Chương 38 Katya nâng chụp tai chống ồn của mình lên đủ lâu để hỏi. “Súng của ai đây?” “Vũ khí trang bị của Ubaid đấy.” Majdi . Katya quan sát ta chĩa khẩu súng vào chiếc hộp rỗng và thận trọng kéo cờ ba lần. Phía bên kia chiếc hộp, Thanh tra Osama Ibrahim đứng đó với hai tay khoanh trước ngực, trông như thể ông ta có kỳ nghỉ cuối tuần tồi tệ. “Chắc chắn ta ngu đến mức dùng vũ khí trang bị của cảnh sát đâu.” Katya . “Cũng chẳng biết được.” Osama . “Ông có thể nghe thấy tôi qua chụp tai chống ồn sao?” Ông ta gật đầu. “Chắc mình già rồi.” lẩm bẩm. thay chụp tai trong khi Majdi kiểm tra khẩu súng thứ hai. Có bốn khẩu súng bàn. Khẩu thứ nhất là của Ubaid; ba khẩu còn lại được lấy từ những vệ sĩ của Hakim al-Adnan. “Ông chuyện với al-Adnan chưa?” Katya hỏi. “Chưa.” Osama . “Tốt nhất là nên làm việc này trước .” Bọn họ tìm được al-Adnan ở Mecca khi dạo quanh Kaaba. Cảnh sát tôn trọng chờ đợi cho đến khi xong việc rồi mới tiếp cận , rằng họ muốn hỏi số vấn đề. ở phòng thẩm vấn. Ba tay vệ sĩ của cũng bị bắt giữ. Bọn họ là những kẻ duy nhất ở gần al-Adnan mà có mang theo vũ khí. Adara lấy ra viên đạn từ ngực Sabria, còn Katya tìm được hai vỏ đạn ở trang trại hoa hồng tại chính nơi Sabria bị chôn. bị giết bằng khẩu súng ngắn 22 ly ở cự ly gần. phát súng vào đầu, phát vào tim. Theo chuyên môn Đội Điệp vụ phụ trách vụ án này. Nhưng giờ bọn họ tìm được cái xác nên nó thuộc quyền điều tra của Đội Trọng án. Chánh Riyadh chuyển nó cho Osama. Có vẻ ràng là trong những cận vệ của al-Adnan giết Sabria. Xác được tìm thấy khu đất của . Majdi hoàn tất việc bắn thử nghiệm khẩu súng thứ tư và tháo kính bảo vệ và chụp tai chống ồn ra. “Tôi phân tích các vỏ đạn ngay bây giờ.” ta . “Khi nào có kết quả?” Osama hỏi. “Cho tôi nửa giờ.” * * * Carmelita Rizal khóc nức nở; khuôn mặt ướt nhòe và người run lẩy bẩy với đống khăn giấy lòng còn chiếc hộp đựng giấy lòe loẹt được đặt ghế sô-pha cạnh . Katya cảm thấy lo lắng yên khi hình dung đến việc phần lớn cảnh sát cảm thấy như vậy khi phải chứng kiến con người ta tan vỡ ra thành từng mảnh trước cái chết của người mình thương. tự hỏi Nayir phản ứng thế nào nếu có ai đó đên báo tin dữ cho về cái chết của . thể hình dung được khóc thế nào. Nỗi đau của , cũng như rất nhiều điều khác nữa, cũng được gói bọc lại và giấu kín sâu thẳm trong con người . Katya giải thích rằng Majdi khớp được những viên đạn từ súng của cận vệ của al-Adnan với những vỏ đạn được tìm thấy người Sabria. Như vậy chính tên cận vệ của al-Adnan giết Sabria. Katya với Rizal về trang trại hoa hồng và trực giác của mình về việc Sabria có thể bị chôn giấu trong khu vườn đó. Vẫn kỳ quặc khi nhớ lại cơn đổ mồ hôi lạnh và cảm giác hối thúc thể giải thích được ấy. Phần tồi tệ nhất là phải giải thích liên quan của Jessica, tuy phải là chủ tâm. Katya ngờ rằng điều này thực cướp của Rizal hai người bạn tốt chỉ trong cuộc đột kích. “Tôi biết điều.” Rizal lúc này vừa vừa lau mặt. “Khi được ra khỏi đây, tôi trở về Philippines. Ngay cả khi có chết đói chăng nữa. Tôi có ai ở đây ngoài con trai mình.” “Nếu cần giúp trong việc xin thị thực xuất cảnh, cứ cho tôi biết.” “Vâng, cảm ơn . Tôi nghĩ là tôi có thể cần giúp đỡ.” Rizal . “ biết đấy, trong những việc mà Sabria làm là mua thị thực xuất cảnh giả. Có lẽ tôi nên điều đó với cả , nhưng chuyện chẳng còn là vấn đề nữa, phải vậy ?” Katya lắc đầu. “Tôi thể cảm thấy rằng mọi việc mà ấy làm là quá can đảm và xuẩn ngốc. Đó phải là lời giải. Tôi nghĩ đối với ấy, điều đó vô cùng phấn khích. ấy cảm thấy mình như nữ hùng. Nhưng nó chỉ là giải pháp nhất thời mà thôi. Mọi việc bao giờ khác hẳn cho đến khi nào pháp luật thay đổi. Họ rằng họ buộc phải bảo vệ chúng tôi, chúng tôi phải người Ả Rập Xê-Út, nhưng cũng đông kém gì người Ả Rập Xê-út và phải làm việc nhiều hơn.” im lặng lát, tay gấp tờ giấy ướt lại. “Chính vì vậy mà tôi rời khỏi đây. Tôi quan tâm dù tôi có đói đến chết ở Manila. Ít ra tôi cũng đói quê hương mình.” Chương 39.1 Buổi trưa Chủ nhật, Katya ngồi bên máy tính cửa mở và Charlie Becker thò đầu vào. Nhìn thấy Katya, mỉm cười. “Mừng là ở đây.” Charlie . bước vào mang theo hai túi giấy đựng đầy các tài liệu. Katya ngạc nhiên đứng lên. “Rốt cuộc tôi cũng thuyết phục được Riyadh rằng chúng ta vẫn còn việc phải làm. Đây là tất cả những vụ án chưa giải quyết được của bọn họ với những nạn nhân là nữ giới trong vòng năm năm qua - có cả ảnh nữa!” Katya kinh ngạc. “Mu'tazz có biết việc này ?” “Tôi biết và tôi quan tâm.” Charlie phấn khởi . “Tôi luôn miệng với với những người đó rằng bọn họ nên tìm kiếm các quy luật bởi tên giết người ràng thích những công trình bé và những thông điệp bí mật của , nhưng biết gì ?” Charlie ngước nhìn lên, khuôn mặt đỏ ửng vì phải ra sức mang quá nhiều hồ sơ. “Tôi cho là bọn họ thực muốn nghe những điều tôi cần phải . Cho nên tôi mặc xác bọn họ, chúng ta có thể tự làm việc này.” Katya mỉm cười trước bướng bỉnh của Charlie. “Tôi mừng là ở đây. Ngồi xuống .” Charlie kéo chiếc ghế xoay và ngồi xuống bên bàn Katya. Những phụ nữ khác trong phòng đưa mắt nhìn họ cách hiếu kỳ, nhưng Katya lờ họ . Charlie đúng: tất cả những hồ sơ này đều có ảnh. Vấn đề giờ là có quá nhiểu ảnh, và mỗi bức đều có thể được xem là chữ này hoặc chữ khác trong bảng chữ cái. Sau giờ, Katya mở ngăn kéo hồ sơ của mình và lôi ra bữa trưa đóng gói sẵn tương tự lần trước. Charlie bật cười. “Để tôi đoán nhé - hummus (1), cà-rốt, bánh quy cây, và pho-mát que đúng ?” (1) Món khai vị làm từ gà, đậu, dầu, vừng, chanh và tỏi. Katya đặt những gì có trong túi ăn lên bàn với niềm kiêu tự hào bướng bỉnh nhất định. “Và đừng quên táo và coca dành cho người ăn kiêng đấy nhé.” Charlie . Katya đưa cho quả táo. “Vì chúng ta chưa bao giờ ăn chung quả táo cả, nên tôi muốn hôm nay ăn nó.” “Tôi thể, nhớ ? Tôi cảm thấy có lỗi nếu ăn nó.” “Ừ nhỉ, tôi quên mất.” Do vậy quả táo được đặt ở giữa và họ chia nhau những thứ còn lại. Chiếc bàn làm việc quá và bừa bộn để Katya trải những tấm bản đồ trường vụ án lên, nên dán chúng lên cạnh của máy tính và lên khoảng tường bé xíu phía sau máy tính. Bản đồ thành phố cho thấy địa điểm của những phần cơ thể được tìm thấy trong vụ Osiris. Tấm bản đồ sa mạc chỉ ra loạt những điểm chôn cất theo hình lục giác thuần túy nằm gần con đường thuộc khu vực hoang vắng. vẽ hình lục giác thứ ba rất ràng rồi đặt chèn nó lên tấm bản đồ thành phố khác với dấu chấm hỏi khổng lồ được in cùng. Điểm duy nhất hình lục giác đó là bàn tay của Amina al-Fouad. “Tôi tự hỏi mấy người đàn ông kia thực nghĩ gì về việc này nhỉ.” Katya vừa vừa ra hiệu về phía những tài liệu để ngỏ bàn. “Có lẽ bọn họ lấy làm mừng vì chúng ta làm những việc lặt vặt này.” Charlie đáp; rồi có vẻ nghiêm túc hơn: “Tôi có cảm giác bọn họ cho rằng có khả năng Amina là phần của các vụ giết người lớn.” Hơn nữa nhưng lại cho rằng chuyện đó xảy ra, nên bọn họ thời thể mất thời gian cho vụ này được.” “Amina al-Fouad nhất định có liên quan.” “Giờ đừng đánh mất hy vọng của chính mình.” Charlie . “Riyadh là bà ta có liên quan. Những bàn tay bị chặt ràng cho thấy điều đó. Ông ấy chỉ rằng bà ta là trường hợp đơn lẻ, hiểu chứ? Ông ấy cho rằng có quy luật nào lớn hơn cả.” Charlie ra hiệu về phía những tấm bản đồ. “Nhưng tôi nghĩ có thể đúng, và đó là lý do tại sao tôi ở đây, giúp tìm ra quả táo thứ ba đó.” ra hiệu về phía những tấm bản đồ. “Đó là hình lục giác mà.” Katya . “Đúng vậy, thực ra nếu có cuống nó là quả táo đấy.” Katya hé cười và tiếp tục ăn nhưng có điều gì đó vụt thoáng qua trong đầu . Quả táo. nhìn những tấm bản đồ treo ở đó. Chúng trông rất giống những quả táo. Ba quả táo. đặt miếng cà-rốt xuống. “Chuyện gì vậy?” Charlie hỏi. “Ối, điên . Tôi...” quay sang phía máy tính, mở đường dẫn rồi tìm kiếm. “Câu chuyện ba quả táo” lên tức . “Tạ ơn Thượng đế!” lớn tiếng . Các trình duyệt của Internet đủ nhanh để bắt kịp các phiên bản trang web. Đó là trong những câu chuyện của Nghìn lẻ đêm. đọc truyện đó từ hồi . Câu chuyện rất rắc rối, nhưng nhớ rất phần mở đầu. Vua Hồi giáo Harun al-Rashid, người mắc phải chứng mất ngủ tồi tệ nhất từ trước tới nay, đêm dạo đường phố và gặp người đánh cá khiến ngài chú ý. Ngài với người đánh cá đó rằng ngài cho ông ta hai trăm đồng dinar để đổi lại bất cứ thứ gì mà ông ta bắt được đêm hôm đó. Người đánh cá hân hoan đồng ý rồi quăng lưới và bắt được cái rương lớn. Nhà vua mang cái rương đó về cung điện. Khi mở ra, ngài phát ra xác phụ nữ. Theo như những gì nhớ được câu chuyện đứng độc lập với tất cả các câu chuyện khác. Nó là câu chuyện duy nhất trong đó có phụ nữ bị giết và thậm chí có người tìm kẻ giết ta. đọc câu chuyện trong khi Charlie sốt ruột quan sát cảnh tượng. Mới đọc vài đoạn Katya đưa tay lên che miệng. “Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi. Katya giải thích về câu chuyện đó. “Tôi chỉ cho thấy thứ mà nhà vua tìm thấy trong chiếc hộp đó. Đợi chút nhé.” quay lại phía máy tính và tìm câu chuyện bằng tiếng . đọc lướt qua nó cho đến đoạn cần đọc. “Đoạn này này.” Charlie cúi xuống và đọc: Họ tìm thấy trong đó chiếc giỏ bằng lá cọ được buộc bằng len đỏ. Họ mở chiếc giỏ này và thấy có mảnh thảm, họ nhấc nó ra, và dưới đó là chiếc áo khoác phụ nữ được gập làm tư, rồi họ bỏ nó ra ngoài, và dưới đáy rương là phụ nữ trẻ, trắng như thỏi bạc, bị giã và chặt làm mười chín mảnh. Charlie hổn hển. “ đùa tôi phải ?” đọc lại đoạn truyện đó. “ ta bị cắt thành mười chín mảnh sao?” “Đúng vậy.” Katya . “ thể tin được là tôi nghĩ đến câu chuyện này.” Charlie ngồi thụp xuống ghế. “Chuyện này thay đổi mọi thứ.” “Ý là sao?” “Ý tôi là ta còn chỉ lè kẻ cuồng tín nữa. Chúng ta cho rằng mười chín là con số thần thánh trong kinh Koran, còn nhớ chứ?” “Còn, đúng.” “Giờ nó có nghĩa gì đó khác. Mười chín có thể là điều ám chỉ đến câu chuyện này. Ý tôi là có bao nhiêu phụ nữ bị chặt thành mười chín mảnh trong những câu chuyện dân gian ở đây? tượng này có phổ biến ?” “. Tôi nhớ là có chuyện nào. Thực tế đây là vụ giết người duy nhất trong Nghìn lẻ đêm. Đúng là có người chết khác, nhưng trong câu chuyện này là do tên tội phạm. Và có cả người điều tra nữa. Tôì nghĩ nó là câu chuyện duy nhất trong cuốn sách kiểu như vậy.” “Trời ơi. Charlie trông lặng người . “Chuyện này có liên quan đến vụ Osiris.” Katya . “Đúng vậy.” “Tôi nghĩ nó nghĩa là có ba quả táo. Và chúng ta mới có hai quả thôi.” “Charlie gật đầu. “Còn chuyện gì xảy ra trong đó nữa?” Chương 39.2 Mỗi người lại đọc nó bằng thứ tiếng của mình. Theo những gì Katya còn nhớ, câu chuyện có phần quanh co và cổ xưa. Đặc biệt là người đàn ông tìm ba quả táo suốt ba mươi ngày để thỏa lòng người vợ ốm. Sau những sóng gió, ta giết vợ mình trong cơn ghen tuông và sau đó mới bi thương phát ra rằng vợ mình chung thủy, Desdemona (2) và ta bị mê muội bởi tên nô lệ dối trá. Nhân vật nữ trong vở kịch Othello của w. Shakespeare. Desdemona bị chồng là Othello giết hại vi nghĩ rằng nàng ngoại tình. Katya và Charlie ngồi lặng im lúc. “Tôi nghĩ là chúng ta nên hoàn toàn bỏ qua yếu tố tôn giáo.” Charlie quả quyết . “Tôi đồng ý. Trong cả hai vụ án, kẻ giết người đều để lại những lời trích dẫn mang ý nghĩa tôn giáo.” “Chuyện này chỉ làm thay đổi việc chúng ta nghĩ thế nào về mà thôi.” Charlie . “Để tôi hỏi điều này, ở đây có được đọc Đêm Ả Rập (3) ? Ý tôi là những người mộ đạo thấy thế nào về cuốn sách này? Nó thuộc loại sách đứng đắn lắm, phải vậy ?” Tên gọi khác của Nghìn lẻ đêm. “Đúng vậy, sách đó ở đây bị cấm.” “Bị cấm sao?” Katya gật đầu. “Chúng tôi được phép đọc nó, nhưng dù sao chúng tôi vẫn đọc. Có rất nhiều người tự hào về cuốn sách này. Nó là phần lịch sử của chúng tôi. Giống như Shakespeare đối với các vậy.” “Vậy là các cơ quan có thâẩm quyền về tôn giáo cấm cuốn sách?” “Đúng vậy.” “Vậy có lý nào tên giết người vừa là kẻ cuồng tín lại vừa đọc Đêm Ả Rập được.” Charlie . “Đúng.” Katya . “Quả là vô lý.” “Okay, đây là ý nhé.” Charlie . “Chúng ta biết ai là nạn nhân của vụ Osiris cả - và có khả năng là hung thủ của vụ Thiên sứ phải kẻ giết ta. chỉ rải các bộ phận cơ thể của ta khắp thành phố mà thôi. Việc này có lẽ đem lại thỏa mãn cho ; nó đáp ứng ham muốn mạnh mẽ nào đó. chỉ bắt đầu giết người mãi về sau này. giết mười chín phụ nữ.” “Nếu ta ở độ tuổi thành niên hoặc ngoài hai mươi vào năm 1989, tức là khoảng ba mươi tuổi khi bắt đầu giết những nạn nhân được chôn ở sa mạc đó, điều này phù hợp vói những mô tả sơ lược kinh điển của tên giết người hàng loạt. Bọn chúng bắt đầu giết người vào độ tuổi ba mươi. Trong vòng mười năm qua giết những phụ nữ đó. Chúng ta có thể cho rằng giờ khoảng bốn mươi tuổi. Đó là thông tin mà hôm qua chúng ta vẫn chưa có được.” “Okay.” Katya . “Câu trích dẫn trong vụ Osiris là gì vậy nhỉ?” Charlie hỏi. “Đó là Chúng ta tạo ra mọi thứ theo trật tự.” Charlie gật đầu. “Đó chính là mối quan tâm cơ bản của - trật tự. Tôi cho rằng đây chính là cách ta kiểm soát chính mình và biện minh cho những hành động của . Cho tôi biết còn điều gì nữa về đạo Hồi khuyến khích cấu trúc nữa ?” Katya nhún vai. “Đạo Hồi ... quan tâm đến điều đó.” “Thôi được.” Charlie . “Thế còn những công trình nghệ thuật của các sao? Tôi nghĩ đến những thứ và những đồ chạm khắc tinh vi đó. Chúng đều mang đậm tính chất hình học.” “Đúng, đúng đấy. Cũng có cấu trúc dành cho mỗi ngày là năm lần cầu nguyện dựa theo vận động của mặt trời.” “Ổn rồi.” Charlie . “Vậy hãy cho là phân tán các bộ phận cơ thể trong vụ Osiris bởi nhận ra chiếc hộp đó giống như trong truyện Nghìn lẻ đêm. Điều đó có nghĩa được giáo dục tương đối tốt. biết câu chuyện đó. cho rằng mình rất thông minh khi rải những bộ phận đó theo hình quả táo. Chúa ơi, có lẽ ta đợi hàng thập kỷ rồi xem có ai nhận ra điều đó . Dù sao nữa sau đó, khi bắt đầu tự giết người, lặp lại quy luật này đối với các nạn nhân bị chôn ở sa mạc đó. Chỉ đến giờ mới thể chính mình. cố áp đặt trật tự nhất định thế giói này. ' chỉ là đối với những nạn nhân và cách ta chôn bọn họ.Tôi cho rằng có thể ta cũng cố áp đặt loại trật tự mang tinh đạo đức nào đó - và đó chính là khi yếu tố tôn giáo được thể ra “ “Ý là sao?” “ chủ yếu nhằm vào những phụ nữ ngoại quốc. Nếu đánh giá bọn họ dưới con mắt của tín đồ Hồi giáo khắt khe, có thể biện luận rằng những phụ nữ này hành động đúng phép tắc. Bọn họ sống trong các gia đình, thân thiết với những người đàn ông lạ mặt. Phần lớn bọn họ phải tín đồ Hồi giáo, đúng ? Họ đều là người Philippines và Sri Lanka.” “ vài người trong số họ có thể là tín đồ Hồi giáo.” Katya “Nhưng hầu hết là .” “Bọn họ có lẽ còn giúp nuôi nấng trẻ em ở đây, phải vậy ? Bọn họ có ảnh hưởng đối với trẻ em Hồi giáo, trong khi lại phải người Hồi giáo và có khả năng bọn họ tuân theo những quy tắc xã hội đúng chuẩn mực như phụ nữ Ả Rập Xê-Út.” “Đúng vậy.” Katya gật đầu. “Tôi hiểu muốn gì.” “Ở đây có bất kỳ tổ chức nào chống đối việc sử dụng người ngoại quốc làm giúp việc ? Tôi nghĩ đến việc ở Mỹ có tổ chức Ku Klux Klan (4), nhóm người muốn xã hội phải theo cách thức nhất định, và thường sẵn sàng có những hành động phân biệt chủng tộc để đạt được mục đích. Những kiểu cộng đồng bí mật như vậy có thể lôi kéo những kẻ như tên giết người của chúng ta. Ở đây các có tổ chức nào như thế ?” Đảng KKK hay đảng 3K là hội kín ở Mỹ với chủ trương đề cao thuyết Người da trắng thượng đẳng. “.” Katya chau mày. “Hầu hết mọi người đều cho rằng nên có những lao động này ở đây. Người Ả Rập Xê-Út cho rằng lao động là cần thiết với họ. Đó là việc của người khác.” Charlie thở dài. “Đúng. Tôi nghĩ là tôi biết điều này rồi.” “Vậy còn Amina sao?” Katya hỏi. Charlie ngồi thẳng lên. “Tôi nghĩ cả hai ta đều cho rằng tên giết người viết thông điệp mới. Chỉ biết đó là gì thôi.” Katya cố hình dung thông điệp này có thể là gì. là gã điên bị chi phối bởi cảm giác tai quái của mình về ý nghĩa. là tên đao phủ. thiên sứ gác cửa địa ngục. Điểm chung duy nhất giữa tất cả các vụ giết người của và vụ Osiris là viết nên những thông điệp. chỉ bị ám ảnh bởi trật tự; điên dại của còn được thể qua những ngôn từ và những chữ cái. Hiền nhiên là biết viết biết đọc - thậm chí có khi còn là người viết thư pháp. Nhưng điều đó có nghĩa gì nhỉ? Rằng bọn họ nên truy tìm tất cả nghệ sĩ và nhà văn ở Jeddah này hay sao? Katya thấy bực dọc. Vụ án ngày càng lớn dần, luôn luôn xuất những manh mối mới, mà điều đó đồng nghĩa với khối lượng công việc mệt mỏi trong hàng tuần liền. “Đừng bỏ cuộc.” Charlie . “Chúng ta tìm được . Chúng ta chỉ cần thu hẹp những đối tượng có thể tiếp cận chiếc hộp trong vụ Osiris vào cái ngày nó bị đánh cắp.” “Đúng.” Katya . “Nhưng có thể là bất người nào có mặt ở bến thuyền đó.” “Phải.” Charlie cười bí hiểm. “Nhưng có khả năng chính là trong những thanh niên có mặt thuyền cùng Đại tá Sa'ud.”
Chương 40 Katya mệt mỏi kinh khủng. Ba tiếng ngủ đêm và thậm còn chập chờn vì lo lắng. Khi ngủ, đó phải là nghỉ ngơi, chỉ có gian tối đen mà trong đó nỗi sợ hãi của được phép sinh sôi nảy nở. dậy trước lễ cầu nguyện đầu tiên và uống cà phê với Ayman trong xe trong khi họ kẹt tắc giữa dòng xe cộ đường, nghẹt thở vì những làn khói của chiếc xe tải chạy dầu diesel mà họ có vẻ thể vượt qua được. thấy biết ơn vì cậu im lặng. Katya ngồi bên bàn làm việc lặng lẽ nhìn chăm chăm vào máy tính Zainab bước vào. Sếp của là phụ nữ khắt khe và đời hỏi cao, kiểu phụ nữ bao giờ che mặt ở nơi làm việc. Những phụ nữ khác trong phòng thí nghiệm thỉnh thoảng lại thầm rằng vói khuôn mặt như vậy, chồng bà ta phải lo lắng có người đàn ông khác đưa bà ta mất. Katya thích thực là bọn họ có lẽ đúng. Sáng nay, thái độ của bà ta có vẻ khó chịu hơn bình thường, cái trán vốn dô nay còn nhăn lại đến mức đôi mắt xíu của bà ta gần như mất hút giữa những nếp nhăn. Hai đồng nghiệp trong phòng thí nghiệm của Katya vừa đến, vừa treo túi xách phía trong cùng căn phòng rộng rãi vừa trao đổi về công việc. Zainab tiến về phía bàn làm việc của Katya. “Cục cắt giảm ngân sách.” Bà ta rất khẽ khàng. “Và tôi e rằng họ sắp phải để ra .” Katya nhìn bà ta chăm chăm. thấy khó mà tiếp nhận được thông tin này. “Tôi cố thuyết phục bọn họ để việc này chỉ là tạm thời, nên nó chỉ là đình chỉ công việc...” “Tại sao chứ?” Katya hỏi lại với giọng giận dữ hơn mức nghĩ. “Chỉ là đến khi cân đối lại ngân sách thôi.” “ lố bịch.” Katya . Đôi tay lạnh ngắt và có thể nghe thấy giọng mình run rẩy. cảm thấy bên trong mình tê dại vì tất cả những chuyện này, nhưng cơ thể phản ứng lại. “Tôi là nhà nghiên cứu bệnh học chính của phòng thí nghiệm này. Tôi có thâm niên. Bọn họ định sa thải tất cả mọi người hay sao chứ?” Zainab cau mày nhìn . Làm ơn đừng buộc tôi phải khiển trách . “Như tôi , chỉ là cho đến khi ngân sách được cân đối lại. Mong nhìn nhận nó dưới góc độ cá nhân.” Nhưng đó là vấn đề cá nhân. Vô cùng cá nhân. nhìn Zainab, nghe bà ta đề cập cụ thể về việc chuyền giao khôi lượng công việc. Cuộc trao đổi vẫn tiếp diễn ở phía cuối phòng cho thấy là các đồng nghiệp của nghe lỏm được điều gì. Nhưng Katya chắc chắn là bọn họ nhận ra nét mặt . đứng lên, lao qua Zainab, rồi bỏ . Giậm chân bước ngoài hàng lang. Vào phòng vệ sinh nữ. có khăn giấy. lau mặt bằng vạt áo choàng và thẳng đến văn phòng của Chánh Riyadh. Cửa đóng, đèn tắt. Ngay cả bàn thư ký của ông ta cũng trống . Có lẽ vẫn còn quá sớm, nhưng toà nhà náo nhiệt bởi tiếng cười và tiếng chuông thang máy. thẳng xuống tầng để tìm Majdi. Bước ra khỏi thang máy, đâm sầm vào Adara. “Cậu đây rồi.” Adara . “Mình nghe về việc đình chỉ công tác.” kéo Katya vào góc khuất cạnh đài phun nước. “Abu-Musa với mình.” “Làm sao ông ta biết?” Katya hỏi. nhận ra giọng mình có vẻ khinh bỉ, nhưng quan tâm. “Mình biết, nhưng ông ta cảnh báo mình. Nếu mình giữ chừng mực như ông ta đặt ra, mình có thể là người kế tiếp.” “Lão khốn.” Adara rướn bên lông mày. Dĩ nhiên. “Mình ngờ là chuyện này phải do Chánh Riyadh đâu. Có khả năng đó là Mu'tazz. Ông ta biết về việc cậu có liên quan đến vụ ngoại tình của Zahrani và sa thải cậu, cách phải phép, vì cách hành xử đúng mực đó.” “Mình để chuyện đó xảy ra đâu.” Katya . Adara liếc nhìn dọc theo hành lang về phía phòng làm việc của Mu'tazz. Cửa đóng nhưng có ánh sáng hắt ra từ bên trong. “Hãy mặc áo choàng vào .” . Katya đẩy ra. Bước rầm rập dọc theo hành lang. khoác áo trùm lên và thèm gõ cửa nữa. chỉ đẩy nó mở và bước vào. Mu'tazz ngồi bên bàn làm việc viết báo cáo bằng chiếc bút dài, thanh nhã. Mức độ chăm chú, điệu bộ câẩn trọng, và niềm vui thích ràng của ông ta đối với công việc, tất cả đều sụp đổ ngay khi ông ta ngước lên và nhìn thấy Katya. Ông ta đặt bút xuống. “Tôi muốn biết tại sao tôi bị đình chỉ công tác.” . “ phải chuyện với Chánh Riyadh.” Ông ta đáp. Giọng đều đều. Ánh mắt ông ta chăm chú nhìn . “.” đáp. “Ông ấy ở đây và tôi muốn biết ngay bây giờ. Đây là việc của ông.” Ông ta chớp mắt và nhìn xuống bàn làm việc. “Chúng tôi hiểu rằng vượt quá giới hạn của mình.” Ông ta . “Và thực công việc mà thực tế được thuê để làm.” “ vớ vẩn.” Ông ta cười nhạt. “Chính tôi là người phát ra quy luật đầu tiên.” . “Chính tôi là người rà soát tất cả các hồ sơ, cả ngày và đêm, đêể tìm ra quy luật khác. Tôi khám phá ra vụ Osiris trong khi ông hề gì với Thanh tra Zahrani, và giờ tôi tin hai vụ án đó có liên quan với nhau.” Thái độ tử tế của ông ta bắt đầu biến mất. Katya giải thích về mối liên hệ với “Câu chuyện ba quả táo”. “Tôi cho rằng tên giết người của vụ Thiên sứ là kẻ giết người phụ nữ trong chiếc hộp đó.” . “Nhưng có thể phân tán các bộ phận cơ thể của ta khắp thành phố theo hình lục giác. được giáo dục đủ tốt để nhận ra câu chuyện này trong cuốn sách bị cấm, và thời điểm nào đấy sau đó, quyết định tạo nên hai quả táo nữa để phù hợp với câu chuyện . quá khó khăn để giới hạn các đối tượng bị tình nghi ở thuyền cùng Đại tá Sa'ud ngày hôm đó. Tôi biết ông thẩm vấn họ rồi.” “Lần trước tôi kiểm tra rồi.” Mu'tazz lạnh lùng . “ phải là điều tra viên.” “Tôi muốn có thêm chút thời gian nữa đề rà soát lại các hồ sơ.” tiếp. “Tôi muốn tìm xem có hình lục giác thứ ba nào về những vụ giết người trong thành phố nữa hay . giờ phần công việc được thực rồi, và những hồ sơ đó là manh mối duy nhất của chúng ta. Tôi cho rằng việc khám phá ra quy luật này là cơ hội tốt nhất để tìm được Amina al-Fouad.” “Tôi lấy làm tiếc.” Mu'tazz vừa vừa cầm bút lên. “ phải chuyện với Chánh Riyadh thôi.” “Tôi rời khỏi đây cho đến khi chúng ta tóm được hung thủ.” Cái vẻ mặt đó của ông ta là gì vậy nhỉ? Vẻ ấn tượng miễn cưỡng sao? Với vẻ lấm lét như con mèo, ông ta . “ có hai ngày để dọn đồ.” Katya lên tầng với cảm giác tức nghẹn trong lồng ngực đến run người. lánh mình vào phòng vệ sinh nữ và khóa cửa lại. ngồi bệ toilet, nó tự động xả nước mỗi khi cử động, và úp mặt vào lòng bàn tay. Hít thở nào. Cơn đau đầu ập đên như búa bổ. đến bên bồn rửa và té nước lên mặt lấy áo choàng lau mặt rồi giậm chân bước ra ngoài hành lang. trở lại phòng thí nghiệm, ngồi vào bàn làm việc của mình. Mở báo cáo máy tính. Nhìn chăm chú vào màn hình. Phải mất vài phút mới quyết định dứt khoát, nhưng khi quyết định xong, vơ ngay lấy quai túi xách rồi sải bước ra khỏi phòng. Chương 41 Nhân viên bảo vệ ở bàn lễ tân luôn có cảm giác khó chịu khi phải cố hết sức để cất lời chào xã giao mỗi khi Mu'tazz qua. “Cầu chúc Allah ban phước lành cho ông. Mừng khi gặp lại ông sau bữa trưa, thưa Trung tá.” Yasser Mu'tazz chẳng hề thích thú với những lời chào hỏi: làm ơn, cảm ơn, ơn Chúa. Ông ta chẳng bận tâm đáp lại nhân viên bảo vệ đó; ông ta chỉ sải bước vào phòng làm việc rồi đóng cửa lại. từ lâu rồi ông ta nhận ra rằng mình làm việc hiệu quả nhất khi chỉ có mình, lặng lẽ nghiên cứu máy tính hoặc trong thư viện hoặc mày mò những hồ sơ cũ trong những góc khuất của phòng lưu trữ. Ông ta chưa bao giờ thích thú với yếu tố con người trong công việc của mình hết. Những gì mà người ta có thể phát ra từ mớ giấy quả là bất ngờ. Ông ta trở nên khá thành thạo với việc rút ra những kết luận về con người thông qua những việc nhặt nhất. Điều đó vô cùng thỏa mãn, gần như là nghệ thuật vậy. cách khác, có thể tóm lại toàn bộ nội dung cảm xúc bằng từ, qua hình dạng những chữ cái câu tạo nên nó. Mới đêm qua thôi ông ta dành cả hai giờ đồng hồ để vẽ chữ fitna. Nó vốn là thuật ngữ kỹ thuật trong ngành luyện kim chỉ việc loại bỏ xỉ kim loại nhưng giờ nó lại mang nghĩa là “hỗn loạn, khổ đau.” Đôi khi nó còn được dùng để mô tả vẻ quyến rũ chết người của người đàn bà. Nó là trong những từ có cách trống, chỉ có nét liền mạch, những đường cong lượn hợp nhất. Tất cả những dấu chấm biểu thị cho các chữ cái tụ lại cùng trông giống như những hạt trang trí bánh nướng. Quá dễ để có thể viết những từ đó cách trang nhã. Nhưng nó cần có tàn phá. Ông ta viết từ đậm nét và xấu xí bằng chất mực đen nhất mảnh giấy da màu trắng. Những nốt chấm trông như thể những nốt đậu mùa, còn đường kẻ ngang chính là vết sẹo. Ông ta nhân nét bút cắt vào mảnh giấy da và để cho mực rì rì chảy mặt bàn, nhuốm màu phần còn lại của mảnh giấy da rồi lan đến cuốn sách gần đó. Và ông ta để mặc mọi thứ như vậy. bất mãn duy nhất của ông ta là kẻ nào hiểu được nghệ thuật của ông ta. Sau khi chuyện với Đại tá Sa'ud ba tuần trước, Mu'tazz tìm những thanh niên có mặt chiếc thuyền kia. Ông ta tìm được và thẩm vấn tất cả bọn họ ngoại trừ hai người: Ali Dossari và Mohammed Wissam. Những người mà ông ta thẩm vấn đều có bằng chứng ngoại phạm đáng tin cậy vào cái ngày Amina al-Fouad mất tích, cho nên ông ta loại trừ bọn họ. Nhưng Dossari và Wissam lại có vẻ còn tồn tại nữa. có bất cứ thông tin gì về hai gã này từ đầu những năm chín mươi. hộ chiếu, thẻ căn cước, bằng lái xe (tất nhiên loại thứ ba phải là thứ giấy tờ bắt buộc tại quốc gia này). có chứng nhận kết hôn hay chứng tử. Những bức ảnh có của hai thanh niên này đều của trại giam vị thành niên - Wissam có khuôn mặt thô bỉ, còn Dossari có cái đầu hình quả dưa kỳ quái và đôi tai vểnh sang hai bên. Theo cơ quan cấp thị thực hồ sơ lao động cho thấy Wissam, người Ai Cập, làm phụ bếp tại nhà hàng ở Jeddah vào cuối những năm tám mươi trong ba năm. Mu'tazz cố gắng tìm được chủ nhà hàng đó và phát ra Wissam về Alexandria từ mười lăm năm trước. Người chủ cửa hàng bao giờ gặp lại nữa. Dossari khác. ta là công dân, và mặc dù có khả năng ta cũng rời đất nước này, nhưng hồ sơ của cảnh sát lại ghi nhận việc đó. có lưu trữ nào cho thấy từng xin cấp hộ chiếu cả. Mu'tazz thậm chí phải nhờ đến dịch vụ bí mật Bộ Nội vụ để có được vài thông tin. Mabahith là cơ quan luôn theo sát mọi người, và có lẽ bọn họ có thông tin gì đó về Dossari. Thậm chí Dossari có thể trở thành thành viên của Mabahith hoặc điệp viên của Mukhabarat nữa kia. Tuy nhiên người quen của Mu'taz tại cơ quan này phản hồi thẳng thắn rằng họ có bất cứ thông tin nào về gã trai này và cũng hề làm việc cho họ. Qua tất cả những việc đó, Mu'tazz kết luận rằng Dossari rút vào bí mật và đổi danh tính. Do đó ông ta chuyển sang chiến thuật khác. Ông ta vẫn cho rằng chính Dossari đánh cắp chiếc hộp trong nhà kho tại bến thuyền năm 1989. Khi những bộ phận của xác chết kia bắt đầu xuất trong khắp thành phố, cảnh sát ngay lập tức tìm đến Dossari. bị bắt trong vụ Osiris, nhưng có vẻ lời khai là bị ép cung và bọn họ cho rằng như vậy là đủ bằng chứng để buộc tội . Lúc đó mới mười tám tuổi. Rốt cuộc bọn họ phải thả ra. Theo luật nhất thiết bọn họ phải làm vậy, nhưng vị chánh thanh tra là người nhân hậu. Những nghiên cứu về tội phạm giết người hàng loạt của Mu'tazz giúp ông ta hiểu những tên này sớm có những dấu hiệu của tàn nhẫn, thiếu thấu cảm và thường được ghi nhận trong hồ sơ của các trường học và cảnh sát vì những tội như chứng cuồng phóng hỏa và hành hạ động vật. Và quả thực, đó là lý đo Dossari thuyền ngày hôm đó: bị buộc tội giết con khỉ của nhà hàng xóm. Nhưng chỉ giết nó: ta đốt mông con khỉ bằng thuốc lá, móc mắt nó, cắt tai và đuôi nó, rồi lột da - trong khi con khỉ vẫn còn sống. Vào những năm tám mươi, phần lớn các bậc cha mẹ đưa ngay đứa con trai như vậy đến thầy trừ tà. Tất nhiên được rửa tội, nhưng cũng cần có bác sĩ giỏi nữa, mà chỉ có chương trình phục hồi nhân phẩm của cảnh sát mới có bác sĩ như vậy. được chỉ định tới cố vấn, ông bác sĩ Saleh nào đấy. Mu'tazz tìm Saleh và phát ra ông ta chết trong vụ hỏa hoạn tại gia năm 1992. Ông ta báo cáo bất cứ thông tin gì về việc này với Ibrahim bởi nó chẳng giúp ích được cho ai cả. Ông ta lặng lẽ báo cho người trong đám sĩ quan trẻ, Shaya, rằng có những suy nghĩ riêng về hướng điều tra và rằng ông ta tìm kiếm thanh niên trong vụ án hai mươi năm trước. Shaya hứa để mắt tói cái tên Dossari, nhưng ta có vẻ hứng thú nghe về gã này. Có vẻ như cái tên đó chưa từng được nhắc đến bởi Shaya phản hồi gì với ông ta. Mu'tazz hiểu thực ra Ibrahim làm gì với thời gian của ông ta nữa - ngoại trừ việc cầu rà soát kỹ phố Sitteen và quấn quýt với mấy ả trong đội pháp y. Kể từ khi được giao phụ trách vụ án này, ông ta khốn khổ. giờ tất cả công việc điều phối nhóm - và việc hối thúc hàng trăm tên quan liêu đần độn trong khắp thành phố này - trở thành trách nhiệm của ông ta. còn thời gian để suy nghĩ sáng tạo nữa. Đó là công việc của những kẻ khác. Bọn họ phải mang những ý tưởng sáng tạo đến cho ông ta, và ông ta phải với bọn họ rằng những suy nghĩ đó mới sắc sảo làm sao và sau đó đảm bảo những ý tưởng đó được thực thi. Tất cả đều là mớ những công việc vớ vẩn, quả là vậy. Đây còn chưa kể đến việc phải trở thành trung tâm của chú ý, hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng nhún nhường bẩm sinh của ông ta. Riyadh đảm bảo với ông ta rằng việc này chỉ là tạm thời, nên ông ta nhận lời. Ông ta cố gắng phàn nàn với ai. Ông ta cố gắng để mất bình tĩnh hay bắt đầu thầm căm ghét toàn bộ cái cơ quan này. Ông ta tập trung tâm trí vào việc vận hành mọi công việc. Nếu có điều gì ông ta tin tưởng, đó là khi con người đặt mình vào con đường của ngay chính, Chúa giúp. Con người chỉ cần để ý tới những tín hiệu của Người mà thôi. Majdi có bức ảnh lớn chụp địa điểm ngoài sa mạc từ cao theo tư thế các chữ cái của các thi thể phụ nữ đó. Bức ảnh chiếm toàn bộ mặt bàn làm việc của ông ta, chỉ còn lại khoảng để đặt chiếc đèn bàn và điện thoại. Sau phát của Hijazi, Mu'tazz vô cùng tức giận chính mình. Ông ta dành đủ thời gian để suy nghĩ về vụ án này, xem xét các bức ảnh, đọc các báo cáo, đến mức đáng lẽ phải tự nhìn ra được quy luật ấy. Đó chính là sở trường của ông ta - nhận ra mọi thứ giấy tờ. Nhưng ông ta bỏ lỡ nó, là ngu xuẩn. Rốt cuộc ông ta tự nhủ lầm lạc thuần túy bởi lỗi như vậy phải lúc nào cũng xảy ra với ông ta và ông ta tự tha thứ cho mình. Sau đó ông ta bắt tay vào việc nghiên cứu các bức ảnh. Có hai điều ràng. Thứ nhất, tên giết người nghĩ rằng là nghệ sĩ. trong những nghệ sĩ đại như Baldaccini (1) người chỉ ràng buộc với vải và màu vẽ mà còn đặt dấu ấn về tầm nhìn nghệ thuật tại những gian công cộng, như các bùng binh hay những toà nhà, và đài phun nước bên bờ Biển Đỏ với công trình mà người ta vẫn gọi đùa là “cái chậu rửa mông của nhà vua” đó. Trong vụ án này lại chính là sa mạc. Nó đặt tên giết người vào loại những kẻ ngạo mạn, phóng túng mà ngày nào đó bắt đầu nhào nặn những đám mây thành hình những dương vật, hoặc cắt tỉa toàn bộ các cánh rừng để vẽ nên những thân thể phụ nữ trần truồng, ơn Chúa là chính quyền luôn kiểm soát những gã này. (1) César Baldaccini (1921-199, nhà điêu khắc người Pháp. Thứ hai, cho dù thông điệp có mang tính tôn giáo và người ta vẫn rằng là kẻ cuồng tín chăng nữa, ràng vẫn chẳng là cái gì hết. ta hoàn toàn ngược lại: kẻ bội giáo. Mu'tazz dám cá toàn bộ lương tháng của mình rằng tên giết người từ bỏ tôn giáo từ lâu lắm rồi. nhẫn tâm ràng và mức độ tàn ác của những vụ giết người đó phải là vấn đề; nếu địa điểm ngoài sa mạc đó là những tấm vải sơn dầu của , nó là hồ đồ bởi nguyên do chủ yếu: nó mô tả hình dáng con người. Bất kể mô tả về dáng hình con người nào đều có nguy cơ gần với sùng bái thần tượng, và vì lẽ đó phải bị cấm. Mọi là như vậy kể từ khi có đạo Hồi. Như vậy là bọn họ tìm kiếm tên nghệ sĩ hồ đồ, hơn. Cách đây tuần, ông ta bắt đầu gọi điện tới các viện nghiên cứu, các nhà trưng bày nghệ thuật và các thợ thủ công rèn kim loại. Chắc chắn là có rất nhiều tay nghệ sĩ hồ đồ lẩn trốn trong những ngóc ngách khác nhau ở thành phố này, nhưng có quá nhiều kẻ tự cao tự đại và phóng túng đủ để thực điều gì đó hiến nhiên như thế này. Những kẻ như vậy có khuynh hướng muốn được chú ý, và trông đợi vào vết nhơ đó. Ông ta tin vào Chúa. lời cầu nguyện lúc nào cũng vạng lên trong tâm trí ông ta: Tạ ơn đức Allah. Người cho ngươi thấy chỉ dấu của Người và ngươi nhận ra chúng. Thở dài, ông ta mở tập tài liệu ra và bắt đầu làm việc.
Chương 42: Ngôi nhà của Amina al-Fouad là bằng chứng xác thực cho tận tụy của những người giúp việc. Ngôi nhà tinh tươm, sàn đá bóng loáng, và đồ đạc trắng muốt sạch cho thấy hề có trẻ sống ở đây. người giúp việc ra mở cửa cho Katya. Nét mặt ta u sầu, và khi Katya rằng mình là cảnh sát, đôi mắt ta ngân ngấn lệ. ta mời vào nhà và đưa tới gian phòng chính trước khi xin lỗi vắng mặt lát. Katya đứng giữa gian lặng lẽ và cố tập hợp những suy nghĩ của mình trước khi bị phân tán bởi những thứ còn lại trong thế giới của Amina. Tên giết người nhắm vào những phụ nữ nhập cư. Amina là ngoại lệ. Bà là bà nội trợ Ả Rập Xê-Út có sáu đứa con và ông chồng luôn bảo hộ quá mức cần thiết, người khai rằng bà bao giờ rời nhà mà có cho phép của ông ta và khi rời khỏi nhà, bà đến những khu mua sắm chỉ dành cho phụ nữ. Nếu việc mua sắm nhân sinh nhật của đứa cháu là lần duy nhất bà đến khu mua sắm dành cho cả nam giới và phụ nữ, có vẻ có khả năng là bà chạm mặt ngay với tên giết người và ra ngay lập tức bắt cóc bà được. Các khu mua sắm đều là những nơi nhộn nhịp. Có người chú ý. Tên giết người thích tất cả mọi thứ đều được tổ chức. Lên kế hoạch. Có thể ta tức tối về việc cảnh sát phát ra khu nghĩa địa bí mật của mình, nhưng bất kể có cảm thấy tức tối đến thế nào về những việc xảy ra thế giới này cách phản ứng của vẫn luôn được tổ chức. Có lẽ gặp Amina trước khi bắt cóc bà, và mặc dù bà phải kiểu phụ nữ trước đây của , nhưng có điều gì đó ở bà thu hút . Điều đó là gì đây? Người giúp việc trở lại với lời cáo lỗi và tự giới thiệu mình là Joy. có ai ở nhà ngoài người giúp việc khác, tên là Maria, chuẩn bị bữa tối. Bọn trẻ ra ngoài hoặc vẫn ở trường còn ông bố làm. Tất cả bọn họ, theo như ta , vẫn cố gắng giữ hy vọng. Đó chính là điều mà Amina mong muốn. “Tôi phân vân có thể hỏi vài câu được .” Katya . “Cảnh sát chuyện với Abu-Jamal rồi thưa .” Joy đáp, có ý đến chồng của Amina. “Tôi nghĩ có thể có những điều mà Abu-Jamal thể về vợ mình.” Katya cẩn trọng bằng tông giọng hết mức bình thường. “Ồ .” Joy đáp. “Amina là người mẹ và người vợ tốt. Bà ấy bao giờ giấu giếm chồng mình điều gì đâu.” Bọn họ đứng trong phòng khách, và Katya băn khoăn liệu mình có được mời ngồi và mời nước hay . Đó có lẽ là việc mà Amina làm, nghĩ. “Đây phải là những thông tin được ghi trong báo cáo chính thức.” . “ biết đấy. Là phụ nữ, tôi bị bắt buộc phải với các điều tra viên tất cả mọi thứ.” Thái độ của Joy có vẻ thoải mái hơn chút. “Tôi chắc là Abu-Jamal với chúng tôi mọi điều ông ấy có thể để giúp tìm vợ ông ấy.” Katya tiếp. “Nhưng có điều gì đó mà ông ấy thể với chúng tôi, có lẽ là vì ông ấy biết chăng?” Joy mím môi lại. bất ngờ khi ta thuận lòng nhanh đến vậy. “Mời vào phòng ngủ .” Bọn họ xuôi hành lang và bước vào phòng ngủ của ông chủ. giường là chiếc chăn hoa, đôi gối đắt tiền, và tấm vải phủ giường sợi thô. Rất nhiều tủ áo và các vật dụng treo tường đều biểu trưng những sắc thái của màu hồng và xanh lá cây nhạt. Joy bước qua cánh cửa vào trong khu để quần áo rổi trở lại với chiếc khăn lau bụi. 'Tôi đưa vào đây bởi tôi muốn Maria nghe được chuyện này.” ta khẽ . “Bà ấy ở đây lâu hơn tôi, và bà ấy thực tận tâm với gia đình này, nếu hiểu ý tôi.” Katya bước đến bên chiếc tủ áo và quan sát Joy lau chùi. “Tôi biết điều này có giúp gì được cho .” Joy nài “Nhưng tôi với . Amina ra ngoài rất nhiều. Các con của bà ấy giờ học cả rồi, và bà ấy ghét phải ở nhà mình cả ngày. Bà ấy thường đến thăm em hoặc em họ mình, nhưng phải lúc nào cũng làm vậy. Có những ngày bà ấy chỉ đến khu mua sắm đó. Thậm chí bà ấy đến khu mua sắm rộng lớn đó minh - nó tên gì ấy nhỉ? Khu thương mại Biển Đỏ hay sao ấy?” “Bà ấy có thường với là đâu ?” Katya hói. “Có chứ.” Joy đáp. “ cũng biết đấy, Maria luôn để ý bà ấy rồi báo lại với Abu-Jamal. Tôi làm vậy.” “ có thể cho tôi biết là bà ấy đâu trước khi bị mất tích ? Bất cứ chỗ nào mà bà ấy có thế tiếp xúc được với đàn ông?” Joy nhướn mắt. “Thực ra, bà ấy taxi nếu buộc phải vậy, nhưng chỉ khi nào Maria nghỉ làm thôi. Tôi biết cảnh sát có hỏi về điều đó. Bà ấy bao giờ với chồng mình về việc đến các khu mua sắm, và tôi nghĩ là ông ấy bận tâm về điều này ngoài việc bà ấy taxi để đến đó bởi con trai bà ấy học và thể đưa bà ấy được” Có tiếng động ngoài hành lang và Joy đặt chiếc khăn lau bụi xuống. “ hãy ở đây.” ta thầm rồi bước về phía cửa. Katya nhìn quanh. Tủ quần áo của Amina khá thưa thớt, nhưng những vật dụng trong đó rất đắt đỏ. Cũng khó để hình dung lý do. phụ nữ trung lưu giàu có có con cái theo học ở trường tư. chiếc váy dạ hội dành cho đám cưới. chiếc quần jeans hàng hiệu. Gu thẩm mỹ của bà có phần dè dặt. Katya bước ra khỏi khu để quần áo và quanh căn phòng. có cuốn sách nào giá sách đặt ở góc nhà, ngoài vài cuốn tạp chí dành cho các bà mẹ và chiếc hộp hình trái tim đựng đầy những hạt cườm bằng thủy tinh trông như thể kế hoạch thủ công bị bỏ dở nào đó. Phần còn lại của giá sách đặt những bức ảnh của gia đình lồng trong khung đắt tiền bắng vàng và bạc. Phía đối diện căn phòng là tủ quần áo của ông chồng, nhắn và ngăn nắp. Những bộ đồ màu đen. Sọc . Hiệu Yves Saint Lauren. nửa tủ áo những sợi dây trắng và khăn trùm đầu được xếp gọn gàng. dãy những đôi giày. Những người giúp việc giữ chúng sạch , nhưng Amina giữ chúng vô trùng. Katya thấy nhói đau. Kiểu người gì mà lại có thể cảm thấy thoải mái khi sống mà có ít nhất thứ quần áo vứt bừa thảm được chứ? Thôi nào. chiếc hộp cũ sàn khu chứa đồ chẳng hạn? quá khó chịu với ngăn nắp của cả căn hộ này đến mức có thể nghi ngờ người chồng chính là tên giết người nếu ông ta có bằng chứng ngoại phạm thuyết phục đến vậy. Chuyện gì xảy ra với người phụ nữ bị buộc phải ngồi ở nhà suốt cả ngày trong khi các con của mình ở trường, thêm vào đó là người giúp việc luôn báo cáo với chồng mình về cách hành xử của mình còn người kia lại khúm núm trước người có thâm niên hơn? Khi mọi thứ hợp nhất lại, phía sau những lời giấu giếm ấy, chẳng lẽ trong lòng người ta có cảm giác trống vắng hay sao? Đó là điều khiến Katya day dứt chỉ trong vài phút sau khi đến đây. có bản năng chạy trốn. Rũ bỏ nó. Làm tóc rối bù, làm bẩn giày. Vậy Amina phản ứng thế nào trước khắt khe này nhỉ? Katya xem xét kỹ những vật dụng tủ. chiếc lược chải tóc. bức ảnh những đứa con của Amina mặc đồng phục học sinh. bức ảnh khác là Amina và chồng. Phía sau vách ngăn là chiếc hộp nữ trang bằng gỗ được lót nhung và đầy ắp những món đồ bằng vàng và những đồ trang sức rẻ tiền. Những món đồ đó được xếp sắp gọn gàng - có lẽ là nhờ Joy - nhưng số lượng của những đồ trang sức đó và thực là chiếc hộp để ngỏ cho thấy phản ứng đối với vô trùng kia. Joy trở lại với vẻ vô cùng khó chịu và lắc lắc đầu. “Tôi có thể hỏi điều được ?” Katya . “Amina bao giờ có tác phẩm nghệ thuật được đặt riêng nào chưa?” “ hề có.” “Còn nghệ thuật thư pháp sao?” “ có, có gì thực giống vậy. A, nhưng có thứ!” Đặt chiếc khăn xuống, ta mở ngăn kéo cùng của chiếc tủ rồi lấy ra số hộp nữ trang, loại người ta có thể mua ở hầu hết các của hàng bán đồ trang sức. Mỗi chiếc hộp có cỡ chiếc xắc loại lớn. “Chúng đều đầy đồ sao?” Katya hỏi. “Vâng.” Joy bật cười. “Cái này là thứ mới nhất của bà ấy.” ta lôi ra chiếc hộp màu đỏ và cạy mở. Bên trong là loạt những thứ khá truyền thống: sáu chiếc nhẫn, sáu đôi khuyên tai, chiếc vòng đeo tay quyến rũ. Phía nắp hộp là vài chiếc vòng cổ có độ dài khác nhau. Trong những chiếc hộp như thế này, tất cả các vật dụng mang phong cách đồng nhất và thựờng được gắn những viên đá giống nhau. Những món đồ này đều bằng vàng và mỗi món lại được trang trí bằng tên Amina được khắc rất đẹp. Phụ nữ nào cũng có chiếc hộp như vậy. Nếu trang sức phía trong đề tên ta, chí ít cũng là chữ cái đầu tiên của cái tên. Nhưng bộ sưu tập này bình thường. Cái tên chỉ đơn giản được viết; nó còn được khắc theo nhiều hình thù - con chim, bông hoa irit. Những hình thù khác biệt theo từng món đồ khác nhau. Thậm chí cả chiếc nhẫn bé xíu, nghệ nhân đó cũng khắc tên bà theo hình vòng trờn hoàn hảo. Chiếc vòng đeo cổ đặt ở chính giữa là món đồ duy nhất chỉ có chữ A. Có điều gì đó quay cuồng trong tâm trí Katya, và buộc mình nhìn ngắm chúng. Các chữ khắc. Nghệ thuật viết chữ. Amina. Chữ A. Chữ cái đầu tiên, nghĩ. viết chữ. bảng mẫu tự. “Bà ấy có được thứ này ở đâu vậy?” Katya hỏi. “Nó đẹp, phải ? Tôi nhớ nữa. Để tôi nghĩ xem...” “Tôi xin phép được chứ?” Katya cầm lấy chiếc hộp và cạy lớp lót nhung lên. Ở đó, dưới đáy hộp, là tấm vải vuông được đóng dấu tên của cửa hiệu: RAYHAN JEWELERS. “Rayhan Jewelers. Nó ở đâu vậy?” tìm kiếm điện thoại và phát ra nó ở chính Trung tâm Jamjoom. Ruột gan thắt lại. “Bà ấy mua cái này lâu chưa?” “Cũng được hơn tháng rồi..” Katya lao ra cửa trước khi kịp chào tạm biệt.
Chương 43 Trung tâm Jamjoom, gần Đài phun nước của Nhà vua phố Falasteen, là công trình kỳ quái màu be bằng bê-tông nằm dưới bóng toà tháp văn phòng bằng kính và crom xanh dương sẫm. Toàn bộ khu liên hợp này chiếm tới bốn khu nhà của thành phố, thuộc quyền sở hữu và điều hành của dòng họ Jamjoom, mà tộc trưởng của họ, lãnh tụ tôn giáo Ahmad từng giữ các vị trí từ Bộ trưởng Bộ Thương mại cho đến Tổng Giám đốc của hãng hàng quốc gia trong suốt cuộc đời tám mươi năm của mình. Trung tâm mua sắm này từng là địa điểm sang trọng trong những năm tám mươi, khi nó còn là công trình kiến trúc lớn nhất của cả nước. Giờ , so với những siêu thị đại của Jeddah, Jamjoom dường như lỗi thời. Gần đây, cửa hàng rau quả Carrefour chuyển , và số lượng khách hàng đến mua sắm giảm mạnh, khiến cho nơi này có cảm giác trì trệ hơn. Ngay trước giờ cầu nguyện buổi tối, Katya và Nayir bước vào khu đại sảnh và dừng lại bên tấm bản đồ toà nhà được gắn chiếc hộp kính. Mặt sàn lát đá của toà nhà mới được đánh bóng, và phía là đèn phản chiếu theo mọi góc độ, phô bày lòe loẹt. Rayhan Jewellers nằm giữa cửa hàng nước hoa và trung tâm trò chơi điện tử, nơi mà trẻ em chạy loanh quanh theo từng nhóm, la hét và gào thét, trong khi những bà mẹ mặc áo choàng phải cố để mắt tới chúng. Bọn họ dừng lại ngay trước tiệm trang sức đó và nhìn vào trong. Nó là cửa hàng bình thường, hơi tồi tàn và bé, nhưng gọn gàng, có hai cửa sổ trưng bày ở phía trước và quầy bán hàng dài duy nhât uốn theo hình chữ U dọc theo các bức tường. có bán hàng nào tươi cười trong đó, chỉ có người đàn ông đứng bên quầy chuyện với khách hàng nữ. Vờ như ngắm nghía cửa sổ trưng bày, Katya tiến gần đến cửa chính và quan sát người chủ cửa hiệu. Ông ta cao, gầy gò và hốc hác, có cái mũi gãy và cái đầu to tròn. Ông ta tựa cánh tay lên tủ trưng bày. Trông ông ta có vẻ mệt mỏi và chán nản. Người phụ nữ gì đó và ông ta thó tay vào chiếc tủ, lấy ra chiếc nhẫn đặt lên mặt quầy. ta cầm nó lên. Người chủ cửa hiệu liếc nhìn Katya và vội vàng nhìn chỗ khác. Nayir ngắm những món đồ trang sức qua cửa trưng bày. “Em có thích chiếc nhẫn nào trong số này ?” hỏi. “Em thích lắm.” tiếp tục quan sát người chủ cửa hiệu. Người phụ nữ kia đặt chiếc nhẫn lên mặt quầy và ông ta cất nó lại vào tủ. Khi người phụ nữ cảm ơn ông ta và quay , ông ta đứng thẳng lên. Katya nghe tiếng động. Chắc hẳn là do cổ tay của ông ta. Giờ ông ta đứng thẳng, có thể nhận thấy ông ta có bàn tay giả. Nó va vào mặt quầy bằng kính khi ông ta đẩy người lên. quay người lại, cảm thấy cái nhói đau vì adrenaline. “Gì vậy?” Nayir hỏi. “ thôi .” Bọn họ bước trở ra lối vào khu mua sắm. thấy hối hận vì giải thích với Nayir làm gì ở đây. còn năng lượng và muốn hỏi gì cả. Khi là cửa hàng đôồ trang sức, nghĩ rằng đó là vì đám cưới. rút điện thoại từ trong túi xách ra và nó rơi xuống mặt sàn. Nayir nhặt nó lên. liếc nhìn lại cửa hàng đó, thấy người chủ hiệu lúc này đứng ngoài cửa. Ông ta quan sát họ. Có điều gì đó đầy hung tính và nghi hoặc trong ánh mắt của ông ta. Ông ta quay và trở vào trong. tóm ngay lấy điện thoại từ tay Nayir rồi gọi về đồn. “Chuyển máy cho tôi gặp Mu'tazz.” Việc đó phải mất đến cả phút. Trong lúc ấy, thấy người chủ hiệu kéo cửa sắt xuống, đóng cửa tiệm của mình vì đến giờ cầu nguyện, ông ta khóa trái bên trong. “Mu'tazz nghe.” “Katya đây. Tôi nghĩ là tìm ra tên giết người rồi.” biết liệu im lặng của ông ta là xẩu hổ hay thích thú nữa. “Dựa vào đâu mà vậy, Hijazi?” “ ta làm việc tại Rayhan Jewelers ở Trung tâm Jamjoom. làm bộ trang sức cho Amina al-Fouad mà mua nó lâu trước khi bà ta mất tích. tôi ở trung tâm đó. Người chủ hiệu cao khoảng mét chín, đầu hói. có cái đầu có hình thù quái đản và đôi tai to.” “To đến mức nào?” Mu'tazz giờ có vẻ quan tâm. “Chúng vểnh ra rất . cũng bị mất bàn tay nữa. mang bàn tay giả.” “Chúng ta có đội ở gần đó.” Ông ta . thực bất ngờ trước đồng thuận của Mu'tazz. “Tôi cử họ tới Jamjoon ngay tức .” “ ta đóng cửa hiệu vì tới giờ cầu nguyện.” . “Nhưng có thể có lối hậu.” “Đừng hành động gì hết.” Mu'tazz gay gắt . “Cho đến khi nào cảnh sát đến.” Ngay lập tức nghe tiếng còi xe cảnh sát. thể là họ được. Điện thoại mất tín hiệu. bỏ nó trở lại túi xách và nhận ra Nayir nhìn chăm chăm với vẻ kinh ngạc ràng. “Em xin lỗi với .” “Em ở lại đây, ở chỗ mà người ta có thể thấy em nhé.” . I “ xem có lối hậu nào .” Và biến mất. đứng đó, sợ hãi đến mức thể cử động. Nhưng phải đến gần hơn. phải xem liệu còn ở đó . chậm rãi tiến về phía trước, nhìn thấy ánh đèn phía sau quầy tắt. Chỉ còn ánh đèn trưng bày. Cửa hàng trống . Theo bản năng, bắt đầu về phía lối vào ở phía đằng xa. Nayir rời khỏi toà nhà. theo lối vào phía tây, quay lại và gặp ở hướng đối diện. Ngoài trời tối nhập nhoạng, nhưng ánh đèn sáng trưng trong khu đỗ xe. Ngay lập tức nhìn thấy Nayir. chạy chầm chậm dọc theo mặt tiền của khu mua sắm. về phía , quan sát lượt khu đỗ xe và những lối khác nhau để vào toà nhà. Khu đậu xe rất nhộn nhịp. Từng đám thanh niên tụ tập bên ô-tô nghe nhạc với vẻ chán nản. đại gia đình vào trong chiếc xe tải mini. Vài nhân viên của khu mua sắm quây tụ quanh chiếc bệ đặt gạt tàn. Đột nhiên, có chuyển động. Nayir phát ra và chạy băng qua bãi đỗ xe. giật mạnh chiếc áo choàng của mình và cởi bỏ nó ra. Tên thợ kim hoàn nhận thấy Nayir đuổi theo và bắt đầu bỏ chạy. ta nhanh hơn cả hai người bọn họ, hai cẳng chân dài của đạp liên hồi, chẳng hề vướng víu bởi chiếc áo thụng. nhắm hướng phía đông của khu đỗ xe, cách Katya khoảng hai trăm mét, xa hơn so với Nayir. Ngay cả khi có chạy hết tốc lực, cũng thể chặn đường được. Dù thế nào vẫn chạy, hết sức mình, vứt bỏ túi xách và vén váy lên đầu gối. Nửa đường giữa và ta là đám thanh niên. “Ăn trộm!” hét lên. Đám thanh niên cần gì để kích động hơn thế; bọn họ nhìn thấy chỉ tay và đuổi theo ta. “Kẻ mặc áo xanh lục đó!” gào to. Những tiếng la hét vang lên khắp khu đỗ xe. “Ăn trộm!” “Chặn lại!” trong những thanh niên tóm được . Katya nhận ra khi quá muộn rằng tên thợ kim hoàn có vũ khí. Có ẩu đả. thanh niên ngã xuống. Máu ướt áo sơ-mi. Nhưng vẫn có người khác đuổi theo . Ba người nữa lao ra từ phía khác. Tất cả những thanh niên đó, cuộc đời của họ phí hoài trong những bãi đỗ xe của khu mua sắm, chờ đợi cơ hội để được chứng tỏ mình. Hạ gục tên trộm, cũng chính là kẻ giết người. Đế cứu phụ nữ khỏi hổ thẹn. Để giáo hóa xa hội này khi mà cảnh sát thể làm gì. Bọn họ bắt như bầy chó hoang, ném tên mặt đất, lăn xả vào , giằng xé tứ chi . Cảnh tượng đó hoang dại và đẹp đẽ biết bao. quên mất cảm giác đó là thế nào khi được chứng kiến công lý của loài người, chứng kiến kẻ giết hại những người vô tội bị hạ gục.
Chương 44 Tawfiq Zhouri làm việc ca đêm cho Trăng lưỡi liềm Đỏ được năm năm rồi và luôn cảm thấy biết ơn khi cuộc gọi đầu tiên của đêm liên quan đến tai nạn giao thôn thông thường. Ca này đưa đến khu vực gần Jamjoom, tới ngôi nhà cổ kính với vẻ vương giả, có phần tồi tàn phía bên ngoài và dễ nhớ, nằm kín đáo giữa những toà nhà chung cư. Sau tám phút bọn họ có mặt và thấy sáu chiếc xe cảnh sát chờ ở đó. Hai viên cảnh sát đẩy họ vào nhà, và Tawfiq, thuộc nhóm khiêng cáng phía sau, ngay lập tức cảm thấy khó chịu. Qua hành lang dẫn vào ngôi nhà, ta thấy ngôi nhà khá bình thường. Có phần trang trí sơ sài, nhưng sạch và gọn gàng. Gần như ngay lập tức ta được dẫn dắt tới cửa tầng hầm. khí đưa lên cầu thang toàn mùi chất tẩy trắng và mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, khiến thấy buồn nôn khi bọn họ xuống tầng hầm. Căn phòng ảm đạm và sáng đèn. Nền bê-tông, tường đá trắng, dãy tủ bằng thép gỉ, và chiếc tủ lạnh khổng lồ ở xa phía cuối căn phòng. Mùi hôi thối và ánh đèn huỳnh quang kết hợp với nhau khiến nghĩ đến nhà xác trong bệnh viện. Trong góc xa nhất là căn phòng được làm hoàn toàn bằng Plexiglas (1). Các sĩ quan cảnh sát vây quanh nó, và khi Tawfiq đến gần thấy phụ nữ bên trong. ta bất tỉnh và nằm mặt sàn kim loại của căn buồng Plexiglas ấy. Cạnh đầu của ta là cái rãnh và ràng ở đó có vết máu. Có chiếc ghế bên cạnh người phụ nữ này. Nó được hàn vào mặt sàn kim loại. Trông có vẻ ta ở chiếc ghế ấy và cảnh sát giải thoát cho ta. mỗi bên tay vịn là chiếc còng gãy, vẫn còn những đoạn dây kim loại quấn quanh hai cẳng chân ta. Bọn họ cắt nó ra. (1) thương hiệu nhựa trong suốt chống chịu được với thời tiết nổi tiếng của Mỹ. “ ta vẫn còn sống.” sĩ quan . Tawfiq và đồng của mình đặt ta lên cáng và vội vã đưa ra xe cứu thương, vừa bởi bọn họ chỉ mong muốn sớm thoát ra khỏi đó vừa bởi tình trạng khẩn cấp của ta. Tawfiq trèo lên phía sau xe để hỗ trợ nhân viên khác và bắt đầu lấy chăn che chắn cho ta. ta bị choáng. rối trí tự hỏi chuyện gì xảy ra; cơn buồn nôn của và những hình ảnh chủ đích hiển cùng với mùi thuốc tẩy còn sót lại trong căn hầm đó. có cảm giác vừa chạm vào tội ác mà chưa bao giờ phải đối mặt, và bắt đầu lầm rầm cầu nguyện để chống chọi lại thế lực của bóng tối. Ôi Allah, con xin dâng mình cho Người, con dẫn đường chỉ lối bản thân mình đến với Người, con xin giao phó những ràng buộc của mình cho người, nên hãy bảo vệ con, bằng gìn giữ niềm tin, từ những gì phía trước con, phía sau con, bên phải con, bên trái con, phía con, phía dưới con, và đẩy lùi cái xấu trong con bằng sức mạnh và quyền lực của Người, bởi đích thực có sức mạnh và quyền lực nào ở bên Người... Chương 45.1 Ali Dossari chỉ đưa ra thông tin giọt. Mỗi ngày mảnh ghép lại xuất , thường là sau khoảng chín tiếng thẩm vấn thất bại. Các thám tử đều chán ngấy, nhưng Katya ngờ rằng Dossari tiếp tục trò chơi này ngay cả khi Mu'tazz quyết định dùng đến chiếc roi của mình. có gì để mất cả. Bọn họ dựng được bức chân dung về qua những hồ sơ được tìm thấy trong nhà , từ lịch sử bệnh lý, và từ những tài liệu pháp lý. Bọn họ cũng phỏng vấn các khách hàng của cửa hiệu trang sức và hàng xóm của Dossari nữa. Nhưng điều mà họ cần là lời thú tội: đúng, tôi giết những phụ nữ đó. Trong khí im lặng đầy phẫn nộ của phòng quan sát, những người đàn ông trao đổi về bàn tay bị mất của . buồn cười khi người thợ kim hoàn lại mất bàn tay. ta đánh cắp các mặt hàng của mình chăng? , với các khách hàng của mình, điều đó chỉ có nghĩa là biết làm thế nào để phát ra tên trộm mà thôi. Ở Jamjoon, người ta tôn trọng . hơi cách biệt, bao giờ chuyện mức thầm. tai nạn với nitrat khi còn làm hỏng thanh quản của . Điều đó khiến có vẻ nhàng và tốt bụng. Bọn họ tìm thấy chiếc GMC trắng nhãn hiệu thể thao trong nhà xe của . Trong thùng xe là hai mảnh nam châm lớn, loại có thể dùng để dính chặt vào cửa xe, cả hai đều được in logo của công ty taxi giả mạo. Bọn họ cũng tìm được công-tơ mét của xe taxi bị vỡ và tấm thẻ ghi danh là nhân viên của công ty bịa đặt đó. Ngày hôm qua, họ buộc phải khai ra việc sử dụng chiếc SUV giả làm taxi - để đón khách nữ giới ở khu cầu phố Sitteen. thích những người Philippines. Bọn họ rất háo hức ngồi vào xe của khi mời chào giảm giá. Nếu thấy chán khu Sitteen, đến những nhà hàng châu Á ở những khu vực khác nhau trong thành phố. Khi họ dồn ép về trường hợp của May Lozano, chỉ khẽ mỉm cười tự mãn và . “ ta cần được thuyết phục.” Họ biết chắc “thuyết phục” ta giữa phố đông người như thế nào mà bị ai để ý tới, nhưng khi họ bắt đầu đặt câu hỏi, im thin thít và gì thêm. Người phụ nữ trong căn hầm của phải là Amina al- Fouad. Amina chết, như , và cho biết bà ta ở đâu. Căn phòng được dọn sạch, nhưng họ tìm được bàn tay còn lại của bà ta trong tủ lạnh. Nó bị chặt sau khi bà ta chết. Những vết máu của bà được tìm thấy trong ống thoát nước của căn buồng bằng Plexiglas, có khả năng bà cũng bị giam giữ ở đó. Người phụ nữ được tìm thấy trong tầng hầm khi cảnh sát đến có tên là Bassma Gilani. Đôi tay ta vẫn còn nguyên vẹn. ta là người Ả Rập Xê-út, và còn trẻ - mới mười bảy tuổi. Bố mẹ của ta được thông báo, và khi lục soát phòng ngủ của ta họ tìm được chiếc hộp đựng trang sức giống với chiếc hộp Amina mua. Chữ cái đầu tiên của cái tên Bassma phù hợp với giả thuyết bảng mẫu tự của Katya, rằng kế hoạch mới của Dossari là giết phụ nữ theo tên gọi của họ, theo trật tự của bảng chữ cái. Katya ngờ rằng chôn Amina sau khi đặt tư thế cho cái xác của bà ta theo đường thẳng đứng - hình chữ A Có hai chiếc tủ lạnh lớn đặt dưới tầng hầm của . Các điều tra viên tìm được bàn tay còn lại của Amina ở chiếc. Trong chiếc còn lại, họ tìm được mười tám bàn tay. Tuy tất cả những công việc trong phòng thí nghiệm chưa được hoàn tất, nhưng Katya có phần ngờ rằng DNA của các bàn tay này phù hợp với DNA của các nạn nhân ngoài sa mạc. Tên giết người giữ lại bàn tay như vật tế cho mỗi vụ giết người ngoại trừ trường hợp. Cả hai bàn tay của May Lozano được tìm thấy tại khu chôn cất đó. Trong tủ lạnh người ta chỉ tìm được chiếc nhẫn . Dossari cần cả hai bàn tay của Lozano để tạo dấu phụ bên dưới chữ cái thứ hai trước chữ cái cuối cùng để hoàn tất thông điệp ở sa mạc, cho nên giữ lại chiếc nhẫn làm vật tế thay thế. Trung úy Daher mang chiếc nhẫn đó đến gia đình chủ nhà của Lozano, họ xác nhận nó chính là thứ mà ta mua trước khi mất tích. Họ nhớ chiếc nhẫn đó bởi nó mang viên đá tượng trưng cho tháng sinh của ta, viên peridot. ta hề biết về những viên đá tượng trưng cho tháng sinh trước khi mua nó, nhưng màu xanh lá cây chính là màu thích của ta, và ta rất vui khi khám phá ra điều đó. mua nó tại cửa hàng đồ trang sức ở Jamjoom. Katya ngờ rằng có điều gì đó khác thường về vụ giết Lozano. ta là nạn nhân duy nhất trong số những nạn nhân được chôn ngoài sa mạc mà Dossari gặp ở hiệu bán đồ trang sức của . Và là trong những nạn nhân cuối cùng của nhóm đó. Có lẽ việc giết ta khiến nảy sinh ý định lựa chọn nạn nhân trong số khách hàng của . Khi thấy mất tích của Lozano gây ra rắc rối nào, bắt đầu lên kế hoạch cho những vụ giết người tiếp theo với cách hành động thậm chí còn táo bạo hơn. Cách đó ràng là mạo hiểm hơn việc bắt các nạn nhân phố. Nó cũng giải thích tại sao đối tượng nạn nhân của thay đổi. Thay vì giết người nhập cư, chuyển sang giết những phụ nữ Ả Rập Xê-Út. Có lẽ khách hàng của chủ yếu là những người Ả Rập Xê-Út giàu có. Chương 45.2 Trở lại năm 1996, mở cửa hàng bạc ở Souq al-Bado dưới cái tên Zeddy al-Munir. Ba năm sau, đánh cắp xác chết trong nhà xác thành phố và bị bắt quả tang cùng với cái xác đặt trong thùng xe của mình. Cái xác này là của mười chín tuổi chết vì bệnh bạch cầu. Gia đình của nạn nhân là gia đình thế lực. Kinh hoàng trước những gì làm, bọn họ sắp xếp để phải chịu trừng phạt nghiêm khắc vì tội ăn cắp, và cơ quan hành hình của thành phố chặt đứt bàn tay của . Do nhục nhã bởi hình phạt đó, đổi tên thành Asif Dakheel và bắt đầu lại từ đầu. Với cái tên mới, thuê mặt bằng ở Trung tâm Jamjoom và mở cửa hàng bán đồ trang sức, sinh lời nhưng chắc chắn hơn. Mười năm trước hẳn phải là khoảng thời gian bận rộn đôì với , Katya ngẫm nghĩ. mở cửa hiệu Rayhan Jewelers; giết nạn nhân đầu tiên là Amelia Cortez; và nhận thấy việc khiến người nhập cư biến mất quả là dễ dàng. Cảnh sát ít có chiều hướng theo dõi các trường hợp về người nhập cư, bỏi số lượng những vụ như vậy cũng như khó khăn trong việc lần theo những vi phạm về thị thực và việc ở lại quá thời hạn hành hương. Hành động tự do giết người của Dossari hề bị chú ý trong suốt thập kỷ. Lúc này quan sát , Katya cảm thấy vô cùng căm phẫn trong từng đường gân thớ thịt. cầu Chúa bằng suy nghĩ nung nấu và thầm lặng của mình: Nếu Người lắng nghe con, xin Người hãy giúp con toại nguyện: Người hãy loại bỏ con người bệnh hoạn đó khỏi thế giới này và hãy đày xuống nơi xa nhất của Jahannam.(2) (2) Tức địa ngục Khi Mu'tazz bước vào để chuyện với Dossari, rời khỏi phòng quan sát. muốn nhìn cảnh đánh đấm nữa, muốn phải cảm thấy thương hại cho tên giết người đó. Nhưng khi vừa ra Mu'tazz cũng rời khỏi phòng thẩm vấn. Ông ta lật qua lật lại tập hồ sơ của mình như thể ông ta quên thứ gì đó. Mu'tazz nhìn thấy trong hành lang và dừng lại. Họ hề chuyện với nhau từ sau cuộc trao đổi điện thoại ở khu mua sắm. “Cảm ơn , Hijazi, vì những việc làm của .” chăm chú nhìn ông ta. Ông ta nhìn nên ông ta chuyện với điểm vô hình phía đầu . “Việc đình chỉ được hủy bỏ,” ông ta , “trong khi chờ đợi có cuộc điều tra đầy đủ.” vẫn thích ông ta, nhưng nếu muốn tiếp tục làm việc ở Đội Trọng án, phải chấp nhận đối diện với ông ta. “Cảm ơn ông.” . Mu'tazz quay và bước về phía hành lang. Ibrahim và Saffanah ngồi trước TV người cảnh vệ mở cửa và Osama bước vào. “Chúc tốt lành.” Osama . ta mang dáng vẻ mà Ibrahim thấy nét mặt của trai ông mấy ngày trước đó. Ibrahim đứng lên. “Tôi đến để đưa đến trụ sở toà án.” Osama . “Luật sư của muốn trình bày chính thức trước mặt thẩm phán. Việc này có thể mất vài tiếng.” Giờ Sabria chết, khó để gia đình Jamila giành phần thắng trong vụ kiện ngoại tình này, nhưng dù thế nào bọn họ vẫn theo đuổi vụ kiện. Luật sư của Ibrahim đảm bảo rằng ông phải lo lắng gì, ông bị xử tử hình nếu có người làm chứng cho mối quan hệ bất chính của ông với Sabria. Tuy vậy việc này cũng khiến ông bị hạ nhục, đó chính là điều mà Jamila và gia đình bà ta mong muốn. Saffanah ngay lập tức đứng lên. Kể từ khi bọn họ chuyện về bố đứa trẻ trong bụng ta, ta rời ông đến nửa bước. Họ thậm chí còn ngủ trong phòng khách hai chiếc sô-pha đối diện nhau. Mỗi khi ông tỉnh giấc vào ban đêm lại thấy khuôn mặt của ta trong ánh sáng lập lòe của màn hình TV. ta luôn mở to mắt ngay sau đó, như thể vì họ ngồi với nhau trong cùng căn phòng trong hàng giờ liền nên nhịp điệu của họ gắn chặt vào nhau và ta có thể cảm thấy khi nào ông tỉnh giấc. ta lặng lẽ nhìn ông lát. Ánh nhìn của ta mang thông điệp, nhưng ông bao giờ nhận ra liệu đó là lời cầu xin đầy sợ hãi là đừng tiết lộ bí mật của ta hay là lời cổ vũ thầm để ông mạnh mẽ lên, hãy cứ ngủ và để dành sức lực của mình cho trận chiến. Sau đó ta trở mình và ngủ tiếp. Trong những giờ phút thiêng liêng và huyền bí của bóng đêm, ông thấy nhớ Sabria, cái cách mà ông vẫn thường tỉnh giấc và thấy nhìn mình, kiên nhẫn chờ đợi ông mở mắt để có thể quấn lây ông theo tư thế khác, điều chỉnh tư thế của cả hai người rồi ngủ tiếp. Ngay cả lúc này đây, ông có thể ngửi thấy mùi hương ngọt ngào của làn da . Ông cầu Chúa, người mà ông tin tưởng, và cầu xin có được thông tin, minh mẫn, lời khuyên. Chúa trả lời ông bằng những giấc mộng khổ sở trong khoảng đen tối chỉ khiến ông càng thêm đau đớn buồn nản hơn. Ibrahim xỏ chân vào giày và vơ lấy chiếc áo khoác treo phía sau cánh cửa. Saffanah bước đến và ngang nhiên đứng bên cạnh Osama, như thể thách thức ông ta dám buộc ta phải ở lại. “Có lẽ con nên...” Ibrahim lên tiếng. “Con .” ta . Osama có phản ứng gì, nên Ibrahim theo viên thám tử ra ngoài xe, và Saffanah theo bọn họ. Trung úy Shaya ở đó với vẻ vui mừng lặng lẽ khi được gặp lại vị sếp cũ. ta vẫy vẫy tay qua cửa sổ xe và liếc nhìn Saffanah cách tò mò trước khi bọn họ khởi hành.