Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt - Zoe Ferraris [Trinh thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 22

      Văn phòng làm việc của Sở cảnh sát Jeddah giống phòng spa hơn là phòng tổng đài. Những chậu cấy cọ cảnh lớn, những tấm thảm nhung, cách bài trí trung tính và mức độ yên tĩnh của khách sạn năm sao. Tất cả như phá tan cái suy nghĩ đó là phòng tổng đài. lời ồn ào hay lớn tiếng, chỉ có các nhân viên điềm đạm với giọng ân cần. Họ quyết tâm giữ gìn quy tắc bảy-phút: lâu hơn khoảng thời gian đó, cảnh sát đáp lại bất cứ cuộc gọi nào. Họ thậm chí còn hỗ trợ những người có cầu cuộc gọi báo thức, do số điện thoại khẩn 999 lại may giống với số điện thoại lễ tân 99 của hầu hết các khách sạn.

      Sở trưởng Hamid lúc nào cũng có vẻ giống hướng dẫn viên du lịch hơn là lãnh đạo Sở. Ông dẫn Ibrahim đến dãy máy vi tính ở bên căn phòng và xin phép ra ngoài lát. Khi quay trở lại - Ibrahim bấm giờ đúng sáu phút rưỡi - ông mang theo băng ghi cuộc gọi của người đàn ông thông báo về việc Sabria mất tích. Ibrahim ngồi xuống bên quầy và nghe đoạn hội thoại bằng tai nghe.

      “Vâng.” Giọng người đàn ông đó . “Tôi muốn thông báo về việc mất tích của người hàng xóm.”

      “Rất tốt, thưa ông, tôi nối máy cho ông tới bộ phận Người mất tích.”

      , tôi có thời gian đâu. Tôi chỉ muốn để lại tên ấy và địa chỉ nhà thôi.” ta đưa ra thông tin như thể đọc từ tấm danh thiếp, làm nhân viên văn thư kịp phản ứng gì. “ ấy ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi.”

      “Được rồi, thưa ông.” Nhân viên văn thư . “Cảm ơn...”

      Người đàn ông đó gác máy trước khi nhân viên hết câu.

      Ibrahim nghe nghe lại. Ông nhận ra giọng đó. Lúc đầu, nó nghe có vẻ như vội vàng và cáu kỉnh, nhưng càng nghe ông càng nhận ra nó hề diễn cảm. Ông thấy nôn nóng; ta chỉ làm bộ như vậy. Tôi có thời gian đâu. Nhưng giọng lại đều đều và điềm tĩnh.

      Người đó là ai được nhỉ? Tôi có thời gian đâu. ta chỉ như vậy vì muốn chuyện với bộ phận Người mất tích. ta muốn trả lời câu hỏi của bất cứ ai. ( là ai? Tại sao lại để mắt đến căn hộ của phụ nữ chứ? ấy có sống mình ? Người tình của ấy đâu?). Những cuộc gọi danh là chuyện khá bình thường, nhưng Ibrahim e rằng ông được nghe giọng của chính kẻ bắt cóc.

      Katya rời khỏi căn hộ của Sabria khi ông đến đó, và như vậy là quá muộn. Ngay lập tức ông gọi cho . rằng chắc liệu mình thu thập tất cả bằng chứng hay chưa. Có thể họ gửi số bằng chứng cho Đội Điệp vụ. Đội Trọng án rằng quá tải với việc xử lý các bằng chứng của vụ Thiên sứ rồi.

      Suốt giờ đồng hồ sau đấy ông cố gạt bỏ nỗi hoảng hốt, tâm trí ông như quay cuồng bạt tử chiếc đu nhào lộn. Liệu họ phát ra ông chính là người tình của ? Hay họ chỉ đơn giản cho rằng đó là DNA của chồng ấy? Liệu cuộc gọi có phải của Omar ? (Hẳn là chắp nối các chi tiết lại với nhau - còn lý do gì khác mà Ibrahim lại đề nghị mượn các hồ sơ đó chứ?) Hay Omar tự nhủ đó chỉ là công việc và bao giờ đề cập đến vấn đề này nữa?

      Lạ thay, có gì xảy ra cả. Mọi người trong tòa nhà ăn trưa. Vụ Thiên sứ chiếm hết thời gian của họ. Vài người làm việc ở trường xem lại các hổ sơ vụ án. Ibrahim đến gặp đội pháp y và chuyện về vụ Thiên sứ với Majdi, người quá căng thẳng. Khi ông thử tìm hiểu xem liệu họ có xử lý những bằng chứng nào khác , thí dụ như bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria chẳng hạn, Majdi chỉ gạt . Họ quá bận rộn để bận tâm đến thứ gì khác ngoài vụ Thiên sứ.

      Ông mở lại cuộn băng. ấy ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi. Điều này chính xác quá mức. Tên bắt cóc biết chính xác bắt giữ được bao lâu. Nhưng trời ạ, tại sao lại muốn cảnh sát tìm hiểu chứ?

      “Đây là dấu vết.” Sở trưởng Hamid đưa cho ông mẩu giấy. “Nó là thẻ điện thoại dùng lần. Có vẻ cuộc gọi là từ vùng phụ cận của Trung tâm thương mại Biển Đỏ.”

      “Nó có phải trung tâm thương mại rất lớn ?” Ibrahim hỏi.

      “Đúng vậy, mười tám lối vào và bốn nghìn chỗ đỗ xe. Ông phải dùng xe điện để quanh đó. Nhưng chúng tôi dò được ta ở gần lối vào Danube khi thực cuộc gọi.”

      “Đó có lẽ là lối vào đông nhất.” Ibrahim .

      “Đúng vậy. Tôi lấy làm tiếc.”

      “Chúng ta có thể xác định được nơi ta mua thẻ điện thoại ?”

      “Có, nhưng việc đó phải mất tuần.” Trong cái thế giới của tiêu chuẩn bảy phút, bảy ngày quả là đáng để cân nhắc.

      “Hãy cho tôi biết những gì các tìm được.” Ibrahim . Ông cảm ơn Sở trưởng rồi khỏi.

      Nhà có ai. Mọi người dự đám cưới của gia đình hàng xóm và ông cũng phải có mặt ở đó. Nhưng chú rể, con trai của bao giờ được lời tử tế nào về Ibrahim, Omar hay bất cứ ai thuộc dòng họ Zahrani trong vòng bán kính của hai mươi tòa nhà, chỉ là đứa hơn con lừa như bố nó. Ibrahim tự thấy chẳng có gì phải áy náy khi quyết định ở nhà.

      Ibrahim đứng trong bếp pha trà và chờ cho than đá bén lửa trong chiếc điếu ống. Gian bếp là căn phòng vuông vức lúc nào cũng có cảm giác tối tăm và quá rộng. Phụ nữ trong gia đình ông chẳng bao giờ thấy vui vẻ ở đấy cả. Họ chặt thái và gọt vỏ các loại củ quả ngoài phòng khách, ngay phía trước cửa bếp. chậu cây bạc hà héo úa đặt bậu cửa sổ, những chiếc lá quăn lại vì hơi nóng.

      Ông lững thững bước sang phòng khách. Qua cánh cửa phòng tắm ông thấy mấy con búp-bê Barbie của cháu ngồi trong bồn rửa. Phòng tắm đầy ngập quần áo bẩn.

      Ông vào phòng may vá, căn phòng cấm. Jamila tuyên bố như vậy cũng như việc ông tuyên bố tương tự với phòng khách nam giới. Ở đây có chiếc máy may - con quái vật đen sì với chiếc bàn đạp - và tủ quần áo chất ngất của bà ta. Bên trong đầy ứ những bộ đồ nhìn phát ngán, bộ nào bộ nấy vừa vặn với thân hình ngoại cỡ của bà ta. Bà ta thường xuyên chăm chút ăn diện; những bộ đồ đó được chưng theo kiểu cách của những phụ nữ mà bà ta bao giờ trở thành được mặc dù rất muốn: văn nghệ sĩ, rồi doanh nhân, hay lữ khách. Bà ta có thể ngồi hàng giờ bên chiếc máy may để hoàn thiện từng đường kim mũi chỉ, nhưng rốt cuộc lúc nào cũng khoác lên mình bộ váy khỉ đột đó.

      Tòa nhà khiến ông thấy ngột ngạt. gian tối tăm và oi nồng, cát từ ngoài sa mạc thổi tung vào ngay dưới chân cửa, cái nắng len qua những khe hở tường. nhiều năm rồi ông nghĩ đến việc chuyển đên nơi ở mới, nhưng Omar ở ngay tòa nhà bên cạnh, họ Essam của ông lại ở ngay dưới tòa nhà, và chuyện có vẻ đến mức phải chuyển tất cả nơi khác chỉ vì có phòng ốc tốt hơn, có cảnh đẹp hơn.

      Ông mang trà và than đá lên tầng thượng, nhưng ở đó cũng thoát được hình ảnh của Jamila. Suốt hơn hai mươi tư năm qua, hình ảnh bà ta như in hằn mỗi vết rạn nứt của những bức tường bê-tông này. Họ cưới nhau từ năm mười tám tuổi, cuộc hôn nhân sắp đặt nhờ cha mẹ, giống như Zaki. Cuối những năm cấp hai, ông người khác: Maidan. Đó là người Philippines mà ông gặp phố khi cùng bộ từ trường về nhà.

      Ông chưa bao giờ nhớ chuyện xảy ra thế nào, nhưng sau thời gian ông mượn ô-tô của Omar để đón ở trường. Cho tới giờ ông cũng hiểu làm thế nào ông lại tự xưng là trai của nữa. Chuyện của họ có thể khác rất nhiều. Ông có gương mặt mang những nét đặc trưng của dòng họ Bedouin cổ điển - mũi dài, da ngăm đen, và đôi mắt hạnh nhân màu nâu sâu thẳm - được thừa hưởng từ họ ngoại. Maidan người thấp, nước da sáng, dáng tròn với những đường cong mềm mại. Họ dành những buổi chiều ở bên nhau bãi biển, ở những hội chợ, hay đơn giản chỉ lái xe qua sa mạc. Ông rất muốn hôn nhưng chưa bao giờ có can đảm để chủ động cả. lần phải đề nghị ông hôn mình, và ông làm theo, nhưng nó khiến họ sợ đến mức bao giờ làm vậy nữa. Họ lên kế hoạch kết hôn.

      Trong suốt sáu tháng, họ hầu như gặp nhau hằng ngày ngoại trừ cuối tuần, khi ông phải ở nhà theo cầu của gia đình. Và rồi hôm khi ông đến trường đón giáo chủ nhiệm đến chuyện với ông. Bà ta đứng bên chiếc cổng sắt ngay lối vào trường và với ra phía ô-tô của ông. “Maidan rời Ả Rập Xê-út rồi. Tôi tưởng là trai biết chuyện rồi chứ.” Thậm chí bà ta còn lườm ông cái trước khi quay trở vào trường nữ sinh. Cổng đóng và ông bao giờ gặp lại Maidan nữa.

      Ông chưa bao giờ gặp gỡ gia đình . Ông thậm chí còn biết sống ở căn hộ nào, chỉ biết là ở tòa nhà. Ông đến đó, tuyệt vọng, và người hàng xóm ở tầng dưới xác nhận gia đình người Philippines đó chuyển rồi.

      Suốt bao nhiêu ngày ông hồi tưởng lại mối quan hệ của họ. Từng lời , từng cử chỉ, những lời ngợi khen đều mang nghĩa mới khi ông đào xới lớp bề mặt mỏng manh để tìm bản chất. Sao hề với ông rằng ra chứ? Có phải định rời bỏ ông ngay từ đầu rồi ? dối, giờ ông hiểu, nhưng dối đến mức nào? Và từ khi nào?

      hết sau tất cả mọi chuyện: liệu có thực ông ?

      Cuối cùng ông đành chấp nhận rằng kẻ hèn nhát, và điều ông mong muốn ở người phụ nữ là mạnh mẽ, đặc điểm mà những người phụ nữ tuyệt vời nhất luôn có, khả năng để với ông rằng khi nào chấm dứt mối quan hệ. Đó chính là điều ông với mẹ khi bà đưa ra ý tưởng về cuộc hôn nhân sắp đặt cho ông.

      “Con muốn người phụ nữ có thể đứng về phía con.”

      Ông hề hiểu lúc đó ông gì. Ông chỉ biết đến đau khổ của những lời đó: con muốn người phụ nữ bao giờ rời bỏ con mà lời giải thích.

      phần gương mặt mẹ ông thấp thoáng nụ cười tinh quái; phần lại nhìn ông đầy nghi hoặc. “Chỉ người đàn ông mạnh mẽ mới phát ngôn như vậy.” Bà với niềm hãnh diện nhất định. “Nhưng lòng mẹ với con điều này, Jamila là người phụ nữ mạnh mẽ nhất mà mẹ biết.”

      Sau khi suy nghĩ, ông phải thừa nhận rằng bà đúng. Jamila là người mạnh mẽ, nhưng chỉ là bề ngoài.

      Lúc đó ông bật dậy khỏi ghế sô-pha và ào vào phòng khách hét ầm lên. “Con lần cuối và sau chót, con lấy Jamila al- Brehm. điên khùng!” Ông sục chân vào đôi xăng-đan rồi ra khỏi nhà, đóng sập cửa sau lưng mình.

      Hai tháng sau, họ làm đám cưới.

      Vấn đề thực nằm ở chỗ họ được hứa gả cho nhau từ khi sinh ra. Hai bà mẹ là bạn thân. Có hơi lạ thường chút khi lời giao ước như vậy lại là giữa những người bạn chứ phải giữa các gia đình, nhưng hai bà mẹ có mối giao kết gắn bó. Trong suốt mười tám năm, họ luôn giữ lời hứa. Cuộc hôn nhân giữa hai đứa trẻ giúp hợp pháp hóa mối quan hệ giữa hai gia đình của hai người phụ nữ, như thể cái mối giao kết phóng đại của họ cần phải được gắn chặt thêm vậy.

      Và, giống như Zaki, ông mất ba tháng để nhận ra mình phạm sai lầm kinh khủng. Nhưng khi đó, Jamila có thai Aqmar, và chẳng thể làm được gì nữa.

      Ông đặt chiếc ống điếu xuống. Làn khói đơn khiến ông cảm thấy đau khổ. Ông mong ở nhà mình khiến ông day dứt về Sabria, nhưng ông chỉ chìm sâu hơn vào những kỷ niệm xưa cũ. Tất cả đưa đến ý nghĩ, hẳn là đặc biệt, rằng Sabria chính là người phụ nữ tuyệt vời nhất ông từng biết. phải Jamila, phải Maidan. là người đàn bà ông lựa chọn, và chỉ đơn thuần là biến mất.

      Ông đổ hết phần nước chè còn lại vào chỗ than và rời khỏi nhà.

      Chương 23

      Mẹ Katya dạy về những giấc mơ: Nafsani, là những giấc mơ bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và niềm khao khát. Rahmani, những giấc mơ được Chúa trời gửi đến và thường cho ta biết những mộng cảnh về tương lai. Còn shaytani, đó là những giấc mơ xuất phát từ điều xấu xa.

      Khi còn thường hỏi mẹ liệu mơ thấy những lời tiên đoán có phải là điều báng bổ thánh thần hay , và mẹ trả lời rằng giải nghĩa giấc mơ giống như lời tiên đoán. Điều đó chống lại Hồi giáo. Chẳng phải Joseph, con trai của Jacob thành công khi giải nghĩa những giấc mơ của vị vua vô danh đó sao? Vậy giấc mơ của Katya, bà hỏi, giấc mơ đó là gì mà khiến buồn rầu đến vậy?

      Katya Thánh lý dạy rằng điều quan trọng là ra những giấc mơ xấu của mình, nếu chúng xuất phát từ những điều xấu. Nhưng mẹ đáp lại bằng Thánh lý rằng người ta chỉ nên với người, đó là người thân thiết nhất và là người họ tin tưởng nhất. Katya nghĩ Thánh lý của mẹ nghe có vẻ hợp lý hơn của mình.

      Do vậy họ ngồi xuống và thống nhất là giấc mơ bị mất chiếc răng của Katya thực ra là điểm gở. Những chiếc răng được quan niệm là gia đình, “tất cả những chiếc răng được xếp gọn ghẽ trong khoang miệng,” mẹ vậy, “và khi chiếc rơi ra, điều đó có nghĩa là người nào đấy bỏ , hoặc chết.”

      “Giấc mơ đó có đáng sợ con?” Mẹ hỏi.

      ạ, con thấy sợ. Chỉ thấy kinh tởm thôi.”

      “Thế nó là chiếc răng nào vậy con?”

      “Là răng hàm ạ.”

      Y như rằng, tuần sau đấy, ông cậu Ramzi của Katya chết ở Li-băng, và những giấc mơ kia cũng chấm dứt.

      nhiều năm rồi Katya còn nhớ chuyện đó nữa. Nó khác biệt hoàn toàn với những giấc mơ của giống như tiên đoán chính xác. Hoặc có lẽ là khi mẹ mất, biết làm thế nào để giải nghĩa những giấc mơ nữa.

      ở nhà, ngồi bên chiếc bàn bếp có mặt bằng formica bốn chân kim loại, bâng quơ với những kỷ niệm thời thơ ấu. Ti-vi vẫn mở, nhưng để lặng tiếng, chiếc giá trước mặt . Hôm đó là thứ Bảy, và Abu đến lễ cầu nguyện tối với bạn của ông. Khi ông vừa đóng cửa ra ngoài, lôi từ trong ba-lô ra tập tài liệu và gạt ra những tấm ảnh.

      Ngay trước khi rời khỏi phòng làm việc, thu hết can đảm để lẻn vào phòng thí nghiệm của Majdi và sao lại những bức ảnh khu mộ chôn. Chúng được photo, nhưng cũng đủ . cũng chụp lại bản đồ những vị trí tìm được của từng thi thể ở khu mộ đó. Giờ dọn sạch bàn bếp và đặt những bức ảnh lên như thể chúng ra dưới con mắt con chim nhìn xuống sa mạc.

      Chiếc bàn đủ rộng. cần diện tích rộng gấp năm lần thế. Tốt hơn hết, nên treo chúng lên bờ tường. Hẳn làm thế trong phòng thí nghiệm, nhưng ở đó cũng có đủ gian như ở nhà - có quá nhiều giá và lỗ thông khí của điều hòa nhiệt độ. Phòng ngủ của cũng vậy thôi. Có bức tường rất lớn trong phòng khách, nhưng muốn chưng những hình ảnh về xác chết ở đó khi rất có thể bố đưa bạn từ nhà thờ về nhà. Họ chưa bao giờ có phòng khách cho nữ cả, đó chính là nhà bếp, mà bếp lại quá và bề bộn.

      Điểu gì là khác biệt giữa mộng tưởng và giấc mơ? Charlie về mộng tưởng của tên sát nhân, như những giấc mơ - tất nhiên là loại shaytani rồi. Chính Katya cũng có rất nhiều giấc mơ như thế. Nhưng Charlie mô tả nó như thứ lớn hơn thế, kiểu hùng ca tái diễn lại những shaytani có tồn tại trong đời sống thực nữa, chỉ có khác biệt là nó nặng về mưu cầu cá nhân. Hãy tìm những quy luật, Charlie với trong bữa ăn trưa như vậy. Với tên giết người có tổ chức như tên này, hẳn có quy luật.

      Katya tiếp tục đặt ảnh lên bàn. biết phải bắt đầu tìm kiếm quy luật bằng cách nào nhưng chỉ đoán rằng bước đầu tiên là phải hiểu suy nghĩ của tên sát nhân đó, và vì vậy, cần tấm bản đồ.

      Ayman bước vào bếp với vẻ buồn ngủ. Cậu nhấc ấm trà từ trong bồn lên và đổ nước vào.

      “Em tưởng chị định mua sắm cơ mà.” Cậu .

      Katya bật dậy khỏi ghế. “Allah, chị quên mất!” gạt những bức ảnh vào tập tài liệu và nhìn đồng hồ đeo tay. Đáng lẽ phải gặp Nayir từ nửa giờ trước rồi. “Ôi trời ơi, chị muộn quá rồi!”

      “Chị cần chở ?”

      “Có!”

      Ayman đặt trà xuống và ra cửa.

      Đoạn tin tức quả kinh hoàng. Mọi người đều xem nó với cảm giác hoài nghi ớn lạnh. phải vì họ chưa từng thấy những cảnh bạo lực, hay chưa thấy phụ nữ với khuôn mặt bị rách nát, bị bỏng và bị đánh như vậy. Tất nhiên chuyện đó tác động đến tất cả mọi người, nhưng điều thực khiến họ khó chịu là cuộc phỏng vấn gọn ghẽ với người bị cho là có liên quan đến vụ án. Bà ta ngồi im lặng trong căn phòng ngập tràn ánh nắng cùng hai đứa con trai ở hai bên, với dáng vẻ của bà nội trợ Ả Rập Xê-Út hoàn hảo, tấm khăn che mặt trang nhã buông phủ trước mặt, đôi mắt đen u sầu trước dò xét của máy quay phim. Bằng giọng dịu dàng bà ta giải trình rằng mình bao giờ làm hại giúp việc. Bà ta coi đó như chị em của mình. Chính giúp việc đó - người bị đánh đập và khuôn mặt bỏng nát bao giờ trông giống con người được nữa - ta tự mình gây ra những điều ấy.

      Katya đứng trong phòng thay đồ của hiệu áo cưới trong bộ váy sáng màu ngà voi. Hai phụ nữ Philippines phía sau nhặng xị cả lên, và người chủ hiệu váy tên là Jo đỡ phần đuôi váy.

      “Con điếm khôn nạn.” Jo lẩm bẩm trước TV. Những phụ nữ này tin Katya, nhưng liếc nhìn , lo là có thể khó chịu trước những từ ngữ đó.

      “Đính nó lại.” Jo đẩy phần đuôi váy sang cho rồi bò ra khỏi phòng.

      khí có phần thoải mái hơn, và đôi tay các đều bận bịu. mấy hôm rồi Katya xem tin tức. Hết vụ điều tra về Sabria rồi đến vụ Thiên sứ, công việc chiếm lĩnh mọi suy nghĩ của , có thể là vì lảng tránh việc nghĩ ngợi về đám cưới. Ngay cả khi và Nayir ngồi trong chiếc Rover ra ngoài sa mạc, câu chuyện lúc nào cũng là về công việc của .

      nghĩ, nếu là đám cưới Ả Rập thực , điều trước tiên họ cần làm là tìm hội trường cưới. hội trường cho nam giới, và hội trường lớn hơn cho nữ giới. Hội trường cưới của phải thoáng rộng: có sân khâu, có lối , bàn ăn cho nghìn người. Thảm trải màu hồng, chúc đài bằng vàng, hoa trắng tràn ngập khắp mọi nơi. biết hội trường của nam giới trông thế nào - thực tế là chưa từng vào hội trường nam giới nào cả - nhưng chắc nó cũng giống với hội trường của nữ thôi. gặp vị hôn phu của mình lần đầu ở đám cưới. Othman kể với về những chiến binh Bedouin nhảy múa với thanh kiếm trong tay, và chú rể ngồi ngai vàng, hơi cổ lỗ xỉ, rồi nhận lời chúc từ tất cả mọi người: “ làm nhiều tiền, ấy sinh nhiều con.”

      Bên nữ ít nghi thức hơn. Mọi người chúc mừng dâu, nhưng các bà mẹ và những phụ nữ lớn tuổi khắp hội trường để điều tra kỹ các độc thân. Con trai họ được phép gặp gỡ những này trước khi kết hôn, nhưng các bà mẹ được phép, và họ điều tra kỹ càng và mong tìm được những đối tượng phù hợp với con trai mình - hay, đúng ra, là những đối tượng phù hợp với chính họ. Nếu gia đình bị phân tán, những phụ nữ đó dành thời gian với nhau nhiều hơn là với chồng mình. Katya chưa bao giờ qua được những cuộc kiểm tra như vậy. quá trầm tính và giản dị. chẳng bao giờ hứng thú với những chiếc váy lộng lẫy, và có thời gian mà cũng muốn dành cả ngày trời chỉ để chải chuốt. cũng có đủ đồ trang điểm nữa kia.

      và Nayir thống nhất đám cưới gọn và giản dị. Hơn nữa, người có họ hàng đông đến mức cần có hội trường cưới. Với lại Nayir muốn được lo tìm địa điểm. Việc chủ yếu của Katya chỉ là chọn váy cưới.

      Nếu đây là đám cưới Ả Rập thực , nghĩ, gia đình mình ở đây lúc này. Mẹ, các chị em và chị em họ. Mọi người giúp mình chọn trang phục cho ngày trọng đại nhất của cuộc đời mình.

      Năm phút sau, Jo trở lại phòng. ta với Katya: “Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi chịu được cảnh đó.” ta ra hiệu về phía ti-vi. “Chuyện đó chẳng bao giờ chấm dứt cả.”

      “Nó kinh khủng.” Katya muốn với ta rằng có những thứ còn tồi tệ hơn đánh đập rất nhiều. Rằng theo hồ sơ của cảnh sát, gần 60 phần trăm những nạn nhân bị giết hại nhận dạng được là những phụ nữ giúp việc. Và mới vừa rồi họ tìm được mười chín người như thế.

      “Màu này rất hợp với .” Jo . “ thử nhìn xem.”

      Katya xoay người ngắm mình trong gương. “Tôi thích màu này.” . “Nhưng phần ngực rườm rà quá.”

      Jo gật đầu và trở vào phòng thay đồ dự phòng, nơi treo hàng tá váy khác.

      Giữa chừng thử chiếc váy thứ tư và thứ năm, Katya lén đến bên cửa sổ trước nhìn ra phố, được che bởi tấm rèm đen nặng trĩu. kéo rèm và ngó ra ngoài.

      Trời tối và khu vực mua sắm bên ngoài sáng trưng với hàng trăm ngọn đèn dây màu vàng và chiếc đèn lồng hình ngôi sao khổng lồ. Đứng ngay dưới chiếc đèn lồng đó, Nayir và Ayman uống nước quả ép và trò chuyện. Ayman điều gì đó khiến cho Nayir ngả đầu về phía sau cười ngặt nghẽo. Quả là trời định. Ayman là người em họ tốt nhất mà có thể ước mình có được.

      Hạ tấm rèm và bước trở vào, Katya cảm thấy nhói lên... đố kỵ? Hay buồn nhỉ? chưa bao giờ có thể làm Nayir cười được như thế. Với , lúc nào cũng tế nhị và chở che.

      giờ đồng hổ, hết thay ra rồi lại thử vào những chiếc váy khác nhau. Katya đáng ra thích thú với việc đó, nhưng giận dữ của Jo khiến kiềm chế cảm xúc. Mấy giờ im lặng. Katya gạt bỏ tâm trạng và lắng nghe khi Jo bắt đầu tâm những suy nghĩ giày vò của mình. Chuyện xảy ra hồi đầu năm, có vẻ là vụ tự tử. giúp việc định treo cổ, người khác uống thuốc tẩy, người thứ ba nhảy từ nóc tòa nhà xuống. kinh khủng như vụ người phụ nữ bị chủ đóng hai mươi tư chiếc đinh nóng vào mặt, vào hai bàn tay và hai cánh tay (chuyện đó xảy ra vào tháng Tám từ năm trước). Hay vụ ở Abha bị chủ nhà đánh đập, gây bỏng, rồi nhốt lại và cắt đứt hai môi (vào tháng Mười .) Đó là chưa kể đến vụ hai xác chết nhận diện được được tìm thấy vào tháng sau đó (có được đưa bản tin).

      Vào tháng , câu chuyện có phần khác - và nó tạo cho Jo ít nhiều hy vọng, tuy muộn nhưng là có hy vọng. phụ nữ Ả Rập bị kết án ba năm tù vì hành vi bạo lực đối với trong vụ xảy ra vào tháng Mười . Nhờ có bộ luật mới được thông qua, việc bỏ tù người phụ nữ đó cuối cùng được thi hành.

      Nhưng chỉ vài tuần sau, người giúp việc khác bị bắt vì sử dụng “tà phép” đối với chủ nhà và gia đình ông ta - hay ít nhất là do người chủ khai báo như vậy (xảy ra vào tháng Hai). Rồi nhảy từ ban-công tầng ba để chạy trốn gia đình đó được tìm thấy trong tình trạng bị đánh đập dã man và bị gây bỏng (vụ tháng Ba). Jo đánh dấu các tháng còn lại, cho đến việc đột ngột trong tin tức của tối hôm nay: vụ tháng Mười.

      Katya chưa từng biết người giúp việc bất hạnh nào. Làm việc quá tải và kiệt sức, tất nhiên, bị phiền nhiễu bởi lũ trẻ ồn ào, hẳn rổi. Nhưng bị ngược đãi? hề. Và cho đến hôm nay, mỗi người giúp việc biết đều chết hay bị tổn hại sâu sắc hoặc cả hai. tự nhủ rằng có thể do làm việc trong ngành cảnh sát.

      Dần dần, những lời đả kích của Jo mở rộng phạm vi; chỉ còn bó gọn trong những vụ án ở , ta bắt đầu đổ tội cho cả đất nước.

      “Người ta để đám đàn ông chỉ bảo những người phụ nữ của họ từng việc được và được phép làm. Đám ông chủ cũng giống vậy. Họ được phép với người giúp việc bất cứ điều gì, và ta phải thực điều đó!”

      Katya nhận ra im lặng của bị hiểu lầm là đồng tình. muốn rời khỏi đây. còn muốn mua váy nữa - đằng nào cũng tìm được chiếc nào ưng ý ở đây cả.

      nhìn đồng hồ đeo tay. “Ôi , tôi phải rồi! Em họ tôi nổi cáu mất.”

      Cả ba người phụ nữ nhìn thất vọng. Có phải ta cũng chỉ đơn giản là phụ nữ bị kiểm soát chăng?

      Katya thay đồ rồi trùm áo lên. “Cảm ơn rất nhiều vì dành thời gian cho tôi.” rồi hối hả chạy ào ra cửa.

      Nayir bước chậm rãi hết mức để hưởng thụ từng phút giây ở bên . Ayman đâu đó chuyện điện thoại, và giờ chỉ có Nayir ở bên . Những khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong mối quan hệ của họ cho tới giờ đều diễn ra trong những lần dạo như thế này đường Comiche. Thậm chí cầu hôn tại nhà hàng cách đây xa.

      Trời tối, nhưng đối với người Jeddah thực ra là ngày mới bắt đầu. Trời rốt cuộc cũng mát mẻ để có thể ra ngoài. Đối với Nayir, màn đêm phủ thêm tấm màn riêng tư. có ánh mặt trời rọi qua tấm áo choàng của người con và vẽ nên hình dáng. còn ánh sáng soi những gương mặt để lộ mà phụ nữ dường như ngày càng thích thú hơn. Và phụ nữ hoàn toàn bỏ khăn trùm đầu - từ xa trông như thể mái tóc của họ chính là mạng che mặt. Ngày nay việc các gia đình cắm trại ở hai bên đường cùng với những con ở tuổi thành niên, thoải mái nô đùa trong quần jeans áo phông, tác phong mang vẻ nam tính như em trai của họ - thậm chí còn để tóc ngắn, phổ biến hơn nhiều. Cảm giác xâm lấn trước tất cả những điều đó là mất mát và nỗi buồn thể diễn đạt được.

      để mặc cảm giác đó trôi qua trong tiếng thở dài, và nó cuốn như đám mây mỏng manh nền trời thăm thẳm. sắp làm đám cưới với người phụ nữ xinh đẹp này, người sánh bước cạnh . sớm được thực điều mà cơ thể hằng mong ước được làm từ lần đầu tiên gặp : bế bổng lên như thứ bé và hôn khuôn mặt hàng trăm lần, cuộn mình quanh thân thể , trần truồng và ngập tràn hạnh phúc. cảm nhận được hơi ấm từ mái tóc và cổ của khi dạo bước bên , mỗi mảnh vụn li ti trong con người đều cảm thấy được thắp sáng như vì sao.

      phần quá lớn của cuộc đời lúc này với dường như xa lạ. Sau khi nhận lời cầu hôn của , chiếc thuyền vào ngày hôm đó, xuống dưới khoang và tất cả mọi thứ trong con thuyền gắn bó với cuộc sống của trong bao nhiêu năm qua dường như khác biệt - bé và ẩm ướt, ngập đầy những đồ tạo tác từ những giấc mơ chết từ lâu. Những bản đồ và bản hướng dẫn hàng hải còn sót lại từ giấc mộng mình du thuyền vòng quanh thế giới của . Những tấm danh thiếp của những người đàn ông ở chợ lạc đà - lời nhắc nhở rằng từng muốn mua lạc đà và dành hàng tháng trời rong ruổi sa mạc với những người Bedouin. bất ngờ khi dễ dàng chấp nhận ra của những giấc mơ đó đến mức nào. Và tại háo hức được đón chào điều mới mẻ. Được ký giấy đăng ký kết hôn. Được biến nó trở thành . cấp bách này cũng bị thúc giục bởi những kỷ niệm về Fatimah, người khiến tan nát đến tận con tim và gạt sang bên. kinh hãi khi nghĩ đên lần đính hôn này liệu có kết thúc tương tự vậy chăng: đột ngột và điên cuồng đên bất lực. Duy chỉ có điều này là đau đớn hơn. tận tâm tận sức hơn rất nhiều. Nỗi sợ hãi đều đều gõ tiếng từ sâu thẳm cõi lòng , đôi lúc lại đập liên hồi như đôi cánh của loài chim ruồi, và nuốt nó vào sâu, nén giữ nó lại. Hãy tránh xa niềm hạnh phúc bừng nở trong trái tim ta.

      Vấn đề là, khi tất cả đều tốt đẹp chúng lấp lánh sáng hơn bao giờ hết, nhưng khi tất cả những điều tồi tệ ập đến mang theo choáng váng kinh hoàng. hề biêt ghen tuông phải trả giá đến vậy. Nó có thể khiến trái tim ngừng đập. Khi Katya về công việc, cố an ủi chính mình với mục đích tốt đẹp của công việc làm cho xã hội, nhưng cùng lúc ấy gần như chết điếng bởi ý nghĩ về những người đàn ông mà tiếp xúc, những người thấy được khuôn mặt , có được toàn bộ thời gian ở bên trong khi thể. Quỳ gối trong thánh điện, quên mất hoàn toàn những lời cầu nguyện khi bị phân tâm bởi căm ghét đối với những gã đàn ông đó. nghĩ về tất cả những kẻ đó: những gã chồm ra khỏi ô-tô của chúng để tấn công phụ nữ phố. Những gã lẻn vào các khu mua sắm dành cho phụ nữ với trang phục giả nữ để có thể làm hại những . Những kẻ gửi hình ảnh trần truồng của mình bằng điện thoại di động qua Bluetooth trong bán kính hai mươi mét; khoe khoang những tấm ngực trần, như thể đám lông vũ phô trương của con công đực. cố kiềm chế giận dữ. Khi bình tâm trở lại, khẩn cầu cho lòng vị tha, cầu nguyện rằng dù những cám dỗ tầm thường đó có đến trước mặt , Katya vẫn với trọn vẹn đam mê trong tâm tưởng.

      “Em cần bức tường.” .

      “Em sao?”

      bức tường lớn và trống.” thở hắt ra, còn trộm nhìn gương mặt . Nó có vẻ ưu tư và ương bướng. “Em phải cố mới lấy được những bản chụp lại của tất cả những bức ảnh xác chết. Có mười chín thi thể tất cả, còn nhớ chứ? Em cần chỗ để treo chúng lên theo những vị trí mà chúng được tìm thấy.”

      muốn hỏi tại sao các điều tra viên vẫn chưa làm việc đó. Nhưng hiển nhiên họ muốn những bức ảnh chụp thân thể trần truồng của những phụ nữ đó bị trưng lên tường của họ nếu việc đó thực là cần thiết. Và có lẽ nó chẳng cần thiết.

      “Majdi - có nhớ ta ? Đó là đội trưởng đội pháp y. gặp ta lần rồi đấy. ta lập được mô hình về trường theo đúng những đặc điểm về địa lý.” . “Nhưng nó có vẻ đơn giản và vô nghĩa. Em nghĩ tốt nhất là nên làm việc này theo phương pháp cũ.”

      cố bắt nhịp câu chuyện. Còn ai lý tưởng hơn trong việc xem xét ảnh về cơ thể phụ nữ như phụ nữ chứ? “ bức tường cho em đây.” .

      lập tức lắc đầu. “Con thuyền của quá.”

      nghĩ đến nhà chú cơ.”

      “Ổ. Ý tưởng tuyệt, nhưng chúng ta thể làm vậy. Đó là những bức đồ họa về xác chết của phụ nữ. Có khi chính cũng muốn nhìn chúng ấy chứ.”

      “Đó phải là vấn đề với hay chú của .” . “Bọn xem ảnh nếu đó là điều em muốn.”

      , , phải vậy.,,”

      “Vậy là chúng ta có bức tường rồi nhé.”

      giờ sau, họ đứng trong tầng hầm nhà Samir.

      Katya chưa gặp Samir bao giờ. Mặc dù ông là người thân duy nhất của Nayir, nhưng được nghe nhiều về ông ngoại trừ việc ông tự mình nuôi nấng Nayir, mà giúp đỡ của phụ nữ nào. Có lẽ đó là lý do khiến ông có vẻ bí . Ông nấu ăn sao? Rồi thay tã nữa? Hát ru và đọc truyện rồi bế ẵm Nayir khi khóc? hình dung đến người đàn ông mũm mĩm và nữ tính, ngày nào cũng ngồi chiếc ghế sô-pha tồi tàn xem truyền hình, mặc áo choàng ở nhà mặc suốt ba mươi năm qua.

      Samir thực ra lại là người chắc khỏe nhưng duyên dáng. Ông giày lười bằng da màu sáng, mặc vét, đeo cà-vát lớn màu xanh lá cây thẫm ngay dưới cổ áo. Khi họ đến nhà ông gần chín giờ, và ông mở cửa với vẻ giống người quản gia, mái tóc hoa râm của ông ánh lên dưới ngọn đèn vàng của khách sảnh.

      Ông mỉm cười với Katya cách chừng mực nhưng có phần rạng rỡ với hào hứng sâu kín. Ông chào đón cả ba người rồi bảo Nayir pha trà và lấy quả chà là trong khi ông dẫn khách đến chỗ bức tường trống.

      Samir cũng là nhà hóa học giông bố của , nhưng bố dành cả đời làm việc trong các nhà máy và trường đại học, còn Samir làm việc độc lập. Ông làm việc ở tầng hầm, tham gia vào các dự án tự do của các nhà khảo cổ và đôi khi là các nhà sử học, tự thực nghiên cứu về những lĩnh vực ông thích, còn chi tiết công việc ông đảm bảo với Katya là rất tẻ nhạt. Ông đặt các trang thiết bị của mình trong phòng thí nghiệm dưới tầng hầm. Katya và Ayman đứng ở đó.

      Căn phòng sáng sủa và rộng rãi, khí thoáng mát dễ chịu. Ayman cười tươi.

      “Liệu thế này đủ rộng cho những bức ảnh của cháu chưa?” Samir ra hiệu về phía bức tường cuối nhà.

      “Quá đủ ấy chứ ạ.” . “Tuy vậy, có lẽ cháu nên tự mình làm việc này. Những hình ảnh này là đồ họa.”

      “Được, được, tôi cũng từng xem các bức ảnh trường rổi. Tôi thậm chí còn tự khai quật tử thi rồi, tại các khu khai quật khảo cổ học. Tôi hiểu thấy những gì mà. Trừ phi cháu muốn chúng tôi rời ?”

      ạ, mọi người có thể ở lại. Cháu chỉ muốn cảnh báo trước thôi ạ.”

      sao, cháu đừng lo. Tôi làm phiền đâu, và tôi rất hân hạnh được trợ giúp cháu. Càng thêm mắt nhìn càng sáng mà.” Samir liếc nhìn Ayman lúc này nhún vai cách niềm nở, cố tỏ vẻ là người lớn. Cậu mong đợi Katya buộc cậu phải rời khỏi đây. Cậu mới mười chín tuổi và phải chịu trách nhiệm trước bố của Katya về những nơi mà đến.

      Katya lấy ảnh trong túi xách và bắt đầu treo chúng lên. Samir quan sát mọi việc và hướng dẫn bằng tâm bản đồ. Khi Nayir bước vào với khay trà tay cũng là lúc họ hoàn thành bức ảnh cuối cùng. Vẻ thất thần tả nổi gương mặt khiến Katya thấy xấu hổ.

      “Em xin lỗi.” . “Có lẽ em nên báo trước với là mọi người treo ảnh lên.”

      sao đâu.” đáp và đặt khay trà lên chiếc ghếbăng. ít ra giữ ánh nhìn của mình trong sáng. bao nhiêu lần nghe cái câu nực cười đó rồi nhỉ? Nó có nghĩa là người đàn ông có thể nhìn thấy thứ khiêm nhã - canh tay trần của phụ nữ, mái tóc, chiếc cổ của ta - và lựa chọn nhìn bởi tâm trí ta trong sáng.

      Khi ảnh được treo lên, Katya cảm thấy lố bịch. Giờ sao đây?

      nhận ra qua tấm bản đồ rằng các thi thể được chôn theo vòng tròn, mười hai cái xác ở vòng ngoài và bảy cái ở vòng trong.

      “Vậy là nó theo hình vòng tròn.” Ayman .

      “Theo đúng thuật ngữ đó là hình lục giác.” Samir đáp lời “Thực ra là, hình lục giác được cấu tạo rất chuẩn mực.”

      “Điều đó có nghĩa gì ạ?” Ayman hỏi.

      “Tôi nữa.” Saymir . “ nghĩ sao?”

      Katya liếc nhìn Nayir. chăm chú nhìn các bức ảnh vói vẻ kinh hãi lặng lẽ.

      “Nó theo hình tổ ong phải ạ?” Ayman hỏi.

      “Hmm, đúng vậy.”

      Bọn họ đều im lặng. Katya nhận ra là mình thực quá cần bức tường nhiều như là cần đội điều tra trường quen thuộc với vụ án này.

      “Những dấu gạch chéo này bản đồ có nghĩa gì vậy?” Samir hỏi.

      “Những chỗ đó là địa điểm họ tìm được các bàn tay.” Katya . “Các bàn tay của nạn nhân bị chặt rời.”

      “Chỉ có ba thôi sao?” Samir hỏi.

      , các nạn nhân đều bị chặt tay, nhưng chỉ có ba bàn tay được tìm thấy ở trường.”

      “Thế còn các bàn tay khác sao, chúng ở đâu vậy?”

      “Chúng cháu biết.”

      Samir lấy chiếc bút màu từ cái lọ đặt bàn và đánh dấu gạch chéo vào mỗi bức ảnh chụp nơi họ tìm thấy những bàn tay đó.

      “Nhưng việc chỉ chôn có ba bàn tay mới kỳ quái làm sao!” Samir vừa vừa nhìn bản đồ.

      im lặng thậm chí còn nặng nề hơn. Nayir rót trà cho mọi người và là người duy nhất nâng tách trà lên. tựa vào bàn và nhấp ngụm trà.

      “Những cái xác đó.” . Mọi người đều quay sang nhìn. bất ngờ khi lên tiếng. “Chúng có tư thế kỳ quái.”

      “Như thể tên giết người ném họ vào đó vậy.” Katya .

      “Như vậy là tên giết người phải mất rất nhiều thời gian để vẽ ra mô hình chôn xác lục giác đó, và rồi chỉ ném xác vào huyệt hay sao?” Nayir hỏi. “Chúng đều được chôn ở những tư thế rất lung tung.”

      “Cháu đúng.” Samir . “Điều này kỳ quặc” Ông quay sang phía bức tường và Nayir đứng lên, cả hai có vẻ có kết luận cùng lúc. “Có thể nào lại như vậy chăng?” Samir .

      Nayir đặt tách trà lên bàn, nhận chiếc bút từ Samir và bước đến chỗ bức tường. “Có quy luật. Em có thấy nó ?”

      Katya chăm chú nhìn những bức ảnh. “. Là gì vậy ạ?”

      bắt đầu từ góc bên tay phải. Phía dưới cái xác vẽ hình đơn giản.

      ب

      Đó là chữ B. Nó cũng chính là tư thế mà cái xác được chôn, với đầu và hai chân hơi đưa về phía trước. Cái chấm phía dưới chính là nơi tìm được bàn tay.

      “Ôi trời ơi.” Katya khẽ thốt lên. “ thể nào.”

      Nayir lại tiếp tục vẽ. Ở bức ảnh tiếp theo phía bên trái, viết chữ S.

      س

      viết nó mà có nét móc bên trái vì nó tiếp nối với chữ cái tiếp theo, M.

      م

      Nhìn từ cao xuống, cái xác này được chôn với phần thân người cong sang phải, hai cánh tay cuộn trước ngực để biểu đạt chữ M.

      viết tiếp các chữ cái cho toàn bộ các bức ảnh, nhưng họ nhận ra câu đó là gì. Nó thân thuộc với họ như chính hơi thở vậy.

      Bism'allah, ar-rahman, ar-rahim.

      “Nhân danh đức Allah nhân từ và độ lượng.” Đó là câu mở đầu tất cả những bài cầu nguyện.

      Katya phải ngồi ngay xuống. Samir, chính ông trông cũng nhợt nhạt, đưa cho tách trà và ngồi xuống bên cạnh . có chút hối hận thoáng qua vì đây là buổi gặp mặt đầu tiên của họ. run rẩy nhấp ngụm trà.

      quái đản.” Samir lẩm bẩm.

      Nayir đặt bút xuống và đến bên cạnh chú mình. Ayman bất động, ánh mặt cậu còn gắn chặt lên bức tường với vẻ sửng sốt.

      “Em nghĩ đây lại là công việc ở cơ quan của chị.” Cậu .

      “Uống trà , chàng trai trẻ.” Samir . “Thứ này chẳng phải điều kỳ diệu gì cả. Đó là tội ác, và khi nhìn thấy nó, cậu nên quay mặt mới phải.”

      Bất ngờ thay, Ayman làm theo. Cậu ngồi xuống bên cạnh Katya và uống tách trà của mình. “Nhưng chị vừa tìm ra được kỳ tài điên loạn của , vậy sao chứ?” Ayman . “Nó chẳng có nghĩa lý gì cả. câu mà ngày nào chúng ta chẳng . Ý em là, tốt hơn nếu để lại địa chỉ hay thứ gì đó khác.”

      Chẳng ai cười cả.

      “Cháu xin lỗi về việc này.” Katya lên tiêng. “Đáng lẽ cháu nên mang những bức ảnh này đến đây.”

      có gì phải xin lỗi, cháu à.” Samir đáp lại và vỗ về cánh tay . “Nayir tìm được lời giải giúp cháu rồi. Nó cũng đáng để biết những thách thức cháu phải đối mặt trong công việc chứ. Giờ thậm chí chúng ta còn tôn trọng công việc của cháu nhiều hơn trước. Và ai ở đây” ông nhìn quanh, “là thiếu quan tâm đến chuyện này cả, ít ra là tất cả những gì liên quan đến cháu.”

      khẽ mỉm cười với ông và cố kiềm chế để rằng Ayman đúng: tất cả chẳng có nghĩa gì. Chỉ đơn giản là họ đẩy lùi tảng đá và nhìn xuống cái quần thể côn trùng lúc nhúc được tạo ra bởi cái trí tuệ tâm thần đó.

      đường trở ra xe của Ayman, Nayir . “Khi phải đối mặt với mọi việc, đặc biệt là việc gì thể hiểu được, thấy cách tốt nhất là tìm câu trả lời trong giấc mơ.” chăm chú nhìn , ánh nhìn kỳ lạ hiếm thấy đến mức nó khiên ngượng ngùng. “Istiqara” . “Hãy xin lời giải đáp và Allah giúp.”

      mỉm cười. quên mất rằng có đến bốn loại giấc mơ - istiqara. “Có lẽ em thử.”

      gửi e-mail lời cầu nguyện cho em.”

      cảm ơn và ngồi vào xe cạnh Ayman.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 24

      Ôi Allah! Con xin khai sáng từ tri thức của Người

      Và năng lực từ cội nguồn sức mạnh

      Và con xin Người những điều phúc hạnh.

      Người có quyền năng, khi con bất lực

      Người hiểu biết, còn con bất tri

      Người nhất thế giới vô hình.

      Ôi Allah! Nếu như Người hiểu được

      Rằng điều này là phúc thuận với con

      hãy giúp con dễ dàng đón nhận

      Và xin Người ban phúc lành cho con.

      Nếu Người biết điều này là họa

      Vậy xin hãy giúp con lánh xa

      Và định đoạt những gì tốt đẹp

      Cho con, và thỏa nguyện với con.

      Đó là những lòi nguyện cầu tha thiết của Katya trước khi ngủ. Nó dẫn chìm vào đêm tối day dứt với cái nóng và mồ hôi, tấm khăn trải giường quấn quanh đôi chân như sợi dây xích. Nó dẫn đến những cái hang tối tăm ở al-Balad, nơi những sinh vật nửa người từ thời kỳ trước khi có loài người được sinh ra bằng máu của những phụ nữ bị sát hại. Chúng xuất , trọn vẹn hình hài, từ lưỡi lửa liếm vào dáng hình còm cõi của của loài efreet, da chúng đen lại, khô cứng, và bong tróc bởi ngọn lửa, đôi mắt chúng vàng rực với ánh nhìn tàn độc và xuyên thấu. Chúng đuổi theo trong những ngõ ngách và đốt cháy quần áo của . Chúng được sinh ra từ máu của phụ nữ và chúng thèm khát . Chúng bao vây trong cái ngõ phố Falasteen nơi tìm thấy bàn tay của Amina, rồi chúng kéo lê gào thét dọc theo hè phố, những thanh gươm của chúng chặt đứt hai bàn chân trước tiên, rồi đến đôi tay, thân xác còn sức tự vệ của bị ném lên những cái xác của biết bao nhiêu phụ nữ khác nữa. Tất cả phụ nữ ở Jeddah đều nằm chết ở đó. Daher cũng ở đó nữa rồi cả Ibrahim. Họ chuyện với nhau. Còn gào thét, nhưng họ nghe thấy .

      Sau đó giấc mơ thay đổi. lạc trong thế giới núi đồi và mưa gió, bầu trời u ám và những cánh đồng xanh mướt. bị kéo lê mặt đất, những bụi cây gai. Rồi con efreet đẩy xuông đất sâu, lạnh lẽo, tối tăm, đất nhung nhúc côn trùng từ cái thuở hình dung xa xưa. Những lục địa còn giao cắt nhau để tạo ra chúng, câu chuyện cổ về đất đen. Chúng xô xuống đó, nhét đầy đất đen vào miệng , cố ấn nắm đất xuống cổ họng , rồi choàng tỉnh hổn hển khiếp sợ và lăn lộn giường mà khóc.

      “Trong câu chuyện người gác cổng và công chúa” Katya , “công chúa giết bọn efreet, phải ạ?”

      “Đúng rồi.” Bố nhìn chăm chăm. “Sao con lại hỏi vậy?”

      “Đêm qua con bọn efreet đẩy con xuống đất sâu. Nó khiến con nghĩ đến câu chuyện đó.”

      “Bố nhớ là chuyện gì xảy ra nữa.” Ông . “Ngoại trừ việc con efreet tấn công nàng công chúa bởi người gác cổng lẻn xuống hang sâu dưới lòng đất để cứu nàng, và đôi tình nhân kết chuyện bằng nụ hôn. Đám efreet là những sinh vật đố kỵ.”

      “Trong câu chuyện, nàng giết chúng.” Katya . “Nàng đốt chúng thành than.”

      Nhưng chi tiết đó cũng giúp thấy khá hơn chút nào về giấc mơ đó.

      “Con ổn chứ?” Bố hỏi. “Trông con rất nhợt nhạt.”

      làm với cảm giác khổ sở, thể rũ bỏ được những tàn dư cuối cùng của đêm hôm trước. khẩn cầu đức Allah, và lũ quỷ lại là kẻ trả lời.

      Những con quỷ dữ đại quá khó để nhận ra. Chúng tự nhận mình mình là những kẻ đạo đức nhất. Chúng sống trong nỗi sợ hãi bị phát ra con người thực của chúng.

      Đó là ý nghĩ hẹp hòi đầu tiên của Katya khi ngang qua Abu-Musa ngoài hành lang đường đến văn phòng của Ibrahim. Ông ta cau có cúi xuống đất khi qua. Có thể là ông ta cau có nhìn vào mặt , nhưng điều đó đứng đắn.

      trong những lý do mà ghét ông ta là bởi ông ta gần giống y chang gã nhân viên bán hàng mà từng cho địa chỉ và số điện thoại để chuyển chiếc bàn làm việc và chiếc giá sách tới nhà. ngày nào cũng gọi cho trong suốt tháng trời, đầu tiên để lại tin nhắn với lời mời lịch thiệp hỏi có muốn gặp rồi cùng ăn tối . Khi nhận ra gọi lại, để lại những tin nhắn đầy căm hận; quy kết con điếm, rằng chỉ có bọn điếm mới cho đàn ông lạ mặt số điện thoại, và khẳng định chỉ xứng được đối xử bằng cuộc làm tình thô bạo mà thôi. phải đổi số điện thoại, và biết bao nhiêu tháng trời sợ phải tự ra hoặc vào căn hộ của mình.

      dừng lại trước cửa văn phòng của Ibrahim. Ông đứng phía sau bàn làm việc, vẻ mặt trầm ngâm khó chịu với chồng giấy tờ chất đống mặt bàn.

      “Vâng, Hijazi.” Ông lên tiếng khi trông thấy .

      bước vào và đặt tập hồ sơ bàn ông. “Tôi xin lỗi khi thêm phần hồ sơ này vào công việc giấy tờ của ông.” . “Nhưng việc này rất quan trọng. Tôi phát ra nó đêm qua.”

      “Chuyện gì vậy?”

      Abu-Musa xuất ngưỡng cửa phía sau . Vẻ mặt ông ta vẫn còn cau có. “Liệu việc có mặt ở đây có đứng đắn hả Hijazi?”

      lấy làm sửng sốt. Trong tất cả những tháng ngày làm việc ở đây, thực tế chưa từng bao giờ bị là xử đúng mực cả. Nó thường được truyền đạt thông qua các cử chỉ hay ánh mắt và lời cảnh báo khẽ khàng từ sếp của , Zainab.

      Hijazi chỉ vừa mang đến hồ sơ vụ án rất quan trọng.” Ibrahim . “Tôi có thể giúp ông được gì chăng?”

      “Về mặt chuyên môn Hijazi thậm chí nên có mặt trong tòa nhà này nữa kia.” Abu-Musa đáp.

      Katya cảm ơn Ibrahim rồi rời khỏi phòng.

      Sáng hôm đó làm việc. ngồi trước máy tính, tay đặt lên con chuột, rồi nhìn chăm chăm vào màn hình. Nếu có ai qua phía sau , nhấn chuột làm ra vẻ mình bận rộn, nhưng tâm trí mới là thứ duy nhất làm việc.

      Mười giờ rời khỏi tòa nhà ăn trưa sớm. mua bữa trưa đóng gói, nhưng vẫn chưa thấy đói; chỉ muốn ra ngoài.

      tránh bờ hồ, sâu vào thành phố và như thể có mục đích, ngay cả khi chỉ để . ngang qua mấy bà mẹ chăm sóc con; mấy thanh niên tựa vào cửa kính ô-tô cười vang, tiếng nhạc của họ như làm rung cả khung sườn của . Mấy ông già đứng trước cửa hiệu của mình hút thuốc và chuyện. Trước quán café, đàn ông ngồi ghế nhựa xem ti-vi được cắm vào chiếc máy phát điện, bóng mát duy nhất của họ chỉ là cái cây bé. Có hai bé ngồi hàng rào gỗ ăn trái cây và cùng nhau thầm vào chiếc điện thoại di động. Khi chàng trai tiến đến chỗ họ, bé ném quả nho về phía ta và huýt gió, và ta quay lại, mặt đỏ bừng.

      Nắng rát bỏng khuôn mặt , hơi nóng bao bọc lấy khi những thanh đường phố và tiêng cười cuối cùng xóa bỏ những mảnh ký ức cuối cùng về giấc mơ trong tâm tưởng . Ở đây có cái chết, có máu đổ và có efreet. Nhưng có điều gì đó vẫn day dứt trong ý thức của . Amina al-Fouad. Cái ngõ ây. Bàn tay bị chặt ấy. Và ràng thấy điều gì đó. Điều gì đó phi lý và phù du. dừng bước, nắm giữ chặt lấy điều ấy, rồi vội vã quay trở lại hướng nhà ga. bắt đầu hối hả. Tất cả trở nên ràng bởi tin Chúa để cho quỷ dữ lên tiếng trả lời trừ phi quỷ dữ muốn điều gì đó.

      trong những lý do Ibrahim rời Đội Điệp vụ là ông ghét làm việc trong phòng ban mà có việc gì được hoàn thành cả. Có cả chuỗi hoạt động, chuẩn bị các điệp viên của mình, rồi điều họ tới thực nhiệm vụ và chờ đợi. Hàng tuần. Hàng tháng. Gạt mọi giấy tờ sang bên và theo dõi tình hình. Nhưng lại chính là gã chăn cừu trong khi lũ cừu của chạy tới nô đùa với sói, rồi hát khúc ballad đơn bên đống lửa trại và tự nhủ mọi việc đều nằm trong tầm kiểm soát. chẳng biết chuyện gì, chẳng thấy chuyện gì, nhưng từng tin tức thỉnh thoảng lại được báo về, và ăn mừng hoặc khóc lóc. Cuối cùng , công việc đó cũng khiến ông chán nản như chuyện gia đình của mình vậy.

      có gã chăn cừu nào ở Đội Trọng án hết, chỉ có những người Bedouin truyền thống tốt bụng tụ họp với nhau, thành lập những liên kết, và thề rằng bảo vệ nhau trước khắc nghiệt khôn tả của thế giới này. Tất nhiên cũng có người kình địch, nhưng cái chết ở đây quá gần, và tất cả những con đường người ta đều phải đề phòng nó. Hãy tự bảo vệ mình. Hãy di chuyển chậm chạp. Hãy theo lối cũ của các bậc cha và những bài học của những người ngã xuống để mà khôn ngoan.

      Chỉ có lúc này ông bắt đầu cảm thấy có điều gì đó khó chịu trong tình thân ấy. Nó khuyến khích thân thiết nhưng chào đón đổi mới. Người thực nhiệm vụ tốt nhất trong vụ án này lại là phụ nữ đứng ngoài vòng lửa trại, nhìn vào với mong mỏi, mà nếu được thỏa mãn, có thể cũng bóp nghẹt cả .

      Đội điều tra quá hăng hái. Ông chỉ cần rằng họ nhóm họp, những lời đồn đại lan ra khắp nơi. bước đột phá trong vụ án này! Họ có thể dừng công việc vất vả này lại và làm việc gì đó quan trọng! Thậm chí ai đó trong số họ có thể bị bắn khi tóm cổ tên giết người! Tiến sĩ Becker vói họ hàng chục lần rằng mất nhiều năm để tóm được tên hung thủ này, nhưng chẳng ai tin .

      lần nữa Mu'tazz lại đứng ở phía cuối căn phòng, khoanh tay lại với vẻ chua chát nét mặt. Ibrahim ghét phải thừa nhận rằng Mu'tazz khiến ông lo lắng. Tuy cảm thấy ông giành thế thượng phong trong buổi họp lần trước, những mỗi cử chỉ phản đối gương mặt người đàn ông đó đều gay gắt với ông như thể ai đó hét lên qua chiếc loa pin.

      Tiến sĩ Becker xuất với chiếc áo choàng đen bên ngoài trang phục nhưng vẫn mang khăn trùm đầu. Bọn họ dần thị uy với . Ibrahim thấy an tâm khi vẫn ở đây, mặc dù trông có vẻ gì là vui vẻ cả.

      Chiếc bảng trắng đủ lớn, nên những bức ảnh của mười chín nạn nhân được treo tường. Majdi treo chúng lên đó, vói hỗ trợ của Katya. đứng ở vị trí mọi khi của mình bên bậu cửa. Chờ đợi để tháo chạy, Ibrahim nghĩ vậy.

      Khi tất cả những tiếng ồn ào lắng xuống, Ibrahim chỉ vào những tấm ảnh và . “Tôi muốn các cho tôi biết các nhìn thấy gì.”

      Mọi người quay sang trái, hoặc nhìn nhau, với vẻ khó hiểu nét mặt.

      “Xin cứ thẳng thẳn, hãy cho tôi biết xem” Ibrahim . “Các nhìn thấy gì?”

      “Các xác chết.”

      “Đúng rồi. Còn gì khác nữa ? Có gì đó giấu sau đó chẳng hạn?”

      Sau hồi lặng im, những người đàn ông bắt đầu dò đoán. quy luật theo vòng tròn à? hình lục phân? hình lục giác?

      “Có quy luật.” Cuối cùng Ibrahim lên tiếng. Ông bước đến bên bức tường và bắt đầu viết các bức ảnh. Trước tiên là chữ B, rồi đến chữ S, rồi M. Ông vừa mới bắt đầu vòng thứ hai những người đàn ông trong phòng nhận ra. Cả phòng nhốn nháo tiếng .

      “Bism'allah, ar-rahman, ar-rahim.” Shaya .

      Cả phòng im phăng phắc. Daher há hốc miệng.

      Hijazi phát ra quy luật này đêm qua.” Ibrahim ra hiệu về phía Katya. vẫn chút bối rối trước ánh nhìn đố kỵ của hai mươi người đàn ông. “Cảm ơn Hijazi.”

      Cả căn phòng lại im lặng, như tiếp nối của cú sốc trước đó. Mu'tazz tỏ vẻ phẫn nộ, nhưng Ibrahim đó là vì thông điệp kia hay vì Hijazi là người phát ra nó.

      “Như vậy, người Hồi giáo.” Ai đó nghiêm giọng .

      “Có thể biết về đạo Hồi.” Daher đáp lại. “Mà phải là người Hồi giáo sao.”

      Ibrahim can thiệp trước khi cuộc tranh cãi trở nên gay gắt. “Tôi chắc các đều băn khoăn điều này giúp gì cho chúng ta.” Ông quay sang Katya. “ Hijazi, sao lên đây và trình bày giả thuyết của mình nhỉ?”

      Katya đứng bên bậu cửa. Mọi người lại quay ra nhìn , ngoại trừ số người trong phòng thể ép mình nhìn được.

      “Tôi nghĩ rất có khả năng lặp lại quy luật này ở đâu đó.” và ra hiệu về phía bức tường. “Chúng tôi ngờ rằng việc bắt Amina al-Fouad, và bàn tay của bà ta được sắp đặt như vậy có lẽ là giai đoạn đánh dấu kết thúc của việc hành hình.”

      Ibrahim ra hiệu về phía chiếc bảng trắng phía sau ông có treo bức ảnh về bàn tay đó. Ông để ý khi mình làm vậy Mu'tazz trừng mắt nhìn Katya.

      “Có thể” Katya tiếp, “bà ta là nạn nhân đầụ tiên trong loạt tấn công mới và tên sát nhân thay đổi quy cách giết người bởi tức giận vì chúng ta tìm ra địa điểm ở sa mạc của . Nhưng tôi cho rằng khả năng đó cũng tương đương với khả năng al-Fouad chính là nạn nhân cuối cùng trong vụ giết người hàng loạt xảy ra mà chúng ta hề biết này. Chúng ta vẫn chưa giải mã hết được.” Có vẻ như nhận ra Mu'tazz nhìn chòng chọc, nét mặt sa sầm lại.

      “Ý là tên giết người chỉ chôn các nạn nhân ở sa mạc, mà còn giết người ở những nơi khác nữa phải ?” Shaya hỏi.

      Ngữ điệu của ta cho thấy mất thể diện và hoài nghi mà cả đội cảm thấy lúc này. Ý là sao khi chúng ta hề biết?

      Tiên sĩ Becker ngước nhìn lên. “Thực ra chuyện đó cũng khá bình thường.” . “Các cơ quan cảnh sát khắp thế giới thường nhận ra có vụ giết người hàng loạt cho đốn khi hung thủ giết vài người rồi. Đó là bởi hầu hết những tên giết người hàng loạt để lại dấu hiệu nào, như chúng ta thường gọi vậy, và chúng thường cố định tại địa điểm nào cả. Jeddah là thành phố lớn vói rất nhiều phân khu khác nhau, nên hoàn toàn có khả năng thực toàn phạm vi Jeddah trong suốt thời gian qua.”

      “Nhưng” Daher lên tiếng, “chúng tôi nhận ra những phụ nữ bị sát hại và bị chặt đứt tay lâu nay rồi, nghĩ vậy sao?”

      “Gã này của các để lại dấu hiệu là chặt tay nạn nhân.” Tiến sĩ Becker bình tĩnh đáp. “Nhưng dấu hiệu cũng là tư thế của những cái xác và việc bắn xuyên qua đầu. Có khả năng giết người trong thành phố và sử dụng bất cứ dấu hiệu nào trong số đó - hoặc . chứng tỏ được rằng có thể giết số lượng lớn nạn nhân. Có khả năng còn nhiều hơn thế. Các dấu hiệu có thể thay đổi theo thời gian. Có thể có những nạn nhân trước đó mà các biết và thể liên hệ tới vụ này chỉ thông qua dấu hiệu.”

      “Có lẽ tốt hơn hết,” tiếp, “nên lật lại những vụ án còn dang dở. có thể chặt tay hoặc bắn nạn nhân. Có thể chỉ sắp đặt tư thê' của cái xác thôi. Có thể chỉ bắn họ. Hãy tìm kiếm bất cứ dấu hiệu tương tự nào.”

      “Việc đó kéo dài đến mãi mãi.” Daher , lúc này có vẻ cáu giận.

      “Thực ra, theo như tôi hiểu,” Tiến sĩ Becker đáp lại mảy may châm biếm, “cảnh sát Jeddah đạt tỷ lệ thành công chín mươi phần trăm trong việc truy bắt tội phạm giết người, nên có lẽ có nhiều hồ sơ để kiểm tra lại đâu.”

      Daher mỉm cười. “Xin lưu tâm cho, thưa Tiến sĩ Becker, biết tiếng Ả Rập đâu. Bất cứ chữ cái nào của chúng tôi cũng giống với hình người. Chúng tôi có thể lật lại hàng trăm vụ giết người trước đây và tìm thấy cả đống tiểu thuyết vỉa hè ấy chứ! Điều đó có nghĩa là có liên hệ với vụ án này.”

      đúng.” Ibrahim . “Đó khối lượng lớn công việc, và số dò đoán dựa kỹ năng được đào tạo, nhưng tôi nghĩ rằng đó là hướng khả thi và tôi giao nhiệm vụ này cho Hijazi.”

      ai phản đối, thậm chí cả Daher. Ibrahim mong là vậy. Khi họ nhận ra công việc tẻ nhạt nhất được giao cho phụ nữ, họ chẳng còn muốn phàn nàn gì nữa.

      “Tôi chuyện vói Chánh Riyah và chúng ta cách ly khu vực cuối phòng này để Hajazi và vài điều tra viên nữ khác có thể có dành chỗ cho những hồ sơ mà họ kiểm tra. Tôi đề nghị tất cả mọi người tôn trọng riêng tư của họ.”

      “Chẳng phải phụ nữ có căn phòng rộng hơn ở tầng rồi hay sao?” Shaya hỏi.

      Ibrahim giải thích rằng Hijazi nhận lời kiểm tra các hồ sơ xử án và hành hình. Các thùng hồ sơ chiếm gian đáng kể trong phòng thí nghiệm của nữ giới. Giờ tới lượt hàng tá, có khi tới hàng trăm, những hồ sơ của các vụ việc chưa được giải quyết cần phải kiểm tra lại, phải đứng trước tình trạng hoàn toàn còn chỗ trống trong phòng làm việc.

      Dường như mọi người đều chấp thuận điều này ngoại trừ Mu'tazz, người ra vẻ lắc đầu quầy quậy rồi hùng hổ bước ra khỏi phòng. chẳng lạ nếu ông ta tiến thẳng về phía văn phòng của Chánh Riyah để kêu ca gì đó.

      Khi những người còn lại giải tán hết, Ibrahim bắt gặp nét mặt của Daher và nhận ra ta tức giận. Thực tế là giận dữ đến mức Ibrahim nghĩ là khôn ngoan nếu để mắt đến ta.

      “Vấn đề là có quá nhiều các vụ án cũ chưa được... giải quyết.” Katya khẽ.

      và Charlie ngồi trong khu vực nữ giới của tiệm Pizza Hut. Khi Charlie nhìn thấy hình logo quen thuộc ở phía ngoài cửa tiệm, cười phá lên, túm lấy cánh tay Katya rồi . “Chúa ơi, biết đường đến trái tim tôi rồi đấy!”

      thế sao?”

      “Lúc này tôi thấy nhớ nhà quá. Tuyệt .”

      Giờ họ ngồi bên chiếc pizza theo quy chuẩn của Hồi giáo có cà chua và pho-mát.

      “Ý là gì, những hồ sơ đó chưa đóng sao?” Charlie hỏi.

      “Cảnh sát cần có lời thú tội của tên sát nhân. có nó, họ thể kết án được.”

      “Vậy những lời thú tội là giả à?”

      Katya thở dài. “Đôi khi thôi, những kẻ bị tình nghi bị ép cung.”

      “Bị tra tấn sao?”

      “Có lẽ vậy. Nó còn tùy.”

      “Vậy đó là lý do tại sao các đạt được tỷ lệ thành công là chín mươi phần trăm phải ?” Charlie hỏi.

      “Có lẽ thế.”

      “Tôi hiểu rồi. Như vậy là phải biết về tất cả các vụ án, chứ chỉ những vụ còn bỏ ngỏ.”

      “Đúng vậy. Nhưng nếu đề nghị các hồ sơ đó có nghĩa là tôi phải rằng cảnh sát hề thực trách nhiệm của mình.”

      Charlie nheo mắt. “Họ giao các hồ sơ cho chưa?”

      “Chưa, chưa đâu. Thanh tra Zahrani cố. Có thể mất thời gian.”

      “Chúa ơi.”

      Họ lặng lẽ ăn lúc. Suy nghĩ của Katya lại trở về tên giết người.

      “Tôi vẫn băn khoăn tại sao tên giết người làm tương tự với Amina như những người khác.” . “Bà ta vẫn còn sống khi chặt bàn tay bà ta.”

      “Đúng đấy.” Charlie . “Và tôi đồng ý với điều : có khả năng đó là cách phản ứng khác của đối với vụ điều tra này. Hơn nữa, Amina giống những nạn nhân kia của . Vậy có khả năng ta cắt tay bà ta để các - phía cảnh sát - hiểu rằng đó chính là . Nhưng mặt khác, cũng có thể các chưa kết nối được hai vụ này.”

      “Nhưng tại sao làm vậy chứ?” Katya lúng túng hỏi. “Chẳng lẽ muốn chúng tôi bắt sao?”

      “Hẳn rồi. Có thể muốn có được thừa nhận cho tội ác của mình. Thậm chí có thể thấy tự hào về những hành vi đó. Cho đến lúc này, có được cách tiếp cận vói phụ nữ và ai đế ý tới việc họ mất tích. Vấn đề là, Amina mất tích gần tuần trước khi tên giết người phát cảnh sát khám phá ra địa điểm chôn cất đó. biết chắc rằng vào thời điểm bắt cóc bà ta có khả năng có người nhận ra việc bà ta mất tích. Bà ta là người Ả Rập Xê-Út, phải người giúp việc.”

      “Có lẽ bà ta đeo khăn che mặt và nhận ra bà ta là người Ả Rập Xê-út chăng?” Katya hỏi lại.

      Charlie lắc đầu. “Theo như những gì chúng ta biết, chưa từng bắt phụ nữ nào phải người gốc Á. Tôi cho rằng biết cách để nhận ra phụ nữ gốc Á trông thế nào. Tôi thực tin là chế nhạo cảnh sát.” Charlie đặt miếng pizza xuống. “Như đây, Amina có thể là nạn nhân đầu tiên hoặc cuối cùng trong loạt giết người. Dù gì nữa, tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng chưa xong việc. Và chúng phải tìm được quy luật đó trước khi ta giết Amina, nếu quả thực bà ta chưa chết.”

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 25

      Còn nhớ tên tội phạm ấu dâm ?” Shaya hỏi. Bọn họ ở phòng làm việc của Ibrahim cùng với trung úy Daher, Abdullatif, và Zunedh. Ibrahim ngồi tại bàn làm việc. Ông gọi họ vào đây; bọn họ tự tràn vào sau cuộc họp và tranh luận.

      “Tên nào?” Daher hỏi với vẻ miệt thị.

      “Cái tên bị chặt đầu ấy. Tôi nghĩ là vụ năm ngoái. Họ bắt được ở Hail.”

      “Rồi, rồi, tôi nhớ rồi.” Daher tựa người vào tường.

      “Thực ra, tôi nghĩ.” Shaya . “ cưỡng hiếp những cậu bé con rồi vứt xác chúng ngoài sa mạc. tên giết ngưòi hàng loạt, cũng giống như gã này. Và là người Ả Rập Xê-Út.”

      ai đáp lời.

      còn trẻ, tên đó ấy.” Shaya tiếp. “Hai mươi hai tuổi, hình như vậy. Và tờ báo nước ngoài mắc chứng rối loạn tâm thần, nhưng dù sao chúng ta cũng xử tử .”

      “Và chúng ta nên làm vậy” Daher . “Mà mắc chứng rối loạn tâm thần sao chứ? giết người. Trẻ em! Hãy nghĩ đến điều đó, bạn ạ.”

      “Nghĩ đến gì cơ?” Abdullatif hỏi. “ tự chủ được hành động của mình. bị điên. Shaya đúng. Họ nên tìm hiểu điểu đó và nên nhân đạo chút”

      “Thế còn những gia đình đó sao?” Daher hỏi lại. “Con cái họ chết”

      “Giết gã điên giúp bọn trẻ sống lại được.” Abdullatif thẳng thừng , chấm dứt cuộc tranh luận. Bọn họ quay sang Ibrahim để xem liệu ông có muốn tham gia ý kiến hay . Ông muốn với họ rằng tất nhiên đất nước này có những tên giết người hàng loạt, rằng những lời than vãn của bọn họ về vấn đề đó chỉ cho thấy rằng họ còn non trẻ và ngây thơ, và rằng chẳng có câu trả lời nào là thỏa đáng đối với vấn đề hình phạt tử hình cả.

      “Vậy lạ tại chúng ta biết tên giết người này thông minh đến mức nào.” Ibrahim . “ tự cho mình là tay thông minh. Viết thông điệp bằng những xác chết.”

      “Và thông điệp mới hay làm sao.” Shaya . “Hoàn toàn bệnh hoạn.”

      “Nhưng ta hẳn là kẻ điên đâu.” Daher . “Nếu điên bị bắt dễ dàng như tên giết người ở Hail kia rồi.”

      “Vụ đó cũng mất đến bốn năm đây.” Ibrahim thêm vào.

      “Tiến sĩ Becker những tên giết người kiểu đó có xu hướng chọn lựa nạn nhân theo nhóm tộc người của riêng .” Daher .

      “Có xu hướng phải là bộ luật đâu.” Ibrahim .

      “Tôi hiểu ạ.” Daher đáp. “Và đó phải là điều mà tôi thất vọng. Shaya đúng. Chúng ta có những tên giết người kiểu đó. Nhưng chúng ta cố gắng lập hồ sơ về , phải ạ? Chúng ta nên tìm hiểu đến từ đâu.”

      “Tất nhiên.” Ibrahim . “Nhưng trong khi còn thiếu các chứng cứ, chúng ta phải có những suy nghĩ cởi mở.”

      “Tôi tự hỏi hiểu họ có mời chuyên gia lập hồ sơ của FBI trong vụ Hail nhỉ?” Zunedh hỏi. ta là người trầm tính nhất trong số các sĩ quan, vô cùng nhút nhát. bất ngờ khi ta lên tiếng. Và ngay lập tức ta đỏ mặt vì xấu hổ.

      “Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao giờ chúng ta lại cần người như vậy nhỉ?”

      “Đúng vậy, ý hay đây.” Daher khen ngợi. “Tại sao giờ chúng ta lại cần người như vậy nhỉ?”

      Ra là thế - nguyên nhân thực chất của ủng hộ đó: tại sao phụ nữ lại có mặt trong vụ án này? Ibrahim nghi ngờ điều này nhưng cũng mong là mình sai.

      “Thôi đừng kêu ca nữa.” Ông . “Chúng ta may mắn có được Tiến sĩ Becker ở đây, và cũng may mắn khi Hijazi tìm được quy luật đó. Tôi mong nhận được tài giỏi đó của tất cả các thành viên trong đội.”

      Daher lại bực tức. Mặt ta tím lại.

      Khi Ibrahim nhìn họ tản thực nhiệm vụ của mình, ông bắt đầu thấy lo lắng. Chỉ là vấn đề thời gian thôi trước khi lòng tự trọng bị tổn thương của Daher đẩy ta vào quỹ đạo của Abu-Musa và Mu'tazz, những người luôn cho rằng phụ nữ nên bị cấm làm việc trong lực lượng cảnh sát ngoại trừ những công việc thực cần đến họ để đảm bảo những chuẩn mực có liên quan đến giới tính: khám nghiệm tử thi nữ, xử lý các mẫu sinh học nữ giới, và đôi khi là việc thẩm vấn các nữ nhân chứng. khi Daher nhập hội đó, những sĩ quan khác cũng làm theo. Đột nhiên Ibrahim nghĩ đến việc Katya đốt đống lửa trại của riêng mình trong phòng họp. Liệu ông có khinh suất khi đề nghị việc đó nhỉ? Tại sao để ấy thực các công việc trong phòng thí nghiệm chứ? Ông nghi ngờ cả chính lòng tự trọng của mình ở nơi làm việc. Ông kéo vào trận chiến.

      Chánh Riyadh ngồi bên bàn làm việc, bên cạnh là chậu cây dương xỉ lớn và hai bức ảnh lồng khung kính, bức là Vua Abdullah, cái còn lại là Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nayef, em trai của nhà vua. khí mát lạnh đến mức nổi da gà, nhưng Riyadh, với tầm vóc vĩ đại của mình, vẫn toát mổ hôi như thường, những đường chảy sẫm màu vẫn loang lổ áo sơ-mi của ông ở phía dưới hai cánh tay áo và những nếp gấp ở bụng.

      Đối diện với ông là hai người đàn ông ngồi hai chiếc ghế gỗ nặng. Chiếc ghế thứ ba là dành cho Ibrahim. sĩ quan mặc quân phục đứng bên cửa. Ngay khi bước vào phòng, Ibrahim nhận ra bọn họ đều đến từ Đội Điệp vụ. Trong giây lát ông nhìn thấy tương lai của mình: xử tù, cảnh cáo, cái chết.

      Nét mặt của Riyadh trông thoải mái; duy chỉ có cái miệng bóng nhẫy và chu ra là có vẻ khó chịu.

      biết Thanh tra Ubaid của Đội Điệp vụ rồi.” Ông . Ibrahim gật đầu và bắt tay Ubaid.

      “Họ ở đây vì vụ nạn nhân mất tích là người từng làm việc ở Đội Điệp vụ. Tôi biết bận bịu với việc điều tra vụ giết người nhưng tôi với họ vui lòng giải đáp những câu hỏi của họ thôi.”

      Ibrahim ngồi xuống. “Tất nhiên rồi”

      phụ nữ từng cộng tác với ông - tên ấy là Sabria Gampon.” Ubaid .

      “Đúng rồi. Tôi còn nhớ Sabria.”

      “Ngày hôm qua ấy được thông báo là mất tích.”

      ấy còn làm việc cho Đội Điệp vụ nữa rồi mà.” Ibrahim vừa vừa giả bộ hơi khó hiểu.

      “Thực ra là .” Ubaid . “Nhưng chúng tôi nhận thấy dù sao việc điều tra là cần thiết. Hàng xóm của ấy gọi điện thông báo việc mất tích...”

      “Hàng xóm của ấy?”

      “Vâng. Thực ra là trai của người hàng xóm. Theo như bên chuyển tín - những người thực việc truy vấn cuộc gọi ta tên là Saleh Harbi. Hai người hàng xóm - là hai - lo lắng, và Harbi lại làm việc trong lĩnh vực thi hành luật, nên họ nhờ đến ta.” Như vậy Asma và Iman ngày càng lo về biến mất của Sabria. Đáng lẽ Ibrahim phải chuyện với họ, giải thích mọi việc. Giờ quá muộn.

      “Nhưng tất nhiên cũng hiểu chúng tôi quan tâm tới các cộng tác viên của mình.” Ubaid và mỉm cười thân mật khiến Ibrahim ngay lập tức nghĩ đến việc Đội Điệp vụ vội vã và quá đáng đến mức nào trong việc đề bạt Omar vào vị trí phó chánh thanh tra, bởi vì ông lớn tuổi hơn.

      “Vâng, đương nhiên rồi.” Ông đáp.

      “Và chúng tôi có ý định điều tra việc này, bởi luôn có khả năng trường hợp mất tích kiểu này có liên quan đến công việc ấy từng thực cho chúng tôi.” Cái cách mà ông ta dùng từ chúng tôi có ý gạt Ibrahim ra ngoài.

      “Ông có manh mối nào rồi?”

      “Chúng tôi tìm kiếm chồng của ấy.” Ubaid . “ may thay, chúng tôi có khả năng tìm được ta.”

      Ibrahim liếc nhìn Riyadh lúc này đeo chiếc mặt nạ đẹp đẽ của lòng hiếu khách và quan tâm.

      “Theo những gì tôi còn nhớ được,” Ibrahim cách thận trọng, “ ấy bị cưỡng hôn. ấy gặp chồng mình vài tháng rồi trước khi bắt đầu làm việc với chúng tôi, và việc đó từ năm năm về trước phải?”

      “Vâng.” Ubaỉd có vẻ khó chịu khi mím môi lại. “Tuy vậy, ấy vẫn ở tình trạng kết hôn với người đàn ông đó - và phải vì mục đích thị thực. Thị thực của ấy hết hạn rồi.”

      “Tôi hiểu rồi. Vậy tôi có thể giúp gì được chăng?”

      “Ông bao giờ gặp chồng của ấy chưa?” Ubaid hỏi.

      Ibrahim lắc đầu. “Chưa. Tôi cho rằng họ hoàn toàn xa cách nhau.”

      Ubaid trông như thể sắp bình luận về bất hợp lý trong việc thuê những phụ nữ độc thân để cộng tác. “Có vẻ Gampon làm công việc gì cả. Hàng xóm của ấy xác nhận như vậy.”

      Ibrahim nhận ra những người láng giềng cố bảo vệ . Họ biết thị thực của hết hạn. Chỉ có điều mà họ ngờ tới là bát cứ cuộc điều tra nào về phụ nữ mất tích, dù người đó có đứng đắn đến đâu, đều đến kết cục là vấn đề đức hạnh.

      “Tuy nhiên, ấy lại sống trong căn hộ rất đàng hoàng.” Ubaid tiếp. “Chúng tôi chuyện với chủ nhà, người này xác nhận rằng ấy chưa từng quên lần đóng tiền nào.”

      Quả là ý trời, và ngàn lần đội ơn Chúa rằng ông chưa bao giờ tự mình trả tiền thuê căn hộ đó. Ông khăng khăng đưa tiền mặt hằng tháng, và chưa bao giờ để người chủ nhà trông thấy mình cả.

      “... Và chúng tôi băn khoăn hiểu ấy trả tiền thuê nhà bằng cách nào, nên kiểm tra hồ sơ tài khoản ngân hàng của ấy và phát những khoản tiền bất thường.”

      “Bất thường như thế nào?”

      “Hàng chục nghìn riyal được gửi vào - và sau đó được rút ra – đều đặn hằng tháng”

      Ibrahim thể thấy khó hiểu hơn.

      “Đó là khoản tiền lớn bất thường đối với phụ nữ nhập cư có công ăn việc làm gì.” Ubaid .

      “Vâng, vậy ông cho rằng khoản tiền này...” Ibrahim vẫy tay, nhưng Ubaid tiếp vào. “Vậy là gì chứ?”

      Vẻ kiểu cách của Ubaid, khuôn mặt nghiêng sang bên của ông ta chau lại ngay lập tức phát tín hiệu rằng ông ta đặt vụ án sang hướng thế; rằng ông ta có đủ bằng chứng để buộc tội vắng mặt Sabria về đạo đức; và rằng ông ta làm vậy, thậm chí rất hào hứng vì việc đó, bởi những vụ như thế này khiến cho cái dương vật của ông ta dựng đứng và cứng như đá granite suốt cả quãng đời còn lại.

      “Chúng tôi tìm được bằng chứng về có mặt của rất nhiều đàn ông trong căn hộ của ấy.”

      “Vậy là ông nghi ngờ có mại dâm?” Giọng Ibrahim lúc này nghe như xa lạ với chính ông. Bọn họ có bằng chứng ở căn hộ của ấy.

      “Khoản tiền gửi vào tài khoản của ấy là rất lớn.” Ubaid . “Và chúng khá là đều đặn.”

      Ibrahim muốn với họ rằng Sabria bắt đầu làm việc cho Đội Điệp vụ năm sau khi bị hãm hiếp, tra tấn và ngược đãi; rằng bởi quy luật trái khoáy về tiến hóa của loài người, trở nên gian xảo, ương bướng và hung hăng, những tố chất cần thiết để thực công việc tay trong; và rằng chính nhờ công việc đó mà tìm được lối thoát cho mình. Ông chỉ muốn bóp cổ cái tên Ubaid còm nhom này và buộc ông ta phải hiểu rằng những người phụ nữ từng trải như vậy chỉ e sợ thứ duy nhất: những tay đàn ông như Ubaid, những kẻ chỉ biết ngồi cặp mông lừa mà phán xét đức hạnh.

      “Số tiền đó là từ đâu vậy?” Ibrahim hỏi.

      “Chúng tôi . Tiền gửi vào lúc nào cũng là tiền mặt. Tiền rút ra cũng là tiền mặt.”

      ấy có rút khoản tiền lớn nào trước khi mất tích ?”

      . Đúng ra là tháng này ấy hề rút khoản tiền nào.”

      Ibrahim gật gật. “Vậy là phải ấy bỏ trốn.”

      phải”

      Ibrahim liếc nhìn Riyadh lần nữa. Ông chánh thanh tra tỏ vẻ lấy làm tiếc cách lịch thiệp về việc Đội Điệp vụ thuê phải người phụ nữ vô luân đến vậy và lại bị phát theo cách tai tiếng đến thế.

      Ông phải cẩn trọng trong lời ăn tiếng của mình. Bọn họ ràng dò xét để lôi kéo ông vào vụ này. người phụ nữ thể sau đêm mà trở thành mại dâm được. Và chăng phải chính ông là người đấu tranh đến cùng để giữ lại trong đội hay sao? Liệu lúc đó ông có biết từng làm điếm ?

      “Tôi lấy làm tiếc khi nghe chuyện này.” Ibrahim . “Tất cả những gì tôi có thể ấy là nhân viên xuất săc. ấy giúp chúng tôi phá tan mạng lưới ăn cắp tại các cửa hàng mà chúng tôi theo đuổi trong thời gian dài. ấy rơi vào vài tình huông rất mạo hiểm và xoay xở để thu thập đủ bằng chứng cho chúng tôi nhằm lật mặt những tội phạm cao cấp. Chúng tôi đều lấy làm tiếc khi ấy rời đội.”

      Ubaid hề lắng nghe, mà chỉ lịch chờ đợi Ibrahim trình bày xong. Ông ta biết ông có liên quan thế nào đến vấn đề đức hạnh của Sabria Gampon.

      “Mại dâm là tội nghiêm trọng.” Ông ta với vẻ hoàn toàn lộ mục đích của mình: chúng tôi truy tố vụ này. “Chúng tôi ngờ rằng chồng ta dắt khách, nhưng nếu những gì ông ta gặp chồng mình nhiều năm rồi, vậy có lẽ ta có ai khác. Chúng tôi tìm ra người đó.”

      A, vậy ra là tội kép, vừa mại dâm lại vừa thông dâm. Thảo nào Ubaid ra vẻ tự mãn thế.

      Họ đứng lên và bắt tay nhau, còn Ibrahim khiến chính mình bất ngờ khi bước ra khỏi đó mà té xỉu.

      “Tôi rút chiếc đinh khỏi sàn nhà trước khi rời khỏi đó.” Katya . “Cho nên có dấu vết về máu đâu.”

      “Tạ ơn Chúa.” Ibrahim thốt lên.

      Ông tới lui. Họ ở trong phòng vệ sinh tầng ba, thầm chuyện cạnh chiếc bồn rửa. Lúc đó muộn và tòa nhà gần như vắng bóng người. Nhưng dù thế nào Katya vẫn khiếp sợ vô cùng - nhỡ Ibrahim nổi nóng, ông có thể khiến ai đó chú ý và họ bị bắt quả tang rồi mọi chuyện còn tệ hơn thế này.

      “Tôi biết cho rằng con trai tôi làm vậy.” Ông . “Nó ở đó. Tôi thấy vết cắt ở chân nó.”

      “Ồ.” . “Tại sao cậu ta ở đó?”

      hôm nó theo tôi. Nhưng nó hề chuyện với ấy. Hôm ấy mất tích nó phải làm. Tôi kiểm chứng việc này với sếp của nó. Con trai tôi tuyệt đối liên quan đến biến mất của ấy, tôi có thể bảo đảm điều đó.” Ông nhìn hoang mang. “Có ai đấy dựng chuyện về ấy.”

      “Thôi được rồi.” Katya chậm rãi . “Nhưng ấy che giấu chuyện gì đó.”

      “Tôi hiểu. Chết tiệt!”

      “Chắc chắn họ gửi các bằng chứng tới Đội Điệp vụ trước khi tôi đến đấy.” Katya nhắc lại lần thứ ba. “Tôi mang tất cả các bằng chứng tôi thu thập được về nhà. Tôi làm việc đó ngay tức . Em họ tôi đón tôi và tôi mang chúng về thẳng nhà mình. Sau đó tôi tráo đổi các bằng chứng. Tôi lấy tóc và sợi vải ở những vụ án khác, ghi lại nhãn, và để chúng vào hồ sơ của Sabria, cho nên đáng lẽ nó phải giống như chỉ có phụ nữ xuất ở nhà ấy thôi chứ.”

      “Đó phải là vấn đề. Đội Điệp vụ có được những chứng cứ chết tiệt của bọn họ. Tôi cho rằng bọn họ dối trá khi rằng tìm được bằng chứng về có mặt của nhiều người đàn ông trong nhà ấy. Điều đó là thể có.”

      “Ông có nghĩ bọn họ dám dựng chuyện về ấy đến mức ấy ?” Katya hỏi.

      “Sao lại chứ? Nó là việc dễ nhất còn gì. Chỉ cần bỏ vài sợi tóc vào giường ngủ của ấy. Vấn đề là, tại sao lại làm vậy?”

      Katya im lặng.

      “Bọn họ biết điều gì đó về ấy. Họ muốn ngăn chặn điều gì đó. Nó vẫn tiếp diễn, cho dù nó là cái gì nếu họ phải làm điều này.”

      “Thế còn hồ sơ tài khoản ngân hàng của ấy sao?” Katya hỏi.

      “Họ là bao nhiêu, chỉ rằng ấy gửi vào tại khoản khoản lớn hằng tháng. Đến hàng chục nghìn. Và sau đó ấy lạị rút tiền ra, tiền mặt.”

      “Ông có cho rằng họ giả mạo cả bằng chứng đó ?”

      . Tôi biết nữa. Việc đó khó hơn rất nhiều”

      “Điều này chẳng có lý gì cả.” Katya . “Tại sao ấy lại gửi tiền vào rồi lại rút tiền ra chứ? Tại sao giấu tiền ở đâu đó khác?”

      “Tôi nữa.” Ông . “Tôi tin chắc có chuyện tồi tệ xảy ra với ấy, và cho dù có là chuyện gì nữa, câu trả lời nằm ở Chamella Plaza. Những phụ nữ mà ấy gặp gỡ đó giao dịch gì đấy. Mà tôi lại thể tự mình đến đó. Chết tiệt!” Ông đấm tay vào tường. Tấm gương rung lên.

      “Tôi trở lại đấy.” Katya . “Và tìm hiểu những gì có thể.”

      Ông thôi lại nữa. “Cảm ơn , Katya. Tôi xin lỗi vì quá nóng giận. Tôi rất biết ơn giúp đỡ của . Và làm ơn hãy thận trọng. Những người phụ nữ ấy có ở đó. Đội Điệp vụ có thể phát ra vấn đề về khu thương mại ấy và có khả năng họ cử người đến. Đừng để bọn họ nhận ra nhé.”

      “Tôi cẩn trọng.”

      “Tôi phải gọi điện thoại .”

      “Được rồi.” .

      Ông ra ngoài trước khi kịp nấp. nghe tiếng chân ông bước vội phía đầu kia hành lang trước khi nhận ra ông quên gõ cửa ra hiệu cho biết có an toàn để ra ngoài . Ông chạy trở lại, gõ cửa, và phóng như bay về phía cầu thang bộ.

      Việc khám phá ra rằng bản thân phải người duy nhất là thứ bùa ngải có tác dụng chỉ trong số trường hợp nhất định. bị từ chối được nhận việc, hay bị tổn thương bởi người bạn. Đừng lo, điều đó xảy đến với bất cứ ai. Ngoài bối cảnh thích hợp đó, choáng váng. Mình phải người đàn ông duy nhất mà ấy . Mình phải người đàn ông duy nhất chung giường với ấy.

      Ông vẫn chưa choáng váng bởi đó vì ông tin đó là , nhưng vết rạn tấm kính ngày lớn.

      Ông gọi cho Fawzi, đầu mối của ông ở Bộ, để hỏi xem liệu ta có tìm được địa chỉ của tay chủ cũ của Sabria hay . (Ông muốn thừa nhận là chổng của ). Với vô tâm đến điên tiết, Fawzi : “ ra là được. Có cho đấy.”

      Ibrahim sao lại địa chỉ. Fawzi hẳn ngồi cái địa chi đó cả mấy ngày nay rồi, nhưng quá ư là lười nên chưa chuyển nó . Ibrahim thể giải thích được rằng việc đó quan trọng đến mức nào. Ông vô cùng mạo hiểm khi hỏi tìm địa chỉ này rồi.

      “Cảm ơn giữ im lặng về việc này.” Ibrahim .

      “Hẳn rồi. Có phải phần của vụ giết người hàng loạt lo ?”

      . vụ trước đó.”

      “Tôi gì đâu.”

      Ibrahim chắc ta có tin ông hay nhưng dù sao ông vẫn biết ơn Fawzi.

      Địa chỉ ghi ở Karantina, xa lắm so với vùng phụ cận gần đó là Kandara. Khu ổ chuột đó có cái tên tiếng lai căng này do từng là khu cách ly trong vài trăm năm liền khi các bệnh dịch định kỳ quét qua thành phố. Nó từng ở cách xa trung tâm thành phố đến mức được coi là an toàn. Ngày nay nó gần thành phố hơn, được nối bởi con đường cao tốc xấu xí. Chiếc cầu vượt cắt ngang khu phụ cận và phân cách khu nhà máy lọc dầu khổng lồ vẫn thải khói dầu bẩn vào khí vốn khốn khổ vì muỗi và mùi của chất thải chưa qua xử lý.

      Phía dưới đường cao tốc là những khu nhà ổ chuột thuộc loại mà nếu so sánh phải xếp khu ổ chuột dưới cầu phố Sitteen ờ Kandara vào hàng cao cấp. Người dân ở đấy hầu hết là người châu Phi, những người đàn ông và vợ, đám con đếm xuể trần truồng và ốm yếu chạy lông nhông những đường phố nghẹt thở bởi mùi rác rưởi. Họ đốt hộ chiếu ngay khi đặt chân đến đây để bị gửi trả về những nơi còn tồi tệ hơn thế. Ít ra ở đây còn có chợ ma túy và mại dâm. Iít ra ở đây cảnh sát còn làm ngơ. Ít ra ở đây chính quyền còn để họ yên, cho dù họ bị lập dưới khu cầu vượt này, nơi mà tàn phá của muỗi dẫn đến việc bùng phát dịch sốt rét và sốt xuất huyết, còn nạn mại dâm tràn lan đưa đến bệnh viện những ca nhiễm AIDS mới mỗi ngày. Khu cách ly đại chính là thờ ơ của chính quyền.

      Ai chính quyền hiểu công lý nào? Ibrahim cay đắng nghĩ khi ông lái xe qua các con phố. Chính quyền chỉ cần biết làm thế nào để quản lý được Karantina mà thôi. Họ lờ đĩa cân với bên ngày càng lệch xuống thấp hơn do sức nặng của nạn trộm cắp, tài sản phi pháp, nhà chứa, và các tệ nạn băng hoại đạo đức khiến cho nơi này chiếm tỷ lệ các vụ án mạng cao nhất ở Jeddah. Khi luật pháp kiếm tìm công lý, nó cân đối quy mô với chiều hướng sa sút đồi bại và đột ngột như cú chém của lưỡi dao đao phủ. Đó chính là cách mà chính quyền dẹp các khu chợ ngày thứ Sáu nhộn nhịp phố Yazeed Ibn Naeem, nơi người dân địa phương buôn bán thực phẩm, quần áo, đồ đạc, và các dụng cụ gia đình – tất cả đều là đồ ăn cắp. Cảnh sát vây bắt ba nghìn năm trăm tên trộm chỉ trong chiến dịch. Ibrahim hiểu rằng đó chỉ là giả bộ của công lý. Chẳng còn gì tồi tệ hơn là cái tát đột ngột từ bàn tay giận dữ của người cha lỡ đãng.

      Ông thấy có gi bất ngờ khi Halifi đến kết cục ở nơi đây, tại cái nghĩa địa hy vọng của thành phố này, nhưng nó khiến ông lo lắng. Mỗi khi Sabria nhắc đến , đều để lại ấn tượng về kẻ gắng hết sức để tỏ ra giàu có, đáng tin và đáng kính. điều hành công ty nhập khẩu hoàn toàn trong sáng nếu dựa những con số trong sổ sách, nhưng mặt khác Halifi nhập khẩu phụ nữ, lừa gạt họ bằng những lời hứa hẹn về các công việc được trả lương cao như giúp việc và rồi bán họ cho các khách hàng giàu có muốn có quan hệ tình dục bí mật - kiểu người có thể sống trong nhà của ta đồng thời lo toan các công việc nấu nướng và dọn dẹp. Trong vài trường hợp, Halifi bán phụ nữ cho các dịch vụ chiêu đãi viên, hoặc thậm chí là các chủ chứa độc lập. ta hiếm khi nào từ chối lời đề nghị nào nêu giá cả đủ cao, và có biết bao nhiêu phụ nữ ngoại quốc dạ đến đây.

      Ibrahim có thể theo dõi Halifi từ nhiều năm trước nhưng Sabria muốn vậy. muốn cố tháo gõ quan hệ với ta về mặt pháp lý bởi điều đó chỉ làm sống lại quá khứ. Trong mấy tháng đầu khi và Ibrahim bắt đầu gặp gỡ nhau, ba lần về Halifi trước khi gạt vào cõi hư vô.

      Tòa nhà chung cư đó đánh số nhưng các tòa nhà chung quanh có, nên ông vẫn có thể nhận ra tìm đến đúng địa chỉ. Đó là công trình bê-tông cũ, bẩn thiu và giản đơn. Ở khu vực bình thường hai gia đình có thể sống ở đấy. Còn ở Karantina, đó chỉ có thể là hang ổ ma túy.

      Ông có cảm giác là Halifi sống ở đây. Có vẻ ông chỉ sắp bước vào văn phòng hơn dành cho việc kinh doanh của . Ibrahim tức giận đến mức ông phải ngồi lại trong xe khoảng chừng năm phút và tự nhắc mình rằng ông chỉ đến đấy để tìm Sabria, chứ có hành động ngu dại nào hết.

      Cánh cửa trước long cả bản lề. Khi ông đẩy cửa vào, nó đổ ập vào bức tường phía sau, ông phải bước qua phần ngả xuống để vào trong. Trong đó tối thui, hành lang dài ra với hai ô cửa ở phía cuối đều để ngỏ. Có tiếng ồn ào phía trong đó nhưng có dấu hiệu gì cho thấy là chủ nhà nhận ra có kẻ xâm phậm.

      Ông bước vào căn hộ bên phải. Căn phòng đầu tiên chỉ có chiếc ghế sô-pha và chiếc TV. Chiếc sô-pha lòi hết ruột ghế. Căn phòng thứ hai ông thấy Halifi. ngồi bắt tréo chân chiếc đệm cũ ở góc phòng. phụ nữ trẻ tuổi ngồi cục bê-tông bên cạnh và hút thuốc phiện. ta trần truồng, phần mông và lưng dưới lằn những vệt đỏ.

      “Mahmoud Halifi.” Ibrahim lên tiếng.

      Người phụ nữ quay lại. ta là người nhập cư, có lẽ là người Philippines. ta chớp mắt rồi quay lại phía Halifi, đưa cho ống thuôc rồi đứng dậy. ta rời khỏi phòng như thể bà nội trợ Hồi giáo mẫu mực lánh mặt ngay khi chồng mình có khách. Khi qua Ibrahim nơi ngưỡng cửa, ta đưa tay tóm lấy bên vú trái của mình rồi lắc lắc nó về phía ông cách thích thú.

      Ibrahim chuẩn bị tất cả những thủ thuật khôn khéo để Halifi phải mở miệng, nhưng chứng kiến trạng thái tỉnh táo kiểu này, ông hiểu rằng tất cả đều vô ích.

      “Tôi cần tìm Sabria Gampon.” Ông .

      Halifi chẳng có vẻ gì hốt hoảng cả, thậm chí ngay cả khi Ibrahim xốc lên rồi ném vào tường. Khi Ibrahim hỏi, “ ấy ở đâu?” Halifi bất ngờ phá lên cười, tràng cười hô hố nghẹt giọng và Ồ có, tao có nhớ con đó, con điếm đời xưa. Ibrahim đấm quả làm vỡ mũi Halifi và ném sầm vào tường, nhưng vẫn có vẻ gì là hiểu được nghiêm trọng của vấb đề. chỉ quặn người lại lăn lộn, bò lê bằng đầu gối, và nhìn máu chảy giọt từ miệng mình nền xi-măng. ngẩng lên nhìn Ibrahim.

      “Sabria ở đâu?” Ibrahim gằn giọng, mặc dù trong bụng ông tự nhủ rằng đây là sai lầm, ông chỉ phí thời gian.

      “Làm sao tao biết được?” Halifi chảy giọt cả bãi máu nữa và ngồi ngồi xổm xuống. “Tao gặp ta nhiều năm rồi.”

      Ibrahim chỉ muốn giết . Thậm chí đến lúc này, sau tất cả im lặng mà Sabria chịu đựng để chôn chặt gã đàn ông đó, ghê tởm và căm phẫn của Ibrahim vẫn còn nguyên vẹn. Chuyện dễ dàng. Nhặt ống tiêm rỗng sàn nhà và tiêm bong bóng cỡ đồng trăm riyal vào cổ . Ngay cả khi cảnh sát có quyết định điều tra cái chết của tên xì ke mà túy ở khu Karantina, họ cũng chẳng thể tình nghi ai khác hơn ngoài những tên nghiện trong toà nhà này cả. Nhưng ông mạo hiểm làm điều đó. Chẳng có gì ràng buộc ông với gã đàn ông kia hay cái nơi này hết.

      “Nếu ta biến mất,” Halifi , “ tức là ta chạy trốn. Đó là cách ta luôn luôn làm.”

      Ibrahim đá ngã sàn nhà rồi bỏ .

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 26

      Ngày thứ Hai, Katya dành toàn bộ thời gian nghỉ ăn trưa ở quán cà phê tại Chamelle Plaza. Ibrahim thể mạo hiểm tự mình lái xe đưa tới đó, nên ông đề nghị được trả tiền taxi cho . Nhưng gọi cho Ayman, và cậu vui vẻ nhận lời đưa .

      gọi cốc latte và ngồi bên chiếc bàn với tờ báo mở ra trước mặt. có gây chú ý chút khi ngồi đó mình - hầu hết phụ nữ đến đây cùng bạn bè của họ - nhưng đó là cố ý. muốn ai đó chú ý đến mình. Ai đó thấy kỳ lạ và phải nhìn đến hai lần, có thể hơi khựng lại để dò xét. Và mong là người đó biết về Sabria.

      Khi bắt đầu cảm thấy ngớ ngẩn, đứng dậy để chuyện với người phục vụ, vẫn là người phụ nữ trẻ nhận ra Sabria từ bức ảnh toàn thân đó. ta tên là Amal và ta nhận ra Katya.

      tìm thấy ấy chưa?” Amal hỏi.

      “Chưa, tôi vẫn chưa tìm được.” Katya . “ còn nhớ thấy ấy cùng những người khác chứ?”

      “Vâng.”

      “Liệu có nhận ra ai trong số đó nếu gặp lại họ ?”

      “Có chứ. Thực ra người vẫn đến đây. ấy ngồi ở bàn trong góc đó và chờ đợi, nhưng bạn của đến. ấy có vẻ thất vọng.”

      có biết tên ấy ?”

      . Nhưng tôi nhận ra nếu tôi trông thấy ấy.”

      gặp ấy lần cuối là khi nào thế?”

      “Sáng nay. ấy đến đây tầm khoảng mười giờ. Có lẽ ngày mai ấy đến.”

      có thể giúp là tôi thứ cho ấy được ?” Katya . “Thứ này rất quan trọng.”

      Katya có nửa số hồ sơ án mạng chưa được giải quyết của Sở. Chúng nằm trong những chiếc hộp sàn nhà phía sau . Phòng Lưu trữ cam kết giao cho số còn lại khi sẵn sàng. cũng có tất cả hồ sơ cho vụ án tại - các bức ảnh, các phác thảo, và các báo cáo lẻ về mười chín nạn nhân được thực bởi các sĩ quan khác nhau là thuộc cấp của Ibrahim, cả hồ sơ về Amina ál-Fouad nữa. mất quá nhiều thời gian của tuần vừa rồi cho những mánh khóe để có được số hồ sơ này. Giờ buồn cười khi nghĩ chúng là những hồ sơ dễ có được nhất.

      thể tiếp cận được hồ sơ án mạng đóng nào. Katya hình dung chúng được khóa trong các ngăn tủ trong phòng lưu trữ. Điều mà phải hình dung - điều mà với là rất ràng qua cuộc trao đổi với Ibrahim - đó là trở ngại thực để tiếp cận chúng chính là việc thuyết phục được Chánh Riyadh về thiết yếu của chúng đối với vụ án này. Ibrahim báo cáo tóm lược về phát của Katya cho Chánh Riyadh, và ông chấp thuận thay đổi tạm thời về trách nhiệm công việc của , nhưng đề cập gì đến việc mở các hồ sơ đó. Có lẽ ông chưa tin hẳn giả thuyết của Katya là đúng.

      Sau đấy là vấn đề về chuyên môn: có nhiều hồ sơ đóng hơn những hồ sơ chưa giải quyết được. Katya và Ibrahim phải thảo luận để tìm hệ thống chọn những hồ sơ liên quan nhất. như vậy, nếu Riyadh đồng ý cho mở các hồ sơ đó. Katya hiểu Chánh Thanh tra lắm, nhưng linh cảm ông khó chịu với lập luận rằng có những vụ bị truy tố nhầm. Tuy nhiên, có thể ông thấy việc mở rộng có liên quan đến tập hợp và phân loại hồ sơ đó hoàn toàn phí phạm thời gian.

      Đến thứ Ba, người ta dựng xong khu văn phòng ở tầng dưới, và lao đầu vào đống hồ sơ bàn làm việc. Mỗi khi nghĩ đến “bàn làm việc của mình,” phải cố nín cười. Nó hẳn là chiếc bàn làm việc, chỉ là bàn formica lớn có chân gấp. Xung quanh đó là sáu chiếc ghế kim loại theo chuẩn cảnh sát với đệm da rách hoặc hai chiếc thường dành cho các nữ sĩ quan. Toàn bộ khu đó được bao quanh bởi rèm che đen đặc, nhưng họ có hai chiếc đèn bàn và phần cửa sổ, nên cũng có đủ ánh sáng. Tấm rèm chắn ngang tầm nhìn của họ ra căn phòng quanh đó. Có thể chỉ cần chiếc ghế đẩu và thùng các tông, và vẫn ngồi đó với niềm hãnh diện thầm kín của con chỉm ưng.

      Buổi sáng hôm đó, hai nữ sĩ quan đến để giúp đọc qua các hồ sơ vụ án. Ban đầu họ làm việc nghiêm chỉnh nhưng tìm thấy quy luật của vụ án nào cả, nên họ buôn chuyện suốt mấy tiếng đồng hồ liền. Trước đây Katya rất kính nể những phụ nữ này - những sĩ quan được đào tạo tại học viện cảnh sát. phải lấy hết can đảm để họ đọc lại các hồ sơ lần nữa, và rồi lần nữa, bao nhiêu lần cũng được đến khi họ thấy điều gì đó.

      Khi những phụ nữ đó khỏi, có ai vào khu làm việc đó nữa ngoại trừ Ibrahim. Ông mang vào số hồ sơ thất lạc. Ông gõ lên cột kim loại dành để treo tấm rèm vải đến, ra hiệu cho người ở trong sẵn sàng khi ông vào. Katya hiểu rằng sớm muộn cũng cảm thấy chỉ di chuyển giam hãm của mình xuống dưới tầng mà thôi. Nhưng vẫn chưa mất hứng. Thậm chí tự cho phép mình mơ mộng được trở thành thám tử và có phòng làm việc riêng - xin Chúa che chở cho và tha thứ cho huyễn hoặc của .

      dành cả buổi sáng để đọc các hồ sơ nhưng thu nhặt được gì đáng quan tâm. ngồi mình trong khu vực màn quấy đó nghe thấy tiếng gõ lên chiếc cột kim loại. Tấm màn vén lên để lộ ra Tiến sĩ Becker. mang theo chiếc hộp rồi đặt nó lên bàn.

      “Giao hàng lần những hồ sơ án mạng đóng nhé.” vui vẻ . “Theo đúng cầu.”

      “Làm thế nào có được chúng vậy?” Katya vừa hỏi vừa đứng dậy.

      “Tôi thuyết phục Chánh Riyadh rằng tôi muốn làm số so sánh giữa những tên sát nhân ở Mỹ và ở đây.”

      Katya kinh ngạc. Tuy nhiên, hóa ra trong chiếc hộp là ba mươi tám hồ sơ vụ án từ những năm 1980. thực giúp ích như mong đợi.

      “Tôi nghĩ ngồi với lúc và làm gì đó.” Charlie .

      “Tôi rất tiếc.” Katya ra hiệu vể phía chồng giấy tờ bàn “ có hồ sơ nào bằng tiếng đâu.”

      “Có thể tôi chỉ xem ảnh thôi.” Charlie .

      Thực ra có thể giúp. Katya vẽ sơ đồ các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Ả Rập và đề nghị Charlie để riêng ra bất cứ hồ sơ nào mà tư thế của nạn nhân có tương đồng với những chữ cái đó Charlie đào bới trong chiếc hộp của mình và háo hức bắt tay vào việc nhưng mười phút sau đó, ngừng lại bực tức.

      hồ sơ nào có ảnh cả.” .

      “Sao cơ?”

      Charlie ra hiệu về phía những hồ sơ vừa xem qua. “ có lấy bức ảnh trong bất cứ hồ sơ nào cả. Tôi có linh cảm xấu về số còn lại đấy.”

      Chỉ có ba hồ sơ là có ảnh, và chúng đều chụp các bộ phận như bàn chân, cánh tay đầy máu. Katya chán nản. Sở sử dụng các tay máy pháp y ngay từ khi có máy ảnh. Tại sao những vụ án này lại có ảnh cơ chứ?

      “Có người lấy ảnh rồi.” . “Chúng tôi lúc nào cũng chụp ảnh nạn nhân mà.”

      “Thậm chí là phụ nữ sao?” Charlie hỏi.

      “Vâ-âng.” Katya ngập ngừng . “Thậm chí là phụ nữ.” giờ điều đó đúng, nhưng liệu hai mươi lăm năm về trước có đúng nhỉ? hướng suy nghĩ nhiều hơn đến việc ai đó lấy những bức ảnh với cái cớ để bảo vệ đứng đắn.

      Katya tự mình xem lướt các hồ sơ. Charlie đúng, những bức ảnh chụp trường vụ án được chọn lọc kỹ càng. Chúng chỉ chụp những bộ phận riêng lẻ hoặc chụp những vật chứng tìm được ở trường mà thôi. khẩu súng. cái búa bê bết máu. có bức ảnh nào chụp toàn thân nạn nhân cả.

      “Liệu có phải đây là vấn đề phẩm hạnh ?” Charlie hỏi.

      “Có lẽ vậy.” Katya đáp. Đương nhiên đó phải là những lo ngại về phẩm hạnh rồi. người như Abu-Musa có thể tiếp cận hồ sơ lưu trữ điểm qua tất cả các nạn nhân nữ, và hủy những bức ảnh chụp toàn thân, khuôn mặt, và những phần để lộ da thịt hợp với khuôn phép. Theo khuôn phép chặt chẽ nhất của Hồi giáo, người ta còn bị cấm được xuất trong ảnh. Để lộ ra những khiếm khuyết, những phần nhạy cảm của cơ thể cần được che giấu, đặc biệt là trước Ống kính máy ảnh càng là điều cấm kỵ.

      Nhưng Katya có cảm giác lạnh buốt sống lưng. Có những nguyên do mờ ám hơn thế khi loại bỏ ảnh trong những hồ sơ vụ án này.

      “Tôi vẫn tự hỏi, thực ra chúng ta biết gì về gã này nhỉ?” Daher nhắc lại lời của chính mình để đoán chắc với cả hai rằng suy nghĩ của ta là cẩn trọng. “Chúng ta chẳng biết gì cả. Nhưng điều gì có thể được cho là chúng ta biết về chứ? Có hai điều chắc chắn. , day dứt về tôn giáo. Và hai, là kẻ điên. Vậy nếu đặt hai điều đó lại theo cách dễ nhận thấy nhất, dĩ nhiên sớm

      muộn tìm đến thầy trừ tà.”

      Ibrahim gật đầu. “Lập luận có lý đấy.”

      “Như vậy tại sao tên khoác lác nào ở đấy giúp được gì nhỉ?”

      “Chúng ta có vài cái tên rồi.”

      Họ bước ra khỏi xe. Bọn họ ở Kandara, chỉ cách cây cầu phố Sitteen vài tòa nhà, chuẩn bị hỏi thăm tay phù thủy thứ năm trong ngày. Có thể Daher đúng - và ngay cả khi có vẻ chẳng giúp biến chuyển tình hình theo hướng khả thi hơn, ta vẫn thông minh khi ghép hai điều đó lại với nhau.

      Ibrahim thể thôi suy nghĩ về vệt lằn sưng tấy lưng Farrah, và điệu cười tự mãn của Jamila. Nó vẫn khiến ông giận điên người. Mặc dù Farrah đau lưng nữa, nhưng ông vẫn quyết chấp nhận rằng tên phù thủy lang băm đuổi được hồn ma ra khỏi cơ thể con bé. chỉ đơn giản gây ra hiệu quả trấn an bằng vết sẹo xấu xí và nguy cơ nhiễm trùng. Chừng nào liều thuốc đó vẫn còn tác dụng họ vẫn có lý do biết ơn ta, ngoại trừ việc ông hề thích con cái mình tin vào những thứ tào lao đó, nhất là khi nó có liên quan đến tôn giáo.

      Họ bước theo những ngõ ngách hẹp của al-Balad. Jeddah có đến cả tá thầy phù thủy trừ tà tiếng tăm và có lẽ là hàng trăm người nữa hành nghề trong tầng hầm hoặc phòng khách nhà họ, hàng xóm và thậm chí cả con phố ai cũng biết tên. Điều quan trọng là những kẻ hành nghề này chỉ thực ar-ruqyah ash-shar'eeya - những bùa phép Sharia dựa các bài cầu nguyện của Hồi giáo. Bất cứ thứ gì khác khiến họ phải chịu tội tử hình và bị chặt đầu trước công chúng.

      với tay này là chúng ta đến ?” Ibrahim hỏi.

      “Có ạ. Tôi đặt hẹn. Và tôi có chúng ta là cảnh sát.”

      Căn nhà bên ngoài có vẻ bình thường, cánh cửa gỗ với hai cửa sổ có cửa chớp ở hai bên. Họ nhấn chuông và người phục vụ mở cửa, dẫn họ vào cái sân . Nhờ có đài phun nước và vài chậu cây treo mà khí khá mát mẻ. Họ ngồi xuống hai chiếc ghế gỗ chờ đợi. ràng chỗ này tốt hơn bất cứ chỗ nào họ đến hôm nay. Ít ra tay phù thủy cũng có cách cư xử phải phép đủ để khách ngồi đợi trong bóng râm, ngay cả khi chẳng mời khách uống gì hết.

      “Có gì đó vẫn khiến tôi băn khoăn.” Daher . ta vẫn mang vẻ mặt lo lắng ấy. “Nếu cân nhắc đến những chuyện tâm linh đó trong mỗi vụ án mạng tên hung thủ của chúng ta hẳn là nhân vật tôn giáo.”

      “Và nghĩ chuyện gì xảy ra nếu thầy tế Hồi giáo phải ?”

      “Đúng vậy, đại loại thế.”

      “Nó cũng chính là điều tôi băn khoăn.” Ibrahim . “ xuyên tạc điều gì đó linh thiêng, điều mà khiến cảm thấy giống với thầy tế.”

      “Tôi thấy khó hình dung được.” Daher . “Tôi nghĩ về tất cả thầy tế và học giả tôi từng biết, và hề thấy ai có dính líu đến vụ án mạng nào. Chính vì lẽ đó tôi thể hình dung tên giết người đó lại có thể là thấy tế, dù có cố đến mức nào nữa.”

      Ibrahim biết mình có thể tiếp tục cuộc hội thoại này đến khi nào, nhưng ông quyết định mạo hiểm, bởi họ có mạch chuyện hay.

      “Phần lớn thầy tế hề lầm đường lạc lối.” Ông . “Nhưng bất cứ khi nào đưa chuyện gì đó quá xa, làm hỏng nó. Hãy nghĩ đến những thầy tế lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đức hạnh, đến nỗi bọn họ tìm thấy tội ác ở bất cứ thứ gì. Họ có thể ra các điều luật tôn giáo cấm phụ nữ ăn kem ốc quế ở nơi công cộng vì e ngại việc hiểu theo 'nghĩa rộng'. Hay rằng thể chấp nhận người đàn ông ngồi chiếc ghế mà phụ nữ vừa ngồi bởi hơi ấm của còn lưu nó có thể khêu gợi. Cho dù những điều như vậy có xảy ra nữa, họ có thực cho rằng việc nêu lên vấn đề, khiến mọi người phải ý về nó giúp kiểm soát hay làm tan biến điều đó ?”

      “Ai cũng biết mấy tay đó bình thường mà.”

      “Ai cũng thế ư? vậy ?”

      “Thôi được, nhưng ông hiểu ý tôi muốn là gì mà.”

      “Lúc nào người ta chẳng tin vào những chuyện tào lao ấy chứ.” Ibrahim có phần nóng nảy. “Tôi chỉ muốn rằng có người bị ám ảnh bởi đức hạnh đến mức tự biến mình thành những kẻ lầm đường lạc lối. Bọn họ nhìn thấy ám chỉ về tình dục ở cả những thứ trong sáng nhất.”

      Daher im lặng ngẫm nghĩ.

      “Có lẽ có điều gì đó lớn hơn mà chúng ta buộc phải chịu ở đây.” Ibrahim . “Tên giết người của chúng ta là kẻ cực đoan, nhưng khi chúng ta nghĩ đến việc ta là ai, chúng ta phải thấy trong những người khác. Những người vô tội. làm lộ ra con người lầm đường lạc lối trong chúng ta.”

      “Đúng rồi. Nó chính xác là cảm giác đó.”

      Ngay sau đó người phục vụ trở ra với hai cốc nước.

      * * *

      Charlie ngồi cùng với Katya cả thời gian còn lại của buổi chiều. Như thường lệ, ăn bữa trưa mua sẵn mà hôm nay chia với Charlie. chiếc bánh kẹp ăn khai vị, ít bánh quy cây, pho-mát dây, cà rốt và -ca béo trong tủ lạnh của phòng thí nghiệm. Riêng còn quả táo vẫn còn ở bàn trước mặt họ, vì họ biết làm sao chia nó cho đều.

      Họ chưa xem xong những hồ sơ trong hộp dưới sàn nhà. Cho đến giờ mới chỉ có sáu hồ sơ vụ án có ảnh trường chụp toàn thân các nạn nhân, và cái xác nào có tư thế khác thường cả.

      “Bức ảnh này có cái gì đó.” Charlie . “Có lẽ vậy.”

      đưa cho Katya bức ảnh chụp bàn tay bị chặt. Katya đọc báo cáo và nhận ra nó phải án mạng. Hai mươi năm trưóc người đàn ông vô gia cư phát bàn tay bị chặt dưới con mương thoát nước gần cầu vượt ở Kandara. Ông ta gọi cảnh sát và họ mở cuộc điều tra. Bên pháp y phát ra nạn nhân vẫn còn sống khi bị chặt đứt tay. Tuy nhiên họ chắc bàn tay đó có bị chặt cách hợp pháp hay .

      Khi ai đó bị trừng phạt vì tội ăn cắp, họ bị người hành hình của thành phố chặt đứt bàn tay. Người hành hình sử dụng thanh gươm hơn gươm dùng để chặt đầu. Bàn tay bị chặt đứt sau đó được chôn cất cách hợp thức dưới hỗ trợ của cảnh sát Jeddah. Đôi khi, có người được giảm tội và được bác sĩ phẫu thuật cắt tay có sử dụng thuốc gây mê. Theo báo cáo, có khả năng phải lúc nào các bác sĩ cũng loại bỏ bàn tay bị chặt theo đúng cách thức và bàn tay bằng cách nào đó trôi theo hệ thống nước thải của thành phố. Bản thân vụ án này - người nào đấy ghi tên rất lố bịch là SALEM-I-DEK, có nghĩa là “Chúa ban phước cho bàn tay của bạn”, câu rất phổ biến khi khen ngợi tài nấu ăn của ai đó - có vẻ là trong những vụ án đến đâu. Nó phải trọng án, và vẫn còn bỏ ngỏ.

      Sĩ quan phụ trách vụ án, Trung úy Yasser Mu'tazz, điều tra kỹ càng hệ thống cống thoát nước và chuyện với các bác sĩ có phòng khám có thể kết nối với hệ thống cống thoát. Ông ta phát ra điều gì khác thường, và bác sĩ nào ở những phòng khám đó từng phẫu thuật cắt bỏ bàn tay cả. Ông ta cũng chuyện với các sĩ quan phụ trách việc chôn cất các bàn tay bị chặt và thấy thủ tục của họ rất chuẩn mực. Dấu vân tay của bàn tay đó phù hợp với bất kỳ dấu vân tay nào trong cơ sở dữ liệu quốc gia, và vụ án chìm vào quên lãng kể từ đó.

      kỳ lạ khi Mu'tazz nỗ lực đến vậy trong khi bàn tay đó được tìm thấy ở nơi cơ bản là con mương thoát nước hai lần năm khi ở Jeddah thực có mưa. Nhìn bức ảnh, Katya có thế thấy trời mưa thời gian rồi. Con mương khô trơ đáy và bị phủ lớp cát dày.

      “Điều này kỳ lạ.” Katya . “Vụ án này xảy ra hơn hai mươi năm rồi. Tại sao nó lại nằm trong những hồ sơ vụ án tại chứ?”

      Khi Katya ngước nhìn lên, nét mặt của Charlie lộ vẻ nghiêm trọng. “Tôi vừa tìm được cái gì đó.” . cầm tất cả các bức ảnh của vụ án, và đưa từng bức sang cho Katya. Bức ảnh chụp vẫn bàn tay bị chặt đó ở góc khác. Người chụp hẳn xuống tận con mương thoát nước để chụp ảnh. Con mương rộng chừng mét. Trông như thể bàn tay bò về phía ống kính.

      “Hãy nhìn lên bức tường sau bàn tay ấy.” Charlie . “Hay đúng hơn là thành của con mương.”

      vệt máu đó khô đen vì nắng.

      có thấy nó có giống chữ cái nào ?” Charlie hỏi.

      “Có.” Katya . cách dứt khoát. Những đường viền của vết máu rất sắc nét như thể được sơn lên vậy. “Nhưng rất khó nhận ra đó là chữ cái nào. Nó có thể là nửa chữ F hay chữ Q gì đó.” Phạm vi của ống kính máy ảnh đủ rộng để chụp được toàn bộ. lật bức ảnh lại. Có cái tên và địa chỉ mờ mờ ở góc dưới bên phải được đánh máy thanh thoát: Hussain Sa’ud.

      Bọn họ nghiên cứu kỹ các bức ảnh còn lại nhưng có cái nào cho thấy vết máu đó. Và theo tất cả những gì Katya hiểu, đó có thể là vết gì khác. đọc hồ sơ lần nữa. Mu'tazz hề đề cập gì đến vết máu ở trường. Liệu họ lấy mẫu nó chưa? Có kiểm tra xem nó có phù hợp với nhóm máu của bàn tay kia hay ? Katya vừa thất vọng vừa ngờ vực. kỳ quặc khi Mu'tazz kết luận rằng bàn tay trôi theo con mương trong khi trời mưa thời gian rồi. Kỳ quặc hơn nữa là có thể có bằng chứng là vết máu ở trường mà họ lại thu thập nó. nhận ra Charlie quan sát giải thích trong khả năng có thể về vụ án và về cách xử lý của Mu'tazz.

      “Có lẽ ông ta là lính mới chăng?” Charlie hỏi.

      “Có nghĩa là sao cơ?”

      người mới vào nghề.”

      “À, có thể.” Katya . “Nhưng ông ta là trung úy rồi. Tôi tự hỏi là tại sao giờ ông ta gì về vụ này.”

      “Vụ án xảy ra hai mươi năm rồi mà.” Charlie nêu vấn đề. Thấy mặt của Katya, thêm: “Tuy nhiên tôi hiểu định gì: phải lúc nào người ta cũng tìm thấy bàn tay bị chặt.”

      Imam Abdullah Arsheedy trông giống như hầu hết những thầy tế Hồi giáo bình thường khác thế giới này. Ông có khuôn mặt chất phác, lọt thỏm giữa đám tóc, khăn đội đầu và bộ râu quai nón với cân xứng phải-thừa-nhận-là đáng chú ý của nhà tu mộ đạo. Chỉ có đôi mắt của ông khiến cho khuôn mặt có vẻ khác biệt. Chúng hơi nhô và trũng xuống, kỳ thực là xấu, nhưng lại ánh lên vẻ hiếu kỳ.

      Bọn họ ngồi trong phòng làm việc của ông, căn phòng tối tăm mát dịu, bày biện toàn sách giáo khoa về tôn giáo. khí đầy bụi và nặng mùi hương trầm. Vừa uống trà, họ vừa trao đổi và thảo luận về những chuyện thường ngày, cố lái câu chuyện dần hướng sang phần trọng tâm của cuộc hội thoại. Họ vừa mới chuyển chủ đề câu chuyện sang vấn đề làm phép thầy trừ tà hé lộ điều mà Ibrahim coi là chỉ tiết điên rồ.

      “Phép thuật là có thực.” Arsheedy thẳng thắn . “Chính Nhà tiên tri - cầu chúc ngài bình an - 'tà ác là cái thực '. Ông nhắc đến con mắt tà ác. Kinh Koran thừa nhận rằng phép thuật có tồn tại và có những quyền năng riêng, và những quyền năng đó là có . Điều mà kinh Koran chấp nhận là việc sử dụng phép thuật. Đó là điều cấm kỵ.”

      “Vậy những gì ông làm có khác biệt như thế nào với phép thuật?” Ibrahim hỏi. Ông thừa biết câu trả lời thông thường là gì đối với câu hỏi đó, nhưng ông muốn được nghe câu trả lời của Asheedy.

      “Với những cách thức được chấp nhận trong kinh Koran và Sunna, việc trích xuất phép thuật từ người nào đó sau khi phép thuật xảy ra là hoàn toàn có thể.”

      Thầy trừ tà có vẻ nhận thấy hoài nghi của Ibrahim. Ông ta chỉ chuyện với Ibrahim, hoàn toàn lờ Daher , và với giọng điệu của cha với con khi giải thích những ý niệm thông thường.

      “Điều cần nhớ là,” Arsheedy tiếp, “phép thuật chỉ có tác động đối với người dựa ý nguyện của Allah. là sai trái khi tin rằng điều gì đó có thể xảy đến với và có quyền năng nào đó còn lớn hơn Allah mà Người thể kiểm soát được. Do đó, khi có ai bị ảnh hưởng bởi tà thuật, ràng là cách trốn tránh duy nhất là là ở bên Allah. Những gì tôi làm bản thân chúng có tác dụng gì, tất cả đều nhờ vào quyền năng của Allah.”

      Ibrahim phải thừa nhận là ông ta có lý, ngoại trừ vấn đề là niềm tin của ông ta và phép thuật. Tuy nhiên tranh luận từ ngữ trong kinh Koran với ông ta quả phải là điều khôn ngoan chút nào, nhất là khi muốn có thông tin từ ông ta.

      “Rất thú vị.” Ibrahim . “Hẳn là ông tiếp xúc rất nhiều với những người bị ảnh hưởng bởi các loại phép thuật khác nhau. Nhìn từ bên ngoài, có vẻ như họ bộc lộ những đặc trưng của bệnh tâm thần phân liệt, giả dụ vậy, hoặc vài rối loạn về tâm thần khác. Ông có bao giờ giới thiệu họ đến các phòng khám y khoa ?”

      “Có, cũng thi thoảng.” Ông ta đáp. “Mặc dù phần lớn các tín chủ tìm đến tôi sau khi những khoa học y tế đối với họ thất bại. Các loại thuốc và phương pháp điều trị Tây y mà họ từng thử đều có hiệu quả, cho nên họ tìm đến cứu giúp trực tiếp từ Allah. trong những cầu khác đối với ar-ruyah ash-shar'eeya là tín chủ đó phải là người có niềm tin, họ phải tin, như tôi, rằng mọi điều chúng ta mong muốn có đều trực tiếp đến từ đức Allah.”

      “Điều này cũng có lý.” Ibrahim . “Vậy là phần lớn những tín chủ của ông là những người đặc biệt sùng đạo?”

      “Có rất nhiều mức độ khác nhau.”Asheedy luôn tỏ ra trao đổi cách thẳng thắn và cởi mở cho dù Ibrahim có nữa. “Tôi cho rằng những bất ổn về tâm thần có thể khiến cho người ta càng dễ tiếp nhận đức tin hơn. Họ ở trong trạng thái nhu cầu cao hơn, có thể như vậy, và do đó đức tin là đặc biệt quan trọng đối với họ. Nó là cách để hàn gắn những đau khổ mà họ phải trải qua.”

      “Và điều gì xảy ra nếu những tín đồ đó , thế nào nhỉ, bị ám nhập bởi hồn ma nào đó?” Ibrahim . “Điều gì xảy ra nếu ta chỉ bị tâm thần phân liệt thôi?”

      “Tất cả những đau đớn đều là loại ác tà.” Vị thầy tu điềm tĩnh đáp. “Và Allah luôn sẵn lòng cứu chữa những nỗi đau đó. Có thể việc cứu chữa đạt hiệu quả nhất nếu kết hợp với khoa học y tế, nhưng có số trường hợp nhất định mà y khoa thể làm được gì và chỉ có thuật làm phép mới có đủ sức mạnh để xoa dịu linh hồn của nỗi đau đó.” Ông ta đặt tách trà của mình trở lại chiếc khay, bắt tréo hai tay trong lòng rồi dò xét nhìn những vị khách. “Liệu tôi có nhầm khi cho rằng các ông ở đây là vì công việc của cảnh sát?''

      sai, điều đó là chính xác.” Ibrahim . Ông liếc nhìn Daher người tỏ vẻ học trò mẫu mực. “Chúng tôi cố gắng tìm hiểu khoa tâm lý học về tên tội phạm đặc biệt phải đương đầu. giết nhiều phụ nữ, và có những mối liên quan về tâm linh trong cách giết người.”

      Thầy trừ tà nghiêm nghị gật đầu. “Tôi e rằng tôi thể giúp các về khoa tâm lý học theo bản chất của nó, nhưng tôi có thế xác nhận rằng khi người thực bị tác động bởi tà ác - hồn ma hay con mắt tà - ta có khả năng thực những hành vi suy đồi nhất có thể hình dung được.”

      “Vâng, tôi chắc là vậy.” Ibrahim . “Có lẽ ngay cả khi những hành vi đó làm ô uế thanh danh của tôn giáo chăng?”

      “Nhất là trong trường hợp đó.” Arsheedy . “Đôi khi tôi cho rằng đó là cách duy nhất mà tà ác có thể bộc lộ - tức là bằng cách bóp méo tôn giáo. Tôi ngạc nhiên khi tên sát nhân của các ông sử dụng đạo Hồi vào việc bóp méo đó của . Tà ác luôn cố gắng để hủy diệt những gì thiêng liêng nhất - và nó luôn thất bại.”

      Có gì đó lạnh lùng trong niềm tin kiên định của ông ta. “Có thể đấy là câu hỏi kỳ quặc.” Ibrahim , “nhưng ông có tình cờ có tín chủ nào - kể cả giờ hoặc trước đấy - bị mất bàn tay ? Hoặc ai đó bị ảnh hưởng bởi người mất bàn tay chẳng hạn?”

      Arsheedy cân nhắc và chậm rãi lắc đầu. “Tôi nữa.” Ông ta . “Đúng là tôi có những tín chủ mất bàn tay, nhưng họ tìm đến tôi để làm phép.”

      “Tôi muốn có danh sách về những tín chủ đó, nếu ông phiền.”

      Thầy trừ tà chau mày. “Tôi e rằng thể dễ dàng tiết lộ danh tính của họ được.” Ông ta . “Xin ông hiểu cho.”

      “Tôi e rằng thể dễ dàng ngoảnh mặt trước kẻ lạm dụng tà phép trong xã hội Hồi giáo được.” Ibrahim hề câu nệ đáp lại. Thầy trừ tà mở miệng - hẳn là để bào chữa cho mình - nhưng rồi có vẻ ông ta nghĩ khác. Ông ta với tay về phía ngăn kéo bàn làm việc và lấy ra tờ giấy cùng chiếc bút.

      “Ông có bao giờ thấy sợ ?” Đó là Daher. Mặc dù khí im lặng, nhưng chủ nhà có vẻ bất ngờ trước câu hỏi đó của ta.

      “Có chứ.” Arsheedy vừa vừa liếc nhìn Ibrahim. “Rất khó để sợ hãi khi đối mặt với ác tà.”

      “Như vậy là ông nghĩ về thứ ác tà đấy như thứ tách biệt khỏi bản thân con người.” Daher tiếp. “Hẳn là rất khó để nhận thấy điều đó khi phải đón tiếp kẻ mất lý trí và có thể có hành vi bạo lực trong phòng làm việc của mình.”

      “Điều buồn cười là,” vị thầy tu thừa nhận, “những kẻ bạo lực bao giờ khiến tôi sợ hãi cả. Thường thô bạo về sức mạnh thể chất là giải thoát, hoặc nỗ lực của cơ thể để dứt bỏ chính nó khỏi điều gì đó xấu xa. Những kẻ thực làm tôi khiếp sợ là những người trầm lặng, khổ hạnh, nhưng có thể nhận thấy trong ánh mắt của họ căm hận vô bờ. có thể cảm thấy điều đó, ngay cả khi họ chẳng làm gì hết. có thể cảm nhận được nó ngay khi họ bước chân vào phòng. Bọn họ là những kẻ khiến tôi khiếp sợ nhất. Kỳ thực nó giống như bọn họ cố gắng kiềm tỏa cái tôi tà ác của chính mình, và làm như vậy, bọn họ ràng buộc với nó.”

      Daher ngồi ngả ra sau trông có vẻ lo lắng. Ibrahim có cảm giác rằng thầy trừ tà có điều gì khác muốn cho họ biết.

      “Có người đàn ông từng khiến tôi sợ hãi hơn bất cứ ai.” Arsheedy vừa vừa đặt bút xuống. “ ta đến với bệnh sử về tình trạng lo âu và phiền muộn. Gia đình ta luôn cư xử như thể ta là người bình thường, nhưng bố mẹ ta chết và ta kết hôn. chị em của ta sống ở Najan, nhưng ta lại làm việc ở Jeddah. Tôi cho rằng ta thấy rất độc. ta là nhân viên cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ và kể với tôi rằng có lần ta ở sau xe cứu thương với người bị ma ám. ta cho rằng những vấn đề của ta bắt đầu từ cái ngày đó, rằng bằng cách nào đấy hồn ma kia từ nạn nhân nhập vào ta. ta tìm đến tôi và cầu được làm phép. ta có vẻ gì là bị ma ám cả, nhưng tôi tin ta, và tôi làm phép. Đó là cuộc làm phép bình lặng cách lạ thường. Nhưng cả buổi hôm đó tôi có những cảm nhận ghê sợ về người đàn ông này. Tôi có cảm giác mọi điều ta với tôi đều dối trá. Tôi thể với các ông là vì sao; chỉ đơn giản đó là cảm giác. Tôi cầu nguyện hàng tháng trời, cầu xin lòng bao dung, khai minh và lòng nhân từ, nhưng tôi gặp ác mộng trong nhiều tuần sau đó. Sau vài tuần, người đàn ông đó quay trở lại để đảm bảo với tôi rằng tôi thành công trong việc xua đuổi hồn ma kia, nhưng tôi tin ta. Cho đến giờ điều đó vẫn khiến tôi day dứt, tôi nghĩ là vì tôi hiểu nó.”

      “Tên ta là gì?” Ibrahim hỏi.

      “Sheikh Rami Hajar.”

      Nhân viên của Phòng Lưu trữ trông khoảng mười lăm tuổi. Cậu ta chào Katya bằng cái gật đầu e dè và liếc nhìn đến hai lần tấm thẻ tên cổ . Bức ảnh thẻ cho thấy chiếc khăn trùm đầu màu đến và khuôn mặt ấy chính là khuôn mặt ở trước mặt cậu ta, nhưng có vẻ cậu ta tin.

      “Tôi có thể giúp gì cho chị?”

      “Vâng, tôi muốn chuyện với Trưởng phòng Lưu trữ.” . 'Tôi cho rằng bằng chứng trong số hồ sơ tôi nhận được bị thất lạc.”

      Chàng trai có vẻ tin tưởng, đứng lên và rời khỏi căn phòng . Katya đứng bên cửa sổ chăm chăm nhìn ra căn phòng chờ đáng chú ý vì trống vắng của nó. chiếc bàn hay giá treo nào. Hai chiếc ghế ở trong góc xa tít. Các hồ sơ được lưu trữ ở đâu đó phía sau cánh cửa bị khóa ở bên trái .

      Cuối cùng vị Trưởng phòng cũng xuất .

      “Tôi có thể giúp gì cho ?” Ông ta hỏi.

      trao cho ông ta hai tập hồ sơ vụ án đóng mà nhận được từ Ibrahim. “Những hồ sơ này được cầu nhằm phục vụ cho việc điều tra vụ Thiên sứ với mục đích ràng là để so sánh những bức ảnh chụp toàn thân nạn nhân với vụ án tại. may là trong những hồ sơ này có bức ảnh nào chụp toàn thân nào cả. Liệu đấy có phải là bản sao chụp của hồ sơ gốc thưa ông?”

      Vị trưởng phòng nhíu mày và lật giở qua các hồ sơ. “, chúng phải là bản sao chụp đâu thưa .”

      “Những tay máy pháp y chụp ảnh toàn thân của nạn nhân từ năm 1989, có phải ạ?” hỏi.

      “Vâng, đúng là vậy. Và đúng, những bức ảnh có trong này.” Ông ta đóng các tập hồ sơ lại và trả . Mặt ông ta cứng lại. “ phải làm cầu xét duyệt lại thôi.”

      “Xét duyệt lại?”

      “Đúng vậy. Cụ thể, cấp của phải chấp thuận và cầu xét duyệt lại các hồ sơ rồi gửi các văn bản xuống văn phòng của chúng tôi. Khi nhận được các văn bản đó, chúng tôi xem xét vấn đề.”

      “Làm vậy mất khoảng bao lâu thưa ông?”

      “Chúng tôi xem xét việc đó sớm nhất có thể.”

      “Vậy việc xem xét mất khoảng bao lâu ạ?”

      “Tôi e rằng thể được.”

      “Ông cũng thấy đấy là việc khẩn cấp mà.” vừa vừa cố gắng giọng.

      “Tôi hiểu.” Ông ta đáp. “ sớm gửi các văn bản đó cho chúng tôi chừng nào việc này được giải quyết nhanh chừng đấy.”

      Phát bực mình, Katya quay bước rời .

      Ibrahim tìm thấy Mu'tazz trong phòng làm việc của ông ta. xế chiều, ngoài trời vẫn còn nắng, nhưng văn phòng có cửa sổ nên ánh đèn sáng bàn làm việc của ông ta. Mu'tazz tập trung đọc đến nỗi nhận thấy Ibrahim đứng ở cửa, và khi nhận ra, ông ta liền đóng tập tài liệu lại.

      “Xin chào.” Ibrahim . Mu'tazz đáp. Ibrahim đặt tập tại liệu lên bàn và giải thích về vụ án bàn tay bị chặt mà Katya phát trong ngày hôm ấy.

      Mu'tazz mở tập hồ sơ , nhìn lướt qua, rồi đóng lại. “Chúng ta có những vụ án về những bộ phận cơ thể.” Ông ta . “Thế sao nào?”

      “Ông có bao nhiêu vụ?”

      “Tôi đếm.”

      “Nhưng ông còn có những vụ khác nữa phải ?”

      “Đúng. vụ về cẳng chân. vụ là cánh tay.”

      “Tôi chưa từng nghe về chúng.” Ibrahim .

      “Đó là vì ông làm việc ở đây.”

      “Có thể chúng có liên quan đến việc điều tra vụ giết người hàng loạt của chúng ta.” Ibrahim . “Vì vậy tôi với ông điều này. Ông hãy lấy hồ sơ của các vụ án đó và đặt chúng lên bàn làm việc của tôi vào sáng mai, và tôi báo cáo về việc ông gây cản trở việc điều tra của tôi.”

      Mu'tazz nhìn ông chằm chằm như con vật ngu ngốc.

      Ibrahim quay người bước nhưng rồi dừng lại ở ngưỡng cửa. “Nhân tiện, tôi được phép xét duyệt lại các hồ sơ vụ án của năm 1988 và 1989. Có vẻ hồ sơ nào có ảnh chụp toàn thân nạn nhân hết. Xem chừng ảnh bị rút ra khỏi những hồ sơ đó.”

      “Ồ, cũng có khả năng chứ.” Mu'tazz . “Cái đó được gọi là hợp với khuôn phép.”

      “Việc phá hủy chứng cứ cũng hợp với khuôn phép như việc ông vào phòng lưu trữ đâu.”

      “Có chứ, nếu vụ án đó được đóng.” Mu'tazz đáp.

      Ibrahim bỏ trước khi mất bình tĩnh. Ông trở lại phòng làm việc, rót tách trà nóng từ chiếc ấm điện và cố quên Mu'tazz , nhưng quá muộn. Ông rơi vào vòng quỹ đạo của người đàn ông đó. Phẫn uất, vô lý, dùng tôn giáo như thứ hộ chiếu để giành được tôn trọng từ cấp , ngay cả khi cấp nhận thấy giả dối của nó. Ông nghe được bàn tán rằng Mu'tazz chưa bao giờ được đồng chấp nhận bởi ông ta rất kỳ quái. Thế là đủ. Đàn ông luôn cần những người yếu đuối để nhắc nhở họ về sức mạnh của mình. Quả thực có điều gì đó đáng khinh về người đàn ông này - và, giống như tất cả những gì có vẻ vô tội và yếu đuối, ông ta có thế rất nham hiểm. Đâu là thời điểm mà người đàn ông từ bỏ giấc mơ hòa hợp và bắt đầu mưu chống lại những người từ chối.

      Ibrahim mở tập tài liệu bàn mình, đó là tập hồ sơ mà ông hối 10 thư ký của Chánh Riyadh để lấy được. Hồ sơ về quá trình công tác của Trung tá Yasser Mu'tazz.

      Chẳng ngạc nhiên khi quá trình làm việc của Mu'tazz rất tầm thường, ông ta chỉ tỉ mỉ và kiên trì khi bắt buộc, và - theo như những gì Ibrahim có thể đánh giá qua các báo cáo - ông ta phải kiểu người tin vào bản năng, ngay cả khi ông ta có nó. Những báo cáo của ông ta mang tính ước lệ hết mức có thể.

      Cũng lấy gì làm ngạc nhiên khi Mu'tazz vẫn là sĩ quan ít được tôn trọng nhất ở Sở. Những lời phê bình của cấp trong suốt từng ấy năm đều tế nhị chỉ ra rằng ông ta bao giờ cố gắng để hòa nhập và những đồng khác cảm thấy rất khó gắn bó với ông ta. Tất yếu là ông ta bị bốn lần bãi miễn thăng chức. lần bị từ chối nào tác động rệt đến tác phong làm việc của Mu'tazz cả. Ông ta vẫn tiếp tục làm việc cách thầm và miễn cưỡng, bảo sao cho đến giờ ông ta vẫn hy vọng mù quáng rằng ngày nào đó được đối xử công bằng.

      Trong hồ sơ có điểm nào cho thấy người đàn ông này sốt sắng quá mức hoặc là tip người đám xông vào phòng lưu trữ và tự động kiểm duyệt hồ sơ án mạng của Sở có liên quan đến ảnh chụp phụ nữ lõa thể. Ibrahim hy vọng tìm được điểm tế nhị nào đó về phẩm chất của Mu'tazz, ít nhất là đủ để đánh giá liệu Mu'tazz có xảo quyệt và thôi nát đến mức làm việc gì giống như thế hay . Tuy nhiên, điểm nổi bật duy nhất trong hồ sơ lại là lối viết văn hay thuần khiết của Mu'tazz. nhục nhã khi so sánh điều đó với cách viết rối rắm của chính Ibrahim. Liệu người ta có thể căm ghét người đàn ông có chữ viết lúc nào cũng thanh nhã và cân đối được nhỉ? Viết chữ đẹp cho thấy nét trong con người Mu'tazz đẹp hơn rất nhiều so với những gì ông nhận thấy, nỗ lực vì thuần khiết đằng sau lười nhác làm nhơ cả cuộc đời nghiệp của ông ta.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 27

      Sau khi dừng tại Chamelle Plaza lát, và lần thứ hai Katya lỡ cơ hội gặp mặt người bạn của Sabria, họ lại vào xe và phóng thẳng ra làn đường tốc độ cao đường cao tốc. Nayir chăm chú quan sát những mối nguy hiểm đường - những tay tài xế chen ngang mà hề xi-nhan, những cậu thanh niên buồn chán cố trình diễn bất cứ pha nguy hiểm nào họ nghĩ ra, đu người cánh cửa xe, lê chân mặt đường nhựa. Tệ nhất, theo suy nghĩ của Katya, là việc ô-tô của những cậu thanh niên kia áp sát bên xe của người ta đến mức làm gãy gương chiếu hậu nếu phản ứng nhanh. Bọn họ chỉ làm vậy khi có phụ nữ ngồi trong xe, cửa sổ để mở, và có vẻ như có cơ hội để ném vào mẩu giấy có ghi những gia vị thiết yếu đối với viễn tưởng của người đàn ông: số điện thoại di động để người phụ nữ đó gọi cho ta, nếu ta có thấy ta hấp dẫn từ ngực trở lên ở vận tốc 120 km giờ. Katya từng nhận được những cục giấy như thế, nên khi ở trong xe của Nayir đóng cửa sổ lại.

      Nayir, người tin vào việc sử dụng điều hòa nhiệt độ, có lẽ vì vài lý do về thuần khiết theo quan điểm của người Bedouin, cũng phải mở điều hòa khi ngồi trong xe, và đến mức gần như lạnh cóng. Tháng trước chung xe với hai lần và cả hai lần đó đều phải đề nghị tắt điều hòa . hình dung hai đầu ngực của mình lộ dưới lớp vải mỏng manh của chiếc áo sơ-mi và tấm áo trùm - nỗi khiếp sợ, biết có nhận thấy hay nữa. Nayir rất kiềm chế việc nhìn chăm chăm, nhưng điều đó có nghĩa là thấy gì.

      Việc ở mình cùng ngày càng dễ dàng. Đáng lẽ cả hai phải háo hức bàn luận về kế hoạch đám cưới, nhưng họ đồng ý với nhau từng chi tiết cụ thể rồi. Giờ im lặng trong xe càng nặng nề bởi những lo âu và những cái nhìn lúng túng. Suy nghĩ của Katya giằng xé . phải làm việc mười đến mười hai tiếng ngày, thậm chí cả những ngày cuối tuần, hầu như có thời gian để chợ, nấu ăn, hay giặt giũ. Tất cả những công việc đó bố đều nề hà đảm nhận hết, cũng như ông hề thấy nam tính của mình bị xúc phạm. Nhà trở thành đống lộn xộn. Ayman chỉ rửa bát mỗi tháng lần, nếu bị ép buộc, nhưng hầu như cậu luôn khôn ranh tránh mặt bố Katya, người duy nhất có thể buộc cậu phải làm việc.

      Thời gian rảnh của hầu hết đều tập trung vào việc tìm kiếm Sabria, xử lý các bằng chứng thu thập được ở căn hộ của ấy, và gây xáo trộn để che giấu những bằng chứng có thể liên quan đến Ibrahim. vẫn phải lo cả việc theo dõi người bạn của Sabria tại Chamelle nữa. Và mặc dù thấy hài lòng khi tham gia điều tra vụ Thiên sứ bởi thoải mái trong gian làm việc riêng trong phòng họp, hề được miễn giảm trách nhiệm tại phòng thí nghiệm. vẫn phải phụ trách việc điều phối công việc cho bốn kỹ thuật viên nữ, những người, cách dễ thấy nhất, vẫn còn kém cỏi và thiếu động lực với công việc chẳng hứa hẹn phát triển nào.

      Trong khi những tạp chói tai của những suy nghĩ này đạt đến đỉnh cao, Katya nghe thấy những khúc nhạc độc của ngờ vực rền rĩ từ xa xôi: phù hợp để làm vợ và làm mẹ. và Nayir bàn bạc về việc họ sống cùng bố cho đến khi tìm được căn hộ thích hợp riêng. Chiếc thuyền của quá đối với cuộc sống của hai người. Như vậy là cuộc hôn nhân thực đặt thêm gánh nặng của người nữa lên cuộc sống gia đình vốn mệt mỏi của . Thậm chí đến khi nào công việc ở cơ quan bớt bận bịu, vẫn phải làm việc theo ca chín tiếng hằng ngày. Có lẽ được ngủ ít hơn. Rồi thậm chí là mang thai nữa. cho rằng điều đó làm hỏng nghiệp của , nhưng đôi khi suy nghĩ đó vẫn khiến hốt hoảng.

      loạt hiệu áo cưới cho cơ hội tiếp xúc với những dâu trẻ - vẻ xinh xắn, duyên dáng, hiền thục, càng được tôn lên đẹp hơn bởi pha trộn giữa nỗi sợ hãi và niềm hứng khởi gương mặt họ. Họ thốt lên lời hứa rằng làm bất cứ điều gì vì đức lang quân. Họ có công ăn việc làm. Họ vừa học xong phổ thông. Họ là những đứa trẻ sẵn sàng lao mình vào cuộc sống mà ở đó nhu cầu của chồng là hết và còn điều gì khác quan trọng cả. So sánh như vậy, Katya cảm thấy mình giống như ngoại lệ, giống những phụ nữ đọc được qua bài báo vào dịp nào đấy ca ngợi nỗ lực vì tính độc lập của phụ nữ Ả Rập Xê-Út, bằng cách nêu gương nữ doanh nhân hay nhà từ thiện thành đạt. Hãy nhìn vào những mẫu người hiếm có đó, những người có đủ nghị lực để kết hôn, có sáu đứa con, và có cả nghiệp trọn vẹn nữa. hay nghĩ rằng địa vị ngoại lệ đó của mình được đàn ông có tư tưởng tự do tán thưởng - có vẻ cũng có số người như vậy - nhưng với người đàn ông truyền thông như Nayir, điều đó chắc chắn là phù hợp. Và chỉ là vấn đề thời gian trước khi phát ra mà thôi.

      thừa nhận với chính mình, mới đêm hôm trước thôi, rằng có thể sai lầm khi nhận lời cầu hôn này. thừa nhận đau đớn. ít nhất vẫn còn cơ hội ngăn nó lại trước khi chuyện này xa hơn. Nhưng trong số những điều tồi tệ mà hình dung mình có thể gây ra, việc khiến Nayir thất vọng là điều tồi tệ nhất. Vấn đề giờ là chọn lựa điều thất vọng nào khiến ít bị tổn thương nhất. Đêm hôm qua, ngồi bên điện thoại và cân nhắc về những việc mình lựa chọn. Chấm dứt vào lúc này đồng nghĩa với vết thương bởi phát súng bội ước với . chấm dứt vào lúc này khiến từ từ bị rỉ máu trong những năm sắp tới, và tự thấy mình tù túng, kiệt sức, những giấc mơ tuột khỏi tầm tay qua những kẽ nứt của cuộc sống bị đổ vỡ.

      Rốt cuộc, gọi cho đề nghị chở .

      Giờ họ đến nhà Hussain Sa’ud, người có tên được đóng dấu mặt sau của tấm ảnh chụp bàn tay bị chặt đứt đó. Họ bước ra khỏi xe và đối diện với ngôi nhà xấu xí. Nó bắt chước lối kiến trúc của tòa lâu đài Bravia, có cửa sổ thụt vào sâu bên trong, có những tháp bằng gạch, và cửa chính trông như thể chiếc cầu kéo của pháo đài. Bản thân ngôi nhà lại quá bé so với vĩ đại của tòa lâu đài. Toàn bộ được sơn màu trắng sáng lóa, tương phản với ánh sáng của mái ngói xanh dương. Nó gợi cho Katya nhớ đến ngôi nhà lâu đài Disneyland xấu xí nổi tiếng phố Iskandareya.

      Nayir gõ cửa. Vài phút sau, bé chừng sáu tuổi ra mở. Katya tự giới thiệu và đề nghị được gặp Hussain, rồi bé vừa chạy ào vào trong ngôi nhà tối tăm vừa lớn tiếng gọi ông mình. Hai cậu bé thò đầu khỏi căn phòng có tiếng ti-vi ì xèo, tiếng chói tai của trò chơi điện tử. người phụ nữ vừa bước vội dọc theo hành lang vừa trùm chiếc khăn qua đầu. Bọn họ đứng đợi trong khi khí mát rượi lồng lộng thổi qua lối cửa vào.

      Có cảm giác như cả thế kỷ trôi qua trước khi Hussain xuất ở ngưỡng cửa. Ông cao lớn, trông già nhưng khỏe mạnh, khuôn mặt tuy mỏng nhưng vẫn nguyên nét điển trai. Ông lớn tiếng gọi ai đó trong vườn châm thêm trà cho mình rồi hướng chú ý đến Nayir và Katya. Khi ông bước ra chỗ sáng, Katya thấy mắt ông màu xanh lục

      “Tôi có thể giúp gì cho chị?” Ông hỏi.

      Lên tiếng trước Nayir, Katya giới thiệu về mình. “Cháu mong được chuyện với ông về bức ảnh.”

      bức ảnh sao?” Ông hỏi.

      Katya lấy bức ảnh từ trong túi đeo vai và đưa cho Hussain. Ông nhận lấy nó rồi mỉm cười. “À vâng. Đây là bức ảnh thuộc trong những vụ án còn bỏ ngỏ của tôi.” Ông lật bức ảnh lại và nhận ra con dấu ở góc ảnh. Ông mỉm cười với vẻ nuối tiếc. “Tôi từng đóng dấu lên tất cả mọi thứ.” Ông . “Đó là thời kỳ trước khi người ta sợ hãi khi tiết lộ địa chỉ. Thời ấy thành phố này vẫn còn an toàn lắm.”

      “Ông đó là trong những vụ án của mình ạ.” Katya lên tiếng. “Vậy ông là điều tra viên sao?”

      Trông ông có vẻ ngạc nhiên. “Đúng vậy, tôi từng là điều tra viên. Đây là vụ án của tôi. lấy nó ở đâu vậy?”

      “Từ ngài chánh thanh tra của Phân khu Trung tâm. Trong hồ sơ đó điều tra viên phụ trách vụ án là Thám tử Yasser Mu'tazz cơ ạ.”

      “Ồ, Yasser Mu'tazz chỉ là miếng ghép của trò chơi ghép hình mà thôi.”

      Sa’ud mỉm cười . “Vào , vào . Chúng tôi mời chị chút trà.”

      * * *

      Vị đại tá nghỉ hưu Sa’ud đưa họ qua loạt những căn phòng mỗi lúc lại càng lộn xộn khi hướng ra khu vườn phía sau ngôi nhà. Dưới bóng mát của giàn nho, hiên nhà bê-tông ngổn ngang nệm ngồi tinh xảo và trường kỷ nhắn như phòng khách. khí mát lạnh. Ba đường ống lớn được dẫn ra từ ngôi nhà và chạy phía giàn nho, thổi khí mát lạnh xuống gian bên dưới. Hệ thống điều hòa khí ngoài trời. Mùi shisha (1) bén thoang thoảng quanh họ. Cả hai được mời ngồi. Hussain từ từ khom mình xuống và ngồi lại vào chỗ cũ, với loạt nệm trông như thể thường trực để tạo ra vị trí ưa thích của ông: phía bên trái vừa trong tầm tay là bộ ấm trà, ống hút thuốc, và cuốn sách bọc da đặt úp.

      (1) thiết bị thường làm bằng thủy tinh dùng để hút thuốc lá, trong đó khói được lọc và làm lạnh bằng cách qua nước.

      Katya ngồi chiếc nệm cạnh Nayir và tự hỏi bao lâu nữa Sa’ud nhận ra phải người có tầm thế gì trong Sở cả, còn Nayir phải là cảnh sát, và Sa’ud chẳng cần phải gì với họ hết.

      Tuy nhiên, ngay cả trước khi trà được mang đến, Sa’ud rằng ông coi họ như những thính giả được chào đón. “ chị chắc biết tôi từng hoạt động ở Đội Trọng án suốt mười lăm năm nhỉ.” Ông ta đăm chiêu . “Giờ tôi bảy mươi lăm tuổi rồi, nếu mẹ tôi nhớ đúng. Thời trước người ta mấy khi làm giấy khai sinh. Tôi là người Mecca, nhưng công việc đưa đẩy tôi đến Jeddah này và tôi lúc nào cũng thích ở đây hơn, xin Allah tha thứ cho tôi.”

      Trà được mang đến cùng với đĩa quả chà là được bày theo hình hoa. Sa’ud bắt đầu kể về cuộc đời mình, và họ nhận thấy khó lòng mà chen ngang được. Ông đặt họ vào khoảng sân yên tĩnh cách kỳ lạ, có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy dấu hiệu của thế giới đại trong tầm mắt, ngoài cảm giác về những chiếc ống dẫn khí phía đầu. dễ dàng trở lại năm 1934 lúc cha ông mua người vợ đầu tiên của mình tại chợ nô lệ ở Mecca. Dễ dàng hình dung ra việc nhóm cướp biển tấn công ngôi làng ở phía đông Ả Rập Xê-Út và mang về người con xinh đẹp nhất - Oubaya, mẹ của Sa’ud, người mới chỉ mười ba tuổi khi sinh ra ông. Ông kéo họ ngược trở lại quá khứ xa hơn nữa, khi ông bà của ông là những người Thổ Nhĩ Kỳ, cao lớn, tóc vàng (đôi mắt xanh lục của ông là biến đổi từ màu mắt xanh ngọc bích của họ), làm giàu bằng nghề vận chuyển các loại gia vị qua sa mạc nhờ các đoàn buôn.

      Thường Katya đủ kiên nhẫn dành cho những cuộc chuyện trò lan man như thủ tục cần thiết trước khi vào việc với người ngoài sáu mươi tuổi, nhưng thấy lạ khi chìm vào thế giới lịch sử diệu kỳ đó. Chính Nayir là người đưa họ trở lại thực tại.

      “Thời đại thay đổi rồi ạ.” với vẻ nuối tiếc. “Nhưng tấm lòng mến khách của người ta vẫn còn.”

      “Đúng, nó hề thay đổi.” Sa’ud khẽ cười. “Và cả tàn bạo cũng vậy. Nào những người bạn của ta, chị muốn hỏi gì về bức ảnh đó?”

      “Cháu băn khoăn liệu ông có thể tạm gác những câu chuyện đó lại được .” Katya . “Cháu muốn được xem xét rộng hơn về con mương thoát nước đó, nơi ông tìm thấy bàn tay ấy.”

      “Ồ?” Sa’ud đặt tách trà của mình xuống. “Và lý do là gì?”

      “Cháu cho rằng có thứ gì đó được viết thành con mương đó.”

      “Sao kia?”

      ký tự, được viết bằng máu.”

      Sa’ud im lặng lát, nét mặt ông khó đoán biết. Katya cảm thấy day dứt sợ hãi, lo rằng xúc phạm đến ông.

      .” Ông . “Nó phải là ký tự.” Đôi mắt xanh lục kỳ lạ của ông ánh lên đầy thích thú. “Đó chỉ là vệt sơn hoặc cái gì đó. Tôi tò mò điều gì khiến suy nghĩ về cái vết đó vậy?”

      “Chúng cháu vụ án khác.” Katya . “Trong vụ án này chúng cháu phát bàn tay bị chặt.”

      có tham gia vào vụ đó ?”

      “Có ạ.” . “Dưới quyền của Thanh tra Ibrahim Zahrani.”

      Sa’ud dò xét lúc lâu hơn và có vẻ quyết định đến kết luận. “Thôi được, tốt hơn hết tôi nên cho biết. Bàn tay bị chặt mà thấy là phần của vụ án lớn hơn. Như tôi đấy, nó là vụ án còn dang dở của tôi. Tôi vinh dự gì khi thừa nhận số vụ án mà tôi chưa thể giải quyết được, nhưng trong mười lăm năm ở Đội Trọng án, tôi cho rằng cần phải đón chờ điều đó. Tôi từng gọi vụ này là vụ Osiris.”

      “Osiris?” Nayir hỏi. “Vị thần Ai Cập ấy ạ?”

      “Đúng vậy. Nếu các chị còn nhớ, Osiris bị Set, thần sa mạc, chặt thành từng phần. Ông bị cắt thành mười bốn mảnh và rải khắp Ai Cập. Người tình tận tâm của ông, Isis, phải tìm, thu thập các mảnh đó rồi tái dựng cơ thể để chôn cất cho hợp thức. Chỉ có phần bị mất.” Sa’ud mỉm cười kiểu cách, qua đó Katya suy ra là thiếu tế nhị nếu nhắc đến phần bị mất đó.

      “Vụ Osiris bắt đầu vào cuối năm 1988. Tôi chuẩn bị nghỉ hưu ở lực lượng cảnh sát. Tôi dành hầu hết thời gian tuần tra giao thông và thực các công việc văn phòng. Tôi nghiệp tốt đẹp, nhưng sẵn sàng từ bỏ hoàn toàn công việc vì biết mình làm gì với chính mình nữa. Tôi cảm thấy tôi để lỡ điều gì đó, cơ hội nào đó để thực công việc cách xuất sắc.”

      “Sếp của tôi gợi ý tôi tham gia vào dự án phục vụ cộng đồng để giúp đỡ những nam thanh niên cố gắng tu tỉnh. Cảnh sát có chương trình đưa những thanh niên này đánh cá. Bọn họ là những tội phạm trẻ bị bỏ tù vì nhiều lý do, nhưng đều còn quá trẻ để từ bỏ việc làm lại cuộc đời. Phần lớn trong số đó là trẻ từ 13 đến 19 tuổi. Ý tưởng đặt ra là cho bọn trẻ việc gì đó có tính xây dựng để làm, để đưa chúng ra khỏi thành phố nhằm giúp chúng trân trọng thiên nhiên và tất cả chỉ là vậy. Chính vì thế mà người bạn của tôi, tên là Jameel, và tôi cuối tuần nào cũng đưa chúng đánh cá.”

      “Chúng là bọn hung hăng, tôi phải như vậy, nhưng chung chúng tôi gặp vấn đề gì thuyền cả. Chúng thích đánh cá và lái thuyền. Đôi khi chúng tôi còn bơi với ống thở nữa. Tôi thực tin rằng điều đó là tốt chúng. Nó giúp chúng xa lánh những rắc rối và cho chúng nền tảng căn bản để làm người tốt.”

      “Thế rồi, lần vào cuối tuần chúng tôi ra biển và dùng lưới đánh cá. Chúng tôi tự làm những tấm lưới đó, rồi quăng chúng ra xa và bắt được cả đàn cá hàng chài. Chúng tôi kéo lưới và thả nửa số cá trở lại biển vì định ăn nhiều cá đến thế. Rồi chúng tôi lái thuyền lúc và quăng lưới lần nữa, chỉ có điều lần này lưới bị mắc kẹt vào thứ gì đó. Chúng tôi mất rất nhiều thời gian để kéo nó lên, và khi kéo được, chúng tôi thấy hộp gỗ rất lớn. Phần đáy lưới quấn xung quanh chiếc hộp đó. Chúng tôi kéo chiếc hộp lên boong. Nó nặng vô cùng. Thậm chí tấm lưới bị rách. Khi mở hộp ra, chúng tôi thấy thứ rất kinh khủng. xác chết. Đó là xác người bé, có lẽ là phụ nữ, vì có tâm áo choàng nhét trong hộp. Người này bị cắt thành nhiều mảnh.”

      “Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi khiếp hãi. Chúng tôi chạy thuyền thẳng vào bờ và ngay lập tức gọi cho cảnh sát. Thời đó chưa có điện thoại di động đâu. Chúng tôi phải đợi thời gian trước khi nhân viên cảnh sát và đội pháp y đến. Chúng tôi đặt chiếc hộp dưới bóng râm của nhà kho ngay bên bên thuyền. Đó là nhà kho lớn, để mở, và tất cả đứng vây quanh, mệt mỏi và đều sốc. Chúng tôi phải đợi cảnh sát suốt hai giờ đồng hồ rồi.”

      “Trong lúc đó, cậu trong đám con trai bị ốm. Cậu ta hơi ốm khi chúng tôi rời bên tàu sáng hôm đó, cộng thêm việc phơi nắng, cái nóng, và các hoạt động nên tình trạng càng tệ hơn, và cậu ta ngã gục. Tôi thấy cậu ta bị mất nước. Chúng tôi đưa cậu ta vào văn phòng của bến thuyền, ở đó người ta cho cậu ta uống nước và gọi xe cứu thương. Trong lúc đó, cảnh sát đến để điều tra chiếc hộp. Nhưng khi bọn họ vào trong nhà kho chiếc hộp biến mất.”

      “Có ai lấy cắp nó sao ạ?” Nayir hỏi.

      “Đúng thế, có vẻ là như vậy. Mặc dù chúng tôi chưa bao giờ biết được là vào thời điểm nào. Với loạt cố xảy ra với cậu thanh niên kia, ai để ý đến chiếc hộp. Chúng tôi cho rằng đó chính là thời điểm nó biến mất. Vấn đề là ở chỗ chiếc hộp đó rất nặng. Có thể người mang nó , nhưng hẳn phải chở bằng ô-tô hoặc xe tải. Hai mươi con người sục sạo nhà kho đó suốt cả buổi tối còn lại và cả ngày hôm sau nữa, và chiếc hộp hề ở đấy. việc đó đặt ra các giả thuyết.”

      vài ngày sau, cảnh sát chất vấn từng người trong số tám thanh niên có mặt chiếc thuyền. Mỗi người đều có hồ sơ tội phạm, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng tất cả đều có chứng cớ ngoại phạm. ai mất tích cả. ai có thể tiếp cận với phương tiện có thể dùng để đưa cái hộp . Chúng tôi cũng tính đến việc tìm kiếm dưới vùng nước của cầu cảng. Có lẽ ai đó ném cái hộp trở lại biển. Phải mất vài ngày mới có đủ trang thiết bị để thực việc này, nhưng cái hộp cũng ở dưới ấy. Cuối cùng cảnh sát đành bỏ rơi vụ đó.”

      “Nhưng ông tìm được bàn tay.” Katya vừa nhắc vừa chỉ vào tấm ảnh.

      “Sáu tháng sau đấy.” Sa’ud . “Bàn tay này xuất trong con mương thoát nước ở Kandara. Rồi bàn tay khác lại xuất cách đó xa. Đó cũng là thời điểm Mu'tazz tham gia vào vụ án này. Lúc bấy giờ Mu'tazz phải chuyên gia, nhưng ta còn trẻ và háo hức, luôn cố tỏ ra cẩn trọng. ta phát ra tôi cũng có vụ án tương tự, và ta liên lạc với tôi. Chúng tôi chắp nối những bộ phận của cơ thể đó, và tôi tiếp nhận điều tra ở Kandara từ tay Mu'tazz. Tôi giải thích câu chuyện cho ta. Kẻ lấy cắp những bộ phận cơ thể này có vẻ rải chúng khắp cả Jeddah. Chúng tôi tìm thấy chiếc chân phải ở al-Balad, phần của thân dưới ở al-Aziziya, và còn nhiều nữa. Trong khoảng thời gian chỉ vài tuần, chúng tôi tìm được các bộ phận khác ở những địa điểm khác nhau. Chúng tôi thu lại được tất cả các bộ phận bị thất lạc. Thực tế là chúng tôi chỉ tìm được mười ba phần trong số mười chín phần trong chiếc hộp đó. Tại thời điểm ấy, ai nấy đều gọi vụ án này là vụ Osiris, bởi con số mười ba đó, cho dù tôi luôn rằng cái xác của Osiris hoàn chỉnh, nhưng cái tên vẫn gắn liền với nó.”

      “Có chữ cái nào cùng bộ phận nào đó ạ?” Katya hỏi.

      , nhưng có thông điệp được viết lại vào phút chót. Nó được viết bằng mực gần chiếc chân trái. Nó là câu trích dẫn trong kinh Koran: chúng ta tạo ra mọi thứ theo trật tự.”

      “Ông có kiểm tra loại mực đó ?”

      “Có chứ, nó là loại mực tiêu chuẩn để viết chữ đẹp, loại có thể mua ở bất cứ cửa hàng văn phòng phẩm nào.”

      “Cảnh sát đến giả thuyết nào hay sao ạ?” Katya hỏi.

      “Thực ra, tôi chắc là có thể nhận thấy mức độ phức tạp của toàn bộ tình hình. mặt, bọn họ truy tìm tên trộm, đánh cắp chiếc hộp chứa bộ phận cơ thể đó và có liên can trực tiếp đến việc điều tra vụ án mạng. Mặt khác, bọn họ phải truy tìm tên giết người. Bọn họ bắt được tên trộm, hoặc chí ra là họ tin như vậy. Có mười bốn nam thanh niên trong nhóm đó, nhưng chỉ có tám người lên thuyền hôm ấy. sĩ quan cho rằng thủ phạm chắc chắn phải là kẻ trong số họ, chủ yếu là vì ai khác biết về chiếc hộp này. Tôi tranh cãi, nhưng có hiệu quả, rằng thể là ai trong số bọn họ được, bởi lẽ người đó thể mang chiếc hộp làm tôi, Jameel, hay những thanh niên còn lại chú ý được. Với lại nhà kho đó để mở, nên ai cũng có thể lẻn vào và nhìn thấy chiếc hộp rồi quyết định đánh cắp nó. Có thể tên trộm là kẻ cơ hội hoàn toàn lạ mặt.”

      “Tuy nhiên, Đội trưởng Đội Trọng án lúc bấy giờ là Đại tá Ghamdi đến giả thuyết duy nhất có cơ sở, đó là kẻ trong số những thanh niên kia đẩy chiếc hộp rơi xuống vùng nước của bên cảng rồi hôm sau quay lại dùng lưới kéo nó lên và mang về nhà. Và quả thực, chính tấm lưới mà chúng tôi làm để phục vụ cho chuyến đánh cá ngày hôm sau biến mất.” Sa’ud ngả người ra sau và thở dài. khí mát rượi từ những chiếc ống dẫn phả lên khuôn mặt ông. Ông nhắm nghiền mắt lại.

      “Do vậy, dựa cơ sở đó, cảnh sát bắt giữ người trong đám thanh niên thuyền cùng chúng tôi chiều hôm ấy. Tên cậu ta là Ali Dossari. Cảnh sát rằng bọn họ có bằng chứng chống lại cậu ta, nhưng tôi cho rằng điều đó là đủ. Bọn họ tuyên bố tìm được phần dấu vân tay đồng hồ của cái xác ấy. Bọn họ phát ra nó trùng khớp với dấu vân tay của Dossari. Tuy nhiên tôi luôn cho rằng dấu vân tay này ở đó trước khi cái hộp bị đánh cắp, lúc chúng tôi mở chiếc hộp ấy thuyền Dossari ở ngay cạnh tôi khi chúng tôi mở nó.”

      “Tất cả những gì cảnh sát thực có chỉ là lời khai.” Ông ta tiếp. “Tôi điều đó chắc chắn. chị cũng hiểu chuyện là thế nào rồi. Dù sao bọn họ cũng truy tố cậu ta vì tội đánh cắp chiếc hộp và phân tán các bộ phận của cái xác khắp thành phố.”

      “Còn ông lại nghĩ cậu ta vô tội?”

      “Tôi chắc là mình nghĩ gì nữa. Nhưng cuối cùng cậu ta được chứng minh là vô tội và được thả.”

      “Theo ông chuyện gì thực xảy ra?” Katya hỏi.

      “Tôi cho rằng trong số những thanh niên tại bến tàu hôm đó có ý định gây rối và đánh cắp chiếc hộp. Tôi biết đó là ai. đáng buồn là chúng tôi bao giờ biết sau đó chuyện gì xảy ra với cái hộp. bao giờ tìm lại nó được nữa. Có thể chính cậu thanh niên này phân tán các bộ phận đó, hoặc có thể là người khác. Quả thực, có thể là bất cứ ai. Dù sao điều đó cũng làm phá sản cuộc điều tra của chúng tôi.”

      “Ông có phát ra nạn nhân là ai ạ?”

      . Chúng tôi bị mất chiếc đầu, cho nên dựng lại khuôn mặt để tiếp tục điều tra được. Chúng tôi cố khớp dấu vân tay của nạn nhân với số người mất tích tại thời điểm đó nhưng thu hoạch được gì hết. Tôi hiểu đó là vụ án khó phá, và với những chứng cứ sai lạc như vậy nó lại càng khó khăn hơn. Chính vụ án này đến giờ vẫn khiến tôi day đứt. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm vì bảo vệ được chứng cứ cũng. Nhưng tôi cũng cảm thấy thất vọng. Tôi nghiên cứu lại vụ án này rất nhiều lần và đều phát được gì cả. Điều tốt đẹp duy nhất mà tôi rút ra được từ đó là tôi thấy mình phải có trách nhiệm và vô cùng khó chịu bởi những việc làm của Đội Trọng án đến mức tự mình điều tra vụ này. Đó là toàn bộ nguyên nhân tại sao ngay từ đầu tôi tham gia vào Đội Trọng án. Tôi đành mười lăm năm làm việc phục vụ cộng đồng, và tôi hoàn toàn có thể rằng đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất trong nghiệp của mình.”

      Katya lĩnh hội câu chuyện cách nhàng. “Ông đóng dấu lên tất cả những bức ảnh của mình ạ?”

      “Đúng vậy.” Sa’ud mỉm cười. “Ngày nay có thể cho rằng chuyện đó kỳ quặc, nhưng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về công việc của mình - Tôi thích ghi tên và sắp xếp ngăn nắp mọi thứ.”

      “Ông có vô tình có được bức ảnh nào trong vụ Osiris ạ?” hỏi. “Vụ này giống với vụ chúng tôi điều tra giờ.”

      “Có, đúng là tôi có các bức ảnh. Nhưng nếu cho rằng trong những cậu thanh niên đó liên quan đến vụ án, chậm chân. Tôi đưa các bức ảnh đó cho thám tử ở Trung tâm rồi.”

      “Ồ.” Katya . “Ai vậy ạ?”

      “Thanh tra Mu'tazz. Ông ta đến gặp tôi hơn tuần trước.” Nhận thấy vẻ bất ngờ của Katya, ông thêm. “May thay tôi có giữ bộ ảnh rửa từ tất cả những bức ảnh và hồ sơ vụ án của tôi. Ông ta cần hồ sơ - ông ta giữ bản sao hồ sơ của số vụ bỏ ngỏ của ông ta. Nhưng ông ta muốn lấy ảnh. Chắc hẳn chúng còn trong hồ sơ đó. Giúp tôi đứng lên nào.”

      Bọn họ giúp Sa’ud đứng dậy rồi theo ông vào trong nhà, qua gian bếp, ở đó có phụ nữ trẻ cuống cuồng che mặt lại, rồi họ lên dãy bậc thang dài để lên tầng hai.

      Katya vẫn còn choáng váng bởi thông tin Mu'tazz đến gặp Sa’ud và có vẻ ông ta hề với Ibrahim. Chắc chắn ông ta được nghe điều gì đó từ ông già này, và nếu Ibrahim biết chuyện hẳn ông với . Chẳng lẽ lại ?

      Họ bước vào căn phòng sạch và sáng sủa. Chiếc bàn làm việc và bộ ghế bằng kim loại, vài chiếc tủ có ngăn kéo đựng hồ sơ , và hai tấm bản đồ tường là tất cả đồ đạc trong phòng. Sa’ud mở ngăn kéo ở tầm thấp của chiếc tủ và rút ra tập hồ sơ dày. Trong đó là ảnh chụp tất cả các bộ phận của cái xác trong vụ Osiris. Ông đặt chúng lên bàn. Trong khi Katya xem xét, Sa’ud đến bên tấm bản đồ cài những chiếc đinh ghim lên những địa điểm mà mỗi bộ phận được tìm thấy dựa danh sách cũ mà Nayir đọc cho ông.

      “Mu'tazz có nhiều với ông về vụ án này ạ?” Katya hỏi.

      nhiều lắm.” Sa’ud . “Chỉ là bọn họ tìm được bàn tay phụ nữ bị chặt phố Falasteen.”

      “Chúng cháu còn phát địa điểm chôn cất ngoài sa mạc có mười chín xác phụ nữ được sắp đặt tư thế theo các chữ cái mà ghép lại thành điệp.”Katya kể và lại cho ông thông điệp đó.

      Ông tròn mắt tin điều vừa nghe. “Các phát ra mười chín cái xác ngoài sa mạc sao?”

      “Vâng. Và những phụ nữ đó đều bị mất tay.”

      “Thế còn cách sắp xếp tại địa điếm chôn cất thế nào?”

      “Bọn họ được chôn theo hình lục giác tương tự như cái hình kia ạ.” chỉ tay vào tấm bản đồ. “Ngoại trừ việc các ông chỉ tìm được mười ba phần mà thôi.”

      “Tên khốn Mu'tazz.” Sa’ud . “ hề gì với tôi. biết đấy, tôi nghĩ việc tôi đảm trách vụ án của khiến khó chịu, và bao giờ tha thứ cho tôi về việc đó. con lừa già. Theo như tôi hiểu cũng phụ trách vụ án này phải ?”

      “Đó có phải điều ông ta ạ?” Katya hỏi.

      “Đúng.”

      “Vâng, ông ta phụ trách vụ án này. Và cháu dám chắc rằng ông ta hề thông báo gì với người phụ trách vụ này về việc ông ta đến đây.”

      Sa’ud bật cười cách khó nhọc.

      Ông đưa cho họ bản sao hồ sơ vụ Osiris. Ông muốn rời xa những bức ảnh cuối cùng của vụ Osiris trong khi ông đưa bộ dự phòng cho Mu'tazz mất rồi. Vì vậy ông sao chụp các bức ảnh cho . Chính trong hồ sơ vụ án có các phân tích về dấu vân tay từ hai bàn tay và các báo cáo về mười bộ phận khác của cái xác được tìm thấy. Katya có cảm giác rằng tập hồ sơ xem ở văn phòng là bản chụp từ bản gốc của Mu'tazz.

      thông báo cho tôi về tiến trình điều tra chứ, phải vậy ?” Ông hỏi.

      “Vâng ạ.” Katya đáp. “Cháu báo lại với ông. Nhưng cháu xin hỏi ông thêm điều nữa. Những thanh niên ở thuyền ngày hôm đó, có ai...?”

      “Ồ, Mu'tazz ông ta hỏi chuyện bọn họ, nhưng tôi vẫn chưa nghe được tin tức gì từ ông ta hết”

      Khi trở lại xe, Katya lớn tiếng : “Em thể tin là Mu'tazz hề gì với Zahrani. Chuyện này có thể thực quan trọng đối với vụ án của bọn em và ông ta che giấu thông tin!”

      “Việc này đáng ngờ, em có nghĩ vậy ?”

      “Đúng vậy, rất đáng ngờ. Ý em phải ông ta là tên sát nhân. Có vẻ ông ta chỉ muốn tự mình phá vụ án này?”

      “Em biết ông ta phải ?”

      Câu hỏi được đặt ra cách tự nhiên, nhưng hiểu đằng sau nó là cái bẫy. “Em hề biết ông ta chút nào - thực ra là em chưa từng chuyện với ông ta. Nhưng em nghe được nhiều chuyện từ những đồng nghiệp khác, và có vẻ ông ta là trong những người bị từ chối thăng bậc nhiều lần hơn bất cứ ai, và ông ta cay cú về điều đó. Có lẽ ông ta cho rằng đây là cơ hội để phá vụ án lớn bởi ông ta biết về vụ án trước đấy. Thậm chí có thể ông ta cho rằng mình có quyền làm như vậy.”

      khí im lặng. Nayir tập trung vào việc lái xe. Lần này, mối nguy hiểm là lái xe gần sát bên phải họ và cố giữ chiếc xe ở vị trí để Katya thấy tấm áp-phích cửa sổ sau xe của . đó có số điện thoại được in cỡ lớn và dòng chữ Tên là Khaled, hãy gọi cho nếu em thích ! Khi Khaled nháy mắt với trong gương chiiếu hậu, thèm đếm xỉa đến gã. Nayir hú còi và gã kia lái xe mất.

      “Có thể Mu'tazz với Zahrani về những việc này rồi, và Zahrani chưa với em sao?” Nayir hỏi.

      “Em khá chắc rằng nếu biết Zahrani với em.”

      “Vậy em chuyện với ông ấy thường xuyên nhỉ.”

      có thể được gì đây? Vâng, hai người bọn em gặp nhau trong phòng vệ sinh ở tầng ba, ở đó ông ấy kể với em về vụ ngoại tình của ông ấy?

      “Thanh tra Zahrani là người khuyến khích phụ nữ tham gia vào các đội điều tra.” . “Và đó là điều tốt. nên nhớ chính em tìm ra mối quan hệ về tư thế của những cái xác đó.”

      “A.”

      “Nhờ con mắt chim ưng của .” thêm.

      gật đầu tỏ vẻ biết ơn về lời khen tặng.

      hiểu là em muốn làm nhiều hơn để phá án.” . “Nhưng thấy phần lớn người tham gia phá án là nam giới.”

      “Đúng vậy.”

      “Và như vậy, để tham gia vào công việc đó, em phải tiếp xúc nhiều hơn với đàn ông.”

      “Đúng vậy.”

      có đội điều tra trọng án nào chỉ toàn phụ nữ thôi sao?”

      có. Chỉ có nam giới, với hỗ trợ của nữ giới thôi.”

      trở nên im lặng. nhìn lần nữa, mong nhận ra chút thương, thứ gì đó làm dịu cảm giác lúc này giữa họ và nhắc nhở vì sao cưới , nhưng gương mặt tối sầm và khó chịu.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :