Vụ Giết Người Bí Ẩn - James H. Chase(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 5
      - Ta đâu bây giờ, - tôi khi chúng tôi ngồi vào xe.
      - Cứ thẳng. Đến chỗ đèn đỏ quẹo trái. Tới ngã tư đầu tiên quẹo trái nữa. ( ta sờ tay lên má). Thằng khốn ấy tát em đau quá.
      - Nhưng cũng nện cho trận ra trò rồi, - tôi và cho xe nổ máy.
      - Khá lắm! Cho nó chết.
      Tôi cho xe chạy tới chỗ đèn hiệu, quẹo trái, giảm tốc ở ngã tư đầu tiên, rồi quẹo trái nữa.
      - Đến cái nhà ổ chuột kia quẹo phải, - Bêbê chỉ dẫn.
      may là tôi tìm được chỗ đậu xe trước ngôi nhà bốn tầng.
      - Đây hả?
      - Vâng. Cái ổ khốn khổ của em đây rồi.
      xuống xe, bước lên bậc thang dẫn tới cửa nhà tróc sơn. mở cửa và bước vào hành lang tối mò. Tôi bám theo sát gót .
      Chúng tôi bước vào căn buồng chỉ có cái giường gấp, chiếc tủ treo quần áo, chiếc bàn chiếc ghế. Ở bên trái, cánh cửa mở vào nhà vệ sinh và buồng tắm.
      Tôi khép cửa và đứng nhìn xung quanh.
      - Em sống ở đây à?
      - Chỉ là chỗ để ngủ thôi. ( ta nhún vai). Phần lớn thời gian là ở các hộp đêm. Ngồi xuống , cưng. ( ta chỉ cho tôi chiếc ghế). Chiếc giường chắc chịu nổi sức nặng của em mình đâu. Vậy chớ có mà suy nghĩ lung tung đấy nhé.
      Tôi ngồi dạng chân ra hai bên và nhìn .
      - tìm Stella để làm gì? – ta hỏi.
      - Thực ra phải là tìm bà tạ Người tôi muốn tìm là Johnny Jackson mà theo tôi nghĩ là con bà ấy.
      - Thế điều gì khiến nghĩ là Stella có con trai?
      - đúng vậy sao?
      cười gượng.
      - Thế tại sao muốn tìm Johnny?
      - Ông nội nó có để lại cho nó trang trại nuôi ếch. Có ai đó muốn mua lại, nhưng thể bán nếu ủy quyền của Johnny.
      - Có đắt ?
      - Cũng nhiều tiền lắm. Nếu như tìm được Stella, rồi lần ra Johnny, được nghỉ ngơi và quên câu chuyện vớ vẩn này . Em có biết tìm bà ta ở đâu ?
      xoa tay má. cái u xuất ở đó.
      - Em hận Eđy lắm. Em bỏ thôi. có thể cho em trăm đô ? Em cần phải trả tiền hủy hợp đồng.
      - cho em trăm đô vì việc gì mới được chứ?
      - Em có thể kể cho về Stella và Johnny.
      Tôi lấy ví , rút tờ hai mươi đô và đưa cho .
      - Sao lại thế này? – hỏi nhưng vẫn cầm tiền.
      - Nào, cưng, kể . Phần còn lại đưa nếu em cho biết những điều cần.
      - Stella chết vì tiêm ma túy quá liều. Bà ta xài hêrôin từ nhiều tháng naỵ Vì thế Eđy tống bà ta ra khỏi cửa.
      - Eđy rằng bà ta bị xe cán chết kia mà.
      - Xạo. rất thận trọng đối với tất cả những gì có liên quan tới ma túy.
      - Thế cung cấp ma túy cho Stella à?
      - Em thế đâu nhé. (Cái nhìn của ta trở nên băng giá). Stella chết rồi.
      - Em có quen bà ta ?
      - Quen quá chứ. Chính bà ấy dạy cho em nghề thoát y mà. Bây giờ em thay chỗ bà ấy.
      - Bà ấy có với em rằng Johnny là con bà ấy ?
      - Có.
      - Bà ấy có ai là cha đứa bé ?
      - Hai mươi đô để trả lời câu này. (Tôi đưa tiền). Bà ấy rằng cha nó là người lính ở Việt nam.
      - Họ có cưới nhau ?
      nhăn mặt.
      - Thời buổi này ai muốn cưới xin gì.
      - Bà ta có hay về đứa con ?
      - thường xuyên lắm. Khi có chuyện bực mình bà ấy hay kể.
      - Thế bà ấy kể gì?
      - Rằng nó bỏ trốn từ lúc còn bé và bà ta hài lòng về điều đó.
      - Bà ấy có tại sao ?
      - Vì nó làm phiền bà ấy. Bà ấy có những người bạn, họ muốn lúc nào cũng có thằng bé bên cạnh. Chuyện đó cũng bình thường thôi.
      - Bà ấy có biết nó đâu ?
      - Hơi đâu bận tâm chuyện đó. Nó , thế là xong.
      - Em gặp Johnny bao giờ chưa?
      Bêbê cười và nhìn tôi tinh quái.
      - Đừng có mất thời gian hỏi em chuyện đó. Muốn để em đây là vấn đề sáu mươi đô.
      Trực giác mách bảo tôi rằng tôi sắp phát ra đầu mối quý giá. Tôi lục cái ví lép kẹp lấy ra tờ năm mươi đô và đưa .
      - nhắc lại câu hỏi: em bao giờ gặp Johnny chưa?
      - Cách đây hai tháng. ngày trước khi Stella chết.
      - Thôi nào, cưng. Kể tiếp , - tôi sốt ruột giục.
      - Stella và em hôm đó đều ở hộp đêm. Chỉ có hai đứa em. Đúng vào giờ vắng khách. Bỗng có hai gã xuất ở cửa. Loại pêđê mà em thường gặp. Nhưng hai gã này có vẻ hơi khác thường. thằng nhọ bẩn thỉu, nhưng thằng kia lại dễ thương: đẹp trai, tóc vàng, có cả dây chuyền và lắc taỵ Gã da đen đứng ở cửa. Cậu đẹp trai vào. Em rất ghét pêđê, nó làm hỏng cả cái nghề của bọn em. Thằng tiến tới gần bàn bọn em và đứng sững trước mặt Stellạ Stella ngồi im như bức tượng. Bà ta mặt trắng nhợt như tàu lá và thở rất nặng nhọc. “– Chào mẹ.- thằng hồn bằng giọng chua loét. – Con cần tiền. Mẹ có thể cho con năm mươi đô chứ?”. Stella vẫn ngồi đó, bất động nhìn nó. Em bèn hét nó xéo . Lúc đó Stella mới lên tiếng: Trời ơi, Johnny, tại sao con lại ra nông nỗi này? Nó cười: Thôi , sao lại ra nông nỗi này? – nó đay lại. – Đưa cho con năm mươi đô đây. Con còn xu dính túi. Stella bật khóc. Thằng khốn cầm lấy sắc mẹ nó và đúng lúc nó mở sắc em hất ngay vào mặt nó chai côca uống dở. Nó lùi lại hét lên: Làm bẩn hết quần áo người ta rồi. Ngay lập tức gã đen bước vào phòng. Em nghĩ giết chết em, nhưng chỉ cầm tay Johnny dắt ra ngoài. Stella dàn dụa nước mắt. Đó là lần cuối cùng em nhìn thấy bà ấy còn sống. Bà ấy tiêm lúc ba liều.
      Các mẩu ghép hình bắt đầu ăn khớp với nhau. Johnny là tên đồng tính luyến ái. Điều này giải thích vì sao ở trường lại lảng tránh bọn con và mọi người đều thằng bé ngoan nhưng hơi ẻo lả. Tôi có linh cảm là đạt được điều gì đó.
      - Em có biết tìm nó ở đâu ?
      - . Em chẳng biết gì hết và cũng cóc cần biết. Nghe đây, cưng. Em phải đây. có thể cho em vài chục đô nữa ?
      - Em đâu?
      - Em cũng biết nữa. Em ngán cái câu lạc bộ Skin lắm rồi. ( ta chằm chằm nhìn tôi). có thể tưởng tượng con như em mà có nguy cơ bị chết đói ?
      - Chắc là em phải đâu đó chứ?
      - Có thể là New York. Ở đó chả thiếu gì việc. Nhưng lúc này em biết là phải thoát khỏi Eđỵ Chuyện đôla thế nào?
      - Này, cưng. Với trăm đô em thể xa được đâu. New York cách đây biết bao là cây số.
      chìa tay ra.
      - Mười đô vậy, được ?
      - Hãy cho biết về Eđy Raiz .
      - điên à? Em thể về thằng thối tha đó. Em với rằng em gặp Johnnỵ Thế là đủ rồi.
      - Eđy là tên buôn bán ma túy. Em cần phải điều ấy cũng như ban ngày.
      đứng dậy, ngang qua phòng ra mở cửa.
      - Vứt mẹ nó cái mười đô của . hãy .
      Tôi nhìn và cảm thấy thương hại cộ tuyệt diệu này phải vật lộn để kiếm sống như bao khác ở tuổi cộ Có chăng là vẻ đẹp của cơ thể họ và dễ dàng chấp nhận lên giường với ai đó. bao giờ họ nghĩ rằng rồi năm tháng qua, họ trở nên tàn tạ còn cần cho ai nữa. thời, với tự tin mà sắc đẹp đem lại, hề nghĩ rằng, rồi ngày nào đó, khác trẻ hơn, vì mưu sinh, đẩy xuống cuối hàng chờ dành cho những kẻ mạt hạng, những tên say khướt, những kẻ chỉ cần ôm ấp cái gọi là đàn bà.
      - Khoan , cưng, - tôi . Hãy suy nghĩ chút . Rồi em lại nghiện hút như Stella thôi. Em có thể làm gì ngoài nghề thoát y vũ ?
      - Thôi cái trò đạo đức giả ấy . Nếu có điều tôi có thể làm, đó là tổ chức cuộc sống của tôi. hãy xéo .
      Tôi bỏ với ý nghĩ buồn bã rằng lời nào của tôi có thể thuyết phục được .
      Khi dọc theo hành lang tối om, tôi nghe tiếng cửa phòng đóng sập lại.
      ***
      Tôi ngồi vào xe, chạy dọc theo phố. Khi quẹo phải, tôi phát thấy chiếc xe từ chỗ kín lao ra. Tôi đạp phanh vừa lúc chiếc xe khác lao tới. Người lái xe nhìn tôi như muốn nuốt sống, rồi phóng . Tôi khóa xe và nhanh chóng quay lại phố của Bêbệ Len lỏi qua dòng người chen chúc, cuối cùng tôi cũng tìm được cái cửa khuất trong bóng tối, từ đó nhìn cửa ngôi nhà của Bêbệ Tôi rất quan tâm tới và muốn biết đâu.
      Đợi khoảng mươi phút, cửa sau lưng tôi chợt mở ra và tôi quay phắt lại.
      gã da đen cao lớn ra trước mặt tôi. Xộc vào mũi tôi mùi nước hoa rẻ tiền. được mấy bước, gã dừng lại chằm chằm nhìn tôi với đôi mắt đầy vẻ hăm dọa.
      - cần gì, bạn trắng? – hỏi.
      - Nếu cần gì, người tôi hỏi phải là , đen ạ, - tôi đáp.
      gồng mình làm bật cả cúc áo.
      - Xéo ngay khỏi đây, - gầm gừ.
      Tôi cởi cúc giữa của áo vét và hơi hé cho thấy khẩu 38 ly nằm trong bao.
      Gã đen nhìn dán vào khẩu súng, rồi nhìn tôi mỉm cười.
      - Sao ông trước, ông chủ? – gã nhăn nhở.
      Rồi rảo bước rẽ đường giữa đám đông như chiếc xe ủi gạt những khối đất lớn.
      Tôi cài lại cúc áo và tiếp tục canh chừng.
      Khoảng hai mươi phút sau, tôi hết kiên nhẫn, nhìn thấy Bêbê ra, mắt liếc ngang liếc dọc, rồi xuống phố. Tôi nghĩ mang theo vali, nhưng chỉ có chiếc sắc đeo vai. Tôi để cho trước rồi bám theo sau. Trông có vẻ gì là người sắp rời khỏi thành phố.
      Tôi len lỏi trong đám đông, khó lắm mới bám sát được cộ Đột nhiên rẽ phải và tôi mất dạng lúc. Tôi xô cả đám người mải mê tranh luận, rồi vòng qua góc phố đúng lúc thấy ta ở cuối phố. sắp sửa ngồi vào chiếc TR 7. Chiếc xe khiến tôi ngạc nhiên. Nó gần như còn mới, bóng loáng, màu xanh nhạt. Vì ở khá gần nên tôi nhìn số đăng ký của chiếc xe trước khi nó chạy hết tốc lực vòng qua góc phố và biến mất.
      Tôi ghi biển số xe vào sổ rồi quay lại ngôi nhà của Bêbệ Tôi mở cửa, bước vào hành lang tối om dẫn tới phòng cộ Tôi nghĩ rằng cửa khóa, nhưng chỉ quay nắm cửa, nó nhàng mở ra.
      Tôi lục soát khoảng năm phút nhưng phát thấy gì. Chiếc tủ quần áo rỗng . Phòng tắm có ba con gián lớn nô giỡn, chắc hàng tháng nay sử dụng tới. Tôi kết luận rằng Bêbê xạo tôi. ta sống trong cái phòng dơ bẩn này.
      Tôi trở về văn phòng và tới gặp Charles Edward, thằng cha kế toán rất chi li trong việc tính tiền chi phí cho tất cả nhân viên của hãng. Sau hồi tranh cãi gay gắt, tôi nhét đầy ví với lời hứa hẹn có báo cáo chi tiết về việc chi tiêu.
      Chick Barley vắng. Tôi đóng cửa phòng và gọi điện cho viên sĩ quan chuyên quản lý về ôtô của Sở cảnh sát thành phố. Tôi từng có quan hệ với ta, vả lại hãng luôn sẵn lòng giúp đỡ cảnh sát nên họ cũng rất nhiệt tình đáp lại.
      - Lew hả? – tôi . – mình cần biết chủ chiếc xe có biển đăng ký PC 400 008.
      - Đợi mình lát.
      Trong khi ngồi đợi tôi lấy bút vẽ bậy bạ và nghĩ tới Bêbệ Tại sao ta lại đưa tôi đến căn phòng bẩn thỉu ấy nhỉ? Có đúng là ta định bỏ câu lạc bộ Skin ? Làm sao ta có thể là chủ nhân của chiếc xe thể thao đắt tiền như thế mà lại móc của tôi vài chục đôlả Có lẽ chiếc xe phải của tạ Hay là nó bị đánh cắp?
      - Dirk hả? – viên sĩ quan cảnh sát hỏi. – chiếc xe này thuộc bà Phyllis Stobart. Địa chỉ: 48 đại lộ Broadhurst, Paradise City.
      - Cám ơn Lew. – tôi và gác máy.
      Tôi lấy máy chữ và kê chi tiết các khoản chi tiêu để gửi cho Edward. Tôi hy vọng với bản tường trình này ta thỏa mãn.
      Cửa phòng chợt mở và Chick bước vào.
      - Cậu vẫn ở đây à? Mình có mấy thứ cho cậu đây. ( ta mở ngăn kéo và lấy ra bản báo cáo ngắn). có gì cho thấy Mitch lấy vợ. Nhưng Johnny Jackson, con ta, được Stella Jackson lập giấy khai sinh ở tòa thị chính. Có thể đây là vợ ta, nhưng ít có khả năng.
      chìa cho tôi bản sao giấy khai sinh. Nhưng những điều này tôi cũng biết. Cha: Mitch Jackson. Mẹ: Stella Jackson. Nơi ở: 22 Grove Lane, Miami.
      - Cám ơn Chick nhiều. Mà này, cậu có quen đại úy Harry Weatherspoon ở Phòng chống ma túy ?
      - Cậu vẫn đào bới chuyện ma túy ấy à?
      - Cậu có biết ta ?
      - Mình có gặp lần, nhưng mình thích ta lắm.
      - Tại sao?
      - Có thể mình ghen tị. sống phong lưu lắm. Nghe đâu là con trai của gia đình giàu có. Nhưng chẳng lên điều gì với mình.
      - Nghe đây, Chick. Cậu có muốn giúp mình việc ? Mình phải trở lại Searlẹ Mình muốn biết gốc gác của bà Phyllis Stobart, 48 đại lộ Broadhurst.
      Chick há hốc mồm.
      - Bà ta quan hệ gì với Johnny Jackson?
      - Mình biết. Có thể là , nhưng mình muốn biết vậy thôi.
      - Terry làm việc gì, mình nhờ cậu ta giúp cậu. Nhưng đào sâu tới mức nào?
      - Tới chừng nào có thể được.
      - Tất nhiên rồi.
      - Mình gọi điện cho cậu từ Searlẹ Về nhà cậu, lúc chín giờ.
      - Chín giờ, được. Lúc đó mình hy vọng còn giúp bé nào đó cởi quần áo. Cậu cứ gọi cho Terrỵ Nó còn quá trẻ chắc chưa có bồ mà hẹn hò đâu.
      - Thôi được, mình gọi cho cậu ấy.
      Ra khỏi văn phòng, tôi tới đặt bản tường trình chi tiêu lên bàn Edward, lúc đó bận chuyện điện thoại. Tôi ra ôtô và trở lại Searle.
      ***
      Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog chuông đồng hồ nhà thờ điểm bảy giờ rưỡi tối. Tôi qua tiền sảnh vào nhà ăn, ở đó chỉ có đám thương khách vừa ăn vừa bàn việc.
      Abraham – người da đen quản lý nhà ăn – cười rất tươi đón tôi.
      - Chào Wallace, - Ông khi tôi ngồi. – Tôi xin được giới thiệu món bitết tẩm dầu.
      - Được lắm. Và cho tôi thêm ly uytski có đá. Ông có biết Peggy đâu ?
      - Peggy được khỏe. (Ông buồn rầu ). ấy nghỉ lầu.
      Rồi ông vào bếp. Tôi ngả người vào ghế, châm thuốc hút.
      Mười phút sau, Abraham từ bếp nặng nhọc ra với khay thức ăn taỵ Ông đặt thức ăn và đồ uống trước mặt tôi.
      - thấy thế nào, Wallace?
      - Trông có vẻ ngon lắm.
      Bất chợt ông thay đổi nét mặt và có vẻ hoảng sợ. Tôi quay lại. Weatherspoon đứng ở ngưỡng cửa. Chúng tôi nhìn nhau, rồi tôi mỉm cườivà giơ tay chào. Ông ta lưỡng lự tiến lại bàn tôi.
      - Chào ông Weatherspoon! – tôi , - Tôi mời ông bữa tối nay, được chứ?
      - Cám ơn, tôi ăn rồi. Ông ta và chằm chằm nhìn Abraham, người đứng cúi đầu chào ông ta, rồi lê chân vào.
      - Thế ông uống ly cà phê nhé. Tôi muốn với ông mấy lời.
      Ông ta vẫn có vẻ lưỡng lự, rồi kéo ghế ngồi trước mặt tôi.
      Abraham quay trở lại.
      - cà phê và nhắc, - Weatherspoon cụt lủn.
      - Nhà bếp ở đây nấu ăn khá lắm, - tôi . – Hình như ông định mua khách sạn này khi ông Wyatt qua đời?
      - Tôi vẫn còn chưa quyết định.
      Abraham mang cà phê và nhắc tới.
      - Cứ tính tiền thanh toán cho tôi, ông Abraham ạ. – tôi .
      Ông già gật đầu rồi lui ra.
      Tôi tiếp tục ăn và Weatherspoon nhấm nháp ly nhắc.
      - Công việc điều tra của phát triển tốt chứ? – đột nhiên ông ta hỏi.
      - Cũng tà tà vậy thôi. Tôi gặp đại tá Jefferson Haverford.
      Tôi đột ngột ngẩng mặt lên và nhìn ông tạ Ông ta chớp mắt, nhưng vẻ mặt thể gì.
      - Đại tá có khỏe ? – ông ta hỏi.
      - Ông dối tôi khéo lắm, ông Weatherspoon ạ. Ông rằng ông biết Mitch Jackson.
      - ông có với tôi đâu. (Weatherspoon mềm hẳn). Thôi thế là hòa.
      - Đúng vậy, - tôi mỉm cười.- Đại tá Haverford có với tôi rằng ông có đầy đủ bằng chứng về việc Mitch bán ma túy và ông cũng có lệnh bắt ta.
      - Đúng thế. Tôi định bắt Jackson lại có hành động hùng. Tôi báo cáo việc này với đại tá Haverford và ông quyết định cho quạ Chúng tôi giữ bí mật này suốt bao nhiêu năm, thế mà bây giờ lại bới tung ra.
      - Nhiệm vụ của tôi là tìm con trai của Jackson. Nếu có thể đạt được mục đích mà phải lần lại quá khứ của ta, tôi cũng chẳng đào bới làm gì.
      Weatherspoon nhìn tôi và gật đầu.
      - Có Chúa mới biết thằng bé giờ ở đâu.
      - Công chứng viên của ông cho đăng báo tìm kiếm thằng bé. Có thể điều đó có kết quả cũng nên.
      - Tôi nghe tới gặp ông ta.
      - Tôi gặp cả đống người. cuộc điều tra như thế này đòi hỏi mất nhiều thời gian và gặp nhiều người.
      Ông ta uống cạn ly cà phê và chuyển sang nhấm nháp ly nhắc.
      - Để tìm thằng bé mà phải tốn nhiều công sức nhỉ.
      - Tôi được trả tiền để làm việc đó mà. Xét cho cùng, ông quan tâm tới điều đó làm gì, phải ôgn Weatherspoon?
      - Bây giờ . Tôi có ý định mua trang trại đó, nhưng giờ tôi thay đổi ý kiến. Tôi điều này với Benbolt. Tôi muốn làm phức tạp thêm cuộc sống và lại tốn kém nữa.
      - Thế có nghĩa là ông quan tâm tới việc tìm Johnny nữa?
      - Đúng thế. (Ông ta đứng dậy). đến lúc tôi phải rồi.
      - Hượm . Mitch Jackson chắc hốt nhiều tiền nhờ buôn bán ma túy. Ai cung cấp cho ta vậy?
      - Làm sao tôi biết được. (Khuôn mặt ông trở nên lạnh như đá).
      - Thế làm sao ông vạch mặt được tả Làm sao ông có được lệnh bắt ta?
      - Tôi thảo luận công việc của quân đội với người dân , - Ông ta lạnh nhạt . – Chào .
      Ông ta bước ra tiền sảnh và khuất.
      Tôi ra hiệu cho Abraham mang cà phê tới. Tôi uống chậm rãi và suy nghĩ. Rồi tôi để lại tiền boa cho Abraham và ra cabin điện thoại ở tiền sảnh.
      Bob Wyatt ngủ gật ở quầy tiếp tân. Ông ta chớp mắt khi nhìn thấy tôi. Tôi mỉm cười và khép cửa cabin lại. Tôi quay số của Chick chọ Terry ÓBrien trả lời ngay lập tức, cứ như ta ngồi chờ sẵn cú điện thoại của tôi.
      Terry ÓBrien là trong những tay học việc trẻ của đại tá Parnell.
      - Terry hả. Wallace đây. Cậu tìm được gì chưa?
      - Chào Dirk. Phyllis Stobart, đúng vậy ?
      - Đúng, - tôi . – Cậu tìm được chưa?
      - Mình bỏ ra hai giờ đào bới trong lưu trữ của tờ Herald. Fan giúp mình rất nhiều, nhưng thấy được gì đáng kể.
      Fanny Batley là nhân viên da đen chuyên trực đêm các kho lưu trữ của tờ Paradise City Herald. ta lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Khi các thám tử của Parnell cần biết ai đó trong thành phố, họ đều tự động nhờ đến .
      - Thế cậu tìm được gì rồi?
      - Phyllis Stobart là vợ của Herbert Stobart. Bà ta trạc ngoài bốn mươi, còn ông ta khoảng bốn nhăm bốn sáu. Ông ta mua vila rất xịn ở đại lộ Broadhurst, trị giá cỡ nửa triệu độ Hình như ông ta làm xuất nhập khẩu gì đó ở Viễn Đông, đâu như Sài gòn phải. Ông ta bán toàn bộ sản nghiệp trước khi Sài gòn thất thủ và ôm về cả đống tiền. Ở đây họ chỉ giao du với những kẻ giàu có xuất thân từ tầng lớp dưới. Ngôi nhà của họ rất đẹp. Ba ôtộ chiếc Rolls và chiếc Jaguar cho ông chồng và chiếc TR 7 cho bà vợ. Bốn người hầu. Tay chồng làm gì hết, chỉ có chơi golf và đánh bài poker. Còn vợ đánh bridgẹ Những điều đó có với cậu điều gì ?
      - tại thế là tuyệt rồi. Nhưng mình muốn tông tin chi tiết hơn về người đàn bà đó. Mình cũng muốn biết bà ta từ đâu tới và họ có con ?
      Terry khẽ rên rỉ.
      - Thôi được, mai mình lo vụ đó.
      Tôi gác máy,bước ra khỏi cabin và thấy Bob Wyatt mặt lơ đãng nhìn đâu, tôi tiến lại gần.
      - Peggy ốm ra sao, ông Wyatt? – tôi hỏi.
      Ông nhìn tôi.
      - Nó nằm viện.
      - Rất tiếc phải nghe tin buồn này. Thế có nghiêm trọng lắm ?
      - Nó có vấn đề. (Ông ta nhún vai). Chuyện làm ăn khấm khá, nhưng tôi thể tiếp tục được nữa. Chỉ mong sao Peggy chết đói. Ông Weatherspoon có ý định đại hóa khách sạn này. Ông ta đuổi hết nhân viên ở đây, chỉ trừ có bà đầu bếp. Xét cho cùng, đời là thế mà.
      - Xem ra ông Weatherspoon mua đủ thứ ở Searle này nhỉ, - tôi nhận xét.
      Ông ta gật đầu và đưa chìa khóa cho tôi.
      - ngủ chưa, Wallace?
      Tôi cầm chìa khóa, mỉm cười và ra thang máy.
      Tôi ngồi suy nghĩ về những điều diễn ra trong ngày và những điều Terry cho biết. Rồi khi thấy công việc chưa đâu vào đâu, tôi bèn tắm, rồi lên giường ngủ.
      ***
      Wally Watkins ngồi tỉa những bông hoa tàn trong những chậu hồng đặt dọc hai bên con đường dẫn vào nhà. Nhìn thấy xe tôi, ông đứng dậy và ra tận cổng đón.
      Vẫn rất nghiêm chỉnh trong bộ vét trắng, đầu đội chiếc mũ rộng vành.
      - Tôi vẫn cứ tự hỏi khi nào tôi mới có cơ may gặp lại , - Ông . – chút cà phê nhé.
      - , cám ơn bác. Cháu vừa ăn sáng xong. (Lúc đó khoảng mười giờ năm). Cái gối của bác thế nào rồi.
      - Lúc đỡ lúc . Những khi đỡ tôi tranh thủ làm vườn chốc lát.
      Tôi dừng lại ngắm nghía những bông hồng.
      - Chưa bao giờ cháu thấy những bông hồng đẹp như thế này.
      - biết đấy, đó là do tôi hay trò chuyện với chúng. (Ông cười). Hoa nó cũng hiểu người đấy.
      Chúng tôi ngồi trong hai chiếc ghế phôtơi đu đưa trong bóng râm. Ông châm tẩu và tôi châm thuốc lá.
      - Này, bạn trẻ. tìm thấy Johnny chưa? – ông hỏi.
      - thời gian nữa cháu nhất định tìm ra. Này, bác Watkins, cháu tới đây quấy rầy bác vì cháu rất cần chuyện với con trai bác.
      Mặt ông già hơi sầm lại.
      - Nó có liên quan gì tới vụ này? – ông hỏi.
      - Cháu biết. Cháu như người câu ấy mà. Cứ thả mồi xuống nước và hy vọng giật được con gì đó. Bác có tin gì từ ấy ?
      - Chẳng có tin tức gì, từ khi nó nhập ngũ. Chục năm rồi còn gì và thực lòng, tôi cũng chẳng muốn gặp nó nữa. Nó gây cho vợ chồng tôi bao nhiêu phiền muộn. có nó và những hành vi tồi tệ của nó Kitty có lẽ chưa rời cõi đời này.
      - Theo như cháu nghe Mitch là bạn rất thân với con của bác.
      - Đúng là hai thằng khốn. Tôi nghĩ là thằng Syd nhà này lôi kéo Mitch. Syd là thằng thông minh. Tôi nhầm đâu. Nó là đứa có đầu óc. Nhưng tính nết quá ư tồi tệ. (Ông bỏ tẩu xuống và lắc đầu). Cả Kitty lẫn tôi bao giờ hiểu được tại sao lại như vậy. Chúng tôi hết lòng thương nó. Nhưng nó xấu xa từ trong xương tủy. Ngay từ lúc bốn tuổi, nó ăn cắp ở cửa hiệu của tôi. Mà nó có thiếu thứ gì đâu, nhưng nó cứ thích ăn cắp hơn. Sau này, nó ăn cắp cả từ két của tôi. Tôi bắt tại chỗ và đánh trận ra trò, nhưng tật đâu vẫn hoàn đấy. Sau đó nó và Mitch phóng môtô của Mitch tới Paradise Citỵ Và chúng ăn cắp ở đó. Tôi biết được là nhờ theo dõi nó và biết được tiền mua thuốc lá và quần áo của nó là từ nguồn khác. Và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn. Kitty buồn vì nó mà qua đời.
      - là tồi tệ, - tôi . Hồi ở Việt nam Syd có viết thư cho bác ?
      - Nó chỉ gửi cho Kitty cái bưu ảnh báo rằng nó tới nơi. Sau đó bặt vô tín.
      - Bác có giữ chiếc ảnh nào của Syd ?
      - Ảnh ấy à? Có. Bây giờ tôi mới nhớ ra. Nó có gửi cho tôi bức ảnh trước khi xuống tàu. có muốn xem ?
      - Nếu quá làm phiền bác, tôi mỉm cười đáp.
      Ông già ngẫm nghĩ lát rồi khó nhọc đứng dậy.
      - Ta vào nhà , tôi lấy cho xem.
      Chúng tôi vào căn phòng ngủ hết sức ngăn nắp của ông già. Rồi ông tới lục tìm trong chiếc ngăn kéo trong khi tôi đứng nhìn ngôi vườn qua cửa sổ. Có bãi cỏ được cắt tỉa công phu và những bụi hồng. Nhưng đây là những bông hồng có sắc đỏ như máu, bán rất đắt ở các cửa hàng hoa.
      Tôi liếc nhìn căn phòng. Có cái máy đánh chữ xách tay đặt cái bàn .
      - Bác còn đánh máy nữa kia à, bác Watkins?
      - Chữ tôi xấu lắm. Đôi khi vẫn phải liên lạc. (Ông đứng thẳng dậy và đưa tôi phong bì). Đây là ảnh của Syd.
      Tôi lấy ra bức ảnh được in giấy bóng. Trong ảnh là thanh niên mặc bộ quần áo nhiệt đới.
      ra đây là Syd Watkins: vai hẹp, tóc đen, hai mắt sát nhau, cái miệng gần như có môi, mũi ngắn tẹt và vết sẹo chạy từ mắt phải tới hàm. Đúng là chân dung của gã du đãng.
      - Tôi bao giờ xem bức ảnh này, - Ông và lùi ra xạ – Trông diện mạo nó chẳng khác gì ngoài đời. thể chịu nổi.
      - Sao lại có vết sẹo mặt Syd hả bác?
      - Từ năm nó mười lăm tuổi kia. Chắc nó đánh nhau bằng dao. Tôi cũng chẳng buồn hỏi. Chúng tôi vừa đau lòng vừa sợ tới mức chẳng hỏi tại sao nữa. Chúng tôi biết có hỏi cũng vô ích, tốn thời gian.
      - Gần đây bác có gặp Johnny ? – tôi đột ngột hỏi.
      Wally co dúm người lại và nhìn tôi.
      - sao?
      - Cháu hỏi bác từ hôm ông Jackson mất đến giờ bác có gặp Johnny ?
      Ông già quay mặt .
      - Tại sao lại hỏi thế?
      - Có ai đó đặt những bông hoa hồng đỏ ở vườn bác mộ Jackson và đánh máy dòng chữ “Cầu cho ông nội từ nay yên giấc ngàn thụ Johnny”. Dòng chữ đó có thể đanh từ máy đánh chữ của bác cũng nên. Johnny gọi điện nhờ bác hay ta đến đây?
      Ông quờ tay tìm cái tẩu và lảng nhìn tôi.
      - Giả thuyết của ranh ma lắm, Wallace ạ, nhưng lầm rồi. Chính tôi làm việc đó. Ông già Fred và tôi vốn là bạn thân mà. Tôi hoàn toàn hài lòng để người ta mai táng ông mà có hoa. Tôi cắt hoa trong vườn và gõ dòng chữ đó. Đó là điều Johnny làm nếu nó có ở đây. (Ông gượng cười).
      Tôi nhìn Wallỵ Ông già tốt bụng đâu có biết dối. Ông cố che giấu nhưng tôi thừa biết là ông dối.
      - Ý nghĩ của bác cảm động, - tôi . – Thế bác gặp Johnny và cũng có tin tức từ khi nó bỏ ạ?
      Ông lưỡng lự.
      - .
      Tôi biết chắc ông già dối.
      - Cám ơn bác Watkins. Có thể cháu còn quay lại phiền bác.
      Tôi chia tay ông già. Rồi tôi lên xe quay về Searlẹ Tôi châm thuốc và suy nghĩ về bản báo cáo gửi cho đại tá Parnell khi ông trở về từ Washington. còn nhiều thời gian nữa. Tôi gần như chắc chắn rằng khi đọc báo cáo của tôi, ông cho dừng vụ này.
      Trước hết, về mặt tiền bạc, chẳng kiếm thêm được gì ở vụ này. Hai nữa, báo cáo của toi phanh phui chuyện người ta che đậy cái chết của Mitch bằng chiếc lá nhọ Và chắc chắn Parnell cho người ta buộc tội người hùng là kẻ buôn bán ma túy.
      Nhưng tôi nhất định phải biết.
      Rất nhiều câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời, và tôi chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.
      Tôi nhớ đến lời khuyên của cha tôi: “Nếu con thấy bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ cho kỹ, có thể con tìm ra đầu mối quan trọng mà trước đó con bỏ qua”.
      Bế tắc đúng là tình trạng của tôi nay, đành quay trở về dữ liệu ban đầu vậy.
      Fred Jackson là người chuyên nuôi ếch, đề nghị đại tá Parnell tìm đứa cháu đích tôn là Johnnỵ Ông trả trăm đô và nhắn đại ta rằng Mitch Jackson là cha của Johnnỵ Parnell nhận nhiệm vụ này và giao cho tôi.
      Tôi phát ra các kiện sau: người ta giết Fred Jackson. Để bảo vệ viên cảnh sát trưởng sâu rượu và để cảnh sát bang điều tra, bác sĩ Steed kết luận Fred tự sát. Dưới giường Fred , tôi thấy cái hố trống và nhiều khả năng ông già giấu tiền để dành ở đó. Có ai đó lấy sạch mọi thứ trong nhà, kể cả tấm huân Chương Danh dự của Mitch và tiền để dành của Fred. Theo lời đồn thi Mitch và Syd Watkins gây ra nhiều chuyện tai tiếng trong làng. Rồi cả hai đều nhập ngũ.
      Ít lâu sau khi Mitch lính, thằng bé tám chín tuổi tới Searle tìm ông nội nó là Fred Jackson. Thằng bé có tên Johnny nhờ người bưu tá gửi hộ bức thư cho bà Stella Costạ Thằng bé ở lại với ông nó và học tới lúc nó mười bốn tuổi. Những người tới nhà Fred ai thấy thằng bé cả. Trong suốt sáu năm sau khi Mitch chết, tháng nào Fred cũng nhận được bức thư từ Miami.
      Nếu mọi sĩ quan đều đánh giá cao Mitch, người lính da đen tên Hank Smith lại rằng Mitch bán ma túy và chết khi cứu những tên lính trẻ, nguồn thu nhập béo bở của tạ Smith bị giết. Tôi cũng bị gã nhọ và hai thằng du đãng tấn công. Và Harry Weatherspoon nguyên là nhân viên cơ quan phòng chống ma túy của quân đội, muốn mua lại cơ ngơi của Fred. Ông cầu luật sư của mình là Edward Benbolt cho đăng thông báo tìm Johnny báo chí. Bây giờ ông ta quan tâm nữa.
      Stella ràng là mẹ của Johnny, bà ta làm việc trong hộp đêm mờ ám do gã Mêhicô tên Edmundo Raiz cai quản. vũ nữ thoát y tên Bêbê Mansel cho biết Stella chết vì tiêm ma túy quá liều và Johnny là gã đồng tính sống cùng gã da đen. Bêbê dùng chiếc xe mang biển đăng ký theo tên bà Phyllis Stobart, vợ thương nhân từ Sài gòn trở về có tên Herbert Stobart.
      Wally Watkins, cha của Syd đặt hoa ở mộ Jackson và khẳng định đó là điều mà Johnny muốn làm. Nhưng ông già ràng là dối. Tôi biết chắc chắn Wally vẫn liên lạc với Johnny.
      Tôi suy ngẫm tất cả các yếu tố đó, nhưng chưa có kết luận ràng. Lúc này tôi cách trang trại nuôi ếch của Fred chỉ hơn cây số. Tôi quyết định tới đó xem xét lần nữa. Biết đâu có chi tiết nào mà tôi bỏ sót. lục soát mất tập trung do có mặt Anderson, có thể có yếu tố mới mẻ.
      Tôi lên đường tới trại nuôi ếch. Tôi cho xe chạy theo con đường hẹp, tới chỗ ngoặt rộng, tôi dừng xe và bộ. Tôi quan sát ngôi nhà. Cửa vẫn hé mở. Bầu khí vẫn như trước kia: hơi nóng ẩm, tiếng ộp oạp của lũ ếch và vẻ tiêu điều của ngôi nhà.
      Theo bản năng, tôi mở cúc áo vét để có thể rút nhanh khẩu 38 lỵ Tôi đến ngôi nhà và đẩy cửa.
      Tôi đứng khá lâu để quan sát căn phòng mờ tối. Người ta có cảm giác như có kẻ nào đó đến đây đập phá. chiếc bàn gãy hết chân, những chiếc ghế mất lưng, những chiếc thảm bụi bặm lật lên hết. Các bức vách bị rìu chém nham nhở tạo thành những lỗ hổng to tướng. Hai chiếc ghế phôtơi cũ bị rạch lung tung, lòi ra những thứ nhồi bẩn thỉu.
      Tôi ngang qua đống hỗn độn đó và bước vào phòng Fred. Ở đây cũng thế, mọi thứ đều bị đập phá. Chiếc giường cũng như chăn đệm đều bị phá nát. Cửa tủ quần áo cũng mở toang và bị giật sắp rời khỏi bản lề. Quần áo bẩn của Fred rắc đầy sàn nhà. Căn phòng còn lại cũng ở tình trạng như vậy. Tất cả đều bị rìu bằm nát. Có kẻ tới đây tìm gì đó, và quyết tâm phải tìm bằng được.
      Tình trạng thê thảm của ngôi nhà và cảnh hỗn độn ở đây mách bảo tôi rằng lục soát tiếp ở đây chỉ mất thời gian vô ích.
      Tôi bước ra khỏi nhà trong cái nắng chói chang. Tiếng ộp oạp của lũ ếch khiến tôi sao tập trung suy nghĩ được. Tôi quyết định với cảnh sát trưởng Mason về những điều diễn ra ở đây. kẻ nào đó tới đây tìm kiếm tiền của Jackson.
      Tôi quay lại con đường dẫn tới chỗ đỗ xe, nhưng rồi chợt dừng lại. hiểu sao tôi lại nảy ra ý muốn ngó lại cái đầm nuôi ếch lần nữa. Đôi khi tôi hay có những trực giác rất lạ, mà lần này lại rất mạnh.
      Tôi xuống theo con đường hẹp và càng tới gần khu đầm tiếng ộp oạp của lũ ếch càng làm tôi ù tai. Tôi cảm thấy đơn độc và hơi rờn rợn, bèn đặt tay lên bao súng, nhưng cũng chẳng ăn nhằm gì.
      Tôi rón rén tới mép đầm. Chắc có tới hàng trăm con ếch bờ giáp mặt với tôi. Chúng tạo thành đội quân, giương những đôi mắt xanh nhìn tôi. Tôi vẫn lặng lẽ tiến lên.
      Đầm lõng bõng bùn và mọc đầy cỏ lác, phản chiếu hơi nóng mặt trời đến ngột ngạt. Giữa đầm, tôi nhìn thấy hình như có cái bè có hàng chục con ếch ngồi đó. Tôi tiến tới gần hơn và nín thở khi nhận thấy cánh tay người. ra đó phải là bè! Mà là xác người!
      Tôi vỗ taỵ Ngay lập tức lũ ếch biến hết. Tôi xuống mép đầm và nhìn cái xác nổi lềnh bềnh.
      con ếch lớn vẫn ngự đầu cái xác. Nó nhìn tôi mấy thiện cảm, kêu mấy tiếng rồi nhảy đại xuống nước.
      Cái xác đó là thi thể của Harry Weatherspoon.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 6

      Tôi gọi điện cho cảnh sát trưởng Mason trong cabin điện thoại bên đường cái. Bill Anderson nhanh chóng nhấc máy.

      - Bill hả? Mình báo cho cậu biết là ngôi nhà của Fred bị đập phá tan hoang, - tôi . – Mình nghĩ rằng cần phải báo cho các cậu biết.

      - Đập phá tan hoang kia à?

      - Đúng thế.

      Im lặng lúc lâu rồi Bill hỏi tôi:

      - Hãy tha lỗi cho tôi, Dirk ạ. làm gì ở đó thế?

      - Mình buồn quá, chợt thấy quan tâm tới lũ ếch.

      - Tôi tới đó ngay.

      - Chính vì thế mà mình gọi cho các cậu. Nhớ đưa cả Mason, bác sĩ Steed, xe cấp cứu và hai người khỏe mang ủng lội bùn đấy.

      - sao?

      - Mình quên chưa với cậu chi tiết này. Harry Weatherspoon uống no bùn trong đầm nuôi ếch. Chắc là nghẻo rồi và lũ ếch chẳng tỏ ra đau buồn gì. (Tôi gác máy).

      Tôi quay lại ngôi nhà của Fred, ngồi xuống chiếc ghế dưới bóng râm và chờ đợi.

      giờ sau mới thấy xe của cảnh sát trưởng rẽ vào con đường hẹp. Bill Anderson ngồi sau tay lái, Mason và bác sĩ Steed ngồi ở ghế sau. Trong chiếc xe cứu thương chạy phía sau có hai người da đen cao lớn và hai người da trắng mắc quần áo bảo hộ.

      Tôi tiến tới đón mọi người xuống xe. Cảnh sát trưởng Mason vẫn còn ngà ngà, chân đứng vững. Bác sĩ Steed có vẻ hơi lo lắng. Bill Anderson mặt vẫn chưa hết ngạc nhiên.

      - Trước hết ta hãy xem qua trong nhà , - tôi . – Ông Weatherspoon cũng chẳng có gì phải vội.

      Sau khi nhìn tôi với ánh mắt ngờ vực, Mason và Steed cùng bước vào nhà.

      - Cậu cũng nên vào xem, Bill ạ.

      Anderson liền nhập bọn với hai người kia.

      Người da đen nhìn tôi và .

      - nạn nhân mới à?

      - Đúng thế. ta ướt sũng rồi. Nếu có vải mưa hãy lấy ra .

      Ba người trong nhà ra.

      - Chà… chà…, - bác sĩ Steed lẩm bẩm. – Cái bọn trẻ bây giờ đúng là lũ phá hoại. Chúng còn coi ai ra gì nữa.

      - Ông nghĩ sao, Mason? – tôi hỏi.

      Mason chớp mắt và gật đầu.

      - Đ..úng thế, bọn phá hoại.

      - Các ông có cảm thấy bọn nó tới đây là để tìm kiếm cái gì đó ?

      - Bọn phá hoại thôi! – Mason nhắc lại.

      - Thế còn ông Weatherspoon sao? –bác sĩ Steed hỏi. – ông ta chết rồi phải ?

      - Đó mới chỉ là cảm tưởng của tôi thôi, biết đâu các ông có thể nghĩ rằng ông ta giả vờ cũng nên. (Tôi quay sang người ủng). Các cần phải tìm cái sào có móc.

      Người này nhìn tôi toét miệng cười.

      - Tôi có cái rồi, - ta lấy từ xe cứu thương ra chiếc sào dài.

      người ủng nữa cũng lấy xuống mảnh vải mưa lớn. Xem ra Anderson cũng khá tháo vát.

      Rồi tôi dẫn đầu đoàn người đến đầm. Mason có vẻ khó nhọc lê bước theo con đường hẹp.

      Những con ếch lại nhảy lên ngồi xác Weatherspoon như cái bè. Thấy chúng tôi tới, chúng lại nhảy hết xuống đầm. Cuối cùng, bác sĩ Steed lên tiếng: - Tội nghiệp ông tạ là kinh khủng! Thôi nào, các . Hãy vớt ông ta lên .

      Hai người cứu thương trải tấm vài mưa xuống đất, còn hai người ủng lội xuống kéo xác Weatherspoon vào. Họ đặt ông ta lên tấm vải mưa rồi lùi lại.

      Tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ nhìn cái xác. Miệng và lỗ mũi ông ta chứa đầy bùn nhão xanh lét. Tay phải ông ta nắm chặt vật dài và đầy lông lá cuốn xung quanh cổ tay ông ta.

      - Lạy Chúa, Larry! – Mason kêu lên khi nhìn Weatherspoon. – Chuyện gì xảy ra thế này?

      - Cho tôi mấy phút nào, Tim. – ông bác sĩ Steed bình tĩnh .

      Ông quỳ xuống, xem xét đầu Weatherspoon, rồi nhìn xung quanh và gật đầu.

      - Chết do tai nạn, Tim ạ. – ông . – Chuyện này hiển nhiên như mũi ở giữa mặt người.

      Tôi bèn tới gần viên bác sĩ.

      - Ông ta cầm gì ở tay thế kiả – tôi hỏi.

      Tôi quỳ xuống, cầm lấy vật đó và nhàng gỡ ra trong khi Steed đứng quan sát tôi.

      - bộ tóc giả! – tôi kêu lên và giơ cao mớ tóc vàng ướt sũng.

      Đúng là bộ tóc giả rất bình thường mà người nào cũng có thể mua ở bất cứ cửa hiệu nào.

      - có gì quan trọng cả, - bác sĩ Steed . – tội nghiệp.

      Mason bước lên lắp bắp:

      - Có phải chết do tai nạn , Larry?

      - còn nghi ngờ gì nữa! cứ nhìn đây này, - Ông và chỉ những cái rễ cây mọc đâm xuống tận đầm. – Có vết bầm máu bình thường ở gáy ông tạ ràng là ông ta bị trượt chân ngã, đập đầu vào rễ cây, lăn xuống nước và chết đuối. Nghĩa là chết vì tai nạn.

      Cảnh sát trưởng thở phài nhõm.

      - Thế khỏi cần báo cảnh sát bang, hả?

      - Trong trường hợp chết do tai nạn khỏi cần, - bác sĩ Steed khẳng định. – Thôi nào, các chàng trai, hãy đưa ông ta về nhà xác. Tôi tới đó ngay.

      - Ấy, đâu mà vội, - tôi . – Cần phải kiểm tra các túi ông ta .

      - Tôi làm điều đó ở nhà xác.

      - Tốt nhất là nên làm khi có mặt mọi người làm chứng. (Tôi quay sang Anderson). Cậu hãy lục soát các túi xem.

      Anderson lưỡng lự. Nhưng thấy cảnh sát trưởng gì, ta quỳ xuống cạnh cái xác và nhanh chóng lộn hết các túi người Weatherspoon. Tất cả chỉ có bao thuốc ướt sũng, cái bật lửa bằng vàng và cái ví có hai trăm đô tiền lẻ.

      Anderson lập danh sách các vật mà ta tìm thấy trong túi Weatherspoon rồi đưa cho bác sĩ Steed.

      - Vết thương là do đập vào rễ cây này, phải bác sĩ? – tôi hỏi.

      Steed gật đầu

      - Điều đó còn nghi ngờ gì nữa.

      - Thế nhỡ có ai tới từ phía sau và đập vào gáy ông ta sao?

      Sau lát im lặng, viên cảnh sát trưởng :

      - nghe bác sĩ Steed rồi đấy. Cho phép tôi báo cho biết bác sĩ đây hành nghề từ khi còn chưa đẻ kia. Tôi cần bận tâm tới nhận xét của . Mà làm gì ở đây?

      - Tôi tìm Johnny Jackson, - tôi đáp. – Thế ông tự hỏi Harry Weatherspoon tới đây làm gì chưa?

      - Ông ta muốn mua trang trại này. Ông ta tới đây để xem thực trạng ra sao. Chuyện đó cũng tự nhiên thôi, phải ?

      - Đúng thế. Nhưng ông ta tới đây xem và mang cả rìu theo.

      Viên cảnh sát trưởng nổi cáu.

      - , có quyền ở đây. chỉ gây chuyện những chuyện rắc rối.

      - Ông có tự hỏi Weatherspoon tới đây bằng cách nào ? có xe của ông ta ở đây. Hay là ông ta bộ tới.?

      xong, tôi về phía ngôi nhà để mặc cho Masoon và Steed lúng túng nhìn theo.

      Tôi tính toán rằng phải mất thời gian người ta mới gói xong và chở cái xác . Ra khỏi tầm nhìn của họ, tôi vùng bỏ chạy. Tới ngôi nhà tôi lẻn vào. Trước hết phải tìm cho ra chiếc rìu: đập phá chỉ có thể làm bằng dụng cụ này.

      Sau hai ba phút, tôi tìm thấy nó được giấu trong đám vật liệu nhồi ghế phôtơi. Đó là chiếc rìu cán ngắn, lưỡi khá sắc. Tôi cuộn tay trong chiếc mùi soa rồi cầm lưỡi nhấc lên và kiểm tra phần sống rìu. có kết quả gì. Tôi chợt thấy cán rìu có cái nhãn ghi: “Tài sản của nhà Morgan và Weatherspoon”. Tôi đặt chiếc rìu vào nơi Anderson có thể nhìn thấy, rồi ra khỏi nhà và vòng ra phía sau.

      Quay về chỗ bóng cây. Tôi thấy chiếc xe máy Hondạ Tôi nghĩ đây là chiếc xe mà Weatherspoon đến đây. Tôi cũng cho rằng ông ta tới đây có mang theo cả rìu và dùng nó đập phá cách hệ thống trong nhà. Ông ta tìm kiếm gì? ràng ông ta chỉ tìm thấy bộ tóc giả màu vàng. Tôi nhớ Abe Levi ông ta thấy ở nhà Fred có bé tóc vàng. Và người ta cũng Johnny là đứa ái nam ái nữ. Johnny có thể mua mua tóc giả ở Searle và đội nó vào những ngày ông già Fred ở nhà và bất chợt bị Levi nhìn thấy.

      Điều này giải thích được có mặt của . Wally hoàn toàn có lý khi rằng nếu Levi thấy đứa con ở nhà Fred chỉ có thể là Johnny.

      Khi ra con đường hẹp dẫn tới chỗ đỗ xe, bất chợt tôi nảy ra ý. Đó là: có thể Weatherspoon sau khi phát ra thứ khác ngoài bộ tóc giả bị tên theo dõi giết chết. Liệu có phải cũng là tên giết Jackson ?

      Tôi quyết định tiếp tục đào bới cho tới khi Parnell trở về. Tôi báo cáo với ông tất cả những điều tôi biết và để ông ấy quyết định.

      ***

      Tới Searle, tôi đậu xe trước khách sạn và vào. Mọi người có mặt ở đó đều chằm chằm nhìn tôi và xì xào bàn tán. Hàng chục người ngồi ăn cũng nhìn tôi với ánh mắt đầy hy vọng.

      Tôi gọi chiếc bánh sandwich nhồi thịt gà và dăm bông cho vào cái túi

      - Chuyện xảy ra với ông Weatherspoon khủng khiếp! – người hầu bàn .

      Tất cả mọi người đều dừng ăn và dỏng tai nghe.

      - Có ai sống mãi được đâu, - tôi đáp và ngạc nhiên là tin tức loan về đến Searle, rồi tôi trả tiền.

      - Xin lỗi, ông Wallace, - người thó nhồm nhoàm nhai . – Tôi nghe là ông phát ra xác của ông Weatherspoon, phải vậy ?

      - Nếu đó phải là ông ta là ai đó mặc quần áo của ông ta, - tôi rồi bước ra.

      Tôi phóng xe tới nhà máy Morgan và Weatherspoon, đậu xe trước cổng, rồi tới kho chế biến. Tôi thấyh Levi ngồi ăn trong cái vỏ hộp như lần trước. Ông già Levi vẫy tay gọi tôi. Tôi tới và ngồi xuống cạnh ông.

      - Bác vẫn thích món đậu hay cùng ăn bữa trưa với cháu? – tôi hỏi và mở cái túi giấy ra.

      - Bánh mì à? bao giờ. Tôi thích món đậu này hơn. hơn hai mươi năm nay tôi chỉ ăn món này.

      Tôi đành rút bánh ra nhai.

      - Ông chủ bị ngã xuống đầm nuôi ếch và chết đuối, phải ? – Levi hỏi và dùng thìa vét thức ăn trong hộp.

      - Đúng thế. Nhưng rồi nhà máy ra sao?

      - Tôi cóc cần biết. Tôi xin về hưu. Tôi cũng ngán thu gom ếch lắm rồi. Tôi có bà vợ hiền thục, ngôi nhà đàng hoàng và ít tiền để dành. Thế can cớ gì tôi phải lo cho số phận nhà máy.

      - Weatherspoon có vợ con gì ?

      ánh nhìn tinh quái lại lóe lên trong mắt ông già.

      - lại cần thông tin phải ?

      Tôi đáp đúng thế.

      - Thế chi hai mươi đô đây, tò mò của được thỏa mãn.

      Thời gian rất gấp rút. Tôi mở ví lấy ra tờ năm đô và đưa cho ông.

      - Để xem bác có thỏa mãn được tò mò của cháu hay

      - hỏi tôi ông chủ có vợ con gì , đúng thế ?

      - Này bác Levi, đừng có chơi trò méo vờn chuột nữa. Bác có hai mươi đô nếu bác cung cấp đúng thông tin mà cháu cần. Weatherspoon có vợ con gì ?

      - . Nhưng ông ta ngủ khắp lượt. Với cả con Peggy ông ta cũng thạ Con bé cứ nghĩ ông ta cưới nó đến nơi, nhưng ông ta đâu có phải loại người làm chồng, thế mà con bé cứ hoắng cả lên.

      - Bác có biết ai là người thừa kế nhà máy này ?

      - Tôi nghĩ là chẳng có ai. Weatherspoon là người độc thân. Nhà máy này có giá lắm đấy. Khi mua lại của Morgan, ông chủ mới bắt đầu cho đóng hộp ếch. Nhờ thế, ông ấy cung cấp đùi ếch cho hầu hết các khách sạn sang trọng và hốt bạc.

      - Ếch đóng hộp? Thế mà cháu biết người ta đóng hộp cả ếch kia đấy, - tôi vẻ chế nhạo. – Người ta chỉ ướp lạnh đùi ếch, chứ ai lại đóng hộp bao giờ.

      - còn lạ gì, Wallacẹ Phụ nữ bây giờ lười nhác lắm. Họ cho chồng con ăn toàn đồ hộp thôi. Riêng tôi vẫn thích đậu Hà Lan đóng hộp.

      - Thế ra ông ta xây dựng cả nhà máy đóng hộp ếch.

      - chứ sao. Đây phải là chỗ của tôi. Tôi chỉ chuyên thu gom ếch thôi. Còn xưởng đóng hộp dưới kia kìa. Phụ trách nó là thông minh lắm. ta lo chuyện này từ khi ông chủ mua nhà máy. (Ông ta nhìn tôi hỏi). có muốn biết thêm nữa ?

      - Nếu bác muốn có mười lăm đô còn lại phải thêm nữa.

      Ông già vét hết số đậu còn lại trong hộp, rồi .

      - Ông chủ là tay bẩn thỉu lắm. Ông ta lúc nào cũng chạy theo đồng tiền. Ông ta lập cả băng găngxtơ nữa kia. (Ông già lại nhìn tôi). Mà hiểu tại sao thứ năm nào ông ta cũng cưỡi Honda và trở về với cái túi da buộc phía sau? Tôi thường gặp ông ta và khi tôi dỡ hàng ông ta về. Thi thoảng còn có tay Mêhicô cũng lai vãng đến đây. Họ thầm bí mật trong văn phòng ông chủ. Cứ như buôn bạc giả ấy.

      - Gã Mêhicô ấy trông thế nào?

      - thằng bẩn thỉu với hàng ria mảnh. Tháng nào cũng tới. Rồi có gã nữa chiếc xe Jaguar. Tôi chỉ gặp lần. Hôm đó tôi sửa xe tới tối muộn. Tôi thoáng thấy hiểu là ai. Tôi nghe thấy to tiếng với ông chủ.

      Tôi đưa thêm cho ông mười đô nữa.

      - những gì?

      - Tôi nhớ chính xác. Chỉ nhớ là chuyện tiền bạc gì đấy. hét: “trả ”. Sau đó thấy ầm ĩ nữa. Tôi quan tâm đến chuyện của họ, tôi sửa xe mà.

      - Thế phụ trách xưởng đóng hộp tên gì?

      - Cloe Smith. có định chuyện với ấy , Wallace?

      - Tại sao lại ?

      - Đừng có đút tiền cho ấy đấy. Đối với người da đen ấy thuộc loại khá giả rồi.

      - Xin nghe lời bác.

      Tôi đưa nốt năm đô dự trữ cho ông già.

      - Nếu cháu nghĩ thêm được ý gì, cháu tìm bác.

      Tôi chia tay ông già Levi rồi vào nhà kho cuối sân. Tôi mở cửa bước vào căn phòng dài và hẹp. Cạnh cửa sổ là dãy vỏ hộp chưa đóng. Trong góc có thiết bị hàn và cả đống nắp vỏ hộp.

      da đen cao lớn từ phòng bên cạnh bước ra và chòng chọc nhìn tôi. ta rất đẹp. Người cân đối, nước da đen như mun và khuôn ngực căng tròn. Trông chỉ trạc độ dưới ba mươi.

      - Smith? – tôi hỏi và mỉm cười thân thiện.

      Từ chỗ râm, bước ra chỗ có ánh nắng xuyên qua các cửa sổ.

      - đến giờ đóng cửa rồi, - bằng giọng nghiêm nghị nhưng du dương.

      - Tôi chỉ muốn hỏi hai ba câu hỏi thôi. Tôi là Dirk Wallace.

      gật đầu.

      - Có báo cho tin buồn này chắc cũng vô ích thôi, Smith ạ. Vì ở Searle này tin tức lan truyền nhanh kinh khủng.

      Lại gật đầu.

      - có biết Johnny Jackson ?

      - .

      - Chắc là biết tôi tìm ta chứ?

      - Tôi có nghe .

      - Smith ạ, biết đâu có thể giúp được tôi cũng nên. Vì ông Weatherspoon muốn mua trang trại của Jackson mà. Người ta với tôi là ông chủ của bán ếch cho các khách sạn, nhưng tôi lại biết ông ấy cho đóng hộp.

      nhìn tôi dò xét và suy nghĩ.

      - Thế có quan hệ gì đến Johnny Jackson?

      Tôi cố nở nụ cười cầu thân.

      - Tôi cũng biết. Nghề của tôi là tìm kiếm thông tin mà. Đôi khi thông tin này lại xác nhận thông tin khác. Ông Weatherspoon có bán nhiều ếch đóng hộp ?

      - . Chúng tôi chỉ bán khoảng năm trăm hộp mỗi tháng. Nhưng ông Weatherspoon đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Tôi nghĩ chắc còn tăng nữa.

      - có thể cho tôi biết cách chế biến ?

      nhún vai.

      - Ếch được đưa đến chỗ chúng tôi từ phân xưởng ở đầu kia. Chúng được tẩm bột rồi đem rán và sau đó đóng hộp. Khách hàng chỉ việc mở hộp đặt đĩa rồi hâm nóng bếp chỉ mười lăm phút là ăn ngon lành.

      - Chỉ có thế thôi sao?

      - Chưa hết. Ông Weatherspoon còn phát minh ra thứ nước chấm đặc biệt bán kèm theo đùi ếch. Thành phần chính là loại bột được đựng trong túi nylon đặt trong hộp. Chỉ có ông ta mới biết bí mật làm ra thứ bột này. Việc pha chế cũng rất nhanh: cho chất bột vào nồi, và thêm vào đó chút nước, chút sữa và rượu trắng rồi đun lửa khoảng ba phút là xong.

      - Rất hấp dẫn, - tôi . – Tôi vốn hay tìm những món dễ nấu mà. Tôi có thể mua hộp để nấu thử được ?

      lắc đầu.

      - được. Về điểm này ông Weatherspoon rất thận trọng. Ông luôn luôn tự tay đặt các gói bột nước chấm vào từng hộp và đứng bên cạnh trông tôi hàn. Ông ta có danh sách những khách hàng đặt trước chỉ hộp mỗi tháng. Những hộp này đều được bao gói rất cẩn thận.

      - Tôi có thể mua hộp như thế này ở cửa hàng thực phẩm ?

      - Chúng chỉ được bán cho những khách hàng đặt trước. Ông Weatherspoon rằng chúng tôi đủ khá năng cung cấp bán lẻ. Nhưng ông hy vọng rằng việc làm ăn rồi phát triển rất nhanh.

      Tôi bắt đầu thấy vật hơi sáng tỏ.

      - Cám ơn Smith rất nhiều. Nhưng bây giờ ở đây ra sao?

      nhún vai.

      - Tôi cũng biết nữa. Chắc là tôi phải tìm công việc khác.

      - Đối với xinh đẹp và thông minh như có khó gì. Biết đâu ông Weatherspoon chả có cộng mua lại nhà máy.

      - Có người Mêhicô thường xuyên tới đây. Nhưng tôi biết ông ta có cộng tác với ông chủ tôi ? Cũng có thể đó chỉ là khách hàng.

      - Tôi nghĩ là tôi biết ta: người con, vai rộng và hàng ria mép mảnh.

      gật đầu và nhìn tôi vẻ tư lự.

      - Ông có còn gì muốn hỏi ? Tôi cần phải về rồi.

      - Rất tiếc làm mất giờ của cộ Xin hỏi câu cuối. Ông Weatherspoon sống ở đâu?

      - Ông ấy có căn hộ Ở ngay bên văn phòng.

      - Ông ấy có vợ ?

      - .

      - Cám ơn Smith. – tôi và mỉm cười thân thiện, rồi chia tay .

      Tôi trở về khách sạn Jumping Frog. Bob Wyatt ngồi ở quầy tiếp tân. Trông ông có vẻ gần đất xa trời lắm rồi.

      - biết bao nhiêu là tin buồn! – tôi và dừng trước mặt ông.

      Ông gượng cười với vẻ mệt mỏi.

      - Mưu tại nhân, thành tại thiên mà.

      - Rồi ông tìm được người mua khác thôi. đến ngày tận cùng thế giới đâu mà lo.

      - Tôi đâu có lo cho tôi, lo là lo cho con Peggy kia.

      - Bệnh tình ấy sao rồi?

      - Người ta rồi cũng qua thôi. (Ông nhìn tôi buồn bã). Nó buồn lắm, mà tôi thể bỏ khách sạn đến thăm nó luôn được.

      - Ông nghĩ rằng ấy vui khi có người đến thăm ư? Chiều nay tôi rỗi, tôi có thể mang hoa tới và chuyện với ấy lúc, được chứ ạ?

      Gương mặt ông già tươi hẳn lên.

      - thế chứ? Nó có vẻ mến lắm, Wallace ạ. Tôi chẳng biết nhờ cậy ai làm việc đó. Các bà ở đây lại ưa nó.

      - Thôi cứ để tôi làm chọ Tôi tới đó ngay bây giờ. Bệnh viện ở chỗ nào, ông Bob?

      Ông chỉ đường cho tôi. Bệnh viện chỉ cách Searle khoảng cây số.

      Mang bó hoa tươi và cuốn sách ăn khách mới nhất của Judith Kantz, tôi bước vào sân bệnh viện và phát ngay ra Peggy ngồi ở ban công, mắt nhìn đăm đăm vào cánh rừng thông.

      ta nhìn tôi miệng há ra vì ngạc nhiên, rồi mặt ta rạng rỡ hẳn.

      - Dirk! Sao lại có chuyện lạ thế này!

      - Sức khỏe thế nào rồi? – tôi hỏi rồi đặt quyển sách và hoa xuống cái bàn ở bên cạnh .

      - Rồi cũng ổn thôi. Qua cơn nguy kịch rồi, bác sĩ Vance cho em xuất viện ngày mai.

      - thế ư? Sao sớm thế.

      Peggy cười.

      - em có phải nghiện rượu đâu, trông bên ngoài có vẻ thế thôi. Em đau buồn là đau buồn vì tình kia.

      Tôi ngồi xuống bên cạnh .

      - tin tốt lành. Thế nỗi đau buồn vì tình của ra sao rồi?

      - Hai giờ trước, y tá cho em biết rằng ta chrết rồi. Thậm chí em giọt nước mắt nào. Thế mà em cứ tưởng mất trí vì ông ta.

      - Ở tuổi , tôi cũng từng mất trí vì , - tôi dối. – Phải mất thời gian mới nguôi ngoai được, nhưng rồi qua.

      - Ba em có khỏe ?

      - Chắc khỏe hơn nhiều nếu về nhà. thời, , ông nhà phải trông nom khách sạn cũng vất vả.

      - Em chắc cũng vậy. Tội nghiệp ba em! giúp với ba em là mai em xuất viện, được ?

      - Tất nhiên rồi.

      - hiểu khách sạn có bán được ?

      - có Weathrspoon, thể nào chả tìm được người mua khác.

      gật đầu.

      - Em rất muồn rời Searlẹ Ở đây chẳng ai em cả.

      - Hãy tới gặp ông Wallis Pollack. Ông ta có thể tìm cho người mua.

      - Đúng. Nhưng dù sao cũng phải đợi cho ba ra .

      - Peggy này, tôi nghĩ là có thể giúp tôi. Càng tìm kiếm Johnny, cuộc điều tra chúng tôi càng trở nên phức tạp. có thể cho tôi biết những chuyện xảy ra giữa và Weatherspoon được ?

      - Giữa Harry và Johnny có quan hệ gì? – ta nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.

      - Tôi cũng biết. Tôi như người câu ấy mà. Cứ thả mồi xuống nước với hy vọng rằng con cá nào đó cắn câu. Lần đầu tiên gặp ông ta là khi nào?

      - Khoảng hai năm trước. Ông ta tới đề nghị với ba em mua lại khách sạn. Ông ta có nét gì đó khiến em mê ngaỵ ( ta giơ tay lên làm động tác tuyệt vọng). Trời ơi, Dirk, bọn con chúng em mới dạ làm sao!

      - Đàn ông bọn tôi cũng vậy thôi.

      - Rồi em Harry đến mất trí. Ban đầu ông ta mấy để ý đến em. Nhưng rồi em thấy ông ta dần dần tỏ ra quan tâm. buổi tối, ba em được khỏe và nằm sớm, ông ta đến. Ông ta cầu em cho xem căn phòng tốt nhất. Và điều gì xảy ra sau đó chắc đoán ra… ( thở dài). Ông ta đem lại cho em những khoái cảm tuyệt vời. Em cũng từng làm tình, nhưng Harry ai sánh được. Ông ta làm cho em sung sướng tới mức chỉ nghĩ đến lần tiếp sau. Ở khách sạn mà làm chuyện đó quá nguy hiểm vì sợ ba em bắt được. Ông ta đề nghị em tới nhà ông tạ Đến đó chỉ mất mấy phút bộ chứ mấy. Đó là căn hộ đẹp ngay bên văn phòng ông tạ Chúng em gặp nhau ba lần tuần. Em bao giờ thấy mệt mỏi vì ông tạ Rồi em nhận thấy ông ta có vẻ lảng em. lần, ông ta tới ăn trưa ở khách sạn, mỉm cười với em và rằng tối nay đừng tới vì ông ta bận. Em ham muốn ông ta tới mức em phải uống cốc rượu gin lớn cho quên , rồi nằm và khóc tới phát ốm. Lạy Chúa, em mới ngốc nghếch làm sao!

      - Chuyện ấy cũng là bình thường thôi mà.

      - Có thể! ( nhún vai). Bây giờ thế là hết. Và em thấy mừng! Sau đó mỗi tháng em chỉ được gặp ông ta lần, nhưng rượu em tiếp tục uống.

      - Nhưng tại sao lại thấy mừng, Peggy?

      - Vì ở Harry có cái gì đó… khó giải thích lắm. Em có cảm giác như ông ta có dây vào những vụ buôn bán mờ ám. Đôi ba lần, vào ban đêm khi em và ông ta ngủ, điện thoại réo và ông ta xuống văn phòng. Nhiều lần em để ý ông ta la hét ầm ĩ trong điện thoại, có vẻ giận sữ lắm. Khi lên phòng, trông ông ta có vẻ dữ dằn và tàn ác thế nào ấy. Rồi ông ta bảo em phải vì ông ta có việc. hôm em phản đối , ông ta vẻ mặt hầm hầm dữ tợn. Em sợ quá.

      - hãy quên . – tôi . – bước ra khỏi đời rồi.

      - Chính vì thế mà em thấy mừng mà.

      - nghĩ rằng có dây vào những vụ buôn bán mờ ám. Tại sao, Peggy?

      - Em đâu có là con ngốc. Tại sao người ta lại gọi điện cho vào hai giờ sáng? Tại sao ông ta lại đuổi em lấy cớ là có việc phải làm gấp? Và rồi lại còn chiếc xe tải tới vào lúc ba giờ sáng nữa chứ.

      - Xe tải nào vậy, Peggỷ – tôi hỏi như để mà hỏi.

      lưỡng lự rồi nhún vai.

      - Xét cho cùng, bây giờ chết rồi, có ra cũng chẳng sao. Chuyện này xảy ra hồi em còn mê mẩn . Có lẽ vì em uống hơi quá. đến khách sạn vào buổi tối chúng em hẹn để hủy bỏ hẹn đó. Dirk ạ, em chờ đợi buổi tối hôm đó với sốt ruột kinh khủng! Em mơ cả về nó. Em muốn bế em lên, ôm ấp em, làm cho em sung sướng. Đúng là em điên lên vì . Mà tại sao em lại kể cho những chuyện này nhỉ?

      - được ra thấy nhõm hơn, - tôi mỉm cười .

      - Lạy Chúa, moi hết ruột gan em còn gì!

      Vẻ mặt đột ngột thay đổi và tôi sợ mất tự tin vốn rất mỏng manh.

      - Điều này rất quan trọng với tôi. Hãy kể về chiếc xe tải .

      - Đây là lần đầu tiên có người tặng hoa cho em.

      Tôi cố nén nôn nóng của mình.

      - Và đây cũng phải là lần cuối cùng! Em còn trẻ cơ mà.

      đặt bó hoa xuống rồi lật giở từng trang sách.

      - Peggy, - tôi bằng giọng nghiêm hơn, - hãy kể về chiếc xe tải .

      - Cái đêm ông ta hủy bỏ cuộc hẹn với em, em say mềm. Nằm trong giường em tự nhủ có thể là ông ta lừa em để với khác. Em phải tìm ra . Em mặc quần áo rồi tới nhà máy. Lúc đó quá nửa đêm. Cổng vào rất may khóa. Nhưng căn hộ của Weatherspoon vẫn sáng đèn. Có thể là hiểu, nhưng lúc đó em bị kích thích mạnh, do có cả hơi men nữa, đến gần như phát điên. (Rồi ta nhìn tôi đắn đo).

      - Tôi hiểu.

      - Em vẫn băn khoăn biết có hiểu . dễ. Mà thôi… Thực ra, em vẫn tự hỏi biết con người ta có hiều những người khác hay ?

      - họ vẫn cố hiểu đấy chứ.

      - Em cầm chắc rằng có khác ở phòng tạ Em phải biết đó là ai. Nhưng do say quá em đủ dũng cảm vào để bắt quả tang. Vả lại, ta có thể giết chết em, nếu em gây ầm ĩ. Em đành nấp bên ngoài. Đúng là trò tra tấn, em phải đợi hơn 3 giờ đồng hồ. Lúc đó em dã rượu. Em cay đắng thấy mình phải ngồi xổm sau thùng tônô chở ếch tanh tưởi, lòng tan nát vì ghen tuông. Cùng với cơn say tan dần, em cũng bắt đầu hiểu ra rằng em chỉ là con ngốc và Harry cũng chẳng là cái đinh gì. Em định bỏ về, chiếc xe tải tới. Sau khi bóp còi, người đàn ông từ xe bước xuống, mở cổng. Đợi chiếc xe tải vào trong sân ta khóa cổng lại. Trời tối em chỉ nhìn thấy bóng người. Rồi cửa văn phòng mở và Harry bước ra. Ánh sáng từ văn phòng lọt ra và em nhìn thấy người đàn ông thứ hai xe bước xuống. ( run người lên). Hai gã này khiến em thấy sợ. Đó là hai gã da đen. Điệu bộ của họ lạ lắm. Họ theo Harry vào văn phòng. Hai mươi phút sau, họ chuyển ra những chiếc hộp các tông và xếp lên xe. Họ làm nhanh lắm, nhưng có lẽ tới hàng trăm hộp. Sau khi xếp xong, cả hai gã da đen quay vào văn phòng. Từ chỗ nấp em nhìn những gì diễn ra trong đó. Harry giao tiền cho họ, rồi họ lên xe và lái . Harry ra mở cổng, rồi khóa lại và trở về phòng. lát sau, tất cả các đèn đều tắt. Em thấy mình thất vớ vẩn, có đứa con nào đâu, trong khi mình lại bị nhốt trong nhà máy thế này. Sau khi tìm khắp lượty, em phát thấy có cửa sau. Ổ khóa han gỉ mủn cả ra. Em mở cửa và về nhà.

      - đêm đáng ghi nhớ!

      - Chính vì thế mà em rằng có dây dưa vào chuyện buôn bán mờ ám. có hiểu chuyện gì ở đây , Dirk?

      - Hãy nghe tôi, Peggỵ ta chết rồi., em hãy quên chuyện này . Bây giờ hãu\y chút gì về em .

      - Chưa bao giờ em kể cho ai như vừa kể với , - . – Xin lỗi, nếu em làm phiền lòng.

      Tôi cười.

      - Rồi đâu vào đấy thôi, Peggy ạ. Em có những phút khó khăn, nhưng giờ qua rồi. Hãy tới gặp ông Willis Pollack . Ông ấy tìm cho em người mua khác. Nhưng trước mắt hãy trở về giúp cha em .

      - là người biết cảm thông nhất mà em từng gặp, - vẻ cảm động.

      Trở về khách sạn, tôi với cha Peggy rằng con ông bình phục và sáng mai xuất viện.

      Nghe tin đó, ông trẻ ra đến năm tuổi.

      Sau bữa tối ngon lành với món súp cá, tôi lên phòng ngồi xem bộ phim Viễn Tây cũ đầy bạo lực. Hai mươi giờ bốn nhăm bộ phim kết thúc, tôi lấy đèn pin cực mạnh, kiểm tra lại súng và xuống tiền sảnh. Ông già Abraham ngủ say sau quầy tiếp tân. Hai thương gia vẫn ngồi làm việc. ai ngước mắt nhìn tôi khi tôi bước ra đường phố vắng tanh. Ở Searle này, người ta ngủ khá sớm.

      Đồn cảnh sát cũng chìm trong bóng tối. Bước nhanh và được bóng đêm che chở, tôi tới nhà máy. Tôi lần theo con đường hẹp men theo tường nhà máy và cuối cùng tìm được cái cửa sau mà Peggy kể với tôi. Tôi dừng bước và dỏng tai lên nghe ngóng. Tôi chỉ nghe thấy tiếng xe cộ chạy ầm ì phía ngoài xa lộ. khí nóng và ẩm làm cho mùi tanh tưởi của ếch thêm nồng nặc.

      Tôi đè cả người vào cánh cửa đẩy vào. Cửa mở, tôi bước vào cái sân rộng. Toàn bộ khu nhà, cả văn phòng lẫn căn hộ của Weatherspoon đều chìm trong bóng đêm.

      Tôi ngang qua sân, tới tòa nhà đặt các văn phòng và định mở cửa. ngờ cửa mở sẵn và tôi khỏi thất vọng. Dưới luồng sáng của đèn pin, tôi thấy ba ổ khóa. cao, ở giữa và ở dưới thấp. Tất cả đều mở toang. Tôi vòng quanh nhà và phát ra cái cửa được khóa rất chắc. Tôi vòng ra sân và phát cái thang để lẫn trong cỏ. Tôi mang chiếc thang ra sau tòa nhà văn phòng, dựng vào tường và leo lên. Từ đó tôi leo xuống lan can của hàng hiên, may mắn có cái cửa sổ để mở. Tôi rút then và dỏng tai nghe ngóng và mở toang hai cánh cửa ra. Tôi trèo vào phòng, mở cửa bước ra hành lang tối, đẩy cánh cửa khác và bước vào phòng bày biện sang trọng.

      Có các bậu cầu thang. Từ cao tôi chiếu xuống và thấy rằng cửa bị khóa. Đối với cái khóa này thể tính chuyện dùng sức mà mở được. Thất vọng, tôi đành trở lai căn hộ của ỵ Tôi mở cái tủ quần áo lớn, và lục soát tất cả các túi áo vét, nhưng phát thấy gì. Tôi tìm trong ngăn kéo, nhưng thấy gì thú vị cả.

      Cuối cùng sau hơn nửa giờ tìm kiếm, tôi mở ngăn kéo ở tủ đầu giường tìm được gói capốt quốc và chiếc chìa khóa. Lòng tràn đầy hy vọng, tôi xuống và tra chìa vào ổ khóc. Chiếc cửa mở ra ngon lành và tôi bước vào. Tất cả các ngăn kéo đều khóa. Chỉ có những kẻ mở khóa chuyên nghiệp mới hòng mở nổi. Bỏ chiếc bàn ấy, tôi vòng trong phòng và phát thấy chiếc cửa. Tôi mở ra và vào lối hẹp.

      Trước cửa là thanh thép chắc có dây xich. Có hai ổ khóa. có chìa phải phá cửa mới hòng vào được.

      Tôi đứng bất động nhìn cái cửa.

      Rồi tôi nghe có tiếng ô tô tới. Tôi tắt ngay đèn pin và tới gần cửa sổ. Tôi nghe loáng thoáng tiếng người. Cổng nhà máy mở ra và chiếc xe tải vào sân. Theo sau là chiếc xe con tới đỗ bên cạnh.

      Tôi nhìn hai chiếc xe. con, béo tròn, tôi nhận ra đó là Edundo Raiz. Hai tên khác cũng từ xe tải bước xuống. Đó là hai gã da đen phục nhà tôi dạo trước.

      Tôi nhanh chóng mở cửa lên căn hộ, khóa cửa rồi lặng lẽ lên cầu thang. Tôi chui ra qua cửa sổ sau, leo xuống cầu thang mà tôi đặt ngay lúc trèo. Rút súng ra khỏi bao, tôi vòng quanh tòa nhà và dừng lại cạnh sân.

      Văn phòng được bật sáng. Tôi nghe thấy có giọng . mình trong bóng tối, tôi tiến ra sân và khi thấy đống thùng tônô chở ếch, tôi nấp vội vào đó. Có lẽ Peggy cũng từng nấp ở đây, từ chỗ này, có thể nhìn rất những gì diễn ra trong văn phòng.

      lúc sau Raiz đến bên bàn với chùm chìa khóa trong taỵ Ngồi vào bàn, y lần lượt mở các ngăn kéo.

      Rồi gã mặc áo da dê bước ra tay bê khệ nệ những chiếc hộp các tông đến chiếc xe tải và xếp hàng vào đó. Tôi quan sát Raiz. xem xét cả đống giấy tờ vừa lấy ở ngăn kéo và xem vội vã, thi thoảng lại để riêng tập ra bên cạnh. Raiz lại mở ngăn kéo khác lấy ra tập giấy tờ nữa, xem xét rồi đặt chúng nó cũng vào chỗ giấy tờ y để riêng. Sau khi mở hết các ngăn kéo khác, xem qua, đóng sầm lại. Tôi nghĩ tìm được những thứ cần tìm.

      Đoạn, đứng dậy và tôi nghe thấy hét:

      - Thế nào, chúng mày còn chưa xong à?

      Tôi chợt nhận ra đây là cơ may duy nhất của tôi. Tôi lập tức rời chỗ nấp nhảy tới sau chiếc xe tải, cuỗm gọn hộp rồi lấy hết tốc lực chạy lại nấp sau những cái thùng chở ếch. Tất cả chưa hết ba giây.

      Đúng lúc tôi vừa ngồi thụp xuống hai gã da đen lại lặc lè bê tiếp các hộp các tông ra. Raiz rút khăn mùi soa lau kỹ các ngăn kéo và mặt bàn. Raiz cầm tập hồ sơ giấy tờ, tắt đèn, bước ra khóa cửa lại và rảo bước tới chỗ đỗ chiếc xe con.

      - Dông thôi, - hai gã với hai tên kia.

      Chiếc xe tải ra khỏi sân dừng lại, gã mặc áo da dê nhảy xuống khép cổng và tôi nghe thấy tiếng khóa bập lại. Tôi ngồi im sau đống thùng chở ếch tanh nồng nặc và hai tay ôm chặt chiếc hộp các tông. Tôi đợi cho tiếng xe im hẳn, mới dám cử động.

      Tôi ra theo lối cửa hậu và rảo bước về khách sạn.

      Ông già Abraham tay đặt gối vẫn ngủ ngon lành. Tôi lay để đánh thức ông dậy. Ông hé mắt nhìn tôi rồi chớp mắt ngồi thẳng dậy.

      - Chắc là tôi vừa mới thiếp được lúc. có cần gì ?

      - Tôi muốn cái mở hộp.

      - bảo sao?

      - Tôi muốn cái mở hộp. Ông có ?

      - Mở hộp à?

      - Đúng thế, cái mở hộp, - tôi cách bình thản.

      Ông già ngoài tám mươi này chắc vừa qua giấc mơ ngọt ngào về quá khứ, về con cháu nên chưa tỉnh hẳn.

      - Tôi cần cái mở hộp, - tôi cố ý to.

      - Để tôi kiếm cho . có đói tôi nấu cái gì đó cho mà ăn.

      - Khỏi cần. Chỉ cần mang cho tôi chiếc mở hộp.

      Ông già nặng nhọc đứng dậy, rồi lê chân vào nhà ăn. Tôi đứng đợi, năm phút sau Abraham quay lại.

      - Bà đầu bếp chắc đồng ý đâu, - Ông và chìa cho tôi chiếc mở hộp han gỉ. – Vào giờ ăn sáng ngày mai, trả cho tôi đấy nhé.

      - Ông yên tâm. Cám ơn ông Abraham. Ông ngủ tới mấy giờ?

      - Ông Wvatt muốn mở cửa suốt đêm. Ông ấy bảo rằng làm sao biết khách đến lúc nào. Nhỡ có ai đó muốn trú đêm khách sạn phải phục vụ chứ.

      - Chúc ông ngủ ngon, - tôi và vỗ vào vai ông.

      Tôi nhanh chóng lấy thang máy và lên phòng. Tôi châm thuốc và khóa trái cửa lại rồi đặt chiếc hộp lên bàn. Đó là hộp các tông cứng rộng hai mươi, dài hai mươi và cao mười xentimét. Bên có dán tấm nhãn: Sản phẩm của nhà Morgan & Weatherspoon


      Searle Florida

      Gửi bà: Lucilla Banbury

      1445 West Drive


      Los Angeles

      Tôi dùng con dao con rạch lớp băng dính hộp các tông và mở nắp ra. Hai hộp đồ hộp bằng kim loại sáng loáng được đặt cẩn thận trong hai ngăn. Tôi lấy ra hộp và đọc tấm nhãn.

      Đùi ếch

      Đặc sản cao cấp. Làm theo hướng dẫn quí vị món ăn nhanh và ngon cho hai người.

      Bản hướng dẫn sử dụng chính là những điều mà Cloe Smith cho tôi biết.

      Tôi dùng cái mở hộp mở nắp, và nhìn thấy bên trong những chiếc đùi ếch tẩm bột rán vàng ươm xếp rất đẹp mắt. Trông thấy ngon rồi. Tôi dùng lưỡi dao nhíp lách tìm xung quanh hộp và tìm được túi nylon chứa đầy chất bột màu trắng. Tôi lấy nó ra khỏi hộp và đưa vào phòng tắm rửa sạch.

      Tôi ngờ về thứ bột trắng này, nhưng tôi muốn chắc ăn. Tôi đặt túi bột vào ví rồi cầm lấy chiếc hộp bàn và mặc dù rất tiếc, đổ hết vào hố xí cùng với cái nhãn hộp rồi sổ nước.

      Đoạn tôi mở cửa sổ, và khi tin chắc có ai đường phố, tôi lấy sức quẳng chiếc hộp ra xạ Tôi đậy nắp hộp các tông, bên trong chỉ còn duy nhất hộp đùi ếch, và đặt nó vào tủ quần áo. Cho dù chưa tìm được Johnny, nhưng ngày làm việc của tôi quá ư là hiệu quả.

      Tôi tắm rửa và lên giường ngủ.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7

      Nguyên lãnh đạo phòng thí nghiệm của cảnh sát ở Paradise City là HarryMeadows, người đàn ông cao gầy và ở tuổi xấp xỉ thất tuần. Khi ông về hưu, đại tá Parnell đề nghị Ông lãnh đạo phòng thí nghiệm của hãng, phòng thí nghiệm được trang bị cũng kém phần đại. Meadows bỏ lỡ cơ hội đó. Ông từng nổi tiếng là bác sĩ giỏi nhất ở Florida và mặc dù tuổi cao, ông vẫn là chuyên gia cự phách mà người kế vị Ông ở phòng thí nghiệm của Sở cảnh sát vẫn thường xuyên phải tới tham khảo ý kiến.

      Tôi tới đúng lúc Meadows ngồi chiếc ghế đẩu lớn, mắt dán vào kính hiển vi.

      Tôi từ Searle phóng thẳng đến đây mang theo hộp đùi ếch.

      - Chào bác Harry, tôi lao vào như cơn gió. - Cháu có việc nhờ bác đây. (Ông ra hiệu cho tôilùi xa ra, mắt vẫn rời kính hiển vi). Bác Harry! Việc gấp và quan trọng lắm.

      Ông thở dài, quay người ghế và mỉm cười với tôi.

      - Bọn trẻ các cậu lúc nào mà chả gấp. Có chuyện gì vậy nào?

      Tôi rút ví lấy ra túi nylon và đặt bà ông.

      - Bác có thể phân tích giúp cháu cái này, được ? Về nguyên tắc đây là nguyên liệu để pha nhanh nước chấm ăn cùng với món đùi ếch.

      - hả? ý tưởng tuyệt vời nếu thứ nước chấm này là ngon . Bác cũng khoái mòn đùi ếch lắm. Cháu tìm đâu ra cái của qúy này, Dirk?

      - Rất có thể đây phải là nước chấm đâu, bác Harry ạ. (Tôi rồi bước nhanh ra cửa). Cháu rất gấp. Cháu ngồi đợi ở văn phòng. Bác có thể gọi điện cho cháu chứ ?

      Ông gật đầu và cầm lấy cái túi. Về tới văn phòng, tôi thấy Chick Barley có nhà. Trong suốt hành trình từ Searle về Paradise City tôi suy nghĩ xong xuôi về bản báo cáo mà tôi phải trình cho đại tá Parnell. Tôi ngồi xuống và lấy máy chữ ra gõ. Vừa mới gõ được nửa Harry gọi điện tới.

      - Tới đây ngay, Dirk, - Ông cụt lủn.

      Tôi để bản báo cáo máy và chạy theo hành lang dài dẫn đến phòng thí nghiệm.

      - Chuyện này là thế nào ? - Harry hỏi tôi bằng giọng nghiêm khắc.- cậu tìm thấy nó ở đâu?

      Tôi đóng cửa và bước tới gần ông.

      - Nó chứa gì ạ?

      - Năm mươi phần trăm là hêrôin tinh khiết và năm mươi phần trăm là glucô.

      - Chính cháu cũng ngờ như thế. Bác có biết giá thị trường là bao nhiêu ?

      - túi như thế này là giá ba trăm đôla.

      Tôi nhẩm tính nhanh trong óc. Mỗi hộp túi, mỗi các tông hai hộp và khoảng năm trăm hộp các tông. Vị tri xe hàng trị giá ba trăm ngàn độNếu mỗi tháng giao xe (nhưng chắc là hơn), trong trường hợp này, Weatherspoon kiếm ba triệu sáu trăm ngàn đô năm.

      - Bác nắm chắc giá ấy chứ, bác Harry?

      Ông gật đầu.

      - Đây là sản phẩm chất lượng tuyệt hảo. Văn phòng chống ma túy hàng tháng đều có gửi cho bác các con số. Túi này trị giá ba trăm đô.

      - Cám ơn bác Harrỵ Cháu bận thảo báo cáo gửi đại tá. Cháu chưa thể hết với bác được. Bác cứ giữ cho cháu túi bột đó. Sau này có thể dùng làm vật chứng.

      Tôi chia tay ông và chạy về văn phòng để hoàn tất bản báo cáo. Xong xuôi, tôi cho vào phong bì,rồi mang theo cả hộp các tông chứa hộp đùi ếch tới gặp Glenda Kerry.

      Glenda là trợ lý riêng của đại tá. Cao lớn, da nâu, xinh đẹp, tuổi ngoài ba mươi, mái tóc uốn miễn chê, ăn mặc nghiêm chỉnh, có vẻ ngoài đúng như con người của mình: hiệu quả và đầy tham vọng.

      Khi tôi bước vào văn phòng, Glenda ngồi lật giở hồ sơ.

      - Chào Glenda! (tôi đặt hộp các tông lên bàn). Chị làm ơn cất giùm cái hộp vào tủ sắt. Giá đắt lắm đấy. Và cả cái phong bì này nữa.

      - Cái gì thế này? vẫn theo đuổi vụ Jackson đấy à?

      - Tất nhiên rồi. Đại tá giao cho tôi làm chuyện này và tôi làm.

      - tiêu nhiều tiền quá rồi đấy. (Glenda luôn luôn đánh giá kết quả theo số tiền chi phí). từ đâu về thế?

      - Tất cả ở trong bản báo cáo này. Nhưng gửi cho đích thân đại tá đấy nhé. Đây là vụ lớn, Glenda ạ. Chớ có mà thọc những ngón tay xinh xẻo của chị vào đấy.

      Chị ta nhún vai.

      - Bây giờ đâu?

      - Ngày mai, khi đại tá quay về, chị biết.

      Ngày mai ông ấy về, phải ?

      - Bây giờ đâu ?

      - Ngày mai khi đại tá quay về, chị biết. Ngày mai ông ấy về, phải ?

      - Ông ấy nhắn thế. Từ khi ông ấy Washington tôi chẳng nhận được tin tức gì.

      - Thôi, nhờ chị cất cái hộp các tông và cái phong bì vào tủ sắt cẩn thận hộ.

      Tôi chào Glen da ra, nhưng vừa tới hành lang gặp Terry ÓBrien từ thang máy bước ra.

      - Dirk, mình có tin cho cậu đây.

      Chúng tôi vội vã về căn phòng của tôi.

      ÓBrien đúng là tạng người Ailen: vóc dáng như lực sĩ, người thấp hơn trung bình, mũi tẹt, nụ cười vui vẻ và đôi mắt xanh lanh lợi.

      - Cậu tìm được gì vậy, Terry?

      - Bà Phyllis Stobart. Tên thời con : Phyllis Lowerỵ Tuổi: bốn hai, ÓBrien

      đọc dõng dạc cho tôi ghi vào sổ. – Tyson cung cấp cho mình những thông tin này, có thể nó có ích cho cậu.

      Ritchie Tyson là người đứng đầu hãng thám tử tư nhưng rất uy tín ở Jacksonville và chúng tôi đôi khi vẫn giúp đỡ nhau. Tôi nhăn mặt.

      - Thế ta đòi bao nhiêu?

      - Mình bắt ta hạ giá xuống còn trăm độ (ÓBrien nhìn tôi vẻ dò hỏi). Thế được ?

      - Tất cả còn phụ thuộc vào những điều ta cung cấp cho cậu.

      - Theo Tyson, khoảng bốn mươi năm trước, ông bà Lowery do có con nên nhận làm con nuôi. Lowery, trong số những người đàn ông rất đáng kính, lãnh đạo hãng du lịch rất phát đạt. Phyllis – tên đứa con nuôi – đến với họ khi được bốn tuổi. Người ta biết bố mẹ bé là ai. Phyllis bị bỏ rơi trước cửa văn phòng chuyên lo các thủ tục về việc nhận con nuôi. Quả , vợ chồng ông Lowely gặp maỵ Lớn lên, bé rất trái tính trái nết: chẳng học hành gì, chỉ chạy theo lũ con trai. Lại còn ăn cắp trong các cửa hàng tự chọn, thường xuyên có chuyện với cảnh sát, và đủ thứ chuyện đại loại như vậy. Vẫn theo Tyson, gia đình Lowely chẳng thiếu thứ gì, nhưng họ hạnh phúc. Đứa con nuôi trở thành kẻ phạm pháp. Nó phải ngồi bóc lịch trong tù thời gian, rồi bỏ trốn, lại bị bắt lại và cuối cùng, cũng được tha về. Hồi đó nó khoảng mười bảy tuổi. tuần sau khi trở về nhà Lowely, nó lại bỏ . Gia đình buộc phải báo với cảnh sát, mặc dù chẳng có gì thương tiếc việc bỏ của nó. Cảnh sát cũng tiến hành tìm kiếm, nhưng có kết quả. Và rồi, tối, khoảng chục năm trước, con bé lại trở về nhà Lowelỵ Họ kể với Tyson – là bạn họ và vừa mới mở hãng – rằng sao nhận ra con bé nữa. Nó dữ dằn và thô lỗ khiến cặp vợ chồng già thấy sợ. Nó cầu phải đưa cho nó năm trăm độ Nghĩ rằng nó phải trốn tránh, nên họ đưa tiền và nó ngaỵ Rồi từ đó thấy dấu vết gì nữa. Ông bà Lowery mất lâu. Tin tức đầu tiên mà người ta biết về Phillis sau này là đám cưới của ta với Stobart năm ngoái.

      - Nghĩa là ta mất hút trong vòng mười hai năm?

      - Đại khái như vậy.

      - Mất tích như thế kể cũng hơi bị lâu, phải ? (Tôi ngẫm nghĩ. Terry này, cậu giúp mình đến Secomb tìm hiểu về hãng chuyên cung cấp vũ nữ thoát y cho các hộp đêm nhé. Mình cần bức ảnh, đó là Stella Costa, người làm việc số năm ở Câu lạc bộ Skin. Bà ta sống ở nhà số 9 phố Maceỵ Hãy kể rằng bà ta vừa đươc hưởng tài sản thừa kế . chung chẳng có gì khó khăn đâu. Nhưng nên nhớ là được đặt chân vào Câu lạc bộ Skin đâu đấy nhé. Cậu hiểu chứ?

      - Đồng ý. Mình làm cho cậu. ( rồi Terry ra).

      Tôi ở lại mấy phút gõ thêm phần báo cáo của ÓBrien và đưa đến cho Glenda.

      - Đây là các nguồn tin khác thêm vào bản báo cáo của tôi gửi cho đại tá, - tôi .

      Glenda ngả người lưng ghế.

      - Tôi vừa được biết đại tá trở về Washington. Và trhứ hai tuần sau mới về đây, - ta và cầm lấy bản báo cáo.

      - tin tuyệt với ! Thế là tôi còn những năm ngày nữa.

      Chia tay Glenda tôi chạy vội ra chỗ đỗ xe. Cần phải tới gặp Howard và Benbolt. đường tôi dừng xe ăn chiếc bánh nhồi thịt băm và cốc bia. Tôi đến văn phòng Benbolt vào lúc hơn hai giờ chiều.

      Bà già to béo ngồi trực nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.

      - Tôi muốn gặp ông Benbolt,-tôi

      - có hẹn trước à? Hình như là Wallace, phải ?

      - Tên tôi đúng, nhưng hẹn trước . Ông ấy nhất định tiếp tôi.

      - Ông Benbolt vừa mới ăn trưa về.

      - tôi cũng mới ăn trưa xong. (Tôi mỉm cười với bà già). Bà cứ làm ơn báo với ông ấy là tôi có mặt ở đây.

      Bà ta lườm tôi cái rồi ấn nút.

      - Thưa ông Edward, có ông Wallace ở hãng Parnell đợi,- bà ta thông báo.

      - Cho ông ấy vào gặp tôi ngay,- tôi nghe giọng chân thành của Benbolt.

      Bà già nhìn tôi.

      - Tôi nghĩ chắc là ông biết đường vào.

      - Vâng, cửa thứ ba bên phải hành lang.

      Bà già thèm đáp lại, làm ra vẻ chúi mũi vào tập hồ sợ Tôi cảm thấy thương bà. Bà già lại béo và chắc là chẳng có ai thương. Chút ít quyền lực mà bà có được để bảo vệ Ông chủ của mình cũng mất dần. Chả còn bao lâu nữa, bà phải thân mình sống căn phòng thuê vớ con mèo làm bạn.

      Edward ngồi sau bàn vớ gương mặt đỏ au vẻ no saỵ Ông ta nở nụ cười chuyên nghiệp chào tôi, rồi đứng dậy bắt tay và ra hiệu mời tôi ngồi xuống.

      - Thế nào, ông Wallace,- Ông sau khi chúng tôi yên vị.- Ông có tin tức gì mới ?

      - Về chuyện gì mới được chứ ?- tôi hỏi.

      - Trong cuộc gặp gỡ của chúng ta lần trước, ông có ràng ông tìm đứa cháu nội của Frederick Jackson, phải vậy ? (Tôi hiểu rằng chất cay của bữa ăn trưa vẫn làm cho đầu óc ông ta còn lơ mơ).

      - Theo lần gặp nhau trước chính ông mới là người tìm Johnny chứ đâu phải tôi. Ông có nhận được tin tức gì từ những thông báo đăng báo ?

      - nhận được gì cả. Theo lệnh của ông Eatherspoon chúng tôi chấm dứt việc tìm kiếm. Hỏi để viết vậy thôi, thế ông tìm được thằng bé chưa? (Ông ta mở nắp hộp thuốc). Ông hút điếu chứ?

      - Tôi chưa tìm thấy, nhưng vẫn tiếp tục tìm. , cám ơn ông

      Benbolt chọn diếu, cắt đầu rồi châm hút.

      - nhiệm vụ khó đấy.

      - Ông biết chuyện gì xảy ra với Weatherspoon chưa?

      Gương mặt ông ta lạnh băng tới mức mà gã đô tùy cũng phái kính nể.

      - Rồi. Tôi mới biết sáng naỵ bi kịch! Ông ta còn trẻ thế mà…

      - Chẳng có ai sống mãi được. Đời là thế mà, - tôi và rút thuốc lá châm hút. – tôi nghĩ chắc ông là người quản lý tài sản của Weathrspoon chứ?

      - Đúng vậy.

      Tôi chờ đôi. Nhưng có vẻ như ông ta quan tâm tới điếu xì gà hơn là Weatherspoon.

      - Có nhà máy đóng hộp ếch và cửa hàng thực phẩm, - tôi . Và sau đó còn tiền bạc nữa.

      - Tôi những tưởng là ông chỉ được giao tìm thằng cháu nội của Jackson. Nhưng hôm nay mới vỡ lẽ là ông còn tìm kiếm cả những thông tin có liên quan tới tài sản của ông Weatherspoon nữa kia đấy. Chuyện này đâu có liên quan gì tới việc điều tra của ông. Tôi có thời giờ để tiếp ông thêm nữa.

      - Ông bao giờ tới Searle chưa, ông Benbolr?

      - Searle ấy à? Chưa lần trong đời.

      - Xin ông phút, - tôi và mỉm cười cởi mở và thân thiện. – Tôi tiến hành điều tra ở Searle để tìm kiếm Johnny Jackson. Và tôi phát được những bằng chứng mà nếu Weatherspoon còn sống, ông ta cầm chắc ngồi bóc lịch dưới mười lăm năm.

      Ông ta há hốm mồm nhìn tôi.

      - Những bằng chứng nào?

      - Tôi chưa thể với ông chừng nào tôi chưa kết thúc điều tra và báo cáo với đại tá Parnell để ông ấy gioa vụ này cho cảnh sát bang. Nhưng tôi có thể đảm bảo với ông rằng tôi đùa đâu. Với chút kiên nhẫn nữa tôi cũng có thể biết được tài sản của Weatherspoon lên tới bao nhiêu. Nhưng thời gian quá gấp, tôi hy vọng ông hợp tác với chúng tôi.

      - Ông muốn rằng ông Weatherspoon là tên tội phạm?

      - Ông ta là trung tâm của mạng lưới buôn bán ma túy. tại tôi chỉ có thể với ông như vậy.

      - Lạy Chúa! – Benbolt để rơi cả tàn thuốc chiếc áo gilê đắt tiền. – Ma túy?

      - Chuyện này tạm thời chỉ giữa hai chúng tạ Tài sản của Weatherspoonm cỡ bao nhiêu?

      - Cỡ nửa triệu. Nhưng tất cả còn phụ thuộc vào chuyện nhà máy và cửa hiệu thực phẩm được bán với giá bao nhiêu. thực tình, tôi rất ngạc nhiên về nguồn lợi mà cái máy đó mang lại. Dây dưa với ma túy, chuyện khủng khiếp. Tôi nghĩ ông hiểu về điều ông vừa đấy chứ?

      - Tôi có đủ những bằng chứng cần thiết. Nhưng ông ta phải là người duy nhất can dự vào vụ này, vì vậy tôi còn phải tiếp tục điều tra.

      Benbolt nhặt điếu xì gà lên và khi thấy nó tắt, ông ta bật lửa châm lại.

      - Tôi quả hiểu. Làm sao mà nhà máy đóng hộp đùi ếch lại có quan hệ với ma túy được?

      - Đây là thủ đoạn lá nho rất khôn khéo.

      - Ý ông muốn gì?

      - Nhà máy đóng ếch chỉ là tấm bình phong che đậy của Weatherspoon. Ai là người kế thừa tài sản của ông ta?

      Benbolt ngồi lặng phút nhìn điếu xì gà, vẻ lưỡng lự rồi nhún vai.

      - Do tất cả những điều ông vừa thông báo cho tôi, hơn nữa thân chủ tôi cũng chết rồi, để giúp cho công việc điều tra của ông, tôi nghĩ phải là tiết lộ bí mật nghề nghiệp nếu tôi cho ông biết những điều xảy ra tuần trước đây. Ông Weatherspoon tới tìm tôi, - Benbolt tiếp. – Trông ông ta có vẻ được bình thường. Có cảm tưởng rằng như ông ta ốmhay mất ngủ. Đó là điều ít khi xảy ra với ông tạ Ông ta với tôi rằng ông ta thôi kinh doanh nữa. Quyết dịnh của ông ta khiến tôi ngạc nhiên, vì ông ta chưa tới năm mươi. Weatherspoon muốn tôi bán tất cả các cổ phiếu của ông tạ Tôi có với ông ta rằng giá cả thị trường chứng khoán rất hạ, nhưng ông ấy rằng ông cần tiền mặt ngaỵ Ông cũng đề nghị tôi bán luôn cả cửa hàng thực phẩm ở Searle với giá nào mà tôi có thể. Tôi đánh hơi thấy ngay và có linh cảm rằng thân chủ tôi chịu áp lực rất lớn. Tôi hỏi ông ta có ý định bán nhà máy đóng hộp ông ta trả lời gắt rằng việc ấy để tự Ông ta lọ Khi đó tôi bèn đặt câu hỏi mà tôi cứ bận tâm từ khi ông ấy là thân chủ của tôi. Tôi nhắc ông ta là chưa thảo di chúc. Ông ta đáp ngay rằng ông có gia đình và chẳng cần phải làm di chúc. Tôi cũng cho ông ta biết nếu thân chủ của tôi có tài sản tới nửa triệu đô mà chết đột tử để lại rất nhiều điều về mặt pháp lý. Ông ta bảo tôi rằng ông hề nghĩ tới chuyện đó. Rồi ông ta thêm, ông muốn toàn bộ tài sản của ông và cả cửa hàng thực phẩm nữa thuộc về cái Peggy nào đó ở Searle.

      - Ông ta có giải thích gì với ông ? – tôi hỏi.

      - Tôi có hỏi Peggy là ai. ông ta trả lời rằng đó là tình nhân của ông và ông cư xử tốt với ấy. Vả lại ông có ai để kế thừa tại sao lại phải là ấy? Rồi ông ta nhếch mép cười mà bảo rằng thế thôi chứ ông ta đâu có ý định chết. Nhưng nếu ông ta chết, ông ta muốn Peggy được kế thừa tất cả. Như vậy là Peggy được hưởng thừa kế ít nhất là nửa triệu đôla.

      - Thế ấy biết chưa?

      - ông Weatherspoon chỉ vừa mới mất hôm quạ Phải đợi cho tới lúc bản di chúc có hiệu lực chứ. Tôi có ý định tuần này tới Searle báo cho ấy biết.

      - Thế còn nhà mấy ếch? Nếu có ai đó mua liệu số tiền bán được có nằm trong tài sản của Weatherspoon và Peggy có được hưởng ?

      - Tất nhiên.

      - Nhưng nếu giả dụ như ông ta bán nhà máy ông liệu có biết ?

      - . Nhưng ngay khi bản di chúc có hiệu lực, tôi tới nhà máy để xem có chuyện gì xảy ra.

      - Nhà máy lâu nữa được bán. Ông phải theo dõi sát sao, ông Benbolt ạ. Ông rằng ông Weatherspoon mang hết giấy tờ có liên quan tới nhà máy . Thế bây giờ chúng ở đâu?

      - Tôi cũng biết. Để tôi hỏi ngân hàng của ông ta xem.

      - Ông làm điều đó và báo cho tôi biết chứ?

      - Tôi báo. Có thực là ông muốn rằng ông Weatherspoon là kẻ buôn bán ma túy?

      - Đúng vậy.

      - Liệu ông có nên báo cho cảnh sát ?

      - Nếu tôi làm điều đó, họ tới đè lưng ông đấy. Các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy phải là những tay ngon lành gì đâu.

      - Tôi chỉ nhắc lại những gì mà tôi với ông, - Benbolt vẻ lúng túng.

      - thời ông là người đại diện cho Peggy, chắc chắn có ai đó tới mua nhà máy. Mà lâu đâu. Đó là tên buôn bán ma túy nữa. Nếu ông phát ra nhân thân của chắc hẳn các nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy có thiện cảm với ông. Vì vậy hãy tìm hiểu và báo ngay cho tôi biết biết người mua là ai. Ông đồng ý chứ?

      - Tôi vẫn thấy rằng nên chuyện này với cảnh sát.

      - chưa nên. Tôi muốn tự mình giải quyết vụ này. Hãy hợp tác với tôi, ông Benbolt ạ.

      Ông Benbolt ngẫm nghĩ lát rồi gật đầu.

      - Xét cho cùng bản di chúc còn chưa hiệu lực. Tôi tìm hiểu. Tôi có thể liên lạc với ông ở đâu?

      - Hãy nhắn lại cho tôi theo địa chỉ danh thiếp này, tôi tới ngaỵ Đừng có làm gì vội vàng cả. Tôi còn có thêm số bằng chứng nữa. Đừng báo cho cảnh sát vội. Nếu họ làm lộn tùng phèo cả lên và khi đó chẳng tìm thấy gì nữa đâu. Ông hiểu chứ?

      - Để xem tôi làm được gì.

      Tôi có ấn tượng rằng Weathers cảm thấy sợ. Y định chuồn cùng với toàn bộ tài sản được chuyển đổi thành tiền mặt. mang theo rtìu tới nhà Jackson để tìm số tiền để dành của ông già. Có thể là y tìm được. Trong khi lục soát, có kẻ khác cũng tới đó, bắt quả tang và đánh cho y ngất . Rồi tên đó kéo xác ra đầm ếch và quẳng xuống đó.

      Tôi lấy máy đánh chữ ra ngồi đánhg những thông tin mới nhất báo cáo với đại tá. Đúng lúc tôi cho vào phong bì để gửi Glenda Terry bước vào.

      - Có tin cho cậu đậy, - cậu ta reo lên rồi thả người xuống ghế. – Mình tới gặp Bernie Isaacs, chủ hãng chuyên cung cấp nhảy. Trong đó có cả Stella Costa.

      - Khá lắm, Terry ạ. cú ngoạn mục. Rồi sao?

      ÓBrien ném phong bì xuống bàn.

      - Cậu xem .

      Tôi lấy từ trong phong bì ra bức ảnh 12 * 16 in giấy láng bóng. Trong ảnh Stella chỉ mặc độc chiếc quần lót bé xíu. Người đàn bà này đúng là biểu tượng của dâm đãng. Ả ngồi dạng hai chân ra, tay giơ lên đầu và gương mặt đầy vẻ mời mọc. Tôi ngắm nghía lúc lâu, rồi đặt bức ảnh xuống bàn và nhìn ÓBrien.

      - Còn gì nữa , Terry?

      - Phải trả giá đắt đấy, Dirk ạ. Thằng khốn đó đòi tận trăm đô, nhưng mình cò cưa chỉ phải trả năm mươi thôi.

      - ta có ?

      - Cầm năm mươi đô xong, mới đưa bức ảnh rồi câm như hến. Lại phải tòi ra 50 đô nữa mới chịu mở miệng.

      - Thế gì với cậu?

      - vũ nữ này tới tìm thời ta còn trẻ, theo đâu như mười bảy mười tám gì đó. ta còn chưa có kinh nghiệm gì, nhưng thấy thích. Thế là tìm cho ta những việc phụ Ở các hộp đêm . Phải ta chịu khó học nghề lắm. ta làm như vậy cho mười năm. Lúc đó thạo nghề lắm rồi. Khách hàng tốt nhất của hồi đó là Edundo Raiz, chủ của Câu lạc bộ Skin. xin cho Stella vào làm việc ở đó. Theo như Bernie đối với ta, đó là nâng cấp quí giá. ta làm việc cho Raiz trong suốt tám chín năm gì đó. Và rồi năm ngoái, ta tới gặp Bernie và với rằng ta bỏ nghề. Bernie tin ta , vì vào thời gian đó ta ngoài bốn mươi và nhan sắc bắt đầu tàn. Sau đấy ta mất tăm. Và bao giờ gặp lại và nghe gì về ta nữa.

      - Bernie có bà ta có con ?

      - Có. rằng thằng bé là mối trở ngại của tạ Stella thể làm việc vào buổi chiều vì phải chăm nó. Bernie rất hiểu, vì có tới cả chục đứa con. còn bảo rằng nếu có thằng bé, ta chắc còn kiếm được nhiều hơn.

      - Cậu hãy nhìn kỹ người đàn bà này xe. Mà đừng chỉ có dán mắt vào bộ ngực đấy. Hãy tập trung chú ý vào khuôn mặt.

      Cậu ta nhìn bức ảnh lát rồi ngơ ngẩn nhìn tôi.

      - Làm sao mà có thể rời mắt khỏi bộ ngực đó được.

      - Nếu có thể cậu hãy vận hết nội công thử quan sát lại bức ảnh cưới của vợ chồng Stobart mà Fan đưa cho cậu xem. Cậu có thấy giống nhau giữa bà Stobart và Stella Costa ?

      Cậu ta há hốc mồm nhìn tôi rồi quay sang xem xét các bức ảnh.

      - Có thể. Đúng, rất có thể. Cậu muốn rằng vũ nữ này chính là bà Stobert?

      - Mình chưa biết.

      - vậy sao?

      - Mình thể khẳng định được, nhưng giống nhau đúng là lạ kỳ.

      Tôi xem đồng hồ. Lúc này hơn sáu giờ chiều.

      - Mình có việc khác cho cậu đây, Terry ạ. Cậu hãy ăn tối rồi làm vòng qua các câu lạc bộ pêđê ở Secomb. Trước hết hãy tới gặp Flossie Atkins. ta hànhg nghề này nhiều năm rồi. Nếu tìm thấy gì hãy tới các chỗ khác. Cậu hãy dò hỏi xem có ai đó mới gặp thanh niên tóc vàng, ăn mặc kỳ quặc và cặp kè với gã da đen . ta tên là Johnnỵ Cha ta được tặng huân Chương Danh Dự. Biết đâu cậu ta chả khoe khoang với bạn bè. Đồng ý chứ?

      ÓBrien nhăn mặt.

      - Nếu cậu bảo làm thôi, nhưng quả là mình chẳng muốn tẹo nào.

      - Thôi thế nhà. Mà được chi xu nào đâu. Hãy kể rằng Johnny được kế thừa tài sản , vì vậy cậu muốn tìm gặp ta.

      - Bắt đầu từ chỗ Flossie Atkins, phải vậy ?

      - Hãy tìm suốt đêm nếu cần. Ngay khi có tin quan trọng gọi điện ngay cho mình.

      - Chắc là lúc đó cậu yên giấc giường.

      - Cũng có thể. Hãy gọi điện về nhà cho mình.

      - Đồng ý.

      Sau khi ngồi suy gẫm lát, tôi quyết định đến lúc phải gặp bà Phyllis Srobart.

      Trở về nhà, sau khi tắm rửa, mặc bộ complê rất đẹp, tôi ghé vào nhà hàng hải sản ăn no căng món tôm hùm rưới nước sốt ớt xanh để tăng thêm sức lực. Khi đồng hồ chỉ bảy giờ ba mươi tối, tôi ngồi vào xe và phóng thẳng tối đại lộ Broadhurst.

      Tôi đỗ xe dưới bóng cây, rồi gần tới cổng. Từ đây tôi có thể nhìn ngôi biệt thự. Đó là tòa nhà hai tầng, có lẽ tới sáu phòng ngủ, phòng khách có thể chứa thoải mái hàng trăm khách lúc. Cửa nhà bằng gỗ sồi được hiếu ánh sáng bằng hai ngọn đèn ô tộ Phòng khách và hai căn phòng khác vẫn sáng đèn. chiếc Rolls sơn màu be và nâu đợi bên thền. Tôi thoáng thấy bóng người lướt qua cửa sổ tầng : bóng của người đàn bà.

      Phía sau tôi chợt vang lên giọng đanh chắc của gã cớm.

      - làm gì ở đây hả?

      Tôi nhảy lùi lại cứ như bị thanh sắt nung đỏ gí vào người. Tôi thận trọng quay đầu lại. Dưới ánh trăng mờ, tôi nhìn thấy gã lực lưỡng đội mũ cảnh sát. Gã đứng phía sau cách tôi khoảng mét, tay lăm lăm khẩu súng ngắn.

      Tôi chợt thấy người khi nhận ra người mặc sắc phục đó:

      - Trời ơi, Jay! – tôi reo lên. – Xuýt chút nữa cậu làm mình vãi linh hồn.

      ta nhìn tôi, bỏ súng vào bao rồi mỉm cười.

      - ra là cậu à? Có chuyện gì vậy?

      - Đứng ngắm dinh cơ nhà Stobart lát. Đẹp đấy chứ, hầy?

      - Khỏi rồi. Có chuyện gì xảy ra với nhà Stobart à?

      - Người mà mình quan tâm là bà chủ. Mình cần chuyện với bà ấy.

      - Để làm gì?

      - Cậu nhất định phải biết à?

      Vào mỗi dịp Noel, đại tá đều gửi cho ta con gà mái tây và chai uytski để làm lễ Tạ Ơn. ta toét miệng cười.

      - Ồ, .

      - Cậu có quen bà ấy ?

      - Mình gặp bà ấy thường xuyên. Kênh kiệu lắm. Mình chả thèm làm quen.

      - Mình cần chuyện với bà ta khi có mặt chồng. Lúc nào là thích hợp nhất?

      - Ngày nào cũng như ngày nào, đều đặn như giấy kẻ khuôn nhạc, bà ta cùng chồng từ đây khoảng giờ nữa tới Câu lạc bộ Countrỵ Ông chồng để bà ta ở đó rồi tới Câu lạc bộ Poker. Khoảng giờ sáng ông ta đón vợ về nhà ngủ.

      - Xem ra họ hợp nhau nhỉ?

      - Cậu thấy thế à? Mà ai có thể hợp với cái lão Herbert Stobart ấy. cục phân, hơn kém.

      - Có ai khác sống ở đây nữa ?

      - Nhiều. gã da đen to bự lái xe cho Stobart. Kiêm luôn vệ sĩ. Rồi thi thoảng lại tới mượn xe bà vợ.

      - ta là ai?

      - Mình biết. Trông sexy lắm. Tóc đen, ngực đẹp. Xem ra thân với bà Stobart lắm.

      - Cám ơn Jay.

      Để tỏ lòng biết ơn, tôi lấy ra tờ hai mươi đô và khi chúng tôi bắt tay nhau, tờ giấy bạc đổi chủ.

      Tất cả những ngườ làm việc cho hãng Parnell đều là thành viên của câu lạc bộ Country, câu lạc bộ thuyền buồm, của Casino và nhiều hộp đêm sang trọng khác. Ngồi chiếc ghế dài ở hàng hiên lớn của câu lạc bộ, với ly uytski trong tay, tôi thấy chiếc Rolls sơn màu be và nâu dừng ở trước cửa ra vào. người đàn bà bước xuống, giơ tay vẫy rồi bước lên bậc tam cấp. Tôi hy vọng nhìn thấy mặt Herbert Stobart, nhưng chiếc xe phóng trước khi tôi kịp đứng dậy.

      Bà ta vào tiền sảnh, tôi uống cạn ly rượu rồi vội vã bám theo ngaỵ Bà ta đứng gì đó với Johson, người gác cửa câu lạc bộ, ông già đen có mái tóc bạc xoăn tít. Ông ta có vẻ cung kính lắm, rồi bà ta khẽ gật đầu với ông, qua phòng khách lớn và bước ra sau hàng hiên nơi phục vụ bữa tối.

      Tôi bước lại gần. Đứng bên cạnh, tôi mới thấy trước kia chắc bà ta phải đẹp mê hồn. khoảnh khắc nào tôi có thể rằng người đàn bà mà tôi ngắm nhìn đây lại là Stella Costa, người từng vũ nữ thoát y và là con điếm. Tôi quyết định thử vận may: - Xin lỗi được hỏi bà có phải là bà Stobart? – tôi hỏi và dừng lại trước bàn.

      Bà ta nhìn như xuyên qua người tôi, rồi mỉm cười. Gương mặt nặng nề của bà ta biến đổi hẳn.

      - chính tôi đây. Thế là ai?

      - Dirk Wallace, - tôi . – Những người đàn bà đẹp bao giờ nên ngồi mình cả. Liệu tôi ngồi cùng làm hỏng buổi tối của bà chứ hay tôi phải ngồi sang bàn khác.

      - Ồ , đừng . Tối nay mọi người đều có đôi cả. Tôi thường xuyên tới đây sao gặp nhỉ?

      - Thi thoảng tôi mới ghé quạ Tôi bận lắm.

      - Bận cả buổi tối sao?

      Bà ta nhìn tôi vẻ ngạc nhiên.

      - may lại đúng như vậy, - tôi và mỉm cười thân thiện. – Ở đây đông người .

      Bà ta nhún vai.

      - Lúc nào chả thế. Thế làm nghề gì, Wallace?

      - Tôi là điều tra viên.

      Nụ cười mặt bà vụt tắt.

      - Điều tra viên à? Hay lắm. Thế điều tra về cái gì?

      - À, đủ mọi thứ, toàn là bí mật cả.

      - Tôi làm việc cho hãng thám tử tư Parnell, - tôi và vẫn tiếp tục quan sát bà ta.

      Bà Stobart là diễn viên có hạng đấy nhưng chưa đủ siêu. Tay cầm ly rượu đưa lên uống còn vững, nhưng hơi run.

      - Có phải muốn rằng thuộc loại sâu bọ ghê tởm chuyện đục khoét vào đời tư của mọi người ? thằng khốn chuyên đào bới?

      Giọng bà ta đanh lại và bà ta nguyên hình là con điếm trở nên giàu có.

      - Qủa là mô tả khá chính xác, - tôi và nhếch mép cười vô tư

      - Hãy để tôi yên, - bà ta bằng giọng nghẹn ngào. – tôi muốn giao du với hạng người như .

      - Mẹ tôi cũng khuyên tôi nên giao du với điếm.

      - Nếu ngay lập tức, tôi kiện lên hội đồng, - bà lầu bầu khó chịu.

      - Thôi , Stellạ Tôi cũng có thể tố cáo bà chứ. Thực ra, tôi quan tâm bà, người tôi quan tâm chính là thằng Johnny kia.

      Bà ta nhìn tôi khá lâu:

      - Có kiếm nó ?

      - Đó là phần công việc của tôi. Tôi có thể kiếm con trai bà ở đâu, bà Stobart?

      - Tôi biết gì hết. Tôi ngán câu chuyện này đến tận cổ rồi. Hãy để tôi yên.

      Bà ta bằng giọng the thé.

      - Tôi xin bà hãy bình tĩnh lại, bà Stobart, - tôi nghiêm giọng . – Tôi cần phải tìm bằng được Johnnỵ Bà rằng bà biết nó ở đâu. Nhưng bà có thể cho tôi gợi ý nào ? Có phải nó là đứa đồng tính và sống với gã da đen ?

      - Đúng, nó là thằng pêđê, - cuối cùng bà ta cũng lên tiếng. – hôm nó tới gặp tôi và xin tiền. Từ đó tôi bao giờ gặp lại nó nữa. Có thể nó chết rồi.

      - Vì sao nó lại chết?

      - Tôi biết. Tôi ngán nó đến tận cổ rồi! Tôi hy vọng nó chết . Thế là xong!

      - Bà có thể cho tôi ý niệm về nơi có cơ may tìm ra nó ?

      - Tôi ý niệm nào hết. Tôi chỉ hy vọng nó trở lại làm khổ tôi nữa. có hiểu ? Tôi từng sống những ngày cơ cực khác gì địa ngục! Bây giờ tôi người chồng giàu có. Cuộc đời tôi thay đổi, được kính trọng. Từ đây tôi được giải thoát, hiểu điều đó có ý nghĩa nào với tôi đâu! Tôi được giải thoát, nhưng cái thằng pêđê khốn nạn đó vẫn cứ ám ảnh tôi.

      - Chuyện đó cũng tất nhiên thôi. Thế Mitch Jackson có phải là cha nó ?

      - Thằng chó ấy đâu có đáng mặt làm chồng. Nó cũng như lão già khốn khiếp cha nó, chỉ muốn có con trai thôi. Mà tôi cũng đẻ cho nó thằng con trai, dù là pêđệ Khi đó tôi nghĩ rằng Mitch cưới tôi. Nhưng . Rồi chết và được tặng huân Chương. thấy có khôi hài ?

      - Vào lúc tám tuổi, Johnny trốn nhà bỏ đỉ Tại sao vậy?

      - muốn biết cả điều đó à? xem tôi là con điếm cơ mà. Hãy để cho cái bộ não bé tí của nó động đậy chút. Nếu định phá hoại cuộc đời tôi, bạn thám tử tư ạ, phải hối hận đấy.

      - Cảm ơn về hợp tác của bà. Tôi hy vọng làm hỏng bữa tối nay của bà.

      Tôi nhìn bà lên hàng hiên và thấy bà ta giơ tay đáp lại tiếng gọi của ai đó. Tôi vẫn chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.

      Tôi trở về nhà và bật ti vi xem bé tóc vàng ưỡn ẹo. Tôi bật sang kênh khác cũng gặp toàn cảnh đại loại như vậy. Tắt máy và chợt tự hỏi hiểu Terry bây giờ ra sao.

      Tôi bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi. Lúc này hơn ba giờ sáng. Tôi nhấc ống nghe.

      - Hy vọng rằng mình đánh thức cậu dậy, - ÓBrien .

      - Đánh thức mình ấy à? đâu, mình vẫn ngồi chờ cậu. Có tìm được gì ?

      - Nghe đây, Dirk. Sao cậu lại chơi khăm mình?

      - Cậu sao?

      - Mình tới tất cả câu lạc bộ pêđệ Mình cũng gặp Flossiẹ có ai từng biết thằng Johnny của cậu cả. Cậu nên nhớ rằng Flossie biết tất cả bọn này. ta có cả danh sách. hề có thằng Jackson Johnny nào cả.

      - Cũng có thằng thanh niên tóc vàng, cổ đeo dây chuyền và tay mang lắc vàng cặp kè với gã da đen cao lớn à?

      - Mình còn phải nhắc đến bao nhiêu lần nữa đây? (Giọng của Terry đầy vẻ tuyệt vọng). Flossie khẳng định với mình là có thằng Jackson Johnny nào hết. Ngay khi mình Jackson sắp được thừa kế, tất cả bọn pêđê có mặt ở đó đều xô lại định giúp đỡ mình, nhưng có đứa nào nghe về Johnny cả. Thế nào, cậu thỏa mãn chưa?

      - cũng phải thỏa mãn vậy thôi, - tôi trước khi gác máy.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 8
      Sáng hôm sau, tới văn phòng tôi nhận được hai thư nhắn. Bức thứ nhất: Ông Anderson nhắn gọi điện gấp. Bức thứ hai: Ông Benbolt nhắn gọi điện. Những điều mà Terry cho biết khiến tôi lo lắng. Tôi đứng trước bài toán lạ lùng. Johnny Jackson phải tồn tại! Tất nhiên là tôi thể chấp nhận theo Terry là ta có mặt đời này được. Tôi cứ tự hỏi là Bêbê hay Phyllis dối tôi. Mà họ dối để làm gì mới được chứ? Cả hai đều kể rằng Johnny là thằng đồng tính và nó cặp kè với gã da đen. Thế mà Flossie lại khăng khăng biết hai thằng đó.
      Mà bằng chứng đây. Theo những điều tôi nghe được Johnny là thằng đồng tính mười mươi. Tất cả những người ở Searle đều nó là đứa ẻo lả và thích con . Nếu điều đó muốn rằng nó là pêđê là gì nữa? Tôi nhấc máy gọi cho Anderson.
      - Có tin mới cho đây, - cậu ta .
      - Tin gì vậy?
      - Tôi tìm được tung tích của khẩu Beretta được dùng để giết ông già Jackson.
      - Cậu tìm bằng cách nào vậy?
      - Như thường lệ tôi chỉ ngồi chơi xơi nước ở văn phòng mà. Nhưng khẩu súng cứ ám ảnh tôi, tôi bèn gọi điện cho tất cả đồn cảnh sát ở vùng biển này. Và rồi ở Jacksonville tôi gặp maỵ Họ rằng cấp giấy phép dùng khẩu súng đó sáu năm trước.
      - Cho ai?
      - Đây mới là điều đáng ngạc nhiên. Cho Harry Weatherspoon.
      - Hoan hô Bill!
      - Họ còn rằng hai năm trước, Weatherspoon có báo rằng khẩu súng đó bị mất cắp và cần phải hủy giấy phép đó.
      - Nó bị mất cắp trong hoàn cảnh nào?
      - Theo Weatherspoon có kẻ nào đó lẻn vào nhà máy lấy cắp tiền cùng với khẩu súng. Ông ta cũng với cảnh sát ở Jacksonville rằng cảnh sát trưởng Mason lo điều tra, nhưng vẫn xin hủy giấy phép.
      - Thế ở đây có nhiều vụ bẻ khóa ăn trộm như vậy , Bill?
      - . Tôi chỉ biết có vụ đó, ngoài ra có vụ nào khác.
      - Nhưng tại sao Weatherspoon lại xin giấy phép ở tận Jacksonville?
      - Tôi cũng đặt câu hỏi đó họ rằng Weatherspoon có thuê căn hộ Ở thành phố này thời gian tìm kiếm gì đó ở đây. Ông ta rằng cần khẩu súng để tự vệ. Weatherspoon giải thích với họ rằng ông ta là nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy nên có rất nhiều kẻ thù. Và họ chấp nhận lời giải thích của ông ta.
      - Cậu làm việc tuyệt vời, Bill ạ! Điều này chắc chắn được đại tá Parnell đánh giá cao đấy.
      - Tuyệt diệu! có nghĩ rằng chính Weatherspoon giết ông già Jackson ?
      - Đó là quan điểm của mình.
      - Nhưng lạy Chúa, vì lý do gì mới được chứ?
      - Mình đào bới vấn đề này. Khi nào tiến hành điều tra về cái chết của Weatherspoon?
      - Hôm naỵ Đám tang định vào ngày kia.
      - Bác sĩ Steed vẫn khẳng định ông ta chết do tai nạn chứ?
      - Tất nhiên rồi. (Anderson thở hơi sâu). Thế phải vậy sao?
      Tôi đáp.
      - Hãy kể về khẩu súng , Bill. Bác sĩ Steed vẫn giữ nó chứ?
      - Tôi nghĩ là vậy. Tôi biết chính xác.
      - Thế người ta lấy dấu tay chưa?
      - Tôi rất muốn làm chuyện này nhưng bác sĩ Steed cần.
      - Thế cậu có biết đó có đúng là khẩu súng bắn chết Jackson ?
      - Chưa kiểm tra về mặt đạn đạo học, nếu đó là điều muốn hỏi.
      - Lạy Chúa, lại thêm cái lá nho nữa! Thôi được, chào Bill. – tôi gác máy.
      Sau đó tôi gọi điện cho văn phòng Howard và Benbolt. may lại rơi đúng mụ già thường trực. Nghe thấy tên tôi, bà ta bèn lên giọng trịch thượng.
      - Ông ấy vắng rồi, - bà ta tuyên bố vẻ đắc chí.
      - Ông ấy nhắn tôi gọi điện mà, - tôi cố kiên nhẫn.
      - Ông ấy có để lại thư nhắn đây. Ông ấy muốn gặp vào lúc ba giờ chiều nay.
      - Tôi tới, - tôi và gác máy.
      Tôi lấy mấy bản báo cáo gửi đại tá ra đọc lại. Tôi thêm vào đó chi tiết Anderson vừa cho biết. Tôi hỏi chuyện tất cả mọi người liên quan trực tiếp hay gián tiếp với Johnny, chỉ trừ người: Herbert Stobart. Cũng có thể ông ta chưa bao giờ nghe đến Johnnỵ Nhưng bây giờ tôi rất muốn chuyện với ông tạ Tôi đưa chị Glenda bản báo cáo thêm về cú điện thoại của Anderson và cầu xếp chung với tập báo cáo tôi gửi trước đó.
      - định viết tiểu thuyết hả? – chị ta hỏi bằng giọng chế nhạo.
      - Cũng là ý hay đấy! Thế mà tôi chưa nghĩ tới.
      Tôi tới câu lạc bộ Country, đỗ xe và lên tiền sảnh. Lúc đó khoảng mười giờ mười.
      Tôi tìm gặp Sammy Johson, người gác cửa, lúc đó soạn thự Ông ta mỉm cười với tôi. Đại tá cũng bao giờ quên ông vào những dịp Nôel và lễ Tạ Ơn. Vì ông ta như cái tai dán vào cửa, nên có ông ta trong tay áo là rất lợi hại.
      - Chào Sammy, - tôi . – Trông ông ngày càng trẻ ra.
      - thấy đấy, - Ông ta cười. – Có lẽ vậy, tôi cũng cảm thấy ngày càng trẻ ra.
      - Ông Stobart có ở đây ?
      - Ông ấy chơi golf. Chắc bây giờ ở lỗ mười bảy rồi.
      - Tôi chưa bao giờ gặp, vậy làm thế nào nhận ra ông ta?
      - Ông ấy saukhi chơi bao giờ cũng ngồi dưới hàng hiên bên dưới. Người , đôi chiếc mũ chơi bóng chày kẻ đỏ và trắng. lẫn vào đâu được.
      - Cám ơn Sammy.
      - Nếu muốn chuyện với ông ta nên vào lúc này. Ông ta chơi golf để bàn việc với ngài nào đó. Mà Stobart là người khó tính lắm.
      - lần nữa cám ơn Sammy.
      Tôi xuống hàng hiên bên dưới, thấy chiếc bàn đứng biệt lập, tôi kéo chiếc ghế ngồi chờ đợi. Hai mươi phút sau, tôi thấy người đội mũ chơi bóng chày kẻ sọc đỏ trắng. Ông ta vừa vừa chuyện với con, béo tròn và tôi nhận ra ngay đó là Edmundo Raiz. Tôi vội dịch nhanh ghế nấp kín hơn. Họ tới gần và ngồi cách tôi khoảng ba bàn.
      Stobart ngồi quay lưng về phía tôi và Raiz ngồi xuống cạnh ông tạ Cả hai ai nhìn về phía tôi.
      Stobart bật ngón tay kêu đánh tách gọi người hầu bàn. Ông ta gọi bia, rồi nghiêng người ra phía trước tiếp tục chuyện với Raiz. Tôi thấy Raiz gật đầu lia lịa cứ như nhận mệnh lệnh. Tôi thất vọng nhìn được mặt Stobart, nhưng tôi kiên nhẫn đợi.
      Người hầu bàn mang bia tới, Stobart ký hóa đơn, cho tiền boa và người hầu bàn lùi ra. Tôi thấy Stobart rút túi ra cái gì đó, mở ra rồi lấy bút viết.. tôi nhổm người nhìn và thấy ông ta viết séc. Viết xong ông đưa cho Raiz. Raiz cầm ngay lấy và đút nhanh vào ví.
      - Tốt lắm, Ed, - Stobart cao giọng. – Hãy lên đường . Nhớ đổi ra tiền mặt và giải quyết gọn vụ này.
      - Vâng, thưa ông Stobart. Ngay khi có tin, tôi gọi ngay cho ông.
      - Đừng có đánh trượt đấy, nhớ chưa, Ed. - Stobart gắt.
      - Ông cứ tin ở tôi, ông Stobart ạ.
      rồi ngang qua hàng hiên và biến mất.
      Rồi ông ta đứng dậy nhanh tới bậc thang dẫn lên hàng hiên . Tôi vội bám theo, nhưng giữ khoảng cách đủ xa, nên vẫn nhìn thấy lưng ông ta.
      Trong gian tiền sảnh, ông ta mua tờ Paradise City Herald ở quầy báo. Tôi chọn chỗ đứng ngay cạnh chiếc cửa quay nhìn ra hàng hiên phía trước. Bên dưới là chiếc Rolls sơn hai màu be và nâu. gã da đen lực lưỡng đứng đợi sẵn. Tôi nhận ra gã: đó chính là tên dọa tôi khi tôi từ nhà Hank Smith ra. Hốt hoảng, tôi lùi lại và xô phải Stobart ra cửa.
      - Say hả? – ông ta lầu bầu và nhìn tôi.
      Chúng tôi nhìn vào mắt nhau và tôi sững sờ. Người đứng trước mặt tôi có hai con mắt sát nhau, cái miệng gần như có môi và vết sẹo chạy dài từ mắt phải tới cằm. Ông ta gạt tôi sang bên rồi ra cửa. Thằng khỉ đột mở cửa xe, Stobart ngồi vào và chiếc xe phóng vụt .
      Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe khuất. Bây giờ tôi biết Herbert Stobart chính là thằng bạn thân thiết của Mitch Jackson. chính là Syd Watkins!
      ***
      Tôi gặp Benbolt ở văn phòng của ông.
      Ông bắt tay tôi và vồn vã mời ngồi.
      - Tôi vừa từ Searle về xong, - Ông . – Do có người cầu mua nhà máy, tôi nghĩ rằng đến lúc với Peggy Wyatt. (Ông ta cười vẻ đểu giả). bé hấp dẫn đấy chứ nhỉ? Lại còn gặp may nữa!
      - Ai cầu mua vậy?
      - Ông thấy đấy, xảy ra quá nhiều chuyện. Bản di chúc của Weatherspoon có vấn đề gì. Ông Seiler thuộc công ty Seiler gặp tôi và đưa đề nghị khá hấp dẫn đối với nhà máy. Vì quyền lợi của Wyatt tôi buộc phải xem xét đề nghị này. Sáng nay tôi cho ta biết và ta chấp nhận bán.
      - Người ta trả bao nhiêu?
      Benbolt xoa chiếc cằm.
      - số tiền rất lớn.
      - Này ông Benbolt, bí mật nghề nghiệp của ông chẳng có nghĩa lý gì với tôi. – tôi bằng giọng gay gắt. – Tôi với ông rồi, kẻ mua nhà máy tên buôn bán ma túy. Ông ta trả bao nhiêu?
      - tôi với ông rồi. – đôi mắt ti hí của ông ta tối sầm lại. – Còn chuyện kia tôi cũng chỉ mới nghe ông thôi.
      - Rồi ông phải đương đầu với các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy. Mà họ phải là những kẻ tay đâu. Người ta trả bao nhiêu?
      - Nếu cần, tôi làm việc thẳng với họ chứ phải ông, ông Wallace ạ.
      - Ai là người mua?
      Ông ta ngả lưng ra ghế, gương mặt đầy vẻ thù địch.
      - Ông Wallace ạ, nhiệm vụ của ông là tìm kiếm Johnny cơ mà. Liệu chúng ta có nên chỉ dừng ở đây thôi, được ?
      Tôi chằm chằm nhìn ông ta.
      - Ông muốn rằng ông từ chối hợp tác?
      - Tôi chẳng có lý do gì phải cộng tác với thám tử tư cả. Ông rằng nhà máy ếch hộp bán ma túy. Tôi kiểm tra nhà máy và thấy có gì chứng tỏ nó có những hoạt động khác với nhiệm vụ thực tế của nó. Đó chỉ là doanh nghiệp phát đạt nhờ chuyên cung cấp đùi ếch cho các khách sạn lớn. Nếu việc bán nhà máy bị chậm trễ, các khách sạn bị mất khách và họ có thể tìm nguồn cung cấp khác. Khi đó công nhân có tay nghề bị thất nghiệp. Tất cả chỉ bởi vì những phỏng đoán có căn cứ của ông cho rằng nhà máy có liên kết với bọn buôn bán ma túy. (Ông ta giơ tay xem đồng hồ). Tôi đề nghị Ông đừng quấy rầy tôi nữa. Tôi muốn mất thời gian vô ích với ông.
      Tôi đứng dậy.
      - Họ đút cho ông bao nhiêu, ông Benbolt?
      Gương mặt ông ta bừng bừng sát khí.
      - Cút ra khỏi văn phòng tôi ngay!
      - Bình tĩnh nào, đừng có làm ra vẻ vô tư nữa , đồ khốn kiếp! – tôi . – Rồi chúng ta gặp nhau ở tòa.
      xong, tôi hầm hầm bước ra ngoài.
      Tôi quyết định phải liên lạc ngay với Peggỵ Có cả dãy cabin điện thoại ở gian tiền sảnh. Tôi tìm số phôn của khách sạn Jumping Frog. Người nhấc máy là ông Abraham.
      - Peggy có ở đó , bác Abraham? Tôi đây, Wallace đây mà.
      - . ấy vắng rồi, Wallace ạ.
      - ấy đâu?
      - Tôi nghĩ là đến nhà máy. biết tin vui chưa? Bây giờ ấy là bà chủ ở đó rồi.
      - Có, tôi biết rồi. Cám ơn bác. (Tôi gác máy).
      Từ Paradise City tới Searle mất hơn hai giờ xe hơi. Và trong hai giờ đó nhiều chuyện có thể xảy ra. Dù sao tôi cũng thấy bứt rứt yên và mỗi khi rơi vào trạng thái đó tôi luôn phải hành động.
      Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát Searlẹ Anderson nhấc máy.
      - Bill, mình nhờ cậu việc. Cậu hãy đến ngay nhà máy đóng hộp ếch xem Peggy có ở đó và có chuyện gì xảy ra với ấy .
      - Có chuyện gì xảy ra với Peggy à? – Anderson hỏi vẻ ngạc nhiên. – Ý muốn gì? biết tin gì chưa? ấy vừa mới được thừa kế, Weatherspoon
      - Mình biết rồi. Hãy tới nhà máy xem ấy làm gì ở đó. Mình gọi điện cho cậu từ cabin điện thoại, số đây. (Tôi đọc số cho Anderson). Cậu ghi xong chưa?
      - Rồi. Nhưng có chuyện gì vậy?
      - ngay . Hãy chuyện với ấy, chúc mừng ấy và nếu thấy mọi chuyện ổn cả gọi điện ngay cho mình. Mình đợi.
      - Đồng ý. Có thể phải đợi hơi lâu đấy.
      - Mình chờ. Thôi, nhanh lên.
      Tôi ngồi ở tiền sảnh, cạnh dãy cabin điện thoại, châm thuốc hút và nghĩ về Benbolt.
      Tôi tin rằng người ta mua được . Chắc Seiler đút cho để đảm bảo nhà máy được bán. Liệu có biết những chuyện xảy ra ở nhà máy nhỉ?
      Cuối cùng, sau bốn mươi phút chờ đợi và đốt tới sáu điếu thuốc, tôi nghe tiếng chuông điện thoại trong cabin. Tôi vội nhấc máy.
      - Dirk hả?
      - Mình đây. Có chuyện gì ?
      - Tại sao cứ cuống lên thế? Tôi bộ tới nhà máy. Peggy cũng có ở đó. ta phát điên lên vì sung sướng. Tôi vừa mới cất lời chúc mừng, ta ngắt lời ngay: “ phải bây giờ, Bill. Sau này hẵng haỵ Tôi bận lắm”. Rồi ta đóng sập cửa ngay trước mũi tôi.
      - Chỉ có thế thôi à?
      - Thế thôi. sợ cái gì mới được chứ?
      - ta bận việc à? Có ai ở đó với ta ?
      - Có. Qua cửa sổ văn phòng tôi thấy có gã có vẻ như người Mêhicô.
      - Mẹ kiếp!- tôi rồi gác máy.
      Tôi chạy ngay tới chỗ đỗ xe.
      Khi tôi tới nơi, tôi thấy thằng bé tóc vàng chừng mười hai tuổi đứng cạnh xe.
      - Xe chú bị xịt lốp rồi, - nó . – Cháu thấy gã thọc dao vào lốp.
      Tôi nhìn xuống bánh xe trước. Lốp bị xẹp chẳng còn tí hơi nào.
      - Nó nhìn thế nào? – tôi hỏi.
      - gã da đen đội chiếc mũ lớn màu đen. đeo cả tá dây chuyền và hôi hám lắm.
      Lại thằng khốn kiếp đó.
      Tôi lấy lốp dự phòng ra thaỵ Hàng năm nay có xảy ra chuyện này bao giờ đâu. Sau khi thấy tôi loay hoay lúc, thằng bé :
      - Chú lắp sai rồi. Để cháu làm cho.
      Thằng bé thay chiếc lốp chỉ trong mười phút. Tôi phải mất hơn nửa giờ nữa mới tới được đó.
      - Cháu tên gì? – tôi hỏi trong khi đặt chiếc lốp xịt vào trong cốp.
      - Wes Bridley.
      - Nếu ngày nào đó cháu muốn trở thành thám tử tư, hãy tới gặp chú ở hãng Parnell. Chú giúp cháu vào làm trong đó. (rồi tôi đưa cho thằng bé năm đôla).
      - Cháu mà làm thám tử đấy à? Đâu có hay ho gì. (Nó nhăn mũi). Cháu thích làm chủ nhà băng kia.
      Tôi ngồi vào xe, giơ tay chào nó, rồi phóng thẳng về Searlẹ Tôi theo con đường ven biển và cố giữ vượt quá tốc độ cho phép cho tới tận Fort Pierce, từ đây tôi ra quốc lộ 8. Đoạn đường tới Fort Pierce rất đông xe cộ và tôi tin rằng Raiz ra lệnh cho thằng nhọ đó làm chậm thêm hành trình của tôi. Mặc dù vậy, tôi vẫn lái thận trọng vượt quá sáu mươi cây số giờ để cho cảnh sát làm chậm trễ tôi hơn. quốc lộ 8, xe cộ vắng hơn và tôi liều chạy tới hơn chín mươi cây số giờ.
      Tôi cố nghĩ tới Peggỵ Tôi nhớ Stobart trao cho Raiz tấm séc và với ta đổi ra tiền mặt. Lóa mắt trước cả đống tiền mà Raiz mời mọc, giờ này chắc Raiz thuyết phục được Peggy bán nhà máy mất rồi.
      Cách hồ Placid khoảng chục cây số, tôi chợt thấy chiếc xe chở đầy cam chạy bám theo tôi chừng mấy mét. Giờ tôi mới nhớ rằng thực ra nó theo tôi thời gian rồi. Có lẽ vì lúc nào cũng có hàng chục xe tải chở rau quả chạy quốc lộ nên tôi để ý. Nhưng tôi chạy với tốc độ cả trăm cây số giờ vẫn thấy nó bám theo sát.
      Phía trước, con đường thẳng băng, hai bên là cây cối và các rãnh thoát nước. Tôi quyết định cắt đuôi và nhấn ga hết cỡ. Chiếc xe của tôi vọt lên và đạt tới tốc độ trăm hai mươi cây số giờ. Tôi liếc mắt nhìn qua gương hậu thấy chiếc xe tải bị bỏ lại phía sau. Tôi cách nó vài trăm mét, nhưng thể tiếp tục duy trì tốc độ này mãi được. Rất nhiều xe tải chạy ngược chiều và tôi chợt thấy ngay trước mặt chiếc xe tải hai mươi tấn, chất đầy rau quả, ỳ ạch chạy như rùa. Tôi đạp hờ phanh và chờ cơ hội vượt lên. Nhưng xe chạy ngược chiều mỗi lúc đông và qua gương hậu tôi thấy chiếc xe tải chở cam chỉ còn cách tôi vài mét.
      Đó là chiếc xe loại mang biển số Miamị Kính chắn gió màu xanh cho phép tôi nhìn mặt người lái. Thấy có thể vượt lên, tôi nhấn gạ Tôi rất sợ bị ép ở bên phải. chiếc xe con phóng rất nhanh vừa khẽ đánh tay lái suýt đâm phải tôi. Tôi chỉ kịp nghe thấy tiếng còi, chiếc xe mất hút phía trước.
      Tôi rất cố gắng giữ bình tĩnh. Qua gương chiếu hậu tôi lại thấy chiếc xe cam chỉ cách tôi vài mét. Mà tôi chạy với tốc độ trăm hai mươi cây số giờ chứ ít đâu. Tôi chợt thấy cánh tay đen đặt thành cửa của chiếc xe tải.
      Lại thằng đen! Bên phải tôi lúc đó là hào sâu, sau đó là hàng cây. Đường hào này dùng thoát nước vào mùa mưa. Tôi lại nhìn qua gương hậu. Chiếc xe tải biến mất lúc nào! Toát mồ hôi , tôi liếc mắt sang trái. Chiếc xe tải khốn kiếp ở ngay cạnh tôi. Cabin quá cao nên tôi nhìn được người lái. Tôi hiểu ngay nó ép xe và cho tôi lăn xuống hào.
      Linh tính mách bảo tôi nhấn ga, nhưng đây phải chiếc xe tải bình thường. Nó có thể chạy nhanh kém gì tôi. Tôi đạp phanh và đè mạnh hai tay lên vô lăng để bánh sau bị trượt.
      May mà phanh tôi còn tốt. Tôi thấy chiếc xe tải vọt lên trước. Cái chắn va sau của nó quệt vào cái chắn va trước của tôi. Chiếc xe của tôi quặt về phía đường hào. Nhờ đè tay lái lực, tôi làm cho chiếc xe lao xuống đó.
      Nhưng số phận chiếc xe tải được may mắn như thế. Mải hất tôi xuống hào, tên lái xe để ý phía trước. Đúng lúc đó có chiếc xe tải cỡ lớn lao tới. Gã lái xe vội quặt tay lái và chiếc xe đâm xuống hào. Tiếng kim loại vặn, gãy tạo ra những thanh chát chúa.
      Tôi dừng xe và bước xuống. Chiếc xe hai mươi tấn cũng vừa tới và dừng lại. Cả dòng xe phía sau tắc nghẽn. Cánh lái xe tải đều xuống xe. Họ cùng với tôi tới chiếc xe bị lật. Chúng tôi nhìn vào cabin xe. Đầu hai thằng nhọ đều bị đâm qua kính chắn gió, trông đến sợ.
      ***
      Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog, đồng hồ chỉ mười rưỡi đêm. Trước khi tới Searle, tôi suy nghĩ về những điều xảy ra. ràng là người ta định giết tôi. Tôi tự nhủ từ nay về sau phải hết sức thận trọng. Tôi vẫn băn khoăn biết Benbolt có với Raiz về việc tôi biết về mạng lưới buôn bán ma túy .
      Có thể lắm.
      Tôi khoan khoái nghĩ tới bản báo cáo và hộp đùi ếch đợi đại tá trở về.
      Tôi gặp ông già Abraham ở quầy tiếp tân. Ông mỉm cười chào tôi.
      - Peggy đâu? – tôi hỏi.
      - Ở đây. trong văn phòng. ấy làm việc với ông Willis Pollack, công chứng viên của chúng tôi. biết tin gì chưa? Peggy giàu to rồi.
      - Bố Peggy đâu?
      Nụ cười của ông già tắt hẳn.
      - Ông ấy nằm trong giường. Tội nghiệp ông chủ. Chắc đận này ông ấy qua khỏi mất.
      Tôi vòng qua quầy tiếp tân, gõ cửa văn phòng và bước vào.
      Ông già Pollack ngồi tràng kỷ, còn Peggy đứng sau bàn. Họ chúc nhau sâm-panh.
      - Chào Dirk! – Peggy cười hết cỡ. – ở đâu mấy hôm nay? Chúng tôi ăn mừng đây. Hãy cùng vui với chúng tôi nhé.
      - Cám ơn, - tôi . – Hai người ăn mừng gì vậy?
      - Em bán xong cái nhà máy đóng hộp ếch rồi! Harry di chúc để lại cho em tất cả. Em giàu rồi!
      Tôi kéo ghế ngồi xuống.
      - Các vị đừng để mất thời gian nữa. Người ta chôn Weatherspoon đâu.
      - hãy kể cho ấy nghe , ôâng Pollack. Tôi muốn ấy biết. – Peggy và rót sâm-panh cho tôi. – thấy đấy, Dirk, hoàn toàn có quyền được ăn mừng như em mà!
      Tôi cầm lấy cốc, nâng lên và uống ngụm rồi đặt xuống bàn.
      - Bán rất được giá, Wallace ạ. – Pollack . – Peggy làm rất đúng là xin ý kiến tôi.
      - Khi ông Benbolt cho em biết nội dung bản di chúc của Harry và rằng ông ta có thể bán được nhà máy, em phóng ngay tới gặp ông Pollack. Ông Pollack có mặt cùng với em khi Raiz tới.
      Ông Pollack nhìn tôi cười.
      - lòng, Wallace ạ, tôi ưa ta lắm, nhưng có vẻ là người làm ăn đúng đắn. rằng muốn mua nhà máy, nếu để muộn, phải giải tán nhân mất khách ở những nhà hàng lớn. Tôi thấy cũng có lý. ta đề nghị hai trăm năm mươi ngàn độ Tôi thấy cái giá đó là được rồi. ta đề nghị trả trước năm mươi ngàn bằng tiền mặt, hai trăm ngàn còn lại trả khi bản di chúc có hiệu lực. Nếu Peggy chấp nhận, ta cho người tới nhận nhà máy ngay ngày mai. Khi đó giữ nguyên nhân của nhà máy và giữ được khách hàng. Đó là đề nghị chấp nhận được và tôi khuyên Peggy ký giấy đồng ý. Bắt đầu từ ngày mai, Raiz là ông chủ của nhà máy, mặc dù bản di chúc còn chưa có hiệu lực. Cuối cùng, sau hồi bàn tính, tôi buộc Raiz phải chấp nhận nếu kết cục thành số tiền năm mươi ngàn đặt trước thuộc về Peggỵ Vậy là dù có chuyện gì nữa trong tay bé này cũng có năm mươi ngàn đô.
      Tôi nâng cốc chúc sức khỏe của Peggy và uống cạn hơi.
      - là tuyệt vời.
      - Sao lại ? Bây giờ em có cái để chăm sóc cho ba em, - Peggy với đôi mắt bừng sáng. – Từ lâu em mong ước được chăm sóc tử tế cho ba em. Rồi em đưa ba em đến bệnh viện ở Miamị Em rất hy vọng và cầu mong ở đó người ta điều trị khỏi cho ba em.
      Tôi nhìn Pollack và thấy ông buồn rầu lắc đầu.
      - Tôi báo trước với Peggy rồi, - Ông . – chẳng có hy vọng gì đâu.
      - Tôi cóc cần biết! Tôi đưa ba tôi đến bệnh viện. Tiền bạc để làm gì nếu giúp cho những người thân của mình?
      - Thế còn khách sạn? – tôi hỏi. – Em cũng bán chứ?
      lắc đầu.
      - phải bây giờ. Em đổi ý rồi. Ba em muốn em giữ lại khách sạn. Với số tiền bán nhà máy và cửa hàng thực phẩm, em tân trang lại. Ông Pollack cũng cho rằng làm như thế là phải.
      - Thế kết quả điều tra về cái chết của Weatherspoon thế nào? – tôi hỏi ông Pollack.
      - Tất cả được tiến hành rất nhanh: chết do tai nạn.
      Tôi nhún vai. Bác sĩ Steed thực chứng tỏ lòng trung thành với người bạn già sâu rượu của mình.
      - Peggy, lần nữa xin chúc mừng em! Chúc em có nhiều may mắn hơn.
      Tôi bước ra và lên phòng. Nằm dài giường và vẫn còn hơi choáng về vụ mưu sát. Tôi gần như phanh phui mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng nhiệm vụ chính của tôi là tìm kiếm Johnny Jackson. Vậy tôi lại phải làm theo lời khuyên của cha tôi. “Nếu con bị bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và khi ngẫm nghĩ, có thể con phát ra đầu mối quan trọng mà trước đó con bỏ qua”. Tôi đành quay trở lại những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ rất lâu.
      Tôi xua đuổi khỏi đầu óc cái mạng lưới buôn bán ma túy, Raiz, Stobart và Stellạ Chúng chỉ làm phân tán đầu óc tôi. Tôi cố tập trung chú ý vào ông già tốt bụng trồng hoa hồng Wally Watkins. Tôi hình dung thấy ông mồn vào lúc tôi hỏi ông gần đây có gặp Johnny và lúc đó tôi nhớ rằng ông có vẻ lưỡng lự. lưỡng lự thường thấy ở những người nhân hậu và trung thực mỗi khi họ sắp phải dối.
      Tôi thấy đói và xuống nhà ăn, rồi gọi món chính trong ngày: miếng sườn bò.
      Ăn tối xong, tôi lấy xe tới nhà ông Watkins. Tôi rời đường lớn và đậu xe ở cạnh đường, cách nhà ông Watkins chừng vài trăm mét. Qua chỗ ngoặt tôi nhìn thấy ngôi nhà.
      Tôi lặng lẽ vòng quanh ngôi nhà và ra phía sau. thấy ánh đèn trong các buồng ngủ. Tôi mang theo đèn pin cực mạnh phòng xạ Tôi dừng lại dỏng tai lên nghe.
      Tôi phát cái cửa và tôi qua đó vào vườn sau, rồi ra phía trước ngôi nhà. Tivi trong phòng khách bật. Trước mặt tôi là mấy cái cửa sổ phòng ngủ. cánh mở toang. Đó là phòng của ông Watkins. Tôi chiếu đèn pin nhìn vào. Sau đó tôi chiếu vào phòng bên cạnh. Phòng này hơn phòng kia, diêm dúa và đầy nữ tính với chiếc giường đơn. Trong phòng có bàn trang điểm , đặt lọ nước hoa và mấy thứ trang điểm của phụ nữ. Thu hút tôi là bộ tóc giả dài màu vàng treo cái giá. Tôi cố tìm cách mở cửa sổ này, nhưng nó đóng chặt và cài then bên trong. Tôi quay sang chiếc cửa sổ mở ở phòng ông Watkins, lặng lẽ trườn vào, mở cửa và vào hành làng tối om.
      Ông Watkins mải nghe thời . Tôi tới phòng phụ nữ, mở cửa và lẻn vào. Tôi khép cửa vào rồi chiếu đèn quan sát phòng. Theo cách bày biện đây là phòng của trẻ. Có mấy con búp bê đặt giá đóng ở tường sau. con gấu bông sờn đặt chiếc ghế. Tôi chiếu cao đèn thấy cái khung gỗ treo đầu giường. ra đó là khung của tấm huân Chương. Đến sát hơn tôi thấy mấy chữ Huân Chương Danh dự. Huân Chương của Mitch trước kia được treo ở đầu giường ông già Fred, còn bây giờ nó treo ở phòng này. Ai sống ở đây? Liệu có phải Johnnỷ Liệu nó có ái nam ái nữ tới mức dùng bộ tóc giả của phụ nữ, chơi búp bê kia ? Cũng có thể, nhưng tôi hơi ngờ. Tôi tới mở tủ quần áo. Có số bộ váy áo treo ở đây. Tất cả đều là váy của thiếu nữ, loại rẻ tiền. giá tôi còn phát được hai chiếc xu chiêng và ba chiếc quần lót trắng.
      Tôi nhìn Huân Chương lần nữa rồi sang phòng Watkins và trườn qua cái cửa sổ ra ngoài. Tôi bấm chuông. Tôi nghe tiếng tắt tivi, sau đó im lặng hoàn toàn. Sau lúc khá lâu, cửa trước mở ra và ông Watkins nhìn tôi ngạc nhiên.
      - Chào bác Watkins, - tôi . – Cháu là Dirk Wallace đây mà.
      - Tưởng ai, - Ông già và đứng chắn ngưỡng cửa. – đến đúng lúc rồi. Ngày mai đến được ?
      - Rất tiếc là ngày mai cháu thể đến được. Cháu muốn về con trai bác.
      Tôi thấy ông co dúm người lại.
      - Wallace ạ, tôi nghĩ là tôi rằng tôi quan tâm tới thằng đó nữa rồi mà. Nếu có điều gì cần với tôi, hãy cố đợi đến ngày mai. Xin lỗi, mong thông cảm, - Ông và có ý khép cửa lại.
      Tôi cứ bước tới.
      - Rất tiếc, bác Watkins ạ. Nhưng đây là vấn đề liên quan tới cảnh sát. Và có thể liên quan tới bác nữa. Tốt nhất là ta nên chuyện với nhau.
      - việc liên quan tới cảnh sát ư?
      Ông lùi lại và tôi bước vào hành lang rồi khép lại.
      - Đúng như vậy, lần nữa mong bác thứ lỗi.
      Ông lưỡng lự rồi ông mở cửa phòng ăn.
      - Nếu vậy mời vào đây.
      Tôi theo ông vào căn phòng tiện nghi, bàn ăn được dọn sẵn cho hai người.
      - Tôi hy vọng rằng câu chuyện của kéo dài chứ, Wallacẹ Tôi sắp ăn tối mà. Tôi có thể mời uống chút gì chứ?
      - . Cám ơn bác.
      Tôi ngồi chiếc tràng kỷ.
      - Cháu rất tiếc phải với bác rằng con trai bác trong tình trạng rất nghiêm trọng. Chỉ vài ngày nữa ta bị bắt vì đứng đầu mạng lưới buôn bán ma túy ở Searle này.
      Tôi quan sát và thấy ông già nhảy dựng lên.
      - Con tôi? Ở ngay đây? (Rồi ông thả người xuống ghế). Tôi hoàn toàn hiểu. Syd ở ngay đây ư?
      - . ta ở Searlẹ ta ở Paradise với cái tên Herbert Stobart. Harry Weatherspoon và ta tổ chức mạng lưới buôn bán ma túy mang lại rất nhiều tiền bạc. Hàng năm Harry phải kiếm hơn ba triệu đô.
      - Weatherspoon? – Ông già sững sờ hỏi.
      - Hãy cho phép cháu giải thích cho bác hiểu, bác Watkins ạ. Điều cháu sắp với bác phần lớn là dựa các giả thuyết. Nhưng cháu có những bằng chứng khẳng định những giả thuyết đó là chính xác. Tất cả mọi chuyện bắt đầu ở Việt nam. Weatherspoon lúc đó là nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy của quân đội. Trong đám binh lính có rất nhiều tên nghiện ma túy. Weatherspoon phát ra gã chuyên bán ma túy cho đám lính trẻ. Gã này chắn chắn phải có kẻ cung cấp. Và Weatherspoon tìm ra kẻ cung cấp đó chính là con trai bác. Trước khi tên bán ma túy – chính là Mitch Jackson – lẽ ra bị bắt, chết. Weatherspoon hẳn là biết số tiền Mitch kiếm được là rất lớn. Vốn là tên hám tiền, liên lạc với con trai bác và hai đứa móc ngoặc với nhau. Sau khi cả hai giải ngũ, chúng nghĩ ra cách dùng ếch đóng hộp để ngụy trang cung cấp hêrôin cho những tay giàu có sa đọa. Ma túy được cho vào túi nylon giả danh là bột pha nước chấm bán kèm với đùi ếch. Đây là ý tưởng tuyệt vời và chúng hề phải mạo hiểm chút nào. Con trai bác lập cả danh sách lớn gồm những khách hàng đặt thường xuyên và gửi hêrôin trong hộp đùi ếch mỗi tháng lần. Weatherspoon có nhiệm vụ đặt các túi hêrôin vào hộp đùi ếch và con trai bác lo việc chuyển cho khách hàng và cung cấp hêrôin. Nhưng rồi giữa chúng có chuyện. Chuyện gì cháu biết, nhưng Weatherspoon quyết định rút ra khỏi hội này. để ra được nửa triệu đô và quyết định bỏ làm tiếp nữa. Có thể là bất đồng với con bác, cụ thể thế nào cháu biết. Nhưng điều đó quan trọng. Cũng như số phận của tất cả những kẻ tham gia trong mạng lưới buôn bán ma túy quyết định từ bỏ làm tiếp nữa, phải bỏ mạng. Nhà máy đóng hộp ếch vừa mới được mua bởi gã người Mêhicô, Edmundo Raiz, do con trai bác bỏ vốn. Bọn chúng tưởng vẫn còn tiếp tục được việc buôn bán mờ ám như trước. Nhưng cháu thu thập đủ bằng chứng để tống tất cả lũ này vào nhà đá ít nhất là mười lăm năm.
      Ông già Watkins ngồi bất động lúc lâu rồi nhìn tôi.
      - Tôi với rằng tôi muốn dây dưa với thằng con trai tôi nữa. Những điều với tôi kinh khủng. Tôi hy vọng Syd nhận được những gì xứng đáng với nó. Có lẽ tôi cũng phải cám ơn cất công đến đây báo cho tôi biết, nhưng tôi thấy mình có gì liên quan tới vụ này cả. Tất nhiên, điều này khiến cho tôi đau lòng, nhưng Syd luôn luôn gây đau khổ cho vợ chồng tôi từ lâu rồi. rằng tôi có thể liên quan. (Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi). Thế tôi liên quan ở cái gì?
      Tôi trả lời câu hỏi của ông để ông tiếp tục giữ được bình tĩnh.
      - Cuộc đời nhiều bí lắm, bác Watkins ạ. – tôi . – Mươi hôm trước hãng chúng cháu nhận được bức thư của Fred Jackson cầu tìm đứa cháu nội của ông tạ Ông già thanh toán ngay trăm đôla và chúng cháu nhận nhiệm vụ đó. Chỉ duy nhất bởi vì Jackson nhắc nhở đại tá Parnell rằng Mitch, con trai ông, phục vụ Ở Việt nam dưới quyền đại tá và được truy tặng Huân Chương Danh dự. Và đại tá giao cho cháu công việc tìm Johnnỵ Trong quá trình điều tra cháu phát ra mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng đó chỉ là sản phẩm phụ, mặc dù rất quan trọng. cháu vẫn chưa tìm ra Johnny Jackson. Mấy hôm trước cháu có hỏi bác gần đây có gặp ta . Bác trả lời cháu là . Nhưng ngay lúc đó cháu có cảm tưởng rằng bác với cháu. Bây giờ cháu lại xin hỏi lại lần nữa: gần đây bác có gặp Johnny Jackson ?
      Ông già cúi nhìn chăm chú hai bàn tay và gì.
      - Gần đây bác có gặp Johnny Jackson ? – tôi nhắc lại.
      Nhìn vẻ rầu rầu của ông, tôi thấy rằng ông chuẩn bị dối lần nữa. Nhưng đúng thời điểm đó, cánh cửa đột ngột mở ra và Bêbê Mansel bước vào.
      - Xéo khỏi đây ngay, thằng khốn! – ta hét lên. – Đứng lên và xéo ngay .
      Tôi nhìn cộ Bêbê vẫn mặc chiếc áo phông làm nổi bộ ngực căng tròn và chiếc quần bò bó. Mái tóc đen mượt mà thả dài xuống ngang eo. Gương mặt trắng trẻo sầm lại như tạc bằng đá.
      - Bây giờ khỏi phải đuổi tôi cũng ! – tôi và đứng dậy.
      Tôi nhìn Watkins. Ông vẫn ngồi bất động trong ghế phôtơi và rời mắt khỏi bàn tay mình.
      - Bác Watkins, bác vẫn chưa trả lời câu hỏi của cháu.
      Bêbê sấn sổ xông đến tôi, nắm lấy tay tôi và làm cho tôi quay tại chỗ.
      - Xéo ! – ta rống lên.
      Tôi nhìn và bất chợt hiểu ra tất cả. Căn phòng ngủ thứ hai, con gấu bông và lũ búp bê, tủ quần áo con và tấm Huân Chương Danh dự treo tường.
      - Tất nhiên rồi, tôi .
      mở toang cửa.
      - Xéo ngay khỏi đây!
      Khi ngang qua , tôi tóm lấy lọn tóc đen và mượt rồi giật mạnh. Bộ tóc giả tung ra. hét lên và giơ tay định tát tôi, nhưng tôi chộp được cổ tay .
      Tôi nhìn mái tóc vàng cắt ngắn như của con trai của , rồi mỉm cười:
      - Chào Johnny Jackson, - tôi . – Thế là cuối cùng tôi tìm ra cậu.
      ***
      Wally Watkins ngồi như hóa đá và cũng đứng như trời trồng tại chỗ. hết nhìn tôi lại nhìn ông Watkins. Tôi cứ để mặc cho im lặng kéo dài. Rồi cuối cùng, ông già khẽ lên tiếng: - Cháu Johnny ạ, bác nghĩ đến lúc ta nên giải thích cho Wallace .
      - Tùy bác! – ta hét lên và giật bộ tóc giả từ tay tôi. – Bác cứ việc cho ta biết!
      ta chạy ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.
      Ông Watkins nhìn tôi.
      - uống với tôi chút uytski nhé. Phiền lấy giúp. Cái gối của tôi lại giở trò rồi.
      - Rất vui lòng, nhưng còn bữa tối của bác? (Tôi mở tủ rượu và lấy hai chiếc ly). Cháu rất tiếc về những gì xảy ra, bác Watkins ạ.
      - sao, ăn sau cũng được. (Ông già nhìn ly uytski và gật đầu). pha khá đấy, Wallace ạ.
      Tôi cầm ly của tôi và ngồi xuống ghế đối diện.
      - có gì buộc bác phải cả, bác Watkins ạ. Cháu tìm được Johnny rồi, nhiệm vụ của cháu thế là xong.
      - Tôi cũng muốn nó đơn giản vậy thôi. Nhưng tôi muốn nên biết toàn bộ câu chuyện về Johnnỵ Và tôi cũng muốn làm gì đó để tỏ ra thông cảm hơn đối với nó.
      Tôi châm thuốc và ngả người ra ghế.
      - Cũng được! Thế bác cứ kể .
      - Tôi cố gắng ngắn gọn thôi. Kitty và tôi tham gia vào câu chuyện đáng buồn này ngay từ đầu. Con trai chúng tôi làm chúng tôi thất vọng. Tôi cần nó quay trở về nữa. Mà chúng tôi rất quý trẻ con. Khi Johnny tới Searle và tới cửa hiệu chúng tôi, hai vợ chồng tôi rất quan tâm tới nó. Cả hai chúng tôi đều nghĩ nó là con trai. Chúng tôi thừa biết ông già Fred sống khổ hạnh thế nào mà, nên bảo nó hàng tuần tới đây để tắm giặt. Ông ta chẳng bao giờ tắm cả. Thực tế, ở nhà ông ấy cũng chẳng có phòng tắm. Johnny mừng lắm. Vậy là chúng tôi gặp nó thường xuyên và dần dần gắn bó với nhau. thực lòng, cho đến bây giờ tôi coi nó như con đẻ của mình. Cho tới khi Johnny mười bốn tuổi, Kitty ngờ rằng nó phải là con trai mà là con . Vào thời gian đó, Johnny rất quý chúng tôi, nhưng chưa được như với cái lão già thô lỗ và bẩn thỉu kia. tối, nó đến đây tắm, nó kể hết cho chúng tôi nghe. (Ông già ngắt lời, uống hớp nữa rồi tiếp). Mẹ nó, tức Stella Costa, làm quen với Mitch Jackson ngay trước khi ta nhập ngũ. Mitch có vẻ quyến rũ làm cho phụ nữ mê mẩn. Rồi khi có thai với Mitch, Stella cầu khẩn Mitch hãy cưới ta và rằng nếu đứa bé là con trai, khi ở Việt nam về nhất định cưới. Người đàn bà rất mong được cưới Mitch. Khi đứa bé ra đời và biết là con , Stella hiểu ngay rằng Mitch cưới cộ Tuyệt vọng, làm khai sinh cho đứa bé dưới cái tên Johnny Jackson, con trai, và gửi cho Mitch bản sao giấy khai sinh, đồng thời nhắc ta về lời hứa cưới khi ở Việt nam trở về. Cũng phải rằng nhà Jackson rất lạ lùng. Cả cha lẫn con đều muốn cho con kế thừa. Và Mitch trả lời: tỏ ra rất sung sướng và hứa nhất định cưới Stella khi trở về. Stella nuôi dạy con bé như đứa con trai. Rồi Stella gặp khó khăn vì Mitch gửi tiền về nữa. Johnny lúc đó tám tuổi và trở nên gánh nặng đối với tạ quyết định cho nó về ở với ông nội nó. ta giải thích toàn bộ câu chuyện chẳng hay ho gì này với Johnny và dặn dặn lại nó bao giờ được tiết lộ với ông già nó là con . Vào thời đó Johnny vui lòng đóng trò giả trai. Ông già Fred rất mừng vì có cháu đích tôn. Ông đối xử tốt với Johnny, tất nhiên là theo cái cách thô lỗ của ông ta và cuối cùng Johnny cũng và ngưỡng mộ Ông. Tối đó con bé với tôi rằng ông già Fred kể cho nó nghe về cuộc đời mình, nhất là những trận đánh nhau với cá sấu, và về Mitch. Rồi năm tháng qua . Lẽ tự nhiên là Johnny càng ngày càng bộc lộ tính con . Ông già Jackson cũng thi thoảng về lũ con , nhưng bằng cách thô lỗ và đầy khinh bỉ. Johnny hiểu rằng ông già nghi ngờ nó là con , và thế là nó bỏ trốn . (Watkins lại ngước mắt nhìn tôi). là buồn, phải ? Johnny thực lòng ngưỡng mộ Ông già, nhưng nó tính rằng sớm muộn gì rồi ông cũng phát ra nó là con . Bà Kitty nhà tôi lúc đó mất, nhưng mỗi tuần lần Johnny vẫn đều đặn đến đây tắm giặt và chuyện với tôi. Nó phải bó ngực cho phẳng xuống và để lộ cho ông nó biết. Nhưng nỗi lo sợ bị phát ngày càng lớn dần. Tôi bèn khuyên nó hãy bỏ ông già và đến đây sống với tôi. Và nó làm như thế để khỏi phải đương đầu với cơn giận dữ của ông nó khi phát ra . Chúng tôi hề nghĩ rằng ông nó lại gửi thư nhờ đại tá Parnell. Sau đó, tới đây điều tra và phát ra đáng buồn này. Bây giờ biết mọi chuyện rồi, Wallace ạ. Chúng tôi cũng chẳng có gì ân hận và điều đó cũng quan trọng vì Johnny cũng sắp ra . Tôi tìm cho nó công việc ở Los Angeles. Cháu tôi có cửa hàng bán đồ may sẵn ở đó. Ngày mai nó và tôi hy vọng rằng ở đó nó tìm thấy hạnh phúc. (Ông cười buồn bã). Tôi chắc nhớ nó lắm.
      - Cháu hoàn toàn hiểu bác, bác Watkins ạ. Vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời. Ví dụ như tiền, chẳng hạn?
      Ông tỏ vẻ ngạc nhiên.
      - Tiền? Tiền nào?
      - Tiền của ông già Jackson.
      - Ông ấy mà có tiền ư? Tôi biết gì hết.
      Tôi có cảm tưởng là ông già .
      - Johnny bỏ nhà khoảng hai tháng trước, - tôi . – và tới sống ở nhà bác. Vậy ấy làm gì?
      - Nó với tôi là nó làm cho câu lạc bộ Ở Miamị Điều đó tôi quan tâm. Nó chỉ về với tôi vào những ngày nghỉ cuối tuần. Đừng bao giờ can thiệp sâu vào công việc của lũ trẻ, Wallace ạ.
      - Bác đúng. Nhưng cháu cần với Johnny mấy lời. Cháu cần câu trả lời cho số câu hỏi. Cháu hy vọng ấy , nhưng có mặt bác chắc là ấy . Bác cho phép cháu chứ?
      Ông già ngẫm nghĩ lát rồi lắc đầu.
      - Tôi quan tâm. Tôi chỉ cầu hãy đối xử tốt với nó. Cuộc đời nó cơ cực lắm rồi, Wallace ạ. Mà tôi vô cùng nó.
      Tôi đứng dậy.
      - Để cháu rót thêm ly uytski cho bác. Cháu cố gắng nhanh để hai người còn ăn tối.
      - Cám ơn .
      Tôi rót đầy ly cho ông rồi ra cửa.
      Tôi theo hành lang tới phòng ngủ thứ hai, gõ cửa rồi bước vào. nửa ngồi nửa nằm giường, tay ôm con gấu bông đợi tôi.
      - Ta chuyện với nhau lát, - tôi và khép cửa lại. – Tiền của ông đâu rồi?
      ghì chặt con gấu trong tay.
      - Tôi lấy rồi.
      - có thể kể cho tôi về điều này , Johnny?
      lưỡng lự lát rồi nhún vai.
      - Ông muốn để cho Mitch số tiền đó. Sau này, khi Mitch chết, ông muốn để lại nó cho con trai của Mitch. Nếu Mitch có con trai ông muốn hiến hết số tiền đó cho Quỹ giúp đỡ những cựu chiến binh bị mất chân tay.
      - Tôi biết. Nhưng vì là con , có quyền được hưởng số tiền đó.
      - Đúng là như thế. Tôi lấy là vì thằng Weatherspoon khốn kiếp định đánh cắp nó.
      - Bình tĩnh nào, Johnnỵ có biết mạng lưới buôn bán ma túy và nhà máy đóng hộp ếch ?
      - Có, tôi biết. Mẹ tôi có cho tôi biết.
      - cũng biết rằng cha , Weatherspoon và Stobart cùng cộng tác với nhau chứ?
      - Cha tôi chết rồi hai người này mới móc nối với nhau. Nhưng thôi, đúng là cha tôi có bán ma túy. Nhưng sau đó sao? Cha tôi phải mất mạng để cứu sống mười bảy mạng người và được trao tặng huân Chương.
      Tôi nén cho biết rằng cha ta vào rừng chẳng qua để cứu món thu nhập hàng tuần của mình.
      - làm gì với số tiền đó?
      ta nhìn tôi với đôi mắt bừng bừng tức giận.
      - cứ thử hình dung xem tôi làm gì? Nghe đây, tôi rất ông tôi. Đó là người duy nhất đối xử với tôi như con người. kể ông bà Wally và Kitty, những người giúp đỡ tôi rất nhiều. Đồng ý là ông tôi có những tật . Ông căm ghét phụ nữ. Ông bao giờ giải thích với tôi vì sao như vậy. Ông chỉ : “Johnny ạ, chúng ta là đàn ông, cần phải sát cánh với nhau. thế gian này, phụ nữ còn tồi tệ hơn cả lũ cá sấu”. Ông ham tiền kinh khủng, nhưng chẳng tiêu pha gì. Ông tằn tiện và số tiền để dành ông giấu trong cái hố đào dưới gầm giường. “Khi ông ra , Johnny ạ, - Ông với tôi, - cháu lấy số tiền đó. Ông cần tới chúng nữa. Với cháu chúng có thể rất có ích đấy. Vì cháu là cháu nội của ông, ông muốn cháu sống thảnh thơi sau khi ông mất”. Tôi tự biết mình là con , và ông muốn đứa con như tôi được hưởng. Nếu biết tôi là con chắc ông tống tôi ra khỏi nhà. Rồi khi biết tin cha tôi chết, Stobart tới gặp ông tôi. Tôi ở trong phòng nên nghe hết những điều họ với nhau. rằng là bạn Mitch, rằng Mitch và cùng làm ăn với nhau. Mitch có với rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Mitch, ông tôi có thể nhận phần của Mitch và nếu ông tôi chết con trai của Mitch hưởng. Ông tôi rằng ông cần. Nhưng Stobart cứ nài. “Mitch với cháu là bạn thân với nhau. Cái gì hứa là hứa. Nếu bác cần thằng bé có thể cần”. Và trong suốt sáu năm, tháng nào cũng có thư gửi tới. Ông tôi biết rằng tôi nghe lỏm được hết. Ông bao giờ mở phong bì xem, ông đặt hết vào cái hố cùng số tiền ông dành dụm được.
      - Thế ước lượng là bao nhiêu tiền , Johnny?
      - Nhiều lắm. Khi tới năm trăm ngàn đô tôi đếm nữa.
      - Thế số tiền này, cũng giữ chứ?
      - Bây giờ . Nó phải của tôi. Tôi cho vào hộp và gửi cho những người ở Quỹ giúp đỡ các cựu chiến binh bị mất chân tay, ở New York, như món quà tặng vô danh. Đó là mong muốn của ông tôi và tôi làm như vậy.
      Tôi sững sờ nhìn .
      - Nhưng vẫn có thể giữ món tiền đó cơ mà, Johnny.
      Đôi mắt lại bừng bừng tức giận.
      - xem tôi là hạng người nào? con ăn cắp ư?
      - Xin lỗi. đúng là tuyệt vời.
      - Im ngay cái trò đạo đức giả ấy ! Đối với tôi, ông tôi là tất cả. Tôi phải là cháu đích tôn, tôi chỉ là đứa cháu của ông thôi. Nếu ở địa vị , cũng làm như thế chứ, phải ?
      Liệu tôi có làm như thế nhỉ?
      - Tôi hy vọng cũng làm như thế, Johnny ạ.
      - hỏi xong chưa? Tôi phải ăn với bác Wally đây.
      - Chưa. Hãy cho tôi biết về Weatherspoon .
      Cái nhìn của tối sầm lại.
      - muốn tôi gì đây?
      - ta giết ông , phải ?
      - Đúng thế.
      - Hãy kể .
      lưỡng lự lát rồi .
      - Tôi bỏ ông tôi trốn và tới làm việc cho câu lạc bộ Skin. Chính mẹ tôi xin cho tôi vào đó. Những ngày nghỉ cuối tuần tôi lại về nhà bác Wallỵ Tôi mượn xe của mẹ tôi. Lúc nào tôi cũng nghĩ về ông tôi. Tôi thường lén nhìn ông bắt ếch ở đầm. Tôi vô cùng muốn với ông mấy câu, nhưng biết rằng ông muốn tôi nữa rồi. Rồi tôi có mặt ở đó đúng vào ngày ông tôi bị giết. Thằng khốn kiếp Weatherspoon chuyện với ông tôi trong nhà khi tôi từ ngoài đầm vào. la hét chuyện tiền nong gì đó rồi tôi nghe thấy súng nổ. ( nhắm nghiền mắt và ôm chặt con gấu bông trong tay). Sau đó, Weatherspoon ra với khẩu súng trong taỵ Đúng lúc đó nghe thấy tiếng xe của lên. nhảy đại vào bụi cây. Tôi biết xảy ra chuyện khủng khiếp và tôi sợ. Rồi tới và vào nhà. Từ nơi nấp, tôi và Weatherspoon quan sát . Sau khi , ta chạy vào nhà và ra thấy mang súng nữa. Rồi nhảy lên chiếc môtô giấu sau nhà và phóng thẳng. Tôi lúc đó mới bước vào. ( run bắn người lên). Ông tôi chết rồi. Tôi bèn lấy tiền dưới gầm giường, tấm huân Chương của cha tôi cùng toàn bộ giấy tờ rồi trở về nhà bác Wallỵ Tôi hề hé răng với ông về những điều xảy ra và những điều tôi trông thấy. Chỉ có thế. Bây giờ làm ơn và để cho tôi dọn cơm cho bác Wally, được chứ?
      Tôi đứng dậy.
      - Cám ơn Johnnỵ Bây giờ mọi chuyện rồi.
      cũng đứng dậy và buông con gấu ra vẻ tiếc rẻ.
      - đến làm phiền chúng tôi nữa chứ?
      Tôi nhìn thẳng vào mắt và hỏi :
      - đập bằng cái gì vậy, Johnny?
      co dúm người lại mặt nhợt như tàu lá.
      - Tôi muốn gì vậy?
      - giết Weatherspoon, - tôi thầm. – Khi ta tới nhà ông để tìm chỗ giấu tiền, có mặt ở đó. chứng kiến dùng rìu đập phá lung tung. Rồi theo ra đầm nuôi ếch và đập ở đấy. ngã xuống đầm và chết đuối ở đó. Nhung khi ngã xuống kịp túm được bộ tóc giả của giữ nó trong tay khi rơi xuống nước.
      Như bị chặt mất chân, đổ ập xuống giường. lại cầm lấy con gấu và ôm chặt vào ngực.
      - Đó đúng là điều xảy ra, phải Johnny?
      diện của con gấu bông trong tay dường như mang lại cho sức mạnh. Nét mặt hồng hào trở lại và đôi mắt trở nên linh hoạt hơn. ngả người ra phía trước.
      - Đúng, tôi giết . Và tôi sung sướng vì điều đó. nghe rồi chứ? Tôi sung sướng. giết chết người ông mà tôi hằng ngưỡng mộ. Tôi cóc cần biết điều gì xảy đến với tôi! hãy mà báo lũ cớm ! Khi tôi nhìn chìm dần xuống nước, đó là giây phút tuyệt vời nhất của cuộc đời tôi. hãy ! mà gọi lũ cớm ! (Những giọt nước mắt chảy ròng ròng . bực tức lấy tay chùi ). Hãy và để chúng tôi yên! Tôi chờ bọn cớm ở đây. Tôi cũng ngán chui lủi lắm rồi.
      - Cuộc điều tra hôm nay về cái chết của Weatherspoon kết luận chết do tai nạn, - tôi cách bình tĩnh. – Đối với tôi, kết luận đó là tuyệt vời. thằng hủy hoại bao nhiêu con người bằng ma túy đáng sống. làm việc tốt, Johnny ạ.
      trố mắt nhìn tôi. muốn gì đó nhưng chợt dừng lại.
      - Tôi lòng chúc may mắn, Johnny ạ, - tôi . – Tôi hy vọng có cuộc sống hạnh phúc. (Tôi mỉm cười với ). còn trẻ, cuộc đời còn ở phía trước. Chúc thành công và hãy lảng xa cái xó Searle nhộn nhạo này .
      khóc nức nở và vẫy tay xua tôi đuổi tôi.
      - Hãy xéo cùng với những lời đạo đức giả của , - trong cơn nức nở.
      Tôi để ngồi khóc cùng con gấu bông của cộ Tôi cũng ghé vào chào ông Wallỵ Tôi ra khỏi nhà và tới chỗ đỗ xe. Tôi châm điếu thuốc và ngồi vào trong xe suy nghĩ.
      Ngày mai, tôi trao cho đại tá Parnell bản báo cáo của tôi. Nhưng tôi phải sửa đổi lại. Tôi cũng sao nó và đưa cho những người của cơ quan phòng chống ma túy, những người đến khám xét nhà máy và biệt thự của Syd Watkins. Họ phát ra đủ bằng chứng để tống Watkins và Raiz vào nhà đá. Tôi bất chợt tự hỏi rồi Stella ra sao. Tương lai của bà ta chắc là chẳng ngọt ngào gì, nhất là lại ở cái tuổi xế tà. Nhưng bà ta vốn là con người sắt đá và chắc bà ta chịu đựng được cú sốc này.
      Tôi với đại tá rằng tôi phát ra mạng lưới buôn bán ma túy, nhưng tìm được Johnny Jackson. Tôi hỏi ông có muốn cho tôi tiếp tục điều tra nữa hay . Vốn biết con người đại tá, tôi chắc rằng ông muốn tiếp tục chi thêm tiền nữa. Việc phát ra mạng lưới buôn bán ma túy là quá đủ với ông rồi. Ông biết cách dùng nó để tăng thêm danh tiếng cho hãng. Còn tôi, khi quay về Searle, tôi tính che đậy cho Johnny Jackson. Vậy là đến lượt mình, tôi cũng lại cho ta chiếc lá nho.
      END.

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :