trách mình liên lạc với Junichiro sớm hơn. "Ngoài chiếc VCR, liệu có cuốn băng nào đó ?" "Tôi biết. Tất cả những gì tôi thấy là chiếc máy xử lý văn bản, đầu máy VCR, hai túi màu đen đựng đồ có lẽ là của Shizu và Yoko. Tôi chưa mở chúng." Ando muốn chắc chắn rằng Junichiro hiểu là muốn xem chúng càng sớm càng tốt. " có phiền nếu tôi ghé đến chỗ ?" " sao," Junichiro đồng ý, nhanh đến kinh ngạc. "Liệu ngày mai có được ?" Chủ nhật. "Để tôi xem . Tôi chơi golf với nhà văn, nhưng về trước bảy giờ." "Vậy , bảy giờ nhé." Ando ghi lại thời gian, gạch chân bên dưới nhiều lần. Ngay sau bảy giờ tối Chủ nhật, Ando đến căn hộ của Junichiro ở khu Sarugaku thuộc Kanda. Khu vực này có vẻ là khu dân cư lắm. Bao quanh tòa nhà của Junichiro là những tòa nhà văn phòng. Vào tối chủ nhật, nơi này vắng vẻ cách kỳ quái. Ando nhấn chuông và nghe giọng đàn ông sau cửa hỏi, "Ai đó?" "Tôi là Ando. Tôi gọi điện hôm qua." Cánh cửa mở ngay, và Ando được dẫn vào trong. Junichiro mặc bộ đồ nỉ, tóc vẫn còn ướt; hẳn ta mới chơi golf về và tắm xong. hiểu sao khi nghe giọng ta qua điện thoại, Ando lại tưởng tượng đó là người cao, dễ lo lắng, nhưng khi gặp trực tiếp mới thấy Junichiro có dáng chắc nịch và vẻ mặt thân thiện. Trong lúc Junichiro dẫn lối vào căn hộ, Ando ngẫm nghĩ, trong ba em, cả là biên tập viên, người thứ hai là giáo viên tiếng Nhật, và người thứ ba là phóng viên tờ báo lớn. Tất cả họ đều lựa chọn lĩnh vực gắn với ngôn ngữ, viết lách hàng ngày. Rất có khả năng ông cả có ảnh hưởng đến việc này. Chính Ando cũng chịu ảnh hưởng trai mình khi lựa chọn vào nghành y, trai là giáo viên dạy môn sinh vật ở trường trung học. Junichiro đến chỗ tủ đựng đồ trong hành lang và lấy ra hộp các tông. Túi đồ và máy xử lý văn bản để trong đó. " muốn xem ?" Junichiro ngồi khoanh chân sàn nhà và đầy chiếc hộp về phía Ando. "Cảm ơn, tôi xem chứ." Trước tiên Ando lôi ra chiếc máy xử lý văn bản, ghi lại hãng sản xuất và model. Vỏ máy dường như bị hỏng khá nặng trong vụ đâm xe; mặt mở được, và khi nhấn nút nguồn thấy có tín hiệu gì. Ando dựng thẳng nó lên đầu gối, nhận thấy nút eject ở bên hông máy. Nó nằm phía cái khe, nhìn vào bên trong thấy chiếc đĩa mềm màu xanh. hầu như hét lên vì vui sướng khi nhấn nút eject. Chiếc máy kêu "tách" tiếng mà Ando nghe như thế "trúng rồi"! lấy đĩa ra và giữ nó lúc trong lòng bàn tay, xem xét mặt trước và sau đĩa. Đĩa chưa gắn nhãn nên nhìn thấy nhan đề nhưng Ando biết ngay đó chính là thứ tìm. Khi bật ra khỏi khe máy, nó phát lên thanh nghe như là "trúng rồi." muốn đọc chiếc đĩa đó càng sớm càng tốt, nên với Junichiro, "Tôi rất muốn xem trong này có gì ngay ở đây." "Tôi e là nó tương thích với máy của tôi." Junichiro thể dùng máy xử lý văn bản để mở file trong đĩa mềm. "Vậy , có phiền nếu tôi mượn chiếc đĩa này trong hai ba ngày?" "Với tôi sao, nhưng ..." "Tôi trả lại cho ngay khi xong việc." "Có gì trong đĩa kia thế?" phấn khích của Ando ràng tự lây truyền. Junichiro đột nhiên có vẻ tò mò. Ando lắc đầu. "Tôi biết chính xác là gì." "À, tôi muốn có lại nó càng sớm càng tốt." Giờ dường như Junichiro cũng muốn đọc nó. Có lẽ bản năng của người làm biên tập bị kích thích. Ando để chiếc đĩa vào túi áo jacket, và cảm thấy nhõm, nhưng cùng lúc khao khát mới lại xâm chiếm . Những chiếc túi đồ kia ... biết hy vọng cũng chỉ vô ích, nhưng thể loại trừ khả năng cuốn băng nằm trong đó. "Nếu tôi muốn xem có gì trong những túi kia liệu có quá đáng ?" cố lựa chọn từ ngữ cẩn thận, thoáng bối rối khi nghĩ đến việc lục lọi đồ của phụ nữ. "Tôi nghĩ là có gì trong đó," Junichiro cười, nhưng vẫn đưa những chiếc túi. Khi nhìn vào trong, hy vọng yếu ớt của Ando về việc tìm thấy cuốn băng cuối cùng vỡ vụn. Trong túi gần như toàn quần áo và tã lót. có thứ tìm kiếm. Đúng như lo sợ, cuốn băng nằm trong đầu máy VCR khi nó bị vứt . Nhưng có trong tay chiếc đĩa mềm, và phải tính đó là thành công. thể nào thảnh thơi khi ra về. tìm xem ở nơi làm việc có ai có máy đọc được chiếc đĩa . nóng lòng muốn xem có gì trong đó. PHẦN 2.7 Ando ngó đầu vào văn phòng khoa Bệnh họ xem Miyashita có ở đó , nhưng chưa kịp gì Miyashita gọi. "A, đúng là người tôi cần gặp. Cậu nghĩ sao về cái này." Miyashita cầm bản in, và dùng tay kia ra hiệu cho Ando. Bên cạnh ta là Nemoto, trợ lý phòng xét nghiệm hóa sinh. Nemoto và Miyashita có bề ngoài giống nhau đến mức bất cứ ai gặp họ ở gần nhau cũng nén nổi bật cười. Từ chiều cao 1,62m, cân nặng chừng hơn 77kg - đến chiều dài chân, khổ người, khuôn mặt, thậm chí kiểu ăn mặc và giọng , họ giống nhau như hai hạt đậu trong cùng quả đậu. "Này, tôi biết là cậu lại có người em sinh đôi đấy." Ando luôn thốt ra câu đùa ấy mỗi khi gặp họ. "Bác sĩ Ando, đừng có đánh đồng tôi với ông này," Nemoto nhăn mặt . Nhưng có gì là ghê gớm khi được nhận xét giống người đồng nghiệp lớn hơn ta hai tuổi. Dù gì, Miyashita cũng được mến vì cả tính cách lẫn học vấn, lại còn được trao danh hiệu ứng cử viên tương lai cho hàm giáo sư. "Mọi người bảo chúng ta giống nhau Nemoto ạ. Tôi cho cậu biết, chuyện này bắt đầu giống như cái nhọt ở mông vậy. Tại sao cậu ăn kiêng nhỉ?" Miyashita huých vào bụng người đồng nghiệp trẻ. "À, nếu tôi mà ăn kiêng, cũng phải ăn kiêng." "Thế chúng ta lại quay về nơi bắt đầu à?" Rồi Miyashita đưa cho Ando bản in mà ta cầm, như thể để chấm dứt tiết mục hài cũ mèm đó. Ando giở bản in vừa nhận được ra. Nhìn qua cũng biết ngay nội dung là gì. Nó kết quả chạy đoạn ADN qua máy giải mã. Tất cả mọi sinh vật sống trái đất đều có hoặc nhiều tế bào chứa ADN (hoặc trong số trường hợp là ARN). Nhân của những tế bào này chứa các hợp chất phân tử gọi là axit nuclêic. Có hai loại axit nuclêic: ADN (axit deoxyribonucleic) và ARN (axit ribonucleic). Chúng đóng các vai trò khác nhau. ADN là hợp chất có thông tin di truyền được chứa trong các nhiễm sắc thể: nó có dạng hai chuỗi xoắn vào nhau theo đường xoắn ốc, cấu trúc gọi là chuỗi xoắn kép. Tổng hợp thông tin di truyền của hình thái sống được ghi lại trong chuỗi xoắn kéo đó. Thông tin di truyền này giống như bản thiết kế để xây những protein chuyên biệt; mỗi gen là bản thiết kế. cách khác, gen và ADN phải là . Mỗi gen là đơn vị thông tin. Vậy chính xác là cái gì được ghi trong bản thiết kế này? Các chữ cái tạo nên dãy ký tự là bốn hợp chất hóa học gọi là các bazơ: adenin (A), guanine (G), cytosin (C) và thymin (T), hoặc đối với ARN là uracil (C). Các bazơ này kết hợp theo từng nhóm bazơ gọi là codon, chuyển hóa thành các axit amin. Ví dụ, codon AAC tạo thành asparagin, codon GCA tạo thành alamin, v.v... Có khoảng hai mươi loại axit amin, và protein là tổng hợp của hàng trăm phân tử axit amin này. Điều đó có nghĩa cấu tạo của protein phải chứa dãy các bazơ có số lượng bằng với số lượng của các phân tử amin nhân ba. Do đó, cấu tạo của cái gọi là gen, về cơ bản có thể xem là dãy dài gồm những ký tự, như thế này: TCTCTATACCAGTTGGAAAATTAT... Khi được dịch ra, nó nghĩa là loạt các axit amin gồm: TCT (serin, hay Ser), CTA (leucin, hay Leu), TAC (tyrosin, Tyr), CAG (glutamine, Gln), TTG (leucin, Leu), GAA (axit glutamic, Glu), AAT (asparagin, Asn), TAT (tyrosin, Tyr) v.v... và v.v... Ando nhìn lại các mã bazơ lên bản in, bốn ký tự A, T, G, và C xếp thành dãy có vẻ ngẫu nhiên trang giấy. Có những đoạn ba dòng dược đánh dấu đề làm nổi bật lên so với phần còn lại. "Cái gì thế này?" Miyashita nháy mắt với Nemoto, như thế muốn , cậu . "Đây là phân tích đoạn AND lấy ra từ virus tìm thấy trong máu của Ryuji Takayama." "Hiểu rồi... vậy đây là cái gì?" "Chúng tôi phát chuỗi bazơ khá lạ, điều này chúng tôi chỉ thấy trong virus của Takayama." "Và đó là cái được đánh dấu ở đây?" "Đúng thế." Ando nhìn kỹ hơn vào các dãy ký tự được đánh dấu đầu tiên. ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA nhìn vào đoạn đánh dấu thứ hai, và so sánh với đoạn thứ nhất. nhận ra chúng giống hệt nhau. Trong nhóm chưa đến nghìn bazơ, chính chuỗi này lặp lại hai lần. ..................................................................................... ..................................................................................... 480 ..........................................................GTTTAAAGCA 490 500 510 TTTGAGGGGGATTCAATGAATATTTATGAC 520 530 540 GATTCCGCAGTATTGGACGCTATCATGGAA 550 560 570 GAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAAC 580 590 600 AACAA TTTGCAAAAGCCTCTCGCTATTTTGG 610 620 630 TTTTTATCGTCTGGTAAACGAGGGTTTATGA 640 650 660 TAGTTTGCTCTTACTATGCCTCGTAATTCCTT 670 680 690 TTGGCGTTATGTATCTGCATTAGTTGAATGTG 700 710 720 GGTATTCCTAAATCTCAACTGATGAATCTTTT 730 740 750 760 TTTCTACCTGTAATAATGTTGTTCCGTTAGTT 770 780 790 CGATTAACGTAGATTTTTCTTCCCAACGTCCT 800 810 820 GACTGGGATTTCGACACAAATGGAAGAAGAA 830 840 850 TATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA CG 860 870 880 CTTGGTATAATCGCTGGGGGTCAAAGATGAG 890 900 TGTTTTTAGTATATT............................................. Ở : giữa 535 và 576, rồi lặp lại giữa 815 và 856, có thể nhìn lấy lặp lại 42 bazơ ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA. BẲNG DIỄN GIẲI CÁC ADN AXIT AMIN Các bộ ba bazơ (codon) được phiên dịch thành các axit amin theo nguyên tắc nêu trong bảng . Ví dụ, TCT là Serin (Ser), AAT là asparagin (Asn), GGA là axit glutamic (Glu). "Stop" để chỉ kết thúc gen; mã khởi đầu là ATG. Dưới đây là tên viết tắt và tên đầy đủ của hai mươi axitamin: Phe phenylalanine His histidin Leu leucin Gln glutamin Ile isoleucin Asn asparagin Met methionin Lys lysin Val valin Asp axit asparatic Ser serin Glu axit glutamic Pro prolin Cys cystein Thr threonin Trp tryptophan Ala alanin Arg arginin Tyr tyrosin Gly glycin Ando rời mắt khỏi bản in, nhìn sang Nemoto. "Cho dù có cắt nó ra ở đâu, chúng ta luôn thấy các chuỗi này." "Trong chuỗi này có bao nhiêu?" "Ý là bao nhiêu bazơ?" "Ừ." "Bốn hai." "Bốn hai. Vậy là mườn bốn codon, đúng ? nhiều lắm." "Chúng tôi nghĩ nó có ý nghĩa gì đó," Nemoto lắc đầu . "Nhưng, bác sĩ Ando này, điều kỳ lạ là..." Miyashita xen vào. " lặp lại vô nghĩa này chỉ thấy trong virus được lấy từ mẫu máu của Ryuji, còn những nạn nhân khác có." ta giơ hai tay làm điệu bộ bối rối. cách khác ... Ando cố tìm ra so sánh tương đương. Giả sử, có ba người, trong đó có người là Ryuji, có các bản kịch Vua Lear của Shakespeare. Giả sử tiếp rằng bản của Ryuji, và chỉ riêng bản của ta thôi, có chuỗi vô nghĩa các chữ cái được xen vào giữa các dòng. Chỉ có bốn hai bazơ, và chúng được kết hợp theo từng bộ ba bazơ, mỗi bộ tương ứng với axit amin.Nếu gán cho mỗi bộ này ký tự, ta có chuỗi mười bốn ký tự. Và mười bốn ký tự trùng lặp này xuất từng trang của vở kịch, được xen vào cách ngẫu nhiên. Nếu từ đầu ta biết đó là vở kịch Vua Lear, tất nhiên có thể quay lại và tìm thấy những phần vô nghĩa được thêm vào đó rồi đánh dấu chúng. "Thế cậu nghĩ sao?" Myashita có vẻ thực quan tâm đến ý kiến của Ando. Là nhà khoa học chân chính, ta luôn rất phấn khích khi đối mặt với những điều thể giải thích được. "Tôi nghĩ sao à? Tôi cần phải tìm hiểu thêm trước khi có thể được điều gì." Ba người đều im lặng, người này nhìn người kia. Ando thấy lung túng, tay vẫn cầm bản in. Có điều gì nảy ra trong ý thức của . Để xác định đó là gì, cần thời gian ngẫm nghĩ và tìm hiểu chuỗi bazơ vô nghĩa đó. linh cảm ràng rằng có gì đó ở đây. Nhưng vấn đề là gì? Và nếu chuỗi bazơ vô nghĩa này thực được chèn vào, nó xảy ra lúc nào? Có phải virus xâm nhập vào cơ thể Ryuji là loại virus khác? Hay nó đột biến trong cơ thể Ryuji, và dãy gồm mười bốn codon xuất nhiều lần là kết quả của đột biến đó? Điều đó có thể xảy ra ? Và nếu có, nó nghĩa là gì? yên lặng đè nặng lên ba người. chút suy đoán nào vào lúc này tiết lộ cho họ biết làm sao giải thích được những phát đó. Myashita là người phá vỡ im lặng. "Nhân tiện, cậu đến đây có việc gì à?" Ando bị phát này hấp dẫn quá đến mức quên cả mục đích ban đầu của cuộc viếng thăm. "Đúng rồi, tôi quên mất." mở cặp, lấy sổ ghi chép ra, đưa cho Myashita và Nemoto mẩu giấy. " biết có ai ở đây có máy xử lý văn bản model này ?" Myashita và Nemoto nhìn tên model máy viết mẫu giấy. Đó là loại máy khá thông dụng. "Có nhất thiết chính xác model này ?" "Chỉ cần cùng hãng sản xuất là được, model có lẽ quan trọng. Đây chẳng qua là chuyện có tương thích với chiếc đĩa mềm thôi." "Tương thích?" "Đúng." Ando lấy trong cặp ra chiếc đĩa mềm. "Tôi cần in ra bản và copy bản những file trong đĩa này." "Tôi cho là nó được lưu trong MS-DOS, đúng ?" "Tôi nghĩ thế." Nemoto vỗ tay, như thể vừa nhớ ra điều gì đó. "A, người trong khoa tôi, chắc là Ueda, có chiếc máy đúng model này." " nghĩ liệu ta có cho tôi mượn nó ?" Ando ngần ngại. chưa bao giờ gặp người tên Ueda này cả. "Tôi nghĩ có khó khăn gì, ta là lính mới." Nemoto với vẻ tự tin của người kỳ cựu trong khoa, biết rằng lính mới làm bất cứ điều gì mình đề nghị. "Cảm ơn." " sao. Tại sao chúng ta ta đến đó ngay bây giờ? Tôi nghĩ ta ở đó." Đây đúng là tiếng nhạc rót vào tai Ando. nóng lòng muốn in nội dung có trong chiếc đĩa này, cho dù đó là cái gì. "Tuyệt lắm. thôi." Ando bỏ chiếc đĩa vào túi áo jacket. Rồi vẫy tay chào Myashita, theo Nemoto đến khoa Bệnh học. PHẦN 2.8 Ando cạnh Nemoto trong hành lang mờ tối của trường y. Ando mặc chiếc áo blu cài cúc, đuôi hất ra phía sau, tay giữ chặt chiếc đĩa trong túi áo jacket. Cả Myashita và Nemoto đều hỏi về chiếc đĩa. Ando có ý giấu giếm gì. Myashita mà hỏi, trả lời thành . Nếu họ biết chiếc đĩa có thể chứa chìa khóa của toàn bộ bí , chắc chắn bây giờ hai người đó bám riết . Tất nhiên Ando vẫn chưa nhìn thấy những gì có trong đĩa. Luôn tồn tại khả năng chiếc đĩa chứa cái gì đó hoàn toàn khác. hoàn toàn biết gì cho đến khi xem được nó màn hình. Dù vậy, cảm thấy nó bình thường trong tay mình: chiếc đĩa ấm nóng trong túi áo . Nó ấm gần với nhiệt độ cơ thể. Khi chạm vào chiếc đĩa, dường như biết rằng nó chứa những con chữ sống. Nemoto mở cửa phòng xét nghiệm khoa Sinh hóa. Ando lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo, chuyển nó sang tay trái, còn tay phải dùng để giữ cho cửa mở. "Này, Ueda." Nemoto ra hiệu cho người thanh niên gầy còm ngồi trong góc phòng. "Vâng?" Ueda xoay ghế về phía Nemoto, nhưng đứng dậy. Nemoto tiến lại gần, mỉm cười, và đặt tay lên vai Ueda. "Máy xử lý văn bản của cậu có bận dùng gì bây giờ ?" ", cần lắm." "Tuyệt. Cậu có phiền nếu bác sĩ Ando đây mượn nó lúc được ?" Ueda ngước nhìn Ando và cúi đầu. "Xin chào." "Xin lỗi về chuyện này. Tôi có chiếc đĩa cần phải mở, và nó tương thích với máy của tôi." Ando đến cạnh Nemoto, giơ chiếc đĩa lên. " cứ dùng ," Ueda , lấy chiếc máy xử lý văn bản nằm ở sàn nhà gần chân ta đặt nó lên bàn. "Cậu có phiền nếu tôi kiểm tra nó ngay tại đây, chỉ để chắc chắn thôi?" " sao đâu." mở nắp máy xử lý văn bản và bật lên. Ngay sau đó menu chính xuất màn hình. Trong số các tùy chọn được hiển thị, Ando chọn DOCUMENTS, rồi cho đĩa vào. Màn hình tiếp theo có hai tùy chọn. NEW DOCUMENT và OPEN DOCUMENT. Ando di chuyển con trỏ đến tùy chọn thứ hai và rồi nhấn tiếp. Với tiếng kêu ro ro, máy bắt đầu đọc chiếc đĩa. Cuối cùng, tên của các file lưu trong đĩa xuất màn hình. RING 9 1990/10/21 RING 8 1990/10/20 RING 7 1990/10/19 RING 6 1990/10/17 RING 5 1990/10/15 RING 4 1990/10/12 RING 3 1990/10/07 RING 2 1990/10/04 RING 1 1990/10/02 Ando đọc các tên phai như mê sảng. "Ring, ring, ring, ring..." Ring! Cái quái gì thế này? Đúng từ mà tìm được khi giải mật mã lòi ra từ thi thể Ryuji. " có sao ?" Nemoto , vẻ lo lắng. ta nhìn vào vẻ mặt đột nhiên sửng sốt của Ando. Ando khó khăn lắm mới gật đầu được. thể nào có trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Asakawa viết phóng chi tiết về toàn bộ chuỗi kiện lạ, lưu nó lại thành chín phần, đặt nhan đề là Ring. Và rồi chính cái nhan đề đó lại lòi ra từ bụng Ryuji. Giải thích kiểu này thế nào đây? thể nào như thế. Ando rơi vào trạng thái đờ đẫn. Thi thể của Ryuji hoàn toàn trống rỗng; ta giờ giống như người bằng thiếc rồi. Vậy mà mình rằng ta gửi cho mình thông điệp từ ổ bụng của ta? Rằng ta cố với mình về tồn tại của những file này? Ando mường tượng lại khuôn mặt Ryuji ngay sau ca mổ pháp y. Khuôn mặt vuông chữ điền của ta mỉm cười. Ando nghĩ, ngay trong giây phút đó ta bắt đầu cười chế nhạo , vẫn trần truồng bàn mỗ, xương hàm rung lên. Từ trong sâu thẳm, Ando có thể cảm thấy câu chuyện kỳ dị của Yoshino bắt đầu gây cảm giác có thực. Có lẽ nó hoàn toàn là thực. Có lẽ thực tồn tại cuốn băng giết chết bảy ngày sau khi xem nó.
PHẦN 2.9 Chiếc máy xử lý văn bản kêu ro ro ngớt trong khi chiếc máy in in ra hết trang này đến trang khác. Ando kéo mạnh từng trang giấy ra khỏi máy in khi nó trườn ra và đọc nhanh. Mỗi trang để cách dòng đơn, nhưng Ando vẫn có thể đọc nhanh hơn tốc độ máy in in ra. Vì muốn có bản in, nên quyết định in ra toàn bộ thay vì đọc màn hình. Giờ đâm nản khi mất hai đến ba phút mới in được trang. Cuối cùng đành mượn chiếc máy của Ueda về nhà. Kiểm tra sơ qua cho thấy toàn bộ phóng lên đến gần trăm trang, nhiều hơn mức hợp lý mà có thể in ra ở phòng xét nghiệm. có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thức khuya ở nhà. Giờ mới đến cuối trang hai mốt của bản thảo, vừa đọc vừa tranh thủ ăn bữa tối mua ở cửa hàng tạp phẩm đường về nhà. Cho đến lúc này, những gì đọc đúng y như Yoshino kể cho tuần trước đó. Nhưng nó khác với những gì Yoghino kể nghe trong quán cà phê ở chỗ, có thời gian và địa điểm cụ thể. Do đó nó thuyết phục hơn rất nhiều. Lối viết phóng - hoa mỹ - cũng khiến bài viết càng đáng tin cậy hơn. Torng khi điều tra bốn cái chết đồng thời do đau tim của bốn thanh niên ở Tokyo và tỉnh Kanagawa vào tối mùng 5 tháng Chín, Asakawa đến ý tưởng cho rằng thủ phạm là loại virus. theo khoa học, đó là kết luận hiển nhiên. Vì các ca mổ tử thi phát ra loại virus gần giống như virus đậu mùa, và linh cảm của Asakawa đúng. Theo phỏng đoán của Asakawa, do bốn người chết cùng thời điểm, nên họ chắc phải nhiễm cùng loại virus ở cùng nơi. ta nhận ra rằng mấu chốt cho toàn bộ vụ việc là phải tìm ra nơi họ phơi nhiễm với virus, nghĩa là xác định con đường lây truyền. Asakawa thành công trong việc tìm ra thời gian và địa điểm mà bốn người này ở cùng nhau: ngày 29 tháng Tám, đúng tuần trước khi họ chết, tại Pacific Land, Nam Hakone, trong căn nhà gỗ cho thuê. Villa Log, Cabin số B-4. Trang tiếp theo, trang hai hai, bắt đầu với việc Kazuyuki Asakawa tự tìm đến tận ngôi nhà gỗ này. ta bắt tàu tốc hành đến Atami, rồi thuê chiếc xe theo đường Atami-Kannami đến khu nghỉ mát cao nguyên. Trời mưa, bóng đêm hạn chế tầm nhìn, và con đường miền núi rất khủng khiếp. ta đặt thuê nhà B-4 vào buổi trưa, nhưng mãi đến tận quá tám giờ tối mới làm thủ tục nhận phòng. Vậy đây là nơi bốn thanh niên ở qua đêm: ý nghĩ đó khiến Asakawa giật mình sợ hãi. Đúng tuần sau khi ở trong ngôi nhà này, họ chết. ta biết chính bàn tay ma quái kia cũng chạm vào mình. Nhưng ta vượt qua được tính tò mò của nhà báo nên cuối cùng lục lọi khắp ngôi nhà. Từ những gì các thanh niên kia viết trong cuốn sổ tay để lại trong căn nhà, Asakawa xác định rằng tối hôm đó họ xem cuốn băng video, nên ta đến phòng quản lý để tìm cuốn băng đó. ta tìm thấy cuốn băng có nhãn, có vỏ, nằm ở đáy tủ. Đây liệu có phải là cái mà ta tìm? Được cho phép của người quản lý, ta đưa cuốn băng trở lại nàh B-4, rồi, còn cách nào khác, để biết điều gì có trong cuốn băng, ta đưa nó vào đầu máy VCR đặt trong phòng khách và xem mạch từ đầu đến cuối. Lúc đầu, màn hình tối đen, Asakawa mô tả cảnh mở đầu thế này: Từ giữa màn hình đen, có điểm sáng bắt đầu nhấp nháy. Nó lớn dần lên, lắc lư sang trái và sang phải, cuối cùng dừng lại phía bên trái. Rồi nó tỏa ra các nhánh, trở thành những đường sáng hỗn độn, trườn bò như những con sâu... Ando ngước nhìn lên trang sách. Dựa những gì đọc, có thể hình dung cách khá ràng hình ảnh có màn hình. Khi đọc đoạn mô tả mở đầu của Asakawa, hình ảnh nhảy vào trong đầu như thể nhìn thấy nó đâu đó trước đây. con đom đóm bay màn hình đen, lớn dần lên... rồi điểm sáng lan rộng ra giống như những sợi của chiếc chổi quét sơn. Đó là cảnh ngắn ngủi, nhưng đúng là cảnh mà nhớ là xem rồi, và rất gần đây. Ando mất nhiều thời gian để nhớ ra. Ấy là khi ở trong căn hộ của Mai, cố tìm dấu vết của . thấy cuốn băng nằm trong đầu máy VCR, rồi nhấn nút play. Cuốn băng có nhan đề Frank Sinatra, Liza Minnelli, v.v..., ghi nhãn bằng chữ viết tay của người đàn ông. Vài giây đầu tiên của cuốn băng phù hợp với mô tả này cách hoàn hảo. Nhưng trong cuốn băng ở nhà Mai, cảnh này chỉ kéo dài vài giây trước khi màn hình đột nhiên trở nên sáng hơn. Trong nỗ lực ràng là nhằm xóa những gì có trong cuốn băng, Mai ghi lại các chương trình buổi sáng, chương trình phát lại vở kịch mê-lô về samurai, bất cứ cái gì, cho đến khi cuốn băng chạy hết. Ngay lập tức Ando hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Bằng cách nào đó, có thể là thông qua Ryuji, Mai được cuốn băng gây rắc rối kia và xem nó tại căn hộ của . Rồi khi xem xong, xóa bất cứ thứ gì chứa trong băng. Hẳn phải có lý do để xóa. Nhưng thể xóa đoạn mở đầu, nên hình ảnh của vài giây đầu tiên vẫn còn lại, náu. Có phải thế nghĩa là cuốn băng Asakawa tìm thấy ở Villa Log Cabin bằng cách nào đấy tự tìm đường đến tay Mai? cố gắng sắp xếp ý nghĩ. , thể thế được. Cuốn băng Asakawa tìm thấy và cuốn băng Mai có ràng là hai cuốn băng khác nhau. Theo bài phóng , cuốn băng ở trong ngôi nhà gỗ có nhãn. Nhưng cuốn băng trong đầu máy VCR của Mai có nhan đề được viết bằng bút mực dạ đen. Điều đó có nghĩa nó là bản sao. Cuốn băng ở ngôi nhà gỗ là bản gốc, và cuốn băng ở nhà Mai là bản sao. Vậy là cuốn băng được sao chép, ngụy trang, chuyển - chuỗi thay đổi làm chóng mặt. Trong đầu Ando, cuốn băng, nằm tại điểm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh, bắt đầu giống như loại virus. Vậy biến mất của Mai có phải là kết quả của việc xem cuốn băng? Khả năng này khiến lo lắng. Từ lúc đó trở về phòng. đến trường, thậm chí còn gọi điện cho mẹ. Mặt khác, chưa nghe tin gì về việc người ta tìm thấy phụ nữ trẻ chết vì những nguyên nhân giải thích được. để cho trí óc nghĩ lan man lúc, trong khi cân nhắc mọi tình huống có thể xảy đến với . Có lẽ chết đơn độc ở nơi ai biết đến. Ý nghĩ ấy là đau nhói - chỉ mới hai mươi hai tuổi. cảm thấy những xao động đầu tiên vì phải lòng , và việc này khiến cho việc trở nên khó chịu đựng hơn. Cuối cùng máy in cũng in xong trang nữa, với thanh làm Ando thoát ra khỏi dòng suy tưởng. Bất luận thế nào, giờ phải lúc chuốc thêm rắc rối. tại, tốt hơn là nên tìm xem trong cuốn băng đó có gì trước tiên. PHẦN 2.10 Vài trang tiếp theo chứa những đoạn mô tả toàn bộ nội dung cuốn băng. Khi đọc nó, Ando có thể thấy trong đầu mình màn hình TV chứa đầy hình ảnh thay đổi liên tục. thứ gì đó sền sệt màu đỏ phun lên màn hình. Tiếp sau là cảnh ngọn núi mà nhìn qua cũng biết là núi lửa hoạt động. Dung nham trào ra từ miệng núi; mặt đất ầm ầm chuyển động. Cảnh phun trào chiếu sáng cả bầu trời đêm. Rồi cảnh này đột nhiên chấm dứt, thay thế bởi màn hình nền trắng, chỉ lên chữ "núi" màu đen, chữ này mờ dần rồi biến mất. Sau đó là cảnh hai viên xúc xắc xoay dưới đáy bát. Cuối cùng dáng người xuất màn hình. bà cụ da nhăn nheo ngồi chiếu tatami. Bà cụ nhìn thẳng vào máy quay điều gì đó. Bà cụ thứ phương ngữ gần như thể hiểu được, nhưng ít nhiều qua những thanh phát ra, có thể chắc rằng bà cụ tiên đoán tương lai của ai đó, cảnh báo người ấy. Tiếp theo là đứa trẻ sơ sinh gào khóc. hề có mối liên hệ ràng giữa các cảnh. Cảnh này nối tiếp cảnh kia hoàn toàn bất ngờ và ngẫu nhiên như người ta rút những quân bài. Đứa trẻ biến mất, thay vào đó là hang trăm khuôn mặt tràn lấp màn hình cứ thế nhân lên như phân bào, nền hàng vô số giọng phát ra những lời buộc tội: Đồ dối trá! Quân lừa đảo! Sau đó là cảnh chiếc tivi cũ, màn hình lên chữ sada. Rồi khuôn mặt người đàn ông xuất . Ông ta thở hổn hển và vã mồ hôi. Có thể thấy phía sau ông ta là bụi cây rậm rạp. Mắt ông ta đỏ ngầu hung tợn; miệng chảy nước dãi và méo mó do cười thét lên. Bên vai trần của ông ta có vết thương hõm sâu, máu từ đó túa ra. Rồi biết từ đâu lại vang lên tiếng khóc của đứa bé. Ở chính giữa màn hình là vầng trăng tròn, từ đó những hòn đá to bằng nắm tay rơi xuống, chạm đất với những tiếng kêu thịch thịch. Cuối cùng, có thêm nhiều chữ nữa xuất màn hình. Những ai xem những hình ảnh này chết đúng giờ này tuần sau. Nếu ngươi muốn chết, hãy làm theo đúng những chỉ dẫn sau... Rồi cảnh tượng thay đổi hoàn toàn. Thay vì mô tả biện pháp để tránh cái chết, màn hình bây giờ lại lên chương trình quảng cáo hương diệt muỗi. Mục quảng cáo kết thúc và hình ảnh kỳ lạ trước đó xuất , hay đúng hơn là ký ức về nó. Vào lúc kết thúc chuỗi hình ảnh kỳ lạ đó, Asakawa hiểu được chính xác hai điều. Thứ nhất, những ai xem cuộn băng này đều chịu số phận phải chết đúng tuần sau khi xem. Và thứ hai, có cách tránh được định mệnh này, nhưng giải pháp đó bị đè cách cố ý. Bốn thanh niên, những người đầu tiên xem cuộn băng, xóa nó trong trò đùa độc ác tinh quái. Điều duy nhất Asakawa có thể làm là bỏ cuốn băng vào trong túi đồ và vội vã rời khỏi nhà B-4. Ando thở sâu và đặt bản thảo thiên phóng sang bên cạnh. Chết tiệt. Trong bài phóng , Asakawa kể lại cẩn thận và chi tiết những hình ảnh kỳ quái kéo dài hai mươi phút cuốn băng. ta vận dụng mọi nỗ lực để tái tạo, chỉ bằng ngôn ngữ, những gì chuyển tải thông qua hình ảnh và thanh, và rất thành công. Những cảnh đó vẫn khuấy đảo lên trong tâm trí Ando, ràng như thể như chính nghe và xem chúng. lại thở dài, đột nhiên thấy kiệt sức. Hay có lẽ đó phải là mệt mỏi. Có lẽ giờ đây cảm thấy nỗi sợ của Asakawa là của chính mình, và muốn tống khứ nó bằng cách nào đó. Nhưng thậm chí khắc ngừng nghỉ chỉ kích thích ham muốn được biết nhiều hơn. nhấp ngụm trà, cầm lên trang tiếp theo của bài phóng , và bắt đầu đọc tiếp, thậm chí còn đọc nhanh hơn trước. Điều đầu tiên Asakawa làm khi quay về Tokyo là gọi điện cho Ryuji Takayama và kể cho ta chuyện xảy ra. Asakawa có thời gian hay can đảm để mình giải quyết chuyện này. ta cần đối tác đáng tin cậy, và người đầu tiên nghĩ đến là Ryuji, bạn ta quen từ thời trung học. ta cũng liên lạc với Yoshino, nhưng Yoshino từ chối xem cuốn video. Bất kể có thực tin vào cuốn băng hay , nếu có khả năng mỏng manh rằng thảm họa đổ xuống đầu ta do xem cuốn băng, Yoshino muốn tránh xem nó. Nhưng Ryuji từ chối. Sau khi nghe đến cuốn băng giết chết bất cứ ai sau khi xem nó đúng tuần, câu đầu tiên ta là, trước hết hãy để tôi xem cuốn băng . Do đó, Ryuji xem cuốn băng tại căn hộ của Asakawa, và bị mê hoặc. Xem xong ta đề nghị Asakawa sao chép cho bản. Chữ "sao chép" khiến cho Ando ngồi thằng dậy và chú ý. Giờ nghĩ có thể hiểu được con đường di chuyển của cuốn băng. Bản gốc lấy từ Villa Log Cabin nhiều khả năng vẫn do Asakawa nắm giữ. Nó nằm chiếc đầu máy xe của Asakawa vào thời điểm tai nạn, được giao cho trai của Asakawa là Junichiro, sau đó bị vứt . Còn cuốn băng khác, là cuốn băng ở trong căn hộ của Mai, chỉ còn lại chút đoạn mở đầu. Đây có lẽ là bản mà Asakawa sao lại cho Ryuji vào đêm đầu tiên đó. Nó có nhan đề nhãn, bằng chữ viết tay của người đàn ông. Có lẽ là của Asakawa. Khi Ryuji nhờ Asakawa sao cho bản, thay vì lấy cuốn băng mới, Asakawa dung lại cuốn băng cũ mà ban đầu ta dùng để ghi chương trình ca nhạc. Cuốn băng này được truyền qua tay Ryuji rồi đến tay Mai. Điều đó rất hợp lý. Nhưng Mai nhận cuốn băng lúc nào? Mai chưa bao giờ với Ando rằng có được cuốn băng. Điều đó, theo Ando đoán, có nghĩa tình cờ thấy nó vài ngày sau khi Ryuji chết, và xem cuốn băng mà biết rằng nó nguy hiểm. Trong trường hợp nào nữa, cuốn băng được sao chép lại ở căn hộ của Asakawa. Ando cảm thấy cần phải lưu ý điều này trong đầu. Vậy là Ryuji mang bản sao cuốn băng về nhà mình và bắt tay vào tìm thông điệp bị xóa ( ta và Asakawa gọi điều này là "bùa phép"). Cả hai người đều thắc mắc, cuốn băng kỳ lạ này xuất tại Villa Log Cabin để làm gì. Lúc đầu họ nghĩ rằng nó được chiếc máy quay video ghi rồi để lại đấy, nhưng hóa ra phải vậy. Ba ngày trước khi những thanh niên kém may mắn kia đến thuê phòng, có gia đình ở trong nhà B-4; họ đặt cuốn băng vào VCR và để chế độ RECORD. Sau đó họ quên bẵng nó và bỏ lại đấy khi ra về. Như vậy hình ảnh trong cuốn băng phải được quay ở nơi nào khác rồi mới đưa đến ngôi nhà gỗ, mà là dạng truyền phát chưa biết đến được chụp lại cuốn băng khi đầu máy chạy chế độ ghi. Những người tiếp theo đến ngôi nhà gỗ là bốn nạn nhân trẻ kia. Rảnh rỗi, họ quyết định xem chương trình video; khi họ bật máy VCR lên, cuốn băng chui ra. Họ xem nó. Lời đe dọa ở cuối cuốn băng hẳn làm họ thích thú. Làm như chúng ta chết trong tuần nữa nếu làm theo điều cuốn băng chỉ dẫn? Thế rồi họ quyết định chơi trò tinh nghịch, bằng cách xóa phần giải pháp; điều đó làm cho vị khách tiếp theo đến thuê nhà phải sợ hãi. Tất nhiên, những chàng trai trẻ kia bao giờ tin vào lời nguyền của cuốn băng. Nếu tin họ bao giờ đến hành động nguy hiểm như thế. Dù sao nữa, ngày hôm sau người quản lý tìm thấy cuốn băng, ông ta để nó ở giá trong văn phòng, nó nằm đó ai để ý cho đến khi Asakawa đến. Vậy : làm thế nào những hình ảnh được đưa vào chiếc đầu máy trong khi nó chạy chế độ ghi? Asakawa có ý rằng sức mạnh kỳ lạ nào đó kiểm soát song trong gian, do đó ta cố gắng xác định nguồn phát sóng như thế. Trong lúc ấy, khi Asakawa ra ngoài, vợ và con ta thấy cuốn video vẫn nằm trong đầu máy VCR và xem nó. Giờ Asakawa bị thôi thúc bởi mong muốn giữ được chỉ tính mạng mình, mà còn của vợ con ta nữa. Rồi Ryuju phát ra điều đáng kinh ngạc. ta ngồi nhà xem xem lại cuốn băng rồi chợt nảy ra ý tưởng. ta vẽ ra sơ đồ và phát cuốn băng có thể chia thành mười hai cảnh, thuộc hai nhóm: nhóm những cảnh trừu tượng dường như gồm những điều có thể gọi là hình ảnh trong tâm trí, và nhóm những cảnh thực gồm những điều được nhìn thấy qua đôi mắt thường. Ví dụ, cảnh núi lửa phun và khuôn mặt của người đàn ông ràng là những điều nhìn thấy được trong thực tế, trong khi ánh sáng trong bóng đêm giống như đèn đom đóm lúc mở đầu cuốn băng giống như thứ do tâm trí gợi lên - như điều gì đó từ giấc mơ. Vậy nên Ryuji gọi hai nhóm là "thực" và "trừu tượng", để tiện cho việc so sánh. Xem xét sâu hơn nữa, ta nhận thấy trong những cảnh "thực", có những lúc màn hình bị che phủ bởi cái gì đó giống như tấm mạng đen, chỉ trong phần của giây. Trong những cảnh "thực", những khoảnh khắc này xảy ra với tần suất mười lăm lần mỗi phút, trong khi ở những cảnh "trừu tượng" chúng hoàn toàn xuất . Điều đó có nghĩa thế nào? Ryuchj kết luận tấm mạng đen đó thực tế chính là lần chớp mắt. Dường như nhửng cảnh đó được nhìn bằng con mắt thường, chứ phải là chuỗi chỉ nhìn thấy được bằng "con mắt" của tâm trí. Ngoài ra tần số mạng đen xuất khớp với tần số chớp mắt bình quân của nữ giới. Vì vậy, khá chắc chắn khi cho rằng chúng là những cái chớp mắt. Điều này đương nhiên dẫn tới kết luận rằng hình ảnh cuốn băng được chụp lại phải bằng máy quay video, mà là từ hình ảnh và tưởng tượng của cá nhân và đưa lên cuốn băng bằng cách chiếu hình qua ý nghĩ. Ando thực khó mà tin được phần này. Ý nghĩ rằng người ta có thể ghi các hình ảnh lên cuốn băng bằng trí óc vô cùng phi lý. có thể sẵn sàng, dù chỉ phần nào thôi, chấp nhận khả năng ghi hình bằng ý nghĩ lên phim ảnh tĩnh, nhưng đối với ảnh động? Trước hết, đó là cách thức khác hoàn toàn. Để tiếp tục, Ando phải tạm bỏ qua điểm này, thậm chí khi ngưỡng mộ trí tuệ của Ryuji. Giả sử rằng ai đó ghi lại cuốn băng cách siêu nhiên, câu hỏi tiếp theo là: ai? Asakawa và Ryuji tập trung vào điểm này, họ tìm đến Phòng Tưởng niệm Tetsuzo Miura ờ Kamamura. Là nhà nghiên cứu các tượng tâm lunh lạ thường, ông Miura dành cả đời mình để truy tìm những điều huyền bí toàn Nhật Bản. Các tập hồ sơ chứa những phát của ông được lưu lại ở nhà tưởng niệm. Hai người được phép vào xem hồ sơ, gồm nghìn tập, họ nghĩ rằng nhà ngoại cảm có sức mạnh đến mức ghi được hình động lên cuốn băng video thể vượt ra khỏi tầm chú ý của giáo sư Miura. Và sau nhiều giờ tìm kiếm, họ tìm thấy ứng cử viên khả dĩ. Tên là Sadako Yamamura. sinh ra ở thị trấn Sashikiji, đảo Izu Oshima. Theo tập trong tập hồ sơ của , lúc mười tuổi có khả năng ghi các ký tự yama (núi) và sada, các ký tự trong tên viết của , lên đoạn phim. Những ký tự này xuất cuốn video. Khi chắc chắn Sadako Yamamura chính là người họ tìm, ngày hôm sau Ryuji và Asakawa lên con thuyền đến đảo Izu Oshima. Họ hy vọng khi biết thêm được dạy dỗ thế nào, tính cách ra sao, soi sáng được số bí mật trong cuốn băng. Sadako đe dọa bất ai cứ ai xem những hình ảnh của chết, nhằm mục đích buộc người xem phải làm gì đó. Chính cuốn băng chứa mong muốn của rằng hành động đó được thực . Điều quan trọng là phải tìm ra được Sadako mong muốn cái gì. Tại thời điểm đó, Ryuji có ý nghĩ mơ hồ là Sadako còn sống nữa. ta tin rằng, lúc cận kề cái chết, bộc lộ ước muốn cuối cùng chưa được đáp ứng của mình dưới hình thức phóng chiếu hình ảnh bằng phép ngoại cảm, nghĩa là truyền lại ước muốn cho người khác. Lòng căm thù sâu kín của cuối cùng cùng truyền vào cuốn băng. Với trợ giúp của cộng tác viên tờ Tin tức Hằng ngày tại Oshima và giúp đỡ của Yoshino ở Tokyo, những người mà họ liên lạc thường xuyên, Asakawa và Ryuji gom được tập hồ sơ về Sadako Yamamura. sinh năm 1947, là con của bà Shizuko Yamamura, người từng là tượng huyền bí tạo nên tiếng vang lớn nhất thời trong giới truyền thông quốc gia, và ông Heihachiro, phó giáo sư Tâm thần học tại Đại học Taido, ông tham gia nghiên cứu tượng siêu nhiên mà đối tượng là Shizuko. Lúc đầu, ba người Ikuma, Shizuko và Sadako được công chúng đón nhận do trí tò mò đơn thuần, và thực tế họ trở thành con cưng của giới truyền thông như thứ thời trang. Nhưng tổ chức hàn lâm uy tín tuyên bố rằng sức mạnh của Shizuko là giả tạo, công chúng quay sang công kích họ, và họ trở thành chủ đề bị tấn công nặng nề báo chí. Ông Heihachiro bị sa thải khỏi trường đại học, rồi mắc bệnh lao, còn bà Shizuko bị suy nhược thần kinh và cuối cùng gieo mình xuống miệng núi Mihara, ngọn núi lửa đảo Izu Oshima. Sadako được họ hàng mang về nuôi đảo, sống ở đấy cho đến khi tốt nghiệp phổ thông. lần, vào năm học lớp bốn, trở nên nổi tiếng trong trường khi dự đoán núi lửa Mihara phun trào, nhưng ngoài chuyện đó ra dường như thể bất cứ năng lực nào được thừa hưởng từ người mẹ. Sau khi học xong phổ thông, chuyển đến Tokyo, tại đây tham gia đoàn kịch với hy vọng trở thành diễn viên. Chính Yoshino là người tìm ra dấu vết của ở đoàn kịch này. Từ ngoài đảo, Asakawa gọi điện cho Yoshino và đề nghị ta tìm đến địa chỉ của đoàn kịch tại Yotsuya, Tokyo. Yoshino làm theo, và khi đến đó, ta được người đàn ông tên là Arima, trưởng đoàn kịch, cho biết thêm nhiều thông tin về Sadako. hai lăm năm kể từ khi Sadako gia nhập đoàn kịch, nhưng ông ta nhớ rất . dường như có năng lực siêu nhiên; có thể dùng ý chí để chiếu các hình ảnh lên màn hình chiếc tivi rút phích cắm. Nếu điều này là đúng, năng lực của Sadako vượt rất xa mẹ . Ở đoàn kịch, Yoshino lấy được tấm hình chụp Sadako. Người ta vẫn giữ lại bản lý lịch của trong hồ sơ, và trong đó có hai tấm hình đen trắng chụp khi gia nhập đoàn kịch. tấm ảnh chụp chân dung, còn tấm kia chụp toàn thân. Cả hai tấm ảnh đều cho thấy Sadako có những đường nét cân đối hoàn hảo vượt xa khái niệm "đẹp". Yoshino thể xác định những gì xảy ra với Sadako khi rời đoàn kịch, do đó ta gửi fax những tấm ảnh và các thông tin khác thu thập được cho Asakawa, lúc này ở tại văn phòng của báo Tin tức Hằng ngày ở đảo Izu Oshima. Khi đọc bản fax và biết được rằng dấu vết của Sadako bị mờ, Asakawa chán nản. Nếu họ thể tìm thấy làm sao có thể hy vọng tìm ra bùa phép? lần nữa chính Ryuji lại nảy ra ý. ta nhận ra rằng có lẽ nhất thiết phải lần theo từng cử động của Sadako. Thay vì thế, có lẽ họ nên tập trung vào trường nhà Villa Log Cabin B-4 và cố tìm hiểu xem tại sao những hình ảnh lại xuất ở đó. Hẳn Sadako phải có mối liên hệ nào đó với nơi này. Họ nhận ra tất cả những ngôi nhà ở Pacific Land, Nam Hakone, đều được xây mới. phải có khả năng có những công trình gì khác từng tọa lạc ở đó. Asakawa liên lạc với Yoshino ở Tokyo và đề nghị ta thử theo hướng điều tra mới: tìm hiểu xem trước khi khu nghỉ mát được xây có cái gì ở đó. Yoshino gửi fax cho Asakawa sáng hôm sau. ra trước đây ở khu đất này là bệnh viện lao phổi. ta còn gửi cho họ sơ đồ bệnh viện này. Kèm theo bản fax còn có tên, địa chí và lý lịch người có tên Jotaro Nagao, 57 tuổi, bác sĩ đa khoa và nhi khoa hành nghề ở Atami. Trong khoảng thời gian năm năm, từ 1962 đến 1967, ông ta làm việc ở Trại Điều dưỡng ở Nam Hakone. Điều này dường như gợi ý rằng muốn biết thêm bất kỳ điều gì nữa về viện điều dưỡng tốt nhất nên lấy từ Nagao. Do đó, chỉ với những thông tin có được từ Yoshino, Asakawa và Ryuji bắt chuyến phà cao tốc đến Atami. được tuần kể từ ngày Asakawa xem cuốn băng. Nếu họ tìm ra "bùa phép" trước mười giờ tối, Asakawa chết. Hạn chót của Ryuji là mười giờ đêm tiếp theo. Giờ chết của vợ và con Asakawa là mười giờ sáng hôm sau. Hai người đàn ông lên chiếc xe mà họ thuê và thẳng đến văn phòng bác sĩ Nagao. Hy vọng của họ về việc có được dù chỉ chút thông tin từ vị bác sĩ này, được đền đáp. Khi đối mặt với vị bác sĩ, cả Asakawa và Ryuji đều nhận ra ông ta. Gần cuối cuốn băng là hình ảnh người đàn ông từ phần thắt lưng trở lên, thở hổn hển và vã mồ hôi, máu chảy ra từ vết rách sâu vai. Mặc dù ông ta già và rụng nhiều tóc, nhưng Nagao chắc chắn là người đàn ông đó. Nadako nhìn khuôn mặt ông ta rất sát. những thế, trong "đôi mắt" của , ông ta có cái gì đó độc ác. Bằng xấc xược điển hình, Ryuji dồn ép Nagao cho đến khi ta thú nhận hết. Ông ta kể cho họ tất cả về buổi chiều hè nóng rực cách đây hai mươi lăm năm... Nagao bị nhiễm bệnh đậu mùa từ bệnh nhân khi ông ta khám bệnh tại khu cách ly của viện điều dưỡng núi, và chiều hôm đó, những triệu chứng sơ khởi của bệnh bắt đầu xuất . Nhưng, mặc dù bị đau đầu và sốt, lúc đầu ông ta nhận ra rằng mình bị đậu mùa, tiếp tục chữa trị cho các bệnh nhân lao như bình thường. Ông ta nghĩ chỉ là bị cảm. Rồi ông ta gặp Sadako Yamamura trong sân bệnh viện. thường đến bệnh viện để thăm cha mình là bệnh nhân ở đó. Vì mới rời khỏi đoàn kịch, Sadako còn nơi nào khác để , nên hay thăm cha. Chỉ lần thoáng nhìn Sadako, Nagao bị sắc đẹp của chinh phục. Ông ta tiến lại gần và họ bắt đầu trò chuyện, và rồi, như thể bị dẫn dắt bởi điều gì đó bên ngoài bản thân, ông ta dẫn đến ngôi nhà bỏ hoang ở sâu trong rừng. Ở đó, trước cái giếng cũ, ông ta cưỡng hiếp . Chính lúc ấy Sadako cắn vào vai ông ta trong nỗ lực vô vọng nhàm kháng cự. Giữa máu chảy và cơn điên cuồng sôi sục, ông ta mất lúc mới nhận thấy đặc biệt của Sadako. bị hội chứng tinh hoàn nữ giới, tình trạng rất hiếm xảy ra, khi người có cơ quan sinh dục của đàn ông lẫn đàn bà. Người bị hội chứng này thường có ngực và đạo, nhưng có dạ con và ống dẫn trứng. Khi mặt quần áo, người đó có dáng vẻ hoàn toàn là phụ nữ, nhưng nhiễm sắc thể lại có dạng XY của người đàn ông, và có khả năng mang thai. Nagao bóp cổ Sadako và ném xác xuống giếng.Rồi ông ta ném đá xuống giếng vùi xác . Sau khi nghe lời thú nhận của Nagao, Asakawa đưa cho ông ta xem sơ đồ khu nghỉ mát và đề nghị vị bác sĩ chỉ cho ta vị trí của cái giếng bản đồ. Nagao có thể chỉ khu vực theo cách chung chung, nơi đó giờ là Villa Log Cabin. Asakawa và Ryuji ngay lập tức đến Pacific Land. Ở đó, họ bắt đầu tìm kiếm cái giếng ở vùng lân cận khu nhà gỗ. Họ tìm thấy nó ở dưới nhà B-4. Ngôi nhà gỗ được dựng mặt đất nghiêng thoai thoải, và khi thăm dò khoảng bên dưới hiên nhà, họ nhìn thấy mép của cái giếng cũ có nắp bằng bê tông che lại. Nếu lòng căm thù của Sadako thoát ra ngoài giếng, nó tác động đến chiếc TV và đầu máy VCR trong ngôi nhà gỗ bên . Cuốn băng nằm ở vị trí hoàn hảo để nhận chiếu hình bằng phép ngoại cảm. Asakawa và Ryuji gỡ vài tấm ván, bò xuống dưới ngôi nhà, lật nắp giếng lên, và bắt đầu tìm di hài của Sadako. Cả Asakawa và Ryuji lúc đó đều giải thích "bùa phép" bị mất là: Sadako muốn người nào xem cuốn băng phải giải phóng cho khỏi nơi tối đen bưng bít đó. Hai người họ thay nhau xuống giếng và dung xô múc hết nước ra. Và khi cuối cùng cũng tìm được trong lớp bùn hộp sọ mà họ cho là của Sadako, qua thời điểm mười giờ. Giờ chết của Asakawa đến và qua, mà ta chết. Họ hài lòng rằng tìm ra bí mật cuốn băng. Sau đấy, Asakawa đưa di hài Sadako về đảo Izu Oshima, trong khi Ryuji về nhà mình ở Tokyo để viết công trình nghiên cứu. Vụ việc được gác lại. Xương cốt của Sadako Yamamura, người sở hữu sức mạnh ngoại cảm đáng sợ, được giải thoát khỏi tận sâu lòng đất. được khuây khỏa. Cả Asakawa lẫn Ryuji đều chút nghi ngờ về chuyện đó. PHẦN 2.11 Đọc đến đây, Ando đứng dậy, tay vẫn cầm bản phóng , và mở cửa sổ. Cảm giác như trèo xuống giếng bằng sợi dây khiến nghẹt thở. gian bị thu hẹp bằng nửa; dưới ngôi nhà gỗ, khoảng vẫn tối dù là vào ban ngày, và ở đó có cái giếng, rộng chưa đến mét. Nó tạo cho thoáng sợ hãi vì bị giam giữ; phải hít thở khí bên ngoài. Ngay bên dưới cửa sổ, có thể nhìn thấy rừng cây tối om xung quanh Điện thờ Minh Trị Thiên hoàng lay động trong làn gió . Những trang giấy tay cũng rung rinh bởi chính làn gió kia. Trang cuối của bản thảo bài phóng nằm ngay trong máy in. trang nữa là bài phóng của Asakawa được in xong. Ando nghe thấy thanh ủa chiếc máy in khi nó hoàn thành công việc. quay lại nhìn máy xử lý văn bản và chỉ thấy trang giấy gần như trống nhìn lại . cầm trang cuối cùng lên. đó viết: Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười Bản chất của virus là tự sinh sản. Bùa phép: sao bản cuốn video. Và đó là tất cả. Nhưng nó là phần quan trọng nhất. 21 tháng Mười là ngày Asakawa gặp tai nạn. Buổi sáng hôm trước, Ando mổ tử thi của Ryuji và gặp Mai tại văn phòng cơ quan giám định pháp y. Mặc dù bản thảo phóng kết thúc đột ngột, nhưng Ando có thể tự hiểu được phần còn lại của câu chuyện. Ngày 19 tháng Mười, di hài của Sadako Yamamura được giao lại cho người thân của . Nhưng rốt cuộc đó phải là kết thúc của câu chuyện. Ngay khi Asakawa ngồi trong khách sạn ở Oshima viết bài phóng chi tiết, Ryuji hấp hối ở nhà mình tại Đông Nakano. Khi về Tokyo và biết được cái chết của Ryuji, Asakawa tức tốc đến nhà Ryuji. Ở đó ta gặp Mai Takano và hỏi hỏi lại điều mà với dường như là những câu hỏi kỳ quặc và phù hợp. Ryuji thực gì với lúc lâm chung sao? lời, chẳng hạn như, về cuốn băng sao? Để hiểu tại sao Asakawa lại hoang mang. ta tin rằng thoát được tử thần bằng cách tìm ra bí mật của cuốn băng, và giờ đây phát ra mình nhầm. Lời nguyền vẫn còn đó. Và Asakawa được bỏ qua mà có lấy manh mối gì. Tại sao Ryuji chết còn Asakawa vẫn sống? chỉ thế, hạn chót cho vợ và con của Asakawa đến, 11 giờ ngày hôm sau. Do đó Asakawa phải tìm bùa phép lại từ đầu, lần này mình và chỉ có vài tiếng đồng hồ để thực . Theo logic, ta nhận ra rằng cho dù cuốn băng kia có muốn ta làm điều gì nữa, ta hẳn thực điều đó tại thời điểm trong tuần trước mà hề biết. Điều mà ta có thể chắc chắn rằng Ryuji làm. Có thể là gì đây? Có lẽ ta dành cả đêm để suy nghĩ. Và rồi cuối cùng, vào buổi sáng ngày 21, linh cảm của ta lóe lên, có lẽ như vậy, và vụt chạm đến điều mà ta chắc chắn là giải pháp. ta nhanh chóng ghi nó lại máy xử lý văn bản. Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười Bản chất của virus là tự sinh sản. Bùa phép: sao bản cuốn video. Điều mà Asakawa ám chỉ ở đây gì khác ngoài virus bệnh đậu mùa. Ngay trước khi chết, Sadako Yamamura có quan hệ xác thịt với nạn nhân bệnh đậu mùa cuối cùng của Nhật Bản, ông Jataro Nagao. Dĩ nhiên có thể giả định rằng virus xâm nhập vào cơ thể . Bị đẩy đến bờ tuyệt chủng, loại virus này mượn năng lực phi thường của Sadako để thực mục đích tồn vong của nó, có nghĩa là tự sinh sản. Nhưng khi ở dưới dạng cuốn băng video, virus tự sinh sản được. Nó phải làm việc đó thông qua con người, bắt buộc họ phải sao chép cuốn băng. Nếu phải điền vào phần mất ở cuối đoạn băng, phần đó như thế này: Người nào xem những hình này chịu định mệnh phải chết vào giờ này đúng tuần sau. Nếu ngươi muốn chết, phải làm theo đúng những chỉ dẫn sau. Sao cuốn băng ra bản và đưa nó cho người khác xem. Theo hướng này, mọi việc đều hợp lý. Ngay hôm sau khi xem cuốn băng, Asakawa cho Ryuji xem, và ta cũng sao bản cho Ryuji. ta giúp virus phát tán mà hề biết. Nhưng Ryuji bao giờ sao chép lấy bản. Khi chắc chắn có câu trả lời, Asakawa mang chiếc đầu máy VCR lên xe và lái đâu đó. Chắc chắn ta định sao thêm hai bản và đưa cho hai người nữa xem - để cứu vợ, và để cứu con . Những người được ta cho xem cuốn băng, sau đó phải tìm những con mồi mới, những người khác để cho họ bản sao cuốn băng. Nhưng đó phải là vấn đề cấp thiết. Điều quan trọng là phải cứu tính mạng của vợ con ta. Nhưng ngay khi ta vô cùng nhõm vì cứu được tính mạng của những người thương , Asakawa đưa tay ra ghế sau chạm vào vợ và con mình và thấy họ lạnh toát. ta mất lái. Ando có thể hiểu được tình trạng căng trương lực giờ của Asakawa. ta chỉ suy sụp khi mất gia đình, mà chắc chắn còn bị hành hạ bới câu hỏi: bản chất thực của bùa phép là gì? Mỗi lần ta nghĩ là tìm ra, câu trả lời lại trôi tuột qua tay ta, lại thay đổi, và cướp tính mạng khác. Giận dữ, đau đớn, và ngớt lặp lại câu hỏi: Tại sao? Tại sao ta vẫn sống? Ando đặt các trang bản thảo thành tập bàn. Rồi tự hỏi: Mình có thực tin vào chuyện vớ vẩn này ? lắc đầu. Thực mình biết. biết gì khác. Chính mắt nhìn thấy khối u bất thường trong động mạch vành của Ryuji. Bảy người khác bị chết vì cùng nguyên nhân. Người ta tìm thấy trong máu của họ loại virus gần giống với virus bệnh đậu mùa. Và Mai biến mất đâu? Còn bầu khí quái dị trong căn hộ của sao, căn hộ dường như bỏ trống? Dấu hệu rợn tóc gáy rằng có cái gì đó trong căn hộ? Những dấu vết còn lại cuốn băng vẫn còn trong đầu máy VCR của Mai? Liệu cuốn băng có còn phát tán? Liệu nó có tiếp tục cướp sinh mạng của những nạn nhân mới? Càng nghĩ càng đặt thêm nhiều câu hỏi. tắt máy xử lý văn bản và lấy chai whisky tủ. biết đêm nay mình ngủ được nếu có rượu trợ giúp. PHẦN 2.12 Đầu tiên Ando ghé qua phòng xét nghiệm hóa sinh trả lại máy xử lý văn bản cho Ueda, rồi đến khoa bệnh học. kẹp dưới tay bản phóng in đêm hôm trước. định cho Miyashita đọc. Miyashita ngồi cúi xuống sát bàn, gãi gãi đầu bằng chếc bút bi. Ando thả bài phóng lên mặt bàn cạnh Miyashita, ta ngước mắt lên nhìn ngạc nhiên. "Cậu đọc hộ tôi cái này được ?" Miyashita chỉ nhìn chằm chằm Ando, ngạc nhiên. "Có chuyện gì thế?" "Tôi muốn biết cậu nghĩ gì về cái này." Miyashita cầm tập văn bản lên. "Khá dài đấy." "Đúng thế, nhưng trong này có những thứ làm cậu thích thú đấy. mất nhiều thời gian để đọc đâu." "Cậu định với tôi là cậu viết tiểu thuyết trong lúc rảnh rỗi đấy chứ?" "Kazuki Asakawa viết bài phóng về những cái chết." "Ý cậu là Asakawa của chúng ta?" "Đúng." Miyashita bấy giờ trông có vẻ quan tâm khi ta lật qua số trang. "Hừmm." "Tôi để nó ở đây. Lúc nào đọc xong cho tôi biết cậu nghĩ thế nào." Ando bắt đầu , nhưng Miyashita gọi lại. "Chờ ." "Gì thế?" Miyashita chống tay lên má và gõ đầu bút bi lên bàn. "Cậu chơi trò giải mã giỏi lắm đúng ?" "Tôi là tôi đặc biệt giỏi môn này. Hồi ở trường y, số bạn tôi chơi trò này, nhưng chỉ thế thôi." "Hừmm", Miyashita , cầm bút gõ lên bàn. "Sao thế?" Miyashita nhấc khủy tay ra khỏi bản in mà ta xem và chuyển cho Ando. "Đây là lý do." ta chỉ bút vào giữa trang giấy. Đó là bản in mà nhìn thấy ngày hôm trước, kết quả phân tích chuỗi virus tìm thấy trong máu Ryuji. "Cậu cho tôi xem hôm qua rồi mà." "Tôi biết, nhưng tôi thể bỏ qua nó được." Ando cầm tờ giấy lên để trước mặt. dãy các bazơ xếp theo cùng trật tự được chèn vào nhiều lần trong chuỗi hỗn hợp các bazơ khác. ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA ràng, là kỳ lạ khi dãy bốn hai bazơ xuất vài lần với những khoảng cách phù hợp. "Và virus của Ryuji là loại virus duy nhất thế này?" "Đúng. Virus của ta là loại virus duy nhất có thêm những bazơ này," Miyashita , ánh mắt rời khỏi Ando. "Cậu thấy lạ à?" "Tất nhiên là có." Tiếng gõ bút bi dừng lại. "Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi có thể là dạng mật mã." Ando nấc lên. nhớ là kể gì cho Miyashita về chuyện xảy ra sau khi mổ tử thi Ryuji chưa. phải là góc tờ báo, và chắc chắn phải là việc tìm ra được rừ "ring". Thế mà bây giờ Miyashita lại về mật mã. "Cứ cho đó là mật mã , thế ai gửi nó?" "Ryuji." Ando nhắm nghiền mắt lại. Đó là ý nghĩ hết sức cố gắng tránh nghĩ đến, và giờ Miyashita lại bày ra trước mặt . "Ryuji chết rồi. Chính tôi mổ tử thi." Miyashita chút bối rối. "Ờ, thế nào cũng được. Thử xem cậu có thể giải mã được ?" Liệu thực có khả năng rằng chuỗi bazơ kia có thể bằng cách nào đó được chuyển thành từ được ? Giống như các chữ số 178136 nhanh chóng cho ra từ RING, có lẽ bốn mươi hai chữ cái này có thể được dùng để tạo thành những từ nào đó. Có lẽ chúng thực mang thông điệp quan trọng. Có phải chính Ryuji, từ nơi hầm mộ, khắc khắc lại nó trong thi thể của ta? Tay Ando, nắm chặt bản in, run lên khi thấy chính mình bị đẩy vào ngõ tối giống như Asakawa. Nhưng khi nào có thể từ chối lời đề nghị thẳng thắn của Miyashita. Ý nghĩ rằng nó có thể là mật mã cũng xảy đến với Ando khi lần đầu tiên thấy chuỗi bazơ đó, nhưng chôn sâu ý nghĩ này trong não bộ. sợ nếu chôn nó, cái khuôn khổ khoa học mà gắn cuộc đời mình vào đấy bị biến dạng thêm nữa. Mọi chuyện đe dọa vượt qua khả năng lĩnh hội của . "Cậu cứ giữ lấy. Cứ thư thả thôi, xem cậu có thể làm gì với nó." Miyashita được cho là nhà khoa học. Ando thể hiểu, tại sao ta có thể về những ý tưởng phi khoa học này quá dễ dàng. "Tôi tin ở cậu. Cậu làm được," Miyashita , tay vỗ vào mông Ando. PHẦN 3.1 - GIẢI MÃ Ando và Miyashita theo phục vụ đến bàn gần cửa sổ. Nhà hàng nằm ở tầng cao nhất của bệnh viện đại học và có tầm nhìn tuyệt đẹp ra Khu Ngoại viên của Đền thờ Minh Trị Thiên Hoàng. Bên cạnh đó, nhân viên của trường được giảm giá. Cả hai người cởi áo blu trước khi vào nhà hàng, nhưng nhìn thoáng qua nhân viên cũng biết họ phải là khách đến thăm bệnh nhân. đưa cho họ menu đồ ăn trưa đặc biệt dành riêng cho nhân viên. Cả Ando và Miyashita chỉ xem qua rồi gọi suất đặc biệt trong ngày và cà phê. Ngay khi phục vụ khỏi, Miyashita với vẻ kỳ lạ. "Tôi đọc rồi". Từ khi Miyashita rủ ăn trưa, Ando biết ta mở đầu bằng câu đó. Miyashita đọc bài phóng Ring của Asakawa và bây giờ sẵn sàng nhận xét nó. "Cậu nghĩ sao?" Ando rướn người ra trước. "Tôi dối đâu. kinh ngạc." "Nhưng cậu có tin ?" "Khỉ . Vấn đề phải là tin hay . Còn nhiều hơn thế. Tên của các nạn nhân và thời điểm chết ta đưa ra đều chuẩn xác. Chúng ta, cả cậu và tôi, xem các báo cáo việc và biên bản mổ tử thi." Tất nhiên ta đúng. Họ có bản sao báo cáo những cái chết bất thường kia và cả những tài liệu liên quan đến bốn nạn nhân ở Villa Log Cabin. Thời gian chết ghi trong các bản báo cáo đó được Asakawa phản ánh rất chính xác. hề có mâu thuẫn nào. Nhưng điều làm Ando ngạc nhiên là nhà nghiên cứu bệnh học sắc sảo như Miyashita lại tỏ ra chống đối cách ràng cái ý tưởng rằng những lời nguyền và sức mạnh siêu nhiên đóng vai trò trong toàn bộ chuyện này. "Vậy là cậu chấp nhận nó?" "Ờ, phải là tôi có những nghi ngờ. Nhưng, cậu biết đấy, nghĩ kỹ lại khoa học đại chưa tìm ra câu trả lời cho bất cứ câu hỏi cơ bản nhất nào. sống đầu tiên trái đất xuất ra sao? Tiến hóa xảy ra như thế nào? Là loạt kiện ngẫu nhiên hay theo hướng định sẵn? Có đủ các loại học thuyết, nhưng chúng ta chưa thể chứng minh được cái nào. Cấu trúc nguyên tử phải là hình ảnh thu của hệ mặt trời, mà là cái gì đó khó nắm bắt hơn thế nhiều, với đầy rẫy những điều mà ta gọi là sức mạnh tiềm . Và khi chúng ta cố quan sát thế giới hạ nguyên tử, chúng ta nhận ra rằng tâm trí của người quan sát lại có ảnh hưởng theo cách khó nhận thấy. Tâm trí, ông bạn ạ! Từ thời Descartes, những người đề xướng ra thuyết cơ giới về vũ trụ coi tâm trí lệ thuộc vào bộ máy cơ thể. Và giờ chúng ta nhận ra rằng tâm trí ảnh hưởng đến kết quả quan sát. Do đó, tôi từ bỏ. Chẳng có gì làm tôi ngạc nhiên nữa. Tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra thế giới này. Tôi thực khá là ghen tị với những người vẫn còn có thể tin vào quyền lực tuyệt đối của khoa học đại." Chính Ando cũng có ít nhất chút nghi ngờ về cái gọi là quyền lực tuyệt đối của khoa học đại, nhưng ràng những nghi ngờ đó mạnh mẽ như của Miyashita. Làm sao người có thể cảm thấy thoải mái đứng trong hàng ngũ khoa học nếu như người đó vẫn chứa chấp hoài nghi như thế? "Thế là khá cực đoan đấy." "Tôi chưa bao giờ với cậu điều này, nhưng thực tôi là người theo triết học duy tâm." " kẻ duy tâm ư?" "Như đức Phật , sắc là và tức là sắc." Ando chắc lắm Miyashita cố điều gì. chắc giữa triết học duy tâm và cái thực tại là trống rỗng đó có rất nhiều điều chưa hiểu hết, nhưng giờ phải là lúc để tìm hiểu hơn luận điểm về thế giới quan của Miyashita. "Dù sao, trong bài phóng có điều gì đặc biệt khiến cậu băn khoăn ?" Ando muốn biết liệu Miyashita có nghi ngờ giống . "Ồ, cái gì cũng khiến tôi băn khoăn cả." Cà phê được mang đến, và Miyashita khuấy tách cà phê đầy kem và đường. Khuôn mặt đỏ ửng của hứng trọn ánh nắng chiếu qua cửa sổ. "Trước hết, tại sao lại là Asakawa và chỉ duy nhất Asakawa vẫn còn sống sau khi xem cuốn băng?" Miyashita nhấp ngụm cà phê. "Vì ta tìm ra bùa phép, phải à?" "Bùa phép?" "Cậu biết mà, phần bị xóa ở cuối cuốn băng." "Cái đoạn băng muốn buộc người xem phải làm điều gì đó." "Vậy nếu Asakawa làm mà hề biết ..." "Làm điều gì?" "Nó nằm ngay ở cuối bài phóng , đúng ? 'Bản chất của virus là tự sinh sản. Bùa phép: sao cuốn băng ra bản.'" Rồi Ando giải thích cho Miyashita vài điều mà ta biết. Có đầu máy video trong xe của Asakawa vào thời điểm xảy ra tai nạn, và Ando tìm thấy trong căn hộ của Mai bản sao cuốn băng bị ghi đè. Miyashita giờ dường như hiểu ra. "À ha, ra ý của ta là thế. Asakawa nghĩ bùa phép là sao cuốn băng ra bản, và đưa cho người nào chưa xem cuốn băng xem nó." "Tôi chắc chắn đấy là điều ta nghĩ." "Vậy, ta đâu với chiếc máy VCR vào buổi sáng xảy ra tai nạn?" "Tất nhiên là tới nơi ta có thể tìm được hai người để xem cuốn băng. ta hẳn phải rất sốt sắng cứu vợ và đứa con ." "Nhưng ta khó mà đưa được cuốn băng nguy hiểm kia cho người hoàn toàn xa lạ xem." "Tôi cho rằng ta đến nhà bố mẹ vợ. thể là bố mẹ đẻ của ta được, vì bố ta còn sống khỏe mạnh. Tôi chuyện với ông ấy hôm trước." "Vậy là bố mẹ vợ tự đặt mình trước mối nguy hiểm nhất thời để cứu con và cháu mình." "Có vẻ như chúng ta cần tìm ra họ sống ở đâu và hỏi cảnh sát địa phương." Nếu cuốn băng, kèm theo lời đe dọa, được sao chép và phổ biến, hẳn có thêm nhiều nạn nhân nữa trong khu vực xung quanh nhà của bố mẹ Shizu Asakawa. Nhưng nếu như vậy, giới truyền thông bỏ qua. Cuốn băng còn được phổ biến ngấm ngầm, chưa được công chúng biết đến. Miyashita dường như cũng vừa có ý nghĩ rằng cuốn video có khả năng phát tán giống như virus. ta giọng chế giễu. "Có vẻ sắp tới cậu mổ nhiều tử thi lắm đây." Câu này khiến Ando chợt nhận ra việc. Xét theo tình hình, nhiều khả năng là Mai xem cuốn băng. Kể từ khi biến mất đến giờ gần hai tuần. Có lẽ cuối cùng chính là người mổ tử thi của . tưởng tượng cơ thể xinh đẹp của nằm bàn mổ, và điều đó khiến kinh hãi. "Nhưng Asakawa vẫn còn sống." như cầu nguyện. "Vấn đề lớn nhất chúng ta gặp phải là: nếu Asakawa sao hai bản của cuốn băng, tại sao vợ và con ta vẫn chết?" " cách khác, tại sao Asakawa vẫn còn sống?" "Tôi biết. Virus đậu mùa có liên quan đến chuyện này, đúng ? Theo hướng đó hoàn toàn hợp lý khi cho rằng 'bùa phép' là sao cuốn băng nhằm giúp virus lan truyền." "Nó vẫn hợp lý cho đến cái chết của Ryuji. Nhưng cái chết của vợ và con Asakawa lại đặt ra câu hỏi đó lần nữa." "Vậy, việc sao chép có phải là điều cuốn băng muốn?" "Tôi biết." " biết giải thích tình huống này như thế nào. Hoặc là bùa phép chuyển sang cái gì khác, hoặc có điều gì đó may xảy ra trong quá trình sao chép. Hay có lẽ cuốn băng giết bất cứ người nào xem nó bất kể họ có thực theo bùa phép hay . Nhưng như thế còn khó giải thích hơn tại sao Asakawa còn sống. Đồ ăn trưa được mang đến, hai người yên lặng lúc, chú tâm vào việc ăn. Cuối cùng, Miyashita buông nĩa và , "Tôi thấy mình ở vào thế rất mâu thuẫn." "Ý cậu là sao?" "À, nếu có cuốn băng như thế, tôi muốn xem nó. Nhưng nó có thể giết chết tôi. Tôi đó là mâu thuẫn. tuần phải là thời gian dài." " phải là thời gian dài?" "Để tìm hiểu. Nó thực khiến tôi tò mò. Về mặt khoa học mà , cái chúng ta có là cuốn băng, vật trung gian tấn công vào não người thông qua ý nghĩa của hình ảnh và thanh, bằng cách nào đó chúng có thể cấy vào cơ thể loại virus giống virus bệnh đậu mùa." "Có lẽ phải nó cấy virus. Có lẽ những hình ảnh cuốn băng bằng cách nào đó ảnh hưởng đến ADN của tế bào nạn nhân rồi biến đổi thành loại virus bí ." "Có thể cậu phần nào đúng. Tôi nghĩ về virus AIDS. Chúng ta chắc chắn về nguồn gốc của nó, nhưng người ta cho rằng có gì đó khiến cho virus của loài người và loài khỉ, vốn tồn tại song song với nhau, tiến hóa, và đấy là điều sản sinh ra virus AIDS mà chúng ta biết. Dù sao , AIDS cũng phải là loại virus xuất hàng mấy trăm năm. Phân tích chuỗi bazơ của nó cho thấy ràng rằng nó phân ra thành hai chủng chỉ cách đây khoảng trăm năm mươi năm. Thông qua kiện ngẫu nhiên." "Và cậu muốn tìm ra trong trường hợp này kiện ngẫu nhiên đó là gì." "Tôi à, tôi nghĩ nó liên quan đến tâm trí." Miyashita nhoài người về trước cho đến khi mũi ta gần chạm mũi Ando. Tất nhiên, người ta biết rằng tâm trí, vốn trừu tượng và phi vật chất, có thể ảnh hưởng đến cơ thể theo nhiều cách khác nhau. Ando biết rất điều này. Bằng chứng là chỉ cần suy nghĩ căng thẳng về điều gì đó dẫn đến thủng loét màng dạ dày. Bây giờ Ando và Miyashita cùng hướng suy nghĩ. Trước hết, cuốn băng tạo ra cho người xem trạng thái tâm lý đặc biệt, rồi bằng cách nào đó ảnh hưởng đến ADN của người xem, biến đổi nó đến khi loại virus bí giống virus đậu mùa sinh ra. Rồi, loại virus giống virus đậu mùa này gây ung thư trong động mạch vành xung quanh tim, dẫn đến xuất khối u. Trong vòng tuần, khối u đạt đến kích thước đỉnh điểm, chặn dòng máu và làm tim ngừng đập. Nhưng chính virus loại này giống như kiểu virus gây ung thư, chức năng của nó là lần đường vào ADN và gây ra đột biến tế bào trong lớp giữa của động mạch vành, và nó có tính lây nhiễm. Ít nhất, các phân tích cho đến bây giờ khiến họ nghĩ vậy. "Thôi nào, cậu muốn xem à?" Miyashita thách thức. "À ..." "Tôi chỉ muốn có cuốn băng đó." ", tôi nghĩ tốt hơn là gây thêm rắc rối nữa. Cậu có kết cục như Ryuji thôi." " về Ryuji, thế cậu giải mã được chưa?" "Chưa. Ngay cả khi đó là mật mã, bốn mươi hai bazơ là con số quá để làm được gì. Nó chỉ có thể chứa nhiều nhất là vài từ." Đây là lời bào chữa. Thực tế Ando thử giải mật mã đó vài lần, nhưng mọi nỗ lực của đều kết thúc thất bại. "Tôi nghĩ mình biết cậu dùng ngày nghỉ để làm gì rồi." Lúc đó Ando mới nhận ra ngày hôm sau là dịp nghĩ lễ toàn quốc, Ngày Cảm tạ Lao động. Và do ngày kia, thứ Bảy, phải làm việc, nghĩa là có kỳ nghĩ cuối tuần ba ngày. Kể từ khi mất đứa con trai và ly thân vợ, để ý nhiều lắm đến những ngày nghỉ. Ở nhà mình chẳng được việc gì ngoài đau khổ, và ba ngày nghỉ cuối tuần mà có kế hoạch làm gì khiến cực kỳ chán nản. "Ừ, à, tôi thử xem." Có điều, dành cả kỳ nghỉ cố đọc thông điệp được mã hóa do người chết gửi nghe có vẻ khá ảm đạm. Nhưng mặt khác, nếu thành công, nó cũng tạo cho chút cảm giác làm được việc. Ít nhất nó là trò tiêu khiển. Do đó hứa với Miyashita tìm ra khi kỳ nghỉ kết thúc. "Đến thứ Hai tôi cho cậu biết Ryuji muốn gì." Miyashita với tay qua bàn đập vào vai trái Ando. "Giờ chuyện đó tùy thuộc vào cậu."
PHẦN 3.2 Sau bữa trưa, Ando quay trở lại văn phòng của và gọi điện đến khoa Pháp y bệnh viện Đại học Joji, ở Utsunomiya, tỉnh Tochigi. Qua tìm hiểu chút, có được thông tin rằng bố mẹ vợ của Asakawa sống ở Ashikaga, Tochigi. Bất kỳ cái chết khó hiểu nào xảy ra trong vùng đó do các bác sĩ ở Đại học Joji đảm trách mổ pháp y. vị phó giáo sư trả lời điện thoại, và Ando hỏi ông ta trong tháng trước có bệnh nhân nào chết vì suy tim do bị tắc động mạch vành . Người đàn ông trả lời bằng câu hỏi cộc lốc. "Xin lỗi, định gì thế?" Ando giải thích cho ông ta rằng người ta ghi nhận có bảy trường hợp chết vì cùng nguyên nhân trong khu vực xung quanh Tokyo, và có những dấu hiệu cho thấy có thể có thêm nhiều nạn nhân nữa. tránh nhắc đến tượng dị thường. Điều này dường như làm cho người đàn ông đó bớt nghi ngờ. "Vậy là liên lạc đến các trường y ở trong vùng?" ", hẳn thế." "Thế tại sao lại gọi cho chúng tôi?" "Bởi vì khu vực của các có nguy cơ." "Có phải chúng tôi tìm thấy những thi thể ở Utsunomiya?" ", ở Ashikaga." "Ashikaga?" Việc nhắc đến cái tên này làm người đàn ông giật mình. Ông ta yên lặng, và Ando gần như cảm nhận được ông ta nắm chặt ống nghe. " lạ quá. Tôi tưởng tượng nổi làm sao biết được. Thực tế, vào ngày 28 tháng Mười, người ta phát ở đấy có thi thể của đôi vợ chồng già. Chúng tôi mổ tử thi họ vào hôm sau đó." " có thể cho tôi biết tên của họ được ?" "Họ của họ là Oda, tôi nghĩ vậy, còn tên cụ bà là Setsuko. Tôi quên mất tên cụ ông rồi." Ando kiểm tra tên bố mẹ của Shizu Asakawa: Toru và Setsuko Oda. Đó hẳn là họ rồi. Bây giờ có bằng chứng. Ngày 21 tháng Mười, Asakawa mang đầu máy VCR lên chiếc ô tô mà ta thuê, rồi lái xe đến nhà bố mẹ vợ ở Ashikaga, ở đấy ta đưa hai bản sao của cuốn băng cho hai ông bà xem. Chắc chắn ta đảm bảo với họ rằng, nếu họ sao thêm các bản khác và cho những người khác xem trong vòng tuần, tính mạng của họ gặp nguy hiểm. cần phải thuyết phục nhiều, cho dù họ có hoàn toàn tin hay câu chuyện kỳ dị của người con rể. Nếu có bất cứ cơ hội nào khiến cho tính mạng của con và cháu được bảo đảm, hẳn là họ sẵn sàng chấp nhận. Và thế là Asakawa sao hai bản, tin rằng làm như thế cứu được vợ con mình. Nhưng đường về nhà ta mất họ cùng lúc, và rồi tuần sau, hai ông bà cũng chết. "Tôi cá là rất ngạc nhiên vì điều phát được khi mổ pháp y." Ando có thể tưởng tượng ràng cú sốc của nhóm nhân viên mổ pháp y khi phát ra cùng triệu chứng trong hai thi thể. " có thể điều đó sau. Ý tôi là, với thời gian chết cùng lúc, cộng với việc họ để lại bức thư, chúng tôi đương nhiên cho đó là vụ cùng nhau tự tử. Nhưng khi mổ tử thi họ, thay vì tìm thấy chất độc, chúng tôi thấy những khối u lạ nơi động mạch vành. Ngạc nhiên phải là từ đủ để mô tả." "Khoan ," Ando cắt lời. "Sao?" " họ để lại bức thư?" "Đúng. Cũng nhiều nhặn gì lắm, bức thư được tìm thấy cạnh gối của họ. Có vẻ như họ viết nó ngay trước khi chết." Ando bối rối trước diễn biến này. Thế nghĩa là sao? Tại sao họ để lại bức thư? " có thể cho tôi biết bức thư gì ?" "Chờ lúc." Vị phó giáo sư đặt ống nghe xuống, nhưng vài giây sau quay lại. " phải mất khá lâu để tôi tìm được nó. Tôi gửi fax cho sau được ?" "Tôi rất cảm kích vì điều đó." Ando đọc cho người đàn ông số fax của rồi cúp máy. Sau đó thể rời bàn của mình. Máy fax nằm ngăn giữa của chiếc bàn máy tính cách hai bàn. xoay ghế theo góc 45 độ để hướng mặt về chiếc máy, đợi bản fax đến. thể thư giãn; thậm chí thể dựa lưng lên ghế. Thay vì thế, trong khi ngồi đợi, trong đầu điểm lại dòng kiện cho đến tận bây giờ. Xem xét lại những việc xảy ra là tất cả những gì có thể làm. quá bị phân tâm với việc bao giờ chiếc máy fax hoạt động nên cũng suy nghĩ được gì. Cuối cùng, máy fax bắt đầu kêu ro ro và bản fax bắt đầu chạy ra. chờ đến khi nó kết thúc, rồi đứng dậy kéo ra. quay lại ghế, trải bản fax lên bàn, và đọc: Gửi Bs. Ando, Trường Y Đại học Fukuzawa. Đây là bức thư ông bà Oda để lại. Làm ơn cho tôi biết bất kỳ diễn biến mới nào. Bs. Yokota Trường y Đại học Joji Dưới dòng chữ nguệch ngoạc của vị giáo sư là vài dòng có kèm theo tên của ông bà Oda. Chữ viết tay phải của Yokota; hẳn ta sao từ bản gốc. Sáng 28 tháng Mười Chúng tôi nhận trách nhiệm xử lý những cuốn băng. còn gì phải lo lắng nữa. Chúng tôi mệt mỏi rồi. Yoshimi và Kazuko, hãy chăm lo mọi thứ. Toru Oda Setsuko Oda Nội dung rất ngắn, nhưng như vậy cũng đủ để rằng họ biết mình đối mặt với cái chết. Yoshimi và Kazuko có lẽ là hai người con khác của họ. Nhưng câu trước là để nhắn nhủ cho ai. Nghĩa của chúng là gì, họ xử lý những cuốn băng? Có phải ý họ là vứt chúng ? Chắc chắn thể hiểu là họ sao chép chúng. Ando quyết định thử hình dung lại tình trạng tâm lý của ông bà Oda từ đầu. Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười, con rể họ xuất trước cửa và với họ rằng tính mạng của Shizu và Yoko bị đe dọa bởi lời nguyền trong cuốn băng. Ông bà Oda đồng ý sao cuốn băng. Nhưng sau đấy, vào cùng ngày đó, Shizu và Yoko chết vào thời điểm được biết trước. Thậm chí nếu lúc đầu ông bà Oda có nghi ngờ về câu chuyện của Asakawa, giờ họ chắc chắn phải tin vào sức mạnh của cuốn băng. Rồi, sau lễ tang, họ biết được kết quả mổ tử thi: suy tim vì nguyên nhân thể giải thích được. Lúc này, ông bà Oda hẳn quyết định từ bỏ hy vọng tự cứu mình. Con và cháu họ mất mạng sống cho dù tuân theo cầu của cuốn băng. Ông bà Oda hẳn nghĩ rằng họ thể thoát được cái chết cho dù họ có làm gì nữa. Mệt mỏi vì mọi nỗ lực đều dẫn đến cái chết, và có lẽ chán nản về cuộc sống chung, họ quyết định sao cuốn băng và ngồi yên chờ đợi cái chết tiến đến. Nhưng nếu tin vào bức thư, trong khi chờ chết, họ "xử lý" cuốn băng là nguồn gốc của mọi đau khổ. có cách nào để Ando biết được họ xử lý cuốn băng như thế nào. Có lẽ họ xóa hoàn toàn và vứt chúng , hay họ chôn chúng trong sân. Trong trường hợp nào nữa, khi Ando thử vẽ sơ đồ đường của cuốn băng tờ giấy nháp, lúc đó quyết định nghiêng về giả thiết cuốn băng bị xóa. Đầu tiên có cuốn băng ở Villa Log Cabin, nhà số B-4, nguồn gốc của mọi tai họa, được tạo ra khi đầu máy VCR để chế độ ghi chụp được những hình ảnh lên cuốn băng. Asakawa mang cuốn băng về nhà mình và sao bản cho Ryuji. Đến lúc này có hai bản. Tuy nhiên, dường như bản sao Ryuji có tìm được đường đến tay Mai, và bị xóa gần như toàn bộ ngoại trừ mười giây đầu tiên. Trong khi đó bản sao do Asakawa giữ được chuyển cho trai ta là Junichiro, người này vứt nó cùng với chiếc đầu máy VCR bị hỏng. Bản gốc của Asakawa được sao thêm hai bản nữa, và được đưa cho ông bà Oda, nhưng hai bản sao này bị xử lý. Tóm lại, các cuốn băng chứa đựng lòng căm thù của Sadako Yamamura giờ biến mất khỏi trái đất. Ando xem xem lại sơ đồ hình cây mà tạo ra để chắc chắn là mình vẽ đúng. Nhưng thực cuốn băng dường như đến tuyệt diệt. Chỉ hai tháng sau khi nó xuất , kể từ cuối tháng Tám, nó giết chín nạn nhân, và giờ mối tai họa đó biến mất. Nhưng ... Ando nghĩ. Nếu cuốn băng giết tất cả những ai xem nó bất kể họ có sao chép hay , sớm muộn gì nó cũng đến tuyệt diệt. Chỉ bằng cách đe dọa nó mới có khả năng tái sinh, để thích nghi với môi trường và tồn tại. khi cái lối thoát duy nhất đó bị phát ra là dối trá, cuốn băng tránh khỏi bị dồn vào ngõ cụt. Nếu nó bị tuyệt diệt, nghĩ là người ta thấy những cái chết bí cuối cùng. Nếu còn ai có thể phơi nhiễm với những hình ảnh đó, còn phải lo có ai chết vì chứng suy tim khó hiểu nữa. Nhưng điểm cơ bản lại chiếm lấy tâm trí Ando. Tại sao Asakawa vẫn còn sống? Câu hỏi này lại được nối tiếp bởi câu hỏi khác. Mai Takano ở đâu? Theo logic, cuốn băng dường như biến mất. Nhưng linh tính của Ando phủ nhận điều đó. Chuyện này thể qua dễ dàng như thế được. Có điều gì ổn. PHẦN 3.3 Ando lấy chìa khóa tại bàn thủ thư, rồi vừa cởi áo jacket vừa đến tủ đựng đồ. Trời lúc này vẫn mùa đông. Bất cứ ai thấy , chỉ mặc mỗi áo sơ mi, rùng mình thay cho . Nhưng Ando dễ đổ mồ hôi, khi mặc áo sơ mi cũng cảm thấy nóng ngay cả trong phòng thư viện có máy điều hòa. lấy bút và sổ ra khỏi cặp, quấn áo jacket quanh cặp và nhét vào ngăn tủ. Trong cuốn sổ kẹp tờ giấy có bản phân tích ADN của virus tìm thấy trong máu Ryuji. Hôm nay Ando quyết tâm thúc đẩy việc giải mã, đó là lý do ở đây trong thư viện vào sáng sớm thế này, nhưng khi nhìn vào chuỗi ký tự vô nghĩa bản in, mắt đờ ra. cách nào để có thể giải được mật mã này. Nhưng nghĩ kỹ lại, làm việc này phần là để giết thời gian. thể nghĩ ra điều gì tốt hơn để vượt qua được ba ngày nghỉ cuối tuần trống trải. kẹp cuốn sổ vào dưới cánh tay và thẳng đến phòng đọc tầng ba, ở đó chọn chỗ ngồi cạnh cửa sổ. Là sinh viên từng chơi trò giải mật mã với Ryuji, ở nhà có khá nhiều sách về mật mã. Nhưng vì kết hôn và sau đó ly dị, chuyển nhà ba lần kể từ lúc ấy, còn chưa kể đến việc mất hứng thú với trò chơi này; những cuốn sách cứ biến mất dần theo thời gian. Có số loại mật mã nhất định mà thể hy vọng giải được mà có trợ giúp của bản thay thế ký tự và sơ đồ tần số xuất các chữ cái được trình bày trong những sách chuyên ngành, nghĩ chẳng thể làm được gì nếu có trợ giúp này. Và quả là ngớ ngẩn khi mua mới toàn bộ số sách đó, nên cuối cùng phải đến thư viện. có thời nắm khá chắc những kiến thức cơ bản về xây dựng và hóa giải các mật mã, nhưng đó là chuyện của mười năm trước đây, vì vậy trước hết đọc qua cuốn sách cơ bản về mật mã. quyết định rằng bước đầu tiên nên làm là quyết định xem loại mật mã nào chứa trong chuỗi bazơ của loài virus giống virus đậu mùa này. Nhìn chung mật mã có thể chia ra thành ba loại: mật mã thay thế, trong đó các chữ cái của thông điệp được thay thế bằng những chữ cái, biểu tượng hoặc con số khác; mật mã hoán vị, trong đó trật tự các từ trong thông điệp bị thay đổi; và mật mã chèn thêm, trong đó người ta chèn thêm số từ vào giữa các từ của thông điệp. Những số lòi ra từ bụng Ryuji sau khi mổ, mà Ando có thể liên hệ đến từ tiếng "ring" là ví dụ tiêu biểu của mật mã thay thế đơn giản. mất nhiều thời gian cũng đoán được rằng mật mã trong virus phải thuộc dạng mật mã thay thế. Cái phải xử lý là nhóm gồm bốn chữ cái, ATGC, tương ứng với bốn bazơ, vì vậy nhiều khả năng mật mã này bao gồm việc gán ký tự cụ thể cho nhóm các chữ cái. Như thế giống với mật mã nhất. Giống mật mã. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, nó khiến ngồi thẳng dậy và suy nghĩ. Mục đích cơ bản của mật mã là chuyển tải thông tin từ bên cho bên khác mà để bất cứ bên thứ ba nào có thể biết được. Đối với các sinh viên, mật mã chẳng là gì khác hơn trò chơi, thứ khiến người ta suy nghĩ nát óc. Nhưng, ví dụ trong chiến tranh, khi tính chất nhạy cảm với kết quả giải mật mã có thể làm dấy lên làn sóng xung đột, sử dụng mật mã "giống mật mã" là thực quá nguy hiểm. cách khác, cách để kẻ thù phá được mật mã là làm cho chúng giống như những mật mã nếu nhìn qua. Nếu bắt được tên gián điệp của kẻ thù và phát ra ta mang theo cuốn sổ có những dãy số đáng ngờ, có thể dám chắc đó là thông tin tối mật được mã hóa. Thậm chí cho phép khả năng đó chỉ là cái bẫy, khi mật mã được xác định như thế, khả năng nó bị hóa giải tăng lên đáng kể. Ando cố suy nghĩ cách logic. Nếu mục đích của mật mã là để tránh bên thứ ba khỏi biết được, mật mã chỉ nên "giống mật mã" đối với người mà thông tin được dự định được chuyển đến. Nhìn vào bốn hai chữ cái được thêm vào chuỗi bazơ của virus, Ando thấy chúng hoàn toàn giống mật mã. Đó là ấn tượng ngay từ lần đầu tiên nhìn vào dãy ký tự ấy. Vậy tại sao lại như thế? cố phân tích nguồn gốc của ấn tượng đó. Tại sao lại thấy nó giống-mật-mã? phải vì chưa bao giờ người ta phát thấy lặp lại khó hiểu đó trong quá trình phân tích trình tự ADN. Mà là vì, lặp lại đặc biệt này dường như mang ý nghĩa. Nó ra ở mọi nơi người ta nhìn vào chuỗi, cho dù người ta có cắt ra ở đâu. Nó giống như thể gây chú ý, bảo rằng, ta là mật mã đây, kẻ đần độn kia. Do Ando có kinh nghiệm với những con số lòi ra từ bụng Ryuji, nên thấy chuỗi ký tự ấy dường như giống mật mã cách đặc biệt. cách khác, có lẽ từ "ring" có hai mục đích khi nó chui ra ngay lúc ấy: nó chỉ nhằm cảnh báo cho Ando tồn tại của phóng Ring, mà nó cũng chính là dạng báo trước. Như thể Ryuji muốn với , có thể tôi dùng lại mật mã khi tình huống cho phép, cậu cứ chờ đợi và đừng bỏ lỡ. Và có lẽ ta dùng dạng mật mã thay thế đơn giản nhất như lời ám chỉ. Với chuỗi bazơ bí chỉ tìm thấy trong virus trong người Ryuji, có thể chắc chắn khi cho rằng chính ta là người gửi mật mã. Tất nhiên, thể chối cãi là Ryuji chết và thi thể ta hóa thành tro, nhưng mẫu mô của ta vẫn còn ở trong phòng xét nghiệm. Hàng vô số những mẫu ADN của ta, thiết kế tạo nên cá thể Ryuji, vẫn còn giữ lại trong các tế bào của mẫu mô đó. Nếu ADN đó kế thừa ý chí của Ryuji, và cố diễn tả điều gì đó bằng những con chữ sao? Đấy là giả thuyết vô lý hoàn toàn vô giá trị đối với nhà giải phẫu như Ando. Nhưng nếu thành công trong việc biến những ký tự kia thành những từ có nghĩa bằng phương pháp thay thế, nó thắng tất cả những lời giải thích khác về tình huống này. Theo lý thuyết, có thể lấy ADN từ mẫu máu của Ryuji và dùng nó để tạo ra cá thể giống hệt như Ryuji, người nhân bản vô tính. Tập hợp ADN này mang ý chí của Ryuji và gây ảnh hưởng đến virus có trong máu, chèn vào hoặc nhiều từ. Bỗng nhiên Ando cảm thấy thiên tài tuyệt đối và láu cá của Ryuji đằng sau chuyện này. Tại sao ta chỉ chèn thông điệp vào virus, kẻ xâm nhập, mà chèn vào tế bào hồng cầu của ta? Bởi vì, với kiến thức về y khoa của mình, Ryuji biết rằng ADN từ những tế bào khác có cơ hội nào được phân tích. biết rằng chỉ có thể dựa vào loại virus gây ra những cái chết, thông điệp mới được chạy qua máy giải mã ADN, nên ta tập trung nỗ lực vào ADN của virus. Do đó những từ mà ta gửi được tiếp nhận. Tất cả những điều đó cuối cùng dẫn Ando đến kết luận. Vì với mật mã này trông giống mật mã, nên về cơ bản nó hoạt động như mật mã thông thường. Mà chỉ vì ADN của Ryuji còn cách nào khác để giao tiếp với bên ngoài. Chuỗi xoắn kép ADN được tạo thành từ bốn bazơ, các bazơ này được biểu diễn bằng bốn chữ cái ATGC. Ando thể nghĩ ra cách nào khác để biết được thông điệp của nó ngoài việc kết hợp bốn chữ cái đó theo nhiều cách khác nhau. Cách này được chọn vì còn cách nào khác cả. Đây là biện pháp duy nhất sẵn có mà Ryuji có thể sử dụng. Bỗng nhiên mọi nỗi tuyệt vọng mà Ando cảm thấy cách đây vài giây biến mất, thay vào đó là tự tin phấn chấn. Có lẽ mình có thể giải được giải được mật mã này. muốn hét lên. Nếu ý chí của Ryuji, rơi rớt lại trong ADN của ta, cố với Ando, dường như rất có lý khi nghĩ rằng từ ngữ được sử dụng là những từ Ando dễ dàng hóa giải. Tại sao chúng phải khó hơn mức cần thiết? Ando quay lại và kiểm nghiệm dòng lý lẽ của mình để xem có kẽ hở nào trong suy luận của . Nếu bước đầu tiên sai, mãi lang thang mà bao giờ tìm ra câu trả lời. còn thấy việc mình làm là để giết thời gian nữa. Giờ đây, khi cảm thấy rằng mình thực có thể giải mã được thông điệp, nóng lòng muốn biết nó gì. Phần còn lại của buổi sáng, cho đến giờ ăn trưa, Ando làm việc với hai cách tiếp cận. Chuỗi bazơ mà phải xử lý là: ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA Vấn đề đầu tiên là nên phân chia các ký tự này như thế nào. thử chia chúng thành các nhóm hai ký tự và nhóm ba ký tự. Trước hết, nhóm hai ký tự: AT GG AA GA AG AA TA TC GT TA TA TT CC TC CT CC TC AA CA AC AA Coi cặp ký tự là đơn vị, bốn ký tự sẵn có cho mười sáu cặp kết hợp khả dĩ. tự hỏi liệu cặp có thể đại diện cho chữ cái . Nhưng điều này ngay lập tức dẫn đến câu hỏi khác: thông điệp này được viết bằng ngôn ngữ nào? Có lẽ phải là tiếng Nhật tượng hình. Tiếng Nhật có gần năm mươi ký tự, quá nhiều so với con số mười sáu mà phương pháp chia theo cặp đôi cho phép. Tiếng và tiếng Pháp đều có hai sáu chữ cái, trong khi tiếng Ý chỉ có hai mươi. Nhưng cũng biết mình thể bỏ qua khả năng thông điệp được viết bằng tiếng Nhật Latin hóa. Đôi khi việc xác định ngôn ngữ của mật mã chiếm nửa phần công việc. Nhưng với Ando vấn đề này được giải quyết. Việc có thể thay thế những con số 178136 để cho ra chữ "ring" có thể xem là gợi ý của Ryuji rằng mật mã tại cũng cho ra kết quả dưới dạng tiếng . Ando chắc chắn về điểm này. Do đó vấn đề ngôn ngữ được giải quyết. Bốn mươi hai chữ cái của các bazơ có thể chia ra thành hai mốt cặp. Nhưng có số cặp giống hệt nhau: có bốn cặp AA, ba cặp TA, ba cặp TC, và hai cặp CC. Chỉ có mười ba kiểu cặp đôi. Ando viết lại các con số lên tờ giấy và giở cuốn sách hướng dẫn giải mật mã đến khi tìm hiểu được biểu đồ trình bày tần số xuất của các ký tự trong bảng chữ cái tiếng . biết mặc dù bảng chữ cái tiếng có hai sáu chữ cái, phải tất cả các chữ cái đó xuất với số lần ngang nhau trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày. Ví dụ E, T và A là những chữ cái thường xuất , trong khi đó Q và Z có lẽ chỉ xuất hoặc hai lần trang sách. Hầu hết các tài liệu hướng dẫn giải mật mã đều có rất nhiều dạng bảng tần số xuất chữ cái được trình bày ở phần cuối, bên cạnh những số liệu thống kê tham khảo khác. Sử dụng các bảng và thống kê đó giúp xác định dễ dàng hơn ngôn ngữ của thông điệp được mã hóa. Trong trường hợp này, những số liệu trong các bảng cho biết rằng trong cụm từ tiếng có hai mốt chữ cái số lượng bình quân của các chữ cái khác nhau được sử dụng là mười hai. Ando ngồi thần ra. Cái có là mười ba chữ cái khác nhau, hề quá nhiều so với số bình quân. Điều này, xét về mặt thống kê, cho biết rằng chẳng có gì sai khi chia chuỗi bazơ ra thành hai mốt cặp và giả định mỗi cặp đại diện cho chữ cái. Cân nhắc khả năng đó lát, bước tiếp theo Ando chia chuỗi bazơ thành từng bộ ba chữ cái: ATG GAA GAAGAATAT CGT TAT CCT CCT CAACAA CAA ATT CCT Việc phân chia này cho mười bốn bộ ba, hay bảy kiểu bộ ba: ATG, GAA, TAT, CGT, ATT, CCT và CAA. Biểu đồ cho biết rằng cụm từ tiếng mười bốn chữ cái chứa bình quân chín chữ cái khác nhau. quá nhiều so với bảy chữ cái có. Ngay lập tức Ando nhận thấy rằng phân chia theo cách này có rất nhiều trùng lặp. GAA, CCT và CAA mỗi bộ xuất ba lần, và TAT xuất hai lần. Nhưng điều thực làm Ando băn khoăn GAA, CCT và CAA xuất ba lần liên tiếp. Nếu gán cho mỗi bộ ba chữ cái thuộc hệ alphabet, trong thông điệp ngắn ngủi này có ba trường hợp chữ cái xuất ba lần liên tiếp. Vốn tiếng của Ando đủ để biết rằng hai chữ cái trùng lặp đứng cạnh nhau hoàn toàn phải là hiếm. Nhưng thể nghĩ ra từ tiếng nào có ba chữ cái giống nhau đứng cạnh nhau. Khả năng duy nhất có thể nghĩ đến là tình huống trong đó từ kết thúc với hai chữ cái giống nhau, và từ tiếp theo bắt đầu bằng chính chữ cái đó, ví dụ "too old" hoặc "will link". cầm lên quyển sách tiếng tình cờ tìm thấy ở gần đó và bắt đầu kiểm tra ngẫu nhiên trang xem mức độ thường xuyên chữ cái xuất ba lần liên tiếp. giở qua bốn hay năm trang gì đấy mới tìm được trường hợp. kết luận rằng khả năng xuất này xảy ra ba lần trong chuỗi mười bốn chữ cái về cơ bản là bằng . Ngược lại, chia bốn hai chữ cái này theo các cặp đôi chỉ có chữ cặp ký tự đứng cạnh nhau. Do đó, thấy rằng hợp lý hơn khi theo lựa chọn đầu tiên và chia bazơ thành các nhóm hai chữ cái. thu hẹp các khả năng. Từ đây có thể tiếp tục bằng phương pháp thử và lỗi. AT GG AA GA AG AA TA TC GT TA TA TT CC TC CT CC TC AA CA AC AA Cặp AA xuất bốn lần, điều đó có nghĩa là nó tương ứng với chữ cái được dùng đến rất thường xuyên. Tham khảo bảng khác, Ando khẳng định chữ cái thường được dùng nhất trong tiếng là E. Do đó, giả sử rằng AA nghĩa là E. Cặp chữ phổ biến thứ hai trong dãy là TA và TC, mỗi cặp xuất ba lần. cũng nhận thấy TA đứng sau AA lần, còn AA đứng sau TC lần. Điều này có thể quan trọng, do cũng có những thống kê về kết hợp các chữ cái. bắt đầu thử các khả năng khác nhau của TA và TC, bằng cách tham khảo các bảng thống kê. Với những chữ thường đứng sau chữ E và cũng là những chữ phổ biến, chữ A dường như là ứng cử viên khả dĩ nhất, điều đó có nghĩa là TA có thể là A. Theo logic này, nghĩ TC có lẽ tương ứng với chữ T. Hơn nữa, theo cách kết hợp với các chữ cái khác, đoán CC có thể là N. Cho đến lúc đó, các số liệu thống kê dường như phục vụ cho rất tốt. Ít ra gặp phải trục trặc nào cả. Đây là những chữ cái tìm ra: ˍˍ E ˍˍ EAT ˍ AA ˍ NT ˍ NTE ˍˍ E Dãy bazơ, từng là mớ chữ cái lộn xộn, giờ dường như có vẻ giống với tiếng . Bước tiếp cố điền vào những chỗ trống bằng cách dựa những điều biết về kết hợp giữa các phụ - nguyên , và vẫn tham khảo các bảng. SHERDEATYAALNTINTECME Ba chữ cái đầu tiên dường như tạo thành chữ "she", nhưng những chữ còn lại lập thành chữ nào cả, cho dù có chia ra như thế nào. cố đảo vị trí của các chữ E, A, T, N và thay đổi các chữ cái khác dựa vào linh cảm. Khi việc viết những khả năng ra giấy trở nên quá mất thời gian, xé những tờ giấy ra khỏi cuốn sổ, trước hết là để tạo ra hai sáu cái thẻ, mỗi thẻ ứng với chữ cái. Mọi việc bắt đầu giống như trò chơi. THEYWERBORRLNBINBECME Khi sắp xếp như thế này, cụm từ đầu tiên nảy ra trong đầu Ando là "they were born". biết phần chính tả có đôi chút sai lệch, nhưng có lẽ cũng quá sai. Vả lại thấy ý nghĩa của nó có phần nào hợp lý. Nhưng cảm giác rằng tồn tại đâu đó cách sắp xếp khác hợp lý hơn, nên tiếp tục trò chơi. Sau khoảng mười phút mày mò, Ando nghĩ có thể đoán ra kết quả như thế nào, nên dừng lại. Nếu như bên cạnh có máy vi tính, mọi việc dễ dàng hơn rất nhiều, nghĩ. Những chữ cái thứ ba, sáu, tám và hai mốt giống nhau. Chữ thứ bảy, mười và mười giống nhau. Chữ thứ tám, mười bốn và mười bảy giống nhau. Chữ thứ mười ba và mười sáu giống nhau. Cụm từ dài hai mốt chữ cái. Nếu lập các điều kiện đó và đưa vào máy tính, có lẽ nó cho ra kết quả, với điều kiện có điều chỉnh phù hợp về chữ cái thường được sử dụng. Nhưng chắc chắn máy tính cho ra nhiều kết quả khả dĩ. Hẳn là phải có vô số cụm từ có nghĩa trong tiếng thỏa mãn những điều kiện ấy. Làm sao có thể cụm từ nào là thông điệp Ryuji gửi cho ? Chỉ khi có dấu hiệu nào trong đáp án có thể cho biết ngay khi nhìn qua rằng đó là thông điệp của Ryuji, giống như kiểu chữ ký vào cuối bức thư. Nhưng nếu có, lạc lối. Ando nhận ra rằng ở vào ngõ cụt. gục đầu, thấy mình ngu ngốc vì đến giờ mới nhận ra điều này. Nếu trở lại thời sinh viên, khi linh cảm giải mật mã của được mài giũa sắc bén hơn, nắm được thông điệp này trong hay vài phút. phải thay đổi cách suy nghĩ. cần giả thiết mới. Ando mải mê đến nỗi còn chú ý đến thời gian trôi qua. nhìn đồng hồ, thấy gần giờ chiều. đói. đứng dậy, định ăn ở quán ăn tầng bốn. Thay đổi quang cảnh xung quanh có thể tốt cho . Phương pháp loại suy cùng cảm hứng: cần cả hai nếu muốn tìm ra đáp án. Và thường tìm được cảm hứng trong khi ăn. Đáp án rồi phải ràng thôi. lẩm nhẩm như niệm thần chú trong khi lên tầng bốn. PHẦN 3.4 Vừa ăn trưa, Ando vừa nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm cây cối bên dưới, ngắm những đứa trẻ chơi xích đu và bập bênh trong công viên. hơn giờ, khi đến, quán ăn đông nghịt, nhưng bây giờ có nhiều ghế trống. Bản in chuỗi bazơ nằm bàn cạnh khay nhôm của , nhưng nhìn vào đó. bức tường của quán ăn có những cửa sổ cao từ sàn lên trần, vì vậy có gì cản tầm mắt ngắm bọn trẻ vui chơi. Giống như xem bộ phim câm. Mỗi khi thấy cậu bé tầm năm tuổi, ánh mắt Ando lại tập trung vào đó. Ando hề nhận ra là mình nhìn chằm chằm cậu bé, và phải mất vài phút mới thoát ra khỏi trạng thái ấy. có lần đến thư viện cùng con trai. Đó là ngày Chủ nhật cách đây hai năm, khi còn sống ở căn hộ Nam Aoyama. Ando đột nhiên nhớ ra cần tìm số dữ liệu cho bài thuyết trình định trình bày tại buổi hội thảo nghiên cứu, cho nên quyết định đến thư viện. dắt Takanori theo. Nhưng khi đến nơi, ở lối vào có tấm biển đề TRẺ EM DƯỚI 18 TUỔI ĐƯỢC VÀO. thể yên tâm bắt thằng bé đợi ở ngoài trong khi nghiên cứu, do đó từ bỏ ý định và cùng chơi với con trong công viên. vẫn còn nhớ mình đứng sau ghế xích đu, đẩy cho Takanori; còn nhớ cả nhịp đung đưa của ghế đu. Chính cái xích đu đó giờ đung đưa, dưới tán lá vàng của cây bạch quả. thể nghe thấy thanh, thậm chí thể thấy biểu nét mặt của lũ trẻ khi chúng lần lượt duỗi chân ra rồi co chân lại. Nhưng trong đầu , vẫn nghe tiếng con mình. Nhưng lại lan man rồi. quay lại nhìn trang giấy và cầm bút lên. đến lúc phải trở lại với những kiến thức cơ bản về giải mã. có cách nào khác để phá mật mã này ngoài việc đưa ra nhiều giả thiết, và rồi theo từng giả thiết . Khi giả thiết trở nên ràng là sai, điều tốt nhất nên làm là nhanh chóng bỏ qua nó và chuyển sang giả thiết khác. Với thông điệp chỉ có hai mốt chữ cái, thể chỉ dựa bảng tần số xuất các chữ cái và quy tắc kết hợp chúng. Thực , nếu mật mã phức tạp đến mức đòi hỏi giải pháp chuyển đổi đặc biệt, có nguy cơ là nó quá khó, và trong trường hợp ấy nó thể chuyển tải cái mà nó muốn chuyển tải. , chỉ cần lần qua hết các giả thiết theo phương pháp loại suy. Nếu giả thiết là sai, cần bỏ qua nó, chỉ có thế thôi. Tuy nhiên còn giả thiết khác mà Ando nghĩ bỏ qua quá sớm. chợt nghĩ mật mã này có thể là phép đảo chữ cái. ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT CCT CCT CAA CAA CAA ATT CCT bỏ qua cách tiếp cận này bởi vì nó dẫn đến lặp lại ba lần của cùng chữ cái, điều bất thường trong tiếng . Nhưng nếu chính những ký tự đó cần được sắp xếp lại? nghĩ đến trường hợp mà từng đọc, trong đó câu "Bob opened the door" được mã hóa thành OOOOEEEBBDDTPNHR. Dĩ nhiên, chuỗi có quá nhiều ký tự lặp lại thể tạo thành cụm từ có nghĩa trong tiếng , nhưng khi sắp xếp lại theo những quy tắc nhất định, nó cho ra câu hoàn toàn bình thường. Điều này có thể có tác dụng, nghĩ. Nhưng ngay khi chuẩn bị bắt tay vào việc, dừng lại. cũng có thể biết được điều này dẫn đến đâu. Nếu những cần xác định từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào, mà còn phải tìm cách để sắp xếp lại các ký tự, nhiệm vụ ấy đột nhiên trở nên khổng lồ. Và chỉ là vấn đề thời gian. Nếu có chìa khóa ở dưới dạng nào đấy, rốt cuộc gặp phải vấn đề mà gặp lần trước: có quá nhiều giải pháp khả dĩ mà biết chọn giải pháp nào. nghĩ về những chữ số dẫn đến chữ "ring" và phân vân, liệu chúng có thể là dạng chìa khóa , để chỉ cho theo đúng trật tự sắp xếp các chữ cái. Nhưng trước hết còn phải tìm ra từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào. ngõ cụt nữa. Mình cần góc độ xem xét hoàn toàn mới , Ando tự nhủ. cố tiếp tục với phương pháp loại suy, nhưng có cảm giác như lặp lặp lại cùng việc. Có lẽ quá ràng buộc với ý tưởng gán mỗi cặp hai hoặc ba bazơ tương ứng với chữ cái tiếng . Đáp án phải là cái gì đấy ràng, cái mình có thể tìm ra mà phải trải qua quá trình dài và phức tạp. cảm thấy tập trung của mình chùng xuống, mắt lơ đễnh nhìn ra ngoài trang giấy. Đột nhiên nhận ra mình nhìn mái tóc của thiếu nữ ngồi cùng bàn ở đầu bên kia. Khi ngả đầu xuống như thế, trông giống Mai Takano, đặc biệt là phần trán. Bây giờ ấy ở đâu? lo lắng cho an nguy của , đặc biệt khi nghĩ đến việc từng là người tình của Ryuji. Có thể nào Ryuji thông qua mật mã này cố cho mình biết ấy ở đâu? xem xét khả năng đó lúc, nhưng rồi loại bỏ nó bằng nụ cười chế giễu, vì thấy quá ư là giống truyện tranh. trẻ con khi tưởng tượng mình là thám tử nổi tiếng cứu nữ nhân vật chính thoát khỏi tình huống nguy hiểm chết người. Đột nhiên Ando thấy toàn bộ chuyện này ngớ ngẩn. Có thể đây hoàn toàn phải là mật mã. Có lẽ có giải thích hoàn toàn khoa học về việc làm thế nào các chuỗi bazơ đó có trong ADN của virus. Khi thừa nhận khả năng đó, Ando cảm thấy niềm say mê giải mã của hoàn toàn biến mất. Có phải chỉ giết thời gian? Thế mà làm việc cật lực với nó. Ánh mặt trời sắp lặn nhuộm vàng lông cánh tay . Mọi hăm hở sáng nay giờ biến mất. nghĩ đến việc chuyển sang ngồi ghế khác, nơi mặt trời chiếu vào , và nhổm dậy. Tuy nhiên, khi nhìn quanh, thấy bao quanh mình toàn là bọn trẻ, những sinh viên đại học hoặc học sinh trung học ôn thi đại học, tất cả đều ngập trong hàng núi sách vở. Chuyển sang chỗ khác giúp lấy lại được tập trung. Toàn bộ phòng đọc chìm trong khí uể oải. Ando lại ngồi xuống chỗ cũ. Hãy suy nghĩ cách logic nào , tự nhủ. Phải có công thức nào đó. ngồi thẳng dậy. và cố gán những bộ ba bazơ cho các ký tự trong bảng chữ cái, nhưng việc đó tạo thành công thức nào cả. Nếu có thể chuyển nó thành hàm số song ánh, hoặc thậm chí hàm số toàn ánh, câu trả lời trở nên ràng. Song ánh, có lẽ là toàn ánh... Chắc chắn cần phải tìm ra công thức như thế. đứng dậy. cách logic, còn cách nào khác cả. Linh tính mách bảo rằng tiến thêm bước gần tới đáp án, và nhận thức đó thổi bay mọi mệt mỏi trong , thúc đẩy hoạt động. bước đến gian sách khoa học tự nhiên, tìm cuốn về ADN, và bắt đầu điên cuồng lật trang. Khi phấn khích trỗi dậy, bàn tay lại đổ mồ hôi. Cái mà tìm là bảng trình bày từng bộ bazơ tạo ra axit amin nào. Cuối cùng cũng tìm được bảng như thế. mang cuốn sách về đặt ngay ngắn bàn, giở đến trang có bảng đó, để cạnh thông điệp mã hóa. Khi bộ bazơ, codon, tạo ra protein, codon được dịch thành axit amin. Bảng Ando tìm thấy có chứa những nguyên tắc phiên dịch các axit amin. Có hai mươi loại axit amin. Có bốn bazơ, nghĩa là có thể tạo ra sáu mươi tư bộ ba khác nhau. Sáu mươi tư bộ ba chỉ đại diện cho hai mươi axit amin, nghĩa là có khá nhiều trùng lặp. Đây là ánh xạ toàn ánh. Mỗi bộ ba bazơ biểu thị cho axit amin này hoặc axit amin khác (hoặc mã kết thúc). Tham khảo bảng, Ando viết ra tên viết tắt của các axit amin ngay dưới bốn mươi hai bazơ của mật mã. ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT ATT CCT (Met) (Glu) (Glu) (Glu) (Tyr) (Arg) (Tyr) (Ile) (Pro) CCT CCT CAA CAA CAA (Pro) (Pro) (Gln) (Gln) (Gln) Tiếp theo, lấy chữ cái đầu tiên của từng axit và xếp chúng thành dòng: MGGGTATIPPPGGG Nhưng dòng chữ này có nghĩa gì cả. Và vẫn gặp phải trường hợp có ba chữ cái liên tục. Dù thế nào có vẻ vẫn phải tìm ra cách làm gì đó với chúng. Phải có cách giải thích khác. Ví dụ lặp lại ba lần liên tiếp chữ cái hai chữ đầu tiên được hiểu là khoảng cách giữa các từ. thử cách đó: MG TATIP G Cũng phải là tiếng . Nhưng ngay lập tức, Ando cảm thấy mình sắp đến nơi. Có thể tiến gần đến đáp án. biết tại sao, nhưng cảm thấy trong chốc lát nữa thôi có thể tìm ra từ có nghĩa. Met, Pro và Gln là những chữ lặp lại ba lần. cố viết chúng theo cách khác: Met Glu (x3) Tyr Arg Tyr Ile Pro (x3) Gln (x3) nhìn chăm chú danh sách này trong khoảng phút, và rồi thấy từ tiếng mà biết. chợt nhận ra các codon lặp lại ba lần đó ám chỉ "số ba" mà là "thứ ba". Nhưng trong này là chữ cái thứ ba tên viết tắt của axit amin. cách khác: M et Glu T yr A rg T yr I le Pro Gln Điều đó có nghĩa đáp án là: Mutation. Quên mất mình ở đâu, Ando bật lên tiếng kêu. Câu trả lời duy nhất mà có thể tìm ra là đây, kết quả của logic, phương pháp loại suy. Nó là câu trả lời ràng, đơn giản và hẳn là đúng. Nhưng vẫn gục đầu. biết nghĩa của từ tiếng "mutation" - tức là biết nó có nghĩa gì trong tiến hóa sinh học. Nhưng hoàn toàn có chút ý tưởng gì về việc phải hiểu nó như thế nào trong tình huống tại. Cậu cố cái quái gì thế hả Ryuji? bật ra câu hỏi đó. Nhưng thậm chí trong đầu mình, Ando có thể nghe giọng run lên phấn khích vì giải mã được thông điệp. PHẦN 3.5 ra sảnh, tìm chiếc điện thoại công cộng, rồi quay số nhà Miyashita. ngờ là bạn mình có nhà vì là tối thứ Bảy, ngay giữa kỳ nghỉ cuối tuần ba ngày, nhưng lạ quá, Miyashita ở nhà cùng gia đình. Ando có thể báo cho Miyashita biết nghĩ mình giải được mật mã. Ando đoán Miyashita có lẽ ở phòng khách kiêm phòng ăn; thực ra, có thể tưởng tượng cảnh vợ con Miyashita chuẩn bị bữa tối. Dù Miyashita đặt tay che ống để chặn tiếng ồn trong nhà, nhưng vẫn thể ngăn nổi dấu hiệu của cuộc sống gia đình yên ấm lọt qua đường dây. "Cừ lắm! Rất tuyệt. Nó gì?" Giọng Miyashita vốn rất to rồi, lại thêm tay của ta che quanh ống , thanh càng vang to hơn trong tai Ando. "À, phải là câu. Chỉ có từ." "Ừ, vậy là chỉ có từ duy nhất. Thế từ đó là gì?" "Mutation." "Mutation?" Miyashita nhắc lại từ đó nhiều lần, như thể cố định lượng nó. "Cậu có ý tưởng gì về ý nghĩa của nó ?" Ando hỏi. "Tôi biết. Còn cậu? Có ý ?" "Chẳng ý gì sất." "Này. Sao cậu đến đây?" Miyashita sống trong khu chung cư trang nhã ở Bắc Terao, quận Tsurumi, Yokohama. Ando phải bắt tàu di Shinagawa rồi chuyển sang tuyến Keihin Express, nhưng có thể đến đó trong vòng chưa đầy giờ. "Được thôi." "Gọi cho tôi khi cậu đến nhà ga. Tôi biết quán ba rất hay gần ga, ở đó ta có thể vừa nhậu vừa chuyện." con ở độ tuổi nhà trẻ của Miyashita dường như đoán được bố nó sắp ra ngoài. Nó níu hông ta nài nỉ, "Bố ơi! Bố ở nhà !" Chẳng để ý đến Ando, Miyashita lấy tay che ống và mắng bé. Ando có thể nghe thấy ta tha điện thoại quanh nhà, cố tránh xa khỏi con . Ando thấy có lỗi, cho dù phải là người đầu tiên đưa ra ý tưởng ra ngoài. Đồng thời, còn có cảm giác mất mát và ghen tị cách khó tả. "Để lúc khác cũng được, nếu cậu muốn." Nhưng Miyashita chịu. " đời nào. Tôi muốn nghe tất cả chi tiết. Dù sao, hãy gọi cho tôi ở nhà ga, tôi đến đó ngay." ta gác máy, chờ Ando trả lời. Thở dài bất lực, Ando rời thư viện đến ga tàu điện ngầm, những thanh yên ấm trong ngôi nhà người bạn vẫn còn văng vẳng bên tai. Ando tuyến Keihin Express kể từ hôm ghé thăm căn hộ của Mai tám ngày trước. Đâu đó gần nhà ga Kita Shinagawa, con tàu chạy ở tuyến đường sắt cao. nhận ra mình nhìn xuống những ngôi nhà và bảng hiệu neon. Sáu giờ tối, ngày cuối tháng Mười , trời tối đen. Hướng mắt nhìn ra phía cảng, thấy những chung cư cao tầng Yashio ở hai bên kênh đào, những cửa sổ sáng tối xen kẽ tạo thành họa tiết bàn cờ. Số lượng cửa sổ tối đèn đáng ngạc nhiên trong buổi tối cuối tuần. Ando thấy mình cố tìm những con chữ trong những họa tiết tạo nên ánh sáng và bóng tối đó; bộ não gần đây làm việc quá nhiều với mật mã. Từ trong vô số tòa nhà, nghĩ nhìn thấy từ phiên ko - trẻ con? - nhưng tất nhiên nó chẳng có nghĩa gì cả. Mutation, mutation . vừa liên tục lẩm nhẩm từ đó vừa nhìn xa xăm. hy vọng có lẽ càng lẩm nhẩm từ đó nhiều ý định của Ryuji càng trở nên ràng hơn. nghe tiếng còi inh tai từ xa vọng lại. Con tàu chạy vào nhà ga và dừng lại ở đó; có thông báo cầu tàu dừng lại chờ cho chuyến tàu cao tốc chạy qua. Ando ở toa cuối. ngó đầu ra cửa để nhìn tên nhà ga. Chắc chắn đây là nơi Mai sống. Từ tàu có thể nhìn thấy con phố phía ngoài nhà ga, dọc theo phố là các cửa hàng, và dựa những ký ức cách đây tám ngày bắt đầu tìm căn hộ của Mai. nhớ khi đứng trước phòng và nhìn ra cửa sổ, thấy nhà ga tàu Keihin Express đúng ngang tầm mắt. có thể thấy mọi người đứng đợi ở ga, nghĩa là từ đây có thể nhìn thấy căn hộ của . Nhưng thể nhìn khi đứng bên trong tàu nên đứng dậy. dọc xuống cuối sân ga và ngửa đầu lên nhìn qua hàng rào. Khu phố buôn bán chạy dài về phía Đông và tạo với đường ray thành góc vuông. Cách quá ba mươi mét, thấy ngôi nhà bảy tầng quen thuộc. Đột nhiên, nghe thấy tiếng tàu tốc hành chạy tới từ phía Shinagawa. khi nó chạy qua, chuyến tàu nội thành mà Ando đóng cửa và tiếp tục theo hướng Kawasaki. Ando vội tìm cửa sổ căn hộ của Mai. biết sống ở phòng 303, và đó là cánh cửa thứ ba nhìn từ bên phải. Giờ chuyến tàu tốc hành qua, và chuông báo chuyến tàu nội thành sắp khởi hành. Ando nhìn đồng hồ. Mới hơn sáu giờ. Miyashita có lẽ giờ này ăn tối với gia đình. muốn đến quá sớm và quấy rầy giây phút sum họp gia đình quý giá của họ. nhận ra còn sớm hơn ba mươi phút so với dự kiến, nên quyết định bắt chuyến tàu sau. để tàu chạy mà có . Các cửa sổ tầng ba ít nhiều ngang tầm với sân ga nơi đứng. nhìn cẩn thận vào từng cửa sổ , nhưng cái nào sáng đèn. Vậy là ấy ở đó . Đó là hy vọng yếu ớt, dễ dàng tan biến . Rồi, khi vừa định quay , ánh mắt bị giữ lại bởi dải màu xanh nhạt phát ra từ cửa sổ thứ ba về phía bên phải. nheo mắt nhìn, tự hỏi có phải mình tưởng tượng ra, nhưng nó có , phất phơ như lá cờ màu xanh nhạt. Ánh sáng rất yếu ớt, thoắt thoắt , đến mức có lẽ nhận ra nếu nhìn chăm chú. rướn người về phía trước, nhưng nó ở quá xa. thể nhìn được. muốn quay trở lại căn hộ của . Việc này chắc chỉ mất chừng hai mươi phút, và vừa kịp giờ chuyến tàu tiếp theo. do dự thêm phút nào nữa, bước qua cửa soát vé và vào con phố bên dưới. Chỉ khi đứng ngay dưới cửa sổ phòng , ngước nhìn lên đó, mới có thể nhận ra ánh sáng lạ ấy là gì. Cửa sổ mở, rèm đăng ten trắng bay ra ngoài, nhảy múa trong gió , và ánh sáng từ bảng hiệu đèn neon của hãng cho thuê ô tô phía bên kia đường phản chiếu lên màu trắng muốt của tấm rèm. Đôi khi những màu cơ bản chiếu lên vải trắng phát ra màu giống như huỳnh quang, điều đó giải thích cho dải sáng màu xanh nhạt mà thoáng thấy lúc ở nhà ga. Dù vậy, cảnh tượng này vẫn có điều gì đấy khiến Ando thấy ổn. Cửa sổ mở và rèm cửa buông nửa chừng khi vào nhà tám ngày trước, nhưng nhớ là đóng cửa và kéo rèm sang bên trước khi rời khỏi đó. biết để cửa sổ mở. Nhưng còn điều làm băn khoăn hơn nữa. Vào buổi tối đầu mùa đông thế này thể có gió được. Thế mà rèm cửa vẫn bị thổi bay gần như ngang với thanh treo rèm. Luồng gió đó bắt nguồn từ đâu? nghe thấy tiếng gió. Lá cây dọc bên đường rung rinh. Thế mà ngay bên những cành cây chút lay động kia, tấm rèm cửa nhảy múa. Cảnh tượng thường đến mức kỳ quái. Nhưng có khách bộ hành nào ngước nhìn lên; dường như có ai nhận ra tượng kỳ lạ này. Cách giải thích duy nhất mà Ando có thể nghĩ ra là lý giải cơ học. Có lẽ chiếc quạt thổi trong căn phòng, tạo ra luồng gió nhân tạo hướng ra ngoài. Nhưng tại sao? Trí tò mò của nổi lên. vòng lại để tới sảnh. Cách duy nhất để tìm ra là vào phòng đó lần nữa. Viên quản lý dường như nghỉ làm. Rèm cửa ở quầy trong văn phòng kéo xuống. Cả tòa nhà tĩnh lặng, dấu hiệu có người quanh đây. thang máy lên tầng ba, rồi bộ đến phòng 303. Càng đến gần bước chân càng và chậm hơn. Bản năng mách bảo quay lại, nhưng cần phải biết. Cửa ra hành lang bên ngoài mở, và xa hơn nữa có thể thấy cầu thang hình xoắn ốc dùng trong trường hợp khẩn cấp. Nếu xảy ra chuyện gì, có lẽ mình nên dùng thang máy. Có lẽ mình nên chạy xuống cầu thang... Ando thấy mình dự tính con đường tẩu thoát mà biết chính xác sợ cái gì. đến cánh cửa đánh số 303. Dưới chuông cửa là bảng đỏ ghi TAKANO. Mọi thứ đều giống như lúc trước. Ando lại gần để nhấn chuông, nhưng rồi nghĩ lại. kiểm tra xem hành lang có ai , rồi áp sát tai vào cửa. nghe thấy thanh nào, chắc chắn có tiếng động cơ quạt điện. thắc mắc liệu lúc này tấm rèm còn bay lất phất ngoài cửa sổ . nghe được gì phía sau cửa, khó mà tin được là nó còn bay. "Mai." Thay vì nhấn chuông, khẽ gọi tên , rồi gõ cửa. có tiếng trả lời. Mai xem cuốn băng, tự nhủ. Và , hoặc là ai đó, ghi đè lên cuốn băng ấy, chỉ hai ngày trước khi Ando đến. Ngày thứ năm kể từ khi biến mất. Ai làm điều đó, và tại sao? Đột nhiên, Ando có thể cảm nhận lại da mình bầu khí kỳ lạ của căn phòng, giống như bên trong thi thể. Nước ở đáy bồn tắm, tiếng chảy giọt, cảm giác có gì chạm lên Lỗi hệ thống của . Ando lùi xa cái cửa. Dù sao bốn bản của cuốn băng quỉ quái đó biến mất khỏi trái đất. Cuộc khủng hoảng kết thúc. Chắc chắn người ta sớm tìm thấy thi thể Mai. Loay hoay ở đây thêm nữa cũng chẳng giúp thay đổi được gì, Ando tự nhủ khi bắt đầu quay trở lại thang máy. lại muốn thoát ra khỏi chỗ này, thậm chí mà chưa tìm ra lời giải thích. chắc tại sao, nhưng dường như lần nào đến đây cũng cảm thấy như thế này. nhấn nút gọi thang máy. Trong khi chờ, vẫn lặp lặp lại trong đầu, mutation, mutation. muốn nghĩ đến cái gì khác, bất cứ cái gì. Thang máy dường như bao giờ đến. Từ hành lang phía bên phải, nghe dội lại tiếng tách do xoay ổ khóa. Ando cứng người. Thay vì xoay người lại nhìn, chỉ quay đầu vừa đủ để nhìn qua khóe mắt. thấy cửa phòng 303 từ từ mở ra. có thể nhìn thấy cái bảng đỏ: cần nghi ngờ đó là cánh cửa phòng nào nữa. cách vô thức, Ando nhấn nút thang máy liên tục. Thang máy cứ nằm ở tầng trệt lâu đến tuyệt vọng. Thấy bóng người xuất từ ngưỡng cửa, Ando gồng mình. trong chiếc đầm xanh mùa hè. ta lấy chìa khóa trong túi xách và khóa cửa, Ando có thể thấy khuôn mặt nghiêng của . Ando dò xét khuôn mặt. ta đeo kính râm, dù vậy, chắc chắn đó phải là Mai. Là người khác. chẳng có lý do gì để sợ cả, nhưng lúc đó cơ thể nằm ngoài tầm kiểm soát của tâm trí rồi. Cửa thang máy mở ra, Ando luồn vào trong. định nhấn nút CLOSE, nhưng vô tình nhấn phải nút OPEN. Cuối cùng, sau vài giây, cửa cũng bắt đầu đóng. Rồi, vào giây cuối, bàn tay trắng len vào khe hẹp giữa hai cánh cửa, khiến cửa lại mở ra. đứng đó. Đôi kính râm che giấu mọi biểu trong mắt, nhưng Ando có thể thấy khoảng tầm hai lăm, với các đường nét hài hòa tuyệt mỹ. tay đặt lên mép cửa, ta bước vào thang máy, nhấn nút đóng, rồi chọn số để xuống tầng . Ando bồn chồn nhích dần ra phía sau cho đến khi lưng và khuỷu tay chạm vào thành thang máy và chỉ đứng đầu ngón chân. Từ vị trí đó, nhìn chằm chằm vào người phụ nữ lạ, người bước ra từ phòng 303, và hỏi ta câu duy nhất từ phía sau: " là ai?" mùi lạ, phải nước hoa, xông vào mũi khiến nhăn mặt và nín thở. Có thể là mùi gì? Mùi giống như chứa sắt, giống mùi máu. Tóc dài ngang lưng, và bàn tay đặt thành thang máy trắng đến mức gần như trong suốt. Nhìn kỹ hơn, móng tay ngón trỏ của ta nứt ra. Chiếc váy quá mỏng, có ống tay, phù hợp để mặc vào mùa này. Hẳn ta lạnh cóng. ta bít tất dài, chân chỉ có đôi giày vải. có thể nhìn thấy những vết thâm tím chân. Điều này khiến ghê tởm, nhưng biết tại sao. Dù rất cố gắng, cũng thể chặn nổi cơn run rẩy dồn lên từ sâu thẳm trong mình. Bị đóng kín trong buồng thang máy bé mình với kia, Ando thấy thời gian trôi qua quá chậm chạp. Cuối cùng, họ xuống đến tầng , Ando nín thở cho đến khi cửa mở. bước thẳng ra sảnh qua phố. Trông ta cao chừng hơn mét rưỡi, dáng cân đối. Chiếc váy ôm sát người ngắn đầu gối chừng năm centimet, làm nổi bật bộ hông tuyệt đẹp, bước của ta cũng uyển chuyển. Bắp chân lộ ra trắng cách đặc biệt, tất để che , làm cho những vết thâm tím càng nổi bật hơn. Trời đêm lạnh đến mức mọi người khác đường đều mặc áo khoác, vậy mà ta lại ra đường mặc gì ngoài chiếc váy hè tay. Ando ra khỏi thang máy rồi đứng lại lúc, dõi theo trong bóng đêm.
PHẦN 3.6 Ando đợi Miyashita trước ngân hàng như được dặn. Giờ là buổi tối cuối tuần, ngân hàng đóng cửa. Khi những cánh cửa kim loại kéo xuống, khu vực trước ngân hàng trông yên bình cách kỳ lạ. Bóng đêm ở đây dễ chịu, nhưng trong lúc chờ đợi Miyashita xuất , thể xóa hình ảnh ở căn hộ 303 trong đầu. cố gắng quên, nhưng hình ảnh khắc sau vào võng mạc . Suốt từ lúc vừa bộ vừa gà gật ngủ từ căn hộ của Mai đến nhà ga, rồi từ ga Tsurumi đến đây, vẫn nhìn thấy ta trong đầu. ta là ai? Lời giải thích hợp lý nhất nghĩ ra là chị của Mai vì lo lắng cho em nên đến thăm. Chính Ando gọi điện cho mẹ Mai và cho bà biết sơ qua những gì phát được. Nếu Mai có người chị , và nếu ấy cũng sống ở Tokyo, chẳng có gì lạ khi gặp ở căn hộ của Mai. Nhưng ở toát ra vẻ rất khó diễn tả, nó phủ nhận câu trả lời dễ dãi đó. Việc cùng thang máy với khiến Ando rùng mình đến tận đáy tâm can. ta dường như thuộc về thế giới này, nhưng trông ta cũng giống bóng ma. ta chắc chắn ở đó với bằng xương bằng thịt. Nhưng Ando nghĩ dễ dàng chấp nhận hơn nếu ta là hồn ma. nhìn thấy luồng sáng phát ra từ sau tòa nhà hỗn hợp văn phòng - chung cư, chiếu thẳng vào . "Ê, Ando!" Ando nhìn về phía ánh đèn, nhận ra đó là Miyashita lao về phía chiếc xe đạp mini của phụ nữ, có gắn giỏ đựng đồ. Chắc là ta mượn xe đạp của vợ. Với tiếng phanh kít, ta dừng lại trước mặt Ando. Miyashita thở dốc đến mức nên lời. ta đứng đó, hai chân giạng ra xe, khuỷu tay để ghi-đông, đầu ngụp lên ngụp xuống để thở. Ando chưa bao giờ nghĩ nhìn thấy Miyashita chiếc xe đạp. Vận động sức lực dù chỉ chút cũng khiến ta thở hổn hển. "Nhanh thế." Ando nghĩ phải chờ ít nhất là mười phút. Miyashita chưa bao giờ đến sớm vì bất cứ chuyện gì cả. Sau khi dựng xe bên vệ đường trước nhà ga, Miyashita vòng tay qua lưng Ando và dẫn vào ngõ hẻm, trong đó dường như mọi ngôi nhà đều treo đèn lồng đỏ mái hiên. Nhịp thở của ta cuối cùng dịu xuống chút, và khi họ , ta với Ando. "Tôi nghĩ tôi biết 'mutation' có nghĩa là gì rồi." Điều đó giải thích tại sao Miyashita lại xe đạp đến. ta nóng lòng muốn cho Ando biết. "Nghĩa là gì?" "Uống bia trước ." Khi họ ngồi xuống dưới mái hiên cửa hàng, Ando để ý đó là cửa hàng Lưỡi Bò. Miyashita bận tâm hỏi Ando muốn dùng gì, thay vì thế, ngay khi họ vào quán, ta gọi hai cốc bia tươi và món lưỡi bò ướp muối. Hình như Miyashita quen chủ quán. Họ chào nhau, tỏ vẻ quen biết khi Miyashita và Ando tiến đến hai ghế ở cuối quầy bar. Đó là chỗ ngồi yên tĩnh nhất trong quán. Đầu tiên Miyashita hỏi Ando làm gì để tìm ra mật mã được chèn vào trong virus của Ryuji. Ando lấy bản in trong cặp ra và bắt đầu giải thích những bước mình thực . Miyashita gật đầu lia lịa. Trước khi Ando hết nửa, Miyashita dường như bị thuyết phục bởi hợp lý trong phương pháp của . "Có vẻ như 'mutation' chính là câu trả lời. Bằng chứng về đúng đắn trong cách tiếp cận của cậu là nó chỉ cho đáp án duy nhất." Miyashita vỗ vai Ando. "Nhân thể tôi chắc là cậu nhận ra tất cả điều này tương đồng với cái gì?" "Ý cậu là sao?" Miyashita lấy trong túi áo tờ giấy bị vò nhàu và giở ra. giấy có vẽ cái gì đó. Cho dù là gì, nó cũng được vẽ rất thô sơ, chỉ để minh họa cho ý tưởng chợt nảy ra. "Cậu thử nhìn xem" Miyashita , đưa tờ giấy cho Ando. Ando cầm lấy và trải ra quầy bar trước mặt. hiểu ngay lập tức. Đó là hình minh họa chuỗi xoắn kép ADN trong tế bào tự nhân đôi. Các chuỗi của chuỗi xoắn kép có tính bổ sung lẫn nhau: khi cấu trúc của chuỗi được xác định, cấu trúc của chuỗi còn lại cũng được xác định cách tự động. Khi tế bào phân đôi, hai chuỗi tách ra, mỗi chuỗi tạo ra bản sao của thế hện sau đúng y như ban đầu. Quá trình sao chép gen và truyền nó từ đời mẹ sang đời con có thể xem là cơ sở của ngành di truyền học. Tất nhiên điều này có gì khó hiểu đối với Ando. "Thế sao?" hỏi. "Hãy nghĩ chút về cơ chế đằng sau quá trình tiến hóa của các loài." tiến hóa còn rất nhiều điều mà người ta chưa biết. Ví dụ, quan điểm cơ bản trong học thuyết của Kinji Imanishi khác với các quan điểm trong học thuyết Darwin Mới, nhưng thể xác định được cách chắn chắn quan điểm của ai là đúng. chung, học thuyết tiến hóa giống như phong trào "trăm hoa đua nở"; mọi người, dù có đủ tư cách hay , đều tham gia tranh luận bằng những quan điểm rất kiên định. Nhưng cho dù có bằng chứng thuyết phục để giải quyết vấn đề, Ando biết rằng những tiến bộ gần đây trong ngành sinh học phân tử tiến gần đến chứng minh được những đột biến bất thường về gen là động lực của tiến hóa. Do đó trả lời bằng cách với chút tự tin, "Có lẽ nó bắt đầu từ đột biến gen." thấy có thể đoán được cuộc chuyện theo hướng nào. "Đúng thế. Đột biến là phát súng thúc đẩy tiến hóa lên. Vậy, đột biến diễn ra như thế nào?" Miyashita làm hớp bia dài, rồi lấy từ túi áo ngực ra chiếc bút bi. Trước khi Ando kịp trả lời câu hỏi, Miyashita lại viết lên hình minh họa. Lý do xảy ra đột biến. Ando cố nhìn vào hình phác họa bên dưới tay ta. "Có lỗi phát sinh trong mã gen - tổn thương bất thường nào đó - và lỗi này được sao chép lại rồi truyền cho đời sau. Đấy gọi là đột biến. Cậu đồng ý ? Đây là quan điểm hành về cơ chế đột biến." Miyashita lấy bút chỉ vào hình vẽ để nhấn mạnh lập luận, nhưng chẳng cần giải thích điều này cho Ando. Có thể gây ra tổn thương gen cách có chủ ý trong phòng xét nghiệm bằng cách dùng tia X hoặc phóng xạ cực tím. Nhưng thông thường, đột biến xảy ra ngẫu nhiên. Chuỗi ADN về lý thuyết được sao chép chính xác và truyền cho thế hệ tương lai, nhưng đôi khi bị đột biến do xảy ra lỗi trong quá trình sao chép, đại khái thế, và khi những đột biến này tích tụ đủ thông qua tái tạo, dần dần loài mới xuất . đột biến có thể xem là bước trong quá trình tiến hóa. Cậu còn nhớ tương đồng tôi ?" Miyashita thầm. Cuối cùng Ando cũng hiểu ra Miyashita điều gì. X giống Y. Giờ khi xem xét điều đó, quả là có giống nhau. "Cậu về chuyện sao chép những cuốn băng đúng ?" Cuối cùng Ando hỏi. "Cậu có nghĩ về cơ bản chúng giống nhau ?" Miyashita cho hai lát lưỡi bò vào miệng và nuốt ực bằng ngụm bia. Ando lật tờ giấy lại, trải ra quầy, mượn chiếc bút của Miyashita và bắt đầu vẽ sơ đồ. cần xem xét lại các điểm tương đồng. Thậm chí đối với những điều mà nghĩ mình hiểu rất , vẫn biết rằng vẽ mọi thứ lên giấy theo sơ đồ thường hữu ích. Vào ngày 26 tháng Tám, cuốn băng được tạo ra tại Villa Log Cabin. Vào ngày 29, bốn thanh niên đến thuê căn nhà gỗ đó xóa phần cuối cuốn băng - phần có nội dung, Bất cứ ai xem cuốn băng này, trong tuần, phải sao cuốn băng ra bản và đưa cho người khác xem. Những thanh niên kia ghi đè đoạn quảng cáo lên phần cuối ấy. Đối với cuốn băng, điều này giống như kiện ngẫu nhiên biết trước được, phá vỡ chuỗi sắp xếp gen của nó, chuỗi các hình ảnh. xảy ra lỗi. Cuốn băng giờ có lỗi, sau đó được Asakawa sao chép lại. Dĩ nhiên lỗi đó cũng được sao chép. Cho đến lúc ấy, quá trình này giống hệt như quá trình mà ADN sử dụng để tự sao chép. những thế, phần bị xóa của cuốn băng, phần thông điệp, đóng vai trò thiết yếu đối với khả năng sinh sôi của cuốn băng. về mặt di truyền, nó là gen điều hòa. cú sốc xảy ra với gen điều hòa có thể khiến đột biến xảy ra dễ dàng hơn. Liệu hư hại ở cuối đoạn băng có khiến cho cuốn băng bị đột biến? Ando dừng bút. "Khoan . Ở đây chúng ta đến sinh vật." Miyashita chút bối rối. Như thể ta chuẩn bị câu trả lời từ trước. "Nếu có người bảo cậu định nghĩa sống, cậu trả lời thế nào?" sống, theo quan niệm của Ando, về cơ bản được tóm lược thành hai điểm: khả năng thực thể tự sinh sản. và nó có hình thể. Lấy ví dụ tế bào, nó có ADN để giám sát quá trình tự sinh sản, có protein để tạo nên hình dáng bên ngoài. Nhưng cuốn băng video? Chắc chắn nó có hình thể - là vỏ nhựa của nó, thường có màu đen và hình chữ nhật. Nhưng thể rằng nó có khả năng tự sinh sản. " cuốn băng có khả năng tự sinh sản." " sao?" Miyashita nghe như hết kiên nhẫn. " cậu nó giống như loại virus..." Ando muốn rên lên. Virus là dạng sống kỳ lạ: chúng thiếu khả năng tự sinh sản. Cho nên chúng nằm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh. Điều mà virus có thể làm là chui vào trong tế bào của sinh vật khác và sử dụng chúng để giúp nó sinh sản. Giống như cuốn băng đến, nó bắt người xem phải trở thành nô lệ bằng cách đe dọa giết họ trừ phi họ sao chép nó. Cuốn băng sử dụng con người trong quá trình sao chép của nó. "Nhưng..." Ando cảm thấy buộc phải phản đối luận điểm này. thậm chí còn chắc mình muốn phản bác điều gì. chỉ cảm thấy nếu làm vậy, có thảm họa xảy ra. "Nhưng tất cả các bản sao của cuốn băng bị vô hiệu hóa." cách khác, còn nguy hiểm nào nữa. Thậm chí nếu cuốn băng có sống được theo cách hạn chế như đời sống của virus, giờ nó tuyệt chủng. Bốn cuốn băng được vào thế giới, giờ bị loại bỏ khỏi thế giới. "Cậu đúng. Cuốn băng bị tuyệt diệt. Nhưng đó là chủng cũ rồi." Những giọt mồ hôi mặt Miyashita ngày càng lớn hơn theo những ngụm bia ta uống vào. "Ý cậu cũ là sao?" Ando hỏi. "Cuốn băng bị đột biến. Thông qua sao chép, nó tiến hóa cho đến khi chủng mới xuất . Nó vẫn còn náu ở đâu đó ngoài kia. Và nó mang hình dạng mới. Dù gì đó là điều tôi nghĩ." Ando chỉ có thể há hốc miệng nhìn. Cốc bia của cạn, nhưng giờ muốn thứ gì mạnh hơn cả bia. cố gọi rượu shochu pha đá, nhưng giọng ấp úng và thể khiến cho người phục vụ nghe thấy. Miyashita gọi thay, ta giơ hai ngón tay và gọi lớn, "Shochu!" Hai cốc rượu được đặt quầy bar trước mặt họ, Ando ngay lập tức nâng lên và uống ngụm hết phần ba. Miyashita nhìn qua khóe mắt, rồi : "Nếu cuốn băng bị đột biến và tiến hóa thành chủng mới trong quá trình sao chép, chủng cũ bị chết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chủng mới cả. Cứ nghĩ . Ryuji phải mất công can thiệp vào chuỗi ADN để có thể giao tiếp với chúng ta từ bên kia thế giới. Tôi thể nghĩ ra lời giải thích nào khác về việc tại sao ta lại gửi cho chúng ta từ 'mutation'. Cậu có nghĩ ra ?" Tất nhiên là Ando thể. Làm sao lại có thể chứ? đưa ly rượu lên môi uống và uống, nhưng dường như mãi say. Đầu óc minh mẫn cách khó chịu. Có lẽ là đúng . Ando thấy mình dần ngả về quan điểm của Miyashita. Có lẽ Ryuji dùng từ "mutation" với ý cảnh báo. Ando có thể nhìn thấy khuôn mặt của Ryuji khi ta cười nhạo, Cậu nghĩ mình an toàn. Cậu cho là virus tuyệt chủng. Nhưng cậu thoát khỏi chuyện này dễ dàng thế đâu. Nó đột biến, và phiên bản mới xuất . Ando nhớ đến virus bệnh AIDS. Người ta cho rằng cách đây vài trăm năm, loại virus thời tiền sử đột biến và trở thành virus bệnh AIDS như ta biết đến ngày nay. Loại virus trước đó lây nhiễm sang người và có lẽ hoàn toàn vô hại. Nhưng thông qua đột biến, nó có sức mạnh tàn phá hệ miễn dịch của con người. Nếu điều đó cũng xảy ra với cuốn băng? Ando chỉ có thể cầu nguyện cho điều ngược lại xảy ra, rằng cái thứ tai hại kia trở nên vô hại. Nhưng thực tế lại gợi ý điều trái ngược khác. Trái ngược với vô hại, cuốn băng bị đột biến chuyển thành thứ giết chết bất kỳ ai xem nó, cho dù họ có sao chép nó hay . Nếu đó là dấu hiệu, việc trở nên ghê gớm hơn. Và vì Ando thể đưa ra kết luận gì về biến mất của Mai, chỉ còn Asakawa là người duy nhất còn sống. "Tại sao Asakawa còn sống?" Ando hỏi Miyashita đúng câu hỏi mà hỏi ta ngày hôm trước. "Đó chính là vấn đề, đúng ? ta là đầu mối duy nhất để biết cuốn băng biến đổi thành cái gì." "À, thực ra là... còn người khác nữa." Ando kể vắn tắt cho Miyashita về Mai: vì sao cuốn băng đến được với qua Ryuji, rằng có bằng chứng xem nó, và mất tích gần ba tuần như thế nào. "Nghĩa là có hai người xem cuốn băng và vẫn còn sống." "Asakawa vẫn còn sống, dù chỉ là hình thức. Tôi chắc về Mai." "Tôi hy vọng ấy còn sống." "Tại sao?" "À, tại sao . Có hai đầu mối tốt hơn là có ." ta có lý. Nếu Mai còn sống, họ có thể tìm ra được điểm chung giữa và Asakawa. Điều đó có lẽ cho họ câu trả lời. Nhưng về phần mình, Ando chỉ hy vọng vẫn an toàn. PHẦN 4.1 - TIẾN TRIỂN Chiều thứ Hai, ngày 26 tháng Mười Ando kết thúc ca mổ cho cậu bé bị chết đuối sông, và giờ điền vào bản báo cáo trong khi nghe cha cậu bé giải thích việc. Ando cố tìm hiểu ngày sinh và những việc cậu bé làm vào hôm xảy ra tai nạn, nhưng câu trả lời của người đàn ông mơ hồ và lộn xộn, khiến công việc của Ando trở nên khó khăn. Đôi khi người cha nhìn ra ngoài cửa sổ khi cuộc trao đổi trùng xuống, đôi lúc Ando lại bắt gặp ông ta ngáp. Ông ta trông kiệt sức và uể oải, Ando muốn kết thúc càng nhanh càng tốt để giải phóng cho người đàn ông. Lúc ấy, phòng Giám định Pháp y đột nhiên rúng động. Họ vừa được cảnh sát báo cho biết thi thể nữa được mang đến, là thi thể của người phụ nữ chưa xác định được danh tính. Lúc này, mọi người cùng chuẩn bị tiếp nhận tử thi để mổ. Bác sĩ Nakayama, đồng nghiệp lớn tuổi hơn Ando, được giao ca mổ này. Cảnh sát cho biết được phát trong khoang thông gió sân thượng toà nhà văn phòng. Điều này có nghĩa kíp mổ phải thực hai ca mổ liên tiếp nhau, vì vậy những người trợ lí và cảnh sát chạy ra chạy vào để chuẩn bị. "Thi thể được mang đến, thưa bác sĩ" Giọng của người trợ lý mổ vọng ra. Ando vô tình giật mình và nhìn về phía thanh đó phát ra. Viên trợ lý tên là Ikeda đứng nơi cánh cửa khép hờ, mặt hướng về Nakayama. Tuy nhiên hiểu sao Ando có cảm giác như thê chính là người được gọi vào. "Được rồi," Nakayama , từ từ đúng lên. "Cậu chuẩn bị xong hết rồi chứ?" Nakayama vào làm việc tại phòng Giám định Pháp y sớm hơn Ando hai năm, ta là người của khoa Pháp y, Trường Y Đại học Joji. Người trợ lý biến mất, cảnh sát xuất ngay chỗ ta và tiến đến Nakayama. Sau vài lời chào hỏi, viên cảnh sát kéo ghế ra ngồi cạnh Nakayama. Ando quay lại với công việc của mình. Nhưng có thể nghe lén cuộc trò chuyện giữa người cảnh sát với Nakayama từ phía sau lưng, cuộc chuyện khiến quan tâm. chỉ nghe loáng thoáng, câu được câu mất. Viên cảnh sát dường như giải thích tình huống mà người ta tìm thấy thi thể. Ando dừng ghi chép và nghe ngóng. Những tiếng "chưa xác định được danh tính" và "phụ nữ trẻ" cứ lặp lặp lại. Nakayama hỏi " Nhưng tại sao ta lại lên sân thượng?" "Chúng tôi biết tại sao ta lên đó. Có lẽ ta định tự tử." "Có thư từ gì để lại ?" "Chúng tôi chưa tìm thấy gì." "Tôi nghĩ, khi ở trong khoang thông gió, có ai nghe tiếng ta kêu cứu cả." "Đây phải là khu dân cư." "Thế ở đâu?" "Đông Oi, quận Shinagawa. Đó là toà nhà cũ mười bốn tầng dọc theo đường Shore." Ando sửng sốt ngước lên. nhớ lại cảnh nhìn thấy từ đường tàu Keihin Express. Phía bên kia khu dân cư, có thể thấy đường Shore chạy qua khu vực, dọc hai bên đường là những nhà kho và toà nhà văn phòng. Chỉ cách căn hộ của Mai quãng ngắn. phụ nữ trẻ chưa xác định danh tính, mái toà nhà ở đường Shore. "Tôi nghĩ thế là đủ rồi. Nếu cần hỏi gì thêm tôi gọi điện cho ông." Ando cảm ơn người cha của cậu bé và kết thúc công việc làm. quá quan tâm đến cuộc trao đổi phía sau lưng, nên thể làm nốt bản báo cáo ngay bây giờ được. Vẫn còn vài diều biết là cần phải làm , nhưng quyết định thực sau. Ando bỏ các giấy tờ vào ngăn hồ sơ rồi đứng dậy. Nakayam và viên cảnh sát đứng lên cùng lúc. Ando bước lại và vỗ lên vai Nakayam. Ando biết người cảnh sát này, hơi cúi đầu chào, rồi . "Người phụ nữ các sắp mổ, danh tính của ấy chưa xác định được đúng ?" Ba người rời văn phòngm bước xuống hành lang đến phòng mổ. Viên cảnh sát trả lời Ando. "Đúng thế. ta mang theo gì bên người giúp chúng tôi xác định cả." " ấy bao nhiêu tuổi?" " ta còn trẻ, khoảng hai mươi tuổi gì đấy. ta khá xinh đẹp, nếu còn sống." Khoảng hai mươi tuổi gì đấy. Mai hai mươi hai tuổi, nhưng trông như đoá hoa chưa đến hai mươi. Ando có thể cảm thấy mình bắt đầu ngạt thở. "Có đặc điểm gì nổi bật ?" biết ngay nếu nhìn thấy thi thể. Nhưng trước hết cần chuẩn bị. Tất nhiên là muốn nghe điều gì để chứng minh rằng: đó phải là . Rồi có thể mà cần vào xem. "Có chuyện gì thế, bác sĩ Ando?" Nakayama nhe răng cười "Biết được ta là đẹp khiến cậu hứng thú hơn à?" ", phải thế." Ando , muốn hùa theo. "Chỉ là có vài điều khiến tôi băn khoăn." Nhìn vẻ mặt của , Nakayama nhanh chóng thôi ngay nụ cười châm chọc. " nhắc đến tôi cũng luôn. Bác sĩ Nakayama cũng nên biết. Có điều gì đó kỳ lạ về này." "Là gì thế?" " ta mang đồ lót." " sao? Đồ lót hay dưới?" " ta có mang áo ngực, nhưng mang quần lót." "Quần áo của ấy có bị xộc xệch lúc được phát ?" Cả Ando và Nakayama nghĩ giống nhau: có lẽ bị hiếp dâm ở sân thượng, và sau đó bị ném vào khoang thông gió. "Quần áo ta bị rách nhàu, và ít nhất qua quan sát bằng mắt thường, có dấu hiệu bị hiếp dâm." " ta mặc đồ gì?" " chiếc áo chui đầu dày, tất dài, áo cánh. Trang phục bình thường. Thậm chí có thể là bảo thủ." Nhưng ta mặc quần lót. Vào tháng Mười , mặc váy nhưng mặc quần lót. Liệu điều đó đối với ta có phải là bình thường hay ? "Xin lỗi nhưng lắm ý khi rằng ấy được tìm thấy trong khoang thông gió sân thượng," Ando tưởng tượng ra được trường. "Chúng tôi về khoang thông gió sâu ba mét và rộng mét, bên cạnh phòng máy, sân thượng. Thường nó được che lưới, nhưng lưới bị rách phần." "Đủ để ấy rơi xuống." "Có lẽ thế." "Đó có phải là chỗ mà ta có thể bị trượt chân và rơi xuống ?" " đâu. Thậm chí đến được gần chỗ ấy cũng dễ. Trước hết, cửa hành lang dẫn đến thang máy chạy lên sân thượng bị khoá." "Làm sau ấy vào được đó?" "Có cái thang nối lên sân thượng từ cửa lối thoát hiểm. Thang được xây liền bên ngoài bức tường. Chúng tôi nghĩ lên bằng đường này. Đó là cách duy nhât để ta có thể lên được sân thượng." Ando hiểu có thể làm gì ở đấy. " về chuyện đồ lót. có nghĩ rằng cố ý cởi nó ra, khi ở trong khoang thông gió?" Cái khoang sâu ba mét. Nếu ngã xuống, bị thương. Có lẽ ta cởi quần lót dùng để băng vết thương. Hoặc có lẽ nghĩ có thể dùng nó bằng cách nào đó để người ta giúp thoát ra. "Chúng tôi tìm. Trong khoang, và cả mái nhà. Và sau đó, để cho chắc chắn, chúng tôi kiểm tra trong phạm vi của toà nhà nữa." "Tại sao lại phạm vi toà nhà?" Nakayama xem vào. "Tôi nghĩ có lẽ ta quấn chúng quanh mảnh kim loại hoặc cái gì đấy rồi ném ra ngoài. Ở trong cái khoang, có cơ hội nào để ai đó có thể nghe tiếng kêu cứu của ta. Cách duy nhất để người bên ngoài biết được ta ở đâu là ném cái gì xuống để gây chú ý cho mọi người. Nhưng điều này hóa ra lại là bất khả." "Tại sao lại thế?" "Từ đáy khoang, cách nào ta có thể ném cái gì qua khỏi hàng rào sân thượng." Nghĩ rằng có liên quan đến góc ném, Ando hỏi về điểm này thêm nữa. "Vậy là, giả định hiển nhiên nhất là ấy mang đồ lót khi ra khỏi nhà." "Lúc này, đó là lời giải thích duy nhất mà chúng tôi có thể nghĩ ra." Họ dừng lại trước phòng mổ. " muốn tham gia với tôi , bác sĩ Ando?" Nakayama hỏi. "Có lẽ chỉ lúc thôi." Câu trả lời khá thành . Nếu phải là Mai, thở phào nhẽ nhõm và ra. Nếu là ... có lẽ cũng , để mặc việc mổ tử thi cho Nakayama. Dù gì việc cần làm bây giờ là kiểm tra xem có phải là . Bên kia cánh cửa, có thể nghe nước từ vòi chảy túa ra như vẫn vậy. Khi Ando cố lắng nghe những thanh khác, mong muốn bỏ chạy chiếm lấy . Dạ dày sôi lên, chân tay run rẩy. cầu nguyện rằng phải là . Đấy là điều duy nhất có thể làm. Trước khi Ando thực sẵn sàng, Nakayama mở cửa và vào phòng mổ. Viên cảnh sát bước theo sau. Ando bước vào, mà chỉ qua khung cửa mở nhìn chằm chằm thi thể tái xanh, trần truồng bàn mổ. PHẦN 4.2 lén nghi ngờ rằng, ngày đó đến, nhưng nhìn cận cảnh thi thể người phụ nữ trẻ ấy có cảm giác ớn lạnh chết người chạy suốt cơ thể. Cuối cùng Ando cũng tiến đến bàn mổ, đứng sau Nakayama và viên cảnh sát. nhìn vào khuôn mặt người chết từ mọi góc độ, mà vẫn muốn nhận ra nó. phần tóc sau đầu có vết bùn khô và cứng. Mắt cá chân bị trẹo cách bất thường. nghĩ là mắt cá chân bị vỡ, hoặc ít nhất là bị bong. có dấu hiệu cho thấy bị bóp cổ. Thực tế, hề có vết thương ngoài nào. Thi thể đến độ cứng đờ. Từ lúc chết đến giờ hơn chín mươi tiếng đồng hồ. Ando biết khi còn sống, có sắc da khoẻ mạnh. biết bao lần tưởng tượng ôm và cảm nhận làn da chạm vào da mình? bao giờ có cơ hội nữa. Giờ chỉ còn là thi thể đông cứng bị huỷ hoại. mà từng có ý định đương giờ nằm phơi trần nghiệt ngã bàn. Ando thể chịu đựng được thực tế này, nỗi tức giận trào lên trong . "Chết tiệt," thở dài. Nakayam và viên cảnh sát đồng thời quay sang nhìn . Viên cảnh sát giấu nổi vẻ sửng sốt. " biết ta à?" Ando thoáng gật đầu. "Tôi rất tiếc," Nakayam lầm bầm, thể biết chính xác mức độ gần gũi giữa Ando và . Viên cảnh sát tiếp, chậm và có chú ý. " có thể cho tôi biết phải liên lạc với ai ?" Đằng sau giọng lịch đó, Ando có thể nhận thấy dấu hiệu kỳ vọng. Nếu biết là ai, việc này giúp cảnh sát khỏi nhọc công xác định danh tính của . Ando gì, lấy cuốn sổ ghi chép của và giở ra. chắc chắn viết số điện thoại của bố mẹ trong ấy. tìm thấy số, viết lên trang giấy khác, rồi đưa ra. Viên cảnh sát đọc lại cho Ando nghe. " có chắc chắn ?" Giọng ta gần như khúm núm. "Tôi chắc chắn. Đó là Mai Takano." Viên cảnh sát chạy vội ra khỏi phòng để gọi điện thoại cho bố mẹ Mai và thông báo với họ về cái chết của . Ando tưởng tượng ra cảnh diễn ra ở nhà họ: điện thoại đổ chuông, mẹ nhấc máy lên, giọng phô trương từ phía đầu dây bên kia, tự xưng là viên chức này nọ từ sở cảnh sát, rồi Con bà chết...Ando rùng mình. cảm thấy xót xa cho bà mẹ sắp phải trải qua giây phút ấy. Bà ngã quỵ xuống, bà khóc oà lên. Thế giới xung quanh bà chỉ lùi xa dần. thể chịu đựng được việc ở trong phòng mổ lâu hơn nữa. Khi lưỡi dao mổ luồn vào thi thể , khí ngập mùi tồi tệ hơn rất nhiều so với thứ mùi chào đón họ. Và khi thành nội tạng được cắt ra để kiểm tra các chất trong dạ dày và ruột non, mùi hôi thối trở nên cực kỳ khủng khiếp. Ando biết khứu giác có thể lưu lại khủng khiếp đến mức nào, và muốn ngửi thấy mùi này. biết đó là định mệnh của mọi sinh vật, cho dù có thuần khiết và xinh đẹp đến nhường nào, cuối cùng cũng để lại mùi hôi thối thể chịu nổi. Nhưng chỉ lần này, muốn bày tỏ tình cảm uỷ mị. muốn giữ cho ký ức của về Mai khỏi bị dơ dáy bởi mùi đó. vào tai Nakayama, "Tôi phải rồi." Nakayama nhìn nghi hoặc. "Rốt cuộc cậu muốn tham gia?" "Tôi còn vài việc cần hoàn tất ở phòng thí nghiệm. Nhưng tôi muốn nghe chi tiết sau đấy." "Hiểu rồi." Ando đặt tay lên vai Nakayama và lại thầm với ta. "Chú ý đến động mạch vành. Hãy chắc chắn là lấy mẫu mô ở đó." Nakayama bối rối vì Ando có giả thiết về nguyên nhân cái chết. " ấy bị chứng đau thắt ngực sao?" Ando trả lời. Thay vì thế, bóp vai Nakayama, vẻ mặt cảnh báo đừng hỏi tại sao, rồi , "Cứ làm như thế, được chứ." Nakayama gật gật đầu PHẦN 4.3 Quay trở lại văn phòng, Ando kéo chiếc ghế ra khỏi bàn cạnh bàn Nakayama rồi ngồi xoay lại, tay ôm lưng ghế. ngồi như thể để chờ Nakayama hoàn thành nốt mấy thứ giấy tờ của ta. "Trông cậu có vẻ lo lắng," Nakayama , ngước lên khỏi bản báo cáo viết dở. "Đại khái thế." "Có muốn xem báo cáo mổ tử thi ?" Nakayama chỉ vào tập hồ sơ trước mặt Ando. ". Tôi chỉ cần nghe tóm tắt thôi." Nakayama nhìn vào mặt Ando. "Thế tôi vào điểm chính luôn. Nguyên nhân cái chết phải là do suy tim gây ra bởi nghẽn động mạch vành." Vậy giả thiết mà Ando với Nakayama trước khi mổ là sai. Ando yên lặng lúc, biết lý giải điều này thế nào. Vậy là Mai xem cuốn băng? Có lẽ, khối u chưa đủ lớn để làm nghẽn dòng máu. quyết định cần phải tìm hiểu hơn. "Thế có khối u nào trong động mạch vành sao?" "Tôi thấy khối u nào cả?" " có chắc chắn ?" "À, tôi phải chờ cho đến khi có kết quả xét nghiệm mẫu mô trước khi có thể chắc chắn." Lúc này, cái khối u báo hiệu đó dường như có trong động mạch của Mai. "Vậy cái gì giết chết ấy?" "Có lẽ là vì lạnh. ấy ở trong tình trạng kiệt sức." "Còn các chấn thương?" "Mắt cá chân trái của ấy bị vỡ, và có vết xước ở cả hai khuỷu tay. Rất nhiều khả năng ấy bị thế khi rơi xuống. Trong các vết thương có vài mẩu vụn của sân bê tông." Vậy là rơi xuống, chân chạm nền trước, mắt cá bị vỡ, và thể ra khỏi chỗ đó. Cái khoang rộng khoảng mét và sâu ba mét, quá sâu khiến thoát được ra ngoài. bị mắt kẹt ở đó, chỉ có nước mưa làm thoát khỏi khát. Cho dù như thế, chỉ sống thêm được vài ngày. "Tôi biết ấy sống được bao lâu trong đó." Đấy thực là câu hỏi. chỉ nghĩ trong đầu và buột miệng ra khi tưởng tượng nỗi sợ hãi và tuyệt vọng của lúc ở mình dưới đáy cái hố sân thượng. "Tôi đoán khoảng mười ngày." Dạ dày và ruột trống rỗng, lớp mỡ dưới da gần như tiêu hết. "Mười ngày." Ando mở cuốn sổ của ra. Cứ cho rằng sống được mười ngày trong cái khoang thông gió, và thêm năm ngày nữa thi thể của mới được phát , mất tích vào khoảng ngày mười tháng Mười . Ngày Ando hẹn là mồng chín; việc trả lời điện thoại cả ngày hôm đó đẩy ngày mất tích của lùi xa đến chừng ấy. Thực tế, hộp thư của có những số báo của ngày mồng tám. Nghĩa là có chuyện gì đó xảy đến với vào ngày mồng tám hoặc mồng chín khiến rời khỏi nhà. Ando đánh dấu hai ngày này vào lịch. Điều gì đó xảy ra với vào khoảng từ ngày tám đến ngày mười tháng Mười . cố tưởng tưởng ra chính mình ở chỗ ấy. Khi người ta tìm thấy , chỉ mặc váy và tấm áo nỉ. Cách ăn mặc ấy gợi ý rằng chỉ ra ngoài lúc, có lẽ để hít khí trời. Nhưng lạ là mặc quần lót. nhớ lại những điều cảm thấy khi đến căn hộ của . Mọi thứ vẫn ràng trong đầu . Hôm ấy ngày 15 tháng Mười . Nếu tin vào kết quả mổ pháp y, vào thời điểm đó rơi vào cái khoang sân thượng, và chờ đợi được cứu ra. cách khác, ra khỏi nhà mấy ngày rồi. Nhưng, Ando chắc chắn cảm nhận được điều gì đó trong căn nhà của . Đáng lẽ bị bỏ trống, nhưng chắc chắn có cái gì đó biết thở. "Ồ, và..." Nakayama , giơ ngón tay trỏ lên như thể vừa nhớ ra điều gì quan trọng. "Cái gì?" " khá thân thiết với ấy phải , bác sĩ Ando?" " phải thân thiết. Tôi chỉ mới gặp ấy hai lần." "Ồ. Lần cuối gặp ấy là bao giờ?" "Cuối tháng trước, chắc là thế." "Nghĩa là khoảng ba tuần trước khi ấy chết." Nakayama như ngần ngừ điều gì quan trọng. Ando nhìn vị đồng nghiệp đàn , cái nhìn chằm chằm như muốn , Thôi nào, . " ấy mang thai, đúng ?" Nakayama cuối cùng thốt ra. Trong lúc, Ando chắc ta gì. "Ai mang thai?" . "Tất nhiên là Mai." Nakayama vẫn chăm chú quan sát phản ứng bối rối của Ando. "Cậu biết sao?" Ando trả lời. "Cậu định với tôi rằng bỏ qua dấu hiệu ràng của phụ nữ gần đến kỳ sinh nở chứ." "Gần đến kỳ sinh nở?" Ando chỉ có thể lặp lại lời của Nakayama như con vẹt. nhìn lên trần và cố nhớ lại chính xác những đường nét thân hình Mai. gặp lần trong bộ đồ tang và lần trong chiếc váy sáng màu. Cả hai bộ trang phục đều bó sát eo và hông, để lọ những đường nét thon thả. Vòng eo thắt đáy lưng ong là trong những nét quyến rũ nhất của . Nhưng chỉ có thế. Ando cảm nhận được ở điều gì trinh khiết. Và giờ Nakayama cố với rằng ấy mang thai sao? Thậm chí là gần đến kỳ sinh nở? phải quan sát kỹ lưỡng đến mức như thế. Thực , càng nghĩ về , hình ảnh của càng trở nên mờ dần. Ký ức của mờ mịt. Nhưng , thể như thế được. thể nào mang thai chín tháng. Bằng chứng là chính mắt thấy thi thể . Bụng quá hóp đến mức gần như chạm vào cột sống. " ấy thể nào gần đến đế kỳ sinh nở được." "Tuy nhiên số phụ nữ lại như thế. Bụng họ lớn lắm, thậm chí ở ba tháng cuối." "Tuy nhiên, vấn đề phải là bụng to hay . Chính tôi dã nhìn thấy thi thể ấy." "Cậu hiểu nhầm rồi." Nakayam xua tay . Rồi ta dàn bằng chứng ra trước mặt Ando. "Tử cung mở khá lớn và ấy có vết thương nơi nhau thai bị đứt. đạo đầy những chất tiết màu nâu. Và ở phía trong đạo, tôi phát có những mẩu thịt mà tôi tin là của dây rốn." bị mất trí rồi, Ando nghĩ. Nhưng thể tưởng tượng bác sĩ mổ pháp y nhiều kinh nghiệm như Nakayama lại gặp lỗi sơ đẳng như thế. Ba mẫu chứng cứ diện nơi thi thể Mai chỉ có thể dẫn đến kết luận: sinh lâu trước khi rơi vào khoang thông gió. Giả sử việc sinh đẻ của là có , điều đó có giải thích được cho hành động của ? Có lẽ, vào khoảng ngày mồng bảy, đau đẻ, rồi đến chỗ bác sĩ sản khoa. sinh, nằm năm hoặc sáu ngày trong bệnh viện, rồi làm thủ tục ra viện ngày mười hai hoặc mười ba gì đấy. Có lẽ đứa trẻ chết trong lúc sinh. Trong cơn đau đớn, người mẹ lang thang cho đến khi thấy mình đứng sân thượng toà nhà, ở đấy rơi vào cái khoang thông gió. sống trong đó được mười ngày. Rồi sáng hôm nay, thi thể của được người ta phát ra. Xét về thời gian, giả thiết đó chấp nhận được. Việc sinh đẻ là lời giải thích hợp lý cho biến mất của . Và đương nhiên hoàn toàn giữ kín chuyện này, cho mẹ mình biết. Nhưng Ando chấp nhận. Thậm chí cứ cho là thể tạng mỗi người khác nhau, bỏ qua việc trông bề ngoài giống người mang thai, vẫn thể quên ấn tượng lần họ gặp nhau đầu tiên. Lần đầu tiên nhìn thấy Mai là ngày tại văn phòng này. Ngay trước khi mổ cho Ryuji, được viên thanh tra hộ tống đên, người này muốn kể cho Ando nghe toàn bộ những gì biết về hoàn cảnh cái chết của Ryuji. cố ngồi xuống, rồi mất thăng bằng và lấy tay dựa lên chiếc bàn bên cạnh. Nhìn qua, Ando biết rằng bị thiếu máu. nhận ra vẻ thiếu máu nơi và suy luận rằng đó là do ở kỳ kinh nguyệt. Kết luận của được củng cố bằng nét mặt ngại ngùng khi : "Xin lỗi, chỉ là tô..." Ánh mắt của họ nhìn nhau, và giữa họ có thoáng giao tiếp lời. Xin đừng lo lắng. Chỉ là chuyện hàng tháng thôi. hiểu. Mai dùng ánh mắt để thông tin cho biết, muốn làm cho tình huống trở nên quan trọng hóa. Ký ức về việc làm thế nào tỏ ý được mà dùng lời vẫn còn ràng cách lạ lùng đối với Ando. thực cuộc phẫu thuật pháp y cho Ryuji vào ngày hai mốt tháng trước. Thế nghĩa là Mai, vốn được cho là sinh nở, có kinh chưa đầy tháng trước khi sinh nở. Tất nhiên chuyện này là thể. Có lẽ mình hiểu nhầm mọi chuyện. Từ đó đến giò mình cứ nghĩ có trao đổi ngầm giữa mình với ấy, nhưng có lẽ mình chỉ tưởng bở. Có lẽ mình hoàn toàn sai lâm. Nhưng càng nghĩ về chuyện sinh đẻ, lại càng thể tin được. tự tin là hiểu được ý của . Tuy nhiên, thực mà cuộc mổ pháp y hé lộ ra hoàn toàn trái ngược với nhìn nhận của đối với vấn đề. Ando đứng dậy , chỉ vào báo cáo mổ pháp y, " có phiền nếu tôi sao bản ?" muốn đem về nhà và đọc cẩn thận. Nakayama đưa tập giấy tờ cho . "Cứ tự nhiên." "Ồ, còn điều nữa," Ando thêm. " lấy máu chứ?" "Tất nhiên." "Tôi có thể có chút mẫu máu được ?" " chút à, chắc chắn rồi." Ando nhận ra rằng phải lập tức xác nhận xem liệu có mang virus giồng virus bện đậu mùa . Nếu tìm thấy loại virus ấy trong máu , đó là bằng chứng xem cuốn băng. cần xác định xem liệu thảm họa xảy đến với có nguồn gốc từ cuốn băng kia hay đó là kết quả của điều gì hoàn toàn liên quan. Lúc này, tất cả những gì có thể làm là góp nhặt dữ liệu, tưmg chút . Nếu có thể làm vai trò của cuốn băng trong chuyện này, có lẽ tiến thêm bước gần hơn đến việc giải quyết bí của từ "mutation".
PHẦN 4.4 Ngay sau khi nhìn thấy thi thể Mai, Ando được thông báo về cái chết của Kazuyuki Asakawa. Khi tình trạng của Asakawa trở nên xấu , ta được chuyển từ Bệnh viện Shinagawa Saisei đến Bệnh viện Đại học Shuwa, nhưng ta chết gần như ngay lập tức. Ando được thông báo về thay đổi tình trạng của Asakawa, nhưng tưởng tượng bệnh nhân này lại ra nhanh chóng thế. Theo bác sĩ chăm sóc, cái chết là do bị nhiễm khuẩn, và bệnh nhân ra thanh thản, như là do tuổi già. Asakawa bao giờ tỉnh lại sau vụ tai nạn. Ando đến Bệnh viện Shuwa và dặn các bác sĩ được giao ca mổ tử thi để tâm đến vài thứ trong qua trình mổ: khối u làm nghẽn động mạch vành, loại virus giống virus bệnh đậu mùa có trong khối u. Ando hiểu những điểm này có vai trò thiết yếu trong việc dự báo tương lai. Sau khi chắc chắn rằng các bác sĩ mổ hiểu được tầm quan trọng của tình huống, mới ra về. Khi quay lại nhà ga, lại cảm thấy thất vọng vì Asakawa bao giờ tỉnh lại. ta có những thông tin cốt yếu, vậy mà ta chết và chia sẻ thông tin đó cho ai. Nếu như Ando biết điều mà Asakawa biết, hẳn phải hơn nên dự tính điều gì. Giờ tương lai mờ mịt đến phát rồ. Và Ando biết phải chuẩn bị cho cái gì. Ngay giờ đây, điều lớn nhất mà Ando lo lắng là liệu cái chết của Asakawa là do vận rủi hay là môt kết quả tất yếu. Câu hỏi này, tương tự, cũng dành cho trường hợp của Mai. Cả hai người sau khi gặp tai nạn lụi dần rồi chết - với Asakawa là tai nạn giao thông, còn Mai là do bị ngã. Cái chết của họ dường như có điều gì giống nhau. Nhưng Ando sao biết được, nó có liên quan gì đến việc họ xem cuốn băng . Khi , đột nhiên nhận ra rằng tòa nhà nơi thi thể Mai được tìm thấy cách xa bệnh viện mà vừa rời khỏi. thắc mắc tại sao lại chọn leo lên sân thượng của toà nhà văn phòng cũ nát; giờ có cơ hội xem qua và có lẽ hiểu ra. cần đến đó ngay, trước khi bất cứ bằng chứng nào mất . quyết định quay lại phố Nakahara và bắt chiếc taxi. đến đó trong mười phút nữa. Sau khi dừng lại lần để mua hoa, Ando bảo taxi cho xuống trước nhà kho của công ty vận tải. Tất cả những gì nghe được tại phòng Giám định Pháp y là tên công ty và lời chỉ dẫn rằng toà nhà nằm ở phía Nam nhà kho; biết tên toà nhà là gì. Đứng bên vệ đường, nhìn ngôi nhà ở hướng nam. thể nào nhầm với căn nhà khác được. Đó là toà nhà mười bốn tâng, có cầu thang hình xoắn ốc phía chạy dọc lên ở khoảng giữa bức tường ngoài của toà nhà với nhà kho. Ando đến cửa trước toà nhà rồi dừng lại. vòng ra chỗ cầu thang bên ngoài. cố nghĩ xem làm thế nào Mai lên được kia. có thể dùng thang máy để lên tầng mười bốn, ra cửa thoát hiểm ở đó, rồi leo thang lên sân thượng, hoặc có thể dùng cầu thang thoát hiểm nối từ mặt đường lên tận chiếc thang lên sân thượng. Có lẽ vào ban đêm người ta khoá sập cửa ở trước, do đó phải vào qua lối dành cho thợ bảo dưỡng, vốn được bảo vệ nghiêm ngặt. Và nếu quá muộn, lối vào dành cho thợ bảo dưỡng cũng bị khoá nốt, người bảo vệ cũng về. Nếu lên vào ban đêm, hẳn phải dùng lối thoát hiểm. Nhưng có cánh cổng ở đầu cầu thang tầng hai, và trông như khó mà qua được. Ando trèo lên đó và quan sát. cánh cổng sắt, có tay nắm. cố vặn tay nắm, nhưng nó nhúc nhích. Hẳn là nó bị khoá ở mặt bên kia để ngăn ngừa xâm nhập. Tuy nhiên, cánh cổng chỉ cao tầm 1,8 mét, người nhàng và nhanh nhẹn có thể vượt qua dễ dàng. Mai từng tham gia đội tuyển điền kinh ở trường trung học; hẳn trèo qua cánh cửa đó mấy khó khăn. Bên cạnh , phía chân cầu thang là cánh cửa dẫn vào toà nhà. cố xoay nắm cửa, nhưng ngạc nhiên, cánh cửa này cũng bị khoá. tự hỏi Mai đến đây vào thời gian nào trong ngày. Nếu vào ban ngày, có lẽ dùng thang máy để lên tầng mười bốn. Nếu vào ban đêm, hẳn trèo qua cánh cổng và theo lối cầu thang. Ando quay lại phia cửa trước toà nhà, vào, và đến chỗ thang máy. Có hai thang máy, và cả hai chờ ở tầng trệt. Mỗi tầng của toà nhà dường như được hoặc nhiều doanh nghiệp khác nhau thuê, tên của tất cả các doanh nghiệp để được ghi theo từng tầng, tấm bảng cạnh thang máy. Nhưng gần nửa số công ty đó bị gạch xoá. Hẳn là họ chuyển mà chủ cho thuê nhà vẫn chưa tìm được người thuê mới thay thê. Toà nhà yên ắng và gây chút cảm giác bị bỏ hoang. Đến tầng mười bốn, bước ra khỏi thang máy và vào hành lang tối, ở đó tìm cầu thang lên sân thượng. Sau khi dọc lượt suốt chiều dài hành lang, vẫn tìm thấy cầu thang nào cả. Mai hẳn phải ra phía ngoài. Quả thực, có cánh cửa ở cuối hành lang, Ando mở cửa rồi bước ra ngoài. Gió từ biển thổi vào mạnh đến mức phải dựng cổ áo khoác kên. Chỉ khi ở đây, tầng cao nhất, mới nhận ra Vịnh Tokyo gần đến thế nào. Kia là kênh đào Keihin, xa hơn nữa là bến tàu Oi, và cuối cùng là đường hầm Cảng Tokyo nhanh chóng bị biển nuốt chửng. Từ điểm nhìn thuận lợi đó, hai lỗ đen lối vào đường hầm trông bất thường. nghĩ chúng trông giống lỗ mũi của người chết đuối với khuôn mặt nổi lên từ mặt nước. Từ chỗ này cũng nhận ra tại sao tầng mười bốn dường như quá chật chội bất chấp kích thước của toà nhà. Các kiến trúc sư thiết kế diện tích nền của tầng này bằng chừng nửa so với những tầng khác, sử dụng gian còn lại cho ban công ngoài chạy bao quanh toà nhà cả bốn phía. Ando bước ra, và thấy thoát hiểm nằm ở góc ban công. Nhưng thi thể của Mai được tìm thấy ở chỗ cao hơn nữa. Bên cạnh cánh cửa có chiếc thang được xây gắn vào tường, chạy thẳng lên. Từ chân thang lên đến đỉnh cao chừng ba mét. Cố tưởng tượng xem Mai có thể cảm thấy thế nào, Ando ngậm bó hoa vào miệng, túm lấy thanh ngang và bắt đầu trèo. Điều gì khiến ấy lên tận đây? Ando tự hỏi trong khi leo lên từng bậc thang. phải muốn nhảy xuống. Điều này hẳn khi xét đến cách toà nhà được thiết kế. Nhảy từ sân thượng, chỉ rơi chừng hơn ba mét xuống ban công phía dưới. Để rơi xuống tận mặt đất, phải nhảy từ đầu cầu thang thoát hiểm ở tầng mười bốn. Đây cũng phải kiểu sân thượng người ta leo lên để ngắm cảnh. Sơn chống thấm bong tróc và nứt nẻ, khiến cho lối dưới chân trở nên khó chịu khi bước qua. có dãy lan can chạy quanh mép sân thượng, và đến gần mép ngay cả khi ban công ở gần bên dưới. Có những ụ bê tông nhô lên được đặt với khoảng cách đều đặn, hình dáng giống như những ụ đá bốn chân dùng làm vật chắn sóng bờ biển. Ando biết chúng được dùng để làm gì, nhưng chúng cao vừa tầm để ngồi lên. Thay vì ra mép sân thượng, trèo lên cái ụ và nhìn xung quanh. Giờ chưa đến năm giờ, vào thời gian này trong năm, mặt trời lặn sớm nhất. Đèn bật sáng ở những toà nhà xung quanh và những cửa hàng bên phía dưới. Phía bên kia kênh đào, có thể nhìn thấy tàu Keihin Express màu đỏ chạy vụt qua sân ga như thể lao trong trung. biết sân ga đó. ở đó hai lần khi đến căn hộ của Mai. Bọc trong thứ ánh sáng trắng khuếch tán, trông con tàu khá vắng khách so với thời điểm này trong ngày. Dùng nhà ga làm điểm tham chiếu, cố định vị căn hộ của Mai. thấy nó chỉ cách chừng bốn trăm mét theo đường chim bay; có thể nó ở ngay đằng trước mũi . Ánh mắt nhìn dọc theo con phố theo con phố mua sắm, rẽ sang phải theo đường Shore. Thêm trăm mét nữa là đến toà nhà nơi đứng. Tại sao lại sân thượng nhà này? Có vô số toà nhà cao tầng khác trong khu vực. Thực tế, có thể trèo lên sân thượng của chính toà nhà nơi sống. đảo mắt nhìn quanh cho đến khi thấy toà nhà đó. Có lẽ bởi vì toàn bộ các phòng trần đều thấp, ngôi nhà bảy tầng chưa cao bằng nửa so với toà nhà mà Ando đứng. Những sân thượng toà nhà Mai ở có khoảng phẳng phiu để dạo bộ. Đồng thời, nó là những toà nhà cao tầng. Đặc biệt, có tòa nhà thưong mại cao chín tầng về phía Tây, có thể dẽ dàng nhìn được sân thượng của nó. Đó là toà nhà nổi bật nhất Ando nhìn thấy. đường Shore đầy những nhà kho, có nhiều những tòa nhà cao tâng ngay sát xung quanh. sợ có ai đó có thể nhìn thấy từ xuống. Ando xuống khỏi ụ bê tông và đến đứng giữa hai phòng thiết bị nhô lên. phòng vận hành thang máy, còn phòng kia dường như chứa hệ thống thông gió. Có bể chứa nước lớn đỉnh của phòng thiết bị phía Nam. Giữa hai phòng đó là rãnh sâu được dùng làm khoang thông gió. Ando cẩn thận, dò dẫm từng bước , tiến dần lên cho đến khi đứng cạnh nó. Cái khoang được rào lưới thép, nhưng có các lỗ rách lưới. Hẳn là nhóm bảo dưỡng quyết định mặc kệ những lỗ rách, vì cho rằng ngoài họ ra có ai lên đến đây. Ando thể bước gần thêm được nữa. Chỉ đặt chân lên mép của cái hố hình chữ nhật tối om này, cảm thấy mình sắp bị nó hút vào. Nhưng rướn người ra trước rồi run run, ném bó hoa cầm xuống trong các lỗ rách của lưới sắt. chắp hai bàn tay cầu nguyện cho được an nghỉ vĩnh hằng. Nếu hôm qua nhân viên kỹ thuật đến đây để kiểm tra thang máy, có lẽ Mai nằm ở đó lâu hơn mà ai phát ra. Bóng đêm nhanh chóng đổ xuống. Sân thượng giờ bị bao phủ trong bóng tối, và cơn gió từ biển xoáy vào khoảng trời hẹp nơi Ando đứng, ba phía bao quanh là bê tông. rùng mình. Đáng lẽ ra nên đến sớm hơn, khi mặt trời còn đỉnh đầu. Nhưng biết là mình đủ can đảm, thậm chí ngay giữa ban ngày, để nhìn vào cái khoang, cái hố chỉ mới hôm qua còn chưa xác chết. chỉ ý nghĩ về xác chết khiến nổi da gà. Ý nghĩ về việc phải chờ chết dưới cái chỗ bưng kín ấy cũng khiến kinh hãi. Mai nằm dưới đó bao nhiêu ngày, mắt cá chân bị trẹo do ngã, thể đứng được, nhìn vào khoảng trời phía chừng ba mét, dần dần bị mất hết hy vọng, cho đến khi chết? Có lẽ giống như cảm giác bị chôn sống cỗ quan tài lơ lửng giữa trời. Ando thấy khó thở. Tình huống quá bất thường, thể gọi là tai nạn được. Từ bên trong phòng máy, nghe tiếng rì rì như thể dây cáp được cái tời quấn vào. ràng thang máy hoạt động. Ando bắt đầu lùi lại từng bước để ra khỏi khoảng giữa hai phòng máy. Tường của hai phòng có những chỗ nhám xù xì và đen sỉn, sơn bị bong, chứng tỏ chỗ này hiếm khi có người đến. ra khỏi nơi này nhanh hết sức, chạy đến thang và leo xuống ban công tầng mười bốn. Thanh thang dưới cùng cách mặt sàn gần mét, nên phải nhảy xuống. Ando bị trượt chân khi tiếp đất. Gót chân bị tê cứng lúc; chúi xuống và thấy tầm mắt mình ngang với bậc cuối cùng của chiếc thang gỉ. quay vào trong và tiến về phía thang máy. chiếc thang máy chầm chậm lên. nhấn nút chiếc thang máy đó và đứng chờ trước cửa. Trong lúc chờ đợi, cố nghĩ xem tại sao Mai lại lên sân thượng của toà nhà này. tính đến khả năng bị theo dõi. Khu nhà kho hầu như vắng người vào ban đêm, và có lẽ, khi qua đây, nhận ra là bị người khác bám theo. nhìn thấy cầu thang phía ngoài toà nhà có chiếc cổng sắt. Nhận định rằng có thể trèo lên đó còn kẻ lạ mặt , nên trèo lên. Có lẽ kẻ lạ mặt kia sau đó cũng trèo được qua cánh cửa, và Mai còn cách nào khác là tiếp tục trèo lên. Sai lầm đầu tiên của , đúng là sai lầm, đẩy đến ngõ cụt. Chiếc thang dẫn lên sân thượng có lẽ là lối thoát cuối cùng của . Bậc thang thấp nhất cách sàn gần mét. Hy vọng rằng cuối cùng kẻ theo đuổi từ bỏ, Mai trèo lên sân thượng. Vậy là kẻ lạ mặt có bám theo nữa ? Ando cố tưởng tượng xem hạng người nào gặp khó khăn khi trèo lên chiếc thang được dựng vuông góc với mặt sàn, và hình ảnh ra trong đầu là con thú bốn chân. Khi ý nghĩ đó vừa đến cũng là lúc thang máy mở cửa. Thang máy có người. Ando nhìn vào mũi giày; ngưóic mắt lên và bắt gặp ánh mắt của . ta nhìn như thể phục sẵn. Chắc chắn gặp này rồi, trong tình huống tương tự. ta là người ra từ phòng Mai và chung thang máy với . Móng tay bị nứt, và cái mùi đó, chưa bao giờ ngửi thấy mùi như thế - có cố cũng thể quên được ta. Giờ lại đứng ngay trước mặt, đối diện với ta, và đờ người. bối rối. Đầu óc thể xử trí những gì thấy, và cơ thể còn tuân theo ý chí của nữa. Sao. . Ta. Ở. Đây? cuống quýt tìm lý do, cái lý do có khả năng tìm thấy. Việc tìm được lý do nào hợp lý chính là điều làm sợ hãi. Chừng nào có được lời giải thích nỗi kinh sợ mới có thể bị xua . Khi họ nhìn nhau, cửa thang máy bắt đầu đóng lại giữa họ. đưa tay ra giữ cho cửa mở. Động tác mềm mại, khéo léo. ta mặc váy chấm màu xanh dương, phía dưới chiếc váy có thể nhìn thấy chân ta, đôi chân trần, mang tất bất chấp thời tiết mùa đông. Tay phải ta giữ cửa; còn trong tay kia là bó hoa . Hoa! Ánh mắt Ando dừng lại ở bó hoa. "Tôi gặp rồi, có đúng ?" ta bắt chuyện, giọng lôi kéo được . Giọng trầm hơn trông đợi khi nhìn vào vẻ mỏng manh của ta. Miệng Ando há hốc cho đến khi cuối cùng thốt ra được vài lời từ đáy họng khô khốc. " là chị của Mai phải ?" Đó là vai muốn cho ta sắm. Nếu đúng như thế, cũng hợp lý: ta ra từ phòng Mai, ta đến toà nhà này với bó hoa. Mọi việc được giải thích. hơi cử động đầu cách khó lý giải. hẳn là cái gật đầu, cũng hẳn là lắc. Cũng có thể là xác nhận hoặc bác bỏ, nhưng Ando quyết định rằng ta định là phải. ta là chị của Mai, đến để đặt hoa sân thượng toà nhà nơi em mình chết. Điều này hoàn tự nhiên, rất hợp lý. Người ta chỉ tin vào những thứ họ có thể hiểu được. Khi hiểu như thế, nỗi sợ trước đó khiến buồn cười. sợ điều gì chứ? thể hiểu nổi tâm lý của mình. Lần đầu gặp nhau, này gây cho ấn tượng mạnh mẽ về thế giới bên kia. Nhưng giờ đấy khi bí được lý giải, ấn tượng đó nhạt nhoà như thể lời dối, trong khi chỉ có vẻ đẹp của choán hết cách nhìn nhận về . Sống mũi thanh tú của , đường nét tròn mềm mại nơi gò má, đôi mắt hơi xếch với hàng mi rậm. Chúng nhìn thẳng vào ; chúng dường như chú ý tập trung vào đâu. Trong ánh mắt đo giấu vẻ rực sáng quyến rũ. Đôi mắt ấy. Khi gặp ta hôm trước tại căn hộ của Mai, ta đeo kính. Đây là lần đầu nhìn thấy mắt ta. Cái nhìn đó, thẳng vào , có sức hút mãnh liệt. thấy khó thở, trông ngực đập thình thịch. "Xin lỗi, nhưng mà..." Từ cách và nét mặt ràng ta muốn biết mối quan hệ giữa với Mai. "Tôi là Ando. Làm việc ở Trường Y của Đại học Fukuzawa." biết rằng điều này trả lời đúng câu hỏi của . bước ra khỏi thang máy, tay vẫn giữ cho cửa mở, và mắt ra hiệu cho bước vào. phải tuân theo. Những cử động tinh tế của ta khiến còn sức để từ chối. Như thể bị bỏ bùa, Ando bước vào thang máy ngay chỗ ta đứng. Họ nhìn nhau lần nữa từ vị trí bây giờ đảo ngược. "Tôi có lời đề nghị, sớm nhờ đến ." ta điều này ngay trước khi cửa đóng. Ando nghe rất , đó chắc chắn là lời ta . Cánh cửa đóng lại như cửa chập của ống kính máy ảnh, xoá bỏ khỏi tầm nhìn của Ando, nhưng hình ảnh ta in trong não . Khi thang máy xuống chầm chậm, Ando thấy mình mất tự chủ bởi ham muốn thể kiểm soát được. Mai là đối tượng của những tưởng tượng dục tình đầu tiên có kể từ khi gia đình đổ vỡ, nhưng lần còn mãnh liệt hơn nhiều. chỉ mới ở bên ấy vài giây, nhưng có thể nhớ mọi chi tiết cơ thể ta, từ đường con nơi mắt cá chân, lộ trần ra phía bên đôi giầy vải, cho đến khoé mắt . Hình ảnh của ta trong vẫn còn ràng, ngay cả khi những giây phút đó qua . Bối rối vì dục vọng bất ngờ, Ando lao nhanh ra khỏi toà cao ốc, vẫy chiếc taxi, rồi vội vã về nhà. taxi, nghĩ về những lời sau cùng của . Tôi có lời đề nghị, sớm nhờ đến . Đề nghị của ta là gì? ta có ý gì khi "nhờ đến" ? Liệu đó có phải là kiểu đùa xã giao ? vội vã rời khỏi toà nhà taxi, như thể bị ánh mắt ta rượt đuổi. tiếc hỏi ít nhất là tên và số điện thoại của ta. Tại sao hỏi? Lẽ ra nên chờ ta từ sân thượng xuống. Như thể mỗi hành động của đều bị kia kiểm soát. hành động trái với ý chí của mình. PHẦN 4.5 tuần trôi qua kể từ ngày khám nghiệm tử thi của Mai. vào tháng Mười hai, tiết trời đột ngột trở nên lạnh giá. Ando chưa bao giờ thích mùa đông - thích thời tiết cuối xuân đầu hè hơn - nhưng từ khi con trai qua đời, quan tâm nhiều đến thay đổi các mùa nữa. Dẫu vậy, cái lạnh buốt của buổi sácg buộc phải nhận ra mùa đông đến. đường đến trường đại học, vài lần dừng lại, định quay về lấy thêm áo ấm, nhưng cuối cùng vẫn tiếp. muốn quay về, vả lại bộ cũng khiến người ấm lên. Căn hộ của ở Sangubashi khá gần trường đại học nên nếu muốn có thể bộ đến chỗ làm. Và mặc dù thường tàu, quãng đường ngắn, nhưng việc chuyển tàu, điều bắt buộc phải làm, chưa bao giờ diễn ra suôn sẻ. Do đó, và cũng bởi vì biết rằng cần vận động thân thể, nên đôi khi Ando đành vừa vừa chạy từ nhà đến chỗ làm và ngược lại. Ngày hôm nay bắt đầu giống trong những ngày đó, nhưng giữa đường đến trường, đổi ý và bắt tàu tại nhà ga Yoyogi. muốn đến trường sớm. Vì chỉ còn hai ga nữa là tới, có thời gian sắp xếp lại những suy nghĩ khi ở trong tình trạng lắc lư khoang tàu. Sáng nay định đến xem mẫu tế bào của Mai và Ryuji dưới kính hiển vi điện tử. Ý nghĩ về điều chờ đợi phía trước khiến Ando sốt sắng. Cho đến lúc này, người ta tìm thấy loại virus giống virus đậu mùa ở bất cứ người nào chưa từng xem cuốn băng. chưa có báo cáo nào về trường hợp loại virus này lây lan do tiếp xúc qua da. Trong phòng Mai, thấy bản sao cuốn băng, bị xoá. Hai kiện này có nghĩa rằng nếu tế bào máu của Mai có diện của virus, có thể kết luận xem cuốn băng. Tai hoạ đổ xuống đầu chính là do cuốn băng gây ra. mải suy nghĩ đến mức suýt lỡ bến, nhưng nhảy được ra khỏi tàu ngay trước khi cửa đóng lại. cuốn theo dòng ngưòi về phía cửa soát vé. Bệnh viện đại học nằm oai nghiêm ngay phía ngoài nhà ga. Ando ngó đầu vào phòng xét nghiệm, thấy Miyashita quay khuôn mặt đỏ lựng về phía . "Cuối cùng cũng xuất !" Miyashita và Nemoto dành cả tuần trước để chuẩn bị cho buổi làm việc qua kính hiển vi hôm nay, virus phải là thứ mà ta có thể chỉ cần đặt dưới kính hiển vi rồi lúc nào đó có hứng thú xem. Rất nhiều việc cần phải làm trước, dùng máy ly tâm, tách tế bào, và vân vân. Quy trình này quá sức đối với người ngoại đạo như Ando. Nhìn những chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, có thể thấy Miyashita nóng lòng chờ đợi đến giây phút này. ta ở đó từ sáng sớm để sửa soạn. "Tắt đèn," Nemoto . "Tuân lệnh!" Miyashita đáp, nhanh chóng tắt đèn. Mặc dù họ hoàn tất việc sắp xếp chuỗi bazơ từ trước, nhưng đây là lần đầu chính mắt họ được thấy trực tiếp virus. Loại virus này được tìm thấy trong máu của Ryuji và có lẽ cả trong máu của Mai nữa. Nemoto mình vào phòng tối, đặt mẫu siêu mỏng lên giá mẫu. Ando và Miyashita ngồi trước bảng điều khiển, nhìn chăm chú vào màn hình, im lặng tuyệt đối. Mặc dù màn hình còn trống, nhưng mắt của hai người vẫn linh hoạt theo đuổi hình ảnh tưởng tượng của những gì họ sắp thấy. Nemoto quay lại và tắt bóng đèn cuối cùng trần. Tất cả sẵn sàng. Cả ba người nín thở nhìn màn hình. cách chậm rãi, khi mẫu siêu mỏng của lớp tế bào được chiếu sáng, chùm eletron, thế giới vi mô bắt đầu mở ra trước mắt họ. "Chúng ta quan sát virus của ngưòi nào đây?" Miyashita hỏi Nemoto. "Của Takayama." Khối màu xanh màn hình trước mắt họ là cả thế giới riêng. cú vặn núi điều khiển đưa tầm nhìn của họ chạy ngang bề mặt của tế bào. Đâu đó trong tế bào loài virus nấp. "Thử tăng độ phóng đại lên," Miyashita . Nemoto đáp ứng ngay, chuyển máy sang mức x9000. Nhìn lại bề mặt tế bào họ thấy những tế bào chết. Tế bào chất loé sáng lên, trong khi bào quan chuyển thành các phẩm màu đen. "Tập trung vào tế bào chất phía bên phải và tăng độ phóng đại." Khi , khuôn mặt Miyashita phản chiếu hình dạng lấm chấm của các tế bào chết và có vẻ sáng mờ của bức tượng đồng bán thân. Nemoto tăng độ phóng đại lên x16000. "Nữa." X21000 "Rồi. Dừng lại." Miyashita cao giọng, và ta liếc nhìn Ando, nhoài người ra trước, mặt sát màn hình. Chúng đây rồi... cả đám! Những hình sợi xoắn quanh các tế bào chết trông như bầy rắn cắn xé và bám vào bề mặt chất nhiễm sắc. cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Ando. Đây là loại virus mới, chưa ai từng thấy loại tương tự trước đây. chưa bao giờ nhìn thấy virus đậu mùa qua kính hiển vi điện tử, nhưng biết nó qua các tài liệu y khoa. Nhìn qua cũng có thể thấy ngay khác nhau giữa hai loại virus. "Lạy trời." Miyashita ngồi đó thở hắt, miệng há hốc ra. Ando hiểu cơ chế hoạt động của virus: cách nó theo mạch máu đến động mạch vành, tại đó nó bám vào thành trong của động mạch vành trước đoạn phân nhánh, gây đột biến trong tế bào của vùng đó cho đến khi những đột biến đó hình thành khối u. Điều thể hiểu được là làm thế nào loại virus nhìn thấy đây lại có thể được tạo ra thông qua ý thức của nạn nhân. Virus này xâm nhập từ bên ngoài vào cơ thể. Mà nó được sinh ra từ bên trong, là hệ quả của việc xem cuốn băng; đó là chức năng của tâm trí. Điều đó quá bí khiến Ando chết lặng. Nó thể bước nhảy từ hư vô đến hữu, từ ý niệm đến vật chất. Trong suốt lịch sử Trái Đất điều như vậy chỉ xảy ra lần duy nhất, là khi sống bắt đầu xuất . Điều này có nghĩa là sống xuất do hoạt động của ý thức nào đó? Ý nghĩ của Ando trệch lối. Miyashita đưa trở lại thực tại bằng nhận xét tiếp theo của ta. "'Ring', có ai thấy ?" Ando quay lại nhìn màn hình kính hiển vi điện tử. mất nhiều thời gian để hiểu được nhận xét của Miyashita; ta cố tìm cái gì đó đê so sánh với hình dạng của virus. số virus dạng xoắn, số có hình chữ u, nhưng hầu hết chúng trông giống như chiếc nhẫn hơi bị biến dạng, là đồ vật mà ta đeo ở ngón tay. Chính xác là "ring". Thậm chí còn có chỗ nhô ra tại điểm, trông giống gì hơn mặt đá đặt đế. Màn hình trông như cảnh tượng nền nhà rắc bừa bãi những chiếc nhẫn, những con rắn và những sợi dây chun xoắn vào nhau. Ando và Miyashita, những người phát ra loại virus mới kỳ lạ, có trách nhiệm phải đặt tên cho nó, và nhận xét của Miyashita như lời gợi ý. Virus Ring. "Tên nó thế nào?" Miyashita muốn nghe ý kiến của Ando. Cái tên hoàn hảo, nhưng Ando thấy khó mà nêu lý do. Nó quá hoàn hảo, khiến tự hỏi có phải thực tế giống-tạo-hoá gây nên cảm nhận đó . Toàn bộ chuyện này bắt đầu như thế nào? Ando nhớ lại chút khó khăn: nó bắt đầu từ những con số tờ báo lòi ra khỏi đường khâu ở bụng Ryuji. 178, 136. Những số đó cho từ tiếng "ring". Rồi tìm được bài phóng kỳ lạ, nó được đặt nhan đề là Ring. Và giờ, cái này, cái quan sát - là loại virus có hình dạng giống chiếc nhẫn. Tưởng như ý chí nào đấy, thay hình đổi dạng sau mỗi lần tái sinh để phát triển thành cái gì đó lớn hơn, chọn hình này làm biểu tượng. Thế giớ vi mô có những dạng vẻ đẹp nảy sinh từ lặp lại theo chu kỳ, nhưng điều Ando nhìn thấy là thứ xấu xa núp dưới vẻ ngoài đẹp đẽ. chỉ bởi hiểu biết trừu tượng rằng virus này gây hại cho con người mà Ando thấy nó xấu xa. Điều cảm thấy gần giống như lòng căm thù bản năng đối với những sinh vật có hình dạng ngoằng ngoèo. Bất cứ người nào được cho xem hình này, mà trước đó hoàn toàn biết đến nó, có lẽ phản ứng bằng ghê tởm. Như để chứng minh điều đó, Nemoto, người biết rất ít về nguồn gốc của virus, rùng mình thấy . Tay ta rung lên các nút điều khiển. Chỉ có chiếc máy vẫn bị ảnh hưởng, nó phát ra những hình ảnh bản cách chút cảm xúc. Khi chụp được bảy tấm hình, Nemoto gom chúng lại và vào phòng tối. Trong khi chờ tráng chúng ra, ta đặt mẫu siêu mỏng từ tế bào máu của Mai lên giá mẫu. Sau đó ta quay lại bàn điều khiển và nhàng bật công tắc. "Tiếp theo chúng ta xem virus trong máu Takano." Họ tăng dần độ phóng đại, như làm với mẫu virus của Ryuji. Họ dễ dàng thấy cái tìm kiếm. nghi ngờ gì nữa, chúng thuộc loại virus. Chúng quằn quại như những con virus trong máu Ryuji. "Giống y hệt," Ando và Miyashita cùng lúc. Cả hai người đều thấy bất cứ điều gì cản trở việc đưa ra kết luận đó. Nhưng Nemoto, chuyên gia vi mô điện tử, lại nhạy bén hơn đối với những khác biệt bé. "Lạ ." Miyashita nhìn ta nghiêng đầu, tay bóp cằm, rồi hỏi, "Cái gì lạ?" "Tôi gì cho đến khi so sánh những tấm ảnh." Nemoto bao giờ cũng thận trọng trong mọi việc, ta do dự, chưa đưa ra kết luận khi chỉ hoàn toàn dựa ấn tượng về virus của Ryuji. Phương châm của ta là khoa học cần bằng chứng, chứ phải cảm giác. Ngoài ra, Nemoto chắc chắn rằng ta nhận thấy khác biệt về số lượng. phải thay đổi về tổng số các con virus trong mỗi mẫu. Điều ta nhận thấy, là trong mẫu virus của Mai có nhiều vòng bị gãy. Dĩ nhiên, trong mẫu virus của Ryuji, số con virus đứt ra, tạo thành hình chữ u, hoặc giống hình con rắn cuộn tròn, nhưng hầu hết chúng đều nguyên vẹn và trông như những vòng nhẫn. Trong trường hợp của Mai, có nhiều vòng nhẫn bị gãy hơn, và duỗi rra trông giống như những sợi dây. Để xác nhận những nghi ngờ của mình, Nemoto tập trung vào con virus trông khả dĩ và điều chỉnh tiêu cự cho đến khi mẫu virus tràn màn hình. Nếu virus bình thường trông như vòng nhẫn, mẫu virus này trông như vòng nhẫn bị đứt ở phía mặt đá. "Mặt đá" và "chân đế" giờ trông như chiếc đầu có đuôi ngọ nguậy đằng sau. Kết quả là hình dạng mà Ando, Miyashita và Nemoto thấy rất quen thuộc. Cùng lúc cả ba đều nghĩ đến cùng điều nhưng ai dám ra. PHẦN 4.6 Ấn tượng ban đầu của Nemoto được chứng minh khi ta so sánh các bức ảnh chụp virus Ring. Ở bất cứ phần nào trong mẫu mô của Mai, số lượng virus hình vòng nhẫn đứt hay hình dây lớn hơn so với vùng tương ứng trong mẫu mô của Ryuji. theo lối thống kê, gần phần mười virus trong máu Ryuji bị đứt vòng, còn đối với Mai, tỷ lệ này là năm mươi phần trăm. chênh lệch ràng như thế thể diễn ra mà có lý do. Ando đề nghị quan sát mẫu virus tất cả các nạn nhân của cuốn băng dưới kính hiển vi điện tử. Mãi cho đến thứ Sáu, sau kỳ nghỉ Năm Mới, mới có tất cả các kết quả. Liếc ra ngoài cửa sổ phòng xét nghiệm, có thể nhìn thấy tuyết sót lại từ trận tuyết đêm qua vẫn còn vương những cành khô trong Khu Ngoại viên Đền thờ Minh Trị. Mệt mỏi với việc phân tích các bức ảnh, Ando đến bên cửa sổ ngắm quang cảnh bên ngoài. Nhưng Miyashita nghỉ ngơi gì hết, ta cẩn thận so sánh các bức ảnh mặt bàn. Tính cả Asakawa và Mai, mười người chết sau khi xem cuốn băng. Trong máu các nạn nhân người ta tìm thấy cùng loại virus, và chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính virus này là nguyên nhân của cái chết. Nhưng xét theo tỷ lệ virus vòng đứt, các nạn nhân được chia thành hai nhóm. Trong trường hợp của Mai và Asakawa, các vòng đứt chiếm nửa số lượng virus trong mẫu máu, còn ở những người khác, số lượng virus vòng đứt chỉ chiếm phần mười. Đây phải là kết quả gây ngạc nhiên đặc biệt. Dường như số mệnh của người nhiễm virus có liên hệ với mức độ diện của các virus vòng đứt. Các số liệu cho thấy khi số lượng virus vòng đứt vượt quá tỷ lệ nhất định, vật chủ tránh được cái chết do đứng tim, tuy nhiên còn chưa chính xác tỷ lệ phần trăm ấy là bao nhiêu. Mai và Asakawa xem cuốn băng. Virus xuất trong cơ thể họ. Tính đến điểm này, họ khác gì chín nạn nhân kia. Nhưng điều gì đó khiến số virus biến thành hình dây, và những vòng đứt này vượt quá mức độ nhất định. Đó là lý do tại sao ngay cả khi xem cuộn băng, cả Mai và Asakawa đều chết vì suy tim cấp. Câu hỏi là, điều gì khiến virus trong máu họ đứt ra? Điều gì làm cho họ khác với chín người kia? " dạng miễn dịch nào đấy?" Ando thắc mắc. "Đó là khả năng," Miyashita , ngước đầu lên. "Hoặc có lẽ..." Ando hạ giọng. "Có lẽ sao?" " điều gì đó liên quan đến chính loại virus này?" "Cá nhân tôi ngả theo hướng ấy," Miyashita , gác chân lên chiếc ghế trước mặt, ưỡn cái bụng bự ra. "Vì trò tinh quái của bốn thanh niên đầu tiên xem cuốn băng, nó bị đẩy đến tuyệt chủng trong tương lai -quá-xa. Để tìm lối thoát, virus phải đột biến. Đúng như Ryuji với chúng ta qua thông điệp của ta. Giờ : chính xác nó đột biến như thế nào, và nó tiến triển thành cái gì? Tôi cho rằng, câu trả lời nằm ở loại virus Ring trong người Mai Takano và Kazuyuki Asakawa. chính xác là trong hình dạng bất thường của nó." "Theo lý thuyết, virus mượn tế bào của vật chủ để tự sinh sản." "Đúng." "Và đôi khi, sinh sản đó diễn ra với tốc độ bùng nổ." Đây cũng là thứ kiến thức quá phổ thông. Để tìm ví dụ về phát tán dữ dội của virus, người ta chỉ cần dẫn đến nạn dịch Cái chết Đen lan tràn thời Trung cổ, hoặc dịch cúm Tây Ban Nha thời đại. " sao?" Miyashati giục Ando tiếp. "Thử nghĩ xem. Cuốn băng bảo người ta, 'Sao bản trong vòng tuần, ngươi chết.' thậm chí nếu người xem có làm thế, chỉ cuốn băng được nhân đôi lên. Tỷ lệ này quá thấp. Giả sử những người xem sau này lại quá trình đó, sau tháng chỉ mới có bốn cuốn băng." "Cậu có lý." "Điều đó chẳng có gì đáng sợ." "Ý cậu là nó giống virus, đúng ?" "Nếu nó gia tăng theo cấp số nhân, rất khó mà phát tán được." Miyashita nhìn trừng trừng Ando. "Chính xác cậu muốn cái gì?" "Chỉ là..." Ando chắc mình muốn gì. Có phải cố giải thích việc theo hướng tồi tệ hơn? Chắc chắn có nhiều trường hợp khi con virus, chỉ trong vòng đêm, lây lan cho hàng nghìn, hàng chục nghìn nạn nhân. Đó là lý do để virus tồn tại, nó tự tái tạo lại đồng thời với số lượng rất lớn. Việc sao chép cuốn băng, mỗi lần cuốn, mang lại hiệu quả. Kết quả lên điều đó, chỉ ba tháng sau khi được tạo ra, cuốn băng giờ tuyệt diệt. Trừ phi nó được tái sinh thông qua đột biến. "Chỉ là tôi có dự cảm xấu về chuyện này." Ando nhìn lại các bức ảnh virus Ring. Hàng vô số, đè lẫn lên nhau. Khi vài con virus chồng lên nhau, chúng trông giống như cuộn băng bị tháo ra và cuốn rối. ngoại cảm Sadako Yamamura, bờ vực cái chết, chuyển thông tin thành hình ảnh, để lại dạng năng lượng ở đáy giếng. Cuốn băng được tạo ra là kết quả của giải phóng năng lượng đó. Vấn đề phải là phát tán, mà là thông tin, như được ghi lại cuốn băng và ADN. thể rũ sạch nỗi nghi ngờ rằng dạng đột biến khủng khiếp diễn ra ở đâu đó mà biết. Ando đến căn hộ của Mai, cũng đến khoang thông gió sân thượng mà rơi xuống. cảm thấy kỳ quái trong căn phòng , cảm thấy quái dị dưới chân mình sân thượng. Có lẽ đó là lý do tại sao cảm nhận được mối nguy hiểm gieo rắc lên nhiều hơn Miyashita. hầu như cố thể nghe thấy tiếng vặn xé của cái gì đó ráo riết dưới lòng đất. "Cậu có cảm thấy thảm hoạ đến ?" Giọng Miyashita nghe có vẫn khá thoải mái. "Chỉ là tất cả kỳ quái." Ngay từ khi mổ cho Ryuji, Ando bị lôi vào thế giới kỳ quái. Nền bê tông như mềm và nhớp dính dưới bước chân của , mùi hương cuộc sống lan toả trong căn phòng có người ở. tượng khó hiểu này tiếp sau tượng khó hiểu khác. Và rồi thứ mà Mai sinh ra; chính ý nghĩ ấy khiến rùng mình. Mai chết được tháng rưỡi, và người ta chưa tìm thấy manh mối nào cho biết Mai sinh ra cái gì. Ando nghĩ sinh ra đứa bé đáng . "Đừng ủ rũ thế. Nếu nó có đột biến, có gì đảm bảo rằng nó thích nghi được với môi trường." "Thế cậu nghĩ loại virus đột biến cũng bị tuyệt chủng sao?" "Chúng ta thể loại bỏ khả năng này." "Lạc quan quá." "Nhớ đại dịch cúm Tây Ban Nha xem, bệnh dịch càn quét cả thế giới vào năm 1918. Người ta tìm thấy đúng loại virus đó năm 1977, nhưng lúc này có ai bị chết cả. Lúc đầu mới xuất nó giết chừng hai mươi đến bốn mươi triệu ngưòi toàn thế giới, nhưng sáu mươi năm sau, nó cơ bản là vô hại." "Tôi cho là virus có thể bị yếu qua quá trình đột biến." Đúng là kết từ khi phát ra thi thể của Mai, người ta chưa tìm thấy thêm cái chết bí nào nữa. vẫn theo dõi sát sao báo chí và khai thác các mối quan hệ của mình ở sở cảnh sát, nhưng cho đến nay mạng lưới của chưa phát được gì. Có thể Miyashita đúng, loại virus đột biến mới được tái sinh đó thích nghi với môi trường trong khoảng thời gian ngăn cần thiết, do đó nó mất khả năng phát tán. Có lẽ nó bị tuyệt diệt. "Nên làm gì tiếp theo đấy?" Miyashita hỏi, đá chân lên sàn và xoay người ghế. "À, còn điều chưa biết." "Là gì?" "Mai có cuốn băng khi nào và từ đâu?" "Việc đó có quan trọng ?" "Nó làm tôi băn khoăn. Tôi muốn xác định ngay." Ando cảm thấy nên kiểm tra điều này. quá bận rộn với việc phân tích virus và quên bẵng mất. Giờ dường như đó là việc duy nhất còn lại cần làm. hầu như chắc chắn rằng cuộn băng Mai xem là bản sao tại nhà Ryuji, nhưng biết vì sao và khi nào có được nó. PHẦN 4.7 Việc tìm ra lại dễ dàng đến bất ngờ. Giả sử đồ đạc của Ryuji, cả cuốn băng được chở về nhà cha mẹ ta trong vòng hai hoặc ba ngày sau khi ta chết, Mai chỉ có thể lấy nó ở đó. Vì vậy, Ando gọi điện đến nhà Ryuji. Khi biết Ando là bạn cũ thời đại học của con trai mình, mẹ Ryuji bỗng nhiên trở nên thân thiện. Ando hỏi xem có tên Mai Takado đến thăm bà . "Có," bà đáp. Bà còn biết ngày bằng cách nhìn vào hoá đơn trong sổ ghi chép tài chính gia đình của mình. Bà mua chiếc bánh bơ giòn cho Mai. Ngày 1 tháng Mười , năm 1990. Ando ghi lại ngày. "Với lại, cho cháu hỏi tại sao Mai lại đến thăm bác?" Mẹ Ryuji giải thích rằng Mai giúp Ryuji trong công trình mà ta viết đăng từng phần, bằng cách chép lại những bản thảo sạch cho mỗi phần, nhưng trang của bài viết bị mất. "Vì thế ấy đến nhà bác để tìm trang bị mất ấy, có phải ạ?" Ando ghi lại tên và nhà xuất bản của tờ tạp chí đăng loạt bài đó. Rồi gác máy. muốn bị hỏi thăm về tình hình của Mai. Nếu cho mẹ Ryuji biết là Mai chết, chắc chắn phải đối mặt với hàng tá câu hỏi mà hoàn toàn có câu câu trả lời làm bà hài lòng. Ando ngồi đó, tay giữ ống nghe rất lâu sau khi ngắt cuộc gọi. Ngày mùng 1 tháng Mười , Mai đến nhà bố mẹ Ryuji. Trong khi tìm trang bản thảo bị mất, ấy tìm thấy cuốn băng. ấy mang nó về nhà. Có lẽ xem nó đúng vào hôm ấy. bắt đầu đưa ra giả thiết dựa điểm khởi đầu là ngày 1 tháng Mười . Virus cần tuần để gây tác dụng đầy đủ. Vậy điều gì xảy ra với vào ngày 8 tháng Mười . Ngày Ando hẹn gặp là mùng chín. gọi điện cho nhiều lần vào hôm ấy, nhưng ai nhấc máy. Điều đó hợp lý. Hoặc là vẫn ở trong phòng nhưng thể nhấc máy, hoặc là ở trong cái khoang thông gió kia rồi. bắt đầu tính ngược thời gian. Khám nghiệm phát y có thể cho biết sống bao lâu trong khoang thông gió, và chết bao lâu khi xác được phát . Theo các bằng chứng, chết vào khoảng ngày 20 tháng Mười , và rơi vào khoảng thông gió mười ngày trước đấy. Quả là trùng khớp hoàn hảo với những tính toán này khi khẳng định virus biến đổi trong ngưòi vào ngày mùng tám hoặc mùng chín, dẫn đến việc bị rơi xuống khoang thông gió. Điều tiếp theo Ando làm là đến khu lưu trữ tạp chí của thư viện để tìm tờ tạp chí đăng các bài viết của Ryuji. dã tìm thấy nó. Trong số ra ngày 20 tháng Mười , tìm thấy phần cuối công trình của Ryuji, Cấu trúc của tri thức. Nó mách bảo Ando cái gì đó. Mai dã chép lại bài viết của Ryuji và đưa nó đến cho người biên tập. Có nghĩa trong khoảng thời gian từ khi xem cuốn băng đến khi chết, chắc chắn tiếp xúc với ít nhất là người. gọi điện đến phòng biên tập của tờ nguyệt san đăng bài viết và xin cuộc hẹn với người biên tập phụ trách công trình của Ryuji. Ando quyết định mình cần đến tận toà báo, có điều gì đó khiến muốn gặp trực tiếp người này, thay vì chỉ chuyện với ta qua điện thoại. bắt tàu đén Suidobashi. Từ đó bộ chừng năm phút, tìm địa chỉ cần đến, cuối cùng cũng thấy toà nhà mười tầng nơi đặt văn phòng Shotoku, nhà xuất bản của Ryuji. Tại bàn lễ tân, xin gặp Kimura, biên tập viên của nguyệt san Currents. Trong khi đợi, nhìn lơ đễnh dọc hành lang, Ando mừng vì biên tập đồng ý tiếp người hoàn toàn xa lạ. Qua điện thoại, giọng ta nghe như cuả thanh niên ngoài hai mươi, nhưng hiểu biết. Trong đầu mường tượng ra thanh niên đẹp trai, đeo kính. Trái lại, nhìn thấy gã béo phệ, mặc quần ca rô có dây đeo, cái đầu hói bóng thấy mồ hôi cho đù vào mùa lạnh. Anhh ta hoàn toàn khác xa với tưởng tượng của Ando về hình ảnh người biên tập viên của nhà xuất bản lớn, đặc biệt là người làm việc cho tạp chí đăng tải những diễn biến mới nhất của tư tưởng đương thời. "Xin lỗi để phải đợi." Người đàn ông cười tươi và trao danh thiếp cho Ando. Satoshi Kimura, Tổng biên tập. ta trông già hơn so với khi nghe giọng. Có lẽ gần bốn mươi. Ando trao danh thiếp của mình và , "Cảm ơn dã đồng ý gặp. Tôi có thể mời uống cà phê ở đâu đó được ?" Ý là ra khỏi toà nhà. "Quanh đây có quán cà phê nào tử tế cả. Nhưng chúng tôi có quầy bar, nếu phiền." "Cũng được." Ando quyết định theo ý của Kimura, và cả hai cùng vào thang máy. Quầy bar ở tầng thượng của toà nhà, có thể nhìn xuống khu vườn ở khoảng sân bên dưới. Ở đây được trang bị khá đầy đủ, khi ngồi xuống ghế sofa, Ando nhìn xung quanh và bắt gặp những khuôn mặt biết là người của các báo và tạp chí. Dường như quầy bar này là nơi các biên tập viên ưa chọn để gặp gỡ các tác giả. Nhiều người đến đây với bản thảo trong tay. "Chúng ta vừa mất người tốt." Nghe những lời này, suy nghĩ vẩn vơ của Ando quay trở lại với chủ đề chính, nhìn vào khuôn mặt bóng nhẫy của Kimura ngay bên kia bàn. "Tôi và Ryuji Takayama là bạn cùng lớp hồi còn ở trường y," Ando , chờ đợi phản ứng. còn đếm được mình dã câu này với bao nhiêu người. " vậy sao? Vậy là biết giáo sư Takayama." Kimura nhìn vào danh thiếp trong tay rồi gật gù, như thể xác nhận lại điều gì. Danh thiếp có tên trường đại học nơi Ando làm việc. Có lẽ ta nhớ ra rằng Ryuji học ở khoa Y của chính trường đại học này. "Hơn nữa, tôi là người mổ xác cho ta." Mắt Kimura trợn tròn. há miệng và phát ra tiếng kêu kỳ lạ. "À, giờ, thế..." Kimura yên lặng, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay cầm tách cà phê của Ando. Dường như ta quan tâm đến những ngón tay mổ xẻ Ryuji. "Nhưng hôm nay tôi đến đây phải để về ta," Ando , đặt tách cà phê xuống và đưa hai tay lên bàn. "Vậy đến vì việc gì?" "Tôi muốn hỏi chút về sinh viên của ấy. Mai Takano." Khi nghe đến tên , vẻ mặt Kimura dịu xuống, ta rướn người ra trước. "Hỏi gì về ấy?" ta chưa biết, Ando linh cảm. Nhưng sớm muộn ta cũng biết thôi. " có biết là Mai chết ?" Kimura lại kêu lên, thậm chí nghe còn kỳ dị hơn ban nãy, ta gần như nhảy ra khỏi chiếc ghế ngôi. Cách ta biểu lộ những cảm xúc đầy kịch tính đến gần như khôi hài; ta đúng là Người Muôn Mặt. Đáng lẽ ta nên đến thử vai cho bộ phim sitcom, Ando nghĩ. " đùa đấy à!" Kimura kêu lên. "Mai thể chết được?" " ấy ngã xuống dưới cái khoang thông gió sân thượng hồi tháng Mười vừa rồi và chết trong đó." "Tôi đoán điều đó giải thích tại sao tôi liên lạc được với ấy." Ando cảm thấy có chút gần gũi với người đàn ông này, người từng rơi vào cảnh ngộ như . biết Kimura có vợ hay chưa, nhưng sẵn sàng đánh cược rằng gã này ít nhất cũng có chút rung động trước Mai. " có nhớ lần cuối gặp ấy lúc nào ?" Ando hỏi ngay, muốn người đàn ông có thời gian để đắm chìm trong cảm xúc. Chúng tôi chỉ vừa mới sửa bản in cho ấn phẩm Năm Mới, lúc đó vào khoảng đầu tháng Mười ." " có nhớ được chính xác ngày ?" Kimura lấy cuốn lịch hẹn năm ngoái ra và lật giở. "Ngày hai tháng Mười ." Mùng 2 tháng Mười . Ngay sau hôm Mai đến nhà bố mẹ Ryuji và mang theo cuốn băng về nhà . Hẳn là lúc đó xem cuốn băng rồi. " có thể cho tôi biết nơi gặp ấy khống?" " ấy gọi cho tôi rằng chép xong bài báo. Tôi đến đó ngay để nhận bản thảo." "Đến đâu? Căn hộ của ấy ư?" ", chúng tôi gặp nhau tại quán cà phê trước nhà ga chỗ ấy. Như mọi lần." Kimura dường như muốn nhấn mạnh rằng ta chưa bao giờ đặt chân vào căn hộ của , dù biết rằng sống mình. "Khi gặp, có thấy ấy dường như có gì khác lạ ?" Kimura tỏ vẻ bối rối. ta biết ý của Ando là sao khi đặt câu hỏi đó. "Ý là sao?" "À, may là vẫn còn vài nghi vấn xung quanh nguyên nhân cái chết của ấy?" "Nghi vấn?" Kimura khoanh tay lại suy nghĩ lúc. Ý nghĩ cho rằng điều mình có thể ảnh hưởng đến kết quả mổ pháp y của Mai đột nhiên làm ta thận trọng. "Bất cứ thông tin nào cũng có ích. có nhận thấy điều gì ?" "À, hôm đó, ấy dường như hơi khác so với chính bản thân ấy." " cụ thể hơn được ?" " ấy có vẻ tái nhợt. ấy dùng chiếc khăn che miệng, như thể chống lại cơn buồn nôn." Từ buồn nôn khiến Ando chú ý. vẫn nhớ đống màu nâu dường như là chất nôn mà nhìn thấy sàn phòng tắm nhà Mai. " có hỏi ấy về cơn buồn nôn ?" ". Ý tôi là, ngay lúc đó ấy bảo tôi là được khoẻ vì phải thức đêm viết lại bản thảo của giáo sư Takayama." "Tôi hiều. Vậy ấy đó là do thiếu ngủ." "Đúng." " ấy còn với điều gì khác ?" "Lúc đó tôi cũng vội, biết đấy. Tôi cám ơn ấy về bản thảo, chúng tôi trao đổi chút về cuốn sách sắp phát hành, rồi tôi từ biệt." "Sách. Ý là sách của Ryuji." "Đúng thế. Ngay từ đầu chúng tôi đăng loạt bài với ý định sau đó xuất bản cuốn sách." "Cuốn sách đó bao giờ phát hành?" "Dự kiến xuất ở các nhà sách vào tháng sau." "Tôi hy vọng nó đạt doanh thu tốt." "Đó là tài liệu khá khó đọc, và chúng tôi đặt nhiều hy vọng. Tuy nhiên, phải rằng cuốn sách thực tốt. Xuất sắc." Sau đó, cuộc chuyện chuyển hướng sang những hồi tưởng về Ryuji, và Ando thấy khó mà quay lại chủ đề chính. Ngay khi đưa được Mai vào cuộc trò chuyện để họ có thể về mối quan hệ giữa và Ryuji, thời gian Kimura hứa dành cho hết. Ando thực chưa thu được thông tin nào giá trị cả, nhưng quyết định tốt hơn hết là nên nán lại lâu hơn thời gian mà tay biên tập dự định tiếp . Chắc chắn cần gặp người đàn ông này thêm, và muốn để lại ấn tượng tốt. Do đó cảm ơn Kimura và chuẩn bị về. Khi Ando đứng dậy, bỗng dưng nhận thấy ba người vào quầy bar. Hai đàn ông và phụ nữ, Ando nhìn thấy ba người họ trước đây rồi. Người phụ nữ là nhà văn viết tự truyện, ta nhảy lên hàng best-seller khi có cuốn sách được chuyển thể thành phim. Ando nhiều lần thấy ta truyền hình và trong các tuần san. Trong số hai người đàn ông, người là đạo diễn chuyển thể tác phẩm của nữ nhà văn kia thành phim. Nhưng người thực làm Ando ngạc nhiên là người đàn ông tầm bốn mươi, cùng với tay đạo diễn. sắp nhớ ra tên của ta. vắt óc. Người này phải là nhà văn hoặc gì đấy. Khi họ qua, Kimura với người đàn ông. "Này, Asakawa. Tôi rất vui khi nghe mọi việc tiến triển." Asakawa. Đó là Junichiro Asakawa, cả của Kazuyuki. Ando đến nhà ta ở Kanda vào tháng Mười để lấy chiếc đĩa mềm Ring. Lúc ấy, Ando quá vui mừng vì có được chiếc đĩa mềm nên thêm gì ngoài lời tạm biệt chiếu lệ. Nhưng sau đó trả lại chiếc đĩa, và gửi kèm theo bức thư cảm ơn rất lịch thiệp. cũng nhớ danh thiếp Junichiro đưa cho có tên của nhà xuất bản này. biết do tình cờ hay là nhờ mối quen biết mà cuốn sách của Ryuji lại được công ty của trai người bạn thân xuất bản. Nhận ra Ando, Junichiro dường như hơi ngần ngại vì bất ngờ. "Rất vui được gặp lại ..." Ando cúi chào, định cảm ơn lần nữa vì giúp đỡ của ta và cũng để lời chúc năm mới phù hợp. Nhưng Junichiro quay mặt , và ngay trước khi Ando có thể tiếp. "Xin lỗi." xong câu đó, ta né sang bên để tránh Ando, dẫn nữ nhà văn và tay đạo diễn đến bàn trống. Ando có thể bị phủi mặt. lần nữa liếc nhìn Junichiro, giờ ngồi xuống bàn, nhưng ta mải chuyện với tay đạo diễn và nhìn về phía . ràng ta phớt lờ Ando. lục trong trí nhớ để tìm ra lời giải thích cho cách ứng xử khiếm nhã của Junichiro. Ando nghĩ biết khá người đàn ông đó khi họ tiếp xúc với nhau lần trước. thể nhớ làm điều gì để nhận được đối xử như vậy. hiểu nổi. Ando lắc đầu vì thái độ lạ thường của ta, rồi theo chân Kimura ra khỏi quầy bar.