Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt - Zoe Ferraris [Trinh thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 10

      Jamila đứng trước cửa phòng khách. Người bà ta ngấn từng lớp mỡ chắc nịch, phần bụng, phần hông to lớn, tất cả đều lộ ra khá dưới trang phục bó sát. Ở mặt trước chiếc váy mặc ở nhà với những đường thêu tinh tế, chưng hẳn tấm vải hình vuông rất lớn với đám lông thú nhân tạo mọc ra ở những điểm kỳ quặc và tự dưng ở góc lại dài cách bất thường. Ibrahim gọi chiếc váy đó của bà ta là váy khỉ đột.

      Trời vẫn còn quá sớm để chưng diện kiểu như thế. Nhưng ràng bà ta ra ngoài. Bà ta vẫn mặc chiếc áo trùm đen bên ngoài chiếc váy. Chiếc áo phanh ra. Chiếc khăn trùm đầu cũng ở trạng thái luộm thuộm như vậy. Chiếc khăn lửng lơ ở nửa dưới sau gáy bà ta, để lộ toàn bộ mái tóc mỏng thưa thớt với màu tím ánh đỏ. kết hợp tham lam giữa cây lá móng và thuốc nhuộm màu đỏ tía từ cây hoa râm bụt. Ông tự hỏi hiểu bà ta đâu vào buổi sáng thứ Hai từ sớm tinh mơ đến vậy.

      “Cho bố con biết . Cho bố con biết vị thầy tu đó làm gì .” Bà ta kéo đứa con lớn nhất, Farrah vào phòng và đẩy con bé về phía ông Jamila. Ông muốn đưa Farrah đến Cairo để được điều trị tốt hơn, nhưng Jamila khăng khăng rằng họ thử hết các phương pháp điều trị y khoa rồi và đến lúc phải tìm cách thức tâm linh. trăm nghìn riyal chỉ cho bác sĩ đủ để chứng thực việc Farrah chỉ đơn giản là bị ốm, con bé bị ma ám. Chừng nào con ma đó còn chưa được đuổi , Farrah vẫn còn khổ sở.

      “Con có thể cử động được rồi.” Farrah vừa vừa vung tay, xoay người.

      “Vậy chuyện là thế nào con?” Farrah quay lưng lại và vén đuôi áo lên. Ông giữ phần đuôi áo trong khi tháo dải băng quấn, để lộ ra thứ kỳ dị khiến ông chỉ muốn ói. Làn da mềm mại lưng bị tàn phá bởi tấm thép nung. dường lằn sưng tấy sâu đến cả phân, bên ngoài đỏ ửng lên, ở chính giữa thâm tím, bị nhiễm trùng chỉ ngay phần xương hông của .

      “Bọn họ làm cái quái quỷ gì thế này?” Ông hỏi.

      “Đây là cách họ đuổi hồn ma đó .” Farrah vừa trả lời vừa quấn lại dải băng. “Bằng cách tạo thêm đau đớn bên ngoài, nó giúp xua tan cái đau ở bên trong. Bố có hiểu những gì con ạ?”

      “Con có hiểu những gì con hả?”

      “Nó có hiệu quả ạ.” nhàng đáp. Rồi quay qua với mẹ mình với vầng hào quang chở che của bà ta.

      Ông cố chống lại cơn thịnh nộ phun trào, từng giọi dung nham màu đen vào mắt ông khiến tất cả những gì ông có thể thấy chỉ là đống hỗn độn trong phòng.

      “Đó mới chính là thuốc thực .” Jamila vừa vừa chỉ vào lưng của Farrah khi bà ta đưa con ra khỏi phòng.

      Ibrahim muốn phản ứng. Ông bước vào phòng vệ sinh để tắm rửa. Nước lạnh. Sàn gạch ấm. Đôi tay nóng ran vì tức giận. Tấm thảm cầu nguyện của ông gần như mòn trụi vì nhiều năm quỳ gối. Ông quay mặt về phía cửa ban công. Những lời nguyện cầu như tuôn trào vì vô thức, tâm trí ông trống rỗng, cố kìm nén những lời nguyện cầu lòng dấy lên trong mình, đau đớn tột cùng khi nghĩ đến điều đó. Lạy Chúa, làm ơn trả lại Sabria cho con, hãy trả lại ấy cho con.

      Trước khi ông cầu nguyện xong, Jamila chờ sẵn ngoài cửa phòng khách. Bà ta rất tức giận vì im lặng của ông. Bà ta bắt đầu quét cầu thang. Và những lời nhiếc móc bắt đầu. Chuyện gì đó về việc cặp song sinh phải tự làm bài tập về nhà và đáng ra chúng nên cùng bà đến gặp thầy đuổi ma bởi rất có thể chính chúng bị ma nhập hồn, nhưng bố chúng chẳng bao giờ có mặt ở nhà, nên còn cách lựa chọn nào nữa đâu? Nhưng chuyện đó cũng chẳng hề làm bà ta ngạc nhiên. Ông ràng là kiểu người luôn trốn tránh. Ông thậm chí còn nhìn vào thực rằng con trai mình phải ly dị - thứ đáng lý chỉ mất có vài giây. Phải câu “Tôi ly dị ” ba lần trước mặt hai nhân chứng mất bao lâu chứ? Nếu có mỗi việc đó mà ông còn làm được, hiểu ông còn làm được việc gì khác?

      Những lời chì chiết đó chỉ ngừng khi ông phải ngăn nó lại.

      Ông qua ngay trước mặt bà ta rồi bước xuống nhà, ra khỏi cửa, rồi hòa vào đường phố ngột ngạt.

      Khoảng hai mươi năm về trước, và vì lý do gì cho đến giờ vẫn hoàn toàn mơ hồ, trai Omar của ông vứt bỏ toàn bộ khoản tiết kiệm của mình ra bằng tiền mặt. Ibrahim vẫn còn nhớ ngân hàng đó. Nó nằm trong khu thương mại sầm uất có bãi đỗ xe rộng lớn, thường chật cứng vì nhà hàng gần đấy nổi tiếng với món cà ri thượng hạng. trai ông bỏ quên ba mươi nghìn riyal trong chiếc túi nhựa đặt ở ghế trước ô-tô rồi vào nhà hàng. Nửa tiếng sau ông quay lại thấy mình quên kéo kính cửa sổ xe và còn để xe khóa nữa. Số tiền vẫn còn nguyên băng ghế trong khi hóa đơn lủng lẳng bên ngoài cách mời gọi. riyal nào bị mất. Thỉnh thoàng Omar lại nhắc lại chuyện đó như minh chứng cho hình phạt chặt bàn tay của Ả Rập Xê-út là có hiệu quả ngăn chặn nạn trộm cắp. Nhưng Ibrahim đồng tình. Ông cho rằng trung thực là do bốc đồng muốn làm hài lòng người khác. may thay, dối trá cũng vậy. Và ngày hôm đó trai ông may mắn.

      Tòa nhà của Omar nằm ngay cạnh tòa nhà của Ibrahim, trông y hệt những tòa nhà khác cùng phía đó của con đường: mặt trước bằng bê tông phẳng lỳ, bạn công thụt vào trong, những bức tường cao ở bao quanh cái vòm mở. Có câu chuyện vui - tuy ngớ ngẩn, nhưng ngạc nhiên thay lại rất phổ biến - rằng hai em mua hai ngôi nhà giống nhau vì cả hai làm ở Đội Điệp vụ, nên nếu ai theo dõi trong hai người này, gần như thể phân biệt trong hai ngôi nhà ấy.

      Omar bước vào phòng khách tóc tai rồi bời.

      “Vẫn nhớ lần bỏ quên túi tiền trong ô-tô chứ?” Ibrahim hỏi.

      “Tất nhiên là nhớ, sao thế?”

      “Lúc đó may mắn thôi, nhưng trai…”

      “Đừng lại thế với . muốn nghe đâu. chán rồi.”

      “Vận may của sắp tận rồi.” Ibrahim .

      “Ồ, thế à?” Omar nhướn mày.

      Ibrahim nhận thấy vẻ chán ngán gương mặt trai mình. “Có chuyện gì thế?”

      “Tại sao vận may của lại sắp tận vậy?”

      “Em chuyển đến căn phòng trống của .”

      “Lại là Jamila à?”

      Ibrahim gật đầu.

      Omar gầm gừ từ sâu trong miệng, nửa như cười thầm, nửa gầm ghè phẫn nộ, rồi ngồi xuống cạnh em trai. “Thành thực mà nhé: vận may của em với phụ nữ tận từ hai mươi lăm năm trước rồi.”

      đâu có phàn nàn gì.”

      nên phàn nàn hơn.” Omar lắc đầu. Hai người trở lên im lặng. Họ sắp sửa quay trở lại chủ đề quen thuộc, chủ đề trước đây từng đưa họ đến bế tắc mà những dư dường như nguội lạnh - cuộc tranh luận về những người vợ hai. Cụ thể hơn là: liệu họ có nên phá vỡ truyền thống lâu dài của gia đình là lấy nhiều hơn vợ hay ? Ibrahim từng thiên về việc phải bỏ truyền thống đó và tìm kiếm (Internet giúp cho việc này càng thêm dễ dàng). Omar hoàn toàn phản đối ý kiến đó, chỉ bởi truyền thống gia đình mà còn bởi nó hợp khuôn phép chút nào, và đó cũng là điều khủng khiếp đối với vợ của ông dù ông có ghét bà ta tới mức nào chăng nữa. Cuộc tranh luận của họ tới kết cục tồi tệ, khi Ibrahim đổ lỗi cho trai mình hoàn toàn đứng về phía bà vợ đành hanh của ông - buộc tội mà Omar đáp trả ngay. Cả hai hề với nhau lời nào suốt tuần sau đó - khoảng thời gian thể quên được của cả hai em.

      Chuyện đó đưa tới vấn đề sâu xa hơn mà họ ý thức được từ lâu và chưa bao giờ bàn luận; cả hai đều có cuộc hôn nhân bất hạnh và mặc dù có thể giấu giếm bên ngoài xã hội, nhưng trong gia đình điều đó lại gần như thể.

      “Em có việc muốn hỏi.” Ibrahim lên tiếng.

      hy vọng phải về Jamila.”

      “Về công việc.”

      Điều đó khiến Omar ngạc nhiên. Mặc dù họ làm việc cùng bộ phận, nhưng họ thận trọng để công việc ảnh hưởng đến gia đình của mình. Omar chuyển đến Đội Điệp vụ khi Ibrahim vẫn còn nửa chặng đường phấn đấu để lên cấp chánh, và trong thời gian ba năm, Omar vượt lên em mình. giờ ông là phó chánh.

      phải em muốn rời Đội Trọng án đấy chứ?.” Omar hỏi.

      , , em thích ở đó. Chỉ là em đnag phải lo vụ mà em nghĩ có lẽ liên quan đến vụ trước đây Warra phụ trách ở Đội Điệp vụ. Em băn khoăn liệu có thể cho em xem các hồ sơ những vụ án trước đây của Warra được ?”

      “Sao em đến bộ phận lưu trữ hồ sơ?”

      “Em thể nâng mức độ nghiêm trọng của vụ án này. Việc đó có thể gây trở ngại cho việc điều tra của bọn em.”

      Omar lầm bẩm và ngồi thẳng lại. Ibrahim biết ông sắp sửa : Em dối, chuyện gì thực xảy ra vậy? Nhưng hẳn ông nhận ra hoang mang của Ibrahim, vì ông gì cả.

      “Em nghĩ trong số những hồ sơ đó được xếp vào loại hồ sơ mật” Ibrahim .

      Giờ Omar lại ngả mình về trước, mắt nhìn xuống tay. “Chuyện này là thế nào?”

      “Em ước gì mình có thể nhưng em thể” Ibrahim ngồi thẳng người. “Em thực thể. phải tin em.”

      Omar nhìn Ibrahim dò xét.

      “Em chưa bao giờ nhờ việc như thế này.”

      “Chính vậy nên mới khó hiểu…”

      “Và nếu việc đó quan trọng em nhờ rồi”

      Omar thở hắt ra. “Thôi được. Để xem làm được gì.”

      Chiều hôm đó khi Ibrahim bước ra khỏi bãi đỗ xe của cơ quan điện thoại đổ chuông. Đó là Katya.

      “Tôi mang bức ảnh ông gửi tôi đến khu mua sắm đó trong giờ ăn trưa hôm nay.” .

      “Tôi rất cảm kích”

      “Thực ra,” , “tôi mong là mình có được tin tốt lành cho ông. Tôi đưa bức ảnh ra cho cả tá những người bán hàng và ai nhận ra ấy, nên tôi đánh liều quay lại cửa hàng ấy làm việc. Người ở đó cũng nhận ra ấy.”

      “Sao cơ?”

      “Người phụ nữ họ biết có tên là Sabria Gampon hề giống với người trong ảnh. chút nào. Cả ba người phụ nữ ở đây đều đó phải ấy. Thậm chí trông còn giống ấy.”

      “Tôi thể tin được điều này.”

      “Tôi rất lấy làm tiếc. Họ còn cho tôi xem hồ sơ xin việc của ấy nữa.”

      với họ là cảnh sát ?” Ibrahim hỏi.

      , tôi với họ tôi là thám tử tư điều tra vấn đề trộm cắp mà ta từng thực doanh nghiệp khác. Tôi xin lỗi, có lẽ tôi nên như vậy, nhưng cách đó khiến họ rất nhiệt tình. Dù sao họ cũng cho tôi bản sao đơn xin việc của ấy và tôi nghĩ chắc ông muốn xem qua nó. Có lẽ ông nhận ra chữ viết tay của ấy - hoặc là .”

      “Đúng rồi, tốt lắm. mang nó lên phòng làm việc của tôi được ?”

      “Tôi để nó trong hộp thư của ông rồi.” Katya .

      “Cảm ơn ” Ông đáp. “Tôi đánh giá cao thận trọng của trong việc này.”

      “Tất nhiên là tôi phải thận trọng.” . “Và còn điều nữa. Tôi đối chiếu đơn xin việc với thông tin thị thực của ấy, và dù ai điền lá đơn đó cũng biết chính xác số thẻ căn cước trong hồ sơ xin thị thực.”

      “Tôi hiểu.” Ông với giọng cố gắng để tập trung. “Vậy là người tự nhận là Sabria có quyền truy cập các thông tin nhập cư của ấy.”

      “Đúng vậy.”

      Ông ngồi trong ô-tô khoảng hai mươi phút chỉ nhìn chăm chăm vào vô lăng. Sabria phải là Sabria sao? Có, ấy có chứ. ấy luôn luôn là Sabria. Bọn họ điều tra kỹ lý lịch ở Đội Điệp vụ trước khi thuê ấy làm việc cơ mà. Tất nhiên ấy tự nhận mình là người khác khi thực nhiệm vụ, nhưng theo những gì ông được biết chưa bao giờ thuê ai đóng giả mình cả - và chắc chắn vậy. Bởi vì Sabria của ông đời nào lại nhận công việc ở cửa hàng rồi lại lấy trộm túi xách và khiến mình bị đuổi việc trong vòng có sáu tuần, mà sau đó lại gì với ông hết. Hơn nữa bằng chứng mới thu được của Katya củng cố giả định này; ai ở cửa hàng đó nhận ra bức ảnh của . ràng Sabria biết người phụ nữ đó nhận công việc mà phải nhận, làm công việc mà phải làm.

      Đột nhiên có vẻ Sabria hề bỏ trốn, có thể tham gia hoạt động điệp viên nào đó của chính mình - bí mật đến mức phải lẩn tránh ngay cả Ibrahim - và nhiệm vụ đó, vì lý do nào đấy, xảy ra vấn đề bất trắc.

      Chương 11

      Bọn họ xem xét kỹ lưỡng cơ sở dữ liệu quốc gia về những người mất tích và tìm được trường hợp phù hợp với trong những phác họa của mười tám nạn nhân còn lại. trường hợp tệ. Maria Reyes. này mất tích ở Jeddah. Ba năm trước, ta nhập cảnh theo thị thực hành hương tới thánh địa Mecca, và hình như ở quá hai tuần so với thời gian cho phép. Họ có bất cứ lưu trữ nào về việc ta xuất cảnh. ta theo chuyến du lịch hành hương toàn phụ nữ đến từ Philippiness, có người dẫn đường. Đối với hầu hết những phụ nữ Hồi giáo ngoại quốc và xa mình, những chuyến du lịch hành hương như vậy là cách duy nhất để họ đến Mecca. Theo người dẫn đường cho biết, Reyes biến mất hai ngày trước khi chuyến kết thúc. Công ty tổ chức chuyến ngờ rằng ta chạy trốn để tìm việc làm bất hợp pháp. ai nghe nhắc đến ta thêm lần nào nữa.

      Ba năm là khoảng thời gian dài để có thể lần lại dấu vết. Ibrahim ngờ rằng công ty tổ chức chuyến đến thời điểm này thay đổi nhân viên. Tuy nhiên, người đàn ông phụ trách các chuyến hành hương tới Mecca, Bengino Dimzon, vẫn nhớ Reyes. Việc người phụ nữ biến mất khỏi chuyến của ông ta là việc bất thường. Công ty đó, tên là Dar el Hijaz, rất cẩn thận để mắt đến những người phụ nữ độc thân: buổi đêm, các nhân viên đều đưa từng người trong số bọn họ đến tận phòng khách sạn và bảo vệ gác bên ngoài lối vào khách sạn để đảm bảo ai rời khỏi đó.

      “Vậy làm thế nào mà ta trốn thoát được?” Ibrahim hỏi.

      Bọn họ ngồi trong văn phòng của Dimzon, căn phòng , sáng sủa, có mùi như chất khử mùi trong ô-tô. Đó là sáng ngày thứ ba, ngay sau lễ cầu nguyện thứ hai trong ngày. Những tia nắng chói xiên qua rèm cửa hắt lên mặt Dimzon. “Tôi vẫn chắc chuyện xảy ra thế nào.” Ông ta . “Có điểm dừng trong chuyến mà chúng tôi cho phép những phụ nữ đó mua sắm những thứ cần thiết - tất nhiên là để phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Chúng tôi tháp tùng họ vào trung tâm mua sắm và ở bên cạnh họ suốt thời gian đó. Chúng tôi chưa bao giờ để xảy ra vấn đề gì trong suốt bảy năm thực chuyến này - ngoại trừ trường hợp của Reyes. Phần lớn những người phụ nữ tham gia chuyến đều phải người nghèo. Họ đến đây để tìm việc làm. Họ là những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo và họ đến đây để hành hương tới thánh địa Mecca rồi trở về nhà. Chúng tôi tính phí rất cao và còn cầu đặt cọc khoản tiền lớn mà họ được trả lại khi trở về Philippines. Chính vì vậy mà ông thấy đấy, chúng tôi thường gặp phải vấn đề gì.”

      “Tôi chắc ông có danh tiếng rất tuyệt vời.” Ibrahim . “Tôi chỉ muốn biết chắc chuyện gì xảy ra khi Reyes biến mất thôi”

      “À, thực ra.” Dimzon ngồi thẳng lên. Ông ta là người có thân hình gọn gàng, nét mặt tươi vui và đôi mắt sáng lúc này đnag ánh lên vẻ ưu tư xa xăm. “Những người phụ nữ ở trung tâm mua sắm đều che khăn kín ngoại trừ khuôn mặt. Ông thấy đấy, chúng tôi muốn nhận diện họ ở nơi công cộng nên đề nghị họ để lộ khuôn mặt. Nếu bất cứ ai trong số họ có khó khăn gì với việc đó, chúng tôi đưa cho họ dải băng để gắn vào vai bên này.” Ông ta chỉ tay vào vai trái. “Nhờ đó chúng tôi nhận ra ai là người trong nhóm của mình và ai . Maria cũng đeo rải băng đó. Chính tôi là người để ý đến ấy, và hơn thế, ấy còn đứng rất gần tôi nữa. Tôi quay sang chuyện với nhân viên thu ngân và khi quay lại, ấy biến mất.”

      “Và ông ngay lập tức nhận ra điều đó?”

      “Vâng. Tôi nghĩ là ấy lẫn vào đám phụ nữ đó. Tất cả đều xếp hàng chờ tính tiền. Nhưng khi tôi xuống cuối hàng thấy ấy ở đó. ấy chắc chắn tháo bỏ dải băng và lẻn mất. Hẳn là ấy dự tính trước việc này.”

      Ibrahim có cảm giác người đàn ông này .

      Dimzon tiếp tục. “Ngay lập tức tôi hỏi mọi người; chị có thấy Maria ? ai để ý đến việc ấy khỏi đó. người phụ nữ hình như bà ta thấy ấy xuống phía cuối hàng, nhưng có thể đó là ai khác, vì Maria vẫn che mặt. Tuy nhiên bọn họ vẫn mải chuyện trò, ngắm nghía mọi thứ khi đứng xếp hàng chờ thanh toán. Liệu có nên mua cái này ? Trông cái kia có dễ thương ? Ông cũng biết chuyện thế nào rồi đấy. Chẳng ai thực để ý cả.”

      có ai khác quanh đó sao? Ý tôi là có những người lạ nào gần đó ? Có ai mà ông nhớ là thuộc nhóm đó chẳng hạn?”

      có ai đặc biệt cả. Có rất nhiều người trong khu mua sắm đó. Rất đông.”

      Chuyện xảy ra dễ dàng như vậy. Tất cả những gì ta phải làm là che mặt, che tay lại; chiếc áo choàng và khăn chùm đầu che kín những phần còn lại. phụ nữ trong chiếc áo trùm đen có thể biền mất như cái bóng hòa vào bóng tối của ngõ hẻm. Cho dù Dimzon có phát ra ta chăng nữa, vẫn rất khó đuổi theo. Ông ta rất dễ nhầm ta với ai đó, và nếu mọi người hiểu lầm ông ta quấy rối phụ nữ lạ mặt ở nơi công cộng có hỗn loạn.

      Kể từ phút giây Maria Reyes rời khỏi khu mua sắm đó, ta trở nên danh và tự do. Phải chăng đó là giải phóng? Liệu có phải ta khao khát giành lấy nó? ta có thể trở thành bất cứ lao động ngoại quốc người Philippines nào, cho dù là lao động bất hợp pháp chăng nữa; những lao động ngoại quốc người Philippines rất được ưa chuộng. Hay trốn thoát bất ngờ đó chỉ đầy sợ hãi và tuyệt vọng? Theo thẩm tra y tế, Reyes chết gần sáu tháng sau khi mất tích. Có vẻ ta bị bắt cóc vào chính cái ngày mất tích, nhưng cũng có khả năng như vậy lắm chứ. Tên sát nhân có thể bắt và giam giữ ta hàng tháng trời trước khi giết. Khu mua sắm đó hề gần khu vực mà Cortez, nạn nhân được nhận diện khác, bị mất tích. Ibrahim hiểu hằng rất khó tìm ra mối liên hệ giữa hai trường hợp này. Điều duy nhất ràng là họ cần nhiều thông tin hơn nữa.

      Chương 12

      Có lẽ là do vừa nhận lời cầu hôn của Nayir nên Katya thấy vô cùng hoang mang khi ngồi vào chiếc SUV cùng với Ibrahim. Nỗi sợ hãi có vẻ gì đó khác biệt so với trước đây, khi taxi hay trong trường hợp hãn hữu là ngồi cùng xe tuần tra với Osama. chỉ đơn giản là câu hỏi Chuyện gì xảy ra nếu bố mình biết việc này? Mà bây giờ còn là Chuyện gì xảy ra nếu vị hôn phu của mình biết việc này? Chuyện gì xảy ra nếu ấy tức giận hay nghi ngờ rồi hủy đám cưới? Và có cả tá các câu hỏi khác nữa rằng Chuyện gì xảy ra nếu Irbrahim phát ra rằng mình thực chưa kết hôn? Chuyện gì xảy ra nếu ông ấy báo cáo với Chánh Riyadh? Liệu mình có mất việc như Faiza tháng trước ?

      hạ tấm khăn che mặt xuống và ngồi vào băng ghế sau trước khi Ibrahim kịp phản ứng. Hẳn là cân nhắc hành động làm màu này tuần trước đó, nhất là hạ mình xuống bậc thấp kém hơn và chấp nhận phân biệt. Nhưng giờ điều đó là cần thiết. Nếu ai đó bắt gặp , ít ra có thể rằng mình ngồi ở băng ghế sau và che chắn đàng hoàng.

      Ibrahim có vẻ ngạc nhiên khi vào xe. Ông quay xuống và chăm chú nhìn . “Tôi ngại đâu nếu ngồi ghế trước.” Ông .

      “Tôi thấy ổn, cảm ơn ông.”

      Ông ra hiệu về khu vực đỗ xe ở chung quanh họ. “ có ai nhìn đâu.”

      “Tôi ổn mà”

      có thể nhận thấy điều đó khiến ông bối rối. Cũng dễ hiểu thôi bởi người mà tỏ thái độ làm màu lại chính là người đàn ông có tư tưởng tự do nhất ở Cục. Ibrahim nổ máy và lái xe ra khỏi khu vực bãi đỗ.

      “Tôi làm việc với nhiều phụ nữ ở Đội Điệp vụ.” Ông . “Rất khó thuê phụ nữ. Họ phải có kinh nghiệm nghiệp vụ cảnh sát, và hầu hết những phụ nữ như vậy lại có chồng và chồng họ thích ý tưởng vợ mình giả làm đó trong vài tháng và tự đặt mình vào vòng nguy nan. Thêm nữa, các ông chồng phải chăm sóc đám trẻ. Thực tế là chúng tôi lần phải đưa phụ nữ ra khỏi nhiệm vụ bởi chồng ta làm thế nào đưa con bác sĩ được.”

      Katya khịt khịt mũi. “Có phải ông gặp Sabria như vậy - khi ở Đội Điệp vụ ấy?”

      “Đúng vậy.” Ông nhìn Katya dò xét qua gương chiếu hậu, chăm chú nhìn vào đôi mắt . “Chúng tôi làm việc cùng nhau, quan hệ của chúng tôi sau đó mới tiến triển, sau khi ấy thôi việc.”

      Ibrahim gọi điện cho Katya từ sáng sớm hôm đó để hỏi liệu có sẵn lòng tìm bằng chứng pháp lý ở căn hộ của Sabria . Hôm đó là thứ Tư và ông mong là việc này được thực trước thứ Năm, ngày bắt đầu của kỳ nghỉ cuối tuần, khi đó phần lớn hàng xóm của Sabria ở nhà.

      tự nhủ rằng tiếp tục công việc này bởi lẽ nếu có chuyện gì hay xảy ra với Sabria, cảm thấy khó xử khi biết mình giúp gì cả. Tuy vậy, thực tham gia vào vụ này là vì Ibrahim phụ trách vụ giết người hàng loạt đó, và nếu đây là việc phải làm để tham gia điều tra làm.

      Bên cạnh băng ghế sau là chiếc túi vải len thô đựng bộ dụng cụ lưu động dùng tìm kiếm bằng chứng. nâng niu cái túi màu đen này hàng tuần nay rồi, nhét đầy trong đó nào những chiếc hộp nhựa nhiều lớp mới tinh, nào túi, ống tiêm, tất cả những dụng cụ có thể lấy được ở phòng thí nghiệm. tính là sử dụng nó trong tình huống khẩn cấp khi Cục có lệnh gọi ra trường. Nhưng rốt cuộc sáng nay lại là lần đầu tiên nó được dùng.

      “Ông xem qua đơn xin việc của Sabria chưa? Tài liệu tôi để lại trong hộp thư của ông ấy?” hỏi.

      “Có.” Ông đáp. “Nó có vẻ giống chữ viết tay của ấy.”

      “Như vậy là ấy điền vào mẫu đơn.” Katya . “Nhưng người khác nhận công việc ấy?”

      “Đó là phán đoán hợp lý nhất của tôi.” Ông trả lời. “Tuy tôi thể với là tại sao.”

      Qua cách mà ông đánh xe vào khu đỗ dưới tòa nhà của Sabria. Katya có cảm giác là ông làm việc này tới hàng nghìn lần rồi. Ông ngỏ ý muốn mang giúp bộ đồ nghề nhưng muốn tự mang, và họ vào thang máy để lên tầng tư.

      “Tôi vẫn cho rằng ông nên khai báo về trường hợp mất tích của ấy.” Katya . “Nhưng danh, thế là ổn.”

      “Cảnh sát làm được việc gì mà tôi thể làm đâu.”

      “Vậy sao tìm giúp đỡ chứ?”

      “Tôi xin giúp đỡ đấy thôi.” Ông đáp.

      Ibrahim mở cửa bằng chìa khóa của mình. Căn hộ của Sabria nhắn, được trải thảm trắng sáng với những đồ đạc giản đơn. Điều đầu tiên Katya nhận thấy đó là việc gần như thiếu vắng những thứ mang dấu ấn cá nhân hay nỗi hoài hương. có bức ảnh gia đình hay bạn bè nào. có sách hoặc đồ trang trí lặt vặt. có gì khác ngoài hai chiếc sô-pha đôi và chiếc ti vi chiếc tủ có ngăn kéo. vài chiếc cốc rỗng bày bừa bàn cà phê. Katya tha thẩn bước vào bếp, phòng ngủ và phòng tắm. Căn hộ có phạm vi dành cho hộ gia đình, và ngoài vài thứ đồ trong nhà vệ sinh và quần áo trong tủ, chẳng có gì đặc biệt về căn hộ này cả. Bất cứ ai cũng có thể sống ở đây.

      ấy có bức ảnh nào hoặc vật dụng cá nhân nào sao?” Katya hỏi.

      Bọn họ đứng trong bếp. Ibrahim nhìn quanh như thể với ông thiếu vắng của những đồ vật này mới xảy ra thôi. “ ấy có nhiều đồ đạc lắm.” Ông . “ ấy lưu tất cả ảnh máy tính của mình.”

      “Vậy nó đâu?”

      Ông đưa Katya quay ra phòng khách và mở cửa tủ dưới ti-vi. Có tấm thảm gập để cầu nguyện, lọ nước hoa, và vài băng video cũ kỹ.

      “Nó biến mất rồi.”

      “Máy tính xách tay ấy à?”

      “Đúng vậy.” Ông đứng dậy với vẻ run rẩy.

      Katya ngồi xuống ghế sô-pha và bắt đầu phủi bụi chiếc bàn cà phê để lấy dấu vân tay.

      “Sabria mang theo nhiều đồ đạc khi đến Jeddah.” Ibrahim . “Và mọi thứ ấy có mất khi ấy rời bỏ tay chủ đầu tiên.”

      “Ông ta là ai vậy?”

      ấy làm giúp việc trong năm, đó là công việc bị ngược đãi nên ấy bỏ trốn.”

      “Nhưng vài năm rồi, phải vậy ?”

      “Khoảng năm năm trước.”

      “Vậy ấy phải có cả núi thời gian để tích nhiều đồ đạc hơn thế này chứ” Katya .

      ấy hẳn là người hay mua sắm.”

      “Làm thế nào ấy trả được tiền thuê căn hộ này?”

      “Tôi là người trả.” Ibrahim . “Tôi trả tiền cho tất cả mọi thứ, bao gồm tiền điện thoại, tiền ăn, và…bất cứ gì ấy cần, cũng nhiều tiền lắm.”

      Katya gật đầu.

      nghĩ gì vậy?” Ông hỏi. “Tại sao ấy lại làm trong khi tôi lo cho ấy mọi thứ phải ?”

      “Đại loại là như vậy. Vấn đề là, ấy hề làm việc. Ít ra là ở nơi ấy . Nhưng giả định là điều đó đúng nữa, ông nghĩ ấy làm gì với số tiền kiếm được. ấy tiêu gì cả. Điều đó khiến ông lấy làm lạ sao?”

      Ông nhún vai. “Tôi chỉ cho rằng ấy tiết kiệm tiền.”

      bao giờ ông hỏi ấy chưa?”

      hẳn.” Ông bước trở vào bếp. Katya làm sạch bụi những chiếc cốc bàn cà phê để tìm dấu vân tay và nghĩ đến bố mình, người cũng có phản ứng tương tự khi phải đối mặt với những câu hỏi khó bằng cách rút vào trong bếp và tìm thứ gì đó ăn.

      “Vẫn còn sữa trong tủ lạnh.” Ông khi trở ra phòng khách.

      ngẩng lên.

      “Nguyên lít. Ngày nào ấy cũng uống sữa. Nếu có ý định rời ấy mua sữa.”

      ai trong gia đình ông biết chút nào về việc ông gặp gỡ ấy sao?” Katya hỏi.

      nhận ra chút đắn đo. “Phải”

      “Ông hoàn toàn chắc chứ?”

      “Chắc.” Giờ ông lại làm ra vẻ bối rối của người cha. “Cứ tin tôi , nếu có bất cứ ai biết chuyện này, hẳn quãng đời còn lại của tôi lúc này tan nát rồi.”

      “Thế còn bạn bè hay đồng nghiệp của ông?”

      “Chúng tôi vô cùng thận trọng giấu kín chuyện này trước mắt mọi người.” Ông nhìn với ánh mắt khổ sở. “Nó hoàn toàn hợp pháp, cũng biết đấy.”

      “Thế còn hàng xóm?” Katya hỏi.

      “Họ hoàn toàn quan tâm”

      “Ông gặp gỡ ấy lâu chưa?”

      “Được hai năm rồi.”

      “Tại sao ông cưới ấy?”

      “Vì ấy kết hôn, với cái tên cưỡng hiếp ấy và kẻ mà ấy bao giờ muốn gặp lại.”

      Katya chậm rãi gật đầu.

      Ibrahim ngồi xuống ghế sô-pha. “Tôi hiểu nghĩ gì, Điều gì xảy ra nếu chỉ là ấy bỏ ?”

      “Ông phải chấp nhận, có thể là vậy, kể cả với phần sữa còn lại trong tủ kia chăng nữa. Đôi khi con người ta có những quyết định bột phát.”

      “Hẳn rồi.” Có vẻ như ông thể thấy thoải mái chiếc trường kỷ nên ông đứng lên và bước về phía cửa sổ trước nhà. Ông đứng ở sát cạnh và nhòm qua khe mà tấm chắn gồ hoàn toàn khít với khung cửa. “Chúng tôi thậm chí còn mở cửa sổ.” Ông vừa vừa ra hiệu về phía tấm chắn đó. “Chúng tôi nhờ người lắp nó và lúc nào cũng đóng nó lại. Chúng tôi hầu như bao giờ ra ngoài ăn uống, nhưng thỉnh thoảng có đến những bãi biển tư nhân. Chúng tôi cố gắng gọi cho nhau quá nhiều, và dùng bí danh khi gọi điện. Trong điện thoại của tôi, tôi lưu tên ấy là Muhammed. Thậm chí còn có họ. Chúng tôi rất cẩn trọng.”

      Đối với Katya như thế khác nào bị cầm tù.

      “Đúng vậy” Ông tiếp. “Có lẽ ấy chán ngán chuyện này rồi. Dù sao nữa ấy chưa bao giờ giống người Ả rập cả. ấy thể hiểu sao mọi người ở đây lại hành động như vậy. ấy được nuôi dạy như tín đồ Hồi giáo. ấy cho rằng mình là phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo, cho đến khi ấy đặt chân lên thành phố nào. “Nơi này có thánh dịa Mecca.” ấy vẫn thế. “Nhưng con người ta hành xử giống với tôn giáo của em.” Điều đó khiến ấy thất vọng.”

      Katya làm sạch bụi và đứng dậy. “Tôi kiểm tra phòng ngủ.”

      Ibrahim bước tới và đứng chắn đường . “Tôi nghĩ về tất cả những điều này. Tôi nghĩ nghĩ lại biết bao nhiêu lần rồi. Tôi chắc chắn có chuyện hay xảy ra. Linh cảm của tôi mách bảo tôi như vậy, và khi nào linh cảm với tôi điều gì đó thường là đúng. Tôi tin như vậy. Nhưng lúc này … Tôi biết nữa.”

      “Vẫn còn khả năng mà ông chưa tính đến.” Katya .

      “Hãy tin tôi, tôi tính hết tất cả rồi.”

      “Vậy ông nghĩ đến có thể việc này liên quan đến vụ án đó?”

      “Vụ án giết người hàng loạt sao?”

      “Đúng vậy.”

      Ibrahim hắng giọng. “Thôi được, có, nó có lướt qua trong suy nghĩ của tôi.” Ông lắc đầu. Katya có thể thấy ông chán nản, nửa tâm trí ông vẫn băn khoăn. Nếu ấy bỏ sao?

      kiểm tra phòng ngủ, nhưng nó cũng được trang trí đơn điệu như những căn phòng khác.

      Quay ra, nhận thấy có vật gì đó lấp lánh ánh lên tấm thảm trải hành lang bên ngoài cửa căn hộ. Trông nó như cái đinh. cúi người xem xét kỹ nó và thấy vết bẩn của thứ gì đấy. vội vàng mở hộp dụng cụ, lấy miếng gạc.

      “Có máu.” . Ibrahim quỳ xuống để xem. Chiếc đinh bị kẹt dưới sàn nhà. Ai đó đạp chân lên nó. Katya xem xét kỹ phần mũ nhựa bé xíu phía dưới chiếc đinh. Có vẻ nó bị rơi ra từ đôi dép xỏ ngón hoặc loại xăng-đan rẻ tiền. “Chắc chắn nó là của người nào đấy đến căn hộ này.” . Họ ở cuối hành lang, có nhà hàng xóm nào gần đây.

      “Có thể là máu của ấy.” Ibrahim .

      ấy có xăng đan ?”

      “Có. Lúc nào cũng vậy.”

      Họ đứng dậy. “Chỉ là đề phòng.” Katya . “tôi phải thử DNA của ông nữa.”

      Ibrahim gật đầu và há miệng để thấm ướt tấm gạc.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 13

      Ibrahim lái xe đưa cả hai người hướng về phía nam tới khu ngoại vi Kandara. Ông đỗ xe gần khu gầm cầu đường Sitteen, cây cầu vượt con đường cao tốc khổng lồ. Khu vực gầm cầu chính là bến xe bus nhộn nhịp.

      Phía dưới cây cầu, con đường dành cho người bộ bằng bê-tông khá rộng là khu nhà ổ chuột mà Katya chỉ có thể thấy những cảnh quay của bản tin thời - và ngay cả như vậy nữa, chỉ có trong những đoạn phim về khu vực nghèo khổ, tuyệt vọng giống những khu ổ chuột ở Brazil hay những vùng phi luật pháp ở châu Phi, nơi mà con người bị đối xử tàn tệ còn hơn cả con vật. Vậy mà nó có ở đây sao, tại trong những thành phố giàu nhất của nước Ả Rập Xê-út này?

      Phần lớn người dân Kandara là phụ nữ, và nhận xét qua gương mặt - hầu hết họ che mặt - bọn họ chủ yếu là người Indonesia và Philippiness, tuy cũng có người châu Phi, người Ấn Độ và người từ các nước châu Á khác. Có ít nhất nghìn, có lẽ nhiều hơn, những khu nhà nằm trải dài thành khối, phần lớn dựa lưng vào những bức tường bê tông nằm trong những khu vực râm mát. Những tấm kim loại lượn sóng tạo thành những mái nhà ở chỗ này chỗ kia. số người dừng lên nơi trú bằng những chiếc hộp cũ, chủ yếu chỉ để che chắn khỏi cái nắng. Các bà mẹ ngồi ôm con trong lòng, trong khi những người đàn ông nằm ngay trước họ những tấm bìa các-tông hoặc những tấm chăn cũ rách. Cảnh sát có thống kê về tội phạm ở những khu vực ngoại vi khác nhau, nhưng đây là trong những khu khét tiếng tồi tệ nhất. Nhờ có mặt của lãnh quán Philippiness mà vài khu nhà phía dưới gầm cầu, tất cả được tập trung ở khu vực này nhiều năm nay, chờ đợi được cho phép rời .

      “Họ phần lớn những người ở đây ở lại quá thời hạn thị thực hành hương.” Katya .

      “Chắc vậy, đó là cách mà số người vào được đát nước này, nhưng hãy quan sát họ như là nhóm người. nhận thấy điều gì trước tiên?”

      “Bọn họ phần lớn là phụ nữ.” Katya .

      “Đúng…”

      “Và đối với phụ nữ khó có thể hành hương khi chỉ có mình.”

      “Chính xác. Phần lớn những phụ nữ này là người giúp việc bỏ trốn.” Ibrahim .

      Ông im lặng lúc lâu khiến cho Katya thấy cần phải hỏi: “Làm sao ông biết họ là những ngưới giúp việc?”

      “Đây chính là nơi chúng tôi tìm được Sabria.”

      “Khu vực này có ở đây từ năm năm trước sao?” Katya hỏi.

      “Đúng vậy, nhưng tệ đến thế này.” Họ chăm chú nhín những con người phía trước đám đông, những người phụ nữ chạy loanh quanh trong những tấm áo choàng đen nhếch nhác, cách ăn mặc của họ ràng thể điều đó.

      mất nhiều thời gian để đến kết cục lang thang đường phố. Những người giúp việc, quét đường, làm vườn, nhiều người trong số đó đến đây với hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn chứ phải hệ thống nô dịch nó giao kèo. kẻ môi giới có thể đưa người lao động vào đất nước này với khoản phí - mười nghìn riyal hoặc hơn thế. cái giá đủ cao, và cứ cho là người lao động được trả lương, cũng phải mất đến mười năm họ mới trả hết số tiền đó. Chính vì vậy mà người sử dụng lao động trả khoản phí này, và người lao động phải thực nghĩa vụ cho đến khi khoản nợ đó được thanh toán.

      Nhưng điều gì xảy ra nếu họ thích công việc? Điều gì xảy ra nếu chủ cho họ ăn? Điều gì xảy ra nếu chủ của họ cho phép họ dời khỏi nhà hoặc gọi điện cho gia đình hay thậm chí là chuyện với người môi giới đưa họ đến đây? Điều gì xảy ra nếu họ bị cưỡng hiếp hoặc bị bóc lột? Có rất ít điều luật bảo vệ quyền lợi của họ - hầu hết các điều luật bảo vệ quyền lợi cho người chủ, tránh để khoản đầu tư của người đó bị thua thiệt, vì mua họ. Lựa chọn duy nhất của những người lao động đó là bỏ trốn, và kết cục là họ ở đường Sitteen này, khẩn cầu lãnh quán cấp cho hộ chiếu mới, thậm chí là chứng nhận tạm thời, và chiếc vé máy bay để về nhà. Họ đứng xếp hàng để chờ ba chiếc xe bus ít ỏi chỉ đỗ ở Sitteen vài lần tuần và đưa họ đến Phòng Hộ chiếu do Ả Rập Xê-út bảo trợ để cố giải quyết tình trạng vất vưởng này.

      Họ đánh nhau để được lên xe bus, và thậm chí nếu họ thể lên được xe bus họ vẫn đánh nhau, bởi nếu cảnh sát cho rằng họ gây rắc rối, họ bị gửi trả về quê nhà trước tiên. Nếu đủ rắc rối họ chỉ đơn giản là phải nộp phạt vì ở quá thời hạn thị thực và bị tống vào buồng giam mà ở đó họ khó có thể ngóc đầu lên được nếu can thiệp của hoàng gia. Và họ cầu Chúa để cuộc đời mình chấm hết trong khu giam giữ của lãnh quán, nơi họ có thể bị đẩy vào căn phòng và bị bỏ mặc đến khi thối rữa ra. Chỉ mới vài tuần trước năm người Ethiopia bị khóa trong buồng vệ sinh có cửa sổ, và đến sáng chết ngạt.

      Tạ ơn Chúa vì những nhà thờ Hồi giáo hằng ngày đều mang thực phẩm và nước đến khu Kandara. Người ta thể tự an ủi mình bằng rằng sau vài ngày nữa những chiếc xe bus đó xẽ quay trở lại. Số người đổ về khu vực cây cầu này như nước chảy từ cái vòi thể khóa. có hứng đến bao nhiêu xô thùng nước vẫn tuôn đều. Chỉ ngay sau khi những chiếc xe bus đó lăn bánh khu vực này lại đầy ắp người như cũ.

      “Ông nghĩ ấy có thể ở đây sao?”Katya hỏi.

      . Nơi này là cái hang chuột. Tháng vừa rồi hai lần cảnh sát phá tan mạng lưới mại dâm. Nhưng vấn đề mà chúng ta quan tâm là khoảng năm mươi phần trăm những người mất tích ở Jeddah hoặc đến đây hoặc bị mất tích ở đây.” Ông nhấc cặp tài liệu ở dưới sàn ghế lên và lướt qua tập giấy rồi đưa nó cho Katya. Đó là những bản phác họa về các nạn nhân tìm được ở sa mạc. “Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng nhất để nhận diện các nạn nhân còn lại. Việc này với ổn chứ?”

      “Vâng. Tất nhiên rồi.”

      Ibrahim ra khỏi xe và Katya theo ông băng qua đường. Điều đầu tiên nhận thấy là mùi hôi thối, mùi xú uế nồng nặc của những cơ thể dơ bẩn, của thực phẩm thối rữa, và những đống phân người dọc theo cía rãnh chạy dưới đường hầm, tất cả đều bốc mùi dưới cái nắng oi ả. kéo chiếc mạng che mặt che ngang mũi và cố gắng hít thở , nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc, đủ khiến ứa nước mắt. Dưới chân cầu vượt khí có mát mẻ hơn chút nhưng hôm đó là ngày lặng gió và mùi xú uế kẹt tắc ở khắp nơi.

      Bọn họ quẩn quanh trong đám đông suốt hai giờ đồng hồ, cái nóng, mồ hôi và nỗi thất vọng như vô cùng tận. Ibrahim đứng trong tầm nhìn của Katya, nhưng bao giờ để nhìn vào ánh mắt ông. Bọn họ sâu vào trong khu vực lều tạm khi đến gần người phụ nữ khom người bế đứa con .

      “Xin lỗi, tôi tìm những người này.”

      Người phụ nữ liếc nhìn những bức hình. “Chưa bao giờ thấy họ. Thử hỏi Aunie xem.” Bà ta ra hiệu về phía phụ nữ ở bên rìa đường. Aunie là phụ nữ bé, người Châu Á, mái tóc đen cắt theo hình cái bát. Bà ta nằm nghiêng chiếc ghế bằng cây liễu gai màu nâu sắp gãy, nhưng lại đẹp nhất trong cả khu này. Bà ta mặc áo sơ-mi ngắn tay vẻ thức thách và quần ống rộng cắt ngang gối. Dưới chân bà ta là đôi dép xỏ ngón bằng nhựa.

      Bà ta ngồi dậy khi Katya đến gần.

      “Xin lỗi.” Katya lên tiếng. “Tôi tìm những người phụ nữ này.”

      chìa ra những bức ảnh phác họa, và cách chậm rãi Aunie ngồi dậy.

      là cảnh sát à?”

      “Đội Trọng án.”

      Người phụ nữ gật đầu. “Vậy là bọn họ chết?”

      “Bà có biết họ ?”

      Người phụ nữ gì. Bà ta thò tay vào cái bao nhựa cũ sờn ở dưới chân và bắt đầu lục lọi. Katya thấy bà ta lôi ra mảnh vải cáu bẩn, dùng nó lau mồ hôi mặt và cổ.

      bắt tôi chứ?” Bà ta hỏi.

      nếu bà muốn vậy.”

      Aunie mỉm cười với vẻ chua chát hơn là thích thú. “Tôi chưa từng thấy bọn họ.” Bà ta rồi lại nằm xuống.

      “Có lẽ ly cà phê giúp bà tỉnh táo hơn chăng?”

      Người phụ nữ đó nhìn .

      “Hay bữa ăn trưa?”

      Sau chút đắn đo, Auine ngồi dậy. “.” Bà ta . “Hôm nay tôi ăn rồi. Nhưng tôi cần tiền cho bữa trưa ngày mai.”

      Katya gật đầu. “Cho tôi biết tên của họ.”

      Người phụ nữ liếc nhìn và với tay về bức phác họa. Bà ta chau mày trong khi nhìn kỹ nó. “Có vẻ giống Mahal.”

      “Mahal có họ ?”

      Aunie lắc đầu. “ nhớ. ta là người Philippiness.” Bà ta gạt bức phác họa về phía Katya nhưng cầm nó lại ngay.

      “Bà có biết ta làm việc gì ?”

      .” Auine khịt khịt mũi tỏ vẻ mỉa mai. “ có công việc gì cả. Ở đây sao? nghĩ đây là đâu? khách sạn chăng?”

      “Trước khi ta đến chỗ cầu này.” Katya có phần nôn nóng. “Bà có biết ta làm gì ?”

      .”

      “Thế còn tiền ăn trưa cho ngày kia sao?”

      Aunie khịt khịt mũi lần nữa. “Được rồi, hình như ta làm giúp việc phải. Tôi nhớ nữa. gia đình tàn bạo.” Bà ta vẩy vẩy tay.

      “Và tại sao ta lại ở khu vực cầu này? Bọn họ có ngược đãi ta ?”

      “Dĩ nhiên là bọn họ có ngược đãi ta rồi.” Bà ta , và lần đầu tiên những lời bà ta nghe có vẻ dối trá. “ ta trốn chạy khỏi bọn họ. Tất cả bọn họ!”

      Katya gật đầu và cầm lại bức phác họa. “Vậy còn bà?” hỏi. “Sao bà lại ở đây?”

      Aunie nhắm mắt lại và ngồi lại ghế. Chiếc ghế lảo đảo lắc lư. “Phần lớn những người ở đây có chung vấn đề.”

      có hộ chiếu?” Katya hỏi.

      !” Aunie ngồi thẳng dậy và mở mắt. “Họ có hộ chiếu chứ. Nhưng bọn chủ cho phép họ ra . Họ cần cho phép. Và nếu họ bỏ trốn lấy lại được hộ chiếu. Do đó chính người Ả Rập Xê-út gây ra rắc rối! thể mua vé máy bay mà có thư giới thiệu của ông chủ. cần cho phép của ông chủ mới được ra sao? Cái kiểu quốc gia gì mà lại quái đản như thế chứ?”

      “Vậy là Mahal được chủ cho phép ra ?”

      , ta được phép. Nếu có ai giết ta chính là tay chủ ấy. Tôi đảm bảo vậy.”

      “Và bà biết người chủ đó là ai sao?”

      nhớ. Có quá nhiều cái tên. Mà sao tôi phải nhớ chứ?”

      Katya mở xắc tay và lấy ra tờ hai mươi riyal. gập nó và nhét vào chiếc túi của Aunie.

      Katya thấy kiệt sức. Ibrahim gặp may trong việc nhận diện bất kì nạn nhân nào, và với cái tên Mahal họ cũng thể làm gì nhiều ngoại trừ việc thông báo cho các sĩ quan cấp dưới chịu trách nhiệm lấy thông tin căn cước từ các lãnh quán.

      Khi gần về tới văn phòng, họ dừng lại để uống nước trái cây tại ki-ốt bát giác được trang trí bằng những tấm logo màu xanh dương của Pepsi. Ibrahim mua đồ uống trong khi Katya chờ trong xe, vẫn cực kỳ hoang mang vì sợ ai đó bắt gặp. ngồi gần sát lỗ thông khí của hệ thống điều hòa nhiệt độ ở băng ghế sau hết mức có thể và để cho khí mát thổi thẳng qua khăn trùm đầu. Khi Ibrahim quay lại, ông mang theo hai chai nước quả và hai hộp nhựa đựng trái cây xắt miếng; ông đưa cho mỗi loại thứ.

      “Cảm ơn.” Bố, muốn thêm vào từ đó. Ông bắt đầu khiến cho cảm thấy ông giống những người bạn của bố mình - hai hay ba người mà chuyện trò và thực tế có quý mến. Bọn họ có cách để xoa dịu những căng thẳng gây ra do giới tính theo lối gia trưởng thường gặp luôn khiến cảm thấy hình thức và kỳ quặc.

      Thay vì về văn phòng, ông thẳng về hướng Corniche. nghĩ có thể họ trở lại căn hộ của Sabria, nhưng ông lái về phía nam cho đến khi gặp bãi đỗ xe bên bở biển gần như vắng tanh. Ông đánh xe vào bãi và hướng quay ra biển, vẫn để động cơ nổ để điều hòa tiếp tục làm dịu bớt cái nóng. Ông mở hộp trái cây và bắt đầu ăn.

      Katya mở hộp của và đưa miếng dưa hấu qua tấm khăn trùm đầu.

      “Có lẽ đúng.” Ibrahim . “Tôi nên thông báo về trường hợp mất tích của ấy.”

      “Tôi nghĩ ông nên làm vậy.”

      “Nhưng trước hết tôi phải xóa sạch mọi dấu vết của chính tôi ở căn hộ của ấy .” Ông . “ nghĩ sao về cơ hội làm việc đó?”

      “Ông phải thuê người. Ý tôi là người chuyên nghiệp. có rất nhiều việc phải làm.”

      Bọn họ tiếp tục ăn, hiểu là cả hai suy nghĩ về việc. Nếu thông báo vụ mất tích của Sabria bọn họ buộc Ibrahim vào tội ngoại tình. là vậy, nếu cảnh sát đánh giá vấn đề đủ nghiêm trọng để đưa đội pháp y đến căn hộ của ấy. Sabria từng làm việc cho cảnh sát nên khả năng họ xem xét tỉ mỉ căn hộ đó là rất lớn.

      “Tôi tìm thuê tay dọn dấu vết.” Ông . Ông thu dọn mấy chiếc hộp nhựa và chai rỗng lại rồi ném qua cửa sổ. Ông vào số xe.

      “Cám ơn ông để tôi hỗ trợ trong vụ này.” . “Ý tôi là vụ giết người hàng loạt. Tôi mong được tham gia vụ đó.” hy vọng là mình lên tiếng đúng thời điểm, chứ phải ngỏ lời liều lĩnh.

      Ông gật đầu. “Tôi giao thêm việc cho nếu có thể, nhưng giờ tôi có trách nhiệm theo dõi các diễn biến ở sở. Tôi phải đảm bảo đội của mình hoạt động có tổ chức - ít nhất cho đến khi Chánh Thanh tra gạt tôi ra khỏi vụ này, mà tôi nghĩ rất có khả năng đấy. Tất nhiên là tôi bị quẩn trí về toàn bộ việc với Sabria. Và đó thực mới là mối quan tâm của tôi lúc này. Để bắt được hung thủ cần có thời gian. Việc tìm kiếm người mất tích gấp gáp hơn thế nhiều. Tôi thể thổ lộ điều này với bất cứ ai, và có thể là ích kỷ nhưng đó là .” Ông nhắm mắt lại lúc rồi mở ra nhìn . “Tôi xin lỗi, tôi hiểu muốn tham gia vụ đó, và tôi nghĩ cũng nên làm vậy. Nhưng còn rất nhiều việc phải cân nhắc nữa.”

      “Chắc chắn rồi.” vừa vừa mong là giọng mình nghe có vẻ bình thường. “Tôi hiểu mà.”

      “Tôi thực cảm kích giúp đỡ của .”

      Chương 14

      Kỳ nghỉ cuối tuần thứ Năm và thứ Sáu trôi qua đằng đẵng khổ đau. Ibrahim đến chỗ làm vào sáng thứ Bảy, ngay sau lễ cầu nguyện Fajr, khi tòa nhà hầu như vẫn còn vắng vẻ. Ông định giải quyết đống hồ sơ bàn mình. Ông nhận thấy Omar gửi đến các hồ sơ của Warra ở Đội Điệp vụ. Chắc hẳn chúng được chuyển đến sau khi ông rời văn phòng ngày thứ Tư. Tất cả đều được bọc giấy và nhét trong túi nhựa chuyển hàng có để nhãn CÁC VỤ ÁN ĐÓNG và ĐỘI TRỌNG ÁN nhằm tránh chú ý. Ibrahim xé mở túi thư và dành cả buổi sáng để đọc các túi hồ sơ.

      câu chuyện vui ở Đội Điệp vụ rằng nếu bạn điều tra vụ án và tình cờ gặp ai đó có họ hàng xa nhận ra bạn trong đám cưới ông chú người hàng xóm của bạn, chắc là bạn dành hết thời gian thủ dâm ở tận ngoài sa mạc. Đội có quá nhiều nhân viên giả trang bị lật mặt đến mức có lúc họ chỉ có thể thuê người ở các thành phố khác, và thậm chí sau đó phải tuyển người từ phía nam bởi dù Jeddah có trở nên rộng lớn đến mức nào nữa, những chàng trai của đội dường như thể nào đụng mặt với người quen.

      Ibrahim chỉ định xem qua những thứ này, và ông ngờ phần lớn các trường hợp đều chỉ là may. Nhưng ý thức về đàn áp cùng với loạt vận rủi khiến ông quay cuồng mất lúc, đủ để đến ý tưởng xuẩn ngốc cho hành động mà, như ông nghi ngờ, bao giờ thành công cho dù có được đồng thuận của Chánh Thanh tra phụ trách Đội Điệp vụ. Họ nên thâm nhập vào mạng lưới những kẻ cắp là nữ giới.

      Ibrahim và hai sĩ quan cấp dưới của Đội Điệp vụ hiển nhiên là gặp rắc rối khi trình bày ý tưởng đó với Chánh Thanh tra. Ngay cả khi họ thuyết phục được ông ta rằng thực chất có mạng lưới những phụ nữ giàu có hành động cùng nhau để lấy cắp hàng xa xỉ phẩm tại các cửa hàng cao cấp (vòng tay kim cương là mặt hàng được ưa thích), họ phải mất hàng tuần liền để tìm ra đâu là phương thức hành động khả thi. Họ thâm nhập vào mạng lưới đó, thu thập đủ bằng chứng, và rồi - sao chứ? Tống giam loạt phụ nữ giàu có hay sao? Quá nửa trong bọn họ mang thai bất cứ lúc nào. người nào có ít hơn bốn đứa con. Phần lớn kết hôn với những gã ngu đần thuộc tầng lớp thượng - trung lưu, vốn luôn cho rằng tất cả áo quần và đồ trang sức mà vợ họ chưng diện lẽ dĩ nhiên là được chi trả nhờ khả năng kiếm tiền của chính bọn họ, những kẻ có mức lương cấp cao sẵn sàng trải thảm ở Milan. Bọn họ nhận ra rằng các bà vợ ăn cắp vì nghèo, các bà đó ăn cắp vì họ tức giận, họ có quyền lực và có lẽ họ bị đàn áp.

      Khi Ibrahim mới đưa ra gợi ý này cho Chánh Thanh tra, ông ta rất trầm ngâm. Rồi ông ta nhìn Ibrahim như thể ông ta vừa đặt cục phân ngựa khổng lồ lên bàn làm việc của ông ta và cố gắng đẩy nó cho ông ta như nghi lễ chào đón của người Bedouin. Và ngay lập tức Ibrahim nhận ra ông ta nghĩ: đời nào chúng ta lại bắt đoàn những bà mẹ giàu có đó.

      Người ta nhanh chóng chỉ ra rằng họ luôn luôn có thể bắt giữ mấy ông chồng thay vì các bà vợ. Chẳng có ai ngạc nhiên nếu họ bắt những người chồng đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của vợ mình. căng thẳng trong căn phòng có bớt chút ít. Ai đó tếu rằng bọn họ có thể cứu được những bà mẹ nghèo khó này từ tay những gã chồng ngu ngốc. Đội của bọn họ giống như những đơn vị chống bạo hành gia đình ở những quốc gia khác, kiểu cơ quan mà Jeddah nỗ lực để thiết lập và có phần vờ như là có, nếu các chính trị gia là những người có thể tin được.

      Ban đầu ông Chánh Thanh tra muốn động chạm gì đến mạng lưới này. “Quay trở lại với mấy cái vụ ma túy của các .” Nhưng họ tiếp tục tác động đến ông ta, chọn những thời điểm dễ thuyết phục nhất, bởi họ ngán ngẩm ma túy lắm rồi. Và có thể họ bao giờ thừa nhận điều này, nhưng họ thích thử thách đó. Xâm nhập mạng lưới phụ nữ khép kín.

      Cuối cùng ông Chánh Thanh tra cũng ưng thuận. Thậm chí ông ta còn bị ấn tượng bởi vụ đánh cắp kim cương trị giá ba trăm nghìn riyal giữa ban ngày ban mặt tại trung tâm Vàng bạc al-Tahlia. Những người phụ nữ này ràng theo dõi hệ thống an ninh của cửa hàng đó. Bọn họ biết cách để đánh lạc hướng các nữ bảo vệ và cách vào được khu trưng bày. Và bọn họ thực vụ đánh cắp mà màng gì đến diện của cả tiểu đoàn máy quay phim liên tục hoạt động ngay cả khi cửa hàng đóng cửa. Tại sao? Bởi vì họ che mặt, cơ thể giấu kín trong những chiếc áo trùm màu đen bùng nhùng.

      trong những kỹ thuật viên gợi ý họ thử loại chương trình phần mềm mới - Lột trần - có thể tước bỏ quần áo cơ thể người theo phương thức kỹ thuật số và đôi khi có khả năng đặt khuôn mặt dưới dạng có khăn trùm đầu. Nhưng lâu sau khi chàng đưa ra gợi ý đó chương trình này bị cấm bởi sỹ quan cấp , người tá hỏa về việc đàn ông lột bỏ trang phục của phụ nữ bằng máy vi tính và kêu gọi luật pháp chống lại điều đó.

      Có vẻ như nhóm trộm cắp này gồm sáu phụ nữ, nhưng rất khó bởi họ luôn luôn mang khăn trùm đầu. Và dường như bất khả thi để bắt giữ phụ nữ nếu chồng của ta xuất sẵn lòng giúp truy tìm ta. Cách duy nhất mà họ có thể kết tội những phụ nữ này là thu thập các chứng cứ phạm tội từ những phụ nữ khác - bạn bè hoặc thành viên gia đình. Điều họ cần là phải vào được nhà của những phụ nữ đó, xâm nhập vào đời sống và những bí mật của bọn họ, và cách duy nhất để thực được điều này là cài vào gia đình đó người giúp việc. Họ có lực lượng nữ quân nhân, nhưng rất ít người châu Á và người nhập cư - những nhóm tộc người có thể được chấp nhận vào vị trí người giúp việc. Người duy nhất phù hợp lúc bấy giờ chính là Sabria.

      Những hồ sơ Omar gửi là vào khoảng thời gian Sabria hoạt động trong Đội Điệp vụ trước khi phá được mạng lưới trộm cắp đó. Và tất cả những gì về các vụ án đó đều đúng, có gì bất bình thường hết. Và ràng là cũng có gì Ibrahim liên hệ được với mất tích của cả.

      Với vụ trộm cắp tại các cửa hiệu đó, Sabria làm tay trong trong vòng bốn tháng, và thực vai trò của người giúp việc xuất sắc rồi trở thành bạn tốt của gia đình đó đến mức ngay cả khi người mẹ trong gia đình đó, Salima, bị bắt giam và được cho biết bà ta bị gài bẫy như thế nào, bà ta vẫn từ chối điều gì xấu về Sabria. Gampon, bà ta bằng đối đáp sắc sảo với vẻ tôn trọng miễn cưỡng, là người hết sức chuyên nghiệp. Tại thời điểm đó Ibrahim chắc liệu đó có phải là điều tốt hay . Ông cho Sabria nghỉ ba tháng. tuần sau đó quay lại hỏi họ có nhiệm vụ mới nào cho . Ông , cần nghỉ ngơi thời gian và quay trở lại với cuộc sống của . ngoan ngoãn rời văn phòng của ông, nhưng ba tháng sau quay lại, sẵn sàng cho nhiệm vụ mới và trông hoàn toàn vẫn như trước. Chính vì vậy ông giao cho nhiệm vụ mới, và nhiệm vụ khác sau đó nữa. Dường như với nhiệm vụ nào cũng bình an vô . hoàn thành công việc với trọn vẹn mà đến giờ vẫn khiến ông phải khiếp sợ. đặt tất cả con người mình vào công việc đó. Mọi người đều tin tưởng . có thể thuyết phục bất cứ ai rằng những mục đích của là hoàn toàn chân thành.

      Ông gạt những hồ sơ đó trở lại chiếc túi nhựa và bắt gặp tờ đơn xin việc của Sabria cho cửa hàng quần áo ở Chamelle plaza. Nó vẫn nằm bàn làm việc của ông, đầy kín nét chữ phản trắc đó. Trong suốt khoảng thời gian họ làm việc cùng nhau, ông hề biết gì về . Ông đối xử với theo cung cách máy móc của ông sếp có thể bị mất việc nếu hành xử đúng mực với đồng nghiệp nữ. Chỉ là cho đến sau này, khi bỏ việc, ông mới bắt đầu hiểu thực là ai. Và lúc này ông suy nghĩ về con người đó cách cương quyết. Sabria chỉ cử người nào đó đóng giả là nếu việc đó phục vụ cho lợi ích chung. Nếu việc đó có nghĩa là giúp đỡ ai đấy. Nhưng ông vẫn thể giải thích được tai sao Sabria gì với ông về chuyện này hết.

      Khi Ibrahim dừng xe ở cuối con hẻm, là sau lễ cầu nguyện buổi chiều. Ông và Daher bước ra. Có sáu chiếc se cảnh sát vây kín trường. Các nhân viên nghiệp vụ chặn đường hai tòa nhà ở cả hai hướng và giải tán những người khách bộ hành cuối cùng hai bên hè phố.

      Ibrahim cố ép mình bước chậm lại chút. Ông chỉ muốn bỏ chạy. Ông qua người quét đường, người phát ra việc và nghe Daher báo cáo. “Thưa sếp, đây chính là gã…” trước khi vòng qua thùng chứa rác vả nhìn thấy dải băng ngăn cách trường vụ án. Ông luồn qua dải băng đó rồi thẳng về phía đống vải nằm ngổn ngang hè phố. Đó là tấm áo trùm phụ nữ. Trống . Và ngay bên cạnh là bàn tay bị chặt.

      Nhân danh đức Alla nhân từ và độ lượng. Tâm trí ông quay cuồng với những lời cầu nguyện, ông nhắm nghiền mắt. giảm này quá ghê tởm đến mức đau đớn.

      Ông luồn trở lại qua dải băng. “ đây là cái xác sao?”

      “Nó phải là cái xác sao ạ?” Daher áy náy đứng bên cạnh ông, cố tỏ ra vẻ hữu dụng và với các nhân viên nghiệp vụ đứng gọn sang bên của dải băng khoanh vùng trường.

      , chỉ là bàn tay.” Đáng lẽ bao giờ nên rời khỏi Đội Điệp vụ mới phải. Ông bước vào dưới bóng râm của tấm bạt che trước cửa hàng và ngồi xổm mặt đất, tựa đầu hai bàn tay.

      “Bọn họ tìm thấy vật này ngay bên cạnh nó.” Daher đứng phía , chìa ra chiếc xắc tay phụ nữ. Ibrahim cầm lấy nó và kiểm tra bên trong. Có thẻ căn cước trong ví. Amina al-Fouad.

      “Đảm bảo là đội pháp y có được vật này.” Ibrahim . Ông dường như có tâm trí nào để xem xét việc giữa ban ngày mà phố Falasteen hề có ô-tô hay khách mua sắm quá là kỳ quái. Ngoài cảnh sát mặc sắc phục và vài chủ tiệm ra, người duy nhất ở khu vực này là người quét đường gầy khẳng khiu. Ông ta tựa vào thùng rác với vẻ lo lắng và rối trí, giống người vừa phát ra bàn tay bị chặt đứt chút nào.

      Ibrahim đứng lên tiến về phía người đàn ông đó. “Có phải nó ở trong thùng rác ?” Ông hỏi.

      phải.” Người quét đường đáp. “Nó ở đó. Chính nơi ông thấy lúc này ấy. Bàn tay của tên tội phạm nào đấy…” Ông ta vẩy tay và nhìn lên trời.

      “Ông có thấy ai gần đó ?”

      thấy.”

      Mất mười lăm phút để dựng lên cái mà thoáng ra là trường vụ án. Hơn hai mươi sỹ quan cảnh sát lại lại. Khách mua sắm ào ra từ các cửa hàng và há hốc miệng nhìn. Abu-Musa đến và thông báo về bàn tay bị chặt. Vài phút sau đội pháp y đến với vài ngạc nhiên: Katya bước xuống khỏi xe cùng bộ dụng cụ của mình và theo sau là Majdi tiến về phía trường. Daher nhìn thấy và khựng lại vì ngạc nhiên nhưng gì.

      Tâm trí Irbrahim dần dần tỉnh táo hơn. Ông tưởng Sabria nằm đó.

      Katya trông thất kinh khi quỳ gối xuống gần bàn tay.

      “Gì vậy, Hijazi?” Ibrahim hỏi.

      “Tôi phát hoảng khi hình dung đến việc có kẻ vứt bỏ thứ này ở đây.” . “Sao ai để ý nhỉ?”

      Daher thở phì ra, như thể câu trả lời ràng thế còn gì.

      “Khu vực này quá xa con đường.” Katya tiếp. “Và con đường này thường rất nhộn nhịp. Kẻ nào vứt bỏ nó ở đây hẳn chỉ mới đây thôi. Tôi chắc là lâu sau nó bị phát .”

      Daher khịt khịt rồi quay , hoàn toàn để ý đến nhận xét của Katya.

      “Tôi .” Ibrahim . “ bất ngờ về những gì mà người ta thường để ý. Chúng tôi cho người hỏi chuyện những chủ cửa hàng gần đây. Có lẽ có người thấy điều gì đấy.”

      rất tốt nếu có được mô tả về tên sát nhân.” Daher .

      cho rằng vụ này có liên quan đến vụ giết người hàng loạt rồi sao?” Katya hỏi.

      Daher trừng mắt nhìn . chọc ngoáy khi trước của ta, tuy có khó chịu, song ít ra, còn hiểu được. Nhưng sao ta dám chỉ trích cơ chứ?

      Katya thèm để mắt đến ta, kiểu giăng bẫy có tính toán. “Tên hung thủ giết người hàng loạt của chúng ta chưa bao giờ để lại bàn tay phố cả.” . “ chôn những bàn tay ở địa điểm bí mật.”

      “Hiển nhiên đó chính là ta!” Daher . “ rằng chúng ta hãy biến ! Đây chính là tiếng hét giận dữ từ gã đó.” ta ra hiệu về phía bàn tay. “ rằng kiểm soát tình hình và có thể làm bất cứ điều gì muốn, và chúng ta chẳng làm gì ngăn được. Tôi bất ngờ đấy. Thông điệp đấy quá là rồi.”

      Katya mở khóa chiếc túi vải len thô của mình bằng cú kéo mạnh giận dữ. “Đây có thể là bàn tay của kẻ nào đó bị trừng phạt vì tội ăn trộm.”

      Daher thở phì ra.

      “Nó cũng có thể là kiểu tội phạm bắt chước.” Katya .

      “Hẳn rồi.” Daher . “Ngoại trừ việc ai biết những cái xác được chôn ở sa mạc ngoại trừ chúng ta ra.”

      “Tại sao lại phải là trong số chúng ta?” Katya hỏi.

      Daher ha hả cười. “Đúng, tất nhiên rồi! Và tôi bầu chọn người Mỹ đó nhé. ta đến đây cùng với đám thiên thần gác địa ngục của mình để trả thù những kẻ khủng bố.” sỹ quan cấp dưới nãy giờ lắng nghe mỉm cười uể oải.

      “Sao vậy?” Daher hỏi.

      có gì.

      “Cậu hiểu điều tôi sắp , phải vậy ?” Daher hỏi.

      “Điều gì đó về Những thiên thần của Charlie (1) ấy à?” Viên sỹ quan cấp dưới .

      (1) Loạt phim truyền hình nổi tiếng của Mỹ về ba nữ thám tử xinh đẹp làm việc cho nhà triệu phú Charlie. Ở đây nữ chuyên gia người Mỹ cùng tên là Charlie.

      Daher cứng giọng. “Trời đất, sao cậu có thể đùa như vậy vào lúc này được nhỉ?”

      “Đó phải là đùa. Chỉ là những gì người ta bàn tán.”

      “Tôi định rằng quy luật đầu tiên về những tên giết người hàng loạt - chính là điều Tiến sỹ Charlie đề cập - chúng là người Mỹ. Đàn ông da trắng ở độ tuổi ba mươi. Những gã có ngoại hình bình thường.”

      “Có thể phải là người Mỹ chứ.” Katya vừa vừa đứng dậy.

      “Ồ?”

      “Người ta dễ dàng để ý đến người Mỹ chứ.”

      đâu nếu mặc áo trùm.” Daher phản kích.

      Katya còn kịp nguýt ta cái trước khi theo Majdi ra khỏi con hẻm. Ibrahim ra hiệu cho Daher ra ngoài. ta bị làm bẽ mặt nhưng ít ra ta cũng cố được câu cuối cùng.

      Dừng lại bên chiếc xe tải , Katya quay sang Ibrahim. “Để tìm được mối liên hệ với vụ giết người hàng loạt,” , “chúng tôi phải tìm ra số điều. Trước hết, liệu bàn tay này có phải bị chặt sau khi chết hay . Tất cả bàn tay ở địa điểm chôn cất đều được cắt dời sau khi nạn nhân chết. Bàn tay này có vẻ là của phụ nữ, nhưng chúng tôi cần phải chắc chắn. Hơn nữa, chúng tôi phải tìm ra thời điểm người phụ nữ này” - lục trong chiếc ví tìm tấm thẻ căn cước - “Amina al-Fouad bị mất tích. Hoặc liệu có phải ta mất tích hay . Có thể đó là tay ta, nhưng điều này cũng cần phải kiểm chứng .”

      Ibrahim định đáp lời Daher chen ngang với vẻ mà ông cảm giác như cố gắng đúng lúc để thu hút chú ý của ông.

      “Sếp.” ta . “Chúng tôi xem xét ở lãnh quán cái tên mà sếp cầu. Tên người phụ nữ đó là gì nhỉ?”

      “Mahal.” Katya .

      Daher chột dạ và nhìn Ibrahim như thể muốn hỏi Làm sao ta biết nhỉ?

      ấy đến khu Sitteen với tôi.” Ibrahim .

      Daher gì, nhưng Ibrahim thấy ánh nhìn của người bị phản bội ở ta. Tại sao ông lại đưa Katya mà phải Daher tới Sitteen chứ?

      có phụ nữ nào mất tích tên là Mahal cả.” Daher với giọng cáu kỉnh.

      Ibrahim hề nhận thấy vẻ hả hê nét mặt Katya khi quay bước , nhưng dù sao ông cũng lo lắng về những cảm nghĩ giữa và Daher, và biết những tổn thương cá nhân này đưa chuyện đến đâu.

      “Chỉ đơn giản là ông ta đủ năng lực.” Tiếng của Yasser Mu’tazz.

      Ibrahim đứng ở ngoài hành lang bên ngoài cửa văn phòng của Chánh Riyadh, định báo cáo ngắn gọn với ông ta về trường vụ án. Ông vừa vào nghe thấy giọng gay gắt và cảm giác bực tức của Mu’tazz khi về mình.

      “Thanh tra Zahrani là cán bộ có thâm niên hơn mười năm kinh nghiệm tại trong những đơn vị hoạt động cam go nhất ở Jeddah này.” Riyadh bảo vệ ông. Quả là bất ngờ. “Tôi biết là ông ấy chưa từng bao giờ nắm vụ án giết người hàng loạt cả, nhưng tất cả những người khác ở cục này cũng vậy cả.”

      “Tôi chỉ cho rằng ông ta chưa sẵn sàng cho vụ này.” Mu’tazz hề giọng chút nào hay thậm chí còn thêm vào từ thưa sếp cách lịch theo phép xã giao. ràng ông ta vô cùng tức giận. Ibrahim hiểu vì sao. Mu’tazz có thâm niên hoạt động nhất ở Đội Trọng án và ông ta giàu kinh nghiệm hơn bất cứ ai, nhưng lại hề có kết giao nào. Bố của ông ta là dân lao động nghèo ở Yemen dành dụm được chút tiền để mở cơ sở dệt may ở Jeddah - nhưng nhiều đến mức được mời đến ở khu nahf của tầng lớp thượng lưu. Gia đình của Ibrahim, tuy giàu có, nhưng là gia đình Bedouin có quan hệ bạn bè ở các bộ ngành và đặc biệt là quan hệ thân tình với Hoàng thân Maddawi, trong những người họ của nhà vua. Khi ông quyết định chuyển khỏi Đội Điệp vụ, ông lẽ ra phải làm công việc phải lại rất nhiều nhưng chính Maddawi đảm bảo ông có được vị trí này.

      “Tôi để mắt tới ông ấy.” Riyadh .

      “Tôi thấy ông ta rời bãi đỗ xe hôm qua với nữ kỹ thuật viên ở phòng thí nghiệm.” Ibrahim thấy ngực mình thắt lại.

      “Tôi biết.” Riyadh nhàng . Ngay từ lúc trước ông ta thích cái ý tưởng đó rồi, và có vẻ lúc này còn thích nó hơn. “Tôi cho phép việc đó vì cần thiết.”

      “Bọn họ đâu vậy?”

      “Lần theo số đầu mối của vụ án mà buộc phải có mặt của phụ nữ.”

      “Và ông ta thể mang theo nữ sỹ quan hay sao?”

      ai có mặt lúc đó cả.”

      “Vậy trong những nam sỹ quan?”

      “Tôi cố tránh việc đưa nam sỹ quan đến phỏng vấn phụ nữ.” Riyadh lạnh nhạt , “nhằm tránh những rắc rối với chính sách đạo đức của chúng ta.”

      Có tiếng soạt soạt vì Riyadh đứng lên, chắc là mong muốn có thể chấm dứt cuộc hội thoại này. Ibrahim quay bước về phía cuối hành lang.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 15

      Dấu vân tay và phân tích DNA cho thấy bàn tay bị chặt đó là của Amina al-Fouad, người phụ nữ sở hữu chiếc xắc tay tìm được ở trường. Họ cũng xác định bàn tay đó bị chặt khi bà còn sống.

      Amina phù hợp với các đặc điểm của những nạn nhân tìm được. Bà là người nội trợ người Ả Rập Xê-út, ba mươi chín tuổi, sống ở quận Corniche với chồng và sáu đứa con. Bà chưa từng làm công việc gì bên ngoài gia đình, và mặc dù gia đình bà đủ giàu để có thể thuê hai người giúp việc nhưng Amina hẳn là người thích mua sắm, thú vui mà hầu hết các phụ nữ kiểu như bà ưa thích. Bà chỉ rời nhà khi được cho phép ràng của chồng mình.

      “Bà ấy đáng ra được phép tới trung tâm Jamjoom mình.” Chồng bà giận giữ nhắc lại đến lần thứ năm.

      Ibrahim ngồi đối diện với ông al-Fouad trong phòng khách của gia đình ông ta. Chiếc ghế sô pha trông như thể chưa được ai ngồi lên bao giờ. Mọi thứ mà ông thấy trong căn nhà này cho đến giờ khiến ông có cảm giác nó là gian triển lãm của Pottery Barn. Ông nghĩ về nhà mình, với những đồ đạc cũ rích và lối trang trí tồn tại cả thập kỉ nay, rồi tự thấy rằng ông thích như vậy hơn.

      Al-Fouad dĩ nhiên là rất buồn. Ông ta thông báo vợ mình mất tích từ bảy ngày trước, vào đúng ngày bà vợ biến mất. tại ông ta phải day dứt với cú sốc và sửng sốt đến mức khó có thể giả tạo được. Ibrahim đề cập gì tới vụ giết người hàng loạt. Bọn họ vẫn chưa tìm được mối liên hệ chắc chắn nào cả, nên cớ gì lại khiến ông chồng phải thêm lo lắng chứ? Điều khiến Ibrahim bận tâm là ý thức kiên tâm về danh dự của al-Fouad mỗi lúc thêm khoa trương. Cậu con trai có tên Jamal kể với Daher rằng mẹ cậu ta tự bắt chiếc tắc xi đến Jamjoon. Cậu ta nhận được thư thoại của mẹ, nhưng xóa nó. Jamal phải đến đón mẹ ở Jamjoon, nhưng đến đúng giờ. Cậu ta ngờ là mẹ mình cũng rời Jamjoon bằng xe tắc xi.

      “Ông al-Fouad.” Ibrahim . “Nhằm giúp chúng tôi hết khả năng có thể để tìm vợ ông, ông cần cho chúng tôi biết chính xác bà ấy ở đâu và làm gì. Trong những trường hợp tương tự thế này, cái chính là phải gạt bỏ vấn đề danh dự của ai đó sang bên, bởi số phận người thân của ông ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Ông phải tin tưởng rằng chúng tôi hết sức kín đáo, và chúng tôi cũng phải tin tưởng là ông hoàn toàn .”

      Al-Fouad vẫn hiểu được vấn đề. Ông ta lắc đầu cách ngoan cố và nhắc lại lần nữa, “Đáng lẽ bà ấy được …”

      Để đảm bảo mình phát điên lên, Ibrahim đành vờ ghi chép vào tập giấy của mình. Ông viết: Ông chồng là con lừa khoa trương đần độn.

      “Thôi được.” Ibrahim . Ông tức giận hơn mức đáng có và ông hiểu là mình mất dần tác phong chuyên nghiệp, nhưng ông quan tâm. “Chúng tôi cần bức ảnh của vợ ông.”

      “Tôi với các ông những gì với cảnh sát: tôi muốn mặt bà ấy chi chít các bản tin buổi tối.” al-Fouad lớn tiềng bằng giọng ngày càng chói tai.

      Người đàn ông này là kiểu người gì vậy, thứ lai giống của tộc người man dợ hay sao vậy? Làm sao ông ta có thể làm bất cứ điều gì trong khả năng để đảm bảo người vợ mất tích được trở về nhà an toàn? Ibrahim thấy giận sôi người. kẻ xấu xa dơ dáy sẵn sàng để danh dự của mình lên mạng sống của vợ mình hay sao chứ?

      “Đáng tiếc thay,” Ibrahim ngắt lời, “khả năng lớn nhất chúng tôi có thể tìm được vợ ông lúc này đòi hỏi việc công khai khuôn mặt của bà ấy đến càng nhiều người càng tốt. có ai đó thấy bà ấy. Và người đó gọi cho chúng tôi. Và nhờ vào lòng tốt của những người dân Hồi giáo của chúng ta, có khả năng đưa bà ấy sống sót về nhà. Nhưng chỉ với điều kiện chúng tôi có được ảnh của bà ấy.”

      Al-Fouad trông như thể ông ta sắp nhảy chồm qua chiếc ghế sô pha.

      Những lời tiếp theo của Ibrahim còn được bằng giận giữ còn điên cuồng hơn cả tức giận của al-Fouad. “Chúng tôi cũng cần bức ảnh chụp toàn thân của vợ ông nữa.”

      “Sao kia?”

      “Chúng tôi cần thấy toàn bộ dáng người của bà ấy, tốt nhất là trong chiếc áo trùm, bởi đôi khi phụ nữ ở những nơi công cộng, để lộ mặt, chính vì vậy người ta thường để ý dáng người của họ. Tôi cho ông năm phút để quyết định về việc những bức ảnh đó hoặc chính tôi bắt giữ ông.”

      Al-Fouad tái mặt và run lẩy bẩy. Ông ta nhổm dậy khỏi ghế sô pha và bước ra khỏi phòng.

      Năm phút sau, Ibrahim đứng bên ngoài cửa nhà ai-Fouad đưa lại bức ảnh cho Daher.

      “Chuyển chúng tới các cơ quan truyền thông.” Ông . “ nhắc gì tới vụ giết người hàng loạt hết, chỉ rằng người phụ nữ này mất tích.”

      “Ông định làm việc này với Riyadh sao?” Daher hỏi.

      “Cứ làm .”

      Daher trông có vẻ sợ sệt khi bước . Ibrahim cảm thấy run rẩy. Ông ngồi xuống bậc thềm cao nhất và cố gằng cách tuyệt vọng để nghĩ về Sabria và tất cả những gì đáng lý ra phải làm lúc này để tìm được , nhưng vô ích khi né tránh rằng giận dữ của ông hoàn toàn vì al-Fouad.

      Chương 16

      Những ngày tiếp sau đó khó nhọc. Vụ giết người hàng loạt - hay vụ Thiên sứ, cái tên được dùng để nhắc đến nó - là ưu tiên hàng đầu. Điều này có nghĩa là mỗi bằng chứng đáng kể nào, mỗi cuộc phỏng vấn hay gặp mặt quan trọng nào, đều được những người đàn ông thực . Và cũng có nghĩa là Katya, với nhiệm vụ tại phòng thí nghiệm ở tầng , phải làm những thứ việc lặt vặt nhất, mà lần nữa hề được biết chúng có liên quan gì tới vụ án đó. Nó chỉ hiểu như là “Cho tôi kết quả kiểm tra DNA của mẫu máu này” và “Cho tôi biết loại sợi vải này là loại nào” trong khi quần áo vẫn ở trong phòng thí nghiệm của Majdi ở tầng dưới, và những thi thể có mẫu máu cần kiểm tra lại vẫn nằm trong khu nhà lạnh chật cứng.

      có cảm giác mình là người lính xây kim tự tháp vậy, nô lệ đây hòn đá tảng khổng lổ băng qua sa mạc, bao giờ được nhìn thấy công trình vĩ đại được dự định xây là như thế nào. ai có thời gian để đứng lại và giải thích mọi việc, nhất là những phụ nữ làm việc trong đội pháp y. được nghe lại, trục tiếp từ Majdi, người kiệt sức vì khối lượng công việc, rằng các sĩ quan điều tra tất cả các công ty taxi trong thành phố. Bọn họ nghĩ đến khả năng hung thủ là lái xe, nhưng lý do tại sao chỉ có thể phỏng đoán. Mối liên hệ mong manh duy nhất của tới những diễn tiến của vụ án chính là Ibrahim, nhưng ông lại quá bận bịu.

      Hằng ngày dành ra ít thời gian để xử lý những bằng chứng có được từ căn hộ của Sabria. Việc này khó hơn tưởng bởi phải ngụy tạo nó như thể vụ án hư cấu. Trong khi đó vẫn phải làm việc cách mẫn cán cho vụ Thiên sứ, vụ duy nhất tại thời điểm này mà bọn họ được phép tham gia, và chính vì vậy buộc phải dùng mánh khóe để che mắt về những hồ sơ được ghi tên, cảnh giác để mắt tới máy móc trong phòng, và thậm chí trắng trợn dối các kỹ thuật viên khác trong phòng thí nghiệm có vẻ cảm thấy che giấu điểu gì đó. Qua những bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria, có phát gì đáng kể. vẫn chờ các kết quả kiểm tra DNA mẫu máu lấy từ chiếc đinh ở hành lang.

      đánh đổi bất cứ điều gì để có lý do xuống phòng làm việc của Ibrahim, và hoặc hai lần qua, hy vọng tình cờ gặp ông nhưng chưa lần nào ông có ở đó. muốn gọi cho ông cho đến khi có được tin gì đấy. Katya trước đây có thể lấy hết dũng khí và bất kể thế nào cũng xuống tầng dưới, nhưng bây giờ có đến hai chướng ngại vật cản bước, đó là Daher, ngưòi luôn có phản ứng mỗi khi trông thấy và vụ án này là vụ vô cùng quan trọng vẫn thu hút các đại diện của văn phòng thị trưởng và của bộ nữa. hết, việc đính hôn với Nayir bắt đầu khiến hoảng hốt vì những thứ nhặt nhất. chắc đó chỉ đơn giản là việc lo sợ Nayir phát ra tiếp xúc với đàn ông lạ mặt nhiều đến mức nào, hay là lo lắng ngày càng lớn dần trong , nỗi sợ hãi tự thân đối với toàn bộ tình huống này, kết hôn với người đàn ông vẫn có gì đó bí hiểm, lại trong hoàn cảnh tốt chút nào.

      Bố vui mừng khôn xiết khi chấp nhận lời cầu hôn. Ông ngay lập tức khoe với bạn bè, và lâu sau nhận được các món quà. Ông mang chúng về nhà sau những đêm dài ở quán café. chiếc vòng vàng đeo tay tính tế từ Qasim. túi trà Ấn Độ loại ngon và chiếc ầm pha trà của chính hiệu từ Awad Mawjid. bản kinh Koran bọc da trang nhã từ Imam Munif. Những món quà khiên bố vui hơn bất cứ ai khác, và ông đâu cũng rạng ngời niềm tự hào và rộng lòng với thằng cháu Ayman hơn qua việc cho phép cậu ta được lấy xe ô-tô bất cứ lúc nào muốn. thích khi được ở bên Abu khi ông ở trong tâm trạng như vậy, nhưng nó cũng khiến ngày càng lo lắng về hôn nhân của mình khi ở chỗ làm. Chuyện gì xảy ra nếu và Nayir thể dung hòa được những điểm khác biệt? Chuyện gì xảy ra nếu Nayir, chỉ vì quá nên mới họ cùng nhau tìm cách tháo gõ mọi chuyện ? Chuyện gì xảy ra nếu trở thành vị thủ lĩnh Hổi giáo già nua rậm râu nào đó, người bao giờ thực thay đổi những suy nghĩ khắt khe về việc hành xử đúng mực của phụ nữ? Và tất cả những chuyện đó ảnh hưởng thế nào tới người cha già của đây?

      Giữa chừng những lo lắng đó, đột nhiên bật ra ý tưởng cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của với Ibrahim. gọi điện thoại động cho ông nhưng ông nghe máy, vì vậy để lại lời nhắn giải thích tại sao cần bức ảnh toàn thân của Sabria, tốt nhất là trong áo trùm. Ông có thể gửi thư điện tử cho hoặc để ảnh bàn làm việc của . Điện thoại của ông cắt phụt trước khi có thể giải thích tại sao cần bức ảnh, và ngại gọi lại vì sợ ông nghĩ làm phiền mình.

      Bực mình, nhét điện thoại trở lại túi xách.

      Có chút khuây khỏa khi Charlie Becker bước vào phòng thí nghiệm, mái tóc đỏ nâu đung đưa như tiếng cười lả lơi. Những phụ nữ khác chằm chằm nhìn Charlie, nhưng Katya đứng dậy và lên tiếng chào, vì chỗ làm việc của gần cửa nhất.

      Charlie chào đáp lại và bước đến bên bàn làm việc của , rồi ghé người vào gần để thẩm . “Tôi ở đây gần như cả ngày để giải đáp các câu hỏi, nhưng đến giờ ăn trưa rồi và tôi tự hỏi liệu có thể chỉ cho tôi chỗ an toàn để dùng bữa .”

      chỗ an toàn?” Katya hỏi lại. Tiêng của là nhờ những khóa học ở trường đại học và gần đây hơn là nhờ kho lưu trữ phim cấm của em họ. hiểu Charlie gì, mặc dù có xu hướng hiểu tất cả các từ theo nghĩa đen.

      biết đây,” Charlie , “ chỗ mà cánh đàn ông thể dòm ngó khi tôi ăn.”

      “À.” Katya gật đầu và đứng lên, vơ vội chiếc túi xách quầy rồi ra hiệu cho Charlie ra ngoài. “Tôi biết chỗ an toàn đây.”

      Vẫn có cảm giác run run khi rời khỏi toàn nhà, tuy là cùng người Mỹ vụng về, ngưòi khiến cho Katya vừa phải rín nhịn cách khổ sở vừa ngượng ngùng bày tỏ mình khi lần đầu tiên họ chạm mặt trong phòng họp. Giờ Katya lại thấy lo lắng là tiếng của mình nghe có vẻ như trong phim hạng B.

      Bọn họ dừng lại ở quán Cilantro's gần cửa hàng thời trang Le Château. Charlie thấy bối rối khi cả hai phải vào quán bằng lối cửa sau dành riêng cho phụ nữ, rồi lại phải chen chúc trong chiếc thang máy bé xíu để lên tầng hai là khu vực dành cho gia đình, nơi phụ nữ được phép dùng bữa mà có đàn ông. Khi bọn họ chọn được chỗ ngồi trong góc yên tĩnh gần bức tường bằng đá phiên xấu xí nhưng trông có vẻ đại, Charlie thở dài với vẻ bàng hoàng rồi ngồi xuống. Katya hơi bất ngờ khi thấy có vẻ buồn rầu.

      “Tôi lấy làm tiếc là được tiếng Ả Rập” Charlie . “Có nhiều điều tôi ước gì mình được ngay với lúc này.”

      cứ bằng tiếng là được mà.” Katya lóng ngóng .

      “Được, vậy , tôi mong là điều này khiến thấy bị xúc phạm, nhưng làm sao chịu đựng được công việc ở nơi như vậy nhỉ? Cánh đàn ông y như những con thú vậy!”

      Katya lịch mỉm cười. “Đó là vì đeo mạng che mặt.”

      “Tôi hiểu chứ!” Charlie ngồi ngả về trước. “Đồ chính là điều khiến tôi bận tâm, thực lòng đấy. Ở đây tôi thấy vài phụ nữ phương Tây phố, và họ đeo mạng che.”

      “Cánh đàn ông ở văn phòng lúc nào cũng mời tôi ra ngoài.” Charlie . “Ý tôi là, tôi tưởng đây là quốc gia luôn để tâm đến vấn đề phẩm giá kia. Những kiểu mồi chài trắng trợn đó khiến tôi ngạc nhiên. khó làm được việc gì khi mà bất cứ lúc chết tiệt nào cũng phải đề phòng những vấn đề tình dục. Tôi xin lỗi, tôi có ý chỉ trích. Chỉ là - tôi ngán ngẩm điều này lắm rồi.”

      Người phục vụ đến và họ gọi bánh mỳ kẹp Reuben. Katya bắt đầu băn khoăn liệu có chịu đựng nổi việc người phụ nữ này phàn nàn bằng tiếng suốt cả bữa ăn hay . cảm thấy mình ở thế phòng thủ mất rồi.

      “Hãy .” Katya . “Họ để được yên.”

      “Đúng vậy.” Charlie vừa vừa thở dài. “Ơn Chúa là bọn họ quá bận bịu với việc truy tìm tay lái xe taxi.”

      “Lái xe taxi?”

      tài xế taxi – chắc cũng biết việc họ điều tra các công ty taxi chứ?”

      Katya ngập ngừng gật đầu.

      “Bọn họ cho biết sao? Trời đất ơi.” Charlie nháp ngụm nước. “Chuyện là thế này, trước tiên, người Bedouin tìm dấu vết với Thanh tra Zahrani từ hai tuần trước rằng tên sát nhân sử dụng chân phải nhiều hơn chân trái và có khả năng lái ô-tô, có thể là để kiếm sống. Ý tôi là, hầu hết đàn ông lái xe, nhưng có vẻ đặc điểm này khá khác biệt. Do đó bọn họ cho rằng hung thủ có thể là tài xế taxi, và bắt đầu điều tra. Sau đó phát ra việc Amina al- Fouad lên taxi khi bà ta mat tích. Giờ bọn họ rất hào hứng điều tra các tài xế taxi.”

      Katya rất vui. nhận thấy mình hiểu được hầu hết những gì Charlie , và tất nhiên Charlie biết mọi tình tiết của vụ án. Mà lại chỉ có ở đây cùng Charlie ít nhất giờ nữa.

      “Nhiều khả năng hung thủ là tài xế taxi.” Charlie . “Ở đây dường như đó là cách duy nhất đàn ông có thể tiếp cận phụ nữ.”

      Katya gật đầu. “Chuyện vẫn thường xảy ra như vậy.” .

      “Ý là sao?”

      “Phụ nữ vào taxi bị bắt cóc.” Katya đáp. muôn kể cho Charlie nghe về người đàn ông đến Sở tháng trước vì vợ ta bị bắt cóc. ta và vợ vào taxi còn tay tài xế kêu ca là chạy được. Tay tài xế đó đề nghị ta ra ngoài và đẩy xe giúp , và khi ta làm vậy nhảy lại vào trong xe rồi lái người vợ mất giống như tay cướp người Bedouin dạo trước trôi vào quên lãng.

      Charlie trông khiếp đảm. “Làm thế nào mà chỗ này chỗ kia nếu tin được cánh tài xế taxi chứ?”

      “Em họ tôi đưa tôi .” Katya . “Và thỉnh thoảng người bạn của bố tôi cũng chở giúp.”

      Họ im lặng lúc.

      “Tôi có thể hỏi về vụ án đó được ?” Katya .

      “Được chứ!” Charlie đáp.

      về thứ vật tế. Chúng tôi nghĩ đó chính là những bàn tay “

      “Đúng rồi. Những bàn tay bị chặt.”

      nghĩ điều đó có nghĩa gì?” Katya hỏi. “ chỉ giữ vài bàn tay trong số đó thôi sao?”

      Charlie có vẻ bớt căng thẳng hơn và mỉm cười với cách ranh mãnh. “ biết , chưa ai đặt cho tôi câu hỏi đó cả. Ý tôi là, bọn họ hỏi đủ thứ về những vật tế, nhưng muốn hỏi ý kiến của tôi. Tôi nghĩ về vân đề này. chung vật tế là thứ gợi nhớ hữu hình về vụ giết người. Nó giống như vật lưu niệm, ngoài trừ việc tên sát nhân có thể chọn bất cứ vật lưu niệm nào. Tôi tại sao ta chi chôn có ba bàn tay ở khu mộ đó. Câu hỏi thực , theo tôi nghĩ, phải là tại sao ta lại chặt những bàn tay đó? Bàn tay có ý nghĩa gì?”

      Katya nhún vai, chắc phải trình bày ý kiến bằng tiếng thế nào.

      “Dựa vào kinh nghiệm có,” Charlie tiếp, “tôi phỏng đoán là bàn tay vì lý do nào đây có mối liên quan tới tổn thương. trong những lý thuyết tâm thần học về mộng tưởng là tất cả những mộng tưởng - nhưng nhất là những loại có liên quan đến tình dục - thực chất là cách mà con người ta đối mặt với những ảnh hưởng của tổn thương. có theo kịp những gì tôi ?”

      “Có.”

      “Thí dụ như, tôi từng có bệnh nhân tâm thần khi còn rất ghét mẹ người bạn thân. Bà ta lúc nào cũng nghiệt ngã với ta và có vẻ nghĩ rằng ta quá nghèo và ngốc nghếch đến mức thể chơi với con trai bà ta được. Rốt cuộc là bà ta buộc họ phải chấm dứt tình bạn đó. Thời điểm đó đối với bệnh nhân của tôi là nỗi đau khổ khôn cùng. Nhiều năm sau, ta trở nên bị ám ảnh - thời mắc chứng rối loạn lâm sàng như vậy là hơi cực đoan - ta bị ám ảnh bởi mộng tưởng tinh dục là ta ngủ với người đàn ông có vẻ ngoài và hành động rất giống với ngưòi cha của bạn ta thuở niên thiếu. Và mộng tưởng đó luôn có xuất của bà mẹ xô cửa vào và phát ra chồng mình là đồng tính nam rổi bà ta tức giận, hoặc bị cuôn vào cuộc chơi đó như kẻ phục tùng. Tôi xin lỗi, tôi có thể thấy là hoàn toàn theo kịp câu chuyện.”

      , tôi hiểu được.” Katya . “Mộng tưởng là để nhằm hàn gắn những nỗi đau của điều rất tệ, có thể là từ thời thơ ấu của người ta.”

      “Chính xác. Như vậy là phần mộng tưởng của tên sát nhân này có liên quan đến việc lấy những đôi tay của phụ nữ. Những đôi tay đó cực kỳ quan trọng đối với , như vậy, nó chính là lý do. Có thể bị mất bàn tay. Có thể ai đó bị thương tật ở bàn tay bức hại . Có thể là bất cứ lý do nào tương tự thế. Tôi gợi ý cho Thanh tra Zahrani tìm những tội phạm có thương tật ở bàn tay trong hồ sơ y tế. Còn phải nỗ lực nhiều nữa, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, để bắt được tên giết người hàng loạt có thể mất đến hàng tháng, hàng năm. càng có nhiều thời gian cơ hội để bắt được ta càng lớn. Tôi thấy có điều gì muốn .”

      “Vâng” Katya . Bánh kẹp được mang tới, và họ bắt đầu ăn. “Ở Ả Rập Xê-út, khi ai đó bị chặt bàn tay có nghĩa đó là kẻ trộm.”

      Charlie nhai bỗng có phần chững lại, vẻ sửng sốt nét mặt . “ biết đây, tôi biết điều đó, tôi chỉ ... Chúa ơi, tôi ngu ngốc. Dĩ nhiên rồi. Đó chính là hình phạt đối với kẻ trộm. Vậy có thế tên giết người cảm thấy phải trừng phạt các nạn nhân. Có thể nghĩ họ là những tên trộm.”

      “Và còn hơn thế?” Katya .

      “Ý là sao?”

      “Ở Ả Rập Xê-út, khi hành hình phụ nữ, người ta chặt đầu ta. Họ bắn ta từ sau gáy.”

      vậy sao?”

      “Vâng. Nếu họ chặt đầu, cái đầu có thể lăn ra và áo trùm bị tụt xuống, và người ta trông thấy mặt ta. Chính vì vậy họ bắn. Đôi khi họ cho người phụ nữ đó quyền lựa chọn.”

      “Lạy Chúa tôi.” Charlie đặt chiếc bánh kẹp xuống. “Như vậy là tất cả chuyện này có thể liên quan tới mộng tưởng của tên đao phủ.”

      “Có lẽ vậy.” Katya . “Tên giết người nghĩ rằng giống như tên đao phủ. Nhưng làm thế nào mà điều đó giúp chúng tôi tìm ra được?”

      “Thực ra ,” Charlie , “có thế người thân của hoặc người nào đó quý bị hành hình cách bất công. Có thể hữu ích nếu xem xét các hồ sơ hành quyết. có giữ chúng ?”

      “Chúng ta có thể mượn được.” Katya vui vẻ . “Nhưng còn bàn tay phố Falasteen, của Amina al-Fouad. Nó giống với những nạn nhân khác. có cho rằng hung thủ cũng chính là tên sát nhân Thiên sứ đó ?”

      gọi là gì cơ?”

      “Tên sát nhân Thiên sứ.” Giờ đến lượt Katya ngạc nhiên. Tại sao Charlie biết hết mọi chuyện mà lại biết chuyện này nhỉ? giải thích bằng khả năng có thể về mười chín cái xác và tầm quan trọng của con số mười chín trong kinh Koran.

      Charlie ngừng ăn và lắng nghe cách chăm chú. “Như vậy chỉ dựa thực tế là có mười chín cái xác, cho rằng tên sát nhân hình dung là thiên sứ của báo thù - trong những thiên sứ gác cửa Địa ngục. Và trừng phạt những ai đáng phải xuống Địa ngục?”

      “Đúng vậy.” Katya . “Đại loại như thế”

      “Như vậy là, nó phù hợp với mộng tưởng về hành hình. Những ý niệm tôn giáo cũng là động cơ của số tên giết người hàng loạt Có lẽ nên tìm những kẻ theo đạo giáo chính thông.”

      “Điều đó giúp khoanh vùng đối tượng.” Katya . Charlie cười phá lên, nhưng Katya cho rằng chuyện đó có gì là buồn cười. Charlie dường như nhận ra và cười nữa.

      “Hầu hết những tên giết người hàng loạt nhìn bên ngoài có vẻ gì điên rồ cả.” Charlie . “Thực ra, chúng trông như những người bình thường khác, thậm chí dễ nhìn hơn. Chúng dành khá nhiều thời gian đế cố gắng trà trộn với mọi người.” lại cầm chiếc bánh kẹp lên. “Đúng như hỏi, tôi có cho rằng bàn tay bị chặt đó có liên quan đến tên sát nhân Thiên sứ.”

      “Nhưng chưa bao giờ chặt tay phụ nữ khi người đó còn sống cả. Và trước đó cũng chưa bao giờ vứt bỏ bàn tay nào trong thành phố hết. Và ràng bỏ lại cả chiếc xắc tay ở đó để chúng tôi nhận diện được bà ta.”

      “Đúng vậy. Vụ này có khác biệt. Có lẽ có điều gì đó châm ngòi nó, và theo hình dung của tôi đó chính là việc các phát ra và di dời những cái xác đó khỏi địa điểm chôn cât. cách khác, những cái xác cũng chính là chiến lợi phẩm của .”

      “Nếu nghĩ về vụ này theo cách mộng tưởng,” Charlie tiếp, “ bàn tay phố Falasteen có thể là bước tiên về kỹ thuật của . Hầu hết kỹ thuật của những tên giết người hàng loạt có tiến hóa. Chúng trở nên thành thục đến mức có thể áp dụng các kỹ thuật đó cách hoàn hảo. Chúng biết làm thế nào để bắt người, làm thế nào để họ sống sót, làm thế nào để kéo dài nhục hình. Chúng biết cách để bị bắt. Đó chính là điều khiến chúng trở nên vô cùng nguy hiểm. Nhưng chúng cũng có thể chán ngay việc làm quá tốt, và muốn thứ gì đó khơi dậy chú ý hơn. Do đó chúng đổi cách làm.”

      có nghĩ giết Amina ?” Katya hỏi.

      Nét mặt Charlie căng thẳng. “Có. trở nên liều lĩnh đến mức vứt bỏ bàn tay của bà ta ở nơi công cộng và mạo hiểm thu hút chú ý. Nhưng tại các lợi thế. Đối với những tên giết người hàng loạt có tính tổ chức như , nó chính là cẩu thả để khai thác. có thể để lại vài bằng chứng. tìm được gì chưa?”

      “Tôi biết nữa.” Katya . “Tôi chi chạy các mẫu. Bọn họ cho tôi biết nó có ý nghĩa gì.”

      Charlie nhìn dò xét. “Tôi cố tìm hiểu xem sao.”

      Katya mỉm cười.

      “Trong khi chờ đợi,” Charlie , “với kẻ có tổ chức như tên này, hẳn có các quy luật.”

      đường trở lại văn phòng, Katya kiểm tra điện thoại và hài lòng khi thấy Ibrahim gửi ba bức ảnh toàn thân của Sabria mặc áo trùm, cùng lời nhắn Cảm ơn . chào tạm biệt Charlie ở lối vào tòa nhà và ngay lập tức bắt taxi đến trung tâm thương mại. Trước khi lên xe, xem xét tài xế cách cẩn thận và người đàn ông mà thấy chắc chắn là người Pakistan trung niên vui vẻ, có cái bụng phệ, ân cần mở cửa xe cho và vặn tiếng nhạc khi vào xe.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 17

      “Chúng tôi chạm vào phụ nữ.” Đó là tiếng Abu-Musa, kiểm soát viên trưởng về y tế, người đứng trong khư vực nhà xác cùng Sĩ quan Chỉ huy Mu'tazz. Abu-Musa có đôi mắt nâu như đầm lầy và im lặng lạnh lùng. Chiếc quần kiểu du kích thời chiến với túi hộp xệ xuống xộc xệch do nhiều năm đựng cuốn kinh Koran bỏ túi. Đôi vai và hai bàn tay vĩ đại, thuộc loại có thể siết chặt bất cứ thứ gì.

      “Vậy ông chỉ có phụ nữ lo việc cho mười chín cái xác sao?” Ibrahim hỏi với giọng cố ý khiêu khích và cố gắng lớn tiếng để dọa nạt họ thoát khỏi cái ảo tưởng tự cho mình là đoan chính.

      ấy thực phận .” Abu-Musa với vẻ dọa dẫm, như người đàn ông bảo vệ vợ mình.

      “Tên này giết phụ nữ.” Ibrahim lớn tiếng lại. “Ông thể đòi chúng tôi bắt biết gì về các việc được. Và chúng tôi càng sớm có được các thông tin đó càng có khả năng ngăn chặn tiếp tục ra tay.”

      “Vậy hãy bắt đầu tìm kiếm những người ngoại quốc xem, đó là những kẻ có khả năng giết những phụ nữ đó.”

      Ibrahim phẫn nộ.

      “Ông vẫn chưa thử khả năng đó, đúng ?” Abu-Musa . “Nhưng có trời mới biết tại sao tên ngoại quốc lại giết người ở đấy chứ? Có thể đó là vì cả ba tên giết người hàng loạt trước đấy đều là người ngoại quốc chăng?”

      “Chúng tôi phải nhận dạng các thi thể.” Ibrahim lạnh lùng . “Đó là cơ hội tốt nhất để tìm được kẻ đó.”

      “Ông có những bản phác họa khuôn mặt của họ rồi.”

      “Chúng tôi cần tất cả những bằng chứng pháp y lấy từ các thi thể đó. Và chúng tôi cần ngay bấy giờ.”

      “Ông có khi nào nó được hoàn chỉnh.”

      Và giờ là thái độ vênh váo nữa, Ibrahim nghĩ.

      “Nếu những giá trị đạo đức đứng vững trong lúc khó khăn,” Abu-Musa , “ chúng đáng là rác rưởi”

      Có thể thế lắm, Ibrahim muốn đáp lời, nhưng ông thấy mình phải đối mặt với cái gì. có hai người đàn ông bắt đầu nghi ngờ ông về đứng đắn, và cuộc hội thoại này chỉ làm mọi việc tồi tệ hơn mà thôi.

      Ông quay trở lại phòng họp. Căn phòng bóng người, cuối ngày rồi. buổi tối thứ Tư mát dịu. Ngày mai là cuối tuần. Mọi người ra ngoài cùng bạn bè, cắm trại với gia đình phố Comiche, có lẽ vờ như có tên sát nhân nào lẩn quất trong mê cung đó. Ông đến bên chiếc bảng trắng và bắt đầu gỡ từng bức ảnh xuống, phải là giận cá chém thớt đối với Abu-Musa mà vì ông muốn nhìn chằm chằm vào họ nữa. Những khuôn mặt bị tàn phá cách tàn bạo đó có chứa những dấu vết của Sabria. con mắt. gò má. Lý trí của ông hiểu rằng đó chỉ là do góc nhìn, nhưng adrenaline (1) lại chứng minh với ông rằng cơ thể ông hiểu như vậy.

      (1) Hormone của tuyến thượng thận, có nhiệm vụ điều hòa hoạt động thần kinh, tăng sức mạnh cơ bắp, tiết ra nhiều khi hoảng sợ. Căng thẳng.

      Ông trở lại căn hộ của , như hằng đêm ông vẫn làm từ khi mất tích, gần như điên cuồng mong chờ rằng về nhà. Trước khi nỗi thất vọng thực làm tan nát cõi lòng, ông lại vội vã bỏ và lái xe quẩn quanh trong thành phố, hòa vào dòng xe kẹt tắc buổi chiều tối và cố nhìn chằm chằm vào những phụ nữ bên hè đường.

      Ông thường nhớ những kỷ niệm với Sabria khi ông đưa tới nơi nào đó mà ông quen thuộc và cố gắng sẻ chia những hiểu biết của mình về nơi đó, thường trở nên căng thẳng và dè dặt. Có những lúc dường như cảm thấy bị đe dọa bởi hiểu biết về thành phố này của ông. Phải mất thời gian khá dài mới chịu thừa nhận rằng tức giận vì điều này. phải vì ông, mà vì tình cảnh đó. Lý do duy nhất có được hiểu biết như vậy chỉ là vì được tự do lại như ông. Ngay cả khi thực những công việc bí mật, dành hầu hết thời gian để hoàn thành vai trò của người giúp việc, cố gắng hết sức để hòa hợp cách nhuần nhuyễn với thế giới xung quanh , điều đó nghĩa là phải hành xử như hầu hết những phụ nữ khác.

      Ông bắt đầu chỉ đưa lui tới số ít nơi nhiều lần. Những nơi an toàn, như nhà thờ nổi và bãi biển tư nhân xuôi theo bờ biển nơi ai có thể thấy họ. Ông mong muốn biết bao nhiêu được đưa tới những nơi khác nữa trong thành phố! Bảo tàng Thành phố al-Tayibat và phố Rayhanat al-Jazeera để thấy lịch sử trải dài của thành phố được sắp đặt trong ba trăm căn phòng. Hoặc tới Khayyam al-Rabie để thỏa mãn tính hảo ngọt của . Hay tới Yildilar để tận hưởng bữa tối lãng mạn mà ông luôn mong muốn cách vô vọng được mời . Nhưng sợ hãi bị phát còn lớn hơn khát khao đó.

      Đó cũng chính là ý định phía sau lời cầu của Katya về bức ảnh toàn thân của Sabria trong chiếc áo trùm và khăn quàng, ông ngẫm ra điều này. Có thể ai ở khu mua sắm dành cho phụ nữ đó nhận ra bức ảnh của Sabria bởi họ để ý nhiều lắm đến khuôn mặt . Nhưng họ có thể nhận ra dáng người .

      Ông rất muốn với Katya rằng ông hiểu chính xác điều làm. Đó là điều ông trải qua nhiều lần từ khi còn là đứa trẻ, bé, sợ hãi khi chạy qua các khu chợ và khu mua sắm, lúc nào cũng hoảng hốt sợ bị lạc mẹ, người mẹ luôn mặc áo trùm và mấy trìu mến của ông. Bà có dáng người giống với nhiều phụ nữ khác, ông sớm nhận ra điều đò, và bà lúc nào cũng che kín toàn bộ khuôn mặt, còn người là chiếc áo trùm che kín cả mắt cá chân lẫn đôi giày, khiến ông trở nên bé khi lẽo đẽo theo sau. Bà di chuyển qua đám đông rất nhanh, như thể sợ bị người ta trông thấy, sợ bị kẹt lại ở nơi nào đó. Omar luôn thấy thoải mái chạy nhảy lung tung. Nếu cậu tìm thấy mẹ cậu cũng chẳng hốt hoảng làm gì. Cậu tự lập và nhanh nhẹn giống bà. Còn Ibrahim bao năm trời đều gặp ác mộng bị lạc mẹ ở chợ. Ông bắt đẩu đế ý đến những thứ nhặt nhất. Đến lần thứ bảy ông nhận ra được đường cong của bờ vai mẹ khác với những phụ nữ khác thế nào - bà có dáng lưng nghiêng nghiêng và đôi vai tròn đến buồn cười mà lại hơi gầy nữa. Có lẽ đó là lý do Farrah có vấn đề với cái lưng của mình. Ông để ý đến hình dáng đầu của mẹ, từng chi tiết của những chiếc kẹp khăn choàng đầu của bà - lúc nào cũng được quấn theo cách ấy, những chiếc kẹp an toàn màu đen giản dị xung quanh đỉnh đầu của bà. Ông hiểu cách của bà: những bước chân thoăn thoắt, dứt khoát. Ông bắt đầu quen thuộc với dáng người của mẹ đến mức thỉnh thoảng bà đến đón ông sau giờ học, ông nhận ra mẹ trong đám đông từ cách đó năm mươi mét.

      Khi Katya gọi cũng là lúc ông đường về nhà.

      “Tôi mừng vì gọi.” Ông . “Muộn rồi nên tôi chắc có thích hợp khi phiền hay .”

      “Tôi phát ra điều rất thú vị.” . “Mặc dù tôi chắc nó có ích gì .”

      cứ .”

      phụ nữ làm việc tại quán café ở khu mua sắm nhận ra ấy ngay tức qua bức ảnh. ta Sabria thường ngồi ở quán đó và gặp gỡ những phụ nữ khác. Bọn họ hay chuyện lúc, rồi người bạn kia .”

      “Lúc nào cũng là người bạn đó à?”

      , số ít người khác nhau. ta cũng Sabria luôn vào buồng vệ sinh. Lúc đầu ta cứ nghĩ vì ấy uống nhiều cà phê quá, nhưng sau hổi ta để ý thấy những người bạn này cũng cùng ấy và họ ở trong đó rất lâu - dù sao cũng lâu hơn mức bình thường.”

      ta có biết họ chuyện gì với nhau ?” Ông hỏi.

      , nhưng ta có vẻ như chuyện rất quan trọng. Trông họ chẳng bao giờ vui vẻ cả. Và ngoài cà phê Sabria bao giờ mua sắm gì hết.”

      “Như vậy ràng là có điều gì đó kỳ lạ xảy ra.” Ông . “Khi nào nhân viên của quán đó để ý đến những việc ấy?”

      ta cũng phải thời gian. Sabria thường che mặt, và nhân viên chỉ nhận ra ấy qua dáng người. ta cũng lờ mờ thấy mặt Sabria hai lần gì đó. Sabria để khăn trùm mặt, có vẻ là người vô cùng e lệ, muốn ai nhìn, nên nhân viên đó chăm chăm để ý đến ấy.”

      “Và ta chắc đó chính là ấy chứ?”

      “Tôi cho ta xem bức ảnh chụp gương mặt Sabria, và ta có vẻ khá chắc chắn hai người đó là .”

      “Được rồi.” Ibrahim vừa vừa nghĩ. “Như vậy là ấy có đến khu mua sắm đó.”

      “Vâng, có vẻ là vậy.”

      “Và gặp gỡ số phụ nữ nữa.”

      vài người là người Philippines. nhân viên trông họ nghèo khổ hơn những người mua sắm hạng trung, và Sabria luôn trả tiền cà phê cho họ.”

      “Những người giúp việc.”

      “Ông có biết ai trong số bạn của ấy à?”

      .” Ông đáp. “Ngoại trừ những người láng giềng. ấy ...” bất cứ gì về chuyện này với tôi cả.

      Như vậy là Sabria dối về việc làm ở khu mua sắm, nhưng dù sao ấy cũng có đến đó, gặp gỡ những người bạn mà bao giờ nhắc gì về họ cả. Có vẻ có gì là bất chính như chuyện kể lại. Có thể ấy chỉ giúp đỡ họ thôi.

      “Còn chuyện này nữa.” Katya . “Nhưng phải về Sabria, mà là về vụ Thiên sứ.”

      tiếp .”

      bắt đầu giải thích về tầm quan trọng của những đôi tay bị chặt đứt và những phát bắn từ phía gáy nạn nhân, và suy nghĩ về thiên sứ của trả thù. Mười chín. Đấy chính là điều chắc chắn khiến ông khiếp sợ ngay từ cái ngày họ phát ra những thi thể đó. Cái điệu cười thỏa mãn Abu-Musa lên trong tâm trí ông ràng như thực.

      “Đó là liên hệ rất sắc sảo.” Ông . “Chắc chắn chúng tôi tiếp tục theo hướng này”

      “Ông kiểm tra các hồ sơ hành quyết của những người bị trừng phạt vì tội ăn cắp, phải vậy ?”

      “Thực ra, đúng vậy, tôi nghĩ đó là điểm để bắt đầu.”

      “Tôi hiểu là phải phận của mình khi điều này,” Katya , “nhưng có thể hữu ích nếu ông kiểm tra các hồ sơ hành quyết ở Jeddah trong vòng ba mươi năm qua nữa.”

      cho rằng tên giết người có thể là người hành quyết ư?”

      . Thực ra là Tiến sĩ Becker gợi ý cho tôi điều này, nhưng có khả năng tên sát nhân mất người thân hoặc ai đó thân thiết với , và người đó bị hành quyết.”

      suy đoán rằng các hồ sơ hành quyết có chứa các thông tin về thành viên gia đình đấy” Ông . “Tôi cho là vậy.”

      Katya thở dài. “Vậy chúng ta phải tự tìm các gia đình đó thôi. Tôi chỉ nghĩ là chúng ta cần thu thập nhiều thông tin hết mức có thể để dựng được hồ sơ về tên giết người này.”

      “Quả vậy, rất đúng. Nhưng có vô khối công việc phải làm.”

      “Tôi vui lòng tự kiểm tra các hồ sơ vụ án. Công việc ở phòng thí nghiệm nhất thiết cần tôi lúc nào cũng phải trực máy.”

      “Tôi cân nhắc mình có thể làm gì. Và tôi mừng vì cho rằng về tất cả những điều này là phận , Hijazi ạ.” Ông . “ làm việc rất tốt.”

      Katya im lặng ở đầu dây bên kia. Ibrahim thể hình dung lúc này cảm thấy thế nào. đủ táo bạo để gọi cho ông vào lúc đêm khuya ngày thứ Tư thế này và với ông làm thế nào để điểu tra, nhưng lại rất chừng mực khi ngồi ở băng ghế sau và che mặt như con dâu Saffanah khép nép đó. Có lẽ, chỉ là giống Saffanah thôi, ấy phải là Saffanah.

      “Tôi thu xếp để rút được các hồ sơ đó.” Ông . “Còn có ai trong phòng thí nghiệm có thể giúp kiểm tra chúng ?”

      “Có, tôi chắc nhờ được ai đó.”

      “Tốt.”

      Ông cảm ơn Katya và ngắt máy nhưng bỗng nhiên cảm thấy kiệt sức. Mỗi khi ông buộc mình phải tập trung vào tên giết người này là ông lại cảm thấy nỗi khiếp sợ đó. Toàn bộ vụ án mở rộng cách nhanh chóng giống như tế bào bị nhiễm vi-rút vậy. Giờ đây bất cứ giây phút nào nó cũng có thể nổ tung và nhân bản nhiễm thể của nó đến toàn bộ hệ thống.

      Khi gần về đến nhà, ông dừng xe lại và chăm chú quan sát những khách bộ hành nữ, băn khoăn tự hỏi về tất cả những nơi nào Sabria có thể đến mà có ông.

      Chương 18

      Khu chôn cất ngoài sa mạc bị bỏ . Hai sĩ quan cảnh sát ngồi gác tại ngã rẽ nơi con đường chính lộ của hạt tạo thành vệt nét chạy dọc bên phải khu vực họ tìm được các xác chết. Con đường thậm chí bị cát tàn phá còn nặng nề hơn cả trước đó. Dải băng của trường vụ án vây quanh khu mộ chôn, và hai cảnh sát tuần lôi mòn mới hình thành xung quanh khu mộ đó.

      Katya chìa tấm thẻ tên cho hai sĩ quan cảnh sát và họ để qua. Nayir lái xe. ngồi ở ghế trước và cảm nhận nắng nóng hai má mặc dù hệ thống điều hòa trong chiếc Land Rover hoạt động. Phía sau họ là đội tìm dấu vết Murrah, Talib al-Shafi và hai ngưòi cháu của ông, chen chúc trong chiếc taxi tải sàn phẳng hiệu Toyota trông có vẻ còn lớn tuổi hơn cả .

      rất bối rối khi đề nghị Ibrahim cho phép làm việc này. Trong suốt cuộc trao đổi điện thoại, cảm thấy mình đủ trơ tráo khi đưa ra gợi ý kiểm tra các hồ sơ hành quyết. Sau đấy thấy nhạt hết hứng thú - hoặc có cảm giác là ông cảm thấy như vậy. coi chuyến này dù sao cũng là hệ quả hơn, và thu xếp nó với giúp đỡ của Majdi thay vì ông. Ông cho số điện thoại của nhóm Murrah, và tốt là Nayir thay mặt gọi cho họ.

      Hôm đó là ngày thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần. Nayir rất hào hứng vì có lý do để lên kế hoạch cho chuyến sa mạc cùng với , nhưng làm mất hứng đường khi về vụ Thiên sứ. lắng nghe chăm chú, và phản ứng duy nhất là bàng hoàng khó tả. Nó vẫn còn hữu gương mặt khi họ lái lên phía khu vực trường.

      Họ quan tâm đến những điếm chôn cất mà chú ý đến các khu vực xung quanh chứng. Đó là khu vực đủ xa để tên giết ngưòi có thể, thí dụ như, đến đấy mà bị cảnh sát bảo vệ phát giác chẳng hạn. Bởi vì trở lại đấy. biết những cái xác được di dời.

      Họ lái xe lên phía dải băng của trường vụ án lấp lánh như những dải ruy-băng màu nhạt dưới ánh nắng chói chang. Tất cả bước ra khỏi xe để quan sát vòng. Sau khi dò xét kỹ càng, nhóm tìm dấu vết cho rằng tốt nhất là về phía tây, ở đó địa hình dốc hơn nên dễ dàng hơn cho tên sát nhân quan sát khu vực này mà bị phát .

      Họ lái xe trở lại con đường của hạt rồi tiến thẳng về phía tây với tốc độ có cảm giác còn chậm hơn cả tốc độ sụp đổ của nền văn minh. Chiếc xe của nhóm Murrah ở phía trước, hai người cháu lúc này tỳ gối sàn xe, mỗi người bên, chăm chú quan sát các dâu vết để lại con đường. Họ thậm chí còn để ý cả các vệt lốp xe, như những chú chó săn. Nayir và Katya hồi hộp quan sát họ.

      Cuối cùng, họ dừng lại, rồi người nhảy qua tấm chắn bùn và khẽ ghếch bên vai. Họ thấy cái gì đó. ta ra hiệu cho Nayir lùi xe lại và rẽ sang bên phải.

      Nayir lái chiếc Land Rover lăn qua lớp cát và hạ kính cửa sổ xe xuống.

      “Có vệt bánh xe ở đấy.” Người cháu trong nhóm Murrah vừa vừa chỉ vào điểm đỗ của chiếc Toyota. “Có ai xóa nó nhưng những dấu vết đó vẫn còn đấy.”

      “Bọn chúng xóa dấu vết sao?” Nayir hỏi. “Bằng cái gì được nhỉ?”

      tấm bìa các-tông. Chúng tôi để xe lại đấy và bộ dẫn đường cho để chúng ta có thể để ý tới con đường.” ta nhìn lướt qua Katya, ý rằng Chúng tôi làm phiền riêng tư của vợ đâu. Nayir gật đầu với vẻ cảm kích. Katya cảm thấy mình trôi theo cái gật đầu đó, tuột vào thế giới mà người ta mong là bị bỏ lại mình trong ô-tô. Rồi tự nhắc mình rằng toàn bộ chuyến này là ý tưởng của - phần là nhờ vào phụ nữ Mỹ thậm chí còn có che mặt - và rằng chỉ trong giây lát ra ngoài nắng cát đó và đầm đìa mồ hôi như những người đàn ông kia.

      Họ theo nhóm Murrah khoảng hơn cây số. Lốp xe của chiếc Rover phát ra tiếng lốp bốp khi chèn phải những hòn sỏi nằm rải rác chỗ này chỗ kia. Cuổi cùng, người trong nhóm Murrah giơ tay lên và Nayir dừng xe lại.

      Katya ra khỏi xe và kéo tâm khăn lên che qua mũi và miệng, gài nó vào khăn trùm đầu. làm vậy phần là để nhóm Murrah được thoải mái, nhưng chủ yếu là vì ánh nắng bỏng rẫy làm rát khuôn mặt , nghĩa là làm các mô mềm mặt bị chảy nhão. đeo cặp kính râm vào và theo bước Nayir, theo đúng nghĩa, khi bước lên các dấu chân của . người trong nhóm Murrah nhận thấy điều đó và với Nayir: “ ấy phải làm vậy đâu. Chúng tôi biết dấu chân của ấy thế nào mà.”

      “Cẩn thận cũng tốt mà.” Nayir đáp.

      Bọn họ đứng ở đó, chờ đợi người ông, Talib, nghiền ngẫm các vệt lốp xe dẫn về phía con đường. Khi ông trở lại chỗ mọi người, ông : “ lái chiếc GMC và chiếc lốp phải phía trước bị non hơi. Chúng ta còn có gì nữa nào?”

      lâu sau họ tìm thấy các dấu chân.

      Talib hề lúc lâu; ông chỉ nghiền ngẫm mặt đất, loanh quanh lại và gật gật đầu như thể nghe gió kể chuyện vậy.

      Ông ra hiệu cho Nayir lại gần rồi chỉ vào chỗ mờ mờ dấu vết mặt đất, và bắt đầu giải thích. “Chiếc xe đỗ ở chỗ này. bước ra ngoài rồi đến chỗ đó, rồi quay trở lại chỗ chiếc xe tải ấy. Có lẽ tức giận; những dấu chân giận dữ khi quay trở lại.”

      Đó có thể là khi phát những cái xác biến mất. Katya nghĩ.

      Mọi người theo dấu chân đến sát đụn cát hơi uốn lượn. Từ chỗ này có thể dễ dàng thấy khu mộ chôn. “ dừng lại ở đây.”

      Talib . “Đây chính là địa điểm quan sát.”

      Katya chụp loạt ảnh. “Ông có biết vào khoảng thời gian nào đến đây ?” hỏi.

      “Tôi có thể những dấu chân này có khoảng năm hoặc sáu ngày gì đó.” Ông .

      “Lúc ấy cảnh sát vẫn còn ở đây.” Katya . “Và cả đội pháp y nữa. Hẳn là rất nhiều người.”

      “Nếu đến vào giữa buổi sáng,” Nayir , “mọi người thể nhận ra có mặt ở đây. Mặt trời lúc đó ở phía sau .”

      Talib gật đầu.

      “Nhưng làm thế nào qua mặt được xe cảnh sát đường nhỉ?”

      “Từ phía nam.” Talib chỉ tay. “Có con đường khác chạy quanh khu vực đó, và vết bánh xe của rẽ vào từ hướng đối diện giống như chúng ta.”

      “Có thể có thói quen đến đây.” Katya . “Có lẽ lúc nào cũng kiểm tra khu vực trước khi lại gần.” nhớ lại năm hoặc sáu ngày trước. Đó chính là thời điểm họ tìm được bàn tay của Amina phố Falasteen. Có khả năng tên sát nhân đến đây kiểm tra khu vực của mình. Việc khám phá ra những cái xác bị phát khiến nổi khùng và thúc đẩy việc chặt đứt bàn tay của Amina trước khi chủ định làm vậy. Nhưng nếu Amina thực nạn nhân của , câu hỏi đặt ra là tại sao bà ta giống những nạn nhân trước đấy.

      Katya tiếp tục chụp ảnh. Những người đàn ông khác bước ra chỗ khác, ngoại trừ Talib. Ông đứng đó nhìn về phía khu mộ chôn, cố ý lảng tránh cái nhìn chăm chú của Katya.

      phải làm vậy đâu.” Ông . “Tôi nhớ các dấu chân đó.” Khi quay , ông với qua vai. “Và đừng lo, nó được đưa ra trước tòa.”

      từ lâu bạn bè còn hỏi khi nào cưới. Giờ hai mươi chín tuổi, cái tuổi quá lớn để có được người chồng tử tế. Và việc hỏi thăm trở thành điều khiếm nhã. Vài người bạn thân cố gắng tìm cho chàng từ nhiều năm rồi. luôn luôn nằm trong danh sách khách mời cưới đầu tiên của họ, bởi đám cưới là nơi mà chuyện mai mối diễn ra nhiều nhất. Nhưng sau khi việc đính hôn với Othoman thành, ngay cả những người bạn đó của cũng thôi bàn về chuyện hôn nhân nữa. Có lẽ họ nghĩ cần thời gian để lấy lại thăng bằng, hoặc có thể họ tin rằng chẳng thể nào bình thường trở lại được. Và khi im lặng đó mê hoặc , trở nên hoài nghi về những viễn tượng của chính mình mà thậm chí hề nghĩ đến việc thực nó.

      Lời cầu hôn của Nayir hóa giải mê hoặc ấy. Thay vào đó, chính nó lại đặt bùa chú khác lên .

      Chặng đường về căng thẳng. so sánh Nayir với em họ của mình. Ayman lớn lên ở Li-băng và dành khoảng thời gian nhiều đến bất thường để xem truyền hình vệ tinh, chính vì vậy mà cậu hiểu biết rất rộng về thế giới. Cậu biết chính xác tên giết người hàng loạt là thế nào và thậm chí còn ngay lập tức nhớ lại những mẩu tin nhặt. Liệu có biết John Gacy hãm hiếp ba mươi nạn nhân nam giới và chôn họ dưới tầng hầm nhà ? Và chuyện Jeffrey Dahmer cố biến các nạn nhân thành thây ma sống? (Kể cả việc các nhà khoa học giữ lại bộ não của Dahmer để phục vụ cho nghiên cứu nữa?) Những gợi nhớ đó của Ayman khiến lo lắng, nhưng còn bằng trang trọng của Nayir.

      “Chúng ta chưa từng có vụ nào như thế này cả.” . “Loại quỷ sa tăng đó. ta chỉ tồn tại ở quốc gia nào khác, chứ phải ở đấy.”

      “Có thể” . “Hoặc có thể chỉ vì chúng ta chưa bao giờ để ý. Phải mất nhiều năm họ mới phát ra vụ này”

      Điều này có vẻ khiến tức giận. “Sao bao nhiêu người mất tích như thế mà có ai để ý được nhỉ?”

      “Bọn họ đều là những lao động ngoại quốc.” Katya . “Có lẽ họ chạy trốn, ai biết họ bắt đầu từ đâu nữa.”

      “Và giờ tên giết người biết việc cảnh sát phát ra những cái xác đó.” . “Em nghĩ ta làm gì tiếp theo nữa?”

      “Em nghĩ ta có nạn nhân kế tiếp rồi.” thấy mệt mỏi. Cái nóng làm kiệt sức, và những phát của ngày hôm nay chỉ khiến toàn bộ tình hình trở nên phức tạp hơn. muốn với rằng mạnh mẽ, can trường.

      “Có khả năng phát ra em.” . “Về những người tham gia vào vụ án này.”

      “Luôn có khả năng đó.”

      có thể thấy cố gắng thận trọng để đáp lại điều đó, nhưng cuối cùng gì và suốt cả quãng đường còn lại để về nhà, họ im lặng trong nỗi bứt rứt khôn nguôi.

      Chương 19

      Buổi sáng thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần, Ibrahim vẫn làm. Ông thể đối diện với việc cả ngày trời ngồi ở nhà, lo lắng cách vô vọng về Sabria.

      Ông ngạc nhiên khi thấy Majdi và Daher trong phòng khám nghiệm pháp y. Daher mặc quần jeans và áo phông chứ phải bộ vét thường ngày. ta ngồi bên chiếc bàn cạnh Majdi nhắn tin cho ai đó.

      Điện thoại của Ibrahim rung và ông lấy máy ra khỏi túi quần. Daher nhắn tin cho ông. ta nhắn là: Majdi phát ra điều gì đó.

      “Sao nhanh thế!” Daher khi ta nhìn thấy Ibrahim. ta đứng dậy, trông có vẻ hơi ngượng ngùng khi bị bắt gặp trong bộ quần áo thường nhật. Nó gợi cho Ibrahim nhớ rằng ta vẫn còn trẻ biết bao.

      phát được điều gì vậy?” Ông hỏi.

      Majdi đứng lên và ra hiệu về phía màn hình máy tính. “Chúng tôi nhận diện được các nạn nhân khác, những người có bàn tay được chôn ở khu mộ.” ta . “Tên ta là May Lozano. ta hai mươi lăm tuổi. ta mất tích khoảng năm trước.”

      “Rất tốt.” Ibrahim . “Tại sao việc nhận diện người này lại lâu hơn so với Cortez đến vậy?”

      “Tôi phải thực bằng phương pháp lạc hậu hơn, so sánh dấu vân tay của ta với đống hồ sơ những người giúp việc mất tích nhận được từ lãnh quán bằng cách thủ công.”

      “Thế phải mất nhiều công sức lắm.” Daher .

      “Tôi thu hẹp được phạm vi tìm kiếm dựa vào báo cáo của Adara về việc May Lozano chết khoảng năm trước. ta là nạn nhân áp chót, và là nạn nhân duy nhất chúng ta tìm được cả hai bàn tay.”

      “Rất tốt.” Ibrahim . “Có phải ta làm giúp việc ở đây ?”

      “Vâng. ta sống trong gia đình ở Jeddah. Đó là thông tin trong báo cáo.”

      Ibrahim đến chuyện với chủ nhà của Lozano. Cũng như Cortez, Lozano được thuê ở Manila, nhưng làm giúp việc ở Jeddah được năm năm rồi. Khi mất tích, chủ nhà có tường trình về người mất tích và cảnh sát theo sát vấn đề này. Theo như bản tường trình đó, các bạn của cho biết rằng mặc dù Lozano rất nhớ gia đình ở Philippines nhưng rất hạnh phúc khi sống ở Jeddah. Gia đình thuê trả đủ phí môi giới và được nhận mức lương thỏa đáng. Họ đối xử tốt với .

      Còn theo phía gia đình đó, chạy trốn; quý họ như chính gia đình của mình. Bọn họ quẫn trí khi biến mất. Chuyện xảy ra vào sinh nhật của - họ dự định đưa đến Jollibee, nhà hàng mà ưa thích - và họ nghi ngờ có trò xấu xa nào đó, mặc dù họ biết ai bắt cóc Lozano. có kẻ thù nào, ngay cả ở Philippines cũng . Họ thông báo với cảnh sát và đại sứ quán về việc biến mất, nhưng ai tìm được .

      Ibrahim phát ra rằng họ nhận ra Lozano bị mất tích gần như ngay lập tức. rời nhà lúc 5h15 chiều để tới Jollibee gặp người bạn. Quãng đường bộ từ nhà đến nhà hàng đó chỉ qua sáu tòa nhà phố al-Khalidiya. Đáng lẽ phải gặp người bạn Mary của mình vào lúc 5h30. Bọn họ định chuyện lúc trước khi gia đình chủ nhà đến lúc sáu giờ. Nhưng khi gia đình đó đến nhà hàng, họ nhận ra Lozano có ở đó. Bạn vẫn ngồi chờ.

      Ibrahim và Daher tự mình bộ qua sáu tòa nhà này.

      “Tôi đoán là ta taxi.” Daher .

      Nhà hàng đó được sơn màu sặc sỡ, kiểu biến thể của McDonald's, với chú ong và hũ mật ong rất lớn bằng nhựa ngay trước cửa.

      có nhân viên nào trong tòa nhà này làm việc nhiều hơn vài tháng, ngoại trừ người quản lý tên là Arnel, người vẫn nhớ vụ mất tích của May. ta là người châu Á ngoài ba mươi tuổi có ngoại hình sáng sủa, mặc áo màu xanh dương nhạt và quần Âu màu đen. Sợi dây đỏ quanh cổ ta treo tấm thẻ tên. Nếu ta bỏ chiếc mũ lưỡi trai kiểu bóng chày màu xanh dương, có vẻ như là phần của bộ đồng phục đó ra có lẽ bị nhầm tưởng là bác sĩ thực tập hoặc chuyên gia nào đấy.

      “Vâng.” ta với vẻ buồn bã vì kỷ niệm đó. “Gia đình đó đến tìm ấy. Bạn ấy ở đây chờ. Chúng tôi có biết May. ấy nhiều lần đến đây cùng với gia đình chủ nhà. Chuyện kinh khủng. ấy phải kiểu người giúp việc bỏ trốn đâu.”

      nghĩ là ấy bỏ trốn sao?” Ibrahim hỏi.

      “Đó là những gì người ta vẫn đồn đoán. Những phụ nữ này đôi khi bị ngược đãi.”

      “Trông ấy có vẻ gì là bị ngược đãi ?”

      ta lắc đầu.

      có thể cho tôi biết tối hôm đó thấy điều gì khác thường ? Bất cứ điều gì ngoài kia, hoặc phố? Có ai đó trông kỳ quặc ?”

      “Có, có việc. Sau đấy tôi có kể với cảnh sát, nhưng họ cho đó là điều quan trọng. Có phụ nữ khi băng qua đường bị ngất. ta được đội Trăng lưỡi liềm Đỏ đưa . Cảnh sát họ kiểm tra lại nhưng tôi bao giờ nghe gì về chuyện đó nữa.”

      “Có khả năng người phụ nữ đó chính là May ?”

      Arnel nhún vai. “Thường rất khó nhìn ra ngoài qua cửa sổ đằng trước, và chuyện xảy ra ở ngay phía dưới tòa nhà. nhân viên của tôi ở ngoài và ta chứng kiến việc đó. Tôi nhìn người phụ nữ đó. Tôi chạy ra ngoài và trông thấy người đàn ông kia đưa ta vào băng sau xe. Sau đó chiếc xe lao rất nhanh.”

      Họ cảm ơn ta và bưóc ra phố.

      mất thời gian để tìm lại người bạn của ta.” Daher vừa vừa lật mở tập giấy ghi chép của mình. “Họ ta rời khỏi nước mình rồi.”

      Ibrahim nhìn dọc con phố, cố hình dung chiếc xe cấp cứu ở đó. Nó hẳn phải đỗ sát chiếc xe khác khiến chiều giao thông phải ngừng lại.

      “Ông nghĩ gì vậy?” Daher hỏi.

      “Hung thủ có thể dùng taxi để bắt cóc các nạn nhân của , nhưng cũng có thể dùng xe cứu thương chứ.”

      Daher phùng má. “Vâng, tôi cho là vậy. Nhưng như vậy là người duy nhất đưa các nạn nhân bị thương lên xe hay sao?”

      “Có thể chính làm họ bị thương.” Ibrahim . “Việc này thể có khả năng xảy ra. đến từ phía sau họ, kiểu như tên cướp. Dí súng vào lưng họ, rằng nếu kêu bắn. tiêm vào người họ thứ gì đó khiến họ thể phản kháng. Họ gục ngã vào vòng tay , và đưa họ vào xe. Đến khi mọi người nhận ra - tức là khi người phụ nữ đó bị ngã - họ nghĩ có gì ổn khi nhân viên y tế bế người phụ nữ vào xe cứu thương. Có thể họ lo lắng cho ta, nhưng họ chỉ nhìn ta chứ để ý đến hung thủ.”

      Daher gật đầu. “Vâng, điều đó có lý.”

      “Nhưng có vẻ bị thuyết phục lắm.”

      “Thực ra ...”

      “Cứ .”

      Tôi chỉ cho rằng dễ dàng hơn nhiều nếu giả làm lái xe taxi. phải mạo hiểm với việc phụ nữ la hét cầu cứu hoặc ai đó chú ý đến .”

      Ibrahim gật đầu. “Có thể đúng, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên lưu tâm đến giả thuyết về nhân viên y tế.”

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 20

      Buổi sáng thứ Sáu, tòa nhà bóng ngưòi. Ngày thứ Bảy mọi người trở lại làm việc, những hành lang bóng loáng lại đầy ắp tiếng cười, tiếng tay của Daher đập vào đầu cậu sĩ quan trẻ nào đó. Giờ thanh duy nhất phá vỡ gian tĩnh lặng là tiếng lích kích của hệ thống điều hòa trung tâm bắt đầu chạy, và, trong suốt vài giờ liền, là tiếng gọi cho lễ cầu nguyện. Nó luôn oang oang loa phóng thanh của các nhà thờ địa phương khiến người ta giật bắn mình.

      Ibrahim bước vào tòa nhà, tay nắm chặt cốc cà phê và cảm thấy tê liệt. Ông dành cả phần còn lại của ngày thứ Năm để thu xếp việc có được bản chụp những hồ sơ hành quyết cũng như hồ sơ những vụ trộm cắp bị chặt tay có hình ảnh chặt đứt tay và chân. Daher nhận sáng nay mang những hồ sơ đó đến, mặc dù hôm nay là ngày nghỉ, mặc dù mức lương của ta đủ để khuyến khích tận tụy đến như thế. Ibrahim tự hỏi vu vơ liệu cuộc sống gia đình của Daher có khốn khổ như mình .

      Farrah vẫn ở nhà ông, chờ chồng về. có mặt của là ân huệ vì và cặp sinh đôi khiến Jamila luôn bận rộn, và nhờ đó mà đay nghiến của bà ta cũng giảm đến mức tối thiểu. Vấn đề giờ là họ trong tâm trạng lẫn lộn. Chán nản, khi còn vấn đề y tế để tranh cãi nữa, họ dần trở thành những tác nhân gây ra hư hỏng của ai đó. Kể từ khi Farrah đến gặp thầy trừ tà, ngôi nhà luôn mang hơi hưởng của những hành động điên rồ.

      Ở phòng làm việc, ông nhận thấy Daher mang đến nửa số hồ sơ, có lẽ là từ đêm trước. ta sắp xếp những chiếc hộp theo hàng lối ngay ngắn bàn. Ibrahim đặt cốc cà phê lên bàn làm việc, kéo ghế và mở hồ sơ đầu tiên.

      Ông biết mình tìm kiếm gì, nhưng dù sao nữa ông vẫn xem qua những hồ sơ đó, cố tránh đọc quá chi tiết. người đàn ông bị buộc tội giết vợ con. phụ nữ bị buộc tội giết mẹ. Thêm người đàn ông nữa: vụ án mạng của người lạ tại cửa hàng tiện ích. Ông xem lượt phần lớn những hồ sơ của năm 2003 và tìm thấy gì ngoài những vụ án mạng. Điều đó quả có hơi bất ngờ.

      Ông chuyển sang những hồ sơ của năm 2007. Những hồ sơ này có đa dạng hơn chút. Hầu hết các vụ hành quyết đều vì tội giết người, nhưng thường liên quan đến vấn đề phạm tội hàng loạt. tên ở Chad bị xử tử vì tội bắt cóc trẻ em, hãm hiếp, trộm cắp, và sử dụng ma túy. mới hai mươi mốt tuổi. Còn nhiều tội nữa bị hành quyết là buôn bán ma túy, và thậm chí là tình dục đồng giới.

      Ông nghe thấy tiếng sập cửa ở phía cuối hành lang, tiếng bước chân cọ vào tấm vải sơn lót sàn nhà. Daher bước vào mang tay hai hộp hồ sơ nữa. Mồ hôi giọt ta.

      “Salaam aleỉkum (1).” ta vừa lầm rầm vừa đặt hai chiếc hộp xuống sàn nhà phía cạnh bàn. “Đấy là mấy cái cuổi cùng.”

      (1) Lời chào theo phong tục Hồi giáo.

      “Tốt lắm. Cảm ơn mang chúng đến.”

      Daher đứng cạnh cửa, đắn đo cân nhắc. Rồi ta kéo chiếc ghế ra.

      phải ở lại đâu.” Ibrahim .

      “Dĩ nhiên là tôi ở lại chứ!” Daher . “Tất cả chúng ta nên làm việc ngoài giờ. Đây là vụ quan trọng.” ta có phần lúng túng ngồi xuống cạnh sếp mình rồi kéo mở tập hồ sơ. “Chúng ta tìm gì đây?”

      Ibrahim giải thích điều mà Katya với ông qua điện thoại và thận trọng khi nhắc đến cả Tiến sĩ Becker nữa để tránh làm cho Daher đố kỵ cho rằng ông chỉ tập trung vào Katya. Bất ngờ thay, Daher rất biết công việc. ta thậm chí còn chen ngang: “Và tất nhiên đó là lý do tại sao ta chôn mười chín thi thể. mơ mộng rằng mình là thiên sứ của đấng Allah.”

      “Chuyện có vẻ là vậy.”

      “Vậy chính xác chúng ta tìm kiếm điều gì?” Daher hỏi lại.

      rất tốt nếu chúng ta có thể tìm được kẻ nào bị trừng phạt vì tội trộm cắp và có người thân bị xử tử, nhưng có vẻ như điều này là thể có...” Ibrahim nhún vai. “Cứ cho tôi biết nếu có gì đáng chú ý nhé.”

      Daher có vẻ nhận thấy tính chất phù phiếm của công việc này, nhưng dù sao ta vẫn dấn thân vào làm. Bọn họ im lặng đọc hồi.

      “Ông nghĩ sao về cái thứ mười chín đó?” Daher hỏi. “Ông có nghĩ là có quy luật bí chứa trong kinh Koran ?”

      ta có ý nhắc đến cảnh tượng các học giả Hồi giáo lao mình vào những thuyết mưu về các con số và kinh Koran. Thí dụ như, ai cũng biết từ cầu nguyện xuất trong kinh Koran năm lần (gắn với thực tế rằng người Hồi giáo có năm lễ cầu nguyện bắt buộc trong ngày), từ tháng xuất chính xác là mười hai lần, và từ ngày xuất chính xác là ba trăm sáu mươi lăm lần. Nhưng điều đó có nghĩa mọi thứ đều là phần của quy luật bí nào đó.

      Dường như những học thuyết về tầm quan trọng của con số mười chín thống trị tư duy mưu. Mười chín chính là số câu thơ mà tổng lãnh thiên sứ Gabriel trao lại cho nhà tiên tri Mohammed trong hai chuyến viếng thăm đầu tiên tới hang đá. Mười chín cũng chính là số ký tự của câu thơ đầu tiên trong chương của kinh Koran, câu thơ được nhắc lại năm mươi tư lần trong toàn bộ cuốn kinh. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ chương duy nhất mà từ mười chín được nhắc đến lại là chương có tên “Bí mật giấu.”

      “Tôi cho rằng con số mười chín có gì đặc biệt cả.” Ibrahim đáp. “Ngoại trừ đối với tên sát nhân của chúng ta, có lẽ vậy.”

      Họ tiếp tục đọc. Daher trở nên nghiêm túc và im tiếng hơn theo cách mà Ibrahim trước đây chưa bao giờ thấy. Trong giây lát, Ibrahim hình dung ngày nào đó mình trở thành chánh thanh tra.

      “Có lẽ ý kiến của Tiến sĩ Becker rất hợp lý.” Daher . “Ai từng chặt tay chứ? đao phủ, phải vậy nào? Có ai nghĩ đến việc có thể là người của chúng ta chưa?”

      “Theo những gì tôi biết, vừa khởi nguyên giả thuyết đó.”

      “Dù có là ai nữa, có cảm giác phiêu lưu khi làm việc này. Ít nhất đó chính là từ được Thiên thần Charlie nhắc đến.”

      “Tôi thấy lẫn lộn khi Tiến sĩ Becker vô tình bị đặt biệt hiệu là Thiên thần, giống như tên giết người tâm thần của chúng ta vậy.”

      “Thực ra,” Daher đáp lời, “ phải thiên thần, là sát thủ thiên sứ.”

      “À.”

      “Và cả hai đều là người Mỹ.” Daher thêm.

      sắp sửa phải gạt bỏ cái ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí mình rồi đấy. Tôi đọc hồ sơ hành quyết của năm năm rồi, và có biết tôi thấy gì ? Cả bầy sát nhân người Ả Rập Xê-Út. Nếu giết ngtrời là loại vi-rút chúng ta chậm chuyển đổi mất rồi.”

      Daher đưa ra cách lý giải lịch thiệp cho vấn đề này. “Thực lòng, tôi nghĩ nó phù hợp vì chúng ta có hai thiên sứ trong vụ này. tốt, xấu.”

      “Rất tốt.” Ibrahim . “Và đúng, người hành hình có những công cụ cho công việc của mình, và có lẽ cả thích thú khi thực công việc đó nữa.”

      “Nhưng ông chứng kiến những cuộc hành quyết rồi đấy.” Daher . “Ông có thấy cái lúc chặt đầu người, cảnh sát phải lôi đao phủ ra ngoài. Họ đứng đó chờ đợi để lôi ta bởi họ lo ngại ta nổi cơn khát máu và gây hại cho những người khác. Ngay tại quảng trường! Trước mắt hàng trăm con người! Nhưng khát máu là có . Họ luôn phải lôi ta ra ngoài.”

      Ibrahim từng chứng kiến những vụ hành quyết khi còn là sĩ quan, cùng gần như vậy. “Điều đó đúng, nhưng cũng là truyền thông nữa. Trông ta có vẻ gì cần phải kéo ?”

      “Thinh thoảng, có chứ!”

      Ibrahim cố sắp xếp những hình ảnh dựng lên trong tâm trí ông về tên giết người hàng loạt với cảm tưởng của chính ông đối với đao phủ từng gặp. Daher đúng về nhiều mặt, nhưng trong tâm can Ibrahim lại muốn phản bác.

      “Tôi lần trò chuyện với đao phủ.” Ibrahim . “ biết ta gì về công việc của mình ? ta nâng cao nhận thức.”

      Daher phá lên cười.

      “Đó chính là cách ta mô tả về công việc đó.” Ibrahim tiếp. “Nâng cao nhận thức về ghê rợn của việc giết người và cố gắng để khuyến khích mọi người phạm phải những sai lầm trong giây phút cuồng dại mà hủy hoại cả cuộc đời mình.”

      Daher cưòi toét miệng. “Điều đó buồn cười. Tôi đoán chắc ta nghĩ hầu hết những tên sát nhân đều có tự chủ. Phải vậy ?”

      Ibrahim nhún vai. “Phần lớn những ai giết người đều mất tự chủ, có khi chỉ trong giây lát.”

      “Nhưng phải tên giết người Thiên sứ đó.” Daher . “ ta lập kế hoạch cho việc đó.”

      Lại có tiếng bước chân ngoài hành lang và Daher bật dậy khỏi ghế. Trong phần giây trước khi lao về phía cửa, cánh tay phải của ta vung sang bên hông. ta tìm khẩu súng ngắn mang theo khi vào trụ sở trống vào thứ Sáu. Ibrahim giật mình.

      Daher quay vào với vẻ khinh ghét. “ Hijazi ở đây.” ta .

      Katya đứng trước cửa văn phòng. ôm hai tập hồ sơ.

      “Xin chào.” Ibrahim chào và đứng dậy. “Quả là bất ngờ thú vị, Hijazi. Mời vào.”

      “Chào ông.” đáp. “Tôi chỉ đến lấy số hồ sơ thôi.”

      “Tại sao lại làm việc?” Daher hỏi với thái độ đồng tình thấy . “Hôm nay là thứ Sáu đấy!”

      “Thế phải cũng là thứ Sáu với sao?” Katya vừa hỏi lại vừa qua ta để vào văn phòng. với Ibrahim: “Tôi ra ngoài sa mạc hôm qua. Tôi đến trường.”

      tự mình đến đó sao?” Daher hỏi.

      , tôi cùng nhóm Murrah. Talib al-Shafi và các cháu của ông ấy cùng tôi và chồng tôi.”

      được phép làm việc đó đấy chứ?” Daher vừa hỏi vừa nhìn Ibrahim. “Tôi chẳng biết gì về việc này cả.”

      “Chúng tôi dành nhiều thời gian ở khu vực trường.” Katya vẫn tiếp tục chuyện với Ibrahim. “Chúng tôi về phía tây và tìm được địa điểm mà chúng tôi cho rằng tên sát nhân trở lại. Tôi đoán ta quay lại đó, nếu làm thế nào biết chúng ta phát ra những cái xác ấy? Và chúng tôi cho rằng biết điều này, bởi bàn tay của Amina”

      “Suy luận tốt lắm.” Ibrahim và cảm thấy bối rối. “Vậy là cho rằng tìm được địa điểm trở lại?”

      “Đúng vậy. Talib rằng người đàn ông đến đó bằng chiếc xe tải hiệu GMC và bộ để tìm địa điểm có thể quan sát khu mộ chôn. Ông ấy cũng các dấu chân cho thấy tức giận.”

      “Nhưng đâu biết chắc đó là hung thủ thực .” Daher .

      “Talib chắc chắn các dấu chân tại điểm quan sát phù hợp với dấu chân ở khu mộ chôn.”

      “Tôi tưởng những dấu chân ở khu mộ chôn lắm chứ.” Daher .

      “Chúng đủ để điều tra.”

      “Vậy để tôi thẳng nhé: ông già mù tìm dấu vết người Bedouin định với chúng ta rằng đấy là hung thủ của chúng ta sao? Những dấu chân đó có thể là của bất cứ ai!”

      Ibrahim nhận thấy nét mặt của Katya cau lại. “Đó là nơi rất hẻo lánh.” . “ có dấu chân nào khác ngoài đấy cả.”

      “Điểu ấy có nghĩa rằng có ai khác ở đó.”

      “Cái chính là Talib tin rằng các dấu chân trùng khớp.” Katya . “Chính vì vậy nếu thực tên giết người xuất ở khu mộ chôn, có mặt của là vào khoảng năm hoặc sáu ngày trước.”

      “Lần tới ấy,” Daher , “những gì tương tự phải được làm bởi thanh tra phụ trách vụ án - ông Zahrani - và nó cần được làm với cả Chánh Riyadh nữa. có thể làm rối tung cả trường vụ án rồi!

      “Tôi làm việc trong đội pháp y.”

      “Đúng, nhưng làm những công việc pháp y trong phòng thí nghiệm, phải trường. tới trường vụ án thực được bao nhiêu lần rồi? lần? Hai lần? Có những nguyên tắc, và việc đến trường vụ án có nghĩa là biết cách để xử lý trường. Về mặt chuyên môn mà , việc có mặt ở đó mình có nghĩa là chúng ta thể sử dụng các bằng chứng đó trước tòa được!”

      “Tôi ở đó mình.”

      “Được thôi, nhóm Murrah ở đó, và điều này có thể được chấp nhận ở tòa, nhưng nó có thể phá hủy mọi thứ.”

      Ibrahim, lần nữa, bất động trước cả hai người bọn họ. Nếu ông đứng về phía Katya, ông mạo hiểm với việc khiến nhân viên tốt nhất của mình lánh xa, nếu ông bảo vệ , ông mạo hiểm đánh mất người mà ông hoàn toàn tin tưởng trong vụ Sabria - và là người tiếp cận vụ án Thiên sứ sáng tạo nhất.

      “Còn ngày thứ Năm của thế nào hả?” Katya hỏi Daher.

      ta giật mình, tỏ vẻ khó chịu. “Chúng tôi nhận diện được nạn nhân khác.”

      Katya quay ra cửa.

      có người đưa tới đây ?” Ibrahim hỏi.

      “Tôi có.”

      “Tốt. Để tôi đưa xuống bãi xe.”

      cần thiết đâu ạ.” Katya .

      ai nên ở đấy mình, nhất là khi tòa nhà lại trống vắng như thế này. Nếu hung thủ biết việc ở khu mộ chôn biết chúng ta.”

      Katya lưỡng lự gật đầu.

      Khi họ khuất khỏi tầm nghe, Katya . “Thực ra tôi mong gặp được ông ở đấy. Tôi có kết quả mẫu máu tìm được tâm thảm ngoài cửa căn hộ của Sabria.”

      .”

      Katya chần chừ. “Kết quả DNA phải là của ông, nhưng của ai đó liên quan tới ông.”

      “Sao cơ?” Ông dừng bước.

      “Đúng vậy.” . “Và nó là của nam giới.”

      cơn hoảng loạn, giận dữ, và hoài nghi tột độ. “ có chắc về điều này ?”

      “Có, tôi kiểm tra rất kỹ. Tôi mất rất nhiều thời gian với việc đó.”

      “Thôi được rồi.” Ông nhận ra mình thở gấp gáp. “Thôi được rồi, tôi đế ý đến vấn đề này.”

      “Vậy ông biết người đó là ai?”

      “Tôi nghĩ vậy.” Ông .

      “Ông có muốn thử kiểm tra DNA của người đó ?” vừa hỏi vừa lấy ra tâm gạc trong túi áo.

      Ông lắc đầu. “. Tôi đề nghị khi cần.”

      “Thôi được.” có vẻ lưỡng lự. “Tôi tưởng ông rằng ai trong gia đình ông biết về ấy.”

      ràng là tôi sai.”

      Jamila đón ông ở cửa nhà với vẻ mừng rỡ ra mặt. Hình như họ dựng lên vở kịch. Khi ông qua bà ta để vào phòng khách, té ra bà ta làm việc ngớ ngẩn, mà chắc trong vòng mười năm nữa lặp lại: bà ta sắp đặt người chồng cho Hanan, chị của cặp song sinh.

      “Con bé mới có mười tuổi.” Ibrahim . Ông liếc nhìn vào phòng ngủ, có ai ở đó. Ông tìm đứa con trai cả, Aqmar. Vợ của Aqmar, Constance, mở cửa căn hộ tầng dưới và này.

      “Mười tuổi làm sao!” Jamila hét lên. Farrah ngồi nép sang bên, trông lúng ta lúng túng. “Dù sao con bé cưới xin gì cho đến khi đủ mười sáu tuổi. Nhưng tôi sắp đặt mọi chuyện rồi! Chỉ cần đồng ý của ông nữa thôi.”

      “Cậu ta là ai?” Ông qua bà ta để vào phòng khách của nữ giới. Căn phòng cũng trống nốt. “Aqmar đâu?”

      “Tên cậu ta là Taha al-Brehm; cậu ta là con trai của họ tôi Abdullatif, người sống ở Riyadh ấy.”

      “Bà gặp cậu ta chưa?”

      “Cậu ta có cả nhà máy dệt và ba cửa hàng điện thoại di động, còn bố cậu ta nhiều tiền hơn bất cứ người nào trong dòng họ “ Jamila vỗ tay.

      “Bà chuyện với Hanan chưa?”

      “Vẩn chưa.”

      “Aqmar đâu rồi?” Ông hỏi lại.

      “Tôi biết. Ông nghĩ sao? Cậu ta quá xứng với con bé. Cậu ta là người rất truyền thống. Thích cưỡi ngựa và huấn luyện chim ưng, hãy nghĩ mà xem!”

      Ông quay sang phía Farrah. “Con có thấy con đâu ?”

      ấy ở tầng thượng ạ.” vừa đáp vừa lấm lét nhìn mẹ mình.

      “Nó tầng thượng đâu.” Jamila vừa giận dữ vừa chắn ngang lối ra cửa của ông. “Nào, thế ông nghĩ thế nào?”

      “Tôi nghĩ hẳn là bà điên mất rồi nên mới cho rằng tôi để ai đó cưới Hanan mà đồng ý của con bé. Tôi quan tâm dù cậu ta có nhiều tiền hơn cả nhà vua.” Ông xô bà ta để qua rồi tiến về phía cửa trước khi bà ta kịp phản ứng gì. Nhưng kỳ thực tiếng om sòm còn theo ông lên tận tầng .

      Ông thể tin được bà ta lại làm cái việc đó. Ông chỉ đồng ý đám cưới của Zaki bởi vì Zaki đồng ý - và người ta phải biết nghĩ sau cuộc hôn nhân thất bại đó chứ, đáng lẽ bà ta phải tỏ ra chừng mực hơn.

      Aqmar ngồi tấm thảm ỏ tầng thượng trông như chiến binh tử vì đạo kiên định. mặc chiếc quần đùi ka-ki và áo phông màu xanh quân đội cũ mặc từ bao năm nay. Ibrahim vẫn nghĩ nếu ông quyết liệt và khước từ việc để con trai mình Iraq chiến đấu trong cuộc thánh chiến chống lại Tây phương, hẳn Aqmar giờ này chết rổi. Thời kỳ mong muốn được trở thành hùng trôi qua nhanh như khi nó đến, nhưng trong trái tim của người cha, những điều như thế bao giờ nguôi ngoai. Những viên than đá chiếc điếu ống phía sau sắp tàn, và mùi thuốc lá thơm còn vương vất giữa những bức tường.

      buổi tối Ibrahim và Sabria đường trở về từ bãi biển tư nhân muốn dừng lại ở cửa hàng rau quả. Bọn họ dừng xe. Khi ra khỏi ô-tô, Ibrahim phát ra Aqmar và Constance lững thững hè phố ngắm nghía các cửa hàng. Ibrahim vội vàng né người vào trong xe và ngăn cho Sabria bước ra. Ông lái xe ngay lập tức. Ông chắc chắn, nhưng có cảm giác là con trai mình trông thấy. Họ bao giờ nhắc đến chuyện đó cả. Cách cư xử của Aqmar đối với ông hề thay đổi gì, nên Ibrahim tự nhủ mình chỉ mường tượng đến tình huống xấu nhất.

      Lúc này, Aqmar ngồi nóc mái, nhìn thấy bố và giơ tay cầm chiếc điện thoại di động lên.

      “Zaki vừa gọi để cuối tuần nó cắm trại với mấy người bạn ở sa mạc. Nó muốn con đảm bảo cho Saffanah có tất cả những gì con bé muốn. Bố có tin được tên nhãi này bố?”

      Ibrahim ngồi xuống cạnh , tựa lưng vào tường và cố tỏ ra thoải mái. “Còn ít thuốc lá thơm nào con?”

      ạ.” Aqmar tỏ vẻ ái ngại và định đứng dậy. “Để con chuẩn bị thêm ít nữa.”

      cần đâu con, cứ ngồi .”

      Aqmar ngả ra sau và liệng chiếc điện thoại lên tấm thảm. “Con hiểu tại sao nó cưới con bé đó nữa. Nó biết đó là quyết định dở hơi. Và giờ nó muốn đẩy hết mọi rắc rối lên chúng ta.” Với từ chúng ta, muốn ám chỉ đến hai bố con họ.

      “Em có kể với con về phiên tòa ly hôn ?”

      “Bố có đùa con đấy? Nó thể nín miệng về chuyện đó.”

      Ibrahim tựa thẳng lưng vào tường và cố gắng thở ra. Ông muôn dành chút thời gian, lựa chuyện như võ sĩ có ý tung cú đấm, muốn bị trúng đòn nhưng lại bị kẹt võ đài. Nhưng Jamila có thể lên tầng thượng bất cứ lúc nào, hoặc là trong những đứa cháu của ông.

      “Ta đến nhà thờ con.” Cuối cùng ông lên tiếng. Aqmar trông có vẻ muốn, nên ông tiếp. “Hôm nay là thứ Sáu mà.”

      Họ bước trong khí trời đêm mát mẻ dễ chịu. Họ gì nhiều nhưng quyết định bộ cả quãng đường đến nhà thờ lớn phố Makkah, thay vì nhà thờ thường đến. Nhà thờ lớn là công trình đại, vuông vắn và có đỉnh nhọn, điểm nhấn duy nhất là chiếc tháp được trang trí lộng lẫy với kiến trúc bằng đá. Bên trong nhà thờ chật cứng đến mức họ phải len ra phía sau mới có vừa đủ chỗ để mỏi cổ rướn lên nhìn. Sau lễ cầu nguyện, họ rời nhà thờ trước khi bị cuốn vào những cuộc đàm luận. Họ dừng chân ở quán café để ăn kem. Đó là cái quán xíu liền sảnh với hai chiếc ghế nhựa màu trắng để bên cạnh cửa vào. Có hai người đàn ông ngồi ở đó, người vừa nhấp trà vừa đọc báo, người kia ăn thứ gì đó có vẻ giống bánh kẹp Sambooli. Mãi đến khi họ về nhà Ibrahim mới đánh bạo mở lời.

      “Tuần trước cộng tác viên của bố ở Đội Điệp vụ mất tích.”

      Aqmar có vẻ lúng túng, hiển nhiên là tự hỏi chuyện đó có liên quan gì đến mình.

      “Tên ấy là Sabria Gampon.”

      Gương mặt con trai ông, vốn quen với việc làm bộ, thể choáng váng rồi xấu hổ và bất an. Theo đúng kiểu phản ứng đó, Ibrahim hiểu rằng thực tế Aqmar biết người đó là ai và ngượng ngùng vì điều này.

      “Chuyện gì xảy ra vậy ạ?” Aqmar hỏi.

      “Bọn bố chắc nữa, nhưng họ tìm được DNA ai đó để lại chiếc đinh trong tấm thảm ngay ngoài cửa căn hộ của ấy. Có người bị chảy máu chân ở đó.”

      Aqmar bối rối khổ sở. “Có hôm con đến chỗ làm của bố và thấy bố rời khỏi tòa nhà. Con nghĩ đuổi kịp bố đường nhưng thể, và rồi con thấy bố đỗ xe...”

      hiển nhiên là phán đoán của cảnh sát - khả nắng nhận ra những kẻ dối, nắm bắt được cảm xúc chỉ bằng cái liếc nhìn, khơi gợi những điểm yếu và đến cả những bí mật được chôn giấu kỹ nhất - biến mất khi đối tượng là người quý. Ông thấy hốt hoảng khi nhận ra ông thể xác định được con trai mình có dối hay .

      “Vậy con ở đó?” Ibrahim hỏi,

      Aqmar gật đầu. vạch chiếc quai dép để lộ vết cắt bởi chiếc đinh. Nó liền da những vẫn còn đỏ lằn.

      “Con nhận ra bố thăm người bạn.” Giọng Aqmar chùn . Con nghĩ mình bắt quả tang bố ngoại tình. Hãy ấy chỉ là bạn bố..

      Ibrahim nhìn cả cuộc đời làm cha của mình mở ra trước vấn đề vô cùng khó khăn, và ông đứng đó hoàn toàn bình tĩnh giữa hối thúc ra toàn bộ và việc nhận thức được rằng cũng có thể trở thành sức mạnh hủy diệt dối với bất cứ mối quan hệ nào.

      “Bọn bố hoàn thành nốt nhiệm vụ cuối cùng.” Ông . “Con có bất ngờ vì việc Đội Điệp vụ có phụ nữ ?”

      Ông thấy ghét chính bản thân mình.

      ạ. Bố trước chuyện đó rồi.” Aqmar trông có vẻ vẫn còn bối rối. “Có lần bố hầu hết những vụ trộm cắp ở Jeddah có liên quan đến phụ nữ.”

      “Hoặc đàn ông cải trang giống phụ nữ.”

      tá những câu hỏi xoáy vào tâm trí ông. Con có gõ cửa ? ấy có mở cửa ? Bố có tắm ? Con có đứng đó nghe ngóng gì ? Ông cố gắng nhớ xem liệu Sabria có vẻ gì khác . Liệu có biết Aqmar đến, liệu có mở cửa hay .

      “Con có nhớ con ở đâu cách đây hai tuần vào thứ Tư ?”

      Aqmar khẽ mỉm cười với ông. “Con bị thẩm vấn ạ?” Khi Ibrahim đáp lại, . “Con làm việc vào tất cả các tối thứ Tư cho đến tận mười giờ. Bố biết mà. Đó là ca làm mười bốn tiếng của con. Bố có thể gọi cho sếp con.”

      “Con đến căn hộ đó khi nào?” Ibrahim hỏi.

      “Khoảng ba tuần trước.”

      “Con có nhớ chính xác đó là hôm nào ?”

      “Ừm, vâng... đó là Chủ nhật. Hôm đấy con làm.” Aqmar khoan chưa qua đường. “Đáng lẽ con gõ cửa, nhưng con nhận ra là bố làm việc và con muốn làm phiền.”

      Và đây, trừng phạt thực đối với dối lừa của ông: con trai ông có thể dối chính ông. Có lẽ điều mà Aqmar muốn là Con cho rằng bố có nhân tình và hốt hoảng bỏ chạy rồi đạp chân lên đinh.

      Ibrahim nhìn Aqmar phải đay dứt với những điều còn sâu kín hơn nữa: tức giận thay cho mẹ ; thất vọng trước những lời dối trá của bố mình; khao khát có được niềm hạnh phúc của bố và hiểu được tại sao ông chọn con đường này đế có được hạnh phúc đó; cảm giác xấu hổ đối với tất cả mọi chuyện xảy ra.

      “Đội Trọng án cũng có phụ nữ.” Ibrahim . “Nhưng bọn bố hiếm khi thấy họ.”

      Aqmar gật đầu. “Con mong là bạn bố ổn.”

      Họ bước trong im lặng suốt quãng đường còn lại trở về nhà.

      Về đến nhà, Aqmar chúc ông ngủ ngon rồi bước vào căn hộ của mình, nơi mà người vợ nhẫn nhịn của phải chờ đợi suất ba giờ đồng hồ. Ibrahim nghe tiếng Jamila chuyện điện thoại gác, lớn tiếng than vãn với người bạn về cách hành xử phát bực mình của ông: cho Hanan được đính hôn với ông họ giàu có! Nó khiến ông nghĩ đên việc gõ cửa căn hộ của Zaki, đối diện căn hộ của Aqmar qua hành lang.

      Saffanah mở cửa chỉ để lộ con mắt. Nó đỏ ngầu và giận dữ. ta lùi lại và để ông vào. Ông bước vào sảnh mà ta đứng ôm lấy eo, trông khổ sở.

      “Con thế nào?”

      ta nhún vai.

      “Chuyện với Zaki sao rồi?”

      ta lắc đầu. “ ấy làm việc đó đâu ạ.” ta vừa vừa ôm mình chặt hơn. Ông có thể nhận ra qua đôi vai run rẩy của ta rằng ta cố giữ khóc. Đó là trận đánh mà ngay tức ta thua.

      “Ra ngoài .” Ông . Ông thể chịu được khi nhìn ta khóc. “Con có cần rau quả gì ?”

      ta gật đẩu.

      Họ ra khu chợ cỡ trung. ta để ông đợi ở lối vào cho đến khi người khách duy nhất - người đàn ông - mua hàng xong và rời khỏi đó. Cửa hàng chuẩn bị đóng cửa nhưng người chủ chờ đợi cách nhã nhặn trong khi Saffanah dạo qua các quầy hàng với chiếc giỏ xách tay, luôn cảnh giác nhìn ra cửa đề phòng có người vào và cắt ngang việc mua sắm của ta. ta vẫn vén khăn che mặt lên và lần này ông đoán là do hai mắt ta sưng đỏ. Có thể ngay từ đầu thế.

      Khi ta ra quầy thu ngân, Ibrahim trả tiền và giúp người chủ cửa hàng cho đồ vào túi. Ngay khi họ trở vào xe, ông : “Cuối tuần này Zaki ra ngoài thành phố, và bố biết là con muốn dành thời gian buổi tối với mẹ, vậy sao chúng ta sang ngồi với Aqmar và Constance rồi nướng bánh sô--la hạnh nhân nhỉ?”

      ta cúi nhìn chiếc túi mua hàng rồi lắc đầu.

      Khi mang túi rau quả vào nhà xong, ông rón rén bước lên gác để về phòng. Jamila vẫn chuyện điện thoại nhưng may thay cửa ngoài đóng, nên những lời phàn nàn của bà ta chỉ lí nhí. Ông lẻn vào phòng khách nam, túm lấy mấy cái gối rồi mang lên tầng thượng. Ở đó ông kê cho mình chiếc giường bên chiếc điếu ống và chìm vào giấc ngủ khi ngắm những vì sao lấp lánh, tâm trí băn khoăn hiểu con trai ông nghĩ gì về bố mình.

      Chương 21

      Buổi sáng hôm đó dậy và ra ngoài sớm hơn thường lệ. Thành phố vẫn quỳ, tấm lưng cong bừng sáng ánh hồng của buổi sớm, đầu gục xuống mỏi mệt. Bài hát của những thầy tu báo giờ vang khắp các đường phố. Những chiếc loa phóng thanh của từng nhà thờ lại độc chiếm khoảng gian riêng bé cho mình. Những người đàn ông xếp theo hàng cầu nguyện hè phố, những người lạ tụ nhóm lại với nhau. Khoảng thời gian chuẩn bị cho ngày. Katya chưa bao giờ cầu nguyện hè phố nhưng thi thoảng vào những buổi sáng tĩnh lặng như thế này, rất mong được làm điều đó.

      chỉ vừa mới bước ra khỏi ô-tô ngay trước cửa ga Majdi nhắn tin cho : trường vụ án - ngay bây giờ, cùng địa chỉ. lại trở vào xe cùng Ayman và họ đến địa điểm đó.

      Khi họ đến nơi, há hốc miệng.

      “Có chuyện gì vậy ạ?” Ayman quay sang .

      có gì.” . “Chị tưởng chỗ khác cơ.”

      ràng là cậu tin , nhưng cảm ơn cậu và ra khỏi xe, cố hết sức để tỏ vẻ hoảng hốt. đứng trước tòa nhà căn hộ của Sabria.

      vào thang máy và lên tầng bốn. Cửa vào căn hộ của Sabria để mở, và hai nhân viên pháp y đứng ở đó. Họ tránh sang để nhường lối vào.

      thấy Majdi trong phòng khách. ta có vẻ khó chịu. “ là muốn làm việc ở trường vụ án.”

      “Chuyện gì xảy ra vậy?” hầu như chỉ thốt lên được thế.

      Majdi giơ cao hai bàn tay mình. “ phải vụ ám sát đâu đừng lo lắng. phụ nữ mất tích. Có ai đó thông báo tin này sáng nay.”

      “Từ khi nào chúng ta tìm người mất tích kiểu này vậy?” cố kiềm chế hoảng loạn của mình.

      “Chúng ta làm thế, nhung người phụ nữ này từng làm việc cho Đội Điệp vụ và họ gửi thông báo đặc biệt tới đội pháp y. Chánh Riyadh gọi cho tôi sáng nay và hỏi liệu tôi có sẵn lòng làm việc này trước khi đến cơ quan . Tôi định nhắn tin cho lúc đó nhưng khi ấy vẫn còn hơi sớm.”

      Katya cảm thấy sức nóng bừng hai gò má. “ ở đây lâu chưa?”

      “Hơn tiếng rồi. Chúng tôi vẫn làm trong phòng ngủ và phòng tắm.”

      Phải tự chủ hết mức mới lao thẳng ra ngoài hành lang để gọi cho Ibrahim. phải ở đây và tự tay thu thập được càng nhiều bằng chứng càng tốt. Những ý nghĩ điên rồ hối hả xuất trong đầu : Mình có thể hủy bằng chứng ? Thay đổi nó chăng? Mình có thể nắm giữ nó ? Họ gửi về phòng thí nghiệm chưa, hay họ gửi nó đến Đội Điệp vụ để xử lý nó ở phòng thí nghiệm khác? Bao lâu nữa họ phát ra Ibrahim từng ở đây?

      ta sống mình sao?” Katya hỏi.

      “Đúng vậy, nhưng ta kết hôn. Họ vẫn chưa thể liên lạc được với chồng ta.” Majdi nhìn với ánh mắt ác nghiệt. “Trong những vụ thế này, thường đó là người chồng.”

      “Ý là sao khi những vụ thế này?”

      “Chỉ là khi phụ nữ bị mất tích.”

      Majdi lo lắng về cách phản ứng của . Nếu tham gia vào việc ta bao giờ đề nghị đến trường vụ án nữa.

      “Tôi phải quay về phòng thí nghiệm.” ta . “ ở đây được chứ?”

      “Được, tôi ổn thôi.” Khi ta trở ra, gọi với theo. “Majdi cảm ơn .”

      ta gật đầu rồi quay .

      nhận thấy điều cốt yếu là phải chú ý đến những thứ gì có thể liên quan đến vấn để quan hệ của Ibrahim và Sabria. thẳng vào phòng ngủ và bắt đầu làm việc. vừa lật tấm lót giường lên ý nghĩ bật ra: Ibrahim phải biết ngay lập tức. Ông ấy phải đến đấy. Nếu ông ấy ở đây việc tìm được DNA của ông ấy còn là vấn đề nữa.

      rút ngay điện thoại ra và gọi cho ông. Ông nghe máy. hít hơi rồi thử gọi lại. Lẩn thứ ba để lại tin nhắn: “Hãy đến căn hộ của Sabria ngay lập tức. Có người thông báo về việc ấy mất tích và đội pháp y ở đây. Hãy tin tôi, ông phải đến.”

      gác máy rồi cầu Chúa rằng ông nhận được tin nhắn trước khi quá muộn.

      “Tôi nghe lỏm mấy tay lớn tuổi hơn rằng trước đây chúng ta từng có những vụ giết người hàng loạt rồi.” Daher .

      Ibrahim và Daher ở hành lang ngoài phòng họp. Cửa vào đóng, nhưng những thanh từ phía trong vọng ra cho thấy phòng đông người. Ibrahim với tay mở cửa, nhưng Daher chặn ông lại. “Họ họ chưa bao giờ có thể chứng minh nó.” ta . “Tại sao? Bởi vì ai cho rằng chúng ta có những kẻ giết người đó. Những vụ giết người hàng loạt được thông báo tin tức đều có liên quan đến người nước ngoài, ông thấy ?”

      “Điều này thực khiến thấy phiền đấy.” Ibrahim . “ có thể là người Ả Rập Xê-Út.”

      “Chúng ta từng có tên giết người hàng loạt người Ả Rập Xê-ứt nào trước đây chưa?”

      “Tôi biết. Mười năm về trước ở Đội Trọng án có vài vụ kẻ liên tục giết người, nhưng chưa bao giờ giống như thế này cả. Chưa bao giò có tính hệ thông như thế này, và hiển nhiên là chưa bao giờ được lên kế hoạch kỹ càng như thế này nữa.”

      Daher có vẻ như lòng được phần nào. Ibrahim mở cửa.

      Hai tuần trước người Bedouin tìm dấu vết al-Shafi gợi ý bọn họ tìm kiếm lái xe taxi, nhưng lúc đó họ có hồ sơ đàng hoàng về tên sát nhân. Họ chỉ đơn giản cử hầu hết các sĩ quan trẻ thu thập thông tin từ những công ty taxi về những vụ phạm tội của tài xế. Việc này hóa ra lại rất vô vọng, khi mà phần lớn các công ty lưu trữ hồ sơ kiểu đó. Những công ty này đều vui vẻ cung cấp thông tin, nhưng, cũng giống như các hồ sơ hành quyết và chặt tay, việc đó là vô ích cho đến chừng nào họ lập được hồ sơ tốt hơn về tên giết người .

      Ý tưởng về tay tài xế taxi bắt đầu làm tất cả vỡ mộng. Chẳng có gì là bất ngờ khi thể tìm ra tên sát nhân đó trong số năm mươi nghìn tài xế taxi ở Jeddah. Vấn đề ở chỗ, khi bạn đẩy niềm hy vọng vào guồng, rất khó để ngăn nó khồng càn quét qua mỗi cuộc điều tra và rồi để lại nản lòng.

      Giờ Ibrahim với họ rằng tên sát nhân đó có thể đóng giả lái xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ.

      Ông đứng lên trước đám đông và nhận thấy thất vọng cũng như giận dữ ngập tràn căn phòng. Ở cuối phòng, Mu'tazz ngồi tựa lưng vào tường, quan sát Ibrahim bằng cặp mắt thằn lằn uể oải.

      Ibrahim với mọi người về May Lozano và vụ cấp cứu vào hôm ta biến mất, khéo léo dẫn dắt câu chuyện theo giả thuyết của ông rằng tên giết người có thể sử dụng xe cứu thương hoặc xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ để bắt cóc các nạn nhân. Nhưng kể cả khi , ông cũng nhận thấy những người trong phòng đắn đo trước thực tế rằng họ thực có thứ gì để tiếp tục cả. Tên giết người chỉ để lại bàn tay vấy máu con phố đó, hành động lên rằng Tao giết người phụ nữ đấy, và chúng mày chẳng thể làm gì hết..

      “Chúng tôi cho rằng, trong thời gian trước mắt, tên sát nhân sa mạc đó cũng chính là kẻ bắt cóc và chặt tay Amina al-Fouad.” Ibrahim . “Những nạn nhân trước đó bị chặt tay khi họ chết, nhưng bàn tay của Amina lại bị chặt khi bà ta còn sống. Bàn tay của Amina xuất ngay sau khi chúng ta phát ra khu mộ chôn đó, do vậy chúng tôi cho rằng tên giết người hành động trong cơn thịnh nộ sau khi nhận ra chúng ta tìm ra các thi thể được chôn ở sa mạc.” Ông tóm tắt lại cho mọi người nghe về những gì Talib phát ngoài sa mạc, cảm thấy day dứt có lỗi khi tiết lộ rằng chính Katya mới là người đưa ra ý tưởng này và thực nó. Mu'tazz chẳng cần phải có thêm nhiên liệu cho cỗ máy chiến tranh của ông ta nhằm chống lại Ibrahim làm gì.

      “Do đó muốn chúng ta biết bắt cóc Amina và giết bà ta. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh với tất cả các rằng có thể Amina al-Fouad vẫn còn sống, và tôi nghĩ là phải nhấn mạnh với các việc tìm ra tên giết người là việc cấp bách hơn cả thời điểm tìm thấy những cái xác kia nữa”

      Cả căn phòng im lặng trong giây lát trước khi Mu'tazz lên tiếng.

      “Có thể bà ta chết rồi.” Ông ta . số người quay lại nhìn ông ta.

      “Vâng, thưa Trung tá.” Ibrahim vừa vừa cố kiềm chế tông giọng. “Điều gì khiến ông cho là vậy?”

      “Bà ta mất bàn tay. Nếu tên giết người có bằng cấp y khoa, khó lòng cầm máu được”

      có được theo dõi cẩn trọng của bác sĩ” Ibrahim đáp, “ có thể làm như thời trung cổ là nhúng cánh tay cụt vào hắc ín.”

      “Tôi rất nghi ngờ khả năng quan tâm tới việc cầm máu.” Mu'tazz .

      Cả căn phòng dường như còn im tiếng hơn.

      “Được rồi.” Ibrahim cố hết sức để tỏ vẻ hòa nhã. “Và ông có gợi ý gì vậy?”

      “Vì bà ta có thể chết,” Mu'tazz , “việc quan trọng hơn cả là phải tìm ra nguyên do tại sao lại chọn al-Fouad, bởi nó có thể giúp chúng ta nhận diện ai là nạn nhân tiếp theo. Cách duy nhất có thể thực điều này là phải hiểu lý do của .”

      “Hay cách khác là lập hồ sơ về .” Ibrahim vừa vừa liếc về phía Tiến sĩ Becker. “Nếu đó là phần ông muốn tham gia, thưa Trung tá, tôi lấy làm vinh hạnh khi được chỉ định ông làm việc cùng Tiến sĩ Becker”

      Tóm được ông rồi nhé. Mu'tazz cố gắng để che giâu phản đối.

      Ibrahim hướng chú ý về những người còn lại ở trong phòng “Chưa bao giờ là ý tưởng hay khi phải giả định rằng người bị mất tích chết. Chúng ta có trách nhiệm tìm được bà ấy. Tôi muốn tập trung lực lượng ngay lập tức để đưa bà al-Fouad còn sống trở về và cách duy nhất là phải tìm ra hung thủ. Mu'tazz đúng: cách để tìm ra là phải hiểu những gì làm. Tiến sĩ Becker sáng nay cung cấp cho tôi hồ sơ cập nhật nhất về hung thủ, và tôi đảm bảo để tất cả mọi người đều có bản sao. Tôi muốn mọi người hãy sẵn sàng và hiểu chúng ta tìm kiếm thứ gì.”

      “Tôi cử năm người - các đều biết nhiệm vụ rồi đấy - bí mật theo dõi ở khu vực cầu phố Sitteen.” Ông tiếp. “Rất có khả năng đó là nơi tên giết người tìm những nạn nhân đầu tiên.” Đến đây ông lúng búng, cảm thấy mình mất tập trung. Đừng ngó ngẩn vậy, ông thầm nhủ. Sabria bị tên giết người bắt cóc. có đủ thời gian để lên kế hoạch cho việc đó. Điều đó là phù hợp. “Như vậy là những ai được cử đến Sitteen tập trung để nhận diện các nạn nhân. Chúng ta cố gắng để xác định mối liên quan giữa họ, và cho đến giờ chúng ta có gì hơn ngoài đặc điểm về dân tộc. Tiến sĩ Becker rằng tên giết người thường chọn nạn nhân ở nơi thân thuộc, như vậy tất cả những nạn nhân hẳn phải có mối liên hệ với khu vực cây cầu đó. Tiếp nữa, đối với những ai tìm thông tin qua các hồ sơ, tôi muốn các tập trung vào bất cứ đối tượng nào có mối liên hệ với khu vực Kandara. Thám tử Osama Ibrahim nhận lời chỉ điều tra vụ al-Fouad thôi.”

      Ông nhanh chóng phân chia các công việc còn lại. Khi ông hoàn tất, Osama bước lên trước để nhận đội của mình và đưa họ tới văn phòng khác để chỉ dẫn tường tận. Những người được phân công hoạt động ở Sitteen bước lên trước. Ibrahim lòng khi thấy đám đông giải tán. Chỉ có Mu'tazz bị gạt lại bên ngoài. Ông ta thuộc về đội nào cả, vì kẹt với công việc văn phòng. Nhưng ông ta vẫn ở phía cuối phòng với vẻ cảnh giác.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :