Chương 2.2: Jenna lấy hơi sâu, vuốt mồ hôi trán. có cảm giác là lạ trong đầu gối khi ngồi xổm xuống bên gã con trai ngất. Thêm lần nữa, quấn đầu ngón tay bằng khăn giấy, tìm ví. Thẻ lái xe của đối thủ được đút trong cái bao bẩn thỉu bằng da. Jenna đọc thấy tên gã con trai là Pete Lennon, hai mươi tuổi. Nhưng các dữ liệu chẳng cho tiến được bước nào. Thận trọng để phá hỏng bất kỳ dấu vế nào, nữ nhà báo rút khẩu súng lục ra khỏi bao đeo dưới tay của gã. khẩu Bernadelli của Italia, khẩu súng sang trọng, thon mỏng, Jenna ngửi đầu nòng súng. nhăn trán khi hiểu ra rằng cả khẩu súng này cũng hề nhả đạn trong những phút giây vừa rồi. Nhưng còn cơ hội để rút ra kết luận từ dữ liệu đó. Chỉ tiếng động vô cùng nhoi đằng sau lưng cảnh báo cho . Nhưng quá muộn để phản ứng, Jeena tìm cách nhảy lên và xoay người lại, nhưng mới nhổm được nửa chừng ngón đòn hủy diệt đập thẳng vào sau gáy . *** Tôi buông người ngả xuống. phản ứng bản năng phải chuyển động được lý trí điều khiển. - Xuống, Bernies! - Tôi gào lên. Có lẽ ta nghe thấy giọng tôi. Nhưng ta gác được chân qua khỏi mạn thuyền, bây giờ cưỡi như người ta cưỡi ngựa lên đầu cầu thang dây, hầu như biết nên tiến hay nên lùi. Tuyệt vọng, ta thét lên khi làn mưa những mảnh vỡ, gỗ vụn và thanh thép đổ xuống cơ thể ta. Tôi co chân lên định lao sang hướng Bernie. Nhưng tôi còn cơ hội nữa, bới chính trong lúc đó nửa của bức tường cabine buồng lái rơi đập xuống người tôi. Nó khiến tôi bị trẹo chân, thế nhưng nó cũng che cho tôi phần lớn của cơn mưa đổ nát, mảnh vụn mà sức ép của vụ nổ thổi cho bay boong tàu. Bernie vẫn còn hét lên, bây giờ trầm hơn, xa hơn, cho biết ta ngã xuống hoặc nhảy được ra khỏi mạn thuyền. Khi tôi nghiến răng ghé vai nâng mảng tường dậy, tôi nhìn thấy ta nữa. Bước hai bước, tôi đến bên mép thuyền. Nghiến răng, tôi nhìn xuống dáng người nhăn nhúm bất động giữa hai vách đá bên dưới. - Jerry! - Giọng Phil vang lên từ bóng tối. - Này, bạn già! - Mình ổn... Còn hơi loạng choạng, tôi tựa vào mép thuyền và trèo qua, thay vì lấy đà nhảy. Phil thẳng lưng lên đằng sau cái bướu gù của vách đá nơi tìm được chỗ nấp. Những lưỡi lửa reo lách tách, vọt lên cao và dìm toàn bộ khung cảnh vào thứ ánh sáng màu đỏ. Tôi xoay về phía Bernie. ta vẫn còn sống, chỉ ngất thôi. Giờ chúng tôi chưa thể chăm sóc vết thương của ta bởi nếu thùng xăng của chiếc thuyền buồm ka vẫn còn chứa nguyên liệu dành cho mô tơ phụ, phần còn lại của con tàu chẳng mấy chốc hóa thành trăm mảnh bay vọt ngang tai chúng tôi. cách cẩn thận, chúng tôi chuyển người bị ngất vào con thuyền của mình. Khi thuyền bắt đầu chạy, tôi khám xét qua loa cho Bernie. thời tôi chỉ nhận thấy những vết xước, bầm sưng, và phần xương gãy bên dưới khuỷu tay trái. Thế nhưng vết nhợt nhạt màu xám mặt Bernie và những hơi thở cạn, nhanh, cho biết chắc chắn ta bị nội thương. Bernie thoáng cử động và rên lên. Đồng thời, tôi nghe thấy tiếng nổ trầm đục vang lên sau lưng mình. - Cúi đầu! - Phil rít lên, và ngay sau đó ngọn lửa lưu huỳnh sáng chói vọt lên bầu trời, tỏa bùng ra bốn phía và biến xác thuyền buồm thành quả bóng lửa. Lần này, những mảnh vỡ chỉ văng xuống nước trong khoảng cách , khiến chúng tôi an tâm. Thuyền của chúng tôi chỉ hơi nhỏm lên , chồm những làn sóng bốc cao, rồi đập thân xuống ngọn sóng biển tiếp đó, khiến cho những ván gỗ khe khẽ rên lên. Phil bám chặt vào bánh lái, giữ con thuyền bị lật ngang. Những vách đá cao vọt lên, đen xì và đe dọa trước mặt chúng tôi. Nhưng dù sao chăng nữa chúng tôi cũng bị bẻ gãy, thuyền bị lật và cái đám nước giận dữ dần dần dịu xuống. Phil tắt mô tơ và nhảy lên bờ. Chúng tôi cùng nhau khiêng người bị thương ra khỏi con thuyền tròng trành và đặt ta nằm vệt cát trải đầy những hòn sỏi được nước bào cho nhẵn bóng cùng những cụm tảo từ ngoài biển trôi vào. Bạn tôi rút máy hộ đàm ra khỏi túi áo khoác, trong khi tôi cúi xuống quan sát chàng Bernie Becks rên. Hai mắt ta mở lớn. Tia sáng của những tảng than bay lên từ con thuyền cháy bập bùng lướt khuôn mặt nhăn nhó. - Jenna, ta khàn khàn thào. - Jenna... Tôi nín thở. Chỉ trong giây đồng hồ, tất cả các dây thần kinh trong tôi đồng thời giật chuông báo động. Chúng tôi biết quá Jenna Becks. ta là em của Bernie và là nữ phóng viên hình của tờ "Buổi sáng Manhattan" - trong những nhà báo nặng ký có thừa lòng dũng cảm. Và khốn nạn, lẽ ra chúng tôi phải tự nghĩ được rằng ở gần đây, chính là người thúc Bernie gọi điện cho FBI. Nếu có lần nào trong đời Bernie đưa ra được quyết định tử tế đứng đắn, bao giờ cũng có Jenna đứng đằng sau. quí trai của mình và làm tất cả để giúp ta. Nhưng cũng làm tất cả cho câu chuyện giật gân nổi trội. Và cho bài báo thành công sáng chói. Và tôi đột ngột hiểu ra tại sao Bernie lại biến cuộc gặp gỡ thành cú phiêu lưu lớn như vây, cuộc gặp gỡ lẽ ra cũng có thể thực đơn giản hơn, bình thường hơn. ta làm điều đó cho Jenna! Cho bài báo của , chuyến thuyền trong đêm cùng cuộc gặp gỡ con tàu hỏng dĩ nhiên cung cấp những chi tiết ấn tượng hơn rất nhiều so với động tác bắt giam thuần túy.
Chương 2.3: - ấy sao? - Tôi khàn giọng hỏi. - ấy ở đâu? - Khách sạn Allison... ấy ở trong khách sạn... các ông phải... phải cảnh báo ấy... Chúng tôi phải làm như thế . Dù kẻ đặt bom con thuyền có là ai chắc chắn gã cũng tìm cách chặn họng chàng Wilbur Staten bí hiểm. Và chắc chắn tóm lấy mớ tiền giả đó vào tay mình! Nếu Jenna cùng máy ảnh của chờ đợi ở ngóc ngách nào đó trong khách sạn kia, chờ để chứng kiến trực tiếp cú ra quân của FBI, rất dễ rơi vào tình huống ma quỷ nguy hiểm đến tính mạng của mình. Tôi bất giác rủa thành tiếng. Phil gập cần anten của chiếc máy bộ đàm. - Xe cấp cứu đến, - ngắn. - Cảnh sát xa lộ chặn đường quanh khách sạn. Steve và Zeerookah năm phút nữa đến đó, tôi đề nghị họ thời chưa lộ mặt vội, đúng ? Steve Dillaggio và bạn đồng nghiệp da đỏ Zeerookah của chúng tôi là những người cùng chiếc xe công vụ của họ chờ sẵn ở khu vực cạnh "Vịnh Ma". - Được, - tôi . - Nhưng bảo họ chú ý. Jenna ở trong khách sạn. - Jenna Becks? Trời đất ơi, lại còn thế nữa! em nhà này điên cả rồi hay sao? Tôi cũng nghĩ thế, nhưng có bực tức bây giờ cũng đâu được ích chi. Phil lại bật máy bộ đàm lên, liên lạc với Zeery và Steve lần nữa. Sau đó chăm sóc cho Bernie Becks, khi xe cấp cứu tới đây. Tôi nhảy xuống thuyền, bật mô tơ và nghiến răng nén nóng nảy trong lòng, bởi tôi thấy bây giờ con thuyền quá chậm. Chưa đầy mười phút sau đó, tôi dừng lại giữa những chiếc thuyền đánh cá cũ và vài con thuyền buồm để làm động tác buộc thuyền và trèo qua những bậc thang hen rỉ lên cầu cảng. nửa tá nhà gỗ và những ngôi nhà để thuyền quanh đó gây ấn tượng chết chóc như nghĩa địa giữa đêm. Những ngôi nhà của ngôi làng bé xíu, thậm chí chưa bao giờ được đánh dấu bản đồ nấp sau chuỗi cồn cát gần bên. Có con đường dẫn tới khách sạn, xuyên ngang qua chuỗi cồn cát đó. Những ai muốn từ ngôi làng đánh cá này đến khách sạn Allison bằng xe ô tô phải vòng đoạn rất dài qua xa lộ, vòng sâu vào phía bên trong đất liền. Nhưng chỉ loại trừ đám thanh niên trong làng muốn dùng khách sạn làm điểm gặp gỡ, còn hầu như chằng ai ngó ngàng tới chốn đó. Qua máy bộ đàm, tôi liên lạc với Steve và Zeery, đoán biết quang cảnh trong khuôn viên của khách sạn Allison tuyệt đối yên lặng, chỉ trừ tiếng nhạc rền rĩ từ dàn loa. Tất cả những vị khách có vẻ ngủ hết rồi. Bungalow số 9 có ánh đèn nhưng điều đó có nghĩa là tay Wilbur Staten bí hiểm có mặt ở đó. Họ chưa phát được bất cứ dấu hiệu nào của Jenna Becks. nhưng cả điều này cũng chưa có ý nghĩa mấy. Chừng nào chưa lộ mặt ra, chúng tôi có thể tạm nghĩ ấy chưa sa vào nguy hiểm trực tiếp. Tôi tin như thế và tôi đút máy bộ đàm vào người, lách qua kẽ hở giữa hai túp lều nghiêng vẹo. Rồi chỉ sau vài bước chân, tôi bước lên con đường bằng bê tông. Sau vài phút, tôi nhảy qua hàng rào thấp bao quanh khuôn viên của khách sạn. Hai bạn đồng nghiệp của tôi lái chiếc xe công vụ giật lùi, đâm vào hai bụi cây nằm bên rìa bãi đậu. Steve ngồi bên tay lái. Ngón tay trỏ của chỉ về hướng con đường chính rất rộng, từ đó rẽ ra những con đường hơn, dẫn về những ngôi nhà nằm rải rác trong khuôn đất. Zeerookah nấp ở góc nào đó và quan sát Bungalow số 9. lên tiếng ngay lập tức khi tôi lại rút máy bộ đàm ra và cào ngón tay cái lên máy. - Im lặng trong rừng, - khẽ tuyên bố. - Wilbur Staten động đậy nếu quả gã ta có ở đây. - Được. Cứ dừng lại ở chỗ của cậu. Mình tìm cách tiếp cận từ phía sau. Tôi bật cho máy bộ đàm ở chế độ nhận liên lạc và treo máy lên vai trái. Tay bên phải của tôi mở làn áo Parka, để nếu cần có thể rút khẩu P38 ra nhanh. Sương mù bây giờ dày đặc, tràn từ biển Đại Tây Dương vào đây như bức tường với tốc độ chậm rãi, chuyển động, và kéo thành những vệt mây dài vô tận bên thảm có. Tôi đường vòng, rồi lướt tới Bungalow số 9 từ phía sau. Trông như thể ngôi nhà đứng nền thảm làm bằng bọt. Sương mù dày đặc đến nỗi tôi biết mình bước vào đâu nữa. Nheo hai con mắt, tôi quan sát các khung cửa số phía sau, nhận ra rằng có khuôn cửa sổ mở, và trong giây phút đó, chân tôi vào cái gí đó mềm mềm. Tôi giật mình. thoáng, tôi ngưng lại nghe ngóng, rồi tôi cúi người xuống. Trong túi tôi bao giờ cũng có cây đèn pin và mảnh như cây bút chì. Quầng sáng rất thanh và như lá lúa, chỉ kéo dài ra chừng hai gang tay, rồi sau đó bị làn sương mù nuốt chửng. Nhưng dù sao nó cũng đủ cho tôi nhận ra những đường nét của thân người bất động. người đàn ông trong chiếc quần vải lanh (lin) sáng màu và chiếc áo khoác xanh sẫm. nhịp tim, mạch đập chỉ sau hai động tác tôi nhận thấy như thế. Tôi hạ sát cây đèn xuống dưới gương mặt nhợt nhạt như mặt ma và cắn xuống môi dưới. Tôi nhìn thấy đôi mắt mở to, ánh mắt tắt ngang, phản chiếu lại ánh sáng như hai hòn bi thủy tinh vô hồn. Thận trọng, tôi rút ví ra khỏi túi veston. Nhưng trước khi đọc biết mình đối diện với Wilbur Staten.
Chương 3.1: Ông bồi bàn của quán ăn sang trọng "Đại Tây Dương" lên cơn nấc. Ngỡ ngàng, ông ta nhìn về hướng nhóm thanh niên chen lấn bước qua khung cửa bằng kính tráng gương, bước vào trong sảnh. Hai con trong váy mi ni bằng da màu đỏ chói, tất quần mạng đen, và những đường vẽ như của chiến binh da thịt. Ba gã con trai trẻ tuổi, áo quần nhấp nhoáng như vừa chui ra từ rạp xiếc. trong hai đứa con để tóc ngắn năm centimetre, nhuộm màu xanh lét. Đứa bạn của ta rẽ tóc ra thành từng lọn nham nhở nhuộm màu đỏ chói chang phủ xuống bờ vai. Hai trong đám con trai cũng nhuộm tóc màu xanh lét, trong khi đứa thứ ba vuốt tóc bằng nước đường cho dựng đứng lên, lởm chởm thành hàng răng lược màu vàng sáng, bên dưới dái tai là chiếc kim băng to đùng. Cả năm đứa vừa cười vừa trêu chọc, gây hấn với nhau và ràng là có ý định tiến vào đền thờ trang nghiêm của những người sành ăn và giàu có dưới ánh sáng ban ngày. - Quý ngài cần gì ạ? - Ông bồi bàn, thuộc loại người được giáo dục theo trường phái cổ kính ngày xưa, người vẫn còn tìm cách đưa gã say Bowery bí tỉ ra ngoài quán - bằng lời lẽ lịch . - muốn gì, đồ chim cánh cụt? Thằng con trai với bờm tóc màu trắng gáy lên. - Này, em ơi, thử nhìn gã ta có giống con chim cánh cụt hả? - Im mồm, Freddy, - trong hai thằng con trai tóc xanh gầm gừ. - Đây là cửa hàng sang trọng, mày hiểu chưa? Này, chim cánh cụt, dĩ nhiên bọn tao cũng muốn làm tất cả những thứ mà bọn khác kéo đến đây vẫn làm. Bọn tao muốn ăn. Ăn, mày hiều ? - Đây, thưởng cho mày đây, chim cánh cụt, - đứa con để đầu lông chim chen vào, - Mau mau kiếm cho bọn tao cái bàn thượng hạng, hiểu chưa? Vừa cười khúc khích, đứa con thản nhiên tốc cả váy bằng da màu đỏ chót của nó lên cao hơn nữa, rồi thò tay vào trong phần gốc của tất quần. Có tiếng loạt soạt của tiền. Đờ đẫn, người đàn ông tội nghiệp nhìn xuống tờ trăm dollar vừa được gí vào tay mình. - Nhưng... nhưng mà, - ông ta lắp bắp. - Cái gì? Chẳng lẽ bọn tao đủ sang trọng hả? Chúng mày có rất nhiều chỗ mà, tao thấy . Ông bồi bàn đưa tay vuốt những giọt mồ hôi lạnh trán. - Nhưng được... tôi thể... ý tôi muốn ... ở đây bắt phải đeo cà-vạt! - Thôi, đủ rồi đấy! Bây giờ, tụi tao chỉ muốn ăn thôi, chưa? Trong cửa hàng sang trọng như thế này dĩ nhiên có đội quân ném khách ra ngoài. - Nhờ cảnh sát thôi, - người bồi bàn đề nghị. Ông giám đốc tuyệt vọng vặn vẹo đôi tay và nhắc tới cái danh tiếng vốn hoàn hảo của quán ăn. Cảnh sát trong những gian hầm thiêng liêng của ông ư? thể nghĩ tới chuyện đó được! Nhưng rồi nhanh chóng, người đàn ông nhận ra rằng cái danh tiếng hoàn hảo của quán ăn dù gì cũng đứng bờ vực thẳm. Người đàn ông tóc bạc cùng người đàn bà đeo kim cương lướt về hướng cửa ra. vài vị khách dù còn nán lại ở chỗ ngồi nhưng chắc chỉ đơn thuần vì quá ngạc nhiên. Nhóm Punker vừa cười ngặt nghẽo vừa chiếm chiếc bàn. Đứa con nhuộm tóc màu đỏ chót tuột chiếc giày cao gót ra, gõ gót giày lên mặt bàn, vẻ thách thức. Con bạn để tóc lởm chởm lông chim của nó lại bắt đầu rút tờ trăm dollar và vẫy vẫy. - Bồi! Bồi! - Cả đám đó đồng thanh gào rống lên. Thằng để tóc hình lược để tay xuống làn áo khoác của nó và lôi ra vật, nó thận trọng đặt vật đó lên nền khăn trải bàn bằng lụa trắng như tuyết. Cả hai người con cùng với ngôi sao dẫn chương trình của đài truyền hình bắt đầu la lên như bị đâm, khi họ thấy ràng cái vật thằng trai vừa đặt lên bàn là con chuột cống. - Cảnh sát thôi! - Ông bồi bàn nhắc lại, giọng vừa run vừa nghẹn. Lần này ông giám đốc nhà hàng hiểu rằng ông ta còn con đường nào khác là phải nhanh chóng nhờ trợ giúp của quyền lực nhà nước. *** Jenna, tôi nghĩ thầm. Người đàn ông này bị bắn chết, và Jenna Becks, theo như tôi được biết về , chắc chắn thể nghe thấy tiếng nổ của món vũ khí có gắn bộ phận giảm thanh. Mà khốn nạn, đâu có thuộc loại người cẩn thận gì cho cam. Chắc chắn từ tốn vào tư thế "lặn sâu", khi khí bên ngoài này nóng sực lên. Qua máy bộ đàm, tôi liên lạc với Steve Dillaggio, thúc nhắn cho đội trọng án. Cả Phil lúc đó cũng liên lạc với Steve. Tôi được biết rằng Bernie Becks đường đến bệnh viện gần nhất. ta bị thương nặng, nhưng theo như lời bác sĩ cứu thương vẫn còn cơ hội sống sót. Quỷ quái, Jenna ở đâu? Nóng nảy, tôi chờ cho tới khi Steve và Jerry ra từ làn sương mù. Địa điểm quanh vụ nổ ở bãi tha ma tàu thủy trong cái gọi là "Vịnh Ma" đó được các cảnh sát viên bảo vệ cho tới khi các chuyên gia điều tra dấu vết và chuyên gia thuốc nổ tới nơi. Phil cũng đường tới đây. Trong những chiếc Bungalow xung quanh đó vẫn yên lặng như tờ. Vậy là chỉ cần mình Steve ở lại bên người chết và bảo vệ trường. Cùng với bạn đồng nghiệp da đỏ, tôi xuyên qua làn sương mù mỗi lúc dày đặc hơn, thẳng về khu nhà chính của khách sạn. Trong ngôi nhà xây phía trước có tiếng nhạc xập xình. Đằng sau những khuôn cửa sổ lớn những dáng người trẻ trung khiêu vũ với những động tác rung lắc thái cực. Chúng tôi mở cửa chính, bước vào khuôn sảnh có lò sưởi rồi tiến thẳng về phía quầy tiếp tân. Người đàn ông béo phị đằng sau quầy tiếp tân mê mải chùi bóng cái máy pha cà phê Espresso cũ. Vẻ nghi ngờ, ông ta nheo mắt nhìn về phía chúng tôi. Tiếng nhạc rock ở phòng bên vọng sang ở mức độ vừa phải. Nhưng dù sao tôi cũng đề phòng trường hợp là chúng có thể đè lên những tiếng súng nổ ở biển sương mù ngoài kia.
Chương 3.2: Tôi đặt tấm thẻ lên quầy. - FBI, sĩ quan đặc nhiệm Cotton. Đây là bạn đồng nghiệp Zeerookah của tôi. Ông có thể cho chúng tôi biết, Becks sống trong Bungalow nào? Tay béo phị đưa lưỡi liếm môi. Gã giấu cả hai bàn tay ra đằng sau lưng, nhưng chúng tôi nhìn qua những cử chỉ của bờ vai đầy mỡ, biết gã mất bình tĩnh giằng giằng xé xé cái giẻ lau. Có cái gì đó trong phản ứng của gã ta khiến cho tôi thấy bực bội ngay từ đầu. - Becks hả? - Gã nhắc lại, chầm chậm kéo dài ra từng chữ cái. - Chưa bao giờ nghe thấy tên này. - Jenna Beck, - tôi chính xác hơn. - ấy sống ở đây. Có thể ấy thuê nhà nội trong ngày hôm nay và... - , - tay béo ngập ngừng. - Có thể ấy sử dụng tên khác. Nhưng ông thể nào nhận ra ấy. Cao, gầy, xinh đẹp, tóc vàng và dài, khoảng chừng hai mươi lăm tuổi... - Khốn nạn, đừng có nhiều! Nếu tôi bảo , cũng có nghĩa là . Người đàn bà duy nhất sống ở đây tên là Milly Baines và nặng khoảng trăm kí lô. Tôi biết cái Jenna nhà các ông. Với kiểu thở phì phì cáu bực, gã béo phị lại bắt đầu quay sang chùi cái máy cà phê Espresso. Chùi chính ở cái góc bóng lóa lên rồi. - Cho chúng tôi xem quyển sổ ghi tên khách của ông được ? - Zeery hỏi bằng giọng vui vẻ. Gã béo nhìn bằng đôi mắt u tối. Cái cằm nhai qua nhai lại như thớt cối xay. - Sổ ghi tên khách hả? Hùm, phải, cái này... bị mất rồi. Trưa nay nó vẫn còn ở đây, nhưng bây giờ... - Ồ, đừng chứ, - Jerry giễu cợt. Gã béo phí phì khí mạnh qua hai cánh mũi. - Đúng thế, - gã nhại lại. - Quyển số ghi tên khách biến rồi, khốn nạn! Là chuyện bình thường, đúng ? Có thể Rocky biết nó ở đâu. Nó là con trai tôi. Các ông hỏi nó, nếu nó về nhà. Nếu! Nhiều khi nó lang thang suốt đêm ở chỗ con điên nào đó. Thế rồi gã béo lại tiếp tục chùi cái máy Esspresso. Đột ngột, sau đó gã buông rơi cái giẻ và nhìn từ mặt tôi sang mặt Zeery. - À mà chuyện lang thang! Tại sao, thề có quỷ dưới chín tầng địa ngục, tại sao FBI lại lang thang ở đây? Cái đó các chưa kể cho tôi nghe. - Ông cũng đâu có hỏi đâu, - tôi khô khan đáp. - Ông có tin chắc là ông biết điều đó , ông... - Watson. Joe Watson. Khốn nạn, nếu các muốn buộc cho tôi tội gì... - ai muốn buộc cái gì cho ông cả. Nhưng trong những vị khách của ông bị giết chết, người tên là Wilbur Staten. Cả cái tên này ông cũng chưa bao giờ nghe thấy hả? - Chưa, tôi chưa nghe. - Gã béo phị nheo hai con mắt cho tới khi chúng gần như nhắm hoàn toàn bên dưới những vành mỡ nung núc. Nhưng nếu đó là người đàn ông cao lớn, tóc đen, ăn mặc rất sang trọng, ta tên là Harry Smith và sống ở Bungalow số 9. Các bảo gì, bị giết hả. Chà, trông ta cũng bốc lên mùi tiền rồi đấy. Đồng hồ Rolex, nhẫn kim cương cái gì cũng có. Mà tôi cứ nghĩ, cánh giàu sang có bao giờ làm đến chỗ này. Có vẻ như gã đàn ông hoàn toàn chẳng xúc động trước thông điệp kia. Nhưng cũng có thể nguyên nhân nằm ở chỗ bản chất gã ta vốn là bản chất của con chó gặm xương. Còn về chuyện cuốn sổ ghi tên khách bị mất, chúng tôi cần phải nén mình, nên đưa ra những kết luận quá sớm. khách sạn tọa lạc ở nơi hoang vắng là địa điểm thích của những người đàn ông thích ngang về tắt. Những người ngay lập tức xoay mình bỏ nếu người ta đòi hỏi chìa chứng minh thư. Sổ ghi danh sách "bị thất lạc" là chuyện thường xuyên xảy ra cũng như những tay sếp quầy tiếp tân chẳng hề đặt ra câu hỏi nào khi có ông khách khẳng định rằng, ông ta tên là Smith hoặc Miller như hàng vạn kẻ khác. *** Mười lăm phút sau đó, chúng tôi được biết là toàn khu có chiếc ô tô nào có thể do Jenna Beck lái tới đây. Lúc này ban trọng án tới nơi, và giữa làn sương mù nổi lên những quầng sáng đèn pha, gắng gượng chiếu sáng làn sương dày đặc nhưng kết quả chẳng mấy khả quan. Cảnh sát viên xua ra khỏi cơn ngủ khoảng chừng nửa tá khách: hai người đàn ông đứng tuổi với những người bạn cùng rất trẻ trung phải là vợ của họ, tay bán bảo hiểm say xỉn biết trời đất gì nữa và người đàn bà nặng tới trăm kí lô tên là Milly Baines được gã béo phị bên quầy tiếp tân nhắc tới. ai nghe thấy điều gì, ai nhìn thấy điều gì. Chúng tôi thậm chí còn tin lời họ. Thứ nhất, các quý khách ở đây đều có những việc làm hoàn toàn khác. Hai quý ngài đứng tuổi với những người bạn cùng , người bán bảo hiểm mê mải với chai rượu, còn quý bà nặng trăm kí lô bận rộn với băng phim video đẫm máu, vẫn tiếp tục chạy loang loáng màn hình trong Bungalow của bà ta. Còn đám thanh niên trong căn nhà xây trước khách sạn với dàn nhạc bị rock tràn ngập cả hai tai, đến mức độ đằng nào họ cũng chẳng biết trời đất gì bên ngoài phòng nữa.
Chương 3.3: - Khốn nạn! - Phil lẩm bẩm, khi vừa mới tới nơi. - Jerry, cậu có thể tưởng tượng đến chuyện Jenna có mặt ở đây? Tôi nhún vai. - Dĩ nhiên có thể xảy ra khả năng đó. Nếu Bernie cũng làm ra vẻ bí mật với em như hành động với chúng ta, rất có thể nhà báo cho toàn bộ chỉ là chuyện bịa. hiểu quá ông trai của mình. ấy biết Bernie là tay ba hoa, khoác lác, sẵn sàng biến con muỗi thành con voi. - Chỉ có điều phải là muỗi, - Steve Dilliaggio chen vào giữa lời tôi. Chúng tôi đứng gần Bungalow số 9, nơi các chuyên gia điều tra dấu vết làm việc. - Mình thể hiểu nổi là ai nhìn thấy tên giết người đó, - bạn đồng nghiệp của tôi tiếp, - chắc chắn là gã phải quan sát nạn nhân của gã thời gian dài, nếu giải thích nổi vụ tấn công được đặt trong chiếc thuyền buồm kia. Khốn nạn, chúng ta phải biết Wilbur Staten nối liên lạc với Bernie bao giờ, ở đâu, như thế nào và... - Ta thể hỏi Bernie được, Phil - Nếu ta có sống sót chăng nữa phải ba bốn ngày tới mới có thể hỏi cung ta được. Còn Jenna... ta có địa chỉ của ấy nhỉ? Địa chỉ có thể hỏi báo "Buổi sáng Manhattan", - Jerry giơ tay vuốt mái tóc đen nhánh. - Chỉ có điều mình tin rằng nhận được nhiều thông tin đâu. Nếu Jenna quyết tâm nhảy vào vụ này, ấy cũng bám nó tới cùng, ngoài ra chúng ta phải nhanh chóng tìm dấu vết về có mặt của ấy ở đây. Ví dụ như đầu mẩu thuốc lá, ai cũng biết ấy rít thuốc liên tục. Mà liệu kẻ sát nhân những có đủ bình tĩnh để bắt cóc ấy, mà còn bỏ thời gian ra để xóa mọi dấu vết... bỏ lửng cho phần còn lại của câu trôi tuột vào trung. Tất cả chúng tôi đều thấy khả năng cuối cùng là rất khó xảy ra. Tay giết người chắc chắn có đủ việc để làm, đầu tiên là kiếm và giữ cho được chiếc túi đựng đầy tiền giả nếu thông tin mà Bernie cung cấp là đúng. Trong Bungalow của chàng Wilbur Staten chết, chúng tôi chỉ tìm thấy chiếc va li để mở, với quần áo được gấp gọn gàng. Người đàn ông ràng là định biến ra khỏi khách sạn, thế rồi sau đó bước ra khỏi nhà vì lý do nào khác. Có lẽ, bởi ta nghe thấy tiếng động khả nghi ở bên ngoài và cũng có thể ta chỉ bước ra để trả tiền khách sạn, trước khi chuyển đồ đạc lên xe. Tôi ra hiệu cho Phil, trí não tôi vừa kịp nhớ ra điểm. điểm rất có thể cho chúng tôi biết , liệu câu chuyện với cái túi đựng đầy tiền giả có là hay . Hai phút sau, chúng tôi lại có mặt bên quầy tiếp tân. Gã béo phị vẫn chưa thôi chùi cái máy Espresso, mặc dù quả tuyệt đối còn chỗ nào để chùi nữa. Ngớ ngẩn, gã nhăn trán lại khi tôi cười, hỏi liệu khách ở Bungalow số 9 có trả tiền trước . - Có, có trả. Tại sao? - Với tờ trăm đô la - Đúng. Tại sao biết...? - Ông làm ơn cho chúng tôi xem tờ tiền đó, được ? Gã béo phị phản đối. Dù kẻ nào khiến cho gã phủ nhận có mặt của Jenna Beck ở đây, dù là bằng tiền hay lời đe dọa và nếu kẻ đó có tồn tại kẻ đó cũng giải thích cho gã béo phị biết nguyên nhân của vụ việc. chần chừ, gã béo phị giở tráp đựng tiền ra. Bởi trong hộp chỉ có vài tờ trăm dollars nên gã cần phải tìm lâu. Phil thận trọng sờ vào bề mặt của đồng tiền rồi giơ nó lên ngược chiều ánh sáng. Nó được làm rất tốt đủ để lừa cả nhân viên nhà băng, nếu ta chú ý kỹ. Nhưng có vài yếu tố nhận dạng nho mà người ta phát ra nếu người ta biết phải tìm ở đâu. Wilbur Staten cũng có nghĩa là Harry Smith trả tiền khách sạn bằng tiền giả. Rất có thể gã là tòng phạm của tay làm tiền giả, trước khi gã nhảy tàu và cầm theo túi du lịch đựng đầy "hoa giấy" kiếm cách lập nghiệp mới, cùng với trợ giúp của chúng và trợ giúp của Bernie Beck. Hai người quen nhau từ thuở trước. Thế nhưng giữa Wilbur Staten và những kẻ làm tiền giả chắc chắn cũng phải có những mối quan hệ từ ngày trước. Rất có thể chúng tôi chạm đến những cái tên đích thực, nếu chúng tôi đào xới kỹ lưỡng cả quả khứ và bao cảnh sống của những người đàn ông đó là tất cả những nghệ thuật được huấn luyện... Dòng suy nghĩ của tôi ngắt quãng. Steve Dillaggio bước đến quầy tiếp tân. vẫy chúng tôi lại gần. Đằng sau mái tóc vàng chẳng thích hợp mấy với cái tên Italia của , gương mặt Steve gây ấn tượng bồn chồn. cho chúng tôi biết nguyên nhân khi cả nhóm bước ra khỏi vòng nghe ngóng của gã béo. Cảnh sát vùng Manhattan vừa bắt giữ nhóm thanh niên quậy phá, tiêu xài như nước bằng những tờ trăm dollar giả. Và điều đó có nghĩa là, lần đầu tiên chúng tôi có cơ hội lần ngược theo con đường của những tờ "hoa giấy" ít nhất cho tới tay phân phát tầm cỡ.