Chương 5.3: Bên ngoài, những tia nắng đầu tiên phủ ánh vàng lên các ngọn cây. Cánh cửa của wagon nhà ở ban nãy vọng ra tiếng lanh canh của bát đĩa điểm tâm bây giờ mở rộng. người đàn ông vạm vỡ mặc bộ quần áo liền quần màu xanh nhem nhuốc dầu mỡ đứng mấy bậc thềm và vừa ngáp, vừa duỗi dài hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp. - Hẹn gặp tuần sau, xúc xích rán! - ta gọi vọng ra sau. Người đàn bà có cái bí danh mỹ miều đó cười khúc khích. Chàng trai mặc áo liền quần bước tới bên chiếc xe tải và mở cánh cửa buồng lái ra. Tôi xoay mình về hướng những chuỗi cây mọc thưa thớt dải đất xanh. Khi chớm bước chân lên xe Jaguar, tôi lại nghe thấy cái giọng trầm khàn ban nãy, bây giờ vẫn tiếp tục nhai nhải bài hát cũ: "Hãy ném cây đàn guitar..." " con đười ươi ngớ ngẩn, - tôi nghĩ thầm". Ngay sau đó tôi quên gã . Trong khi lăn bánh dọc theo đường Middletown về hướng xa lộ, tay tôi cầm microphone của bộ điện đàm. Jenna Beck sống ở phía bên kia của dòng East Revier tại khu Queens, tôi sực nhớ ra như vậy. lần tới đây, tiện thể tôi cũng nên ghé qua, xem liệu nhà báo quay trở lại căn hộ của mình chưa. ra tôi muốn ngoan ngoãn báo trước về trung tâm theo như quy định. Thế nhưng bạn đồng nghiệp nhận cú điện của tôi lại rằng mà nối ngay tôi với Phil. Đầu ngón tay tôi ngay lập tức nổi lên cảm giác dờn dợn, bất thường. - Con trốn rồi, - bạn tôi ngắn. - Ai? Cherry hả? - Còn con nào khác vào đây nữa hả? Bạn bè của nó ta bắt buộc phải thả ra, vì lý do gì chắc cậu cũng hiểu. Đầu tiên ta muốn tạm giữ Cherry lại. Thế nhưng June Clarc mắc phải sai lầm, vì quá thương tình mà mang cho nó bữa điểm tâm vào phòng hỏi cung, ấy lo vẻ trang trọng trong phòng giam khiến nó bỏ ăn. - Rồi sao? - Tôi hỏi, lòng thầm linh cảm thấy kết cục. - Con ngoan ngoãn dễ thương đó hắt cà phê nóng bỏng vào mặt bạn đồng nghiệp của chúng ta, đập cả khay đồ ăn lên đầu ấy rồi bỏ chạy. Trước đấy nó vẫn còn đủ tỉnh táo giật dây điện thoại ra khỏi tường và khóa trái cửa từ phía bên ngoài. thời June khủng hoảng đến mức độ cân nhắc xem liệu có nên bỏ nghề cảnh sát làm bồi bàn hay . Nhưng nếu ấy bỏ nghề chắc chắn cũng có ba đứa trong bọn mình chuyển sang đánh giày. Con bé Cherry vênh mặt qua cả ba chàng mà chẳng hề hấn chi. - Chó chết! - Tôi . Đấy là tôi vẫn còn tôn trọng hết sức những quy định về văn hóa điện đàm của FBI. Bằng vài câu ngắn ngủi, tôi kể cho Phil nghe về cuộc tới thăm của tôi tại nhà Vanessa Rubino. Chúng tôi tin là Cherry tới đây quay trở về chỗ mẹ nó. Đứa con bé vào danh sách những đối tượng bị truy nã cũng chẳng được ích lợi gì. Chúng tôi có bằng chứng cho thấy nó cố tình tẩu tán và phân phối tiền giả. Mà thời nó cũng chưa thể giúp chúng tôi tiếp tục công việc, ít nhất chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Phil lúc đó bắt tay vào công việc đào xới mạng thông tin bao quanh chàng Wilbur Staten chết. Tôi kết thúc cuộc chuyện. Lúc bấy giờ xe của tôi qua con đường Hutchinson River Parkway và hòa vào mạng hỗn độn nằm giữa ba hệ thống ngã tư Baychester và Westchester, cho tới khi tôi đến được xa lộ Bruckner. Qua cây cầu Throgs Neck, tôi sang hướng Queens. Khu vực đó nằm ở phía đông của Whitestone, trông nó đơn điệu và lạnh lùng với những dãy nhà màu xám nối tiếp màu xám, những con đường đầy ổ gà và những mảnh vườn đằng trước ảm đạm chẳng còn được ai trăm sóc. Jenna Beck và trai sinh ra ở đây và lớn lên ở đây. Bernie luôn tìm cách vươn lên những giai tầng cao hơn. Jenna quí nơi này. Bởi ở đây cảm thấy là ở nhà mình, thực cảm thấy thoải mái; bởi giữa những ngôi nhà chung cư tiêu điều đó là "cuộc sống đúng nghĩa" ồn ào nhốn nháo bởi đây là nơi sinh sống của những con người bé bình thường, những người dân " ", theo như cách mà thường miêu tả. Tôi có thể an tâm để chiếc Jaguar đậu sát vỉa hè, bởi quang cảnh xung quanh dù có tiêu điều ảm đạm, vẫn còn lâu mới trở thành khu ổ chuột. Những cậu trai mặc quần jeans và áo T-Shirts chơi bóng đá, các bé chụm đầu chuyện, có những ánh mắt sờ soạng háo hức vuốt dọc chiếc xe của tôi để tìm cái gì có thể tháo rời ra. Ở đâu đó có giọng người đàn bà vọng ra từ khuôn cửa sổ, gọi người nào đó tên là Marilou. Trong ngôi nhà có căn hộ của Jenna, ông chủ nhà quét đại sảnh, ông ta thân thiện gật đầu với tôi. Tôi đáp lại lời chào, bước vào cầu thang rồi lên tầng ba. vài phút sau, tôi đứng trong khoảng hành lang vừa được sửa chữa lại, được quét những màu xanh đậm nhạt khác nhau, và ấn chuông bên cánh cửa của Jenna. ai trả lời. ra tôi cũng mong chờ điều đó. Tôi chỉ muốn tin rằng, Jenna hoàn toàn để ý gì đến tất cả những giông bão vừa nổi lên lần nữa trong cuộc đời trai cố. Nhìn xuống đồng hồ, tôi biết vẫn còn quá sớm để đến thăm tòa soạn báo "Buổi sáng Manhattan". Phải tới gần trưa cánh nhà báo ở đó mới bắt đầu lao vào việc. Chỉ còn lại khả năng là Jenna nhét bông vào tai và còn ngủ say. Tôi nhấn chuông liên tục trong nửa phút đồng hồ, nhưng căn hộ vẫn hoàn toàn yên tĩnh. Khi muốn quay bước , tôi nghe thấy tiếng động vang lên ở khu cầu thang đằng sau, khu cầu thang bộ. Những bước chân! Những bước chân chậm, lê sệt, thêm vào đó là tiếng kéo, tiếng quệt như ai đó gắng sức bám chắc vào tay vịn cầu thang, nhích dần lên phía . Tôi nhăn trán. Có cái gì đó trong những thanh này ngay lập tức giật chuông báo động, và chỉ trong vòng tích tắc đồng hồ đẩy nhịp tim tôi tăng vọt lên. Tôi đổi hướng, bước vài bước về phía khoảng nghỉ của cầu thang. Nhưng cũng chính trong lúc đó có dáng người thanh mảnh mặc quần jeans và áo khoác bằng da màu đen rẽ vào hành lang. Đó là Jenna Beck. Jenna với gương mặt nhợt nhạt xám xịt như mặt ma, mái tóc rối bù, những vệt máu hai bàn tay. chuyển động chậm, cứng đờ như con búp bê. Bùn bám ở giày , hai ống quần đầy vết ố, phéc-mơ-tuya của áo khoác da được kéo lên sát cằm, nhưng tôi hầu như nhận thấy tất cả những chi tiết đó. Tôi chỉ nhìn gương mặt . Gương mặt gây ấn tượng như mặt nạ trống rỗng chết, và hai con mắt nhìn tôi hàng giây đồng hồ mà nhận ra tôi. - Jenna? - Tôi gọi, giọng khàn vì sợ. Cách hai bước trước mặt tôi, đứng lại. Tôi nhìn thấy những vệt máu khô và vết cắn của hai hàm răng làm môi dưới. nếp nhăn rất sâu dựng đứng xuất trán, nhưng hình như suy nghĩ của cách chỗ tôi đứng hàng năm trời ánh sáng và phải cố gắng lắm để nhớ lại xem tôi là ai. - Jerry, - , giọng vô hồn. - Jerry... - Jenna! Trời đất, chuyện gì xảy ra vậy? Đôi môi giật lên. Hai con mắt mở lớn như nhìn xuyên qua người tôi, ánh mắt khiến tôi lạnh tới tận xương tủy. Tôi biết ánh mắt này, loại ánh mắt hoang vắng trống rỗng của những con người vừa trải qua những chuyện kinh hoàng, kinh hoàng đến mức độ giờ họ vẫn chưa hiểu được. - , - lẩm bẩm. - sao cả... mọi chuyện ổn cả... ổn... Giọng nghẹn lại. Trong hai nhịp đập của trái tim, lảo đảo như cây sậy trong gió lớn. Thế rồi bước bước tròng trành về phía tôi, và tôi chỉ còn kịp giơ cánh tay ra đỡ lấy cố trước khi nhà báo khuỵu xuống.
Chương 6: Phil cố nén cơn ngáp và giơ tay về hướng cái cốc được đổ đầy cà phê từ bình thủy ra lần này là lần thứ năm hay thứ sau gì đó. Cà phê này được mua ở dưới nhà ăn lên và mùi vị của nó hôm nay gớm ghiếc như chưa bao giờ có. Rất có thể nguyên nhân chỉ nằm ở chỗ chàng sĩ quan đặc nhiệm còn quá mỏi mệt vì chuyến ra quân trong đêm vừa rồi. Thèm thuồng, nghĩ tới thứ nước thơm ngát ai so sánh nổi, món cà phê mà thư ký riêng Helen của sếp và chỉ mình ấy nấu được. Trong ngày hôm nay, hy vọng được uống thứ nước tăng lực kỳ diệu ấy. Thế nhưng trước khi lên gặp Mr. High để báo cáo, đầu tiên muốn biết Jenna Becks ở đâu, và thứ hai ít nhất cũng phải đào được cho ra vài cụm thông tin đầu tiên về chàng Wilbur Staten chết. Máy tính biết cái tên này. Phil tự nhủ, tên tuổi ra cũng chỉ mờ ảo như khói như mây mà thôi, và cặm cụi soạn ra bản miêu tả chi tiết về người chết, nhồi nó vào máy tính. Lần này kết quả đỡ mỏng manh điêu ngoa hơn. Chàng đặc nhiệm uống ngụm cà phê lớn, bởi có cảm giác cái màn hình nhấp nháy dữ dội trước mắt mình. Thế rồi dần dần gọi từng cái tên và ảnh của những tay Gangster được lọc ra theo lời miêu tả. Năm phút sau, tóm được "khách hàng" cần quan tâm. Wilbur Staten, nghi ngờ gì nữa. Phil nhận ra ràng khuôn mặt đó, mặc dù màn hình đưa ra ảnh của gã đàn ông trẻ hơn, tóc ngắn và sáng màu hơn với chòm râu được tỉa tót cẩn thận. Cả tên cũng khác. Theo máy tính, đây là gã trai tên Seymour Stratten, bốn mươi tám tuổi, sinh tại Chicago. Phil tặc lưỡi, Seymour và Wilbur Stratten và Staten nghe đúng y chang như chuyện ở đây có kẻ muốn kiếm cho mình cái tên mới, cái tên quá khác tên để sửa chữa lại số giấy tờ bằng khoán nhàng hơn. Thế nhưng đó phải là dữ liệu duy nhất thích hợp. Seymour Stratten, Wilbur Staten có danh sách tiền án rất dài, tất cả đều vì tội giả mạo giấy tờ. Từ cổ phiếu cho tới sec, gã hầu như cố gắng "xử lý" đủ mọi loại. Nếu gã quả có năng khiếu như những thông tin trong máy tính cho phép đoán ra, gã là ứng cử viên rất có giá trị cho việc chế tiền giả. Mà chuyện lo lắng cho bản thân mình những giấy tờ giả mạo chắc chắn là trong những bài tập dễ dàng nhất. Dần dần, bức ảnh nét lên trước mắt Phil. Wilbur Staten! Chàng đặc nhiệm vẫn giữ cái tên đó trong trí nhớ của mình rằng gã nhập bọn với nhóm gangster muốn sản xuất tiền giả với số lượng lớn. Đó là bọn người tàn nhẫn biết đến lương tâm, có thể lạnh lùng bước qua xác người thèm chớp mắt. Tới lúc nào đó, khi chuyện làm ăn bắt đầu trôi chảy, chắc Wilbur Staten hiểu ra điều này. Gã phải là kẻ giết người, phải tay tội phạm bạo lực, chỉ là tay gian dối lắm mánh khóe với cái đầu thông minh và đôi bàn tay khéo léo. Gã nhảy xuống con tàu chạy và mang theo túi đựng đầy "hoa giấy" để ít nhất cũng đảm bảo phần của mình trong cú làm ăn này. Gã muốn nhờ giúp đỡ của Bernie Beck, kẻ được gọi là "bạn cũ" của gã. Thế nhưng những tên đàn ông đuổi theo gã chắc chắn cũng quen thuộc với cả người bạn cũ kia, nếu chúng chẳng tìm được ra dấu vết của Bernie vốn nổi tiếng cẩn thận lo sợ và tìm cách giật tung Bernie lên trong khí. Điều đó có nghĩa là, chẳng phải giữa Wilbur Staten và bọn làm tiền giả, mà rất có thể kể cả giữa Bernie và bọn gangster cũng có mối quan hệ từ trước. Phil uống côc cà phê thứ sáu trong ngày, nghiến răng vật lộn qua cả đống dữ liệu có được lọc ra từ các danh sách tiền án, các tập hồ sơ của tòa án, hồ sơ khiếu kiện, truy tố, biên bản hỏi cung, báo cáo của cảnh sát. Thế rồi tìm ra. Arturo Pezzoli ! Cái tên của gã đàn ông luôn lấp ló có mặt, lúc là nhân chứng, lúc là nhân vật phụ ngoài rìa, có thời cùng ngồi chung với Wilbur Staten và Bernie trong nhà giam suốt mười tám tháng, bản thân hai gã đàn ông này cũng làm quen với nhau đằng sau chấn song sắt. Danh sách tiền án của Pezzoli đều xảy ra trong khu vực ăn chơi. Gã quen biết mọi bar rượu, mọi quán thoát y vũ và mọi hang ổ cờ bạc lậu tại New York, gã mau lẹ nối kết các quan hệ, tổ chức các cuộc buôn bán với tất cả những gì có thể bán được tại những nơi như thế. Rất có thể giờ đây gã chuyển sang phân phối tiền giả. Mặc dù việc liệu gã đưa người quen cũ Wilbur Staten vào chuyện này hoặc là ngược lại ra quan trọng. Phil lấy hơi sâu, ngả người ra phía sau và đưa tay bóp hai bên thái dương. Arturo Pezzoli ! thầm nhắc lại trong suy nghĩ, vẻ hài lòng. Gã đàn ông đó luôn tiến hành những công việc bẩn thỉu của mình trong khu vực New York. Vậy là việc tìm gã phải công việc quá khó khăn.
Chương 7.1: Lũ chúng tôi có cảm giác đứng trước bức tường còn lối . Vanessa Rubino biến mất, Cherry biến mất và Jenna cũng vậy, đây là điều khiến chúng tôi lo lắng nhiều nhất, bởi nó khó giải thích nhất. Chúng tôi có chuyện với bác sĩ và biết ông chỉ ở trong căn hộ của Jenna thời gian ngắn. muốn để ông khám kỹ mà cũng chẳng muốn nhận thứ thuốc an thần mà ông muốn uống. Tôi gọi điện cho bệnh viện nơi Bernie nằm, bởi tôi đoán rất có thể qua tình cờ nào đó mà chúng tôi chưa tưởng tượng ra, biết điều gì xảy tới với người trai mình. Nhưng Jenna cũng lộ diện kể cả trong nhà thương. Trong hầm để xe có chiếc Rabbit màu xanh của . Tôi rất muốn vào căn hộ để xem xét, nhưng có quyền. Chúng tôi chẳng thể làm được gì cả. Vô cùng bực bội và lo lắng, hai chúng tôi quay trở lại văn phòng. Ở đó, cuối cùng tôi cũng có thời gian để xem xét những dữ liệu mà Phil tìm ra. người quen chung, rất có thể là tòng phạm chung của Bernie Beck và chàng Wilbur Staten bị giết. Chúng tôi quan tâm vì dù sao chăng nữa đây cũng là điểm tựa. Arturo Pezzoli, cứ đo theo tần suất mà gã ta là nhân chứng, là đối tượng bị tình nghi hoặc là nhân vật tham gia trong phương diện nào đó và được để cập tới trong các tập tài liệu, danh sách tiền án của gã là quá ngắn. Gã chính là kẻ rất khéo léo, tinh ranh. Rất có thể là nhân vật ngoài rìa của mafia, kẻ được "các quý ông đáng kính" giơ cả hai tay ra che chở, bởi gã thỉnh thoảng lại làm việc cho bọn chúng. Trong cái nghề buôn bán với cuộc sống ban đêm mà Pezzoli tham gia cả ngày lẫn đêm từ bao nhiêu năm nay, người ta bao giờ dừng được bàn chân mặt đất nếu về đồng lõa với Mafia. Và những kẻ nào làm được điều đó, nhận được loạt những công việc béo bở, loạt những công việc tương tự cái việc ban phát tiền giả. Bức ảnh của Arturo Pezzoli chỉ ra gã đàn ông gầy, đẹp trai, khuôn mặt hơi có vẻ tiêu điều vì trụy lạc với nét mặt góc cạnh, mái tóc uốn sóng bồng bềnh và hai con mắt thẫm màu sắc bén. Trong hai năm gần đây, máy tính biết được thêm dữ liệu nào về gã. Thế nhưng theo tất cả những gì mà chúng tôi được biết trong thời gian trước, chúng tôi hầu như tin chắc rằng gã vẫn còn giữ lòng chung thủy với khu vực làm ăn quen thuộc. - Ta tìm được gã, - tôi gầm gừ khẽ và đập bàn tay lên tập hồ sơ. - kẻ như gã chắc chắn được thế giới đen biết . Nếu chúng ta thăm hỏi mấy nguồn thông tin... - Cái đó mình mình làm cũng được, - Phil . - Mình gọi sẵn vài cú điện thoại rồi. Về phần cậu phải quan tâm đến Jenna. Rồi cả Vanessa Rubino, cũng như Cherry nữa. Bạn tôi có lý. Chỉ có điều dĩ nhiên dễ mà làm khó. - Ta tìm được Jenna nếu ấy muốn lộ diện ra, - tôi . - Đúng thế. Mà nhìn chung ấy cũng còn biết tự phòng vệ. Nhưng mà Vanessa Rubino... - Người đàn bà đó quen thuộc thế giới đen như lòng bàn tay của mình, Phil "Tập lặn" chắc chắn là trong những bài tập dễ dàng đối với ta. - Cậu quên Cherry rồi. Thứ nhất chắc chắn con bé đó biết nhiều hơn về những gì mà nó với mình, thứ hai ít nhất nó cũng có thể đoán ra mẹ nó bây giờ ở đâu... - Và thứ ba, nếu nó biết điều gì, nó cũng trở thành đối tượng bị đe dọa, - tôi tiếp theo - Sau chuyến ra "nổi tiếng" của nó ở đây, chắc chắn bây giờ nó phải trốn vào chỗ nào đó. Thế nhưng cũng chắc chắn nó phải ngang qua đám Punker của nó. Rất có thể bọn trẻ con tóc tai sặc sỡ như lông công đó mở mồm ra nếu chúng nó hiểu rằng bọn mình chỉ muốn bảo vệ cho Cherry chứ phải là muốn hành tội con bé. - Đúng. Thế nhé, cậu tìm con bé, mình tìm Arturo Pezzoli . Nghe rất đơn giản. Chúng tôi đâu có biết, đây là cuộc tìm kiếm đẩy cả hai chúng tôi vào những khó khăn quỷ ám. o O o Chiếc điện thoại ngân lên hồi chuông nhè . hồi chuông du dương nhưng cũng khiến cho cả năm gã đàn ông ngồi trong căn đại sảnh u ám giật nảy mình lên, như thể khẩu súng lục vừa nổ đạn trước mặt chúng. Ted Castal và Larry Smith, hai tên đấm đá, lên tư tưởng chỉ cờ đợi những tin xấu kể từ khi xảy ra vụ trục trặc với tay phản bội Wilbur Staten. Gã tóc bạc đeo kính Julien Charenton thấy bực bội bởi những vụ việc này cho gã yên ổn với công việc chuyên môn như trước. Arturo Pezzoli đơn giản là sợ ngấm ngầm. Nhiệm vụ mà sếp muốn ấn vào tay gã khiến lòng gã nôn nao. Giờ gã đưa tay vuốt mồ hôi trán, lòng hy vọng khấp khởi, bởi vì gã linh cảm rằng, rất có thể cú điện thoại này cứu gã khỏi vụ kia. - Tôi đây, - Vernon Morgred lên tiếng với cái giọng cao, hầu như có của gã. Pezzoli nín thở. Morgred tựa người vào bàn làm việc và đưa ngón tay trỏ đẩy cặp kính thẫm màu cho ngay ngắn. - Có, Bran, nghe đây, - gã . Và sau hồi: - Em có chắc là cả hai đứa chúng nó tiêu đời rồi ? là phía đằng kia đưa ra câu trả lời tốt đẹp. Cái mặt đầy sẹo của Morgred nhăn thành nụ cười giống quỷ Satan. - Tốt, tốt lắm. biết là nhờ cậy được vào em. - Gã lại ngưng hồi nữa, thế rồi gã duỗi cái đầu và trọc lóc của mình ra phía trước như con chim ăn thịt. - Nghe này, Bran, còn nhiệm vụ nữa cho em đây. Vừa có kiện bất ngờ xảy ra. Chỉ trong vài từ ngữ, gã giải thích nhiệm vụ mới cho người bên kia đầu dây. Ted Castal và Larry Smith tò mò lắng nghe. Julien Charenton, tay kỹ thuật gia và nhà khoa học, vẫn giữ nguyên bộ mặt chán chường. Arturo Pezzoli nhõm phì hơi ra qua hai cánh mũi, bởi cái hiểm họa phải bẩn tay bằng công việc giết người giờ đây lướt qua mặt gã.
Chương 7.2: Việc dừng lại ở Brand Morgred. Bran là người đàn ông thích hợp cho những việc như vậy. Đứa em trai của Vernon Morgred chỉ có thể dùng vào việc hủy diệt mà thôi. Gã có nỗi đam mê quái gở khi giết chóc. Gã thích tất cả các loại súng, dao, bom và tất cả các công cụ giết người khác. Bọn chúng đứa nào cũng sợ gã, kẻ nào gặp gã cũng muốn lẩn , kể cả những tay cận vệ dày dạn kinh nghiệm nhất. Thậm chí đến trai gã nhiều khi cũng thấy rờn rợn khi ở bên cạnh gã. Và lần nào Arturo Pezzoli cũng cảm nhận nỗi nôn nao mạnh mẽ, nỗi nôn nao đau đớn hầu như bằng cơ thể, khi Bran có nhà, loay hoay ở đâu đó với những đồ chơi của gã và lẩm nhẩm hát bài ca khốn nạn đó, "Bài ca cái chết..." Vernon Morgred tay đặt máy. - Mọi việc ổn cả, - gã bình tĩnh . - Bran giải quyết vụ đó. Tôi nghĩ là bây giờ chúng ta quay trở lại với công việc bình thường được rồi. Ted Castal và Larry Smith cùng nhõm thở ra. Julien Charenton nhảy ra khỏi ghế bành, xoa hai tay vào nhau, hăm hở muốn làm việc. Đối với Arturo Pezzoli, câu đó có nghĩa là gã lại được quay trở về với công việc bar rượu của gã, bar rượu đóng vai trò quan trọng cho tổ chức vì là điểm tụ tập và phân phối. Gã đàn ông cảm thấy mình phải ngay lập tức có được vài ngụm rượu, có lẽ cả người đàn bà và chầu bài bạc Poker, dứt khoát gã phải giải trí chút cho nhõm bớt đầu óc, và gã nhanh nhảu rời bỏ căn biệt thự cổ lỗ, u. o O o Phil biết giờ này vẫn còn quá sớm để thăm hỏi các tay do thám và nguồn thông tin. Phải vài tiếng đồng hồ nữa họ mới xuất tại những quán rượu quen. Vì thế mà chàng sĩ quan đặc nhiệm quyết định làm công tác chuẩn bị qua điện thoại. Theo đúng khẩu hiệu nhắn tin cho những người có thể quen những người khác, những người này lại có thể quen vài người nào đó có liên quan. Hai lần liền, cố gắng của Phil kết quả. Ở lần thứ ba, gọi tới quán ăn nhanh gần sân vận động Grand Central. Chủ quán có tên là Joe Crock và được gọi là "Em Bé". Vì gương mặt tròn, hai con mắt màu xanh nhạt và cái miệng mũm mĩm, nũng nịu, ta trông giống em bé khổng lồ. Đây là nơi Speedy mắt, tay "nguồn thông tin" bị chột mắt, thường đến ăn khẩu phần thức ăn trong ngày của ta. Vào mỗi buổi chiều sau khi ta vừa nâng thân người ra khỏi lỗ ngủ nào đó trong các tầng hầm. Cái dạ dày của Phil reo lên, báo cho biết bản thân cũng chưa nạp nhiều thức ăn trong ngày. đặt cái bánh Hamburger. "Joe Em Bé" nướng hai ổ bánh mì tròn, ném tảng thịt rán sẵn vào trong lớp mỡ reo xèo xèo và rút ra lá rau xà lách trông vẫn còn khá tươi. cẩn thận như mọi khi, ta đưa mắt nhìn trước nhìn sau rồi mới ra vẻ bí mật cúi người về phía trước. - Phố số 43, - ta thào. - Đường hầm Roquette Palace. Roquette Palace là tổ hợp năm rạp phim kề nhau và đường hầm dài treo những tủ kính dán các tờ quảng cáo, có ưu điểm là được sưởi nóng. Dân lang thang vào đây trú lạnh thường bị người lính gác ném ra ngoài. Nhưng Speedy mắt là tay lang thang đặc biệt và rất cố gắng giữ gìn diện mạo. Mỗi ngày ta chỉ ăn chiếc bánh Hamburger của Joe Crock cùng toàn bộ những đống rau xà lách còn sót lại của buổi sáng, mà mỗi năm hai lần, ta còn góp nhặt vài dollar để mua quần áo, mặc dù ở cửa hàng bán đồ cũ, nhưng còn trông tàm tạm được. Thêm vào đó Speedy còn có thói quen giữ gìn dao cạo râu của mình như tài sản vô giá và sử dụng thường xuyên nên giữ được vẻ khá sạch nơi bộ mặt. Phil cảm ơn, ném đống tiền xu lên chiếc đĩa bằng thủy tinh rồi về hướng phố 43. Cơn mưa bên ngoài khiến cho nhiều người quan tâm đến những bảng quảng cáo trong đường hầm Roquette Palace hơn mọi ngày. Người lính gác hầm hừ đứng chống nạnh ở đầu phía tây của đường hầm trước gã nghiện má hõm, quần jean rách rưới và áo Parka bẩn ghê hồn. Speedy mắt đứng bên cạnh khuôn cửa kính và quan sát với con mắt còn nguyên vẹn của mình những hoạt động của gã trai mặc bộ đồ chiến đấu, dùng khẩu Tommy-Gun mà có lẽ nó đưa rất nhiều loại người khác nhau từ miền sống về cõi chết. Phil bước đến gần nguồn thông tin của , gõ lên vai và giơ ngay đến trước mặt Speedy mắt cái bánh Sandwich thịt gà mà mang từ chỗ "Joe Em Bé". Con mắt duy nhất của Speedy sáng lên. Người đàn ông này quả tin cách nghiêm trang rằng, ta sống rất tử tế và rất quý trọng giữ gìn sức khỏe, nếu cứ mỗi ngày lại nhớ ăn chút bên cạnh chai rượu. Có khi quan niệm đó cũng đúng, ít nhất là so sánh với những bạn của Speedy, những người hoàn toàn chỉ biết đến những món ăn lỏng. - A, ông đặc nhiệm, - ta vừa chào vừa giơ tay tháo tấm giấy bọc bánh Sandwich. - Có chuyện gì thế? - Arturo Pezzoli, - Phil ngắn. Nguồn thông tin nhăn trán. - Hừm. Nghe sao quen quen. Nhưng sao tôi nhớ ra ngay. Phil thò tay vào túi áo. Con mắt của Speedy lóe lên vẻ thèm thuồng. Thế nhưng chàng thất vọng thở dài khi thấy thay cho tiền, Phhil rút ra tấm ảnh và giơ nó đến sát con mắt còn lại của Speedy. - A ra gã này! - nguồn thông tin lẩm bẩm. - Dĩ nhiên rồi, tôi quen gã. Người ta gọi là Artie gà mái. biết tại sao. Rất có thể vì bọn đàn bà khẳng định rằng ta phải là con gà trống nghiêm chỉnh. Speedy cười khúc khích. Phil lại đút tấm ảnh vào trong túi. - Thế tôi tìm ở đâu ra con gà mái đó? - hỏi. - Hừm, hừm. Chà, cái này ... Lần này bàn tay chàng đặc nhiệm quả rút từ túi ra tờ tiền. Những ngón tay nhanh lẹ của Speedy thoắt rút chiến lợi phẩm rồi bỏ nó vào trong chiếc túi của làn áo bành tô còn mới, nhưng trông chưa đến nỗi tệ. - Cha, "Artie gà mái", - ta nhắc lại. - Trước đây gã là nhân vật khá nổi tiếng đấy. Từ vài năm nay, hình như gã có vẻ im lặng hơn. Gã tán tỉnh, cưa cẩm được cả bar rượu riêng cho mình, bar rất sang trọng. Nhưng dường như bây giờ gã chỉ còn là giám đốc điều hành thôi, bởi có kẻ khác tóm lấy cái bar đó. Nguồn thông tin chần chừ, thế rồi hình như bản thân ta cũng nhận ra rằng những tin tức mà ta vừa đưa ra chưa phải thuộc loại bí mật rung chuyển thế giới, xứng đáng với món tiền thưởng như thế. - Bar rượu "Cơn ác mộng" ở phố số 13, khu Đông, - cuối cùng ta phun ra. - Nếu mà tôi phải đưa ông tới đó, ông đặc nhiệm..." - Cảm ơn, tôi tự tìm được đường . - Nhưng tôi năng gì cả đấy nhé, ông đặc nhiệm, chưa? - hề từ nào hết. Chào nhé, Speedy. Họ gật đầu với nhau. Speedy mắt lại chìm đắm vào chuyện ngắm nghía khuôn cửa quảng cáo, miệng và tay từ từ nhấm nháp chiếc bánh Sandwich. Phil cân nhắc, hình như nghe thấy cái tên "Cơn ác mộng" này từ đâu rồi, nhưng thời chưa nhớ ra.
Chương 8.1: Tôi sang hướng Bronx, bởi đám bạn Punker của Cherry Rubino khi được hỏi cung đưa địa chỉ là khu vực quanh cầu William. khu phố tương đối yên tĩnh, xuống cấp có chừng mực, ít nhất là so sánh với những căn nhà đổ nát ở khu phía Nam. Những băng đảng phố phường với những chiếc xe đổ lửa chỉ thỉnh thoáng mới kéo từ lãnh địa của mình lên đây, thường chỉ để đuổi đánh đám dân Punker, nhóm thanh niên trở thành cái gai trong mắt bọn này chỉ bởi cái tội ăn mặc khác, bôi màu sắc khác. Vì hỏi thăm trước trong trạm cảnh sát khu vực, nên tôi biết mang máng mình cần phải tìm ở đoạn nào và để chiếc xe Jaguar đỗ ở gần con đường dẫn ra New England Thruway. Từ đại lộ Boller cho tới dòng sông Hutchinson là cả khu vực công nghiệp điêu tàn, chỉ còn lại vài xí nghiệp nho bên bờ vực phá sản. Các cảnh sát viên trước là đám dân Punker của vùng này thường thích tụ tập ở vài ngôi nhà bên bờ sông, trong khuôn viên của xưởng đóng tàu bỏ hoang. Rất có thể những chiếc xà lan bị hỏng vẫn còn nằm ở đó là cơ hội tốt để trốn tránh những băng đảng Rocker xe máy phân khối lớn. Tôi đội mũ trùm của áo Parka lên đầu, dưới làn mưa bụi về hướng dòng sông. Trong lòng tôi có mấy hy vọng. Toàn khu vắng lặng như cảnh chết, như thể đến cả bọn chuột cống cũng ở lỳ trong hang, ngại chui ra ngoài trong cái tiết trời vừa lạnh vừa ẩm như hôm nay. dòng sông có vài con vịt đơn từ từ bơi trong khoảng nước đục ngầu nằm giữa chân của đoạn cầu hỏng. Khuôn viên của xưởng đóng tàu cũ được bao quanh bằng hàng rào đóng bằng gỗ ván, đúng hơn nó còn là hàng rào nữa, mà chỉ còn lại những phần đổ nát gợi nhắc đến hàng rào. Tôi dễ dàng tìm thấy chỗ hở. Có lẽ ở đây đơn giản là chẳng còn thứ gì đáng để đánh cắp nữa. Hai mắt tôi lướt dọc cầu cảng, những ngôi nhà và những xưởng thợ đổ nát, vài ba ụ nổi nho , vài ba cần trục hết thời gian sử dung, và biết bao nhiêu là rác thải. vài xác con tàu bị vỡ tanh banh nhắc cho tôi nhớ tới nghĩa địa tàu thủy trong "Vịnh Ma". Tôi chần chừ vài giây đồng hồ. Rồi tôi xoay người sang phải, nép vào bóng tối của chân cần cầu bằng thép, có lẽ ngày xưa là thành phần trong hệ thống cần trục, tôi về hướng ngôi nhà tầng duy nhất còn có thể tạm dùng làm nơi ăn ở. Những khuôn giấy bóng kính màu trắng đục được đóng đinh bên cửa sổ và vài mảnh ván sơn màu sáng cho biết có người bỏ công ra sửa chữa qua loa chỗ này. Phía đằng sau ngôi nhà cũ thò lên đoạn ống lò sưởi đâm ra từ lỗ được cưa vào bức tường bằng gỗ. làn khói mỏng mảnh tan ra thành từng sợi trong bầu khí lạnh ẩm bên ngoài. Dù người ngồi trong nhà có là ai, là ta muốn nghỉ ngơi êm ấm. Bám sát vào tường, tôi dịch chuyển ngang,, đến gần khuôn cửa sổ gần nhất. Mảng giấy nhựa được đóng đinh bên ngoài có lỗ hở. thận trọng, tôi trèo lên trong những cái thùng đựng nhựa đường rỗng dựng quanh đó, rướn cao cổ lên, tìm cách nhìn vào phía bên trong của ngôi nhà cũ kỹ. Tôi nhìn thấy nhiều. Nhưng "cái lược" khổng lồ bốn màu làm bằng tóc, những lọn tóc màu đỏ chói và hai mảng đầu màu xanh lét ra tương đối ràng. Còn thiếu Cherry Rubino. Nếu như tôi lầm bốn đứa đồng đảng của nàng ngồi buồn rầu những cái thùng gỗ lật ngược. Sau vài giây đồng hồ, tôi nghe thấy giọng trẻ em cao vói lên của đứa con . - Em rồi, lẽ ra bọn mình được để nó mình. - Vớ vẩn, - trong hai đứa con trai tóc xanh lẩm bẩm. - Bản thân nó phải biết nó làm gì chứ. Khốn nạn, muốn bị bỏng tay lần nữa. Có phải bọn trẻ con về Cherry? Và quỷ quái , đứa con để tóc hình lông nhím màu xanh đó định làm gì, thứ mà những đứa khác muốn làm theo, bởi chúng sợ bị bỏng tay? Tôi nghiến chặt răng. Cân nhắc, liệu có nên gõ vào cửa ra vào đằng trước và tìm cách thuyết phục nhóm Punker rằng chúng nó cần phải khai ra mới mong giúp đỡ được Cherry. Nhưng tôi còn cơ hội để quyết định. Bởi chỉ giây đồng hồ sau đó, cơ thể tôi giật nảy lên như vừa ăn trọn ngọn roi. Có kẻ hát! Ở đâu đó đằng sau tôi, trong cái đám rối rắm của những căn nhà cũ kỹ, những cầu cảng và những hệ cần trục! tiếng hát lẩm nhẩm ràng, phải chú ý lắm mới nghe được lời hát. Hãy ném cây đàn guitar !... Bài ca cái chết. Và đó cũng chính là cái giọng trầm và hơi khàn của gã sát nhân, giọng mà tôi nghe qua lần và bao giờ quên nổi. tiếng động, tôi trườn từ thùng đựng nhựa đường xuống dưới, dán sát mình vào bóng tối ngôi nhà. Gã đàn ông kia thể nhận thấy tôi, nếu gã chẳng tự để lộ mình qua cái giọng hát khốn kiếp. Và chắc chắn gã cũng tính đến khả năng rằng ngoài Cherry ở đây cũng còn cả nhóm thanh thiếu niên Punker lẩn khuất xung quanh. Hoặc gã còn là kể bình thường nữa. Gã có cảm giác mạnh mẽ và an toàn tới mức độ chẳng thèm nảy ra sáng kiến rằng có thể có kẻ nghi ngờ gã? Hay là gã hát cách vô ý thức, lời bài ca "Song of Death" bám sau vào cái hệ thần kinh bệnh hoạn của gã, đến mức độ gã rũ bỏ được nó nữa. Tiếng hát bây giờ lặng .