Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Arnaldur Indriđason (45c)(Trinh Thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      17





      Rúnar ra mở cửa và nhìn Erlendur lúc mà nhận ra ông là ai. Erlendur đứng ở hành lang chung, ướt như chuột lột sau khi chạy từ chiếc xe vào đến tòa nhà. Bên phải ông là cầu thang dẫn lên căn hộ bên . Các bậc cầu thang được trải thảm, và những nơi bị mòn nhiều nhất là những chỗ mà người ta hay lại nhất. Trong khí thoảng mùi ẩm mốc, Erlendur băn khoăn biết những người thích ngựa có sống trong ngôi nhà đó . Erlendur hỏi Rúnar rằng ông ta có nhớ ông là ai , và Rúnar dường như nhớ lại, vì ngay lập tức ông ta cố đóng sầm cánh cửa lại, nhưng Erlendur nhanh hơn. Ông bước vào trong căn hộ trước khi Rúnar có thể làm gì.

      ấm áp,” Erlendur vừa vừa nhìn quanh gian mờ tối.

      “Hãy để tôi yên!” Rúnar cố hét vào mặt Erlendur, nhưng giọng ông ta vỡ ra và trở nên the thé.

      “Hãy dè chừng huyết áp của ông đấy. Tôi rất ghét phải hà hơi thổi ngạt nếu ông ngất đột ngột trước mặt tôi. Tôi cần hỏi ông thêm ít thông tin, sau đó tôi ngay, rồi ông có thể quay vào và chết ở đây cũng được. mất nhiều thời gian của ông đâu. Trông ông cũng giống với siêu sao của năm lắm đâu.”

      “Hãy cút !” Rúnar quát, tức giận hết mức có thể mà tuổi tác ông ta có thể chịu được, rồi quay vào phòng khách và ngồi ghế sofa. Erlendur theo sau ông ta và ngồi xuống cách nặng nhọc xuống chiếc ghế đối diện, Rúnar thèm nhìn ông.

      “Kolbrún có về vụ hiếp dâm khác khi ấy đến khai báo với ông về Holberg ?”

      Rúnar trả lời.

      “Càng trả lời sớm, ông càng thoát khỏi tôi nhanh hơn đấy.”

      Rúnar ngẩng lên và nhìn xoáy vào Erlendur.

      ta chưa bao giờ về vụ hiếp dâm nào khác. Ông được chưa?”

      “Chúng tôi có lý do để tin rằng Holberg cưỡng hiếp ai đó trước khi gặp Kolbrún. có thể chơi lại trò đó sau khi hiếp dâm ấy, chúng ta biết. Kolbrún là người phụ nữ duy nhất kiện thậm chí ngay cả khi có gì làm bằng chứng - nhờ có ông đấy.”

      “Biến !”

      “Ông có chắc chắn rằng Kolbrún đến người phụ nữ nào khác ? Có thể là Holberg khoe khoang với ấy về vụ hiếp dâm khác chẳng hạn.”

      ta chẳng gì đến chuyện đó cả,” Rúnar rồi nhìn xuống dưới bàn.

      “Holberg cùng với hai người bạn vào đêm hôm đó. trong hai người là Ellidi, tên tù già mà có thể ông cũng biết. ở trong tù, chiến đấu với ma quỷ trong căn phòng biệt giam. Người còn lại là Grétar. Gã biến mất khỏi trái đất vào mùa hè năm lễ hội quốc gia được tổ chức. Ông có biết gì về những người cùng Holberg ?”

      . Để tôi được yên!”

      “Họ làm gì trong thị trấn vào buổi tối mà Kolbrún bị cưỡng hiếp?”

      “Tôi biết.”

      “Ông chưa bao giờ chuyện với họ à?”

      “Chưa.”

      “Ai chịu trách nhiệm vụ điều tra ở Reykjavík?”

      Rúnar lần đầu tiên ngẩng lên nhìn mặt Erlendur.

      “Đó là Marion Briem.”

      “Marion Briem!”

      “Chính là con mụ ngu ngốc đó.”

      Elín ở nhà khi Erlendur gõ cửa, do vậy ông quay trở về xe, châm điếu thuốc và cân nhắc xem có nên tiếp tục chuyến đến Sandgerdi . Cơn mưa tầm tã trút xuống chiếc xe và Erlendur - người chưa bao giờ theo dõi chương trình dự báo thời tiết - băn khoăn biết khi nào tình trạng ẩm thấp này mới kết thúc. Có thể đây là phiên bản thu của trận lụt Noah, ông nghĩ bụng trong làn khói thuốc mỏng màu xanh. Đôi khi, có lẽ tội lỗi của con người cần phải được gột rửa.

      Erlendur sợ phải gặp lại Elín và khi biết rằng bà ở nhà ông cảm thấy nhõm hẳn. Ông biết rằng bà vẫn chưa tin tưởng mình và ông hề muốn chọc tức người phụ nữ đó, giống như khi bà gọi ông là “tên cớm khốn kiếp.” Nhưng chuyện đó thể tránh nổi. Hoặc là bây giờ, hoặc là về sau. Ông trút tiếng thở dài ngao ngán và rít điếu thuốc cho đến khi cảm thấy hơi nóng lan đến đầu ngón tay. Erlendur vẫn giữ điếu thuốc trong khi dập tắt nó, rồi thở ra nặng nhọc. dòng chữ trong cuộc đấu tranh chống thuốc lá chợt lướt qua tâm trí của ông: Bệnh ung thư có thể bắt đầu từ tế bào.

      Sáng nay ông lại cảm thấy cơn đau trong ngực, nhưng bây giờ biến mất.

      Erlendur quay xe ra khỏi ngôi nhà Elín gõ gõ lên cửa sổ.

      “Ông đến để gặp tôi à?” Câu hỏi cất lên từ dưới cái ô trong lúc Erlendur hạ cửa kính xuống.

      Erlendur nở nụ cười bí hiểm và khẽ gật đầu. Người phụ nữ mở cửa cho ông và đột nhiên Erlendur có cảm giác như kẻ phản bội. Những người khác trong đội lên đường đến nghĩa trang.

      Ông bỏ mũ và treo nó lên móc, rồi ông cởi áo mưa cùng giày rồi bước vào phòng khách trong bộ quần áo nhăn nhúm. Lúc này Erlendur mặc chiếc áo len đan tay màu nâu bên trong áo khoác, nhưng do ông chỉnh trang cẩn thận nên chẳng có cái lỗ nào để cài cái cúc dưới cùng cả. Ông ngồi vào cái ghế mà lần trước đến ông ngồi ở đó. Elín vào bếp để bật máy pha cà phê và mùi thơm bắt đầu tỏa khắp căn nhà. Khi quay trở lại, ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ông.

      Erlendur hắng giọng. “ trong số những người cùng Holberg vào thị trấn trong cái đêm hiếp Kolbrún có tên là Ellidi, bị tù ở Litla-Hraun. Chúng tôi bắt đầu gọi là “ trong số những nghi phạm thông thường” từ lâu rồi. Người thứ ba tên là Grétar. Gã mất tích vào năm 1974 - năm có đại lễ quốc gia.”

      “Hồi đó tôi có đến Thingvellir,” Elín . “Tôi có trông thấy các nhà thờ ở đó.”

      Erlendur lại hắng giọng lần nữa.

      “Vậy ông có chuyện với gã Ellidi này ?” Elín tiếp tục.

      “Đó công việc kinh tởm,” Erlendur trả lời.

      Elín xin lỗi, rồi đứng lên và vào bếp. Erlendur nghe thấy tiếng cốc kêu lách cách. Điện thoại của ông reo lên trong túi áo khoác và khi nghe máy, ông phải nín thở. Người gọi là Sigurdur Óli.

      “Chúng tôi sẵn sàng rồi,” Sigurdur Óli lên tiếng. Erlendur có thể nghe thấy tiếng mưa qua điện thoại.

      “Đừng có làm gì cho đến khi tôi về chỗ các ,” Erlendur . “ có hiểu ? Đừng có manh động gì cho đến khi nghe lệnh của tôi, nếu tôi đến đấy.”

      “Ông chuyện với bà già nhếch nhác đó chưa?”

      trả lời, Erlendur tắt máy và bỏ điện thoại vào túi. Elín bước vào, mang theo chiếc khay, đặt hai chiếc cốc lên bàn trước mặt Erlendur và bắt đầu rót cà phê vào đó. Cả hai cốc đều là cà phê đen. Bà đặt bình cà phê lên bàn và ngồi xuống đối diện với Erlendur. Ông lại bắt đầu .

      “Ellidi rằng Holberg cưỡng hiếp phụ nữ khác trước Kolbrún và có thể kể chuyện đó với ấy.” Ông quan sát thấy vẻ ngạc nhiên lên mặt Elín.

      “Nếu Kolbrún biết về ai đó khác nữa, em tôi cũng bao giờ kể cho tôi nghe,” bà đáp và trầm ngâm lắc đầu. “ đúng ?”

      “Chúng tôi điều tra giả thuyết đó,” Erlendur . “Ellidi quá căng thẳng và mệt mỏi, có thể dối. Nhưng chúng tôi có gì trong tay để bác bỏ những lời .”

      “Chị em tôi thường xuyên về vụ hiếp dâm,” Elín . “Tôi nghĩ rằng lý do là vì Audur. Trong số rất nhiều lý do khác nữa. Kolbrún là kín đáo, rụt rè và cởi mở thế nên nó càng trở nên khép kín sau những gì xảy ra. Và tất nhiên, việc về chuyện kia kinh tởm với em tôi khi mà con bé có thai, nhất là sau khi đứa trẻ ra đời. Kolbrún làm tất cả mọi điều có thể để quên rằng vụ hiếp dâm xảy ra. Tất cả mọi thứ để quên điều đó.”

      “Tôi nghĩ rằng nếu Kolbrún biết về người phụ nữ khác, ấy với cảnh sát để củng cố lời khai của mình, nếu ấy còn con đường nào khác. Nhưng Kolbrún hề đả động gì đến chuyện đó trong bất cứ báo cáo nào mà tôi đọc.”

      “Có thể em tôi muốn đến người phụ nữ đó,” Elín .

      “Bỏ qua ư?”

      “Kolbrún biết cảm giác bị hiếp dâm là như thế nào. Con bé biết cảm giác phải trình báo vụ hiếp dâm đó với cảnh sát là như thế nào. Em tôi phải lưỡng lự rất lâu và tất cả những gì nó nhận được lại là bẽ mặt. Nếu kia muốn trình báo có thể Kolbrún tôn trọng mong muốn của ấy. Tôi cho là vậy. Nhưng cũng rất khó , tôi biết là thực ra ông đến điều gì.”

      “Có thể ấy biết cách cụ thể mà chỉ là mối hoài nghi mơ hồ. Nếu như Holberg ám chỉ điều gì đó qua những gì .”

      “Em tôi chưa bao giờ với tôi những chuyện đại loại như vậy.”

      “Khi hai người về vụ cưỡng hiếp, hai người thường về những gì?”

      hẳn là về cái hành động cưỡng hiếp đó,” Elín trả lời.

      Điện thoại trong túi Erlendur lại reo và Elín dừng lại. Erlendur lôi điện thoại ra và thấy người gọi lại là Sigurdur Óli. Erlendur tắt máy vá ném nó ra chỗ.

      “Tôi xin lỗi.”

      “Những chiếc điện thoại này chẳng phải là rắc rối lắm sao?”

      “Chắc chắn là thế rồi,” Erlendur đáp. Ông sắp cạn thời gian. “Xin bà tiếp.”

      “Em tôi về chuyện mình Audur bao nhiêu. Họ có mối quan hệ đặc biệt, cho dù những chuyện xảy ra là vô cùng khủng khiếp. Audur là cả thế giới với Kolbrún. Tôi biết ra điều đó là tồi tệ, nhưng dường như em tôi muốn bỏ lỡ bất cứ điều gì mà người mẹ cần làm. Ông hiểu điều đó chứ? Thậm chí tôi còn nghĩ rằng nó coi Audur như đền bù, hoặc điều gì đó như thế, sau khi bị cưỡng hiếp. Tôi biết chuyện đó khó coi, nhưng như thể con bé là quà tặng Chúa trời ban cho em tôi trong tất cả những điều bất hạnh đó vậy. Tôi thể biết được em mình nghĩ gì, nó cảm nhận ra sao hay nó giữ những cảm xúc nào cho riêng mình. Tôi chỉ biết rất ít về điều đó và tôi dám mạo muội chuyện với nó. Dần dần, em tôi trở nên tôn thờ con bé bỏng của mình và chưa bao giờ rời mắt khỏi nó. Chưa bao giờ. Mối quan hệ của họ dính dáng chặt chẽ đến chuyện cũ, tuy nhiên Kolbrún bao giờ nghĩ về con bé theo khía cạnh liên quan đến con quái vật hủy hoại đời mình. Em tôi chỉ thấy Audur là đứa bé xinh xắn. Em tôi bảo vệ con mình cách quá mức và điều đó vượt lên cả cái chết và ngôi mộ, như các chữ khắc : “Xin hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch”.”

      “Bà có biết chính xác ý em bà thông qua những chữ đó là gì ?”

      “Đó là lời thỉnh cầu đến Chúa, nếu ông đọc kinh Psalm thấy, vốn dĩ có vài điều liên quan đến cái chết của con bé. Cách nó xảy ra thế nào và bi thảm ra sao. Kolbrún thể chịu đựng được ý nghĩ rằng Audur bị xét nghiệm tử thi. Em tôi thể lường được điều đó.”

      Erlendur lúng túng nhìn xuống sàn nhà nhưng Elín để ý.

      “Ông có thể dễ dàng hình dung ra,” Elín , “những điều mà Kolbrún phải trải qua kinh khủng, vụ hiếp dâm và sau đó là cái chết của con có ảnh hưởng trầm trọng đến tâm lý của nó. Kolbrún bị suy sụp thần kinh. Khi người ta bắt đầu về việc khám nghiệm tử thi, chứng hoang tưởng trong Kolbrún trỗi lên, trong thâm tâm, em tôi muốn bảo vệ Audur và coi bác sĩ như kẻ thù. Con của nó phải rơi vào những tình huống kinh khủng như thế và ra nhanh. Kolbrún cho rằng tất cả là ý Chúa. Em tôi muốn con bé được yên bình.”

      Erlendur đợi lát rồi mới bắt đầu.

      “Tôi nghĩ rằng mình là trong số những kẻ thù đó.”

      Elín nhìn ông, hiểu ông gì.

      “Tôi cho rằng chúng ta phải đào cái quan tài lên và thực khám nghiệm tử thi kỹ càng hơn nữa, nếu điều đó có thể thực được.”

      Erlendur ra điều này cách cẩn trọng hết sức có thể. Elín phải mất lúc mới hiểu được điều ông , và khi hiểu ra, bà nhìn ông, mắt dại .

      “Ông cái gì thế?”

      “Chúng ta có thể tìm ra nguyên nhân bé chết.”

      “Nguyên nhân ư? Đó phải là u não sao!”

      “Đó có thể là...”

      “Ông cái gì vậy? Đào con bé lên ư? Cháu tôi? thể tưởng tượng được! Tôi vừa mới với ông là...”

      “Chúng tôi có hai lý do.”

      “Hai lý do gì?”

      “Cho việc khám nghiệm,” Erlendur trả lời.

      Elín bật dậy và điên cuồng lại trong phòng. Erlendur ngồi yên và lùi sâu hơn vào cái ghế bành êm ái.

      “Tôi chuyện với các bác sĩ ở bệnh viện Keflavík. Họ thể nào tìm ra bất cứ báo cáo nào liên quan đến trường hợp của Audur trừ kết quả xét nghiệm tử thi tạm thời được viết bởi các vị bác sĩ thực cuộc khám nghiệm đó. Ông ta chết rồi. Năm Audur mất cũng là năm làm việc cuối cùng của ông ta ở bệnh viện. Ông ta chỉ đề cập đến bệnh u não và quy cái chết của Audur là do nguyên nhân đó. Tôi muốn biết loại bệnh nào dẫn đến cái chết của bé, liệu đó có phải là thứ bệnh di truyền .”

      “Bệnh di truyền ư! Tôi biết gì về loại bệnh di truyền nào cả.”

      “Chúng tôi cũng nghiên cứu điều đó với Holberg,” Erlendur . “ nguyên nhân nữa cho vụ khai quật là để chứng minh xem Audur có phải là con của Holberg . Người ta thực điều đó bằng cách xét nghiệm AND.”

      “Ông nghi ngờ điều đó?”

      hẳn là như vậy, nhưng điều đó cần phải được kiểm chứng lại.”

      “Tại sao?”

      “Holberg phủ nhận việc đứa trẻ là con mình. Ông ta rằng mình ngủ với Kolbrún trong chấp thuận của ấy nhưng xác nhận huyết thống. Khi vụ việc bị bỏ qua, người ta tìm ra bằng chứng nào để chứng minh hoặc bác bỏ điều đó. Em của bà bao giờ cầu những chuyện đại loại như vậy. ấy ràng chịu đủ rồi và chỉ muốn Holberg biến khỏi cuộc đời mình.”

      “Còn ai có thể là cha của Audur nữa?”

      “Chúng tôi cần kiểm chứng để điều tra vụ sát hại Holberg. Điều đó có thể giúp chúng tôi phần nào tìm ra câu trả lời.”

      “Vụ giết Holberg ư?”

      “Phải.”

      Elín đứng đó, đối diện Erlendur, nhìn chằm chằm vào ông.

      “Con quỷ đó lại sắp sửa đày đọa chúng tôi ngay cả khi xuống mồ phải ?”

      Erlendur định trả lời, nhưng bà tiếp tục.

      “Ông vẫn nghĩ rằng em tôi dối,” Elín . “Ông bao giờ tin con bé. Ông cũng chẳng hơn gì cái gã Rúnar ngu xuẩn kia. hơn tí nào!”

      Bà cúi xuống Erlendur lúc ấy ngồi ghế.

      “Lũ cảnh sát tàn bạo!” Bà rít lên. “Đáng lý ra tôi bao giờ nên để ông bước chân vào nhà tôi!”




      18





      Sigurdur Óli nhìn thấy đèn xe cảnh sát tiến lại gần và biết rằng đó là Erlendur. Cái máy đào đất kêu ùng ục bên cạnh ngôi mộ, sẵn sàng làm công việc của mình khi nhận được hiệu lệnh. Đó là máy đào , lúc nào cũng kêu bình bịch với những cú xóc mạnh. Những vết xích của nó kéo dài lớp bùn. Nó thải ra những cột khói đen mù và làm cho khí xung quanh ám mùi hôi của dầu mỡ.

      Sigurdur Óli và Elínborg đứng cạnh ngôi mộ cùng với bác sĩ pháp y, luật sư đến từ văn phòng Công tố, mục sư và ngưòi trông giữ nhà thờ, vài cảnh sát đến từ Keflavík và người đào thuê. Đám người đứng dưới mưa, ghen tị với Elínborg vì là người duy nhất có ô che, và Sigurdur Óli - người được đứng nửa người dưới cái ô đó. Họ thấy Erlendur mình khi ông ra khỏi ngôi nhà và chầm chậm tiến về phía họ. Họ có đủ giấy tờ cho phép tiến hành cuộc khai quật, nhưng điều này chỉ diễn ra khi có lệnh của Erlendur.

      Erlendur xem xét khu vực, thầm ân hận vì mạo phạm, phá hủy và giày xéo này. Bia đá của ngôi mộ được dỡ ra và đặt con đường gần đó. Cạnh đó là cái bình màu xanh với cái chân đế dài có thể chôn xuống đất. Cái bình cắm bó hoa hồng và Erlendur thầm nghĩ rằng chắc chắn Elín đặt nó lên ngôi mộ. Ông dừng lại, đọc lại dòng chữ khắc lần nữa và lắc đầu. Cái cọc bằng gỗ màu trắng nhằm đánh dấu ngôi mộ, trước đây được cắm nhô lên khỏi mặt đất chừng hai mươi phân giờ đây nằm bên cạnh bia mộ, gẫy nát. Erlendur nhìn thấy loại hàng rào bao quanh mộ của trẻ em, và việc chứng kiến cảnh nó bị vùi dập thế này khiến lòng ông nhói đau. Erlendur nhìn lên bầu trời đen mù mịt. Nước mưa chảy từ vành mũ của ông xuống tận vai và ông liếc nhìn trong màn mưa sầm sập trút xuống. Ông nhìn nhóm người đứng bên cạnh cái máy đào, cuối cùng nhìn sang Sigurdur Óli gật đầu. Sigurdur Óli ra hiệu với người điều khiển. Cái gầu xúc vươn lên trung rồi đâm thẳng xuống nền đất xốp.

      Erlendur nhìn cái máy đào xới tung những nỗi đau kéo dài suốt ba mươi năm qua. Ông nhăn mặt trước mỗi cú xúc đất của cái gầu. Đống đất cứ dần cao lên, cái hố mỗi lúc sâu hơn trong khi trời mỗi lúc tối dần. Erlendur đứng cách xa chút và nhìn cái máy đào sâu hơn vào vết thương ấy. Bất thình lình ông có cảm giác ngờ ngợ như mình từng chứng kiến tất cả những cảnh này trong giấc mơ và bất thình lình cảnh tượng diễn ra trước mắt ông giống y như khí trong mơ: các cộng của ông đứng đó, nhìn vào ngôi mộ, những người đào mộ thuê mặc quần áo màu cam tì người lên xẻng, vị mục sư mặc chiếc áo mưa lớn màu đen, mưa đổ rào rào xuống mộ và quay ngược lại ứ tràn vào chiếc gầu xúc như thể là cái hố chảy máu.

      Có phải ông mơ chính xác như thế này ?

      Sau đó cảm giác ấy qua , và như thường lệ, khi có chuyện gì đó tương tự xảy ra, ông thể hiểu được nó đến từ đâu, và tại sao ông lại cảm thấy như mình sống lại những kiện chưa từng xảy ra trước đây. Erlendur tin vào linh cảm, điềm báo hay mơ mộng, cũng tin vào đầu thai hay nghiệp chướng, ông tin vào Chúa cho dù ông thường xuyên đọc Thánh kinh, ông cũng tin vào cuộc sống vĩnh hằng hoặc là chuyện những việc ông làm trong thế giới này quyết định xem ông được lên thiên đàng hay bị đày vào địa ngục. Ông cảm thấy bản thân cuộc sống hỗn hợp của hai thành tố ấy.

      Đôi khi ông trải qua ngờ ngợ khó hiểu và siêu nhiên này, trải qua những thời gian và địa điểm như thể là ông chứng kiến tất cả trước đó, như thể ông bước ra khỏi cơ thể mình và trở thành người chứng kiến cuộc đời của chính mình. có cách nào giúp ông giải thích được chuyện xảy ra như thế nào hay tại sao trí óc lại lường gạt mình theo kiểu đó.

      Erlendur quay trở về thực tế khi chiếc gầu xúc chạm tới nắp quan tài và tiếng “cạch” trống rỗng vang lên từ sâu trong ngôi mộ. Ông tiến gần thêm bước. Qua làn mưa tầm tã trút xuống cái hố, ông lờ mờ nhìn thấy hình dạng chiếc quan tài.

      “Cẩn thận!” Erlendur hét lên với người điều khiển máy đào, hai tay vung lên khí.

      Qua khóe mắt, Erlendur nhìn thấy ánh đèn pha ô tô tiến lại gần. Tất cả nhìn lên theo hướng ánh đèn và thấy chiếc xe trong mưa rồi dừng lại ở cổng nghĩa trang. bà già mặc áo mưa màu xanh bước ra, họ để ý thấy chiếc xe có gắn biển taxi nóc. Chiếc taxi lái và người phụ nữ lao đến chỗ ngôi mộ. Ngay khi Erlendur nằm trong tầm nghe, bà ta bắt đầu hét lên và giơ nắm tay về phía ông.

      “Đồ cướp mộ!” Elín gào lên. “Lũ cướp mộ! Lũ vồ người!”

      “Giữ bà ta lại,” Erlendur điềm tĩnh với những người cảnh sát tiến về phía Elín để ngăn bà ta lại trong lúc bà ta chỉ còn cách ngôi mộ có vài mét. Người phụ nữ cố gắng chống trả trong cơn giận dữ điên cuồng, nhưng họ giữ chặt hai khuỷu tay và khống chế được bà.

      Hai công nhân đào thuê leo xuống mộ, mang theo xẻng của mình, đào xung quanh chiếc quan tài và đặt dây thừng bên dưới nó. Chiếc quan tài còn khá nguyên vẹn. Nước mưa tràn lên nắp và rửa trôi đất cát dính bên .

      Erlendur hình dung trước đây chiếc quan tài có màu trắng. chiếc quan tài loại tốt màu trắng với tay nắm bằng đồng và chữ thập nắp. Hai người đàn ông thắt chặt sợi dây vào cái gầu của máy đào, sau đó cái máy từ từ nhấc chiếc quan tài lên mặt đất. Nó vẫn còn nguyên khối nhưng trông có vẻ cực kỳ mỏng manh. Elín thôi còn chống trả và chửi bới ông nữa. Bà bắt đầu khóc khi chiếc quan tài trắng ra và im lìm treo sợi dây ngôi mộ trước khi được hạ xuống đất.

      Vị mục sư tiến lại gần, làm dấu thánh lên đó và lầm rầm cầu nguyện. chiếc xe tải chầm chậm lùi và dừng lại. Hai công nhân tháo sợi dây, nâng chiếc quan tài đặt lên xe tải rồi đóng cửa lại. Elínborg ngồi lên ghế trước bên cạnh người lái xe, ông ta khởi động động cơ rồi tiến qua cổng nghĩa trang, chầm chậm xuống đường cho đến khi chiếc đèn hậu màu đỏ biến mất trong làn mưa dày đặc.

      Vị mục sư đến chỗ Elín và cầu hai cảnh sát để bà ta . Họ thực điều đó ngay lập tức. Vị linh mục hỏi xem liệu ông có thể giúp gì cho bà . Họ biết nhau rất chuyện thầm với nhau. Dường như Elín bình tĩnh hơn. Erlendur và Sigurdur Óli nhìn nhau và nhìn xuống ngôi mộ. Nước mưa bắt đầu phủ kín đáy mộ.

      “Tôi chỉ muốn dừng việc báng bổ ghê gớm này lại,” Erlendur nghe Elín với vị mục sư. Ông nhõm chút khi thấy Elín bình tĩnh lại. Ông về phía bà ta Sigurdur Óli theo ngay bên cạnh.

      “Tôi bao giờ tha thứ cho ông về chuyện này,” Elín với Erlendur. Vị mục sư đứng bên cạnh bà. “ bao giờ!”

      “Tôi hiểu,” Erlendur , “nhưng vụ điều tra phải được ưu tiên.”

      “Vụ điều tra? Chết mẹ nó cái vụ điều tra của ông !!!” Elín hét lên. “Các ông mang thi hài con bé đâu?”

      “Đến Reykjavík.”

      “Vậy khi nào các ông mang nó trở lại?”

      “Hai ngày nữa.”

      “Hãy nhìn xem các ông làm gì với ngôi mộ của con bé.” Elín với giọng nhẫn nhục, như thể bà vẫn chưa hiểu biết được chuyện gì diễn ra. Bà qua Erlendur đến chỗ bia đá và những gì còn lại của hàng rào, lọ hoa và lồng mộ trống hoác.

      Erlendur quyết định cho bà ta biết về lời nhắn tìm thấy trong căn hộ của Holberg.

      lời nhắn được để lại trong nhà Holberg khi chúng tôi phát ra ông ta,” Erlendur , theo sau Elín. “Chúng tôi thể hiểu được gì nhiều về nó cho đến khi tìm thấy bức ảnh ngôi mộ Audur, và chúng tôi chuyện với bác sĩ cũ của bé. Những kẻ giết người Iceland thường để lại bất cứ thứ gì ngoại trừ mớ hỗn độn, nhưng kẻ giết Holberg lại muốn đưa cho chúng tôi thứ gì đó để hành hạ bộ não chúng tôi. Khi ông bác sĩ ấy về khả năng của bệnh di truyền, lời nhắn bỗng trở nên có ý nghĩa nào đó. Cũng theo những gì mà Ellidi cho tôi biết trong tù, Holberg có họ hàng thân thích nào còn sống. Ông ta có người em chết năm lên chín tuổi. Sigurdur Óli đây,” Erlendur và chỉ tay về phía đồng nghiệp của mình, “ tìm ra những báo cáo y khoa về người em đó. Ellidi đúng. Cũng giống như Audur, ta chết vì bệnh u não. Rất có thể là từ cùng bệnh.”

      “Ông đến cái gì cơ? Lời nhắn để lại là gì?” Elín hỏi.

      Erlendur lưỡng lự. Ông nhìn Sigurdur Óli, ta lúc đầu nhìn Elín rồi sau lại nhìn qua Erlendur.

      “Tôi là ông ta,” Erlendur .

      “Ý ông là sao?”

      “Đó là nội dung lời nhắn: “Tôi là ông ta” với từ cuối cùng “HIM” viết hoa.”

      “Tôi là ông ta,” Elín nhắc lại. “Điều đó có nghĩa là gì?”

      “Thực rất khó nhưng tôi băn khoăn biết nó có ám chỉ mối liên hệ nào ,” Erlendur trả lời. “Người viết “Tôi là ông ta” chắc hẳn phải cảm thấy rằng mình có điểm gì đó chung với Holberg. Đó có thể là ý nghĩ kỳ quặc của vài tên dở hơi nào đó. Hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ rằng căn bệnh giúp chúng ta. Chúng ta phải tìm ra chính xác căn bệnh đó là gì.”

      “Loại liên hệ như thế nào?”

      “Theo các ghi chép, Holberg có con cái nào. Audur cũng được đặt theo tên ông ta. Tên họ của bé là Kolbrúnardóttir. Nhưng nếu điều Ellidi , rằng Holberg hiếp nhiều phụ nữ nữa kể Kolbrún, những người tố cáo, có thể ông ta có những đứa con khác. Rằng Kolbrún phải là nạn nhân duy nhất có con với ông ta. Chúng tôi thu hẹp phạm vi tìm kiếm nạn nhân ở Húsavík vào những người phụ nữ có con trong khoảng thời gian nhất định và hy vọng rằng việc này sớm có kết quả.”

      “Ở Húsavík sao?”

      “Nạn nhân trước đó của Holberg là ở Húsavík, dường như là vậy.”

      “Thế ông bệnh di truyền nghĩa là thế nào?” Elín hỏi. “Loại bệnh như thế nào? Đó có phải là chứng bệnh giết chết Audur ?”

      “Chúng tôi phải xét nghiệm Holberg để khẳng định xem ông ta có phải là cha Audur và ráp nối các dữ liệu lại. Nhưng nếu giả thuyết này là đúng, đó có thể là loại bệnh hiếm gặp, di truyền qua gen.”

      “Và Audur bị bệnh đó ư?”

      “Có thể là chết quá lâu nên kết quả được như mong muốn, nhưng đó là điều mà chúng tôi muốn tìm ra.”

      Lúc này họ đến nhà thờ, Elín bên cạnh Erlendur còn Sigurdur Óli theo sau họ. Elín dẫn đường. Nhà thờ mở cửa, họ vào trong tránh mưa và đứng ở phòng chờ, nhìn ra ngày mùa thu ảm đạm.

      “Tôi nghĩ rằng Holberg là cha của Audur,” Erlendur . “Thực ra tôi có lý do gì để nghi ngờ lời bà cũng như những gì em với bà. Nhưng chúng ta cần chứng thực. Điều đó là thiết yếu đối với cuộc điều tra. Nếu căn bệnh đó là do di truyền từ Holberg sang Audur, nó cũng có thể ở đâu đó nữa. Có thể là căn bệnh đó liên quan đến vụ giết Holberg.”

      Họ để ý thấy có chiếc xe từ từ lái ra khỏi nghĩa trang, men theo con đường mòn, đèn của nó tắt hết, chỉ có thể thấy trong bóng tối. Khi đến Sandgerdi, nó tăng tốc, đèn trước bật lên và nhanh chóng đuổi kịp chiếc xe tải chở chiếc quan tài. đường Keflavík, người lái xe phải đảm bảo chắc chắn rằng mình cách xe tải từ hai đến ba xe. Nhưng đường này, bám sát chiếc xe cho đến tận Reykjavík.

      Khi chiếc xe tải dừng lại ở trước nhà xác đường Barónsstígur, đỗ lại cách xa đó rồi theo dõi chiếc quan tài được đưa vào tòa nhà và cánh cửa đóng sập ngay sau đó. theo dõi cho đến khi chiếc xe tải lái và thấy người phụ nữ áp tải chiếc quan tài lên chiếc taxi rời nhà xác.

      Khi mọi thứ trở lại yên lặng, lái xe .








      19





      Marion Briem mở cửa cho ông. Erlendur đến mà báo trước, ông thẳng từ Sandgerdi đến đây và quyết định chuyện với Marion trước khi về nhà. Lúc đó là sáu giờ chiều, trời tối đen như mực. Marion mời ông vào nhà và xin lỗi vì nhà cửa hơi bừa bộn. Đó là căn hộ gồm phòng khách, phòng ngủ, nhà tắm và bếp. Nó cho thấy cẩu thả của người khi sống độc thân, trông chẳng khác gì căn hộ của Erlendur. Báo, tạp chí và sách vở vứt lung tung khắp nơi, thảm trải sàn rách rưới và bẩn thỉu, cốc chén bẩn xếp thành chồng bồn rửa bát.

      Ánh sáng phát ra từ chiếc đèn bàn nỗ lực cách yếu ớt để thắp sáng căn phòng tối tăm. Marion bảo Erlendur lấy tờ báo ghế trải xuống sàn để lấy chỗ ngồi.

      “Bà với tôi rằng bà có liên quan đến vụ việc hồi đó,” Erlendur .

      “Đó phải là trong số những thành tích nổi bật của tôi,” Marion đáp, lấy ra điếu thuốc rê từ cái hộp, với những ngón tay thon gầy, nét mặt bi thương, cái đầu lớn cơ thể mảnh khảnh.

      Erlendur từ chối lời mời hút thuốc, ông biết rằng Marion vẫn quan tâm đến những vụ án thú vị, tìm kiếm thông tin từ đồng nghiệp - những người vẫn làm việc cho cảnh sát và thậm chí thi thoảng còn xen vào công việc của họ nữa.

      “Ông muốn biết thêm về Holberg,” Marion .

      “Cả những người bạn của ông ta nữa,” Erlendur và ngồi xuống sau khi phủi bụi ở chồng báo bên cạnh. “Và cả về Rúnar ở Keflavík nữa.”

      “Phải rồi, cả về Rúnar ở Keflavík nữa,” Marion . “Có lần ông ta định giết tôi.”

      “Bây giờ ông ta dám nữa đâu, cái gã tàn phế già nua ấy,” Erlendur .

      “Vậy là ông gặp ông ta,” Marion . “Ông ta bị ung thư, ông biết điều đó chứ? Vấn đề được tính bằng tuần chứ phải tháng đâu.”

      “Tôi biết chuyện đó,” Erlendur trả lời và nhớ lại khuôn mặt gầy trơ xương của Rúnar, giọt mồ hôi rỉ nơi đầu mũi ông ta khi ông ta dọn lá trong vườn.

      “Ông ta có những người bạn có thế lực khó tin ở Bộ. Đó là lý do tại sao ông ta vẫn trụ được. Tôi đề nghị đuổi việc, nhưng người ta lại chỉ cảnh báo ông ta.”

      “Bà có nhớ gì về Kolbrún ?”

      “Nạn nhân đáng thương nhất mà tôi từng gặp trong đời,” Marion trả lời.

      “Tôi biết ấy lắm, nhưng tôi biết rằng ấy thể dối bất cứ điều gì. ấy buộc tội Holberg và kể lại việc bị Rúnar đối xử như thế nào, như ông biết đấy. Trong vụ của Rúnar, lời của ấy chống lại ông ta, những lời đó rất thuyết phục, ông ta nên cầu ấy quay về nhà, có quần lót hay có quần lót. Holberg hiếp ấy. Điều đó là ràng. Tôi để họ đối diện với nhau, Holberg và Kolbrún. Và chẳng còn nghi ngờ gì nữa.”

      “Bà bắt họ phải gặp nhau?”

      “Đó là sai lầm. Tôi nghĩ rằng điều đó có ích. Người phụ nữ tội nghiệp ấy.”

      “Như thế nào cơ?”

      “Tôi dàn xếp vụ đó như tình cờ. Tôi nhận ra... Tôi nên với ông điều này. Tôi bế tắc trong công tác điều tra. ấy đằng, Holberg nẻo. Tôi gọi cả hai đến cùng lúc và phải đảm bảo là họ gặp nhau.”

      “Thế chuyện gì xảy ra?”

      ấy bị kích động và chúng tôi phải gọi bác sĩ. Tôi chưa từng gặp chuyện nào tương tự như thế trước đó và cả sau này.”

      “Thế còn ta?”

      “Chỉ đứng đó và cười nhe răng.”

      Erlendur yên lặng lát.

      “Bà có nghĩ rằng đó là con ta ?”

      Marion nhún vai. “Kolbrún luôn luôn khẳng định điều đó.”

      “Kolbrún có bao giờ chuyện với bà về người phụ nữ khác cũng bị Holberg hiếp ?”

      Erlendur nhắc lại những gì mà Ellidi kể với mình và nhanh chóng tóm lược toàn bộ quá trình điều tra. Marion Briem ngồi yên lặng hút thuốc và lắng nghe, bà nhìn chăm chăm vào Erlendur với cặp mắt , tỉnh táo và sắc sảo. Chúng chưa bao giờ để lỡ điều gì. Chúng thấy người đàn ông luống tuổi với những nếp nhăn thâm quầng dưới mắt, râu mọc lởm chởm má mấy ngày chưa cạo, cặp lông mày chìa ra, mái tóc vàng hoe rậm rạp chĩa ra đủ hướng, hàm răng chắc khỏe đôi lúc lộ ra dưới đôi môi xám xịt, vẻ ngoài mệt mỏi từng chứng kiến tất cả những gì bẩn thỉu nhất của tội ác con người. Cặp mắt của Marion Briem bộc lộ niềm thương cảm rệt và hiểu rằng chúng nhìn vào bản sao của chính mình.

      Erlendur làm việc dưới hướng dẫn của Marion Briem khi ông bắt đầu làm cho Cục điều tra hình . Tất cả những gì ông học được trong những năm đầu tiên ấy là từ Marion Briem. Cũng giống như Erlendur, Marion chưa bao giờ là nhân viên cao cấp và luôn luôn thực các vụ điều tra thông thường nhưng lại có vốn kinh nghiệm khổng lồ. trí nhớ siêu phàm bao giờ bị bào mòn dù chỉ là chút cùng với thời gian. Tất cả những gì được nhìn và nghe thấy đều được phân loại, ghi lại và lưu trữ trong bộ não Marion, sau đó chúng được bà triệu tập lại mà mất chút sức lực nào khi cần thiết. Marion có thể nhớ lại những vụ án cũ với những chi tiết nhặt nhất, bà là nguồn thông thái về mọi khía cạnh của ngành tội phạm học ở Iceland. Những năng lực suy luận sắc bén kết hợp với cái đầu làm việc logic.

      Trong công việc, Marion Briem là bà già mô phạm, nghiêm khắc và khó chịu quá mức, như có lần Erlendur với Eva Lind khi câu chuyện phát sinh. kẽ nứt sâu xuất giữa ông và người hướng dẫn thông thái của mình trong rất nhiều năm đến mức họ hiếm khi với nhau lời nào. Erlendur cảm thấy rằng theo cách khó hiểu nào đó, ông làm Marion thất vọng. Chuyện ấy ngày càng trở nên ràng cho đến khi người hướng dẫn của ông cuối cùng cũng về hưu, và điều này khiến ông cảm thấy dễ chịu.

      Sau khi Marion nghỉ hưu, mối quan hệ giữa họ dường như trở nên bình thường. Căn thẳng giãn dần và kình địch cũng theo đó mà ít nhiều biến mất.

      “Đó là lý do tại sao tôi muốn đến gặp bà để hỏi xem bà có còn nhớ gì về Holberg, Ellidi và Grétar ,” Erlendur kết thúc câu chuyện.

      “Ông trông mong việc tìm ra Grétar sau từng ấy năm à?” Marion hỏi với giọng ngạc nhiên.

      Erlendur buông ánh nhìn đầy lo ngại.

      “Bà điều tra được tới đâu rồi?”

      “Tôi chưa bao giờ điều tra đến đâu cả, đó chỉ là nhiệm vụ bán thời gian,” Marion trả lời. Erlendur thoáng hân hoan khi nhận thấy dấu hiệu của hối lỗi nơi bà. “Có thể gã biến mất vào khoảng cuối tuần lễ hội quốc gia ở Thingvellir. Tôi chuyện với mẹ và bạn bè của gã, Ellidi và Holberg, cả những người cùng làm với gã nữa. Grétar làm công nhân bốc vác cho Eimskip. Mọi người nghĩ rằng có thể gã rơi xuống biển. Nếu gã ngã xuống đống hàng hóa, người ta rằng họ thể tìm thấy gã.”

      “Holberg và Ellidi ở đâu trong khoảng thời gian Grétar mất tích? Bà có nhớ ?”

      “Họ đều rằng mình ở lễ hội và chúng tôi có thể xác minh điều đó. Nhưng tất nhiên thời gian chính xác mà Grétar mất tích là ràng. ai nhìn thấy gã trong vòng hai tuần khi mẹ gã gặp chúng tôi. Ông nghĩ gì vậy? Ông có hướng mới cho vụ Grétar ư?”

      ,” Erlendur trả lời. “Và tôi định tìm gã. Miễn là gã bất thình lình xuất và giết người bạn cũ Holberg của mình ở Nordurmýri gã có thể biến mất mãi mãi, tôi chả quan tâm. Tôi cố gắng tìm ra loại nhóm của họ, Holberg, Ellidi và Grétar ấy.”

      “Bọn chúng là cặn bã thôi. Tất cả bọn chúng. Ellidi ông biết rồi. Grétar cũng chẳng khá hơn, có vẻ là tên hèn nhát. Tôi có lần phải giải quyết vụ cướp liên quan đến gã và tôi thấy dường như đó là khởi đầu cho nghiệp trộm cắp lâm ly của gã. Cả ba cùng làm cho Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng. Đó là lý do tại sao chúng lại gặp nhau. Ellidi là kẻ tàn bạo ngu xuẩn, sẵn sàng đánh nhau bất cứ khi nào có cơ hội. Tấn công những người yếu thế hơn. Chẳng có gì thay đổi cả, tôi tin là vậy. Còn Holberg là loại đầu sỏ. Kẻ ma mãnh nhất. thoát khỏi vụ Kolbrún cách nhàng. Hồi đó, khi tôi bắt đầu hỏi về , người ta lưỡng lự . Grétar chỉ là kẻ nhu nhược bám theo hai tên kia, rụt rè, hèn nhát. Nhưng tôi có cảm giác đó chỉ là cái vẻ bề ngoài vậy thôi.”

      “Thế Rúnar và Holberg có biết nhau trước đó ?”

      “Tôi nghĩ thế.”

      “Chúng tôi vẫn chưa công bố chuyện này,” Erlendur , “nhưng chúng tôi tìm ra lời nhắn thi thể Holberg.”

      lời nhắn ư?”

      “Tên sát nhân viết “Tôi là ông ta” mẩu giấy và để lại nó mình Holberg.”

      “Tôi là ông ta á?”

      phải là nó ám chỉ rằng chúng có liên quan đến nhau sao?”

      “Trừ khi đó là kẻ mang ảo tưởng mình là Đấng cứu thế. kẻ cuồng tín.”

      “Tôi lại cho đó là mối liên hệ họ hàng.”

      “ “Tôi là ông ta?” thế là có ý gì nhỉ? Ý nghĩa của nó là gì?”

      “Giá mà tôi biết được,” Erlendur .

      Erlendur đứng lên và đội mũ, rằng mình phải về nhà. Marion hỏi thăm tình hình của Eva Lind, ông trả lời rằng con bé giải quyết việc riêng của mình. Marion tiễn ông ra đến cửa và họ bắt tay nhau. Khi Erlendur xuống bật cửa, Marion gọi giật lại.

      “Erlendur! Chờ chút , Erlendur!”

      Erlendur quay lại và nhìn lên chỗ Marion đứng thềm cửa, ông nhận ra cái cách mà tuổi tác để lại dấu ấn lên tôn trọng giữa hai người, cái cách mà những tấm lưng còng xuống có thể làm giảm lòng tự kiêu, và cái cách gương mặt đầy nếp nhăn phải chịu đựng cuộc đời vất vả... lâu lắm rồi ông đến căn hộ này và trong khi ngồi đối diện với Marion, ông suy nghĩ về đối xử của thời gian với con người.

      “Đừng để những gì mà ông tìm ra về vụ Holberg ảnh hưởng quá nhiều đến mình,” Marion . “Đừng để ta giết chết bất kỳ phần nào đó của ông mà ông muốn mất. Đừng để ta chiến thắng. Thế thôi.”

      Erlendur đứng dưới mưa, biết lời khuyên này có nghĩa là gì. Marion Briem gật đầu với ông.

      “Vụ cướp nào thế?”

      “Vụ cướp ư?” Marion hỏi trong lúc mở lại cánh cửa.

      “Vụ cướp mà Grétar thực ấy. ăn cắp thứ gì?”

      hiệu ảnh. có dính líu đến ảnh,” Marion Briem trả lời. “ chụp ảnh.”

      Hai gã đàn ông, cả hai cùng mặc áo khoác da và giầy da đen thắt dây đến bắp chân, gõ cửa nhà Erlendur trong lúc ông gật gù chiếc ghế bành buổi tối hôm đó. Ông trở về nhà, gọi Eva Lind nhưng nhận được câu trả lời, sau đó ngồi xuống ăn phần gà được đặt chiếc ghế mà tối hôm trước ông ngủ đó. Hai gã đàn ông đến tìm Eva Lind. Erlendur chưa từng nhìn thấy chúng trước đây và cũng chưa gặp con mình kể từ hôm con bé nấu cho ông món thịt hầm. Trông chúng có vẻ độc ác khi hỏi Erlendur xem có thể gặp Eva Lind ở đâu và cố gắng nhòm vào trong nhà mà đẩy ông qua bên. Erlendur hỏi lý do tại sao chúng muốn gặp con mình nhưng chúng lại hỏi ông có giấu trong nhà , đồ lão già bẩn thỉu. Erlendur hỏi chúng có phải đến để đòi nợ , chúng bảo ông xéo ra, ông đuổi chúng cút . Chúng chửi ông là đồ ăn cứt. Khi ông chuẩn bị đóng cửa, trong hai kẻ đó chặn đầu gối vào cánh cửa. “Con mày là con điếm khốn nạn!” hét lên. mặc quần dài bằng da thuộc.

      Erlendur thở dài. Đó quả ngày dài và tồi tệ.

      Ông nghe thấy tiếng đầu gối tên kia kêu răng rắc khi cánh cửa đóng sầm vào nó với sức mạnh khủng khiếp đến nỗi cái bản lề bên khung cửa bị long hẳn ra.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      20





      Sigurdur Óli phân vân biết nên đặt câu hỏi như thế nào. giữ bản danh sách tên mười người phụ nữ từng sống ở Húsavík trước và sau năm 1960 rồi sau đó lại chuyển về Reykjavík. Hai người trong số đó chết. Hai người có con. Sáu người còn lại đều làm mẹ trong giai đoạn vụ cưỡng hiếp có khả năng xảy ra. Sigurdur Óli đường đến gặp người thứ nhất. Bà ta sống ở Barmahlíd, li dị và có ba đứa con trưởng thành.

      Nhưng làm thế nào để có thể đặt câu hỏi với những người phụ nữ trung niên này? “Xin lỗi, thưa bà, tôi là cảnh sát và tôi được đề cử đến đây để hỏi xem liệu bà có bị cưỡng hiếp ở Húsavík khi bà sống ở đó ” ư? thử điều đó với Elínborg, có danh sách tên mười người phụ nữ ấy, nhưng hiểu được vấn đề.

      Sigurdur Óli coi đó là việc làm vô ích mà Erlendur đề ra. Thậm chí nếu Ellidi và cả thời gian lẫn địa điểm đều trùng khớp và cuối cùng họ cùng tìm ra người phụ nữ sau quá trình điều tra lâu dài, điều gì đảm bảo là bà ta tiếp về vụ hiếp dâm? Bà ta giữ kín chuyện đó suốt cuộc đời mình. Vậy sao bà ta phải ra chuyện đó lúc này? Tất cả những gì mà bà ta cần , khi Sigurdur Óli hay bất cứ thám tử nào mang theo bản danh sách như thế và đến gõ cửa nhà họ, là “”, và chẳng biết gì hơn là “xin lỗi làm phiền bà”. Thậm chí nếu họ có tìm ra người phụ nữ, chẳng có gì đảm bảo rằng việc bà ta có đứa con là kết quả của vụ cưỡng hiếp cả.

      “Đó là câu hỏi cần trả lời, nên sử dụng chiến thuật tâm lý,” Erlendur khi Sigurdur Óli cố gắng làm cho ông nhận ra được vấn đề. “Cố gắng vào nhà họ, ngồi xuống, uống cà phê, trò chuyện và cố gắng chuyện tầm phào lúc.”

      “Tâm lý!” Sigurdur Óli khịt mũi khi bước ra khỏi xe ở Barmahlíd và nghĩ về nàng sống cùng mình, Bergthóra. thậm chí còn biết cách sử dụng tâm lý như thế nào với ta nữa. Họ gặp nhau trong những dịp bất thường cách đây vài năm, khi mà Bergthóra là nhân chứng trong vụ khó và sau thời gian lãng mạn, họ quyết định dọn về sống cùng nhau. Dường như họ khá hợp nhau, có những sở thích chung và cả hai đều thích làm cho căn nhà mình sống trở nên đẹp đẽ với những bộ đồ nội thất và đồ nghệ thuật độc, những kẻ “yuppie”[2] đích thực. Họ luôn luôn hôn nhau mỗi khi làm về. Tặng nhau những món quà , thậm chí còn mở cả chai rượu. Thỉnh thoảng họ lên giường luôn sau khi làm về, nhưng gần đây chuyện đó ít xảy ra hơn.

      Đó là sau khi tặng đôi ủng cao su Fennish rất bình thường nhân dịp sinh nhật. cố gắng cười toe toét miệng nhưng vẻ hoài nghi tin nổi lên mặt quá lâu và biết có vấn đề gì đó. Cuối cùng, khi mỉm cười, đó là sai lầm.

      “Bởi vì chẳng có đôi nào cả,” .

      chưa có đôi ủng cao su nào kể từ khi ... mười tuổi,” trả lời.

      hài lòng ư?”

      nghĩ rằng chúng tuyệt,” Sigurdur Óli đáp, biết rằng mình trả lời vào câu hỏi. cũng biết điều đó. “, cách nghiêm túc,” bổ sung thêm và có thể cảm nhận được mình tự chôn mình vào nấm mồ lạnh lẽo, “nó tuyệt vời.”

      thích chúng,” ủ ê.

      “Chắc chắn là có mà,” , vẫn còn tràn trề thất vọng vì thể nghĩ đến cái đồng hồ đeo tay trị giá 30.000 króna mà tặng hôm sinh nhật. mua nó sau tuần săn lùng trong toàn thị trấn và bàn bạc rất nhiều với những nhà sản xuất đồng hồ về thương hiệu, kỹ thuật mạ vàng, máy móc, dây đeo, độ chống thấm nước, những đồng hồ Thụy Sĩ và đồng hồ đánh chuông. áp dụng tất cả những kỹ năng thám tử của mình để tìm ra chiếc đồng hồ xứng đáng, cuối cùng cũng tìm ra và thực ngây ngất, niềm vui và hạnh phúc của là hoàn toàn .

      Sau đó ngồi trước mặt với nụ cười đóng băng mặt và cố tỏ ra vui mừng quá mức, nhưng đơn giản là thể làm được chuyện đó suốt cả cuộc đời mình.

      “Tâm lý ư?” Sigurdur Óli khịt mũi lần nữa. nhấn chuông khi đến cửa nhà người phụ nữ đầu tiên ở Barmahlíd và hỏi cách tâm lý nhất có thể, nhưng thất bại thảm hại. Trước khi nhận ra điều đó, bối rối hỏi người phụ nữ xem liệu bà ta có từng bị cưỡng hiếp hay .

      “Ông cái quái gì thế?” Người phụ nữ , mặt đằng đằng sát khí, các ngón tay xiết chặt đầy hung dữ. “Ông là ai? Ông là cái kẻ khốn nạn nào vậy?”

      , xin lỗi bà,” Sigurdur Óli và quay ra cầu thang trong nửa giây.

      Elínborg may mắn hơn, bởi vì tập trung tâm trí cho công việc nhiều hơn và ngại việc chuyện phiếm để lấy lòng người khác. Chuyên môn của là nấu ăn, đầu bếp cừ khôi và có năng lực thực , và gặp khó khăn nào trong việc bắt chuyện. Nếu có cơ hội, hỏi về mùi thơm tuyệt diệu tỏa ra từ bếp là cái gì và thậm chí những người chỉ sống nhờ bỏng ngô cả tuần trước cũng mời vào nhà.

      ngồi trong phòng khách của căn hộ dưới tầng hầm ở Breidholt và nhấp ngụm cà phê do người phụ nữ đến từ Húsavík mời, bà ta mất chồng lâu và giờ là mẹ của hai đứa con trưởng thành. Tên bà ta là Siguriaug - người cuối cùng trong danh sách của Elínborg. Việc đặt ra những câu hỏi nhạy cảm khá dễ dàng với , và còn nhờ những người phỏng vấn liên lạc với mình nếu họ nghe thấy bất kỳ điều gì từ những câu chuyện phiếm ở Húsavík.

      “...và đó là lý do tại sao chúng tôi tìm người phụ nữ tầm tuổi bà đến từ Húsavík, người mà có thể biết Holberg vào thời gian đó và thậm chí còn có vài rắc rối với ông ta.”

      “Tôi nhớ có ai tên là Holberg ở Húsavík cả,” người phụ nữ . “ đến loại rắc rối nào cơ?”

      “Holberg chỉ ở Húsavík trong thời gian ngắn,” Elínborg . “Do đó bà cần phải nhớ bất cứ điều gì về ông ta cả. Ông ta chưa bao giờ sống ở đó. Và đó là tấn công về thể chất, ông ta tấn công người phụ nữ trong thị trấn cách đây vài thập kỷ và chúng tôi cố gắng tìm ra bà ta.”

      “Chắc hẳn là các phải có thông tin đó trong hồ sơ chứ?”

      “Vụ tấn công đó chưa bao giờ được trình báo cả.”

      “Loại tấn công nào cơ?”

      “Cưỡng hiếp.”

      Người phụ nữ đưa tay lên che miệng theo bản năng và mắt mở to hết cỡ. “Lạy Chúa tôi!” Bà ta thốt lên. “Tôi biết gì về chuyện đó cả. Cưỡng hiếp! Lạy Chúa! Tôi chưa bao giờ từng nghe những chuyện đại loại như thế.”

      , dường như đó là bí mật được giữ kín hoàn toàn,” Elínborg . khéo léo né tránh những câu hỏi tò mò của người phụ nữ và về những cầu sơ bộ và những lời đồn. “Tôi băn khoăn,” , “liệu bà có biết ai có thể biết chuyện này ?” Người phụ nữ cho tên của hai người phụ nữ bạn mình đến từ Húsavík và rằng chưa bao giờ họ để lỡ chuyện gì. Elínborg viết tên họ lại, ngồi lúc nữa để tránh bất lịch , sau đó ra về.

      Erlendur bị vết cắt ở trán, sau đó ông dán băng keo lên. trong hai tên đồ tể đến nhà ông tối qua ra tay sau khi Erlendur đập cửa vào đầu gối khiến rú lên dưới sàn. Tên còn lại nhìn trân trối cho đến khi hiểu ra tình và điều tiếp theo mà nhận biết được là Erlendur đứng đối diện với cầu thang và đẩy , chút nao núng, xuống cầu thang.

      cố gắng túm lấy thành cầu thang để rơi xuống dưới. muốn xử lý Erlendur, người lúc này đứng cầu thang với cái trán sưng phồng, bầm tím. nhìn sang gã cùng mình và thấy gã nằm sàn gào rú vì đau, sau đó lại nhìn Erlendur và quyết định tránh xa ông. mới tầm hai mươi tuổi.

      Erlendur gọi xe cứu thương và trong khi chờ đợi, ông hỏi xem bọn chúng muốn gì từ Eva Lind. Gã đàn ông lúc đầu hơi do dự, nhưng khi Erlendur đề nghị kiểm tra cái đầu gối của , bỗng trở nên nhiều.

      Chúng là những người thu nợ. Eva Lind nợ tiền và ma túy của cả hai và cả số người khác nữa mà Erlendur chưa từng nghe thấy tên.

      Erlendur giải thích về miếng cao dán với bất kỳ ai khi ông làm ngày hôm sau, và ai dám hỏi ông về chuyện đó. Cánh cửa gần như đo ván ông khi nó đập vào chân tên đòi nợ rồi sau đó trở lại đập vào đầu ông. Trán ông vẫn còn đau, ông vẫn lo lắng về Eva Lind và trằn trọc suốt đêm hôm đó, hy vọng con mình quay trở về trước khi tình hình trở nên kiểm soát nổi. Ông nán lại ở văn phòng đủ lâu để tìm ra dữ kiện Grétar có người em và mẹ gã vẫn còn sống, bà ta ở viện dưỡng lão Grund. Như với Marion Briem, ông chú trọng đặc biệt tìm Grétar, cũng giống như mất tích ở Gardabaer, nhưng ông nghĩ là việc biết thêm thông tin về gã cũng có hại gì. Grétar ở bữa tiệc trong buổi tối mà Kolbrún bị cưỡng hiếp. Có thể có nhớ chút gì về chuyện xảy ra hôm đó, chi tiết rải rác mà có thể buột miệng. Erlendur trông mong vào việc tìm ra manh mối mới về việc mất tích của gã, Grétar có thể yên nghỉ, ông quan tâm, nhưng ông chú ý đến những người mất tích trong thời gian dài. Đằng sau mỗi người lại là câu chuyện rùng rợn, nhưng trong tâm trí ông, việc người ta biến mất mà để lại dấu vết nào hoặc ai biết tại sao có chút gì đó hấp dẫn.

      Mẹ của Grétar chín mươi tuổi và bị mù. Erlendur chuyện nhanh chóng với giám đốc của viện - hình như bà ta khó có thể rời mắt khỏi cái trán của ông. Bà ta rằng Theodóra là trong số những người già nhất và ở đây lâu nhất, thành viên gương mẫu của cộng đồng trong tất cả mọi mặt, được tất cả nhân viên và những người khác mến thán phục.

      Erlendur được dẫn đến phòng của Theodóra và được giới thiệu với bà. Bà ta ngồi chiếc xe lăn, mặc cái áo dài, bên phủ chiếc chăn len, mái tóc dài màu xám của bà được tết lại và buông xuông lưng ghế. Người bà hơi cúi về đằng trước, bàn tay xương xẩu và khuôn mặt hiền từ nhân hậu. Ở đây có rất ít đồ đạc cá nhân. tấm hình của Tổng thống John F. Kennedy treo đầu giường. Erlendur ngồi vào chiếc ghế trước mặt bà, nhìn sâu vào đôi mắt mà giờ đây còn thấy gì nữa, và rằng ông muốn hỏi chuyện về Grétar. Thính giác của bà vẫn còn khá tốt, đầu óc bà vẫn còn minh mẫn. Bà biểu lộ tí ngạc nhiên nào mà thẳng vào vấn đề. Erlendur có thể nhận ra là bà đến từ Skagafjordur. Bà với chất giọng đặc sệt miền Bắc.

      “Thằng Grétar nhà tôi phải là người tốt,” bà . “ với ông, nó là kẻ độc ác xấu xa. Tôi hiểu nó lấy cái tính ấy ở đâu. thằng xấu xa rẻ tiền. Nó giao du với những kẻ xấu, những gã lang thang và rất nhiều kẻ đê tiện khác. Các ông tìm thấy nó chưa?”

      “Chưa,” Erlendur trả lời. “ trong số những người bạn của ta bị sát hại gần đây. Holberg. Có thể bà nghe qua tin đó.”

      “Tôi biết, ông ta bị giết sao?”

      Erlendur rất ngạc nhiên và lần đầu tiên sau thời gian dài, ông thấy mình có lý do để mỉm cười.

      “Tại nhà. Họ từng làm việc cùng nhau trước đây, Holberg và con trai bà ấy, tại Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng.”

      “Lần cuối cùng tôi gặp Grétar - khi đó mắt tôi còn sáng - là khi nó về nhà để gặp tôi vào cái mùa hè có diễn ra lễ hội quốc gia. Nó ăn cắp tiền trong ví của tôi cùng với ít bạc. Tôi biết chuyện đó cho đến khi nó rời và món tiền biến mất. Sau đó Grétar mất tích. Giống như nó cũng bị đánh cắp vậy. Ông có biết ai đánh cắp nó ?”

      ,” Erlendur trả lời. “Bà có biết ta đâu trước khi mất tích ? ta giao du với ai?”

      “Tôi biết,” người phụ nữ đáp. “Tôi bao giờ biết Grétar đâu. Tôi cũng với các ông hồi đó như thế.”

      “Bà có biết là ta cũng chụp ảnh ?”

      “Có. Nó chụp ảnh. Nó luôn luôn chụp ảnh. Tôi biết tại sao. Có lần nó bảo với tôi rằng ảnh là những tấm gương phản chiếu thời gian, nhưng tôi hiểu nó về chuyện gì.”

      “Đó phải là vẻ trí thức ở Grétar sao?”

      “Tôi chưa bao giờ nghe nó như vậy.”

      “Địa chỉ cuối cùng của ta là ở Bergstadastraeti - ta thuê căn phòng ở đó. Bà có biết chuyện gì xảy ra với đồ đạc của ta , máy ảnh, phim, bà có biết ?”

      “Có thể Klara biết đấy,” Theodóra trả lời. “Con tôi. Con bé dọn phòng thằng Grétar và ném tất cả những đồ rác rưởi, tôi nghĩ vậy.”

      Erlendur dứng dậy và khuôn mặt bà hướng theo bước ông . Ông cảm ơn bà vì giúp đỡ, rằng những lời của bà rất có giá trị và ông muốn khen bà vì trông bà vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn, nhưng lại thôi. Ông nhìn lên bức ảnh của Kennedy tường chỗ đầu giường bà và kìm được câu hỏi.

      “Tại sao bà lại treo ảnh Kennedy đầu giường?” Ông hỏi và nhìn vào đôi mắt trống rỗng của bà.

      “Ồ,” Theodóra thở dài, “tôi rất ngưỡng mộ ông ấy khi ông ấy còn sống.”






      21





      Các thi thể nằm bên cạnh nhau những tấm kim loại lạnh lẽo trong nhà xác ở Barónsstígur. Erlendur cố gắng nghĩ đến cái cách ông mang hai cha con họ lại gần nhau ngay cả khi chết. cuộc khám nghiệm tử thi và các xét nghiệm được thực cơ thể của Holberg, nhưng người ta còn chờ những nghiên cứu sâu hơn về các bệnh di truyền và kết quả xác minh xem ông ta có liên quan đến Audur . Erlendur để ý thấy các ngón tay của nạn nhân có màu đen. Các dấu vân tay của ông ta được lấy sau khi ông ta chết. Cơ thể của Audur được quấn trong tấm vải màu trắng, bé nằm chiếc bàn bên cạnh Holberg.

      bé vẫn chưa được động đến.

      Erlendur biết vị bác sĩ pháp y và ít khi nhìn thấy ông ta. Ông ta cao, có đôi bàn tay to đeo đôi găng bằng cao su mỏng, chiếc tạp dề trắng được khoác bên ngoài chiếc áo da màu xanh, buộc lại ở sau lưng cùng chiếc quần màu xanh làm từ cùng chất liệu. Miệng ông đeo khẩu trang và đầu đội cái mũ nhựa màu xanh, chân giày thể thao màu trắng.

      Erlendur trước đây từng đến nhà xác nhiều lần và lần nào cũng cảm thấy khó chịu như nhau. Mùi chết chóc bao trùm lấy các giác quan của ông và bám chặt vào quần áo, cái thứ mùi tổng hợp của phoóc môn, chất khử trùng và cả cái mùi hôi thối khủng khiếp của những xác chết bị mổ phanh ra. Những bóng đèn huỳnh quang sáng chói được treo trần nhà, tỏa ra thứ ánh sáng trắng quanh căn phòng cửa sổ. Nền nhà lát đá trắng to và tường cũng được ốp đá phần, nửa bên được sơn màu trắng. Đối diện các bức tường là những chiếc bàn với kính hiển vi và các dụng cụ nghiên cứu khác. tường có rất nhiều tủ ly, vài cái có cửa kính, để lộ ra bên trong những dụng cụ và bình lọ mà Erlendur hiểu được. Tuy nhiên, ông hiểu chức năng của dao mổ, cái kẹp và những lưỡi cưa đặt thành hàng ngăn nắp chiếc bàn dài.

      Erlendur chú ý đến tấm thiệp thơm treo bóng đèn huỳnh quang chiếu sang trong hai chiếc bàn phẫu thuật. Nó in hình mặc bộ bikini màu đỏ chạy bãi biển đầy cát trắng. Có cái máy ghi bàn và vài cái băng cassette bên cạnh. Tiếng nhạc cổ điển du dương cất lên. Mahler, Erlendur nghĩ bụng. Suất ăn trưa của vị bác sĩ nằm cái bàn bên cạnh trong những chiếc kính hiển vi.

      ấy còn tỏa hương thơm từ lâu rồi, nhưng ấy vẫn giữ được vóc dáng khá tốt,” vị bác sĩ pháp y và nhìn ra Erlendur - lúc này ông đứng bên cửa như thể do dự về việc bước vào căn phòng chết chóc sáng lòa.

      “Sao cơ?” Erlendur hỏi lại, thể rời mắt ra khỏi cái đống màu trắng. Có gì như hân hoan trong giọng của viên bác sĩ mà ông hiểu được.

      “Ý tôi mặc bộ bikini ấy,” ông bác sĩ vừa vừa gật đầu về phía tấm thiệp thơm. “Tôi phải mua cái mới thôi. Có thể ông bao giờ quen được với thứ mùi ở đây. Hãy cứ vào . Đừng sợ. Chỉ là thịt thôi mà.” Ông ta vẫy cái dao cơ thể Holberg. “ có tâm hồn, sống, chỉ là khối thịt chết, ông có tin vào ma quỷ ?”

      “Sao cơ?” Erlendur hỏi lại.

      “Ông có tin là những linh hồn theo dõi theo chúng ta ? Ông có cho rằng họ bay lơ lửng trong căn phòng này , hay là họ nhập vào cơ thể khác? Được tái sinh ấy? Ông có tin là có cuộc sống sau khi chết ?”

      , tôi tin,” Erlendur trả lời.

      “Người đàn ông này chết sau khi bị đập mạnh làm thủng da đầu, vỡ sọ và tổn thương đến não bộ. Theo tôi, người tấn công phải đối mặt với nạn nhân. Rất có thể họ nhìn vào mắt nhau. Hung thủ có thể thuận tay phải, vì vết thương nằm bên trái. Và phải khá cao to, người đàn ông trẻ hoặc trung tuổi là hợp nhất, khó có thể là phụ nữ trừ khi ta lao động chân tay. Cú đập giết ông ta chết ngay lập tức. Có thể ông ta nhìn thấy đường hầm và những luồng sáng chói lòa.”

      “Cũng có thể là ông ta theo con đường khác,” Erlendur .

      “Ừm, ruột nạn nhân gần như trống rỗng, chỉ còn ít trứng và cà phê, trực tràng đầy. Ông ta phải chịu đựng - nếu đó phải là từ quá nặng nề - bệnh táo bón, hiếm gì ở tuổi của ông ta. ai đến nhận xác, tôi hiểu, cho nên chúng tôi đề nghị được sử dụng nó để dạy học. Chuyện đó có ảnh hưởng gì đến ông ?”

      “Vậy ông ta thà chết còn có ích hơn là sống.”

      Viên bác sĩ nhìn Erlendur, rồi tiến về phía cái bàn, lấy ra khối thịt từ cái khay kim loại và giơ nó lên bằng tay.

      “Chẳng thể biết được là người ta tốt hay xấu,” ông . “Cái này có khi cũng giống như quả tim của vị thánh mà thôi. Những cái gì mà chúng ta cần tìm ra, nếu tôi hiểu đúng ý ông, là liệu nó có bơm loại máu xấu hay thôi.”

      Erlendur nhìn đầy ngạc nhiên khi viên bác sĩ cầm quả tim của Holberg và xem xét nó. Nhìn ông ta cầm quả tim như thể có gì có thể tự nhiên hơn cõi đời này.

      “Đây là trái tim khỏe,” ông ta tiếp tục. “Nó có thể làm việc tốt trong vài năm nữa, có thể giúp cho chủ nhân của nó sống hơn trăm tuổi.” rồi viên bác sĩ đặt quả tim lại vào khay kim loại.

      “Có vài điều khá thú vị về Holberg, mặc dù tôi chưa khám nghiệm ông ta cách cụ thể. Có thể ông muốn tôi làm điều đó. ông ta có nhiều triệu chứng của căn bệnh đặc trưng. Tôi tìm ra khối u trong não của ông ta, khối u lành tính - có thể gây rắc rối cho ông ta chút, và da ông ta còn có café au lait nữa, đặc biệt là ở đây, dưới cánh tay.”

      “Café au lait ư?”

      “Café au lait là thuật ngữ trong y khoa. Trông nó giống như cà phê hòa tan vậy. Ông có biết gì về nó ?”

      chút nào.”

      “Chắc chắn tôi tìm ra nhiều triệu chứng hơn khi xem xét nạn nhân kĩ lưỡng hơn.”

      “Người ta về café au lait cơ thể bé. bé bị bệnh u não. Ác tính. Ông có biết bệnh đó là gì ?”

      “Tôi vẫn chưa thể gì về điều đó cả.”

      “Có phải là bệnh di truyền qua gen ?”

      “Tôi biết nữa.”

      Ông bác sĩ đến chiếc bàn nơi Audur nằm.

      “Ông nghe câu chuyện về Einstein chưa?” ông ta hỏi.

      “Einstein ư?” Erlendur hỏi.

      “Albert Einstein ấy.”

      “Chuyện gì?”

      câu chuyện khó tin nhưng có . Thế còn Thomas Harvey? Chưa nghe đến tên ông ta à? bác sĩ pháp y ấy.”

      “Chưa.”

      “Ông ta tiến hành xét nghiệm khi Einstein chết,” ông bác sĩ tiếp tục. “ gã tò mò. Ông ta tiến hành khám nghiệm tử thi, nhưng bởi vì đó là Einstein nên ông ta kìm được và mở hộp sọ của Einstein ra để xem xét bộ não. Và ông ta còn làm nhiều hơn thế nữa. Ông ta ăn cắp não của Einstein.”

      Erlendur gì. Ông hiểu đầu đuôi câu chuyện mà ông bác sĩ . “Ông ta mang nó về nhà. Đó là thôi thúc kì lạ nhằm sưu tầm những gì mà chỉ ít người mới có, đặc biệt là khi nó liên quan đến những người nổi tiếng. Harvey mất việc khi vụ đánh cắp bị phát và suốt nhiều năm nó trở thành câu chuyện bí mật, truyền thuyết đúng hơn. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh ông ta. Ông ta luôn giữ bộ não trong nhà. Tôi biết làm thế nào mà ông ta có thể làm được điều đó. Người nhà của Einstein luôn cố gắng để lấy lại bộ não từ ông ta, nhưng vô ích. Cuối cùng khi già rồi, ông ta quyết định trả bộ não về cho họ. Ông ta đặt nó trong cốp xe và lái xe suốt dọc nước Mỹ để về nhà của cháu Einstein ở California.”

      “Chuyện đó có ?”

      như ban ngày.”

      “Tại sao ông lại với tôi điều này?” Erlendur hỏi.

      Viên bác sĩ nhấc tấm chăn ra khỏi cơ thể của đứa bé và nhìn vào đó.

      “Não của bé bị mất,” ông ta , và vẻ bình thản khuôn mặt ông còn nữa.

      “Sao cơ?”

      “Bộ não,” ông , “ còn ở đúng chỗ của nó nữa.”






      22





      Erlendur hiểu ngay những gì ông bác sĩ và nhìn ông ta như thể mình chưa nghe thấy gì. Ông hiểu được ông bác sĩ đến chuyện gì. Trong thoáng, ông nhìn xuống cái xác, sau đó nhìn vội lên cho đến khi ông thấy mẩu xương từ bàn tay bé xíu thò ra bên dưới tấm khăn phủ. Ông nghĩ là mình có thể hình dung ra hình ảnh của thứ nằm dưới đó. Ông muốn biết những gì còn lại của bé trông như thế nào. muốn hình ảnh đó lại xuất mỗi khi ông nghĩ về .

      bị mổ ra trước đây,” ông bác sĩ .

      “Bộ não mất rồi sao?” Erlendur rên rỉ.

      “Có cuộc khám nghiệm tử thi diễn ra.”

      “Đúng, ở bệnh viện Keflavík.”

      bé chết năm nào?”

      “1968,” Erlendur đáp.

      “Và, nếu như tôi hiểu đúng, Holberg là bố của bé, và họ sống cùng nhau, bố mẹ của bé ấy?”

      bé chỉ có mẹ thôi.”

      “Người ta cho phép sử dụng các bộ phận của ấy cho mục đích nghiên cứu ?” Ông bác sĩ tiếp. “Ông có biết gì về chuyện đó ? Người mẹ có đồng ý ?”

      “Chắc chắn là ,” Erlendur .

      “Có thể nó được lấy cho phép của bà ta. Ai khám nghiệm cho bé sau khi ấy chết? Bác sĩ của bé là ai?”

      Erlendur đọc tên Frank. Viên bác sĩ im lặng lát.

      “Tôi có thể là tôi hoàn toàn quen gì với những chuyện đại loại như vậy. Những người thân đôi khi được hỏi xem liệu những bộ phận của người chết có được lấy nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu hay . Tất cả đều là vì khoa học, tất nhiên là như vậy. Chúng tôi cần những thứ đó. Cả để dạy học nữa. Tôi biết có những trường hợp, khi mà, nếu có người thân thích kế cận, vài bộ phận được lấy để nghiên cứu trước khi cái xác được chôn. Nhưng tôi biết nhiều trường hợp các cơ quan bị đánh cắp hoàn toàn trước khi người thân được hỏi ý kiến.”

      “Bộ não có thể bị mất tích như thế nào?” Erlendur tiếp tục hỏi.

      “Cái đầu bị cưa làm hai nửa và mẩu bị lấy ra.”

      , ý tôi là ...”

      công việc rất khéo léo và tinh xảo,” ông bác sĩ . “Phải là người rất chuyên nghiệp trong nghề. Ông ta cắt dọc cột sống, qua cổ từ đoạn cuối ở đây và lấy bộ não ra.”

      “Tôi được biết là bộ não được nghiên cứu vì có liên quan đến khối u,” Erlendur . “Có phải ý ông là nó được đặt lại?”

      “Đó là lời giải thích,” viên bác sĩ vừa vừa phủ lại thi thể. “Nếu họ lấy bộ não ra để nghiên cứu, họ khó có thể trả lại nó kịp với đám tang. Nó cần phải được cố định lại.”

      “Cố định?”

      “Để làm cho nó trở nên dễ dàng hơn cho việc nghiên cứu. Nó giống như pho-mát vậy. Não phải mất thời gian mới cố định lại được.”

      “Người ta lấy ít thôi đủ sao?”

      “Tôi biết,” viên bác sĩ . “Tất cả những gì tôi biết là bộ não còn nữa, điều này làm cho việc xác định nguyên nhân cái chết trở nên khó khăn hơn. Có thể chúng ta kiểm tra ADN xương, việc đó có thể cho chúng ta biết điều gì đó.”

      mặt Frank là nỗi ngạc nhiên tột độ khi ông ta ra mở cửa và nhìn thấy Erlendur đứng bậc cửa dưới trời mưa như chút.

      “Chúng tôi khai quật xác bé lên.” Erlendur vòng vo. “Và bộ não biến mất. Ông có biết gì về chuyện đó ?”

      “Đào bé lên? Bộ não?” Ông bác sĩ và đưa Erlendur về phía văn phòng của mình. “Ý ông là gì cơ, bộ não mất tích hả?”

      “Như tôi . Bộ não bị lấy . Có thể là để nghiên cứu thêm về mối liên hệ của nó với nguyên nhân cái chết, nhưng người ta trả nó lại. Ông là bác sĩ của bé. Ông có biết chuyện gì diễn ra ?”

      “Tôi là bác sĩ đa khoa của bé, và hình như tôi với ông khi ông đến lần trước: bé chịu kiểm soát của bệnh viện Keflavík và các bác sĩ ở đó.”

      “Người bác sĩ thực ca phẫu thuật chết. Chúng tôi nhận được bản photocopy về báo cáo xét nghiệm tử thi của ông ta, nó rất cụt lủn và chỉ đề cập đến căn bệnh u não. Nếu ông ta làm thêm xét nghiệm về nó, chẳng thấy có ghi chép gì hết. Chẳng lẽ lấy ít làm mẫu mà cũng đủ sao? Họ có nhất thiết phải lấy toàn bộ não ?”

      Ông bác sĩ nhún vai. “Tôi chắc.” Ông ta lưỡng lự lát. “Các cơ quan khác có bị mất ?” Ông ta hỏi.

      “Các cơ quan khác nữa ư?” Erlendur hỏi lại.

      “Ngoài bộ não ra, còn gì bị lấy ?”

      “Ý ông là gì?”

      có gì khác bị động chạm vào ấy?”

      “Tôi nghĩ như vậy. Bác sĩ pháp y đó đề cập đến vấn đề nào. Ông định đến điều gì?”

      Frank nhìn Erlendur, trầm tư. “Chắc ông chưa từng nghe qua về Jar City, phải ?”

      “Jar City nào?”

      “Bây giờ nó đóng cửa rồi, tôi tin thế, thực ra là cách đây lâu. Căn phòng được gọi đến với cái tên đó. Jar City.”

      “Căn phòng nào?”

      lầu của Barónsstígur. Nơi mà người ta giữ các bộ phận.”

      “Tiếp tục .”

      “Chúng được bảo quản trong dung dịch phoóc môn trong các bình thủy tinh. Tất cả các bộ phận cơ thể người ở đó được lấy từ các bệnh viện. Nhằm mục đích giảng dạy trong y khoa. Chúng được bảo quản trong căn phòng mà sinh viên y khoa gọi là Jar City. Những bộ lòng được bảo quản. Những quả tim, gan và chân tay. Cả não nữa.”

      “Từ các bệnh viện ư?”

      “Những người chết ở các bệnh viện ấy. Họ bị xét nghiệm tử thi. Các bộ phận được kiểm tra. Thường là các bộ phận ấy được trả lại, vài trong số đó được giữ lại để phục vụ cho mục đích dậy học. Và thời chúng được lưu giữ ở Jar City.”

      “Ông với tôi những điều này để làm gì?”

      “Các bộ não nhất thiết biến mất mãi mãi. Nó có thể ở đâu đó trong Jar City. Các mẫu được bảo quản cho mục đích dạy học đều được ghi chép lại và phân loại, ví dụ như vậy. Nếu ông muốn tìm bộ não của vẫn còn cơ hội đấy.”

      “Tôi chưa từng nghe thấy chuyện này trước đây. Các cơ quan bị lấy có được phép hay đồng ý của người nhà bệnh nhân sao? dàn xếp đó là như thế nào?”

      Ông bác sĩ nhún vai. “ là tôi biết. Bình thường nó phụ thuộc vào nhiều thứ. Các cơ quan nội tạng là cực kỳ quan trọng đối với việc đào tạo y khoa. Tất cả các bệnh viện của các trường Đại học có những bộ sưu tập nội tạng rất lớn. Thậm chí tôi từng nghe là vài vị bác sĩ, những người nghiên cứu về y học, còn có những bộ sưu tập riêng của mình cơ, nhưng tôi thể đảm bảo được điều đó.”

      “Những người sưu tập nội tạng à?”

      “Họ là những người như thế.”

      “Chuyện gì xảy ra với cái... Jar City này? Nếu nó còn hoạt động nữa?”

      “Tôi biết.”

      “Vậy ông nghĩ rằng đó có thể là nơi cất giữ bộ não sao? Bảo quản trong phoóc môn sao?”

      “Có thể lắm chứ. Tại sao ông lại cho khai quật xác bé lên?”

      “Có thể đó là sai lầm,” Erlendur thở dài. “Có thể cả cái vụ án này là sai lầm lớn.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      23





      Elínborg đến tìm Klara, em của Grétar. Việc tìm kiếm nạn nhân khác của Holberg, người phụ nữ Húsavík như Erlendur gọi, chẳng đến kết quả nào. Tất cả những người phụ nữ mà đến tìm đều phản ứng như nhau: ngạc nhiên tột độ, sau đó là tò mò, háo hức muốn biết thêm làm cho Elínborg phải sử dụng tất cả những chiêu học được trong sách để tránh đề cập đến chi tiết cụ thể của vụ án. biết rằng mặc dù và các cảnh sát khác - những người điều tra người phụ nữ đó - có nhấn mạnh đến mấy rằng đó là vụ rất nhạy cảm và được với ai khác, điều đó cũng thể nào ngăn những câu chuyện ngồi lê đôi mách liên miên khi màn đêm dần buông.

      “Vậy bà biết Holberg sao?” Elínborg hỏi.

      .”

      “Hoặc là Ellidi?”. thêm.

      “Ellidi là ai?”

      “Xin bà đừng bận tâm.”

      “Tôi biết Grétar giao du với ai. Khi ta mất tích, có người nào đó tên là Marion liên lạc với tôi và đưa tôi đến nơi ta sống. Đó quả là cái lỗ bẩn thỉu. thứ mùi ghê tởm bốc lên trong phòng và sàn nhà đầy rác rưởi, có cả những cái đầu cừu bị ăn nửa với cháo củ cải mốc meo trong căn phòng đó nữa.”

      “Marion ư?” Elínborg hỏi lại. làm việc cho Cục điều tra tội phạm chưa đủ lâu để có thể nhận ra cái tên đó.

      “Đúng, là cái tên đó.”

      “Bà có nhớ đến chiếc máy ảnh trong số những đồ đạc của mình ?”

      “Đó là thứ duy nhất trong căn phòng còn nguyên vẹn. Tôi mang nó về nhưng chưa bao giờ sử dụng nó cả. Cảnh sát cho rằng nó bị ăn cắp và tôi ủng hộ điều đó. Tôi để nó ở nhà kho dưới tầng hầm. có muốn xem qua nó ? đến vì chiếc máy ảnh hả?”

      “Tôi có thể xem qua nó được ?” Elínborg .

      Klara đứng lên. Bà bảo Elínborg đợi lát và vào bếp để lấy chùm chìa khóa. Họ ra hành lang và xuống tầng hầm. Klara mở cửa dẫn vào nhà kho, bà bật đèn rồi tiến đến cánh cửa và mở nó ra. Trong đó, rác rưởi cũ chồng đống khắp nơi, những cái ghế xếp và túi ngủ, dụng cụ trượt tuyết và đồ cắm trại. Elínborg để ý thấy có thiết bị mát-xa chân màu xanh và máy pha sô đa.

      “Tôi để nó trong cái hộp ở đây,” Klara sau khi lách qua đống rác. Bà cúi xuống nhặt lên cái hộp bìa cứng màu nâu. “Tôi để tất cả đồ của Grétar ở đây. ta chẳng có gì ngoài cái máy ảnh đó.” Bà mở hộp và chuẩn bị lấy đồ ra Elínborg ngăn bà lại.

      “Đừng lấy gì ra khỏi chiếc hộp ấy cả,” và đưa tay ra đỡ nó. “Bà biết được những thứ trong đây có thể quan trọng với chúng tôi đến thế nào đâu,” thêm.

      Klara đưa cho cái hộp với vẻ mặt hơi khó chịu, còn Elínborg mở nó ra. Nó đựng ba cuốn truyện trinh thám bìa mềm rách tả tơi, con dao nhíp, vài đồng xu và chiếc máy ảnh - loại máy ảnh Kodak Instamatic bỏ túi mà Elínborg nhớ nó từng là món quà Giáng sinh phổ biến nhiều năm trước đây. Đó phải là thứ dành cho người có niềm đam mê cháy bỏng với nhiếp ảnh, nhưng chắc chắn là nó dùng được. thấy cuốn phim nào trong hộp. Erlendur cầu kiểm tra kỹ xem liệu Grétar có để lại cuốn phim nào . lấy ra cái khăn tay, xoay chiếc máy ảnh và nhận thấy bên trong chẳng còn cuốn phim nào. Trong hộp cũng chẳng có bức ảnh nào.

      “Còn đây là tất cả những khay và dung dịch,” Klara và chỉ tay vào bên trong nhà kho. “Tôi nghĩ là ta tự rửa ảnh. Cũng có cả những tấm giấy in ảnh nữa. Chắc hẳn là bây giờ chúng vô dụng rồi, phải ?”

      “Tôi cũng muốn lấy cả cái đó nữa,” Elínborg và Klara lại ngụp lặn trong đống rác.

      “Bà có biết liệu ông ta có giữ các cuốn phim ? Hay bà có thấy chúng ở nơi ở của ông ta ?” Elínborg hỏi.

      , chẳng có cái nào cả,” Klara trả lời khi bà cúi xuống để lấy những cái khay.

      “Bà có biết ông ta có thể cất chúng ở đâu ?”

      .”

      “Vậy bà có biết nội dung những bức ảnh đó là gì ?”

      “Tôi nghĩ là ta thích nó,” Klara .

      “Ý tôi là: bà có trông thấy bức ảnh nào ?”

      , ta chẳng bao giờ cho tôi xem gì cả. Như tôi , chúng tôi chuyện nhiều. Tôi biết những bức ảnh đó ở đâu. Grétar là tên lang thang đáng nguyền rủa,” bà , biết liệu mình có lặp lại những lời mình vứa hay , rồi bà nhún vai như thể điều thú vị nên được nhắc lại cách quá thường xuyên vậy.

      “Tôi muốn mang cái hộp này ,” Elínborg . “Tôi hy vọng bà chấp thuận. Tôi sớm trả lại.”

      “Chuyện gì xảy ra thế?” Klara hỏi, lần đầu tiên bà thể quan tâm đến cầu của cảnh sát và những câu hỏi liên quan đến trai mình. “ có biết Grétar ở đâu ?”

      ,” Elínborg nhấn mạnh, cố gắng xua tan mọi mối nghi ngờ. “ có gì mới cả. có gì.”

      Hai người phụ nữ cùng với Kolbrún vào cái đêm bị Holberg tấn công cũng được lưu tên lại trong hồ sơ điều tra của cảnh sát. Erlendur cầu điều tra về họ. Hóa ra cả hai cùng đến từ Keflavík, nhưng ai còn sống ở đó nữa. trong hai người kết hôn với người Mỹ ở căn cứ quân NATO lâu sau khi vụ cưỡng hiếp xảy ra và bây giờ sống tại Mỹ. Người còn lại chuyển từ Keflavík đến Stykkishólmur năm năm sau. Bà ta vẫn đăng ký sống tại đó. Erlendur băn khoăn liệu ông có nên mất cả ngày trời vào chuyến miền Tây đến Stykkishólmur , hay chỉ cần gọi điện và hy vọng rằng như thế là đủ.

      Tiếng của Erlendur hơi kém nên ông nhờ Sigurdur Óli xác định nơi ở của người phụ nữ sống ở Mỹ. chuyện với người chồng. Bà ta chết cách đây mười lăm năm vì bệnh ung thư và được chôn cất ở Mỹ. Erlendur gọi đến Stykkishólmur và dễ dàng liên lạc được với người phụ nữ thứ hai. Đầu tiên ông gọi đến nhà bà ta và được báo là bà ta làm. Đó là y tá ở bệnh viện Stykkishólmur.

      Người phụ nữ nghe các câu hỏi của Erlendur nhưng rằng may là bà ta giúp gì được cho ông. Ngày đó bà giúp ích được gì cho cảnh sát và bây giờ cũng vậy.

      “Holberg bị giết,” Erlendur , “và chúng tôi nghĩ rằng nó liên quan đến vụ việc này.”

      “Tôi nghe tin tức về vụ đó,” giọng điện thoại trả lời. Tên của bà ta là Agnes và Erlendur cố gắng hình dung bà ta qua giọng . Đầu tiên ông hình dung ra người phụ nữ kiên định và có năng lực ở độ tuổi sáu mươi, người béo ú bởi bà ta hay bị hết hơi. Nhưng rồi ông lại nghe thấy bà ho khan vì khói và Agnes ra với hình ảnh khác trong đầu ông: gầy như que củi, da nhăn nheo vàng vọt. Tiếng ho của bà ta nghe khó chịu và rời rạc, cứ chốc chốc lại ho lần.

      “Bà có nhớ cái đêm đó ở Keflavík ?” Erlendur hỏi.

      “Tôi về nhà trước họ,” Agnes trả lời.

      “Có ba người đàn ông cùng các bà.”

      “Tôi về cùng với người đàn ông tên là Grétar. Hồi đó, tôi với cảnh sát như vậy. Tôi cảm thấy về chuyện đó khó chịu.”

      “Bây giờ tôi mới biết là bà về cùng Grétar,” Erlendur trong lúc lật nhanh các báo cáo trước mặt.

      “Tôi với họ khi họ hỏi tôi những câu hỏi thế này ngày đó.” Bà ta lại ho nhưng cố gắng chỉ để Erlendur nghe thấy tiếng khàn khàn trong cổ họng. “Xin lỗi. Tôi thể nào từ bỏ được những điếu thuốc lá chết tiệt này. Ông ta có vẻ như là kẻ thất bại. Cái gã Grétar ấy. Sau đó tôi bao giờ gặp ông ta nữa.”

      “Bà và Kolbrún quen biết nhau như thế nào?”

      “Chúng tôi từng làm việc cùng nhau. Đó là thời gian trước khi tôi học làm y tá. Chúng tôi làm việc trong cửa hàng ở Keflavík, nó đóng cửa lâu rồi. Đó là lần đầu tiên và duy nhất chúng tôi chơi với nhau. Điều này có thể thông cảm được.”

      “Bà có tin Kolbrún khi ta về vụ hiếp dâm ?”

      “Tôi biết gì về vụ đó cho đến khi bất thình lình cảnh sát đến nhà tôi và bắt đầu tra hỏi về cái đêm đó. khi nào ấy lại dối về chuyện như vậy. Kolbrún rất đứng đắn, hoàn toàn thành về mọi điều mà ấy từng làm, mặc dù có lẽ ấy hơi nhu nhược. Yếu ớt và mỏng manh. có cá tính mạnh mẽ. Đó là chuyện quá kinh khủng để có thể ra nhưng ấy thuộc tuýp người thích đùa, nếu ông hiểu đúng ý tôi. có nhiều chuyện xảy ra xung quanh ấy lắm.”

      Agnes dừng lại và Erlendur chờ bà ta tiếp.

      ấy thích chơi và thực tình tôi phải phỉnh phờ mãi ấy mới chịu với tôi và Helga tối hôm đó. Helga sang Mỹ nhưng chết cách đây nhiều năm, có thể ông biết điều đó. Kolbrún rất dè dặt và đơn nên tôi muốn làm điều gì đó cho ấy. ấy đồng ý đến vũ trường, sau đó cùng chúng tôi đến nhà của Helga, nhưng lúc sau ấy lại muốn về nhà. Tôi về trước ấy nên tôi thực biết có chuyện gì xảy ra ở đó. Kolbrún làm vào ngày thứ Hai và tôi nhớ là gọi điện cho ấy, nhưng ấy trả lời. Vài ngày sau cảnh sát đến gặp tôi để hỏi về Kolbrún. Tôi biết nên nghĩ thế nào nữa. Tôi thấy điều gì bất thường ở Holberg. Ông ta là người khá hấp dẫn nếu như tôi nhớ đúng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cảnh sát hỏi về vụ cưỡng hiếp.”

      ràng là ông ta tạo được ấn tượng tốt,” Erlendur nhận xét. “ người đàn ông của các quý bà, tôi nghĩ là ông ta được miêu tả như vậy.”

      “Tôi nhớ là ông ta có đến cửa hàng.”

      “Ông ta? Holberg á?”

      “Phải, là Holberg. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao họ ngồi xuống với chúng tôi buổi tối hôm đó. Ông ta rằng mình là kế toán viên đến từ Reykjavík, nhưng đó là lời dối phải ?”

      “Tất cả bọn họ đều làm ở Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng. Đó là loại cửa hàng gì?”

      cửa hàng chuyên dụng. Chúng tôi bán đồ của phụ nữ. Cả đồ lót nữa.”

      “Và ông ta đến cửa hàng?”

      “Phải. Ngày hôm trước ấy. Ngày thứ Sáu. Hồi đó tôi cứ phải kể kể lại chuyện này nên tôi nhớ rất . Ông ta rằng mình cần tìm vài thứ đồ gì đó cho vợ mình. Tôi phục vụ ông ta và khi chúng tôi gặp nhau tại vũ trường, ông ta cư xử cứ như thể chúng tôi quen nhau từ trước ấy.”

      “Bà có liên hệ với Kolbrún sau khi việc xảy ra ? Bà có chuyện với ấy về những gì xảy ra ?”

      “Kolbrún bao giờ quay trở lại cửa hàng nữa, và như tôi , tôi biết có chuyện gì xảy ra cho đến khi cảnh sát đến chất vấn tôi. Tôi cũng hiểu ấy lắm. Tôi cố gắng gọi điện đến nhà ấy vài lần khi thấy ấy làm nhưng đều gặp. Tôi muốn xen vào quá nhiều. ấy luôn như vậy. Bí hiểm. Sau đó chị ấy đến và rằng Kolbrún thôi việc. Tôi nghe mấy năm sau ấy mất. Hồi đó tôi chuyển đến Stykkishólmur. Đó là vụ tự vẫn phải ?”

      ấy chết,” Erlendur đáp, và lịch cảm ơn bà ta vì tiếp chuyện ông.

      Erlendur nhớ về người có tên là Sveinn, ông từng đọc được câu chuyện về ông ta. Người này sống sót sau cơn bão ở Mosfellsheidi. Cái chết của những người đồng hành cùng Sveinn dường như chẳng có chút ảnh hưởng nào đến ông ta. Ông ta được trang bị tốt nhất trong số những người du lịch và là người duy nhất quay trở về an toàn và khỏe mạnh. Điều đầu tiên ông ta làm sau khi được người ta chăm sóc tại trang trại gần nhất là đeo ván trượt tuyết lên và làm mọi người ngạc nhiên bằng cách trượt chiếc hồ gần đó.

      Trong lúc ấy, những người cùng ông ta bị đóng băng đến chết.

      Kể từ lúc đó, ông bao giờ gọi Sveinn bằng cái tên nào khác ngoài “kẻ vô lương tâm.”






      24





      Việc tìm kiếm người phụ nữ ở Húsavík vẫn chưa đến đâu khi buổi tối Sigurdur Óli và Elínborg ngồi tại văn phòng của Erlendur để bàn công chuyện trước khi họ về nhà. Sigurdur Óli rằng ta hề ngạc nhiên khi họ bao giờ tìm ra người phụ nữ theo kiểu này. Khi Erlendur hỏi cách cáu kỉnh rằng ta có biết phương pháp nào tốt hơn , ta lắc đầu. “Tôi có cảm giác là chúng ta tìm ra kẻ giết Holberg,” Elínborg , nhìn chằm chằm vào Erlendur. “Như thể là chúng ta tìm thứ gì đó hoàn toàn khác và tôi biết đó là cái gì. Ông cho đào mộ bé và tôi hiểu lý do tại sao. Ông bắt đầu tìm người phụ nữ bị mất tích cách đây cả thế hệ và tôi chẳng thấy điều đó có liên quan gì đến vụ án. Chúng ta tự đặt ra cho mình câu hỏi ràng: hung thủ có liên quan đến Holberg hay là người hoàn toàn xa lạ, người đột nhập vào nhà ông ta nhằm ăn trộm? Cá nhân tôi nghĩ rằng đó là lời giải thích hợp lý nhất. Tôi nghĩ chúng ta nên tiến hành điều tra về kẻ đó. vài tên nghiện ma túy, mặc đồ quân đội màu xanh. Chúng ta vẫn chưa làm gì liên quan đến điều đó cả.”

      “Có thể đó là người nào đó mà Holberg phải trả phí dịch vụ,” Sigurdur Óli . “Với tất cả những thứ khiêu dâm đó trong máy tính của ông ta, có khả năng lớn là ông ta phải trả tiền cho chúng.”

      Erlendur lặng lẽ ngồi nghe những lời chỉ trích và nhìn chằm chằm vào vạt áo. Ông biết rằng hầu hết những gì Elínborg là đúng. Có thể phán đoán của ông bị bóp méo bởi nỗi lo về Eva Lind, ông biết con bé ở đâu, biết tình trạng nó bây giờ ra sao, con bé bị săn lùng bởi những kẻ muốn hãm hại nó còn ông bất lực trong việc bảo vệ nó. Ông với Sigurdur Óli hay Elínborg về những gì ông nghe được từ bác sĩ pháp y.

      “Chúng ta có lời nhắn,” ông . “ phải là ngẫu nhiên khi chúng ta tìm thấy nó cùng với tử thi.”

      Cánh cửa bất ngờ bật mở và đội trưởng đội pháp y ngó vào.

      “Tôi chuẩn bị đây,” ông ta . “Tôi chỉ muốn ông biết rằng họ vẫn kiểm tra cái máy ảnh và họ gọi ông ngay khi thấy có điều gì đó đáng lưu ý.”

      Ông ta đóng cánh cửa mà lời chào tạm biệt.

      “Có lẽ chúng ta thể trồng cây mà đoán rừng,” Erlendur . “Có lẽ có giải pháp cực kỳ đơn giản cho cả mớ bòng bong này. Có thể đó chỉ là gã dở hơi nào đó. Nhưng cũng có thể, và tôi nghĩ đây là khả năng cao nhất, tên sát nhân có những nguyên nhân sâu xa hơn là chúng ta tưởng. Chẳng có điều gì đơn giản ở đây cả. Có thể lời giải thích nằm ở tính cách của Holberg và những gì làm trong quá khứ.”

      Erlendur dừng lại.

      “Và lời nhắn,” ông tiếp. “ “Tôi là ông ta.” Các muốn làm gì với nó?”

      “Đó có thể là từ “người bạn”,” Sigurdur Óli , lấy ngón tay ra dấu ngoặc kép. “Hoặc là người cùng chỗ làm. Chúng ta vẫn chưa đào sâu vào những lĩnh vực ấy. là tôi biết toàn bộ quá trình điều tra người phụ nữ này dẫn chúng ta đến đâu. Tôi biết cách nào để hỏi xem liệu họ có bị cưỡng hiếp mà bị họ lấy trục cán phang vào đầu.”

      “Và có phải là Ellidi chưa từng dối lần nào trong đời đâu?” Elínborg . “Đó phải chính xác là những gì muốn hay sao, biến chúng ta trở thành lũ ngốc ấy? Ông nghĩ đến chuyện đó chưa?”

      “Nào, thôi nào,” Erlendur như thể ông muốn nghe thêm lời cằn nhằn nữa. “Quá trình điều tra dẫn chúng ta theo hướng này. Có thể là chúng ta sai nếu điều tra những manh mối mà chúng ta có, bất kể là chúng đến từ đâu. Tôi biết rằng các vụ mưu sát ở Iceland phức tạp, nhưng có điều gì đó trong vụ này phải là ngẫu nhiên. Tôi nghĩ đó là hành động tàn bạo thiếu lý trí.”

      Chiếc điện thoại bàn Erlendur đổ chuông, ông nhấc máy, nghe lát rồi gật đầu và cảm ơn trước khi gác máy. Mối nghi ngờ của ông được xác thực.

      “Là đội pháp y,” ông vừa vừa nhìn Sigurdur Óli và Elínborg. “Chiếc máy ảnh của Grétar cũng là chiếc máy chụp bức ảnh ngôi mộ Audur trong nghĩa trang. Chúng tôi dùng nó để chụp ảnh và những vết xước tương tự xuất . Do vậy giờ chúng ta biết ít nhất có khả năng lớn là Grétar chụp bức ảnh đó. Có thể là ai đó sử dụng máy ảnh của gã, nhưng khả năng kia lớn hơn rất nhiều.”

      “Vậy điều đó lên cái gì?” Sigurdur Óli hỏi trong lúc liếc đồng hồ. mời Bergthóra ra ngoài ăn tối và định bụng làm lành sau vụng về của mình hôm sinh nhật.

      “Ví dụ như, nó với chúng ta rằng Grétar biết Audur là con của Holberg. có nhiều người biết điều đó đâu. Và nó cũng lên rằng Grétar có những lý do đặc biệt: 1, để xác định vị trí ngôi mộ; 2, để chụp bức ảnh về nó. Gã làm thế có phải là vì Holberg cầu ? Hay làm thế để chọc tức Holberg? Liệu mất tích của Grétar có liên quan đến bức ảnh ? Nếu đúng thế là thế nào? Grétar muốn gì với bức ảnh đó? Tại sao nó lại được giấu trong bàn của Holberg? Loại người nào lại chụp ảnh mộ của trẻ em cơ chứ?”

      Elínborg và Sigurdur Óli ngồi nghe Erlendur đặt ra những câu hỏi. Họ để ý thấy ông chuyển sang gần như thầm. Dường như ông còn chuyện với họ nữa, mà thu vào bản thân mình, lơ đãng và lãnh đạm. Ông đưa tay lên ngực và xoa xoa nó theo bản năng, ràng là ông nhận thức được mình làm gì nữa. Họ nhìn nhau nhưng ai dám hỏi.

      “Loại người nào lại chụp ảnh mộ của trẻ em nhỉ?” Erlendur hỏi lại.

      Tối hôm đó Erlendur tìm ra kẻ cử hai tên đòi nợ Eva Lind, ông nhận được thông tin từ đội phòng chống ma túy, họ có tập hồ sơ khá dày về và phát ra rằng thường đến quán rượu có tên là Napoleon ở trung tâm thành phố. Erlendur đến đó và ngồi xuống đối diện với . Tên là Eddi, khoảng bốn mươi tuổi, béo và hói. Mấy cái răng còn lại của ố vàng.

      “Ông hy vọng là Eva Lind được đối đãi đặc biệt vì ông là cớm phải ?” Eddi hỏi khi Erlendur ngồi xuống chỗ . Dường như nhận ra Erlendur là ai ngay mặc dù họ chưa từng gặp mặt trước đây. Erlendur có cảm giác là chờ mình.

      tìm ra nó chưa?” Erlendur hỏi và nhìn quanh căn phòng tối om, thấy rất nhiều kẻ bất hạnh ngồi quanh các bàn và phác ra những cử chỉ thô tục. Bất thình lình cái tên quán rượu chợt trở nên quan trọng trong đầu ông.

      “Ông biết rằng tôi là bạn của ta,” Eddi . “Tôi cho ta cái mà ta muốn. Thỉnh thoảng ta có trả tiền tôi. Đôi khi ta làm lơ quá lâu. Cái gã với đầu gối đau có lời hỏi thăm ông đấy.”

      ta là tay chân của mà.”

      khó để có thể tìm được những người tâm phúc,” Eddi và chỉ quanh phòng.

      “Nợ bao nhiêu?”

      “Eva á? Hai trăm ngàn. Và ta chỉ nợ tôi đâu.”

      “Chúng ta thỏa thuận được ?”

      “Nếu ông muốn.” Erlendur lấy ra 20.000 cua-ron mà ông vừa rút từ cây rút tiền đường đến đây, rồi đặt nó lên bàn. Eddi lấy món tiền đó, đếm lại cẩn thận và nhét vào túi.

      “Tôi có thể để ông trả thêm sau khoảng tuần nữa.”

      “Tuyệt đấy.”

      Eddi nhìn Erlendur dò xét.

      “Tôi nghĩ rằng ông sắp phải cảm ơn tôi đấy,” Eddi .

      “Vì cái gì chứ?” Erlendur hỏi.

      “Tôi biết con ông ở đâu,” Eddi , “nhưng ông bao giờ có thể cứu Eva đâu.”

      Erlendur tìm ngôi nhà. Ông từng vào kiểu nhà như này trong vụ tương tự. Eva Lind nằm chiếc nệm trong ngôi nhà , xung quanh con bé còn có những người khác nữa. vài người ngang tầm tuổi nó, rất nhiều người khác hơn tuổi. Ngôi nhà mở cửa và chướng ngại vật duy nhất là gã trai chừng hai mươi tuổi. gặp ông ở cửa và vẫy tay trước mặt ông. Erlendur đẩy vào tường rồi ném ra ngoài. bóng đèn trần trụi treo trần trong những căn phòng ở đó. Ông cúi xuống chỗ Eva Lind và cố gắng đánh thức con bé. Hơi thở con bé đều đều và bình thường, nhịp tim hơi nhanh, ông lắc nó dậy rồi tát vào má và ngay lập tức Eva Lind mở mắt.

      “Bố,” con bé , và mắt nó lại nhắm nghiền. Erlendur nhấc con lên và đưa nó ra khỏi căn phòng, cố gắng cẩn thận để dẫm phải những thân thể nằm bất động sàn nhà. Ông thể biết được là họ còn thức hay ngủ. Eva Lind lại mở mắt ra.

      ấy ở đây,” con bé thào, nhưng Erlendur biết con bé về chuyện gì nên cứ tiếp tục bế nó ra xe. Ông muốn đưa con ra khỏi đây càng sớm càng tốt. Ông đặt con xuống đất để mở cửa xe và nó phải dựa vào ông.

      “Bố tìm ra ta chưa?” Eva hỏi.

      “Tìm ra ai cơ? Con về chuyện gì?” Ông đặt con nằm ghế đầu, thắt dây an toàn, ngồi vào ghế lái và chuẩn bị cho xe chạy.

      ta với bố à?” Eva Lind hỏi mà mở mắt.

      “Chết tiệt, ai mới được cơ chứ?” Erlendur quát lên.

      dâu,” Eva Lind đáp, “cái nàng ở Gardabaer ấy. Con nằm cạnh ta.”






      25





      Cuối cùng Erlendur cũng bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Nó cứ dội vào đầu ông cho đến khi ông mở mắt và tìm xung quanh, ông ngủ ghế bành trong phòng khách. Áo choàng và mũ vứt bừa chiếc ghế sô pha. Trong nhà vẫn còn rất tối. Erlendur chậm chạp đứng lên và băn khoăn biết mình có nên mặc bộ này thêm ngày nữa . Ông nhớ lần cuối cùng mình thay quần áo là khi nào nữa. Ông nhìn vào phòng ngủ trước khi nghe điện thoại và thấy hai nằm giường ngủ của ông - nơi mà ông đặt chúng vào nằm tối hôm qua. Ông kéo cánh cửa lại.

      “Những dấu tay chiếc máy ảnh giống với những dấu tấm ảnh,” Sigurdur Óli khi cuối cùng Erlendur cũng trả lời điện thoại. ta phải nhắc lại câu đó thêm hai lần nữa Erlendur mới hiểu ra ta về cái gì.

      “Ý là vân tay của Grétar ư?”

      “Phải. Grétar.”

      “Và dấu vân tay của Holberg cũng ở tấm ảnh chứ?” Erlendur hỏi. “Thế là thế quái nào nhỉ?”

      “Có Chúa mới biết được,” Sigurdur Óli đáp.

      “Sao cơ?”

      có gì. Vậy là Grétar chụp bức ảnh đó. Chúng ta có thể khẳng định điều đó. Gã đưa nó cho Holberg hoặc Holberg tìm thấy nó. Hôm nay chúng ta tiếp tục tìm người phụ nữ Húsavík chứ?” Sirgurdur Óli hỏi.

      “Ông có chỉ dẫn gì thêm chứ?”

      “Phải,” Erlendur đáp. “Và .”

      “Tôi đường đến Grafarvogur. Chúng tôi điều tra gần hết những người phụ nữ ở Reykjavík. Chúng ta cử ai đó đến Húsavík sau khi xong việc ở đây chứ?”

      “Phải,” Erlendur đáp và gác máy.

      Eva Lind ở trong bếp. Con bé bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Nó vẫn mặc quần áo, giống như đến từ Gardabaer. Erlendur quay trở lại ngôi nhà đó, mang ta và chở cả hai đến nhà mình.

      Eva Lind lặng lẽ vào nhà vệ sinh và Erlendur nghe thấy con bé nôn thốc nôn tháo, ông vào bếp pha ít cà phê đặc, đó là giải pháp duy nhất mà ông biết trong tình cảnh này. Ông ngồi xuống bàn ăn và chờ con bước ra. lúc sau, ông đổ ra hai cốc. Cuối cùng Eva Lind cũng ra. Nó rửa mặt. Erlendur nghĩ rằng trông con bé khủng khiếp. Thân hình gầy nhằng, chỉ là xương ráp lại với nhau.

      “Con biết đôi lúc ta dùng ma túy,” Eva Lind bằng giọng khàn khàn khi ngồi xuống với bố, “nhưng con chỉ tình cờ gặp ta thôi.”

      “Có chuyện gì xảy ra với con vậy?” Erlendur hỏi.

      nhìn cha.

      “Con cố,” con bé , “nhưng khó lắm.”

      “Có hai gã đến tìm con. Lối ăn tục tĩu. Bố đưa ít tiền con còn nợ cho kẻ tên là Eddi. cho bố biết ngôi nhà đó ở đâu.”

      “Eddi được.”

      “Con còn cố gắng nữa ?”

      “Con có nên từ bỏ nó ?” Eva Lind lại nhìn chăm chăm xuống sàn nhà.

      “Bố biết.”

      “Con rất sợ là con làm hỏng nó.”

      “Có khi con cố tình làm thế đấy.”

      Eva Lind nhìn lên bố mình.

      “Bố đáng khinh,” .

      “Bố ư!”

      “Phải, bố đấy.”

      “Bố nên nghĩ như thế nào? cho bố biết !” Erlendur quát lên. “Con có thể thôi tự than thân trách phận ? Đôi lúc con chỉ là kẻ thất bại chết tiệt thôi Eva ạ! Con có cảm thấy thực tốt đẹp với cái lũ đó đến nỗi con còn nghĩ ra được cái gì tốt hơn cho mình ? Con có quyền gì mà đối xử với cuộc đời mình như vậy? Con có thực nghĩ rằng mọi thứ với con tồi tệ ? Con có thực nghĩ rằng ai thế gian này cảm thấy tồi tệ bằng con ? Bố điều tra về cái chết của bé chưa đầy năm tuổi. bé ấy bị ốm và chết. Có điều gì đó ai hiểu được tàn phá và giết chết bé. Quan tài của bé ấy chỉ dài có mét thôi. Con có nghe thấy bố ? Con có quyền gì mà sống? cho bố biết !!!”

      Erlendur quát tháo ầm lên. Ông đứng dậy và nện mạnh xuống bàn ăn đến mức những chiếc cốc bắt đầu nảy lên, và khi ông thấy điều đó, ông cầm lấy cái và ném nó vào bức tường đằng sau Eva Lind. Cơn thịnh nộ của ông bùng lên và trong thoáng ông trở nên mất kiểm soát, ông lật đổ cái bàn, gạt phăng mọi thứ mặt bàn, ly cốc và ấm trà văng vào tường và rơi xuống đất. Eva Lind ngồi yên ghế, nhìn bố nổi cáu và mắt ngân ngấn nước.

      Cuối cùng cơn giận dữ của Erlendur cũng qua , ông quay sang Eva Lind và thấy đôi vai con bé rung lên, hai bàn tay bưng lấy mặt. Ông nhìn con , tóc tai bẩn thỉu, cánh tay gầy guộc, cả tay còn gầy hơn cả ngón tay, da bọc xương, và người run lẩy bẩy. Con bé chân trần và cáu ghét bám đầy móng tay móng chân nó. Ông đến bên con và cố gắng kéo tay nó ra khỏi mặt, nhưng nó để ông làm thế, ông muốn xin lỗi con, muốn ôm con trong vòng tay, nhưng rồi lại thôi.

      Thay vào đó ông ngồi xuống sàn nhà bên cạnh con . Chuông điện thoại lại reo nhưng ông nghe. trong phòng ngủ cũng thấy có động tĩnh gì. Điện thoại ngừng reo và căn hộ lại chìm trong yên lặng. thanh duy nhất là tiếng Eva Lind thổn thức. Erlendur biết rằng mình phải là người cha mẫu mực, và những lời ông vừa cũng chẳng khác nào hướng vào chính bản thân mình. Có thể ông cho mình nghe cũng nhiều và tức giận với bản thân cũng nhiều như với Eva Lind.

      nhà tâm lý học rằng ông trút nỗi tức giận của mình lên con . Nhưng có lẽ những lời ông có chút tác dụng, ông chưa từng thấy Eva Lind khóc bao giờ. Từ khi nó còn là đứa trẻ. Ông bỏ rơi con bé khi nó mới lên hai tuổi.

      Cuối cùng con bé cũng bỏ tay ra, sụt sịt và lau nước mắt.

      “Đó là bố của ta,” .

      “Bố ta ư?”

      con quỷ,” Eva Lind . “Ông ta là con quỷ. Tôi làm gì thế này?” Kẻ đó là bố ta. Lão ta bắt đầu sờ mó ta khi vú ta mới bắt đầu phát triển và cứ lấn tới, lấn tới hơn nữa. Thậm chí lão ta thể rời tay ra khỏi ta ngay cả trong đám cưới. Lão già đưa ta ra chỗ vắng người và rằng trông ta gợi tình trong bộ váy cưới và lão thể kiềm chế được mình, thể chịu đựng được việc ta sắp rời xa mình. Lão ta bắt đầu xúi giục con . ta mê .”

      “Tên khốn!” Erlendur rên rỉ.

      “Con biết là ta chơi ma túy mấy lần. ta từng nhờ con chích hộ. ta hoàn toàn trắng tay và rồi đến gặp Eddi. ta nằm trong cái nơi rác rưởi ấy từ hồi đó.”

      Eva Lind dừng lại. “Con nghĩ là mẹ ta biết điều đó,” sau đó tiếp. “Nhưng cả ngày bà ta chẳng làm gì cả. Ngôi nhà quá hào nhoáng. Có quá nhiều ô tô.”

      ấy muốn đến gặp cảnh sát à?”

      “Ôi chà chà!”

      “Sao cơ?”

      “Trải qua những chuyện khốn nạn như thế để rồi bị tù ba tháng nếu có ai đó tin ta ư? Thôi nào!”

      ấy định làm gì?”

      “Về với chàng đó thôi. chồng ta ấy. Con nghĩ là ta thích .”

      ấy có tự trách mình ?”

      ta biết nên nghĩ gì nữa.”

      “Bởi vì ấy viết “Tôi làm gì thế này?” Có lẽ là ấy tự trách mắng mình.”

      “Chẳng có gì ngạc nhiên khi ta cũng có phần hư hỏng.”

      “Dường như những kẻ hư hỏng lại là những kẻ hạnh phúc nhất. Cười vào mặt cả thế giới như thể gì có thể gặm nhấm lương tâm của chúng được.”

      “Đừng có với con như thế lần nữa,” Eva Lind . “Đừng có với con cái kiểu đấy lần nữa!”

      “Con có nợ ai khác ngoài Eddi ?” Erlendur hỏi.

      “Vài người. Nhưng Eddi là mối lo chính.”

      Điện thoại lại reo. trong phòng ngủ trở mình và ngồi dậy, ta nhìn xung quanh rồi ra khỏi giường. Erlendur băn khoăn xem có nên trả lời , và có nên làm , hay là ở nhà cả ngày với Eva Lind. Giữ con bé bên mình, có thể đưa nó đến khám chỗ bác sĩ và kiểm tra thai nhi, nếu có thể gọi đó là thai nhi được. Để đảm bảo là mọi thứ vẫn ổn cả. Ở bên con bé.

      Nhưng cái điện thoại vẫn ngừng reo lên. ra đến hành lang và nhìn quanh bối rối. ta gọi ra xem có ai ở nhà . Eva Lind đáp lại là họ trong bếp. Erlendur đứng lên, gặp ở lối vào bếp và chào ta. Nhưng ông nhận được câu đáp lại. Họ đều ngủ mà để nguyên quần áo như Erlendur. nhìn quanh căn bếp mà Erlendur vừa phá tan hoang và liếc ngang qua ông.

      Rốt cuộc Erlendur cũng phải trả lời điện thoại.

      “Cái mùi trong căn hộ của Holberg như thế nào?”

      Erlendur phải mất lúc mới nhận ra giọng của Marion Briem.

      “Mùi ư?” Erlendur nhắc lại.

      “Mùi trong căn hộ của ông ta thế nào?” Marion lặp lại.

      “Đó là mùi của căn hộ bẩn thỉu dưới tầng hầm.” Erlendur . “Mùi ẩm mốc. Hôi thối. Tôi biết. Như mùi ngựa chăng?”

      , đó phải là ngựa,” Marion Briem . “Tôi đọc báo cáo về Nordurmýri. Tôi chuyện với người bạn là thợ sửa ống nước và ta giới thiệu cho tôi người thợ khác. Tôi chuyện với rất nhiều thợ sửa ống nước.”

      “Tại sao lại là thợ sửa ống nước?”

      “Rất thú vị, cả câu chuyện này này. Mà cho tôi biết về những dấu vân tay bức ảnh nhé.” Có dấu hiệu của buộc tội trong giọng của Marion Briem.

      ,” Erlendur . “Tôi lảng tránh chuyện đó.”

      “Tôi nghe chuyện về Grétar và Holberg. Grétar biết rằng bé là con Holberg. Có thể gã biết điều gì đó khác nữa.”

      Erlendur vẫn yên lặng.

      “Ý bà là gì?” Rốt cuộc ông .

      “Ông có biết điều gì hay ho nhất về Nordurmýri ?” Marion Briem hỏi.

      ,” Erlendur , cảm thấy là khó để theo kịp dòng suy nghĩ của Marion.

      ràng là tôi để lỡ nó.”

      “Cái gì vậy?”

      Marion ngừng lại thoáng như để tăng thêm sức nặng cho lời của mình.

      “Nordurmýri. Vùng phía Bắc Mire.”

      sao?”

      “Những ngôi nhà được xây dựng đầm lầy.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      26





      Sugurdur Óli ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ ra mở cửa biết định gì trước khi kịp giải thích mọi chuyện. Lần này lại đứng trước cầu thang khác, đó là khu nhà ba tầng ở Grafarvogur. cần phải tự giới thiệu và mới được nửa lý do tại sao mình ở đây người phụ nữ mời vào nhà, thêm rằng bà ta chờ đến.

      Lúc đó là vào sáng sớm. Bên ngoài trời mưa bụi và màu ảm đạm của mùa thu lan tràn toàn thành phố như thể để khẳng định thêm là mùa đông đến rất gần, tối hơn và lạnh hơn nữa. đài, người ta mô tả đó là tình trạng mưa tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ. Người phụ nữ đề nghị cầm áo khoác cho . người đàn ông trạc tuổi bà ta bước ra khỏi căn bếp và bắt tay thay lời chào. Họ đều tầm bảy mươi tuổi, mặc áo khoác rộng với tất trắng như thể chuẩn bị bộ tập thể dục. xen vào bữa uống cà phê buổi sáng của hai người.

      Ngôi nhà rất nhưng được bài trí rất thuận tiện, với nhà tắm , căn bếp cùng phòng khách và phòng ngủ khá rộng rãi. Trong nhà rất nóng. Sigurdur Óli nhận lời mời uống cà phê và xin thêm cốc nước lọc. Cổ họng của ngay lập tức trở nên khô rát. Họ qua về chuyện thời tiết cho đến khi Sigurdur Óli đợi thêm được nữa.

      “Dường như ông bà chờ tôi đến,” và nhấp ngụm cà phê. Nó quá loãng và có vị tệ.

      “Phải, ai chuyện gì khác ngoài người phụ nữ đáng thương mà tìm kiếm,” bà ta . Sigurdur Óli nhìn bà ta thờ ơ.

      “Tất cả mọi người ở Húsavík,” người phụ nữ , như kiểu bà ta cần phải giải thích điều quá ràng như thế. “Chúng tôi chẳng chuyện gì khác từ khi các bắt đầu tìm bà ấy. Chúng tôi có câu lạc bộ rất lớn cho những người đến từ Húsavík trong thành phố. Tôi chắc chắn rằng tất cả mọi người đều biết các tìm kiếm người phụ nữ đó.”

      “Vậy chuyện đó thành chủ đề bàn tán của cả thị trấn à?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Ba người bạn của tôi đến từ miền Bắc nhưng sống ở đây gọi điện cho tôi từ tối hôm qua, và sáng nay tôi lại nhận được cú nữa từ Húsavík. Người ta bàn tán về chuyện đó suốt.”

      “Vậy mọi người có kết luận gì chưa?”

      “Vẫn chưa,” bà ta và nhìn sang chồng. “Người đàn ông đó làm gì bà ta?”

      Bà ta buồn che giấu tò mò của mình, buồn che giấu tọc mạch. Sigurdur Óli bực mình khi thấy bà ta sốt sắng hỏi từng chuyện tỉ mỉ và cố gắng dò xét từng lời của .

      “Đó là vấn đề liên quan đến hành vi bạo lực,” . “Chúng tôi tìm kiếm nạn nhân, nhưng có lẽ là bà biết rồi.”

      “À phải, nhưng tại sao chứ? Ông ta làm gì bà ta? Và tại sao lại là bây giờ? Tôi nghĩ, hay chúng tôi nghĩ,” bà ta và nhìn vào người chồng khi ấy ngồi yên lặng theo dõi cuộc trò chuyện, “rằng là lạ khi nó còn quan trọng sau ngần ấy năm. Tôi nghe là bà ta bị hiếp. Có đúng thế ?”

      “Rất tiếc là tôi thể tiết lộ bất cứ thông tin nào liên quan đến quá trình thẩm vấn,” Sigurdur Óli đáp. “Và có lẽ điều đó cũng quan trọng. Tôi nghĩ là bà nên làm ầm chuyện đó quá lên. Khi bà chuyện với những người khác ấy, ý tôi là thế. Bà có thể cho tôi biết điều gì đó có ích ?”

      Hai vợ chồng nhìn nhau.

      “Làm chuyện ầm ĩ lên ư?” Bà ta đầy ngạc nhiên. “Chúng tôi làm ầm chuyện đó lên. Ông có nghĩ là chúng ta làm ầm lên , Eyvi?” Bà ta nhìn chồng, ông ta dường như biết phải trả lời thế nào. “Nào, trả lời tôi !” Bà ta lanh lảnh và ông ta bắt đầu trả lời.

      tôi thế. Điều đó là đúng.”

      Điện thoại của Sigurdur Óli reo. để nó lỏng lẻo như Erlendur mà để trong cái bao lịch đeo bên thắt lưng. Sigurdur Óli xin lỗi hai vợ chồng rồi nghe điện thoại. Đó là Erlendur.

      có thể gặp tôi ở nhà Holberg được ?” ông hỏi.

      “Có chuyện gì thế?” Sigurdur Óli đáp.

      “Đào thêm,” Erlendur và tắt máy.

      Khi Sigurdur Óli lái xe đến Nordurmýri, Erlendur và Elínborg ở đó. Erlendur đứng ở cửa tầng hầm và hút thuốc. Elínborg ở trong căn hộ. Sigurdur có thể nhìn thấy ngửi ngửi xung quanh. nhìn Erlendur lúc này nhún vai rồi ném điếu thuốc vào trong vườn và họ cùng vào căn hộ.

      nghĩ là ở đây có mùi gì?” Erlendur hỏi Sigurdur Óli, và Sigurdur Óli ngửi ngửi trong khí như Elínborg. Họ từ phòng này sang phòng khác, xác định thứ mùi, trừ Erlendur vì khứu giác của ông cực kỳ kém sau nhiều năm hút thuốc.

      “Khi tôi đến đây lần đầu tiên,” Elínborg , “tôi nghĩ rằng tòa nhà hoặc căn hộ như thế này hẳn phải dành cho những người nuôi ngựa. Cái mùi làm tôi nghĩ đến ngựa, những chiếc ủng ngựa, yên ngựa, hoặc những thứ đại loại như vậy. Cả phân ngựa. Chuồng ngựa nữa, thực là vậy. Cái mùi đó giống như cái mùi trong căn hộ đầu tiên mà vợ chồng tôi mua. Nhưng cũng chẳng có ai ngựa sống ở đó cả. Đó là hỗn hợp của rác rưởi và ẩm thấp. Cái lò sưởi rỉ ra đến tận thảm và ván lót sàn nhưng chẳng ai làm gì cả. Chúng tôi cho sửa chữa phòng tắm nhưng những người thợ sửa ống nước làm ăn rất cẩu thả, chỉ nhét rơm vào cái lỗ và trát lớp bê tông mỏng lên đó. Vì thế lúc nào trong nhà cũng có mùi cống rãnh bốc lên từ vết sửa chữa.”

      “Điều đó có nghĩa là?” Erlendur hỏi.

      “Tôi cho là ở đây cũng có mùi tương tự, có lẽ còn tệ hơn. Ẩm thấp, rác rưởi và chuột cống.”

      “Tôi gặp Marion Briem,” Erlendur , chắc là họ biết cái tên đó. “Tình cờ bà ta đọc được thông tin về Nordurmýri và đến kết luận thực tế nơi đây là đầm lầy.”

      Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nhau.

      “Nordurmýri từng là làng tách biệt ở giữa Reykjavík,” Erlendur tiếp. “Những ngôi nhà được xây dựng trong hoặc chỉ ngay sau chiến tranh. Iceland trở thành nước Cộng hòa và họ đặt tên đường phố theo tên những hùng trong tiểu thuyết, Gunnarsbraut, Skeggjagata và đại loại như vậy. Nó là nơi tụ tập đủ mọi thành phần, từ những người khá giàu, thậm chí là giàu, cho đến những kẻ chẳng có lấy xu, do đó họ thuê những ngôi nhà rất rẻ mạt như thế này. Rất nhiều người giống Holberg sống ở Nordurmýri, mặc dù hầu hết trong số đó có văn hóa hơn Holberg, và rất nhiều người sống trong những căn hộ dưới tầng hầm y hệt thế này. Marion với tôi như thế.”

      Erlendur dừng lại.

      đặc điểm khác của Nordurmýri là loại căn hộ dưới tầng hầm này. Lúc đầu có loại nhà ở tầng hầm, nhưng rồi những người chủ sửa chúng, rồi xây bếp và tường, tạo ra các phòng, tạo ra nơi sống. Trước đây những tầng hầm này là nơi dành cho, Marion gọi là gì nhỉ, những căn hộ khép kín độc lập. Hai người có hiểu đó là gì ?”

      Cả hai cùng lắc đầu.

      “Tất nhiên, hai người còn quá trẻ,” Erlendur , biết rằng họ rất ghét ông điều đó. “Trong những tầng hầm này là phòng của các . Họ là người ở trong nhà những kẻ giàu có hơn. Họ ở trong những căn phòng như cái lỗ thế này. Ở đó còn có phòng giặt nữa, phòng để nấu món haggis, ví dụ như vậy, và các món ăn khác, nhà kho, nhà tắm, và tất cả những thứ khác.”

      quên rằng đó là đầm lầy,” Sigurdur Óli cách châm biếm.

      “Ông định với chúng tôi điều gì quan trọng đây?” Elínborg hỏi.

      “Ở dưới những tầng hầm này là những lớp móng...” Erlendur .

      “Khá là bất thường nhỉ,” Sigurdur Óli theo Elínborg.

      “… cũng giống như dưới tất cả những ngôi nhà khác,” Erlendur để lời châm biếm của Sigurdur Óli xen vào. “Nếu các bạn chuyện với thợ sửa ống nước như Marion Briem làm...”

      “Thế rốt cuộc tất cả những chuyện nhảm nhí về cái bà Marion Briem này là cái gì vậy?” Sigurdur Óli hỏi.

      “… các bạn thấy rằng họ được gọi khá thường xuyên đến Nordurmýri để giải quyết vấn đề có khả năng tăng lên theo từng năm, từng thập kỷ sau khi các ngôi nhà được xây dựng nền đầm lầy. Nó xảy ra ở số nơi chứ phải ở những chỗ khác. Các bạn có thể quan sát bên ngoài số ngôi nhà: rất nhiều trong số chúng được khoác lớp đá cuội ốp tường, và nơi hết đá cuội cũng là nơi những mảng tường trần lộ ra ở gần mặt đất. dải dài khoảng gần mét. Vấn đề ở đây là đất lún cả trong nhà nữa.”

      Erlendur thấy hai người thôi còn cười nữa.

      “Trong kinh doanh bất động sản người ta gọi đây là lỗi được che giấu và rất khó giải quyết. Khi cả ngôi nhà lún xuống, nó tạo áp lực lên các ống thoát nước và chúng vỡ tung dưới sàn nhà. Trước khi các bạn biết điều đó, các bạn đổ nước thải ngay xuống lớp móng. Điều này có thể xảy ra trong nhiều năm bởi vì mùi thể thoát ngay ra qua lớp bê tông. Nhưng các khoảng ẩm ướt hình thành vì dòng nước nóng trong nhiều ngôi nhà cũ được nối với hệ thống cống ngầm và rò rỉ vào tầng hầm khi những cái ống bị vỡ, nó nóng lên và hơi nước bốc lên bề mặt. Những tấm ván lót sàn vì thế bị cong .”

      Đến lúc này Erlendur giành được chú ý tuyệt đối của họ.

      “Và Marion cho ông biết tất cả chuyện đó?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Để sửa chữa cố đó phải đào nền nhà lên.” Erlendur tiếp, “và xuyên qua móng để sửa đường ống. Những người thợ với Marion rằng đôi lúc khoan qua sàn nhà, họ gặp phải hố sâu. Có chỗ sàn nhà khá mỏng và bên dưới có cả túi khí. Mặt đất lún được nửa mét, thậm chí có thể là cả mét. Tất cả là do đất đầm lầy.”

      Sigurdur Óli và Elínborg nhìn nhau.

      “Vậy có cái hố nào ở dưới sàn nhà này ?” Elínborg hỏi, lấy chân giậm giậm.

      Erlendur mỉm cười.

      “Marion thậm chí cố gắng tìm ra người thợ sửa chữa từng đến ngôi nhà này trong cái năm diễn ra đại lễ quốc gia. Mọi người đều nhớ cái năm đó và người đàn ông còn nhớ ràng là đến đây bởi sàn nhà bỗng trở nên ẩm ướt.”

      “Thế ông muốn gì nào?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Người thợ đó phá sàn nhà ở đây. Lớp sàn dày lắm. Có rất nhiều hố bên dưới. Người thợ đó nhớ việc mình làm rất bởi ông ta rất ngạc nhiên khi Holberg để ông ta hoàn thành nốt công việc của mình.”

      “Rồi sao nữa?”

      “Người thợ phá sàn nhà ra và sửa đường ống, sau đó Holberg ném ông ta ra ngoài và rằng mình tự làm nốt. Và ông ta làm.”

      Họ đứng yên lặng cho đến khi Sigurdur Óli thể nén nổi tò mò nữa.

      “Marion Briem?” . “Marion Briem!” nhắc nhắc lại cái tên như thể là cố gắng để hiểu nó. Erlendur đúng. còn quá trẻ nên nhớ được Marion từng làm trong lực lượng. nhắc lại cái tên như thể đó là câu đố hóc búa, sau đó đột nhiên dừng lại và trông rất trầm ngâm, rồi hỏi:

      “Đợi chút. Cái người tên Marion này là ai? Là đàn ông hay đàn bà vậy?”

      Sigurdur Óli nhìn Erlendur đầy dò xét.

      “Đôi lúc tôi cũng tự hỏi như vậy đấy,” Erlendur đáp và rút điện thoại ra.






      27





      Đội pháp y bắt đầu đào bới sàn nhà. Họ phải mất ngày mới được cho phép tiến hành việc đó. Erlendur trình bày vụ của mình trong cuộc họp với ủy viên cảnh sát, và ông ta đồng ý, mặc dù hơi lưỡng lự, rằng họ có đủ chứng cứ và nghi vấn cần thiết để đào sàn nhà Holberg lên. Vấn đề được bàn rất gấp gáp vì vụ giết người xảy ra trong tòa nhà.

      Erlendur trình bày về vụ khai quật như là kết nối đến việc truy tìm kẻ sát hại Holberg, ông ý rằng Grétar rất có thể còn sống và là kẻ sát nhân. Cảnh sát được lợi gấp đôi từ việc khai quật. Nếu linh cảm của Marion Briem là đúng, nghi phạm lớn nhất là Grétar và cảnh sát giải quyết được vụ mất tích kéo dài hơn phần tư thế kỷ này.

      Người ta điều chiếc xe tải có kích cỡ lớn nhất đến để chở toàn bộ những thứ chứa trong nhà Holberg. Trời bắt đầu xẩm tối khi chiếc xe tải quay trở lại ngôi nhà và ngay sau đó chiếc máy kéo lối ra cái máy khoan khí nén. nhóm chuyên gia pháp y tập hợp ở đó và có thêm các thám tử cùng tham gia với họ. Những người sống trong tòa nhà được di dời hết.

      Trời mưa suốt cả ngày, cũng giống như những ngày hôm trước. Tuy nhiên lúc này mưa ngớt dần trong cơn gió mùa thu và đậu lại gương mặt Erlendur khi ông đứng ở bên, tay kẹp điếu thuốc. Sigurdur Óli và Elínborg đứng cùng ông. đám đông tụ tập trước ngôi nhà, nhưng dường như họ lưỡng lự dám tiến vào sâu hơn. Họ là các nhà báo, những người quay phim truyền hình và nhiếp ảnh gia cho các báo. Xe cộ với đủ mọi kích cỡ được trang trí với đủ loại logo báo chí và công ty truyền hình có mặt khắp nơi, và Erlendur, người cắt hết mọi tiếp xúc với báo giới, băn khoăn biết có nên giải tán đám đông .

      Căn hộ của Holberg nhanh chóng bị dọn sạch. Chiếc xe tải lớn vẫn đứng ở sân ngoài trong khi người ta cân nhắc xem nên làm gì với đống đồ đạc. Cuối cùng Erlendur cầu rằng chúng phải được mang đến kho chứa đồ của cảnh sát. Các tấm vải sơn lót sàn và các tấm thảm được mang ra khỏi căn hộ và chuyển lên chiếc xe tải, sau đó chiếc xe ầm ầm chuyển bánh.

      Đội trưởng đội pháp y bắt tay chào Erlendur. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, tên là Ragnar, hơi béo với mái tóc bờm xờm. Ông ta được đào tạo bên , chỉ đọc truyện kinh dị của và là người say mê những sê ri trinh thám truyền hình.

      “Ông muốn chúng tôi làm điều quái quỷ gì ở đây nào?” Ông ta hỏi rồi nhìn ra đám nhà báo và phóng viên. Có chút hài hước trong giọng của ông ta. Ông ta nghĩ rằng là thú vị khi họ đào sàn nhà lên để tìm xác chết.

      “Trông nó như thế nào?”

      “Tất cả sàn nhà đều có lớp sơn tàu phủ lên,” Ragnar . “Tôi thể đảm bảo được là chúng có bị làm giả . Chúng tôi thấy có lớp bê tông nào mới hoặc bất kỳ điều gì cho thấy có sửa chữa ở đây. Người của tôi đập sàn nhà bằng búa, nhưng dường như các hố có ở khắp nơi. biết có phải do bị lún hay . Lớp bê tông trong bản thân tòa nhà rất dày, chất liệu tốt, có kiềm. Nhưng có rất nhiều hố ẩm sàn nhà. Người thợ sửa ống nước mà ông gặp giúp được chúng ta sao?”

      “Ông ta sống trong nhà nghỉ dưỡng ở Akureyri và rằng về miền Nam cho đến cuối đời. Ông ta mô tả khá chính xác nơi ông ta phá sàn nhà ngày trước.”

      “Chúng tôi cũng lắp đặt chiếc camera xuống dưới đường ống nước thải, quan sát việc thải nước xem có gì bất thường và xem chúng ta có phát ra chỗ sửa cũ .”

      “Ông có thực cần cái máy khoan to đến thế ?” Erlendur hỏi, hất đầu về phía chiếc máy kéo.

      “Chắc chắn là cần. Chúng tôi có những máy khoan hơn, nhưng chúng đâm thủng được phân lỏng. Chúng tôi cũng có những máy chạy bằng khí nén và nếu tìm ra hố, chúng tôi có thể đào xuyên qua lớp bề mặt và luồn chiếc camera qua nó giống như cái người ta sử dụng để phát ra những ống cống bị hỏng.”

      “Hy vọng là nó được việc. Chúng tôi muốn phải đập cả ngôi nhà xuống.”

      “Dù sao trong cái đống rác ấy cũng có mùi hôi thối khó chịu,” đội trưởng đội pháp y . Rồi hai người quay trở vào tầng hầm. Ba chuyện gia pháp y mặc áo trắng với găng tay cao su và búa lại quanh nhà, đập vào sàn nhà và đánh dấu những nơi mà họ cho là có hố bằng những chiếc bút dạ màu xanh.

      “Theo cơ quan điều tra về nhà cửa tầng hầm được chuyển thành căn hộ vào năm 1959,” Erlendur . “Holberg mua nó vào năm 1962 và có lẽ chuyển đến đây ngay lập tức. Ông ta sống ở đây từ hồi đó.”

      trong số các chuyên gia pháp y đến chỗ họ và chào Erlendur. ta có tập bản vẽ về tòa nhà, mỗi bản vẽ tầng.

      “Các nhà vệ sinh nằm ở trung tâm mỗi tầng. Các ống nước thải từ các tầng xuống và đến lớp nền móng - nơi có nhà vệ sinh của tầng hầm. Nó ở trong tầng hầm trước khi người ta sửa sang lại, và các ông có thể tưởng tượng ra là căn hộ này được thiết kế xung quanh nó. Nhà vệ sinh được nối với đường ống nước thải trong phòng tắm, sau đó cái ống tiếp tục đâm ra phía Đông qua phần phòng khách, luồn xuống dưới phòng ngủ và ra đường.”

      “Việc tìm kiếm dính líu đến đường ống nước thải,” ông đội trưởng .

      , nhưng chúng tôi đặt chiếc camera vào ống dẫn từ ngoài đường. Họ mới với tôi là cái ống bị tách ra khi nó đến phòng ngủ và chúng tôi thấy cần phải xem qua chỗ đó trước. Nó ở cùng cái chỗ mà tôi nghĩ là sàn nhà bị phá ra.”

      Ragnar gật đầu và nhìn Erlendur, người lúc này nhún vai như thể là những gì mà bên pháp y làm chẳng liên quan gì đến ông cả.

      “Đường ống thể nào bị tách ra cách đây quá lâu,” ông đội trưởng . “Mùi có lẽ bốc lên từ đó. Ông rằng người đàn ông này bị chôn dưới móng nhà cách đây hơn hai mươi lăm năm sao?”

      “Ít nhất là cái gã ấy mất tích kể từ ngày đó,” Erlendur . Lời của họ lẫn vào tiếng búa đập thùm thụp và trở thành chuỗi vang vọng ầm ĩ liên tục giữa các bức tường trống. Chuyên gia pháp y lấy thiết bị bảo vệ tai ra khỏi chiếc hộp và đeo chúng vào, sau đó cầm lấy chiếc máy khoan điện loại và cắm điện. ta bấm cái nút mấy lần để thử, rồi nhấn nó xuống sàn nhà và bắt đầu phá. thanh khủng khiếp và những người còn lại trong đội cũng phải đeo thiết bị bảo vệ tai. ta tiến từng chút . Lớp bê tông cứng tróc ra. ta thôi thử nữa và lắc đầu.

      “Chúng ta cần phải khởi động cái máy kéo thôi,” ta , bụi trắng bao phủ khắp mặt. “Và mang cả cái máy khí nén vào nữa. Chúng ta cần mặt nạ. Rốt cuộc là cái gã ngu ngốc nào nghĩ ra cái ý tưởng hay ho này vậy?” ta và đập vào sàn nhà.

      “Holberg chắc dùng đến cái máy nén khí dưới chỗ tối tăm thế đâu,” người đội trưởng nhận xét.

      “Ông ta cần phải làm gì dưới đó hết,” Erlendur . “Chính người thợ sửa cống đào cái hố sàn nhà cho ông ta.”

      “Ông có cho là Holberg ném Grétar xuống hố phân ?”

      “Chúng ta xem xem. Có thể tất cả đều là sai lầm.”

      Erlendur bước ra ngoài. Sigurdur Óli và Elínborg ngồi xe ăn xúc xích mà Sigurdur Óli mua từ cửa hàng gần nhất. phần xúc xích vẫn chờ Erlendur bảng đồng hồ. Ông ăn ngấu nghiến.

      “Nếu chúng ta tìm ra thi thể của Grétar ở đây, điều đó có nghĩa là gì?” Elínborg hỏi Erlendur và lau miệng.

      “Giá mà tôi biết được,” Erlendur cách trầm tư. “Tôi chỉ ước là tôi biết được!”

      Lúc này ông chánh thanh tra chạy ra và đập vào cửa kính gọi Erlendur tới chỗ mình lát. Sigurdur Óli và Elínborg cùng ra khỏi xe. Chánh thanh tra tên là Hrólfur và ông ta nghỉ ốm cả ngày, tuy nhiên lúc này trông ông ta khỏe như vâm. Hrólfur rất béo và cái cách ông ta ăn mặc chẳng còn giấu điều đó được là bao. Ông ta thuộc tuýp người lười nhác và hiếm khi đóng góp được điều gì cho quá trình điều tra. Năm nào ông ta cũng nghỉ ốm nhiều tuần liền.

      “Tại sao tôi được thông báo về cuộc khai quật này?” ông ta hỏi đầy tức giận.

      “Ông bị ốm mà.” Erlendur đáp.

      là nhảm nhí,” Hrólfur . “Đừng có nghĩ rằng ông có thể điều hành cả cơ quan theo ý mình. Tôi là cấp của ông đấy. Ông phải với tôi về vụ khai quật này trước khi để cho những ý nghĩ ngu ngốc thậm tệ của mình trở thành thực!”

      “Đợi chút, tôi nghĩ rằng ông bị ốm mà,” Erlendur nhắc lại, giả vờ ngạc nhiên.

      “Và ông nghĩ thế nào mà lại lừa dối cả ủy viên hội đồng cảnh sát như thế?” Hrólfur rít lên. “Làm thế nào mà ông lại nghĩ rằng có người đàn ông dưới sàn nhà này cơ chứ? Ông chẳng có gì khẳng định điều đó cả. Hoàn toàn chẳng có gì ngoài mấy chuyện cứt về nền móng ngôi nhà và mùi hôi thối. Ông bị điên rồi à?”

      Sigurdur Óli ngập ngừng bước về phía họ.

      “Có người phụ nữ ở đây mà tôi nghĩ là ông phải chuyện với bà ta, Erlendur,” rồi đưa ra chiếc điện thoại mà Erlendur để quên trong ô tô. “Đó là chuyện riêng tư. Bà ấy khá là kích động.”

      Hrólfur quay sang nhìn Sigurdur Óli, cầu ta xéo và để họ chuyện.

      Sigurdur Óli làm theo lời cầu đó.

      “Ông phải chuyện với bà ta ngay lập tức, Erlendur.”

      “Chuyện này có nghĩa là gì vậy? Ông hành xử như thể là tôi tồn tại vậy!” Hrólfur quát lên, giậm chân bình bịch. “Đây phải là thông đồng khốn nạn sao? Erlendur, nếu chúng ta cứ tiếp tục xới tung nền móng nhà dân lên bởi vì chúng bốc mùi, rốt cuộc chúng ta chẳng làm được gì khác nữa. Điều này quá vô lý! là lố bịch!”

      “Marion Briem đưa ra ý tưởng thú vị này,” Erlendur vẫn hoàn toàn điềm tĩnh, “và tôi cho rằng nó đáng để điều tra. Ủy viên hội đồng cảnh sát cũng nghĩ vậy. Hãy tha lỗi cho tôi vì báo cáo với ông, nhưng tôi rất vui vì thấy ông khỏe lại. Và tôi thực muốn , Hrólfur, rằng trông ông rất khỏe mạnh. Thứ lỗi cho tôi nhé.”

      Erlendur ngang qua Hrólfur, người lúc này nhìn chằm chằm vào ông và Sigurdur Óli, sẵn sàng để đáp trả điều gì đó, nhưng lại chẳng biết phải gì.

      “Có việc,” Erlendur , “đáng lẽ ra tôi phải làm việc đó từ lâu lắm rồi.”

      “Sao cơ?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Liên hệ với Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng để xem họ có thể cho chúng ta biết liệu Holberg có ở Húsavík hoặc quanh đó trong những năm đầu 1960 .”

      “Được rồi. Đây, ông chuyện với người phụ nữ này .”

      “Người phụ nữ nào cơ?” Erlendur và cầm lấy điện thoại. “Tôi chẳng quen biết người phụ nữ nào cả.”

      “Người ta nối máy bà ta với điện thoại của ông. Bà ta hỏi tìm ông ở sở cảnh sát. Họ rằng ông bận, nhưng bà ta cứ khăng khăng đòi chuyện.”

      Lúc này chiếc máy khoan khí nén xe kéo bắt đầu nổ máy. thanh đinh tai vang lên từ tầng hầm và đám bụi dày cuộn lên. Cảnh sát che hết các cửa sổ nên ai có thể nhìn vào bên trong. Tất cả mọi người trừ người điều khiển chiếc khoan đều ra ngoài và đứng ở khoảng cách khá xa, chờ đợi. Họ xem đồng hồ và hình như thảo luận xem muộn đến thế nào. Họ biết rằng mình thể tiếp tục làm ồn như vậy suốt cả đêm ở giữa khu dân cư đông đúc. Họ phải kết thúc sớm và tiếp tục làm vào sáng hôm sau hoặc phải tìm cách khác.

      Erlendur chạy nhanh về phía ô tô với chiếc điện thoại và đóng cửa để tránh tiếng ồn. Ông nhận ra giọng ngay lập tức.

      ta ở đây,” Elín ngay khi bà nghe thấy giọng Erlendur điện thoại. Dường như bà rất kích động.

      “Thư giãn nào, Elín,” Erlendur . “Bà về ai vậy?”

      ta đứng trước cửa nhà dưới trời mưa, nhìn chằm chằm vào tôi.” Giọng bà chuyển sang thầm.

      “Ai cơ, Elín? Bà có ở nhà ? ở Keflavík ấy?”

      “Tôi biết đến khi nào, tôi cũng biết đứng đó được bao lâu rồi. Tôi chỉ nhận ra thôi. Người ta nối điện thoại cho tôi gặp ông.”

      “Tôi hiểu lắm. Bà về ai vậy, Elín?”

      “Tất nhiên là về người đàn ông đó rồi. Con quái vật ấy. Tôi chắc chắn điều đó.”

      “Ai cơ?”

      “Tên súc vật tấn công Kolbrún!”

      “Kolbrún? Bà đến chuyện gì thế?”

      “Tôi biết. Chuyện này thể diễn ra được, nhưng ta cứ đứng ở đây suốt.”

      “Bà nhầm lẫn gì phải ?”

      “Đừng có là tôi nhầm lẫn. Đừng thế! Tôi biết đích xác những gì mình mà.”

      “Ai tấn công Kolbrún?”

      “Trời ơi, là HOLBERG ấy!” Thay vì lên giọng, Elín rít lên qua điện thoại. “ ta đứng bên ngoài nhà tôi!”

      Erlendur gì.

      “Ông còn ở đó ?” Elín thào, “Ông làm gì?”

      “Elín,” Erlendur cách nhấn mạnh. “Đó thể là Holberg được. Ông ta chết rồi. Chắc đó là ai đó.”

      “Đừng có với tôi như thể tôi là đứa trẻ vậy. ta đứng ở ngoài kia dưới trời mưa, nhìn tôi chằm chằm. Cái con quái vật ấy.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      28





      Kết nối ngừng và Erlendur nổ máy. Sigurdur Óli và Elínborg nhìn xe ông lùi xuyên qua đám đông và biến mất đường phố. Họ nhìn nhau và nhún vai như thể họ thôi còn cố gắng tìm hiểu về ông cách đây nhiều năm rồi.

      Thậm chí trước khi ra khỏi con đường ông gọi cho cảnh sát Keflavík và cầu họ đến nhà Elín để bắt người đàn ông trong khu đó, ta mặc áo khoác có mũ trùm đầu màu xanh dương, quần jean và giầy thể thao màu trắng. Elín mô tả hình dáng ông ta. Ông bảo viên trung sĩ bật còi hay đèn hiệu mà phải lặng lẽ tiến vào để đánh động ta.

      bà già ngu ngốc!” Erlendur tự với mình và ngắt điện thoại.

      Ông lái xe ra khỏi Reykjavík nhanh nhất có thể, lao qua Hafnarfjordur và đến đường Keflavík. Đường rất nhiều xe cộ và tầm nhìn rất hẹp, nhưng ông cho xe chạy ngoằn ngoèo giữa những chiếc ô tô, thậm chí là qua cả đường dành cho người bộ. Ông bỏ qua tất cả các đèn giao thông và đến Keflavík trong vòng nửa giờ. May cho ông là Cục điều tra hình gần đây phân phát những chiếc đèn cảnh sát màu xanh để họ có thể đặt lên nóc xe trong những trường hợp khẩn cấp. Lúc đó ông cười ngất, nhớ lại những dụng cụ trong chương trình trinh thám tivi và nghĩ rằng nực cười khi ra ngoài mà lại sử dụng những đồ dùng sân khấu mang tính chất dọa dẫm như thế này ở Reykjavík.

      Có hai xe cảnh sát đỗ bên ngoài nhà Elín khi ông đến. Elín đợi ông trong nhà với ba cảnh sát. Bà rằng người đàn ông biến mất vào bóng tối ngay trước khi xe cảnh sát đến ngôi nhà. Bà chỉ ra nơi đứng và hướng mà chạy, nhưng cảnh sát thể nào lần ra được dấu vết của . Cảnh sát bối rối biết nên xử trí với Elín như thế nào, bà từ chối cho họ biết người đàn ông đó là ai và tại sao lại nguy hiểm - hình như tội duy nhất của là đứng bên ngoài ngôi nhà của bà dưới trời mưa.

      Khi họ hỏi Erlendur, ông với họ rằng người đàn ông này có liên quan đến vụ án mạng ở Reykjavík, ông cầu họ thông báo với cảnh sát Reykjavík nếu họ tình cờ trông thấy ai có hình dáng giống như mô tả.

      Elín khá bấn loạn và Erlendur quyết định rằng tốt nhất là nên cầu cảnh sát khỏi nhà bà ta càng sớm càng tốt. Ông làm điều đó mà mất nhiều công sức. Họ rằng mình có nhiều việc phải làm hơn là tìm người trong trí tưởng tượng của bà già, mặc dù họ chắc chắn rằng Elín nghe thấy họ điều đó.

      “Tôi thề là ta đứng ở ngoài,” bà với Erlendur khi họ còn lại mình trong ngôi nhà. “Tôi biết là làm cách nào, nhưng đó chính là !”

      Erlendur nhìn bà và thấy rằng Elín với tất cả nghiêm túc có thể. Ông biết rằng gần đây bà bị căng thẳng quá nhiều.

      “Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả, Elín ạ. Holberg chết, tôi thấy ông ta trong nhà xác.” Ông dừng lại để nghĩ, sau đó thêm, “tôi thấy quả tim của ông ta.”

      Elín nhìn ông.

      “Chắc ông nghĩ rằng tôi lẩn thẩn, ông nghĩ rằng tôi tưởng tượng ra điều đó. Rằng đó là cách để thu hút chú ý bởi vì ...”

      “Holberg chết rồi,” Erlendur ngắt lời bà ta. “Tôi phải nghĩ thế nào đây?”

      “Vậy đó là hình ảnh giống hệt ông ta,” Elín .

      “Bà mô tả người đàn ông đó cụ thể hơn xem nào.”

      Elín đứng lên, đến cửa sổ phòng khách và chỉ tay ra ngoài cơn mưa.

      ta đứng ở đó, gần con đường dẫn ra đường phố giữa các dãy nhà. Đứng hoàn toàn yên lặng và nhìn về phía tôi. Tôi biết ta có thấy tôi hay . Tôi cố gắng trốn khỏi . Lúc ấy tôi đọc sách trong phòng khách và tôi đứng lên khi trời bắt đầu tối. Tôi định bật đèn lên tình cờ nhìn qua cửa sổ. để đầu trần và hình như quan tâm đến việc mình ướt sũng. Mặc dù đứng ngay ở đó, dường như cách xa hàng dặm vậy.”

      Elín nghĩ lát. “Tóc màu đen và khoảng tầm bốn mươi tuổi. Chiều cao trung bình.”

      “Elín,” Erlendur . “Bên ngoài trời tối. Mưa rơi như trút. Bà khó có thể nhìn qua cửa sổ. Con đường mòn được chiếu sáng. Bà đeo kính. Bà với tôi rằng...”

      “Lúc đó trời mới chỉ bắt đầu xẩm tối thôi và tôi chạy ngay lại chỗ chiếc điện thoại. Tôi nhìn ta qua cửa sổ này và cửa sổ nhà bếp. Phải mất lúc tôi mới nhận ra đó là Holberg, hoặc ai đó giống như . Con đường mòn có đèn, nhưng có khá nhiều xe cộ qua lại và mỗi khi có chiếc xe qua, nó lại chiếu sáng ta nên tôi có thể trông thấy mặt khá .”

      “Làm thế nào bà có thể chắc chắn như vậy?”

      “Đó là hình ảnh của Holberg khi còn trẻ,” Elín . “ phải là kẻ như trong hình báo chí.”

      “Bà gặp Holberg hồi ta còn trẻ à?”

      “Phải, tôi nhìn thấy ta. Kolbrún được triệu tập đến Cục điều tra hình lần, hoàn toàn bất ngờ. Người ta với em tôi rằng họ cần nghe giải thích thêm về số phần trong lời khai của nó. Tất cả đều là dối trá. Có ai đó tên là Marion Briem xử lý vụ việc. Cái thể loại tên gì thế biết nữa? Marion Briem ấy? Họ cầu Kolbrún đến Reykjavík. Em tôi nhờ tôi cùng và tôi . Chúng tôi vào đó và cái bà Marion ấy gặp chúng tôi rồi chỉ chúng tôi đến căn phòng. Chúng tôi vừa ngồi đó lát cửa bất ngờ bật mở và Holberg vào. Bà Marion kia đứng đằng sau , ở ngay cửa.”

      Elín ngừng lại.

      “Và chuyện gì xảy ra?” Erlendur hỏi.

      “Em tôi bị suy sụp nặng. Holberg cười nham nhở và phác cử chỉ tục tĩu bằng lưỡi, trông thấy Kolbrún túm lấy tôi như thể nó sắp chết đuối. Nó thở được. Holberg bắt đầu cười phá lên còn Kolbrún lên cơn. Mắt em tôi trợn lên, nó bắt đầu sùi bọt mét và ngã ra sàn nhà. Marion đưa Holberg ra ngoài nhưng tôi kịp nhìn thấy con quái vật đó. Dù đó là lần duy nhất nhưng tôi bao giờ quên được cái bản mặt ấy.”

      “Và tối nay bà trông thấy khuôn mặt tương tự bên ngoài cửa sổ?”

      Elín gật đầu.

      “Tôi bị sốc, tôi thừa nhận điều đó, và tất nhiên người đàn ông đó thể là Holberg, nhưng trông giống hệt ông ta.”

      Erlendur băn khoăn biết có nên cho bà biết suy nghĩ của mình gần đây . Ông tính toán những gì mình có thể với bà và liệu xem những điều ấy có gì dựa nền tảng . Họ ngồi đó trong yên lặng. Lúc đó là tối muộn và suy nghĩ của ông hướng về Eva Lind, ông lại cảm thấy nhói đau nơi lồng ngực và đập đập vào nó như thể động tác đó làm cơn đau biến mất.

      “Ông ổn chứ?” Elín hỏi.

      “Gần đây chúng tôi điều tra vài điều, nhưng tôi vẫn chưa biết liệu có gì đằng sau chúng ,” Erlendur . “Nhưng những gì xảy ra ở đây xác nhận giả thuyết đó. Nếu Holberg có nạn nhân khác, nếu hiếp người phụ nữ khác, có khả năng bà ta cũng có con như Kolbrún. Tôi băn khoăn về khả năng đó khi nghĩ về lời nhắn thi thể Holberg. Có thể là ông ta người con trai. Nếu vụ cưỡng hiếp xảy ra trước năm 1964 đến nay đứa con đó gần bốn mươi tuổi. Và có thể là đứng bên ngoài nhà bà tối nay.”

      Elín nhìn Erlendur, choáng váng.

      “Con trai của Holberg? Có thể là thế ?”

      “Bà rằng ta trông y hệt Holberg mà.”

      “Phải, nhưng...”

      “Tôi cứ nghĩ nghĩ lại về điều đó. Ở đâu đó trong vụ này bị thiếu kết nối, và tôi nghĩ rằng người đàn ông này rất có thể là mắt xích ấy.”

      “Nhưng tại sao? ta ở đây làm gì?”

      “Bà thấy điều đó quá ràng sao?”

      “Điều gì ràng cơ?”

      “Bà là bác của em ,” Erlendur và quan sát thay đổi gương mặt Elín khi điều ông dần dần sáng trong bà.

      “Audur là em của ,” bà . “Nhưng làm sao biết về tôi được? Làm sao biết tôi sống ở đâu? Làm sao lại nối kết Holberg với tôi được? Chẳng có gì viết về quá khứ của Holberg mặt báo, có bài nào viết về những vụ hiếp dâm hoặc việc có con . ai biết về Audur. Làm thế nào mà người đàn ông đó biết tôi là ai?”

      “Có thể cho chúng ta khi chúng ta tìm ra .”

      là kẻ giết Holberg, ông nghĩ thế ư?”

      “Chắc bà muốn hỏi tôi là có phải giết chết bố đẻ của mình ,” Erlendur .

      Elín suy nghĩ. “Lạy Chúa tôi,” bà .

      “Tôi biết,” Erlendur . “Nếu bà nhìn tháy ta ở bên ngoài lần nữa, hãy gọi cho tôi.”

      Elín đứng lên và đến bên cửa sổ nhìn ra con đường mòn như thể trông chờ nhìn thấy lần nữa.

      “Tôi biết rằng mình hơi cuồng loạn khi gọi ông và rằng Holberg ở đây, vì trong thoáng tôi cảm nhận rằng đó chính là . choáng váng khi thấy lại gương mặt đó. Nhưng tôi thấy sợ. Tôi cảm thấy tức giận hơn lúc nào hết. Nhưng có điều gì đó ở người đàn ông, cái cách ta đứng, cái cách cúi đầu. Có điều gì đó buồn buồn ở , nỗi đau đớn nào đó. Có lẽ vui. thể cảm thấy vui vẻ được. có liên lạc gì với bố mình ? Ông có biết ?”

      “Tôi chắc là ta thực tồn tại,” Erlendur . “Những điều bà củng cố giả thuyết . Nhưng chúng tôi có manh mối gì về người đàn ông đó. có bức ảnh nào về ở nhà Holberg nếu đó là ý bà muốn . Nhưng có ai đó gọi điện cho Holberg mấy lần ngay trước khi ông ta bị giết và ông ta rất sợ những cuộc gọi đó. Chúng tôi biết gì hơn thế.”

      Erlendur lấy điện thoại ra và xin lỗi Elín lát.

      “Ông còn bắt chúng tôi làm cái cái quỷ gì nữa đây?” Sigurdur Óli hét lên với giọng cực kỳ tức giận. “Họ đến được cái ống thải phân và nó đầy những con giòi bẩn thỉu, hàng triệu những con giòi kinh tởm nhung nhúc dưới sàn nhà. là ghê tởm. Ông ở nơi quái quỷ nào vậy?”

      “Keflavík. Có dấu hiệu nào của Grétar ?”

      . Chẳng có dấu vết của tên Grétar khốn kiếp nào cả,” Sigurdur Óli và tắt máy.

      “Thêm điều này nữa, ngài thanh tra,” Elín , “tôi vừa mới nhận ra điều khi ông rằng ta có liên quan đến Audur. Bây giờ tôi biết rằng mình đúng. Lúc đó tôi hiểu, nhưng có hình ảnh khuôn mặt mà tôi nghĩ là bao giờ nhìn thấy nữa. Đó là gương mặt trong quá khứ mà tôi chưa bao giờ quên.”

      “Là gì vậy?”

      “Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy sợ ta. Tôi nhận ra điều đó ngay lúc đầu. ta gợi cho tôi nhớ đến Audur. Có điều gì đó ở làm tôi nhớ đến Audur!”




      29





      Sigurdur Óli nhét điện thoại vào cái bao ở thắt lưng và trở vào ngôi nhà. ở trong đó cùng vài cảnh sát khác khi chiếc máy khoan khí nén đâm thủng lớp nền, và mùi hôi thối bốc lên kinh tởm đến mức nôn ngay lập tức. cùng mọi người chạy ngay ra cửa và nghĩ rằng mình nôn ra trước khi kịp chạy ra hít thở khí trong lành. Khi quay vào họ phải đeo kính bảo hộ và mặt nạ che miệng, nhưng cái mùi khủng khiếp vẫn xuyên qua chúng.

      Người điều khiển máy khoan mở rộng cái hố hơn đến cái ống cống bị vỡ. Điều này dễ dàng hơn khi ông ta đâm thủng được sàn nhà. Sigurdur Óli kinh hoàng khi nghĩ về chuyện cái ống bị vỡ cách đây bao lâu. Trông như thể chất thải đọng lại thành vũng lớn bên dưới sàn nhà. Có đám hơi nước khá bốc lên từ đó. đốt cây đuốc đưa xuống cái hố thải đó và thấy mặt đất lún xuống nửa mét so với lớp nền.

      Cái vũng thải giống như cái hố nhung nhúc những giòi bọ đen mù. nhảy ra đằng sau khi thấy số con lao tới luồng ánh sáng.

      “Cẩn thận!” hét lên và lao ra khỏi ngôi nhà. “Có những con chuột cống dưới cái hố khốn kiếp ấy. Đậy cái hố lại và gọi đội tiêu diệt sâu bọ tới cho tôi. Dừng lại ở đây thôi. Dừng tất cả lại ngay lúc này!”

      có ai phản đối. người trong đội pháp y trải tấm nhựa lên cái hố và toàn tầng hầm trống rỗng trong chớp mắt. Sigurdur Óli xé cái mặt nạ ra khi ra khỏi tầng hầm và hổn hển hít khí trời. Tất cả mọi người đều làm vậy.

      đường từ Keflavík về nhà, Erlendur nghe báo cáo về tiến trình điều tra ở Nordurmýri. nhân viên trong đội trừ sâu bọ được gọi đến, nhưng cảnh sát có bất kỳ động thái nào cho đến sáng hôm sau khi mọi con vật sống trong móng nhà bị tiêu diệt hoàn toàn. Sigurdur Óli về nhà, và vừa ra khỏi phòng tắm Erlendur gọi cho để cập nhật tình hình. Elínborg cũng về nhà. lính canh được cử đến bên ngoài căn hộ của Holberg trong khi nhân viên đội diệt sâu bọ làm nhiệm vụ. Hai xe cảnh sát đậu bên ngoài ngôi nhà suốt đêm.

      Eva Lind gặp Erlendur ở cửa lúc ông về. Lúc đó là chín giờ tối. kia . Trước khi ta với Eva Lind rằng mình đến gặp chồng và xem ta cảm thấy thế nào. ta chắc có nên với ta lý do của việc chạy trốn khỏi đám cưới . Eva Lind hối thúc ta làm điều đó, rằng nên giấu diếm bản chất con hoang của lão bố đểu cáng của mình. ta bao giờ nên bao che cho lão già ấy.

      Họ ngồi xuống chuyện trong phòng khách. Erlendur với Eva Lind mọi chuyện về quá trình điều tra và những gì diễn ra trong đầu ông. Ông làm thế phải để nhận được cảm thông về vụ án cho chính mình, mà nhằm phác ra hình dung ràng hơn về những gì xảy ra trong mấy ngày gần đây. Ông kể cho con bé nghe gần hết mọi chuyện, từ giây phút họ tìm ra cái xác trong tầng hầm, cái mùi trong nhà ông ta, lời nhắn để lại, bức ảnh cũ trong ngăn kéo, những thứ đồi trụy trong máy tính của ông ta, những chữ khắc mộ, Kolbrún và chị của ta - Elín, Audur và cái chết ràng của bé, những giấc mơ giày vò ông, Ellidi trong tù và mất tích của Grétar, Marion Briem, vụ tìm kiếm nạn nhân khác của Holberg và người đàn ông đứng trước cửa nhà Elín, có thể đó là con trai Holberg. Ông cố gắng kể cách có hệ thống và tự đặt ra rất nhiều giả thuyết và câu hỏi, cho đến khi ông bế tắc và biết gì hơn.

      Ông với Eva Lind rằng bộ não của mất. Ông vẫn chưa hiểu làm thế nào mà chuyện đó có thể xảy ra. Eva Lind lặng yên nghe ông và con bé để ý thấy cái cách ông xoa ngực khi . Nó có thể thấy vụ Holberg ảnh hưởng lên bố mình nhiều đến mức nào. Nó có thể cảm nhận được cam chịu của ông mà chưa bao giờ nó từng thấy trước đây. Nó có thể thấy mệt mỏi của bố khi ông về . Giống như là ông rút vào bên trong chính mình, giọng của ông lại và ánh mắt ông ngày càng trở nên xa xăm.

      “Có phải Audur là bé mà bố với con lúc sáng nay khi bố quát con ?” Eva Lind hỏi.

      bé ấy, bố biết nữa, có thể là thứ trời cho đối với người mẹ của mình,” Erlendur . “Tình ấy dành cho con vượt lên cái chết và ngôi mộ. Xin lỗi nếu bố làm con bực mình. Bố định như vậy, nhưng khi bố thấy cái cách mà con sống, mọi điều mà con làm đối với bản thân mình, và sau đó chứng kiến cảnh chiếc quan tài bé xíu bị đưa lên khỏi mặt đất, bố còn hiểu được chuyện gì nữa. Bố hiểu chuyện gì xảy ra và bố muốn...” Erlendur lại im lặng.

      “Đẩy những thứ khốn nạn ra khỏi con,” Eva Lind nốt câu của bố.

      Erlendur nhún vai.

      “Bố biết bố muốn làm gì nữa. Có thể tốt nhất là làm gì cả. Có thể tốt nhất là nên để cuộc sống trôi theo quỹ đạo của nó. Quên tất cả mọi chuyện . Bắt đầu làm thứ gì đó có ý nghĩ. Tại sao bố lại muốn dính dáng đến tất cả những chuyện này? Tất cả cái đống rác rưởi này? chuyện với những kẻ như Ellidi. Thỏa thuận với những tên cứt như Eddi. Chứng kiến cái cách mà những kẻ như Holberg bị trừ khử. Đọc các báo cáo về vụ hiếp dâm. Đào móng của ngôi nhà đầy những phân và giòi bọ. Khai quật cả chiếc quan tài bé .” Erlendur đập vào ngực mạnh hơn nữa.

      “Bố nghĩ là chuyện này ảnh hưởng đến bố. Bố nghĩ rằng mình đủ mạnh mẽ để chịu đựng được tất cả những chuyện này. Bố nghĩ rằng mình có thể mặc áo giáp để chống lại nó qua nhiều năm và có thể nhìn đống rác rưởi từ xa như thể nó phải là việc của bố, và cố gắng giữ cho kỳ được ý thức của mình. Nhưng chẳng có khoảng cách nào cả. Và cũng chẳng có áo giáp nào cả. Chẳng ai đủ mạnh mẽ. ghê tởm bám lấy bố như linh hồn ma quỷ, nó len lỏi vào trong tâm trí bố và để bố yên cho đến khi bố tin rằng cái đống rác rưởi ấy là bản thân cuộc sống, vì bố quên cách sống của những người bình thường. Vụ này là như vậy đấy. Giống như linh hồn ma quỷ bị thả ra để xới tung tâm trí bố lên và kết cục là nó khiến bố bị tê liệt.”

      Erlendur buông tiếng thở dài ngao ngán. “Tất cả vụ này là vũng bùn lầy mênh mông đáng kinh tởm.”

      Ông thôi nữa và Eva Lind ngồi yên lặng bên ông.

      Thời gian cứ thế trôi qua cho đến khi con bé đứng lên, ngồi bên cạnh cha mình, vòng tay qua ôm ông và khẽ nép vào ông. Con bé có thể nghe thấy tiếng tim ông đập nhịp nhàng, như chiếc đồng hồ êm ái, và cuối cùng ngủ gật với nụ cười mãn nguyện khuôn mặt.




      30





      Khoảng chín giờ sáng hôm sau đội pháp y và đội điều tra hình tập hợp đầy đủ ở nhà Holberg. Đến giờ đó rồi mà trời vẫn chẳng có dấu hiệu gì là ban ngày cả. Bầu trời vẫn xám xịt và vẫn mưa tầm tã. Đài thông báo rằng đợt mưa ở Reykjavík đạt đến kỷ lục của tháng 10 năm 1926.

      Đường ống nước thải được dọn sạch và chẳng còn con vật nào còn sống trong móng nhà. Cái hố trong tầng đáy được mở rộng nên hai người đàn ông có thể xuống đó cùng lúc. Những người sống trong các căn hộ bên đứng thành nhóm bên ngoài cửa tầng hầm. Họ cầu thợ sửa cống đến để sửa đường ống và chờ để gọi ta vào ngay khi cảnh sát cho phép.

      Ngay lập tức người ta phát ra rằng khu vực hố xung quanh đường ống nước thải tượng đối . Nó có kích cỡ khoảng gần ba mét vuông và bị nén lại vì đất vẫn chưa bị lún hẳn xuống. Cái ống bị vỡ ở cùng nơi như trước đây. Vết sửa chữa cũ ra và có lớp sỏi bên dưới cái ống bao quanh nó. Các nhân viên pháp y thảo luận xem có nên mở rộng cái hố to ra , đào đống sỏi lên khỏi móng nhà và làm sạch nó cho đến khi họ có thể nhìn thấy mọi thứ bên dưới tầng đáy.

      Sau khi tranh luận hồi, họ quyết định là lớp đáy có thể bị vỡ ra nếu những thứ bên dưới nó bị tháo rút hoàn toàn, do đó họ chọn phương án an toàn và cao cấp hơn, đó là khoan xuyên qua sàn nhà xuống những cái hố ở khắp mọi nơi và đặt camera trong lòng móng.

      Sigurdur Óli quan sát trong khi họ bắt đầu khoan các lỗ sàn rồi lắp hai màn hình quan sát được nối với hai chiếc camera mà đội pháp y sử dụng. Những chiếc camera hơn với chiếc đèn bề mặt được đẩy xuống hố và có thể di chuyển bằng điều khiển từ xa. Tại những cái lỗ được khoan khắp sàn nhà ở những nơi mà người ta cho rằng có hố bên dưới, họ trượt camera vào bên trong và bật hai màn hình lên. Hình ảnh đen trắng ra và đối với Sigurdur Óli, người sở hữu chiếc tivi Đức trị giá đến nửa triệu cua-ron, chất lượng hình ảnh này kém.

      Erlendur đến tầng hầm khi họ bắt đầu thăm dò bằng camera và ngay sau đó Elínborg đến. Sigurdur Óli để ý thấy Erlendur cạo râu và mặc bộ quần áo sạch có vẻ như được là ủi cẩn thận. “Chuyện gì diễn ra thế?” Erlendur hỏi và châm điếu thuốc, nhận thấy chán nản của Sigurdur Óli.

      “Họ dò bằng camera,” Sigurdur Óli đáp. “Chúng ta có thể theo dõi qua màn hình.”

      có gì trong hố thải à?” Erlendur vừa hỏi vừa rít hơi thuốc.

      “Giòi bọ và chuột, chẳng có gì khác cả.”

      “Mùi hôi thối xông đến đây,” Elínborg rồi lấy ra chiếc khăn tay xức nước hoa mà mang theo trong túi xách. Erlendur mời hút thuốc, nhưng từ chối.

      “Holberg có thể sử dụng cái hố mà người thợ sửa cống đào lên để đặt Grétar xuống dưới sàn nhà,” Erlendur . “Ông ta hẳn thấy có cái hố bên dưới lớp đáy và phải di chuyển đống sỏi cho đến khi đặt được Grétar vào vị trí mình muốn.”

      Họ tập trung xung quanh màn hình nhưng hiểu được nhiều lắm những điều trông thấy. luồng ánh sáng di chuyển về trước rồi ra sau, lên và xuống dưới, và sang cả hai bên nữa. Đôi khi họ nghĩ là thấy hình dáng của lớp nền, và đôi khi dường như họ thấy lớp sỏi. Mặt đất lún xuống với nhiều mức độ. Ở số chỗ nó dâng lên đến lớp nền nhưng ở những chỗ khác có khoảng cách lên đến mét.

      Họ ngồi lúc khá lâu theo dõi camera. Trong tầng hầm rất ồn ào vì đội pháp y vẫn tiếp tục khoan những lỗ mới và Erlendur nhanh chóng mất kiên nhẫn. Ông ra ngoài, Elínborg vội theo sau ông và sau đó là Sigurdur Óli. Tất cả bọn họ leo lên xe của Erlendur. Ông với họ lý do tại sao tối hôm qua ông bất ngờ Keflavík, nhưng họ có cơ hội để bàn bạc sâu hơn.

      “Tất nhiên là nó phù hợp với nội dung lời nhắn để lại ở Nordurmýri. Và nếu người đàn ông mà Elín nhìn thấy ở Keflavík trông rất giống Holberg, nó phù hợp với giả thuyết về đứa con thứ hai của ông ta.”

      “Holberg có thể có con trai sau vụ hiếp dâm đó,” Sigurdur Óli . “Chúng ta có chứng cứ nào để chứng minh điều đó, ngoại trừ rằng Ellidi biết có người phụ nữ khác. Đó là tất cả. Mà Ellidi lại là thằng đần!”

      ai trong số những người chúng ta chuyện đề cập đến chuyện ông ta có đứa con trai,” Elínborg .

      ai trong số những người chúng ta chuyện biết Holberg cách sâu sắc,” Sigurdur Óli . “Đó mới là vấn đề. Ông ta là kẻ đơn, chỉ giao du với vài người cùng chỗ làm, tải những phim khiêu dâm từ Internet, giao du với những tên ngu ngốc như Ellidi và Grétar. ai biết gì về gã này cả.”

      “Điều tôi băn khoăn là thế này,” Erlendur . “Nếu con trai của Holberg thực tồn tại, làm sao biết về Elín, bác của Audur? Như thế phải là cũng biết về Audur, em mình hay sao? Nếu biết Elín, tôi cho là biết cả Kolbrún và vụ hiếp dâm nữa, và tôi thể làm là bằng cách nào được. có chi tiết nào về vụ điều tra truyền thông. Vậy lấy thông tin ở đâu ra?”

      “Chẳng lẽ thể moi được thông tin này từ Holberg trước khi giết ông ta sao?” Sigurdur Óli .

      “Có lẽ tra tấn ông ta để bắt ông ta thú nhận,” Elínborg nhận xét.

      “Trước hết, chúng ta biết liệu người đàn ông này có thực tồn tại .” Erlendur . “Elín rất xúc động khi bà ta nhìn thấy . Thậm chí cứ giả sử là ta có , chúng ta cũng biết có giết Holberg hay , biết có biết về tồn tại của cha mình khi phải sinh ra dưới điều kiện như vậy. Ellidi rằng có người phụ nữ trước Kolbrún bị hiếp, có thể là bị tệ hơn thế. Nếu bà ta có thai sau vụ đó, tôi đồ rằng người mẹ chắc hẳn phải rất vui nên ra tên của người cha. Bà ta trình bày vụ việc với cảnh sát. Chúng ta vẫn phải tiếp tục tìm người phụ nữ này, nếu bà ta tồn tại...”

      “Và chúng ta đào bới nền móng của ngôi nhà để tìm ra người đàn ông mà có lẽ là chẳng liên quan gì đến vụ án cả,” Sigurdur Óli .

      “Có thể Grétar nằm dưới lớp móng nhà,” Elínborg .

      “Là sao?” Erlendur hỏi.

      “Có thể vẫn còn sống, ý là thế ư?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Gã biết tất cả về Holberg, tôi nghĩ vậy,” Elínborg đáp. “Gã biết về đứa con , nếu chụp hình ngôi mộ của bé. Gã chắc chắn biết vì sao bé được sinh ra. Nếu Holberg có đứa con nữa, người con trai, rất có thể Grétar cũng phải biết về người con này.”

      Erlendur và Sigurdur Óli nhìn với quan tâm lớn dần.

      “Có thể Grétar vẫn ở đây với chúng ta,” tiếp, “và liên lạc với người con trai. Đó là cách lý giải cho việc làm thế nào mà người con trai ấy có thể biết được về Elín và Audur.”

      “Nhưng Grétar mất tích được hai mươi lăm năm và có tin tức gì từ đó,” Sigurdur Óli .

      “Gã mất tích nhất thiết có nghĩa là gã chết,” Elínborg đáp.

      “Vậy ...” Erlendur bắt đầu, nhưng Elínborg ngắt lời ông.

      “Tôi nghĩ chúng ta có thể loại trừ gã ra. Tại sao tính đến khả năng là Grétar vẫn còn sống? Có thể gã rời bỏ đất nước. Có thể gã về vùng quê. ai thèm kết tội gã. ai nhớ đến gã hết.”

      “Tôi nhớ có trường hợp nào như thế,” Erlendur .

      “Như cái gì cơ?” Sigurdur Óli hỏi.

      người mất tích quay trở lại sau cả thế hệ. Khi người ta mất tích ở Iceland, thường là mất tích mãi mãi. ai từng quay trở lại sau khi biến mất được hơn hai mươi lăm năm. Chưa bao giờ.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :