1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

[Trinh thám - Kinh dị] Thiên Văn - Tang Thượng ( Hoàn)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 14: Những sinh vật kỳ lạ

      Ở giữa bức tranh là hình loại cá có hình dạng vô cùng kì quặc, trông khá giống cá heo nhưng hai bên thân lại phình ra, đầu ngước lên , hai bên mép mọc ra hai sợi râu dài màu bạc, chiếc đuôi như hai lưỡi kéo uốn cong lên, toàn thân bao phủ bởi lớp vẩy hình tròn bóng loáng màu trắng bạc. Toàn thân con cá toát ra thứ ánh sáng mờ ảo như mê hoặc người nhìn.

      Hố này phức tạp hơn tôi nghĩ, nó sâu và thẳng đuột xuống dưới như ống khói khổng lồ, dù bên có hai người khống chế sợi dây nhưng tôi vẫn phải dùng hai chân đạp mạnh vào hai bên vách tường, vừa để thăm dò vừa để tránh bị va đập. Điều đặc biệt là bề mặt các vách tường đều phủ kín những bức họa, tôi đưa tay ra sờ, ngoài bề mặt nhẵn thín những nét vẽ đều hằn sâu vào trong, tôi ngờ vực biết đó có phải là khắc hình hay .

      Nhưng điều kiến tôi khó hiểu hết sức là những nhân vật xuất trong bức họa đều khỏa thân, trẻ con có, người già có, còn có cả người ốm đâu bệnh tật; mặc dù các nét vẽ khá đơn giản nhưng lại hết sức sinh động, sắc mặt của các nhân vật có vui có buồn, đến cả dáng hình và tư thế cũng giống nhau. Những bức vẽ này giống như miêu tả lại quy luật của cuộc sống, quy luật tồn tại của con người, từ đến lớn, từ trẻ đến già, từ sinh ra đến khi chết .

      Đặc biệt là những đôi mắt, biết các nghệ nhân xưa dùng kỹ thuật gì mà ánh mắt luôn nhìn đối diện về phía người xem, cho dù có ở góc nào chăng nữa. Có cảm giác như con ngươi của các nhân vật hơi lồi ra, chứng tỏ các nghệ nhân phải rất tỉ mỉ mài giũa, thổi hồn vào trong đó. Tất cả những ánh mắt đó đều giống hệt nhau, càng nhìn càng khiến người xem có cảm giác gì đó rất khó tả, giống như bị hàng nghìn hàng vạn ánh mắt theo dõi.

      hiểu sao nhìn những ánh mắt đó, tôi cảm thấy lòng mình như thắt lại, con người trong cuộc sống bộn bề lo âu và vật lộn để mưu sinh, dù sống trong huy hoàng hay bi kịch cuối cùng cũng đều biến thành tàn tro. Tôi lại nghĩ đến bí mật về mảnh da người, tại sao cứ phải tìm ? Mà tìm ra rồi để làm gì?

      cảm giác thất vọng não nề cứ quanh quẩn trong trí óc tôi, nước mắt bắt đầu dâng lên, đầu óc mông lung đến tột cùng. Bỗng nhiên, tôi như sực tỉnh, có điều gì đó rất khác thường trong những bức bích họa này, nhìn lại kĩ, tôi nhận ra tất cả nhân vật trong bức tranh đều là phụ nữ.

      Tôi hít hơi sâu, lắc mạnh đầu lấy lại tinh thần, kì lạ ! Nhưng khi nghĩ đến việc ngọn tháp cổ này được xây dựng từ thời nhà Liêu, dùng để cất giữ những di vật của hoàng hậu đương vị; những bức bích họa vẽ Quan Bồ Tát cũng là giới nữ, tôi lại nghĩ có khi đây chính là tính đặc thù của ngọn tháp này cũng nên.

      Tôi mơ màng trong dòng suy nghĩ bỗng nhiên, cả người tụt xuống khoảng gian rất rộng, hai chân chới với điểm tựa. Tôi co rúm người, vội lia đèn pin ra khắp hướng, khung cảnh trước mặt khiến tôi ngỡ ngàng tột độ.

      Phía dưới này là tầng tháp khác, tôi chỉ có thể nhận ra được phần vì gian rất rộng, nhưng điều khiến tôi thực bất ngờ là kết cấu của tầng này giống hệt với kết cấu ở những tầng tháp .

      Trong lúc vẫn còn nửa tỉnh nửa mê vì khung cảnh trước mắt tôi bỗng giật mình bởi tiếng động rất lớn vọng xuống từ phía đỉnh, giống như tiếng động lúc tầng tháp xoay chuyển. Tôi vội vàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy ánh đèn pin mờ mờ của Tiểu Đường và Lão Mục, miệng hố hình chữ S dần dần khép lại, luồng ánh sáng từ rọi xuống cũng từ từ dần. Tôi nghe thấy tiếng của hai người họ hét lớn:

      - Xoay rồi, xoay rồi!

      Sau đó tiếng la hét của hai người cùng với ánh đèn pin biến mất.

      Sợi dây thừng vẫn bị kẹp chặt bởi hai miếng kim loại ở miệng hố, tôi cảm nhận tiếng lựt xựt đứt của sợi dây thừng vì bị kẹp quá chặt, sức nặng của tôi khiến sợi dây đứt nhanh hơn. Ngó xuống phía dưới thăm dò, vị trí tại của tôi còn cách mặt đất chừng sáu bảy mét.

      Sáu bảy mét tương đương với độ cao của ba tầng nhà, bị rơi xuống, chết cũng thành tàn tật. Tôi biêt phải làm sao, cũng dám hét lên vì nghĩ cũng vô ích, chỉ biết giữ chặt sợi dây theo quán tính, nhìn trân trối xuống dưới chân, cố gắng làm sao bị xoay tròn, tránh cho sội dây phải chịu thêm áp lực.

      Miệng hố Nhân Đạo giờ bức tường đen ngòm, yên ắng tiếng động. Sau khi lấy lại thăng bằng, tôi dùng đèn pin soi lên bức tường trước mặt với những bức họa mờ mờ, cố gắng nhìn kĩ, nhưng vì các nét vẽ quá và rối, nên tôi gần như nhận ra nội dung bức tranh là gì.

      Bỗng nhiên, tiếng “rắc” vang lên, thấy sợi dây sắp đứt rời, tôi vội vàng ngó nghiêng xung quanh, chuẩn bị tinh thần rơi cho cú rơi sắp tới. Chỉ lúc sau, sợi dây do bị kéo quá căng nên đứt phựt, tôi hoàn toàn rơi tự do xuống phía dưới.

      Tôi cố duỗi thẳng hai chân, vươn người đạp mạnh vào bức tường gần nhất để toàn thân nằm ngang ra nhằm giảm bớt lực rơi. Nhưng như dự định, bức tường mà tôi đạp vào lại mềm như tảng cao su khổng lồ, khiến cả hai chân tôi thụt sâu vào tới tận đầu gối. Cả người tôi như khựng lại, đầu chúc xuống dưới đất.

      cố xảy ra hoàn toàn nằm ngoài dự tính của tôi, để tìm cách thoát ra khỏi bức tường cao su này, hai chân tôi co mạnh cố rút ra, cả người cuộn tròn lấy sức vùng vẫy, hai bàn tay nắm chặt.

      Cũng may kỹ năng thực chiến của tôi khá tốt nên chẳng mấy chốc thoát khỏi bức tường đó, sau khi tiếp đất, tôi lộn người vài vòng theo quán tính.

      Giống như trái bóng, tôi cứ lăn tròn biết bao nhiêu vòng, cho tới khi lưng bị vật cứng chặn lại. Tôi cảm thấy tay chân đau nhừ, lục phủ ngũ tạng lộn tung lên, cổ họng đắng chát.

      Tôi cắn chặt răng, hai mắt nhắm nghiền, cố nằm yên chỗ để tay chân và đầu óc bình thường trở lại, đồng thời cố điều chỉnh nhịp thở sao cho toàn thân được điều hòa, các cơ bắp được giãn ra.

      gian xung quanh vẫn lặng yên như tờ, chỉ có tiếng ù ù trong đầu tôi vẫn loạn nhịp, đầu óc như muốn nổ tung. Phải mất lúc lâu sau, tôi mới lấy lại tinh thần và nhịp thở, toàn thân mồ hôi vã ra như tắm, thấm ướt cả chiếc áo len mặc bên trong.

      Sau khi bình tĩnh lại, tôi mở mắt, chống lại hai tay đất, cố gắng đứng dậy, cảm giác chân tay mềm nhũn ra, mắt nhìn sang bên cạnh, vật cứng chặn tôi lại chính là cây cột tháp.

      Tôi ngồi dựa lưng lên đó, thở hắt ra, đưa mắt nhìn xung quanh. Chiếc đèn pin bị lăn ra góc rất xa, luồng sáng chiếu thẳng vào góc tường màu xanh.

      Tôi liền đưa tay dụi mắt cho tỉnh táo hơn, định thần lại thấy mảng xanh trong suốt như tảng pha lê màu ngọc bích khảm vào tường, lẽ nào đây là bức bích họa khác? Đợi cho đến khi sức lực hồi phục trở lại, tôi bám vào thân cột đứng lên, lê từng bước tiến tới chỗ chiếc đèn pin. Khẽ cúi xuống nhặt chiếc đèn pin lên, tôi vừa mát-xa vùng gáy vừa ngắm nhìn bức bích họa.

      Mặc dù bức họa tồn tại từ rất lâu, màu sắc bên phần nào phai nhạt nhưng tôi vẫn nhận ra cục diện của bức tranh. Cả bức tường bao trùm bởi màu xanh làm, dưới ánh đèn pin, bề mặt bức tranh nổi lên như sóng cuộn, như đại dương rộng lớn mênh mông.

      Phía đỉnh góc phải là hai dấu chân tôi bị thụt vào khi nãy, xung quanh mép nhăn nhúm như bề mặt xi-măng vừa láng bị ai đó vô tình giẫm lên. Ở giữa bức tranh là hình loại cá có hình dạng vô cùng kì quặc, trông khá giống cá heo nhưng hai bên thân lại phình ra, đầu ngưới lên , hai bên mép mọc ra hai sợi râu dài màu bạc, chiếc đuôi như hai lưỡi kéo uốn cong lên, toàn thân bao phủ bởi lớp vẩy hình tròn bóng loáng màu trắng bạc. Toàn thân con cá toát ra thứ ánh sáng mờ ảo như mê hoặc người nhìn.

      Càng nhìn tôi càng thấy con cá này giống với bất kì loại cá nào mình từng biết. Nhưng hình vẽ lại chân và sống động tới mức tôi cứ ngỡ con cá thỏa sức vẫy vùng giữa đại dương và cố nhảy lên trung đùa giỡn với những con sóng.

      Từ trước đến nay tôi chưa từng nghe cá là vật tổ của Phật giáo, nên cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi đưa tay chạm lên bức hình, cảm giác mát lạnh, trơn nhẵn và hơi dinh dính. Tôi cũng biết phải miêu tả cảm giác đó như thế nào, chỉ biết rằng các sợi dây thần kinh dầu ngón tay mách bảo rằng tôi sờ vào con cá .

      Tôi bỗng thấy lạnh cả sống lưng, lập tức co người nhảy lùi ra sau, đôi mắt hãi hùng vẫn rời khỏi con cá. Mẹ kiếp! ràng đó là bức tranh. Tôi rùng mình lắc mạnh đầu, trong lòng tự trấn an bản thân chỉ là thần hồn nát thần tính, rồi nhớ lại bức tranh của cậu tôi, ở giữa bức tranh cũng đính mảng da người , liệu bức tranh này có như vậy ?

      Tôi hít hơi sâu, lấy hết lòng can đảm tiến lại gần bức tranh, đưa tay kiểm nghiệm lần nữa. Quả đúng như thế, lớp da cá chính xác được khảm lên bề mặt bức tranh, viền mép xung quanh nối với bức tranh kín tới mức tôi thể tìm ra điểm giao cắt, nhưng họ làm thế nào để giữ được độ ẩm cho da cá mà bị tiêu hủy?

      Tôi suy nghĩ nát óc cúng thể hiểu nối, đây quả thực là điều huyền bí. Cầm đèn pin trong tay, tôi tiếp tục men theo bức tranh để quan sát động tĩnh.

      Bức tường cạnh đó vẽ loại chim có chiếc mỏ và nhọn hoắt màu vàng kim, chân chim quặp vào chân khác duỗi ra với bộ móng sắc nhọn, hai cánh sải rộng, còn chiếc đuôi dài chừng hai mét cũng cong lên mềm mại, cảm giác như nó chuẩn bị bay lên dũng mãnh, bộ lông nhiều màu sắc bóng mượt như chim vũ nhưng lớn gấp hàng trăm nghìn lần.

      cạnh tiếp theo là con thú nửa ngựa nửa hươu, đầu ngẩng cao, bốn vó co lên như chuẩn bị phi nước đại. Toàn thân là lớp lông ngắn màu đen tuyền dựng đứng, sờ lên có cảm giác những sợi lông cứng chọc thẳng vào đầu ngón tay. Hai mắt thú mở trừng trừng, con ngươi bên trong to gần bằng quả bóng bàn, phát ra những tia sáng hừng hực màu đen nháy, hướng thẳng về phía tôi.

      ba cạnh còn lại vẫn là ba con vật ấy, hình dạng hoàn toàn giống nhau, hơn nữa, chúng còn nhìn trực diện vào nhau. Tôi như bị hút hồn vào những bức tranh, sống động và chân của hình ảnh khiến tôi có cảm giác như lạc vào phòng trưng bày vật với hết bất ngờ này tới bất ngờ khác.

      Tôi bước tới chiếc cột trụ ở chính giữa, ngồi tựa lưng xuống rồi giơ đèn pin lần lượt soi về sáu cạnh tường. Chùm ánh sáng chiếu ra thẳng tắp như chiếc gậy dài, cắt qua màn đêm dày đặc. Cứ mỗi lần ánh đèn chiếu tới, các con vật trong tranh như bừng tỉnh qua đêm dài, chúng đưa mắt nhìn thẳng về phía tôi như những con quái vật sống. Tôi khẽ rùng mình, nuốt nước bọt, đầu óc quay cuồng, còn làm chủ được ý thức của mình.

      Mãi sau đó, tôi mới phát ra điều vô cùng thú vị.

      Đó là, với hình con cá nằm ngang, chiếc đuôi ở bên tay trái bức tường, với hình con cá ở phía đối diện, phần đuôi lại ở phía tay phải. Hình chim và thú ở những cạnh còn lại cũng như thế, tất cả các bộ phận cơ thể đều giống hệt nhau, chỉ có điều vị trí phản ngược lại. Nếu như con bên trái là hình , con đối diện giống hình phản chiếu qua gương, hình dáng và thần thái giống y hệt nhau nhưng vị trí tương phản.

      Tôi chăm chú theo dõi từng bức hình, từng nét vẽ nhưng thể lý giải được ý đồ của chúng là gì. Bỗng nhiên, trong đầu tôi ra hình ảnh Tiểu Đường tự khắc khuôn mặt mình lên gương vào đêm hôm đó…

      ý nghĩ khiến tôi lặng người, hình ảnh bức tranh da người của cậu tôi, rồi khuôn mặt của Tiểu Đường… phải chứ?!!!

      Tôi nhớ rất , cậu tôi có nốt ruồi rất to bên má trái, đúng tại vị trí gò má. Nếu như cậu tôi tìm người để xăm hình lên lưng đáng nhẽ nốt ruồi đó khi phản chiếu lại nằm ở phía má phải, nhưng nốt ruồi mảnh da vẫn nằm ở bên trái.

      Tôi thở dài hơi, thấy mọi thứ trở nên rối tung, theo thói quen cũ, tôi lại đưa tay bóp mạnh trán. Người thợ xăm chắc chắn phải nhìn kĩ khuôn mặt của cậu tôi trước khi xăm, vậy nếu theo lí thuyết phải xăm nó ở bên phải, sao lại có thể ngược lại như thế? Trừ khi người đó nhìn cậu tôi qua hai lần phản chiếu. Nhưng ràng cậu tôi ngồi ngay đấy, tại sao lại phức tạp như thế?

      Nghĩ đến đó, đầu tôi bỗng nhiên khựng lại, hai lần phản chiếu… hai lần phản chiếu… Đây chắc chắn là điểm cốt lõi của vấn đề, nhưng dù có suy nghĩ nát óc, tôi cũng thể lí giải được nguyên do.

      Đầu tôi như đống bùng nhùng, với vô vàn những câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp. Mặt trong của ngôi tháp cổ là hình sáu cạnh điển hình, cạnh đối cạnh, ba con thú lạ tường cũng đối ứng với nhau, tất cả các nét đều giống nhau như tạc, nhưng vị trí lại tương phản nhau, thêm nữa, hình như tất cả chúng đều gắn liền với chiếc gương…

      Tôi nghĩ ngay tới mười chín bức vẽ tháp cổ của Từ Vạn Lý và ngọn tháp ở thực. Trong các bức tranh, các ngọn tháp cổ đều có mười chín tầng, nhưng ngọn tháp thực tế chỉ có mười ba tầng, mười chín trừ mười ba, đúng bằng sáu; hơn nữa, bên trong ngọn tháp có sáu cạnh, dưới lòng đất lại cất dấu cỗ máy bí mật gồm sáu đường luân hồi; cả hình mặt trời trụ tháp, tấm Long Bản tray Bồ Tát cũng là sáu. Tất cả vật việc đều chứa con số sáu bí .

      Tôi càng nghĩ càng thấy rối bời, đầu óc căng ra như muốn nổ tung, cứ như chiếc búa sắt nện lên những nơ-ron thần kinh của tôi. Số sáu chết tiệt, rốt cuộc nó có nghĩa là gì?

      Từng tế bào thần kinh trong đầu vận hành như cỗ máy chạy hết công suất mà vẫn sao hiểu nổi. Nhận ra mình càng nghĩ càng hao phí thần trí, tôi gạt bỏ ý nghĩ đó qua bên, từ từ đứng dậy, bước tới vị trí phía dưới cánh cửa Nhân Đạo.

      Tôi ngẩng đầu nhìn lên, miệng hố vẫn đóng im lìm, nó quá cao so với vị trí của tôi tại, thở dài tuyệt vọng, tôi nghĩ tới Tiểu Đường và Lão Mục, biết họ ở đó như thế nào rồi.

      Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra mình vẫn cầm theo bộ đàm, như được tiếp thêm sức mạnh, tôi cuống quít lôi nó ra khỏi ba-lô, điều chỉnh tầng sóng rồi hét to vào phần thu . Nhưng dù tôi gào thét đến khản cổ, đáp lại vẫn chỉ là những tiếng rè rè xẹt xẹt, bốn phía xung quanh vọng tới những tiếng vang chói lói.

      Tôi lắc đầu ngao nhán, tia hi vọng chưa kịp sáng bị dập tắt. Tôi nhớ lúc trước Lão Mục có rằng, đây là bộ đàm chuyên dụng trong nội bộ Cục An ninh Quốc gia, áp dụng nguyên lí thu phát bằng bước sóng nên độ phân bổ tín hiệu vô cùng mạnh trong phạm vi rộng lớn, đặc biệt phù hợp với việc liên lạc trong gian sóng bị hạn chế như lòng động, lòng đất. Vậy tại sao lúc này lại có tác dụng, phải chăng vật liệu kiến trúc ở đay còn có tác dụng chắn sóng.

      Tôi điều chỉnh lại góc độ và tần số cho bộ đàm rồi thử lại lần nữa, mặc cho tôi ra sức gào thét, nó cũng có chút phản ứng. Tôi thở dài thất vọng, đành nhét bộ đàm vào trong túi, chán nản quanh quẩn xung quanh xem xét.

      Dưới chân sáu bức tường lại là sáu hình thái cực, tôi có cảm giác như công trình dưới lòng đất bao giờ kết thúc. bỏ cuộc, tôi quay đầu bước tới cột trụ, lôi mũi dao ra, thử cào lớp dầu sơn bề mặt nhưng vẫn thấy lỗ mắt nào.

      Tôi lại biết xăm thân khắc hình, làm sao đủ khả năng để mở hình thái cực, mà kể cả có mở ra được tôi cũng biết nó thuộc nhóm nào, lỡ lạc vào đường Ác Quỷ hay Địa Ngục … Chỉ cần nghe tên thôi cũng biết nó tốt đẹp gì, có trời mới biết chuyện gì xảy ra. Giờ chỉ còn cách chờ Lão Mục và Tiểu Đường tới ứng cứu thôi.

      Tôi ngồi ôm gối thu lu góc, mắt ngừng nhìn sáu bức bích họa tường, trong đầu tưởng tượng đến những khó khăn ở cửa ải tiếp theo, liệu nơi đó có giống như tâng tháp này ?

      Trong đầu tôi bỗng vụt ra ý nghĩ, ở phía dưới có phải vẫn còn bốn tầng tháp nữa? Có như vậy mới đủ sáu tầng, vừa khớp với số tầng trong bức tranh của Từ Vạn Lý, và cũng khớp với con số sáu bí .

      Ngồi suy luận lúc, tôi cảm thấy giả thuyết đó rất hợp lí, nhưng thực hư thế nào, phải chờ Tiểu Đường tới kiểm chứng mới biết được.

      Thời gian tích tắc trôi qua, tôi ngồi yên chỗ chờ đợi mà biết chính xác là bao lâu, vì tôi thực còn khái niệm thời gian từ khi xuống dưới này. mình ngồi trong khoảng vắng lặng và tối om, lại thêm cảm giác sợ hãi thít chặt tâm can, rất dễ khiến cho người ta cảm thấy độc như bị cả thế giới bỏ rơi, tâm trạng rơi vào tột cùng nỗi tuyệt vọng.

      lúc tủi thân và yếu lòng nhất, bỗng nhiên có tiếng chuyển động của kim loại dội tới, tôi sướng như điên, nỗi tuyệt vọng vừa còn day dứt bỗng chốc biến mất, tôi vội vàng đứng bật dậy, hướng chiếc đèn pin lên , mắt sáng lên đầy hi vọng, miệng dấu nổi nụ cười. Vậy là Tiểu Đường và Lão Mục khởi động được cỗ máy đó.

      Nhưng mọi việc lại diễn ra như tôi hi vọng, đợi mãi cho đến khi tiếng động kia dừng lại hẳn, tôi vẫn thấy miệng hố mở nắp ra, liền lôi máy bộ đàm ra gào tới mức khản cả tiếng, nhưng vẫn có tiếng đáp lại. Tôi bắt đầu sốt ruột, tim đập thình thịch vì kích động, biết còn hy vọng gì, tôi liền tắt đèn pin, để mình chìm trong khoảng dày đặc, tâm trạng trở nên hoang mang và lo sợ đến tột cùng, quả thực thể dùng lời để diễn tả nỗi sợ hãi đó…

      Do vừa bị thương lại thêm tác động tâm lí, tôi thực thấm mệt liền thả người nằm xuống mặt sàn, tìm tư thế thoải mái nhất, từ từ khép mắt lại nghỉ ngơi lấy sức.

      Người mệt tới mức vừa nhắm mắt lại tôi lập tức chìm vào giấc ngủ mơ màng, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng rì rào, giống như tiếng sóng biển ngừng vỗ bờ…

      Tôi bỗng giật mình choàng tỉnh, xung quanh vẫn là khoảng tối đen như mực, nhưng ràng tôi vừa cảm nhận thấy mặt đất xoay chuyển cách chầm chậm và cân bằng. Đồng thời, từ bốn phương tám hướng, những tiếng ken két, rin rít vang tới, giống như tiếng của hàng nghìn con chuột đồng thanh nghiến răng.

      Tôi định thần lại, lập tức quay đầu ra phía sau, bật chiếc đèn pin lên, điều chỉnh tới nấc sáng nhất, rồi quét vòng các bức tường. Các con vật lại lần nữa trừng trừng nhìn tôi, tư thế của chúng như chuẩn bị nhảy ra khỏi bức tường lao tới chỗ tôi cắn xé.

      Tôi lạnh toát sống lưng, vội vàng nhắm mắt lại, nằm sụp xuống mặt sàn chờ đợi, thầm cầu nguyện mọi bình an, nếu khi có chuyện xảy ra, mình tôi thể chống đỡ nổi. Khoảng hai mươi giây sau, chuyển động từ từ ngừng lại, sau đó là những tiếng nổ rền vang liên tiếp, giống như tiếng sấm trước mỗi cơn mưa rào, nghe đinh tai nhức óc.

      Tôi lắng nghe động tĩnh, mắt đảo quanh quan sát, phát ra tấm kim loại hình thái cực mở từ lúc nào hay. Tôi bất ngờ tới mức dám tin vào mắt mình, hiểu chuyện gì diễn ra, có Tiểu Đường ở đây mở khóa, tại sao tấm kim loại đó lại tự động mở ra? chần chừ, tôi vội vàng chạy tới, ngó xuống phía dưới xem sao.

      Phía dưới tấm kim loại là khoảng rộng lớn bao phủ bởi màu đen ngòm, ánh đèn pin như bị nuốt chửng bởi bóng tối dày đặc, tôi hoàn toàn nhìn thấy bất cứ thứ gì và cũng biết căn hầm sâu bao nhiêu? Thực tôi rất muốn nhảy xuống đó xem sao, nhưng có sợi dây thừng ở đây, nên cũng dám thử, chỉ biết cam chịu nhìn xuống dưới.

      Tôi đứng dậy chạy sang vị trí bên cạnh xem sao, đèn pin vừa soi xuống dưới bất ngờ phát ra phía dưới có những chùm ánh sáng màu trắng chồng chéo lên nhau, cách khoảng hơn chục mét; ngoài ra còn vọng lên tiếng rì rầm chuyện, thanh khá nên tôi nghe họ cái gì.

      Dưới đó có người!

    2. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 15: Thân thế

      Trong lúc rơi xuống, tôi nghe bên tai có tiếng chuyển động dữ dội từ bốn phía xung quanh, cảm giác như tầng tháp từ từ xoay chuyển, cỗ máy đó lại bắt đầu hoạt động!

      Đúng lúc đó, miệng hố bên dưới lại từ từ đóng lại, khe hở hình chữ S càng ngày càng lại.

      Đầu óc tôi như tê liệt, toàn thân nổi da gà, nỗi sợ hãi nuốt trọn cơ thể. Tiểu Đường và Lão Mục ở tầng kia, vậy dưới này liệu là ai cơ chứ?

      Hai chân nhũn ra, tôi ngồi phịch xuống đất, lùi người ra sau, đầu óc quay cuồng như sắp ngất. cố gắng trấn tĩnh lại bỗng nhiên trong đầu tôi nhớ tới lời kể của Từ Vạn Lý, cậu tôi lúc ở Liên Xô, trong giấc mơ thường chỉ nhắc nhắc lại hai từ “Bọn họ… bọn họ…” với tâm trạng sợ hãi bất an.

      Nghĩ đến chuyện đó, tôi run lẩy bẩy, thể tự chủ nỗi sợ hãi hữu, thậm chí còn có thể nghe mồn thanh phát ra từ các bộ phận bên trong cơ thể, lẽ nào “bọn họ” ở phía dưới đó…

      Dù nỗi sợ hãi của tôi dâng lên tới tột cùng, nhưng cơ thể dần thích ứng với trạng thái này. Ý thức được bản thân cần phải làm gì lúc này, ngay lập tức tôi tắt đèn pin, nằm ép xuống sàn, để tránh bị “bọn họ” phát ra.

      Nằm im lúc, tôi liền bò sát tới mép động, từ từ thò nửa đầu qua miệng hố nhìn xuống dưới. Từ khoảng bên tôi nhìn thấy ánh đèn pin quét quanh khắp nơi, lúc mờ lúc tỏ, giống như “bọn họ” tìm kiếm thứ gì đó.

      Nhìn kĩ lại lúc, tôi cảm thấy có điều rất lạ, loại ánh sáng từ chiếc đèn pin đó trông rất quen, nó chính là loại đèn pin chuyên dụng của cảnh sát. nhẽ trước chúng tôi đơn vị cử người xuống đây?

      tập trung suy nghĩ, bỗng nhiên ánh đèn pin bất ngờ chiếu thẳng vào mắt tôi, lay qua lay lại, khiến mắt trở nên chói lòa. Tôi cứ ngỡ rằng mình bị phát , nên theo phản xạ, nhắm chặt mắt rồi thụt người lại, nằm im nhúc nhích, tim đập thình thịch.

      Mắt vừa bị ánh đèn chiếu trực tiếp vào nên rất khó chịu, tôi đưa tay xoa lên mắt cho dịu lại. Tiếng bên dưới vẫn vọng lên, mặc dù nghe thấy nội dung là gì, nhưng tôi nhận giọng điệu lúc trầm lúc bổng, chứng tỏ họ rất say sưa chuyện với nhau.

      Tự nhiên xuất giọng của con người dưới lòng đất sâu hàng trăm mét trong ngọn tháp cổ hàng nghìn năm tuổi, cho dù trí tưởng tượng của tôi có phong phú đến thế nào chăng nữa cũng thể nào dám tin vào thực này, hơn nữa, nỗi sợ hãi chiếm ngự khiến cho tinh thần tôi bị tổn thương trầm trọng. Tôi cảm thấy toàn thân vô lực dính chặt xuống mặt sàn, tất cả lục phủ ngũ tạng đảo lộn, tim tôi đập mạnh tới mức lồng ngực nhức nhối.

      Cho dù nỗi sợ hãi lên đến mức cực điểm nhưng vẫn thắng được trí tò mò nên tôi vẫn dỏng hai tai lắng nghe tiếng chuyện bên dưới.

      Hai giọng bên dưới vẫn tiếp tục câu chuyện, thậm chí mỗi lúc to hơn. hiểu vì sao càng nghe tôi càng cảm thấy những giọng đó rất quen, phân tích hơn, đầu tôi bật ra kết luận kì quái: Họ chính là Tiểu Đường và Lão Mục.

      Theo tâm lí chung, mỗi khi tinh thần hoảng loạn, chỉ cần có thứ quen thuộc xuất tức khắc khiến người ta trấn an lại, giống như vớ được phao cứu nạn. Vừa nghĩ tới hai người đó, tôi tự nhiên bình tĩnh lại, trong lòng hoan hỉ, vui sướng muốn nhảy cẫng lên, định bụng cúi xuống để gọi họ nhưng ý chí kiềm chế tôi lại.

      đúng! đúng! Hai người bọn họ chắc chắn ở tầng kia, thể nào lại xuất ở dưới đó được.

      Lúc đó, tôi bỗng trở nên hoang mang cùng cực, biết rốt cuộc chuyện gì xảy ra, lục tìm trong trí nhớ: mình tôi tụt xuống tầng tháp này, nhìn thấy sáu cạnh tháp là hình ảnh của ba loài vật kì lạ, sau đó tôi ngồi ở đây chờ Lão Mục và Tiểu Đường tới cứu. Có thể trong lúc ngủ thiếp , Lão Mục và Tiểu Đường xuống dưới đây mà tôi biết? Điều này khá vô lí, nhưng vô lí hơn cả chính là tại sao họ lại đánh thức tôi dậy mà lại tiếp tục xuống tầng dưới trước?

      Tôi xoắn chặt tay và cắn chặt răng, suy nghĩ trăn trở lúc lâu, tuy những hoài nghi của tôi tài nào giải đáp, nhưng miệng vẫn hét lên to:

      - Lão Mục, Tiểu Đường… có… có phải… hai người…?

      Tôi chưa dứt lời có tiếng Lão Mục lập tức đáp lại, giọng giấu nổi vẻ vui mừng:

      - Tiêu Vi…

      Giọng của Tiểu Đường cũng ríu rít, hân hoan bên cạnh:

      - Chị Tiêu Vi, mau nhảy xuống đây . Em đỡ chị!

      Nghe thấy hai giọng quen thuộc, tôi hân hoan đến phát điên, nỗi sợ hãi hoang mang lập tức biến mất, thay vào đó là niềm vui sướng khôn xiết, còn lăn tăn suy nghĩ vì sao họ lại ở dưới đó. Tôi nhanh chóng đứng phắt dậy, ngồi sụp xuống bên miệng hố, hét lên ầm ĩ:

      - Là… là chị đây!

      Tôi ngậm chiếc đèn pin vào miệng, thả chân xuống, hai tay vẫn bám ở miệng hố, khi giữ được thăng bằng, tôi lập tức thả tay rơi tự do xuống phía dưới.

      Tôi rơi xuống rất nhanh, cố xoay người nằm ngang úp mặt xuống dưới. Cách mặt đất khoảng vài ba mét, tôi nhận khuôn mặt của Tiểu Đường và Lão Mục, họ đều ngẩng đầu lên nhìn tôi, nét mặt căng thẳng, miệng liên tục nhắc “Cẩn thận! Cẩn thận!”

      Trong lúc rơi xuống, tôi nghe bên tai có tiếng chuyển động dữ dội từ bốn phía xung quanh, cảm giác như tầng tháp từ từ xoay chuyển, cỗ máy đó lại bắt đầu hoạt động!

      Đúng lúc đó, miệng hố bên dưới lại từ từ đóng lại, khe hở hình chữ S càng ngày càng lại. Lão Mục vẫy vẫy tay, hô lớn:

      - Nhảy nhanh lên!

      Trong lúc vội vã, tôi đạp mạnh hai chân, cố thu gọn người chui tọt qua khe hở thu hẹp lại, trán đập vào tấm kim loại, đau rát như bị xát ớt.

      Vừa lăn xuống, Lão Mục và Tiểu Đường kịp giơ tay đỡ lấy tôi, mọi nỗ lực giúp chúng tôi tìm lại được nhau.

      Tôi nằm gọn trong tay họ, ngẩng đầu nhìn lên, vòng tròn thái cực thực đóng lại, nhìn sang bức tường bên cạnh, chúng được xây bằng gạch thô phủ đầy rong rêu, có bức họa nào đó cả.

      Hai người thả tôi đứng xuống, cảm xúc trùng phùng khiến cả ba chúng tôi đều vui mừng khôn xiết. Tiểu Đường ôm chầm lấy tôi, luôn miệng :

      - Tốt quá! Chị Tiêu Vi, cuối cùng tìm được chị.

      Nghe câu của Tiểu Đường, tôi liền bước lùi ra sau, xác nhận lại họ có phải Lão Mục và Tiểu Đường mà tôi biết . Sau đó, tôi đưa những thắc mắc ban nãy hỏi họ, tại sao lại có thể bỏ qua hai tầng tháp để tới tầng tháp thứ ba. Câu trả lời của hai người họ càng khiến tôi bất ngờ hơn nữa.

      ra, trong lúc họ thả tôi xuống trước, được nửa bất ngờ tầng tháp xoay chuyển, vòng tròn thái cực Nhân Đạo nhanh chóng đóng lại và sợi dây thừng bị cứa đứt. Lão Mục liền ghé sát mặt xuống tấm kim loại gọi tên tôi, nhưng nghe thấy bất cứ phản hồi nào. Tấm kim loại đó vô cùng dày, và họ biết tôi có nghe thấy tiếng gọi hay bị ngất bên trong đường Nhân Đạo. Lão Mục liền lấy máy bộ đàm ra gọi thử, nhưng ngoài tiếng rè chói tai ra nghe thấy gì khác.

      Tiểu Đường lo lắng cuống cuồng, chạy chạy lại khắp nơi, bé phát ra tất cả sáu vòng tròn thái cực đều đóng lại, để sáu đường luân hồi chuyển động chỉ còn cách mở lại từ đầu.

      Bọn họ liền chạy tới thân cột trụ, nhưng điều mà Tiểu Đường lúc nãy đùa trở thành thực, họ chỉ có hai người với bốn cánh tay, làm sao có thể mở được cỗ máy có sáu mắt khóa? Tình hình trước mắt trở nên rối rắm vô cùng, nhất là khi họ còn chưa biết tôi sống chết thế nào, họ chỉ còn cách liều mạng lần xem sao.

      Tiểu Đường đưa cho Lão Mục hai chiếu kim để ta lần lượt chọc vào bốn lỗ khóa, còn chọc vào hai lỗ khóa còn lại, nhưng loay hoay hồi lâu, hình như do phương hướng chưa đúng nên chỉ có vòng tròn Ác Quỷ màu xanh mở ra.

      Mặc dù phải là đường tôi xuống, nhưng nghĩ tầng tháp vốn có kết cấu thông nhau nên họ quyết định nhảy xuống. Trước lúc đó, Lão Mục để ý đến chuyện mỗi lần vòng tròn thái cực mở ra đều rất nhanh, nên buộc sẵn đầu sợi dây thừng vào thân cột, đầu còn lại buộc chặt vào bụng của mình. Lão Mục tay ôm Tiểu Đường tay nắm chắc sợi dây, nhanh chóng tụt xuống dưới. Khi chân vừa chạm đất, tiếng động lại vang lên, tấm kim loại đầu đóng chặt lại.

      Nghe tới đó, tôi vội vàng hỏi:

      - Vậy… vậy cả hai người đều nhìn thấy tôi sao?

      Lão Mục và Tiểu Đường quay sang nhìn nhau vẻ khó hiểu, sắc mặt được tự nhiên cho lắm, rồi cùng quay sang tôi khẽ lắc đầu. Lão Mục trả lời với giọng rất lạ:

      - Cái nớ… thực !

      Câu mang đậm phương ngữ Thẩm Dương nhưng tôi thấy buồn cười chút nào, chỉ cảm nhận được nỗi sợ hãi rất khó diễn tả. ràng vừa xong tất cả đều ở tầng thứ hai, vậy tại sao chúng tôi lại nhìn thấy nhau?

      Tôi vội vàng hỏi lại, khi họ xuống tới tầng thứ hai có nhìn thấy những bức bích họa vẽ những loài động vật kì quái hay ?

      Lão Mục sau khi nghe xong câu hỏi của tôi liền trở nên nghi hoặc, vừa xoa cằm vừa hỏi lại:

      - Động vật nào? Chúng tôi chỉ thấy bức tranh hình người với nhiều dáng vẻ khác nhau.

      Tôi giật thót mình, trong đầu bỗng lên hình ảnh bức tường khổng lồ với vô vàn hình ảnh người phụ nữ, già có trẻ có, với các hình dạng khác nhau, tôi bất giác thốt lên thành lời.

      Tiểu Đường sau khi nghe tôi xong, liền cười :

      - Cái gì? Sao lại có chuyện đó được. Những hình em nhìn thấy đều là khắc hình cả.

      ra, sau khi Lão Mục và Tiểu Đường xuống tới nơi, phát ra kết cấu của tầng tháp giống hệt tầng , chỉ khác là sáu bức tường xung quanh có thêm sáu bức bích họa. Khi lại gần quan sát ra đó là bức họa vẽ những người phụ nữ khỏa thân, có trẻ con, người trưởng thành, người già, thậm chí cả người chết, người bị bệnh… màu sắc nét, hình ảnh sống động như . Có tới hàng trăm hình vẽ như thế, và chúng đều thuộc nghệ thuật khắc hình. Chỉ có điều, về bản chất chỉ có ba bức họa, vì ba bức còn lại là hình ảnh phản chiếu của ba bức kia.

      Tôi càng nghe càng cảm thấy kì lạ vô cùng, vì trường hợp đó rất giống với những bức họa mà tôi thấy ở tầng thứ hai sau khi tụt xuống từ đường Nhân Đạo, đặc biệt là kết cấu tương phản. ràng chúng tôi đều đứng ở cùng tầng vậy tại sao hình ảnh nhìn thấy lại hề giống nhau?

      Sau khi nghe tôi kể lại, hai người kia cũng hoàn toàn bị bất ngờ, Lão Mục nhăn trán suy nghĩ, lúc lâu sau, mới lẩm bẩm mình:

      - nhẽ mình vào gian khác?

      Tôi cũng thần người ra, biết nên trả lời Lão Mục như thế nào. Trong đầu nghĩ đến những hình ảnh thường thấy trong các cuốn truyện viễn tưởng, mà ở đó các nhân vật lạc vào thế giới song song, rồi có thể vượt thời gian, tàng hình… khiến người khác thể biết đến tồn tại của mình. Càng nghĩ càng cảm thấy mọi việc thêm rắc rối và mờ mịt.

      Tôi chửi thề câu, thế này khác nào động quỷ cơ chứ, nhưng đến quỷ cũng có hình dáng, vậy tại sao chúng tôi lại hề nhìn thấy nhau?

      Tiểu Đường cúi đầu trầm ngâm, rồi bỗng nhiên vỗ tay, giọng đầy hào hứng:

      - Em biết rồi!

      bé lập tức phân tích cho chúng tôi , qua những bức bích họa bên trong tầng tháp mà tôi nhìn thấy, chứng tỏ đường tôi xuống mới chính là Súc Sinh Đạo, do vậy, tường mới vẽ ba loải động vật kỳ dị là cá, chim và thú, mỗi loài đều có hình dạng khác nhau. Còn đường mà hai người bọn họ qua mới chính là Nhân Đạo, tường khắc vô số hình ảnh của con người với những số phận và hình hài khác nhau.

      Tôi hết sức hoang mang vì vẫn chưa hiểu được khác biệt giữa Nhân Đạo và Súc Sinh Đạo là ở đâu. ràng tôi vào đường Nhân Đạo, sao cuối cùng lại là tầng Súc Sinh Đạo. Còn Lão Mục và Tiểu Đường xuống đường Ác Quỷ lại thành đường Nhân Đạo. lẽ, dưới tầng tháp cổ hàng nghìn năm tuổi này thực tồn tại gian zíc zắc?

      Phân tích tới đó, chúng tôi đều dừng lại, ai với ai câu nào mà chỉ mặt đối mặt nhìn nhau chằm chằm, sắc mặt ai nấy đều nhăn nhó khó hiểu. Những tiếng lách cách đứt đoạn vọng tới tai tôi, giữa gian yên lặng quái đản những thanh đó càng trở nên ghê rợn hơn.

      Tiểu Đường cau mặt trầm tư lúc lâu, bỗng nhiên thốt lên tiếng “ đúng!” khiến tôi giật thót tim. rồi bé đứng bật dậy, men theo sáu vách tường vòng. Tôi thấy Tiểu Đường ngẩng đầu, nhìn chằm chằm lên những hình tròn thái cực ở tít cao, rồi lại cúi xuống nhìn vào vị trí giao nhau của sáu bức tường.

      Tôi và Lão Mục nhìn nhau khó hiểu, tôi nhận ra những bức tường ở đây đều trống trơn giống như ở tầng tháp thứ nhất. Nếu như qua tầng tháp thứ hai tôi nghĩ rằng mình quay trở lại tầng tháp thứ nhất.

      Tiểu Đường quan sát chớp mắt, rồi bước tới thân cột trụ, khẽ xoa tay lên bề mặt, hạ giọng :

      - Em hiểu rồi, lúc đó chúng ta ở tầng thứ hai, nhưng thực ra cùng tầng thứ hai, điều này cũng phú hợp với thuyết sáu đường luân hồi thân Sinh Tức Mộc là “tuần hoàn vãn phục, sinh sinh bất tức”(xoay vần dứt, sinh sôi ngừng).

      Lời Tiểu Đường khiến tôi như bị bỏ bùa mê thuốc lú, như thế nào là “ở tầng thứ hai, nhưng thực ra cùng tầng thứ hai”? Hay đây quả như lời Lão Mục , phía dưới này tồn tại gian song song?

      Đầu óc thể tiếp nhận những câu chữ , tôi liền quay lại nhìn Lão Mục, thấy khuôn mặt ta cũng bàng hoàng kém.

      Thấy sắc mặt khác thường của chúng tôi, Tiểu Đường vẫn thản nhiên gật đầu rồi tiếp:

      - Cũng có thể là… đúng, để em xem lại.

      rồi bé bước tới gần bức tường, đưa mũi dao phạt qua lớp rêu phủ đó. Lớp rêu xanh rơi lả tả, bám đầy lên tóc, lên mặt bé. Tay còn lại Tiểu Đường cầm mũi kim ngừng cào cào lên bức tường, phát ra những tiếng ken két ghê tai. Sắc mặt bé hết sức nghiêm nghị vì mải tập trung lắng nghe. Cào xong mặt, Tiểu Đường liền chuyển sang cạnh khác, cứ thế lần lượt cào hết sáu cạnh, rồi mới từ từ bước tới gần cột trụ. Tôi và Lão Mục chăm chú quan sát quên cả chớp mắt, vì hiểu bé làm như thế là có mục đích gì.

      Tiểu Đường mím chặt môi, hai mắt nhìn trừng trừng vào cột trụ, sau đó đưa dao lên cạo sạch lớp dầu sơn đen sì bề mặt, để lộ ra sáu lỗ , chắc chắn đây lại là mắt khóa để tầng tháp này hoạt động.

      Lúc này, Tiểu Đường mới khẽ gật đầu, quay ra nhìn chúng tôi, điềm tĩnh giải thích:

      - Tầng thứ nhất là tầng đơn, tượng trưng cho lối vào chung cho cả sáu đường. Cả sáu tầng tháp đều bắt nguồn từ lối vào này, nhưng khi hai tầng dưới xoay chuyển bất luận xuống từ đường nào cũng đều rơi vào tầng bất kì bên dưới.

      Thấy chúng tôi vẫn ngơ ngác, Tiểu Đường liền ngồi xuống, dùng mũi kim vẽ qua sơ đồ kết cấu mặt đất, tầng thứ nhất tự xoay chuyển khiến cả sáu đường ở tầng thứ hai xoay chuyển theo, sáu lối vào của cả sáu đường đó cũng theo tự động chuyển dịch. Nên khi tôi xuống cửa của đường Nhân Đạo, lại rơi xuống đường Súc Sinh Đạo, còn họ xuống từ đường Ác Quỷ lại may mắn rơi xuống đường Nhân Đạo. Vừa xong bé dùng kim cào mạnh lên tường là để cảm nhận thanh phát ra, từ đó có thể khẳng định còn khoảng trống nào khác, chứng tỏ ở tầng này lại có thêm sáu cửa mới. Hơn nữa, thân cây Sinh Tức Mộc có tổng cộng bảy nhánh, nhánh lớn chính là thân trụ, sáu nhánh còn lại nằm sâu dưới lòng đất với khoảng cách giống hệt nhau, có tác dụng làm cột trụ của sáu đường luân hồi.

      Tôi khẽ gật đầu, thấy mình vỡ lẽ ra vấn đề, giống như vừa tìm được hướng của bài toán khó, đồng thời, tôi cũng nắm được tinh thần của câu “tuần hoàn vãn phục, sinh sinh bất tức”. Thế nhưng, phải khẳng định là tôi vẫn lý giải được tại sao người Liêu lúc xây dựng ngọn tháp này lại phải thiết kế kết cấu phức tạp đến như thế. Đặc biệt loại cây Sinh Tức Mộc quý hiếm như thế, làm thế nào họ có thể tìm được thân cây có đủ bảy nhánh? Lão Mục vừa xoa cằm vừa thở dài, :

      - Nhà Liêu tín Phật, kết cấu này chắc chắn phải có dụng ý đặc biệt nào đó. Nhưng mà cứ vòng vèo thế này, đến bao giờ mới tới nơi?

      Nghe thấy vậy, lòng tôi bỗng nặng trĩu, cảm thấy hoang mang chán nản vô cùng, điều mà Lão Mục vừa ra đúng là mà chúng tôi phải đối mặt, nếu cứ tiếp tục theo vòng tuần hoàn này chắc rằng chúng tôi mãi mãi chìm trong vòng luân hồi mà biết đến bao giờ mới vén được bức màn bí mật. Hơn nữa, các tầng tháp ngừng ăn sâu xuống dưới chẳng khác gì cái động đáy, cho dù chỉ có sáu tầng tháp trong tay chúng tôi cũng có vật dụng gì để trèo ngược lại lên , điều này đồng nghĩa với việc chúng tôi thể quay trở lại mặt đất.

      Nghĩ tới khả năng này, cả ba chúng tôi năng gì, chỉ nhìn nhau thở dài buồn bã.

      Tiểu Đường nghiêng đầu nhìn sang, miệng mím chặt, trừng trừng nhìn lên thân cột trụ hề chớp mắt, ánh mắt lộ ra tia sáng kì lạ. lúc sau, bé bỗng nhiên thốt lên:

      - đúng, mặc dù gốc cây Sinh Tức Mộc rất sâu, nhưng sâu tới mức độ này vô lý.

      Tôi hết sức đồng tình với ý kiến của Tiểu Đường, đúng là như thế, mặc dù Sinh Tức Mộc rất thần kỳ nhưng dù sao nó cũng chỉ là loài thực vật; còn thân cây trước mắt chúng tôi, cắm sâu xuống lòng đất vài trăm mét, thậm chí còn mọc thẳng tắp, bề ngang rộng bằng nhau từ xuống dưới, nếu tính từ rễ tới ngọn thể tưởng tượng nổi chiều dài của nó.

      Lão Mục quan tâm lắm đến điểm này, ta quỳ gối bên cạnh tấm kim loại hình thái cực, tay xoa xoa cằm, hai mắt nheo lại rồi thủng thẳng :

      - Theo như phán đoán của Tiêu Vi, phần tháp ngầm dưới đất gồm có sáu tầng, chúng ta ở tầng thứ ba, lại là tầng đơn. Theo như tình hình trước mắt và quy luật sắp xếp tầng tiếp theo lại là tầng có sáu cổng, hay đúng hơn là tầng có sáu đường tuần hoàn.

      Tiểu Đường nhìn Lão Mục, chăm chú lắng nghe, rồi khẽ gật đầu:

      - sai, em cũng nghĩ như thế. - bé quay đầu sang hỏi tôi - Chị Tiêu Vi, vừa nãy chị có nhắc đến nguyên lí phản chiếu qua gương và cả ám hiệu trong các bức tranh của ông Từ, em thấy rất hay. Rất có thể điều này đúng như mô hình kết cấu 1-6/1-6/1-6 đây. Chúng ta vẫn phải tiếp tục xuống thêm hai tầng nữa mới có thể tới được tầng cuối cùng.

      Dừng lại lát, bé thở dài rồi tiếp:

      - Tầng cuối cùng… ai biết được là cái gì? - Giọng điệu của bé trở nên khác lạ, như ám chỉ điều gì đó.

      Tôi quá quen với phong cách chuyện lấp lửng của Tiểu Đường nên cố nài ép gặng hỏi bằng được, chỉ đứng im lặng bên, chờ tiếp. hiểu vì lí do gì, lúc đó trong đầu tôi bỗng nhiên nghĩ tới cảnh sát trẻ có biệt tài mở khóa Sở Khinh Lan và bậc thầy bấm huyệt Tống Nguyệt Uyên. cảm giác rất lạ bỗng dưng dâng trào, tôi nhận thấy ba người con này có điểm gì đó rất giống nhau, tất cả còn rất trẻ, bản thân sở hữu biệt tài riêng biệt, và cùng cất giữ rất rất nhiều bí mật.

      Nghĩ tới đó, trong đầu tôi ngừng hoài nghi, nhờ người chiến sĩ bằng da người của cậu và rất nhiều duyên cớ mà tôi được quen biết với họ. Và những bí mật mà chúng tôi tìm kiếm như sợi dây vô hình nối kết tất cả chúng tôi lại, rốt cuộc đó là bí mật gì? Số mệnh của tôi trong tương lai như thế nào? Và điều quan trọng nhất giờ, sau sáu tầng tháp liệu điều gì xảy ra?

      Cả ba chúng tôi cùng bàn bạc và tán thành ý kiến ngọn tháp ngầm dưới đất có tổng cộng sáu tầng là hợp lí nhất, chỉ còn cách xuống dưới đó, chúng tôi mới có thể hiểu được ngọn nguồn của vấn đề. Lão Mục vô thức ngó xuống chiếc đồng hồ đeo tay, lúc đó là năm giờ sáng ngày thứ hai. Cả đêm thức trắng, chúng tôi đều thấm mệt, hai mắt cay xè. Lão Mục vỗ bụng bồm bộp, rằng đến lúc nạp năng lượng rồi ngủ giấc lấy sức để tiếp tục chuyến . Đến lúc đó, tôi mới sực nhận ra bụng dạ cồn cào, người như muốn lả vì đói.

      Sau khi ăn vài miếng lương khô, tu hơi hết chai nước suối, cơn buồn ngủ ngay lập tức ập tới. Lão Mục liền dựa lưng vào tường đánh giấc, chỉ khoảng vài giây sau, ta ngáy như sấm, cảm giác như cả tầng tháp rung lên vì tiếng ngáy đó.

      Tiểu Đường liếc trộm về phía Lão Mục rồi quay sang khẽ giật tay tôi, :

      - Chị Tiêu Vi, hai chị em mình sang phía bên kia được ? Em… em muốn vệ sinh.

      Tôi khẽ mỉm cười, biết này ngại ngùng nên dẫn xa đoạn.

      Sau khi vệ sinh xong, Tiểu Đường lập tức đứng phắt dậy cài vội thắt lưng, rồi chạy tới, lắp bắp vào tai tôi:

      - Chi Tiêu Vi, em… em… thấy rất sợ, cảm giác như ngọn tháp này có liên quan đến thân thế của em vậy.

      Tôi ngỡ ngàng, lập tức dừng bước, quay sang nhìn bé với vẻ khó hiểu. Khuôn mặt Tiểu Đường cắt còn giọt máu, đôi mi dài liên tục chớp chớp để lộ ánh mắt vô cùng sợ hãi. Bỗng nhiên, bé nắm chặt tay tôi, mạnh tới mức những đường gân xanh mu bàn tay lập tức nổi lên.

      Tôi cảm nhận thấy bất an và sợ hãi đến tột cùng của Tiểu Đường qua ánh mắt và cử chỉ của bé.

      Tôi quen biết Tiểu Đường khá lâu, từ trước tới nay luôn cảm thấy này có tính cách mạnh mẽ, bình thường rất điềm tĩnh và lặng lẽ, đây là lần đầu tiên tôi thấy bé bị kích động mạnh như thế. Điều khiến tôi hiểu là, ngọn tháp cổ này có quan hệ gì tới thân thế của Tiểu Đường, lẽ nào hậu duệ của Đường Bá Hổ cũng tham gia xây dựng tháp?

      Nhưng ý nghĩ này vừa vụt ra bị tôi lập tức gạt , vì ngọn tháp cổ được xây dựng từ thời nhà Liêu, còn Đường Bá Hổ lại sống ở thời nhà Minh, hai triều đại cách nhau đến vài trăm năm. Nếu Đường Bá Hổ có ý định như vậy chỉ có thể xuyên ngược thời gian quay về quá khứ để thực ước nguyện.

      Tuy trong lòng vẫn rất mông lung, nhưng tôi vẫn cố để lộ cảm xúc ra mặt, vỗ lên tay bé, nhàng an ủi:

      - Em…

      Chưa kịp mở miệng, Tiểu Đường lắc đầu ra hiệu cho tôi đừng gì, rồi kéo tay tôi sang góc.

      bé cúi gập mặt xuống đất để lộ vùng cổ trắng muốt, hai tay liên tục bẻ mạnh các khớp, phát ra những tiếng kêu rắc rắc, ràng Tiểu Đường phải vật lộn đấu tranh tư tưởng rất gay gắt. Tôi dám lời nào, chỉ biết nắm chặt bờ vai mỏng manh, hi vọng có thể trấn an bé phần nào.

      lúc lâu sau, Tiểu Đường mới khẽ thở dài, khuôn mặt xinh đẹp thoáng vẻ u buồn sầu não. bé mở chiếc bọc rồi lấy ra mũi kim và rất nhọn màu bạc, nhìn nó cách lạnh lùng, sau đó đưa mũi kim cào lên móng tay cái bàn tay trái, thầm:

      - Để em cho chị xem Nội Văn Khắc Pháp.

      Mũi kim chuyển động rất nhanh, chỉ lúc sau, bề mặt móng tay đùn lên lớp bột màu trắng. bé lau ngón tay vào áo rồi rụt rè giơ ra trước mặt tôi. Dưới ánh đèn pin, tôi nhìn thấy hai chữ xíu đỏ tươi: Lục Tây.

      Tôi giật thót tim, ngỡ mình bị hoa mắt, tôi chồm người tới phía trước, nhìn lại kỹ, ràng là hai chữ “Lục Tây”. Chúng như được in chìm dưới lớp móng tay, tuy chữ hơi và mờ nhưng vẫn nhìn thấy đường nét thư pháp bay bổng tuyệt đẹp.

      Tôi tò mò nắm lấy bàn tay Tiểu Đường đưa lên sát mặt để nhìn kỹ hơn. Nhưng hiểu sao, tôi vừa nắm tay bé, hai chữ đó lập tức mờ dần và biến mất, chỉ để lại vết rãnh cào bề mặt móng tay.

      Trí tò mò và hào hứng của tôi càng tăng lên, miết miết lại ngón tay lên đường rãnh đó nhưng ngoài cảm giác hơi sần ra, tôi thấy điều gì bất thường, hai chữ đó biến đâu. Tôi thể giải thích được đành hỏi Tiểu Đường.

      trả lời, chỉ nhắm chặt mắt chìm sâu vào suy nghĩ, giống như tinh thần phải đấu tranh dữ dội lắm. Rồi bỗng nhiên, Tiểu Đường mở mắt trừng trừng, cắn chặt môi dưới, như quyết tâm đưa ra quyết định gì đó vô cùng quan trọng.

      Thấy thái độ của Tiểu Đường như vậy, tôi biết ngay là có chuyện hết sức quan trọng, nên gì thêm, lập tức gọi Lão Mục dậy. Khi biết Tiểu Đường có chuyện muốn , ta cũng tỏ ra hết sức hào hứng.

      Cả ba chúng tôi đều quyết định ngủ, tìm chỗ thoải mái rồi cùng ngồi xuống dựa lưng lên tường, để tiết kiệm pin, chúng tôi tắt cả ba chiếc đèn pin . gian dười tầng tháp trở nên đen đặc, bốn phía lặng yên như tờ, chỉ có giọng Tiểu Đường chậm rãi vang lên.

      Tiểu Đường kể với chúng tôi, kỹ thuật xăm khắc trong phái Mặc môn có rất nhiều chủng loại, trong số đó Nội Văn Khắc Pháp là kỹ thuật cao nhất. Đúng như tên gọi của nó, hình ảnh được khắc chìm vào bên trong cơ thể người hoặc vật nào đó mà bình thường ai có thể nhìn thấy. Để làm được việc này, người ta phải dùng mũi kim cực kỳ đặc biệt với kỹ thuật vô cùng tinh tế mới có thể tạo ra kiệt tác nghệ thuật có hai thế giới. Như vậy, cho dù có khắc bao nhiêu hình ảnh bên trong bề ngoài vật thể vẫn có bất kì tổn thương nào.

      rồi, Tiểu Đường cầm chiếc đèn pin của mình lên, điều chỉnh ánh sáng ở mức thấp nhất, rồi lôi mũi kim đặc biệt từ trong bọc ra, :

      - Kỹ thuật này của em tuy kém, nhưng vẫn tạm chấp nhận được, để em làm cho mọi người xem.

      Trước khi nghe những lời giải thích vừa rồi của Tiểu Đường, tôi tuy cảm thấy rất kỳ lạ, nhưng nghĩ tới hôm ở nhà Tang Giai Tuệ, Tiểu Đường qua cho tôi về nghệ thuật khắc hình, nên tôi cũng phần nào đoán ra, hai chữ bé cho tôi xem chính là sản phẩm của kỹ thuật Nội Văn Khắc Pháp. Thấy Tiểu Đường có ý muốn xăm thử, chúng tôi liền chủ động giơ tay ra để bé thực .

      Tiểu Đường lắc đầu, khẽ đẩy tay chúng tôi ra, :

      - Mặc môn có những quy tắc rất chặt chẽ, đó là chỉ xăm khắc cho những người trong phái, lần này chuyển sang khắc lên đồ vật vậy.

      xong, bé đứng dậy, tìm quanh vòng, nhưng hình như thấy đồ vật nào thích hợp nên đành lấy tạm chiếc đèn pin, dựng thẳng đứng mặt đất, tay trái nắm chặt chiếc đèn. Ánh đèn chiếu ngược lên , tạo thành đốm sáng hình tròn đỉnh.

      Tiểu Đường chậm rãi nhấc tay phải lên, đặt mũi kim lên mặt kính đèn pin rồi chuyển động nhanh dần, phát ra tiếng rít khá dài. Ánh sáng từ chiếc đèn pin lọt qua kẽ tay chiếu thẳng lên khuôn mặt bé, đôi mắt nheo lại, cặp lông mày khẽ rung lên, vẻ mặt Tiểu Đường trông khá kỳ lạ.

      Khi mũi kim dịch chuyển đến vị trí mép tấm kính, tay bé dừng lại lúc, mu bàn tay cong lên như cầm nắm thứ gì đó, rồi bắt đầu chọc thẳng xuống mặt kính như con gà mổ thóc. Mỗi lần tay bé hạ xuống, cảm giác như từ đầu mũi kim tóe ra những tia lửa bạc.

      Những tiếng lách cách liên tục phát ra, tần suất lúc nhanh lúc chậm, thanh này rất giống tiếng phát điện tín, nghe mà thấy sốt ruột hơn, Tiểu Đường làm gì.

      bé cứ miệt mài như thế lúc lâu, sau đó đổi sang vị trí khác, rồi lại tiếp tục công đoạn xăm hình lên mặt kính, cứ như vậy cho tới vị trí thứ sáu. Cuối cùng, Tiểu Đường khẽ thở hắt ra, nhanh chóng đặt tay phải lên thân đèn, chợt tiếng nứt phát ra từ mặt kính.

      Tiểu Đường thở dài, thõng hai tay xuống, từ từ dựa lưng vào bức tường, buồn bã :

      - Công lực đủ!

      Rồi tay cất mũi kim vào bọc, tay đưa chiếc đèn pin cho chúng tôi xem.

      Tôi nhanh tay nhận lấy chiếc đèn pin, cùng Lão Mục nhìn lượt lên mặt kính, ngay lập tức chúng tôi thấy hình sáu cạnh vuông vức, trong đó đỉnh của sáu cạnh là những điểm tròn màu trắng. Khi ánh đèn chiếu lên tường, nằm trong khoảng sáng hình tròn là đường viền với sáu cạnh nét.

      Liệu đây có phải là khắc hình hay ? Tôi cảm thấy hồ nghi nên đưa tay sờ thử, mặt kính vẫn nhẵn mịn như bình thường, tôi cảm nhận thấy dấu hiệu của bất kì vết sứt mẻ nào, thế nhưng khi miết kĩ lại, tôi chợt nhận ra đường rãnh mờ tại trong sáu cạnh đó.

      Tôi liền quay chiếc đèn lại, mặc cho ánh sáng chói lóa chiếu thẳng vào mắt, quan sát kĩ hơn, tôi phát ra, hình sáu cạnh này thực được khắc ở mặt trong của lớp kính, trông giống như viên kim cương với những mặt cắt tự nhiên. Trong đó có cạnh, chắc do công lực của Tiểu Đường chưa đủ nên để lộ vết khắc.

      Tôi và Lão Mục mê mẩn ngắm nghía hình khắc chìm đó, bây giờ chúng tôi mới thực cảm nhận được thần kỳ của kỹ thuật Nội Văn Khắc Pháp, nhưng trong đầu vẫn còn đó cảm giác thể nào giải thích nổi.

      Lúc bấy giờ tôi tạm thời cho rằng, Tiểu Đường lợi dụng tốc độ nhanh như cắt của mũi kim để phá vỡ kết cấu bên trong của mặt kính. Còn Lão Mục liên tưởng đến hình ảnh những sai nha trong phủ quan, với kỹ thuật dùng hình siêu đẳng, khiến cho người bị đánh thịt nát xương tan nhưng quần áo mặc người vẫn lành lặn y nguyên.

      Tiểu Đường ngồi chỗ, giải thích gì, chỉ cười cười và bảo chúng tôi đoán mò. Đợi cho tới lúc chúng tôi tranh luận nữa, bé mới tiếp tục kể về thân thế của mình.

      Giọng điệu của Tiểu Đường nhanh cũng chậm, cứ đều đều như tường thuật, cứ thế trong hơn tiếng đồng hồ, bé luôn là người chủ động cất lời mà để chúng tôi chen vào câu nào.

      Sau khi nghe xong, tôi và Lão Mục cứng cả lưỡi, được gì, chỉ biết ngẩn ngơ nhìn chớp mắt. Tiểu Đường cũng nhìn chúng tôi nhưng nét mặt tịnh chút biểu cảm. Tôi như vừa trải qua cú sốc tinh thần rất lớn khiến đầu óc rất hoang mang, cảm giác như nằm mơ và dám tin vào những điều mà chính tai mình vừa được nghe thấy.

      Thân thế và cuộc đời của Tiểu Đường ly kỳ tới mức tôi cứ ngỡ mình vừa được xem bộ phim hư cấu, thậm chí hồ nghi cả với những thực được kiểm chứng. Điều làm tôi hoang mang hơn cả chính là những điều liên quan tới ngọn tháp cổ này.

      Về câu chuyện mà Tiểu Đường kể lại, tôi biết thế nào mới hết ý được, hay cứ tường thuật lại đúng như những lời , bắt đầu từ Đường Bá Hổ vậy…

      Đường Dần, hiệu là Bá Hổ, sinh ra trong gia đình thương gia ở Tô Châu, từ có trí thông minh trời phú, xuất khẩu thành thơ, kiến thức uyên thâm, là thần đồng xuất chúng bấy giờ. Ông đứng thứ nhất trong kì thi Tú tài năm mười sáu tuổi, sau đó tên tuổi của ông lan truyền khắp thành Tô Châu; năm hai mươi chín tuổi lên Nam Kinh dự kì thi Hương và đỗ giải nguyên, vì thế sau khi mất người đời đều gọi ông là Đường giải nguyên.

      Trong thời kì tiếng tăm của Đường Bá Hổ vẫn nổi như cồn, vào năm thứ hai khi chuẩn bị tới kinh thành tham gia thi Hội, ông gặp người làm thay đổi số mệnh của ông, người đó là Tử Từ Kinh - công tử con nhà trâm giàu có ở vùng Giang m.

      Từ Kinh và Đường Dần đều là cử nhân, tuổi tác cũng tương đương, sau khi vô tình gặp nhau, do ngưỡng mộ tài năng của Đường Dần, nên Từ Kinh thu xếp cuộc gặp gỡ rồi có ý muốn tài trợ toàn bộ chi phí thi cử cho Đường Dần, hai người từ đó kết giao tri kỉ.

      Đường Dần và Từ Kinh sau khi tới kinh thành nhiều lần tới gặp vị quan chủ khảo của cuộc thi năm đó là Trình Mẫn Chính. Đường Dần còn mời ông ta viết lời tựa cho tập thơ do chính mình sáng tác, nên hai người dần dần trở nên thân thiết.

      Đề thi năm đó vô cùng hóc búa, khiến rất nhiều thí sinh trả lời được. Nhưng trong đó có hai bài thi những hay mà chữ nghĩa cũng rất đẹp, Trình Mẫn Chính nhìn qua là nhận ra ngay, liền :

      - Hai bài này chắc chắn là của Đường Dần và Từ Kinh.

      Câu này bị những người chứng kiến nghe thấy và lan truyền ra ngoài, Trình Mẫn Chính bị kết tội thông đồng với hai thí sinh nên bị bắt giữ. Bọn quan tham nhân đó trình báo chuyện này lên hoàng thượng, vu cáo Trình Mẫn Chính là người làm lộ đề thi, nếu như nghiêm ngặt điều tra , e rằng làm các sĩ tử mất lòng tin vào cuộc thi.

      Lúc đấy, hoàng thượng tin đó là , nên truyền chỉ cho phép Trình Mẫn Chính tham gia chấm thi. Tất cả những bài thi mà ông đọc qua đều phải chấm lại, đồng thời bắt nhốt Trình Mẫn Chính, Đường Dần và Từ Kinh và ngục chờ người đến thẩm tra.

      Sau khi bị nhốt vào ngục, Từ Kinh bị tra tấn dã man nên phải nhận rằng dùng lượng vàng lớn để mua chuộc người thân cận của Trình Mẫn Chính đưa trước đề thi và sau đó tiết lộ cho Đường Dần. Nhưng sau này, khi mở cuộc điều tra lại, Từ Kinh được giải oan, do lúc đó bị bức hại dã man nên phải nhận tội. Cả Từ Kinh và Đường Dần đều thấy oán hận vô cùng. Về sau, hoàng thượng hạ chỉ lấy lại trong sạch cho cả ba người rồi thả họ ra. Trình Mẫn Chính sau khi ra khỏi ngục, bị ép phải từ quan về quê ở , do luôn cảm thấy triều chính quá bất công nên ông ôm mối hận thù và lâu sau qua đời. Còn Từ Kinh và Đường Dần bị hủy bỏ mọi công trạng và bị lưu đày làm quân sai tại vùng hẻo lánh.

      về cuộc thi đó là như thế, nhưng cũng có khả năng đề thi bị lộ ra ngoài vì trong sử sách ghi lại như vậy, cho đến tận bây giờ người ta vẫn chưa biết thực hư và đó là cuộc thi để lại nhiều hoài nghi nhất trong lịch sử.

      Nghe tới đó, tôi bỗng nhớ tới cuốn tiểu thuyết rất ăn khách mà tôi mới đọc xong có tên là Những câu chuyện thời nhà Minh, nội dung cũng được kể lại gần giống như thế này. Chỉ có điều câu chuyện này do chính hậu thế của Đường Bá Hổ kể lại, nên phần nào cảm thấy chân hơn.

      Truyện kể lại, Đường Dần sau khi ra khỏi ngục, bị chuyển tới huyện của tỉnh Triết Giang làm lính cai ngục, cuộc đời ông trở nên tăm tối, nhục nhã và ê chề. Sau khi trở về nhà, nghe tin vợ con cũng bỏ , ông tìm tới rượu và tới các thú vui khác để quên sầu.

      Đến năm Hoằng Trị thứ ba mươi, người em kết nghĩa Từ Kinh sau lần ghé thăm, thấy tinh thần và con người của ông thay đổi quá nhiều, ngày đêm u sầu não nề, nên quyết định mời Đường Dần cùng mình.

      Ba năm sau, Đường Dần mình quay trở về quê hương Tô Châu, nhưng ai biết chuyện gì khiến ông thay đổi cách nghĩ để quay về với cuộc sống sáng tác thơ văn, viết sách vẽ tranh. Cuối cùng ông lấy lại thành công và danh tiếng trước đây.

      Liên quan đến chuyển biến trong cách nghĩ của Đường Dần, sử sách ghi lại rằng, qua lần thi đó, ông nhận được bản chất nham hiểm và thối nát của bọn quan lại, nhưng vì bản thân làm được gì, chỉ biết giữ nỗi oan ức trong lòng.

      Thời bấy giờ, có kỹ nữ rất nổi tiếng ở thành Kim Lăng tên là Lâm Nô Nhi hay còn gọi là Lâm Kim Lan, hiệu là Thu Hương, tài sắc vẹn toàn, cầm kì thi họa đều xuất chúng, nên có rất nhiều văn nhân tài tử si mê .

      Sau này, câu chuyện “Đường Bá Hổ điểm Thu Hương” trở thành điển tích và được lưu truyền rộng rãi trong dân gian đến tận bây giờ. Theo lịch sử, mặc dù Thu Hương là nhân vật có sống cùng thời với Đường Dần, nhưng bà nhiều hơn Đường Bá Hổ ít nhất hai mươi tuổi. Hai người họ gặp nhau và Đường Bá Hổ có tình cảm với người phụ nữ đó hay , điều đó rất khó . Nhưng trong bốn tài tử lừng lẫy của vùng đất Giang Nam cùng thời với Đường Bá Hổ là Chúc Chi Sơn, có được chiếc quạt vẽ khuôn mặt của Thu Hương, ta say đắm khuôn mặt đó ngay từ lần đầu nhìn thấy đến độ xuất khẩu thành thơ.

      Vào ngày, Chúc Chi Sơn đem theo chiếc quạt tới vườn đào rồi mời Đường Dần cùng ngắm chân dung mỹ nhân. Văn nhân tương ngộ thường thể thiếu mỹ tửu, nên hai người họ cùng nhau uống rượu cho tới khi say khướt. Đường Dần sau khi say, cầm chiếc quạt ngắm nghía nhìn khuôn mặt mỹ nữ, bỗng nhiên thở dài, :

      - Thu Hương có vẻ đẹp nghiêng sắc nghiêng trời, chỉ hận điều ta sinh sau đẻ muộn những hai mươi năm, nếu nhất định nên duyên.

      xong câu đó, Đường Dần khẽ lắc đầu than thở:

      - Dung nhan lộng lẫy, chỉ trách nốt ruồi kia đúng chỗ!

      Do góc trái trán Thu Hương có nốt ruồi màu đen, nên làm giảm vẻ đẹp thánh thiện đến hoàn mỹ ấy.

      Chúc Chi Sơn cũng gật đầu tán thành, định bồi tán thêm vài câu thấy Đường Dần lôi từ trong túi áo ra chiếc kim , kẹp chặt giữa hai ngón trỏ và ngón cái, rồi từ từ đưa lên trước mặt, miệng lẩm bẩm vài câu, sau đó nhàng đặt mũi kim lên vị trí nốt ruồi, cổ tay ngừng rung lên, mũi kim cào nhưng với tốc độ rất nhanh. lúc sau, nốt ruồi biến mất, mà mặt quạt giấy hề bị cào xước, màu sắc vẫn nguyên vẹn.

      Chứng kiến cảnh đó, Chúc Chi Sơn hết sức ngỡ ngàng, vội vàng cầm lấy chiếc quạt, lật lên lật xuống nhìn kỹ và hỏi Đường Dần học được kỹ thuật này từ bao giờ, là bạn thân nên giấu giếm. Nhưng Đường Dần chỉ nhấp rượu, lắc đầu nhất định , vẻ mặt trầm tư.

      Câu chuyện sau khi được Chúc Chi Sơn kể lại, lan truyền khắp nơi và dần trở thành điển tích“Đường Bá Hổ điểm Thu Hương” mà ngày nay bất cứ người dân Trung Quốc nào cũng biết đến. về câu chuyện đó vẫn còn là số, cho đến nay ai biết đến.

      Chuyện còn kể lại rằng, vào thời vua Chính Đức, Đường Dần được thăng quan và tới phủ Nam Xương nhậm chức. lâu sau, ông phát ra Ninh Vương có mưu đồ chiêu quân làm loạn nên giả điên cáo quan về quê ở . Sau đó, đúng như dự đoán, Ninh Vương dấy quân tạo phản, nhưng sớm bị Vương Thủ Nhân dẹp loạn, Đường Dần may mắn thoát khỏi tội đồng lõa. Sau việc đó, ông bỗng nhiên cải tín, tin vào đạo Phật, lấy tự hiệu là Lục Như cư sĩ.

      Do cuối đời, Đường Dần luôn sống phong lưu phóng khoáng, bệnh tật rất nhiều, khả năng vẽ tranh cũng giảm sút, cộng thêm việc biết quản lí chi tiêu gia đình, nên thường xuyên sống trong cảnh kiếm sống đủ nuôi thân, phải vay mượn và dựa vào bạn bè để sống qua ngày. Lúc đó, nhà thư pháp nổi tiếng tên là Vương Long tới và xin cưới người con duy nhất là Đào Sanh của ông, đây được coi là việc vui nhất trong những năm tháng cuối đời Đường Dần.

      Trước đêm con về nhà chồng, Đường Dần gọi vào thư phòng, sau khi đóng cửa và kiểm tra xem có ai ở bên ngoài , ông mới đích thân đưa cho con bọc vải .

      Vải bọc bên ngoài bạc màu, thớ vải sờn rách, buộc bằng sợi dây thừng , bốc mùi ẩm mốc.

      Thấy vẻ mặt cha rất trầm tư, con hiểu gì, chỉ biết ngồi im lắng nghe cha thổn thức kể lại bí mật kinh thiên động địa.

      ra, sau khi gặp lại Từ Kinh, Đường Dần và Từ Kinh cùng nhau du ngoạn ba năm liền, cho tới khi đến Hàng Châu, họ gặp ngọn tháp cổ huyền bí và quyết định trèo lên thăm thú.

      Ngọn tháp Lục Hòa được dựng đỉnh núi Nguyệt Luân nằm bên bờ Bắc sông Tiền Đường, bắt đầu xây dựng vào thời Bắc Tống năm 970, gồm có tám cạnh và mười ba tầng, đặt tên theo Lục Hòa kinh của Phật giáo nhằm trấn áp cơn hồng thủy vẫn xảy ra hàng năm ở sông Tiền Đường. Vào năm 1121, cơn hỏa hoạn thiêu rụi phần lớn ngọn tháp, phải đến năm 1156 người ta mới xây dựng lại.

      Đường Dần và Từ Kinh cười cười vui vẻ, tay cầm quạt giấy thong dong bộ lên tận tầng mười ba. Họ cùng đứng ở vị trí cao chót vót, tay bám lan can, mắt hướng về núi non xa tít tắp. Non nước cảnh vật hữu tình, hình ảnh dòng sông Tiền Đường nhìn từ cao giống như con rắn uốn lượn qua những khe núi, nước sông xanh biếc, gió thổi mát rượi.

      Cảnh vật nên thơ, khí trong lành nhưng vẫn làm nguôi ngoai nỗi buốn trong ánh mắt của Đường Dần, ông ngẩng mặt lên trời xanh mà than:

      - ngờ Đường Dần ta từng có thời trời ngang đất dọc lừng lẫy lại có ngày hôm nay…

      tới đó, Đường Dần đau khổ dừng lại, hề than thêm lời nào nữa.

      Thấy bạn như vây, Từ Kinh cũng nhớ lại những chuyện xảy ra mà thấy buồn rầu đến não nề, ông đưa tay vỗ vai bạn an ủi. Đúng lúc đó từ phía sau lưng vọng tới giọng :

      - Cho hỏi vị cư sĩ này có phải là Đường giải nguyên?

      Đường Dần và Từ Kinh lập tức quay đầu lại. ông già biết đứng sau lưng họ từ bao giờ, râu tóc bạc phơ, trông hiền lành phúc hậu như ông tiên, chỉ có điều vẻ mặt của ông cũng mang vẻ sầu muộn.

      Thấy hai người kia vẫn ngơ ngác, ông già vuốt bộ râu dài, chậm rãi bước tới, dõng dạc :

      - Bần tăng là sư trụ trì của ngọn tháp này, pháp hiệu là Quảng Thế, hôm nay rất vinh dự được gặp Đường trạng nguyên nổi danh khắp thiên hạ ở đây.

      Sau khi đôi bên kết thúc nghi lễ chào hỏi, nhà sư Quảng Thế muốn mời hai người tới thư phòng trong tháp viện để uống trà. Đường Bá Hổ cảm thấy xấu hổ vì xứng đáng nên từ chối, nhưng vì nể Từ Kinh nên chấp thuận cùng vị sư đó xuống núi.

    3. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Khi cả ba người cùng xuống tầng tháp thứ mười hai, sư Quảng Thế bất chợt dừng chân, quay đầu mỉm cười, rồi rằng muốn cho Đường Dần và Từ Kinh xem bức tranh Tu Di khắc tường. Đó là sáu bức bích họa mang hình ảnh có cây hoa lá, động vật và thần tiên…

      Đường Dần sau khi được nhà sư Quảng Thế giới thiệu những bức tranh, liền vòng xung quanh, đưa tay sờ lên từng bức để quan sát và cảm nhận. Cuối cùng, ông phát ra điều khó hiểu, tại sao bề ngoài ngọn tháp có tám cạnh, nhưng bên trong lại chỉ có sáu cạnh?

      Quảng Thế gì, chỉ khẽ gật đầu rồi tiếp tục dẫn hai người xuống. Sau đó, nhà sư để họ dừng lại lúc lần lượt ở những tầng thứ mười, tám, sáu, bốn và hai, để hai người quan sát những bức tranh điêu khắc tường.

      Ở sáu tầng họ dừng lại, ngoài đặc điểm chung là gian thu hẹp dần theo chiều từ dưới lên , tổng thể kết cấu đều giống y hệt nhau, chúng đều gồm sáu cạnh, thậm chí đến nghệ thuật điêu khắc tường cũng có khác biệt. Hai người bọn họ đều cảm thấy khó hiểu và biết mục đích của nó là gì.

      Sau khi xuống tới tháp viện, sư Quảng Thế mời hai người về thư phòng riêng của mình, ba người bọn họ ngồi đối diện nhau. Ban đầu nhà sư gì mà chỉ ngồi yên chỗ, vuốt chòm râu dài, nheo nheo đôi mắt quan sát hai người từ đầu tới chân.

      Từ Kinh tính tình nóng vội, thấy dáng vẻ chậm rãi của Quảng Thế biết rằng nhà sư có chuyện muốn , nên cất lời trước:

      - Lão thiền sư, ông dẫn chúng tôi tới đây là có điều muốn chỉ giáo, tại sao gì mà chỉ trầm tư suy ngẫm thế?

      Quảng Thế đưa mắt nhìn sang Từ Kinh, điềm tĩnh :

      - Đường cư sĩ nhìn ra vấn đề ở con số sáu, vậy Từ cư sĩ phát ra điều bất thường gì chưa?

      Từ Kinh lặng người, giơ tay gãi đầu gãi tai, :

      - là tháp Phật ai mà hiểu nổi, e rằng đến cả tổ tiên Tây Thiên cũng biết thôi.

      Nghe câu trả lời của Từ Kinh, Quảng Thế liền tỏ vẻ vừa lòng, cười lạnh nhạt định cất lời trách móc, bỗng dưng nhà sư khựng lại, đưa tay vuốt chòm râu bạc, ánh mắt nhìn quanh bốn phía với vẻ bất an. lúc lâu sau, ông mới khẽ gật gật đầu, miệng lẩm bẩm:

      - Cơ duyên xảo hợp! Cơ duyên xảo hợp!

      Giọng điệu của nhà sư hết sức kỳ lạ, rồi ngừng thở dài thườn thượt. Đường Dần và Từ Kinh trợn mắt hiểu vị hòa thượng này suy nghĩ điều gì?

      Sư Quảng Thế bỗng đứng dậy, chậm rãi bước tới cửa thư phòng, đóng cửa cài chặt then, quay lưng về phía chiếc bàn, mở cuộn giấy ra rồi :

      - Bần tăng theo Phật từ , cũng có cơ hội nhiều nơi, gặp cơ duyên với vật này, hôm nay xin hai vị cư sĩ có đôi điều chỉ giáo.

      rồi, nhà sư liền lôi mũi kim kẹp ở giữa cuộn giấy ra, chấm vào nghiên mực, rồi ngừng châm lên mặt giấy.

      Đường Dần và Từ Kinh chụm đầu tới, hết sức ngỡ ngàng nhìn mũi kim châm liên tiếp lên mặt giấy trắng, hình ảnh ngọn tháp từ từ lên, đường nét tuy rất đơn giản nhưng chỉ cần nhìn vào là có thể nhận ra ngay đó chính là ngọn tháp Lục Hòa.

      Sau khi khắc xong hình ngọn tháp Lục Hòa, bàn tay sư Quảng Thế tiếp tục những nét vẽ bay bổng và phóng khoáng, chỉ trong nháy mắt hình ảnh dòng sông Tiền Đường lên uốn lượn men theo sườn núi, thậm chí còn thấp thoáng những đám mây lơ lửng ngang chừng. Sau khi bức tranh hoàn thành, ngọn tháp Lục Hòa trở nên sừng sững và nguy nga ngay giữa đất trời.

      Cuối cùng, nhà sư Quảng Thế lôi chiếc khăn tay từ trong ngực áo ra, nhàng lau sạch vết mực còn dính mũi kim, quay sang nhìn Đường Dần và Từ Kinh vẫn còn tròn mắt vì ngỡ ngàng. Ông mỉm cười và :

      - Hai vị cư sĩ, biết bức tranh bần tăng vẽ có được lọt vào mắt hai vị ?

      Đường Bá Hổ bỗng dưng khựng lại, nghiêng đầu nhìn xa xăm ra khoảng trời tối đen như mực ngoài cửa sổ, lông mày chau lại, khẽ lắc đầu, ông vẫn chưa hết bất ngờ với những gì được chứng kiến trong ngày hôm nay…

      Đào Sanh vẫn lắng nghe câu chuyện cha mình kể lại cách say xưa, thấy cha bỗng nhiên dừng lại, liền lắc cánh tay ông nũng nịu:

      - Cha, cha kể tiếp , sau đó xay ra chuyện gì?

      Đường Bá Hổ quay đầu lại, vuốt lên mái tóc con , thở dài và chậm rãi kể tiếp”

      - Ngày hôm đó khi ở tháp Lục Hòa, tận mắt nhìn thấy bức tranh khắc bằng kim của vị thiền sư đó, ta và Từ Kinh hết sức ngỡ ngàng vì biết được rằng, ra kỹ thuật đó là có , bề mặt tờ giấy đó vẫn còn nguyên vẹn…

      Rồi Đường Bá Hổ tiếp tục kể câu chuyện cho Đào Sanh…

      Sau khi cất mũi kim , vị thiền tăng giải thích với Đường Dần và Từ Kinh, xăm hình và khắc hình là hai tuyệt lỹ của phái Mặc môn. Sau đó, ông kể lại cho hai người nghe về lai lịch và phát triển của phái Mặc môn.

      Thiền sư Quảng Thế từ xuất gia, trong những năm tháng lưu bạt, ông gặp vị cao nhân và quyết theo người đó để học tuyệt kỹ của phái Mặc môn. Nay tuổi của ông ngoài trăm, biết mình còn nhiều thời gian nên những năm gần đây nhiều nơi để tìm người kế thừa thích hợp, nhưng đến nay vẫn chưa tìm được người nào ưng ý. Hôm nay gặp được hai người, qua quan sát tướng mạo biết là người xuất chúng, hơn nữa lại là người biết đến Mặc thuật và tôn thờ Pháp môn nên có ý định truyền lại kỹ thuật này.

      tới đó, Quảng Thế chỉ tay vào Đường Dần và Từ Kinh, cười lớn:

      - Ta cảm nhận thấy hai người rất thích hợp. Cà hai cùng vướng mắc chuyện công danh thi cử, sau này khó có thể phát triển nghiệp chí hướng, chi bằng hãy học kỹ thuật của Mặc môn, ta khẳng định sau này hai người thực xuất chúng.

      Lúc chứng kiến tài nghệ của vị thiền sư này, Đường Dần và Từ Kinh đều cảm thấy hết sức thần kỳ, nên khi nghe câu đó, cả hai lập tức đồng ý, định quỳ gối dập đầu bái kiến sư phụ.

      Quảng Thế liền cầm tay hai người ngăn lại, khẽ :

      - Hãy khoan, vẫn còn điều quan trọng ta cần với hai vị, nếu trả lời được, ta mới truyền dạy cho.

      rồi, nhà sư lôi từ dưới gầm giường chiếc hộp cổ gỗ đỏ, sau khi mở ra, bên trong đựng hai quyển sách mỏng màu xanh, khi ghép lại với nhau, trang bìa lên bốn chữ Mặc Văn Đường tập.

      Quảng Thế mỗi tay cầm cuốn, lần lượt đưa cho Đường Dần và Từ Kinh, rồi dặn dò:

      - Đây là hai cuốn sách bí truyền của Mặc môn, chia thành hai tập thượng và hạ, lưu truyền qua các thế hệ, người luyện cuốn thượng thể luyện cuốn hạ. Hai người phải luôn nhớ rằng, được tự tiện truyền cho người ngoài, càng được rèn luyện qua quít, điều đó gây ra thảm họa vô cùng nghiêm trọng.

      Từ Kinh cầm lấy cuốn sách, nhanh chóng lật giở, các trang giấy rất mỏng, bên là những dòng chữ loằng ngoằng chi chít, xen kẽ là những hình vẽ rất kỳ lạ, đọc qua thấy nội dung hết sức uyên thâm, biết diễn tả thế nào. Từ Kinh liền tò mò, hỏi:

      - Ân sư, mạn phép được hỏi ngài học quyển nào?

      Quảng Thế lắc đầu trả lời, chỉ rằng:

      - Sau này luyện tập, tự nhiên hiểu được diệu pháp của nó.

      Hiểu rằng như vậy là Quảng Thế quyết định truyền lại bí quyến cho mình, nên cả hai cùng chắp tay vái lạy, rồi nhét quyển sách vào trong ngực áo.

      Quảng Thế lấy ra mũi kim , bảo hai người giơ ngón cái bàn tay trái ra, chấm vào mực đỏ rồi nhàng châm vào móng tay từng người. Xăm lên ngón tay Đường Dần chữ “Lục”, khắc lên ngón tay Từ Kinh chữ “Tây”. Sau khi rút mũi kim, nét chữ màu đỏ tươi lên, nhưng ngay sau đó lặn mất.

      Thấy hai người hết sức ngỡ ngàng, Quảng Thế vuốt râu mỉm cười, rằng tính cho đến nay, thế giới tồn tại bốn kỳ môn lớn là: Kiên môn, Lạc môn, Cách môn và Mặc môn. Mỗi môn phái đều có tuyệt kỹ riêng. Hai chữ “Lục Tây” tượng trưng cho cấp Cao Giới trong phái Mặc môn, tương đương với cấp Thiên Cảnh của Kiện môn, Liên Ý trong Lạc môn và Thông Thế trong Cách môn. Khi kết hợp lại hai người trở thành Mặc môn Lục Tây, coi như chúng ta có duyên, vừa xong ta dùng thuật Nội Văn Khắc Pháp để khắc hai chữ “Lục Tây” lên cơ thể hai người, điều đó đồng nghĩa với việc chính thức trở thành đệ tử kế thừa của Mặc môn phái. Sau ngày hôm nay, có thể nhận ra vi diệu của môn phái hay , còn phải dựa vào khả năng và tư chất của mỗi người.

      Tiếp theo, sư Quảng Thế dặn dò kỹ hai người những điều cần chú ý trong quá trình tu luyện, sau đó ngồi khoanh chân ngồi thiền giường, vừa nhàng vuốt râu vừa gật đầu chậm rãi, khuôn mặt lộ vẻ hài lòng, miệng khẽ lẩm nhẩm:

      - Họa long họa hổ nan họa cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm.

      Cuối cùng, giọng của thiền sư dần rồi dừng hẳn, ông khẽ cúi đầu xuống, ngồi bất động, từ từ chìm vào cõi vĩnh hằng.

      Sau khi lo xong hậu của thiền sư, Đường Dần và Từ Kinh rời khỏi tháp viện Lục Hòa. Lúc đó, Đường Bá Hổ ngầm đoán ra ý nghĩa của chữ “Lục” nằm dưới móng tay mình là tên gọi của ngọn tháp Lục Hòa. Nhưng Từ Kinh vẫn hết sức băn khoăn, thể đoán ra thiền sư lại khắc cho mình chữ “Tây”, lẽ nào nó là chữ “Tây” trong Hồ Tây[1] ?

      [1] thắng cảnh hết sức nổi tiếng của vùng Tô Châu - Hàng Châu.

      Vài năm sau đó, Đường Dần và Từ Kinh tiếp tục cùng nhau khám phá những vùng đất mới, trong suốt chuyến hành trình, hai người quên nghiên cứu cuốn sách Mặc Môn Đường tập của mình. Có thể do năng lực và tư cách của hai người có khác biệt nên Đường Bá Hổ nhanh chóng nắm vững kỹ thuật cao siêu của xăm thân khắc hình, còn Từ Kinh vẫn thể nào hiểu được nó, nên quyết định truyền lại cho đời sau.

      Do cùng là người kế thừa Mặc môn và là hai người bạn tri kỷ, nên trước khi cáo biệt, Đường Dần và Từ Kinh cùng hẹn ước gả con cho nhau để trở thành thông gia; con cái đời sau đều khắc hai chữ “Lục Tây” lên móng tay để luôn nhớ về mối thâm giao này và quên dặn dò hậu bối tìm hiểu và nghiên cứu bí mật kỳ diệu trong hai tập sách Mặc Môn Đường tập.

      Sau khi Đường Dần quay trở về Tô Châu, cả ngày đóng cửa tiếp khách để toàn tâm toàn ý nghiên cứu và tu luyện kỹ thuật xăm thân khắc hình, nên càng ngày kỹ thuật của ông càng trở nên cao siêu. Nhưng vì bản thân biết duy trì cuộc sống nên hoàn cảnh gia đình ngày càng suy tàn, cuối cùng để kiếm sống, ông chỉ còn biết dựa vào việc bán tranh vẽ chữ.

      Vào năm Chính Đức thứ chín, Ninh Vương vùng Giang Tây cử người tới Tô Châu để tìm kiếm người hiền tài. Lúc bấy giờ Đường Dần bốn mươi lăm tuổi, tuy có tuổi nhưng trong lòng vẫn ôm mộng tham gia triều chính, nên được Ninh Vương chiêu ngộ và tới Nam Xương.

      thời gian sau, Đường Dần phát ra Ninh Vương ngừng chiêu quân, tìm kiếm người tài khắp nơi để thực ý đồ tạo phản. Tuy biết rằng điều này ảnh hưởng đến bản thân nhưng ông lại dám từ quan lúc này. Sau nhiều đêm trằn trọc, ông nghĩ ra kế giả ốm, thậm chí còn giả điên và thường xuyên gây gổ. Ninh Vương nghĩ rằng ông bị điên , nên thả ông về Tô Châu.

      Năm năm sau, quả nhiên Ninh Vương dấy quân nổi loạn, nhưng bị Vương Thủ Nhân nhanh chóng dẹp loạn. Đường Dần tuy bỏ về quê ở , nhưng cũng tránh nổi những rắc rôi về sau. Ông bị điều tra và tống vào ngục, nhưng may mắn là được Vương Thủ Nhân giải oan thả ra. Lúc bấy giờ, Đường Dần nhớ lại những lời mà ân sư Quảng Thế từng dặn dò mà lúc đó ông vẫn chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó, ông cải tín và hoàn toàn tín Phật. Hàng ngày, ngoài những lúc ngồi thiền, ông lại dùng mũi kim cào cào lên móng tay để chữ “Lạc” màu đỏ ra, rồi lại ngồi trầm mặc suy tư. thời gian sau đó, Đường Dần đổi tự hiệu thành Lục Như cư sĩ.

      Mấy năm sau, Đường Dần thấy con là Đào Sanh lớn, nhớ đến lời hẹn ước năm xưa với Từ Kinh, bèn mình đến Giang m, tìm đến Từ gia để bàn chuyện cưới xin. ngờ, Từ Kinh trước đó nghe tin Đường Bá Hổ bị điên, bặt vô tín, nên để cho hai cậu con trai lấy con nhà khác.

      Trước tình huống dở khóc dở cười đó, Đường Bá Hổ cười nhạt mấy tiếng, ngửa mặt lên trời mà than:

      - Mặc môn Lục Tây, sinh sinh thế thế, nan dĩ tham ngộ thấu. (Mặc môn Lục Tây, đời đời kiếp kiếp, khó lòng thấu hiểu nhau).

      đoạn, ông ta quay ngoắt người, loạng choạng bước , vừa vừa khóc.

      Nhìn bạn cũ khóc lóc bỏ , Từ Kinh vô cùng ái ngại, mấy lần giơ tay định gọi nhưng rồi lại thôi, mọi sai lầm gây ra có cách gì cứu vãn được nữa đây.

      Đêm hôm đó, Đường Bá Hổ kể lại từng câu chuyện cũ cho con Đào Sanh nghe. Đào Sanh ngồi nghe mà thần hồn phiêu đãng, cứ ngây người nhìn cha, dám tin những điều đó là .

      Kể đến đoạn cuối cùng, Đường Bá Hổ nước mắt giàn giụa, xót xa vô tận. Mãi lâu sau, ông mới lau khô nước mắt, từ từ gập bọc vải hoàng cẩm lại, thắt chặt sợi dây lụa đỏ, vỗ lên tay con , :

      - Cuốn sách này tuy làm nên nghiệp của cha, những mãi đến hôm nay, cha vẫn chẳng thể khám phá hết được hàm ý của hai chữ “Lục Tây”. Bây giờ con và con trai của Từ Kinh mỗi người đều có nơi có chốn riêng, có lẽ sau này có ai có thể biết được.

      Ngừng lát, mặt ông nỗi đau khổ tột cùng:

      - Từ Kinh vì khoa khảo mà cả đời nhầm tưởng ta ham công danh, nhưng cũng nhờ ông ta mà cha hiểu được cảnh giới khác vĩ đại hơn, như vậy cũng có gì là thiệt thòi. Lời thề của cha với ông ta năm đó vẫn có hiệu lực. Sau này móng tay con trưởng của con nhất định phải khắc hai chữ “Lục Tây”. Có như vậy cha mới yên lòng nhắm mắt.

      Đào Sanh nước mắt giàn giụa, vội quỳ xuống đất:

      - Sao cha lại thế? Sao cha lại thế?

      Đường Bá Hổ để con khóc lặng lúc, sau đó nhàng nhấc chiếc bọc hoàng cẩm lên, đặt vào tay Đào Sanh, :

      - Con làm được những điều này, con hiếu thảo như vậy khiến ta cảm thấy mãn nguyện lắm rồi.

      Đào Sanh lặng lẽ lắng nghe, nước mắt rơi lã chã xuống ướt cả bọc vải, hai tay run run đón lấy và mở ra, bên trong là cuốn sách mỏng bìa xanh rách nát, bìa viết bốn chữ Khải màu trắng Mặc Văn Đường tập. Mở sách ra, trang đâu tiên viết “ phải người thừa kế của Đường môn, được tự tiện mở ra”. Nét chữ rồng bay phượng múa, quả đúng là nét chữ của cha, Đào Sanh nghẹn ngào:

      - Những lời cha căn dặn, con xin khắc ghi. Nhưng có chuyện con hiểu, con làm dâu nhà khác, chữ “Lục” vốn là y bát kế truyền, nhưng tại sao lại phải khắc thêm chữ “Tây”?

      Đường Bá Hổ thở dài thườn thượt, đứng dậy đấn bên cửa sổ, ngẩng đầu ngắm vầng trăng cao, ánh trăng phủ lên người ông lớp ánh sáng trắng bạc. Rất lâu sau, Đường Bá Hổ vẫn quay đầu lại, chỉ buồn bã :

      - “Khắc lên , “Lục Tây” thể bị thất truyền dưới tay ta, coi như là ta giữ trọn lời hứa với ân sư Quảng Thế”.

      Sau đó, Đường Bá Hổ còn giảng giải tỉ mỉ cho Đào Sanh về mấu chốt cần chú ý trong khi tu luyện. Mãi đến khi trời tang tảng sáng, hai cha con mới nghỉ.

      Sáng hôm sau, Đào Hoa Ổ[2] kén trống rộn ràng, khách khứa đông nghịt, Đào Sanh mắt ngấn lệ tạm biệt cha, bước lên kiệu hoa về nhà Vương gia. Chưa đến nửa năm sau, Đường Bá Hổ bệnh cũ tái phát, chạy chữa kịp đột ngột ra , kết thúc đời truyền kỳ tông sư Mặc môn.

      [2] Từ khi về ở , Đường Bá Hổ đặt tên nơi ở mình là Đào Hoa Ổ để tỏ chí lánh xa bụi trần.

      Đào Sanh sau khi kết hôn vẫn luôn nhớ đến lời dặn của cha, thầm tu luyện Mặc Văn Đường tập trong khuê phòng, trong vòng mấy năm, trở thành nữ thủ xăm hình nổi tiếng với tuyệt kỹ cao siêu. khắc ghi lời cha dặn, những truyền tuyệt kỹ cho con cháu đời sau, mà còn cho chúng mang họ Đường, trong móng tay đều khắc hai chữ “Lục Tây”.

      Cuối đời nhà Minh, chiến tranh loạn lạc, dân chúng đường kiếm ăn, Đào Sanh đưa cả gia đình dời đến Thịnh Kinh, cũng chính là thành phố Thẩm Dương ngày nay, sau đó cứ phát triển thêm, cuối cùng hình thành Bắc hệ Mặc môn. Trong đó Đường Vũ Lâm đời vua Hàm Phong nhà Thanh nổi tiếng nhất, ông được người đời mệnh danh là Đường Nhất Châm, nghe từng khắc hoa văn rồng chiếc ly cao chân do trấn Cảnh Đức làm để mừng thọ Từ Hy thái hậu, được coi là tuyệt phẩm khắc hình. Đến nay, tuy con cháu Đường gia nhiều, chỉ do mình Đường Nhã Kỳ đứng ra gánh vác nhưng cũng đủ nổi tiếng khắp xa gần. Chuyện họ là hậu duệ của Đường Bá Hổ e rằng nhiều người biết đến.

      Còn về nhánh Từ Kinh vẫn ở phía Nam, có thể hồi đó do Từ Kinh tu tập thành pháp, thế hệ sau xuất nhiều người tài, họ tộc đều cảm thấy vô cùng tiếc nuối. Đến thời Vạn Lịch nhà Minh, con trưởng của Từ gia là Từ Hữu Miễn tư chất thông minh, nắm được số kỹ thuật khắc thân xăm hình, nhưng cũng thể tiếp tục phát triển thêm, đành gửi gắm hi vọng vào người con trai, đặt tên cho con là Hồng Tổ, tự Trấn Chi, để thể tâm ý của mình.

      Từ Hồng Tổ từ được cha dạy dỗ, sớm có mơ ước chấn hưng Nam hệ Mặc môn, từ năm 22 tuổi đến khi mất năm 56 tuổi chu du khắp nơi, và nghiền ngẫm cuốn Mặc Văn Đường tập gia truyền. Trời phụ người có tâm, cuối cùng Từ Hồng Tổ cũng lĩnh ngộ ra, trở thành thợ xăm thân khắc hình nổi tiếng sánh ngang với Đường gia, đổi tự hiệu thành Hà Khách. Ông chính là nhà địa lý, nhà lữ hành, nhà thám hiểm vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc - Tử Hà Khách.

      Vào cái ngày lịch sử đó, trong tầng tháp tối đen như mực, ông lần đầu tiên trong đời để thua người khác, và người thắng thế ngày hôm đó lại chính là chưa đầy hai mươi tuổi.

      Nghe Tiểu Đường kể lại những câu chuyện lịch sử, tôi và Lão Mục cứ ngây người ra nhìn bé, trong lòng vô cùng kinh hãi, thể tưởng tượng được lịch sử của Mặc môn lại bí như thế. Nhất là, chỉ có Đường Bá Hổ, ngay cả Tử Hà Khách cũng đều là truyền nhân của Mặc môn.

      Đột nhiên Lão Mục kêu lên:

      - đúng!

      Lão Mục ta từng tham quan tháp Lục Hòa, trong đó sáu tầng tháp chẵn đóng kín, còn bảy tầng tháp lẻ lần lượt thông với cầu thang hình xoắn ốc trong lòng tháp. Từ tầng trệt xoắn dần lên đến đỉnh, cả tòa tháp chia thành hình bảy sáng sáu tối.

      Thế nhưng theo lời kể của Tiểu Đường, năm đó thiền sư Quảng Thế dẫn Đường Bá Hổ và Từ Kinh xuống tháp viện cũng từng dừng lại ở những tầng tháp chẵn, điều này phù hợp với tình hình tại.

      Tôi bỗng nhiên nhớ lại, năm đó tôi và La Viễn Chinh hưởng tuần trăng mật ở Tô Hàng, cũng từng đặt chân lên tháp Lục Hòa, tôi nhớ rất , các tầng chẵn của tháp Lục Hòa đóng kín. Nhân viên hướng dẫn hình như có giới thiệu sáu tầng tháp này đóng cửa vào thời nhà Thanh để xây dựng tu sửa gì đó, nhưng nội tình cụ thể thế nào, do năm đó chỉ mải tham quan nên cũng nhớ .

      Tôi và Lão Mục nghi hoặc nhìn Tiểu Đường, chờ đợi bé đưa ra lời giải thích. Tiểu Đường khẽ lắc đầu, :

      - Em cũng biết!

      Nghe Tiểu Đường vậy, Lão Mục trầm ngâm , cứ thế vuốt râu như thể chú tâm suy nghĩ điều gì đó. Tôi khẽ thở dài, nếu vẫn là kết cấu trong sáu ngoài tám tòa tháp Lục Hòa đúng là có vấn đề, đợi khi chúng tôi ra khỏi đây, nhất định phải tham Quan Âmột chuyến cho ngọn ngành.

      (Tháp Lục Hòa đóng kín là do có chuyện xảy ra dưới thời vua Quang Tự, có liên quan đến Từ Hy và cũng có chút dính líu đến trưởng bối của Sở Khinh Lan. Người phụ trách trùng tu ngọn tháp là Hữu thị lang Bộ binh Chu Trí, người này cũng là nhân vật quan trọng, ông ta tự bỏ tiền dựng lại tháp Lục Hòa, sau nhiều năm xây dựng, cuối cùng ông ta đột nhiên quyết định đóng cửa sáu tầng tháp chẵn).

      Tôi chợt nghĩ đến chuyện, quay đầu lại nhìn Tiểu Đường, hỏi:

      - Thiền sư Quảng Thế có nhắc đến tứ đại kỳ môn, trong đó Kiện môn là mở khóa, Mặc môn là xăm hình chị biết rồi, thế còn Lạc môn và Cách môn là gì?

      Tiểu Đường nghĩ lúc, rồi nhăn nhó trả lời:

      - Kiện môn hồi còn em được nghe đến, nhưng chỉ khi quen biết chị Lan Lan, em mới tận mắt thấy truyền nhân thực thụ. Còn hai kỳ môn còn lại là gì em cũng biết. Thế nhưng em đoán kỹ thuật của họ cũng hề thua kém em và chị Lan Lan, nếu sao có thể được liệt vào tứ đại kỳ môn chứ?

      Tôi gật đầu, trong lòng cảm xúc dâng trào, văn hóa nghệ thuật của Trung Quốc quả là phức tạp, thần kỳ; những gì Tiểu Đường kể mới chỉ là góc . Lại nghĩ đến hai môn phái thuộc cảnh giới cao siêu là Lạc môn Liên Ý, Cách môn Thông Thế, tôi thực biết chúng có gì khác biệt hay liên hẹ gì với Kiện môn Thiên Cảnh và Mặc môn Lục Tây?

      Câu chuyện của Tiểu Đường kéo dài tới ba tiếng đồng hồ, kể đến đoạn cuối, bé có vẻ thấm mệt, lấy tay che miệng, ngáp liền mấy cái, hai con mắt sắp chống lên nổi. thấy vậy, Lão Mục vỗ vai hai chúng tôi, :

      - Được rồi, thân thế của Tiểu Đường mọi người đều biết, mau ngủ thôi. Phải giữ cho tinh thần tỉnh táo để còn tiếp tục xuống sâu phía dưới nữa chứ.

      Tôi cởi áo khoác ngoài đắp cho Tiểu Đường lúc này ngủ say, nhàng nằm xuống bên cạnh bé. Mặc dù tôi cũng vô cùng mệt mỏi nhưng vẫn tài nào chợp mắt được, đầu óc cứ chìm vào trong những câu chuyện của Tiểu Đường mà sao thoát ra khỏi.

      Tôi gối đầu lên hai tay, nhìn chăm chăm vào bóng tối đỉnh đầu, suy nghĩ mông lung. Tiểu Đường tuy giải thích rất kỹ, nhưng điều đó lại khiến tôi càng thấy khó hiểu hơn. Tại sao lại hoàn toàn khác với những gì tôi biết và được học; lại còn mảnh da người của cậu và hai tấm Long Bản nữa chứ, dường như mọi bí mật đều chứa trong thế giới khác.

      Nghĩ mãi nghĩ mãi, tôi dần chìm vào giấc ngủ. Trong mơ, tôi nhìn thấy rất nhiều người, bọn họ lần lượt đến trước mặt tôi, nam có nữ có, già có trẻ có, tôi chẳng quen biết ai, những khuôn mặt lạ hoắc, những khuôn miệng mấp máy như muốn gì đó, nhưng tôi lại nghe thấy bất cứ điều gì. Có lẽ đó chính là những nhân vật trong tiềm thức của tôi, là Quảng Thế, Đường Bá Hổ, Từ Kinh, Đào Sanh và Tử Hà Khách.

    4. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 16: Xác chết nơi hốc tường

      Xác chết long ra được chút rồi sao kéo tiếp được nữa. Tôi cúi đầu nhìn xuống rồi đột ngột hét toáng lên. đạo của xác chết được nối với đường ống trông khá giống sợi dây thừng, to bằng khoảng hai ngón tay, màu lòng đỏ trứng, đầu còn lại xuyên vào ống thông trong hố. Tôi giật mạnh, thấy trơn ướt như được bôi dầu nhờn.

      Tôi cứ thế ngủ mạch hơn mười tiếng đồng hồ, nếu Lão Mục lay dậy có lẽ tôi vẫn còn ngủ tiếp.

      Sau khi tỉnh dậy, chúng tôi đều thấy tinh thần sảng khoái, người ngợm cũng khỏe khoắn hơn hẳn, chỉ có điều bụng đói cồn cào. Lôi chỗ bánh quy bẹp dúm ra, chúng tôi ăn ngấu ăn nghiến, cảm giác như đó là món ngon nhất đời.

      Bổ sung năng lượng xong, chúng tôi đến cột trụ Sinh Tức Mộc, dán mắt nhìn vào sáu lỗ kim xíu, mỗi người cầm hai cây kim, chuẩn bị mở cỗ máy xoay trục.

      Lão Mục dặn dặn lại, bất luận đường nào trong số lục đạo mở ra, thời gian đóng cửa cũng rất ngắn, dây thừng bây giờ dùng hết, nên ta xuống trước, chúng tôi bám sát theo, tránh trường hợp lục đạo đóng lại, mọi người lại thất lạc nhau lần nữa.

      Tôi và Tiểu Đường gật đầu đồng ý, mỗi người cầm hai cây kim từ từ đâm vào thân cây Sinh Tức Mộc.

      cơn chấn động lớn xuất , sáu hình tròn thái cực trong vách tháp từ từ xoay chuyển, chúng tôi vội chạy đến. Lão Mục chọn đường vào, tôi chống hai tay hai chân vào vách trong rồi nhảy xuống theo. Lão Mục ôm chặt lấy tôi, lăn mấy vòng mặt đất để giảm bớt lực rơi. Sau đó chúng tôi lại đứng dậy hợp sức đỡ Tiểu Đường rồi dựa lưng vào nhau bật đèn pin rọi xung quanh.

      Tầng tháp này khác gì những tầng phía , sáu mặt tháp đối nhau từng đôi , phía lại là hình ảnh của ba loại sinh vật kỳ quái mà tôi nhìn thấy trước đó, hóa ra chúng tôi rơi trúng vào Súc Sinh Đạo.

      Chưa để tôi kịp , Tiểu Đường đột nhiên khẽ kêu lên tiếng, rồi bước nhanh qua, tỉ mỉ quan sát bức bích họa đầu tiên. Xem xong, Tiểu Đường buột miệng:

      - Ái chà, đây là Lục Lân, Lục Vũ, Lục Mao trong Ngũ trùng đây mà.

      Năm đó Đường Bá Hổ Và Từ Kinh mặc dù mỗi người tu tập cuốn thượng và hạ của bộ Mặc Văn Đường tập, nhưng cũng tráo đổi nhau để đọc, mở đầu hai cuốn sách đều viết câu: “Thiên địa thần quỷ nhân, lõa lân mao côn vũ, ngũ tiên ngũ trùng giai vi châu thiên chi vật. Mặc môn bính phân văn thân khắc hình, nhiên tắc vô sở bất bao, vô sở bất dung. Giả dĩ thời nhật, cùng lực kiệt năng, tắc tiến Lục Tây hóa cảnh”. Đại ý muốn , mọi vật hữu hình hữu thể thế giới này đều có thể thực thuật xăm thân khắc hình lên đó, cố gắng tu tập đến cùng đạt đến cảnh giới cao nhất là Lục Tây.

      Về câu “Lõa lân mao côn vũ, ngũ tiên ngũ trùng” mà sách nhắc đến, trong đó vũ trùng để chỉ loài cầm như gà, vịt…; mao trùng để chỉ loài thú như hổ, báo…; côn trùng để chỉ loài giáp xác và loài thủy tộc như ốc biển, cua, rùa…; lân trùng để chỉ loài cá và những động vật có vẩy khác như thằn lằn, rắn…, thậm chí còn bao gồm cả loài côn trùng cánh cứng; lõa trùng hay còn gọi là khảo trùng, tức là những sinh vật có lông bao phủ, để chỉ con người và ếch, giun… Những loài gọi chung là Ngũ trùng, là nhận thức đầu tiên của con người thời xưa về sinh vật xung quanh mình. Còn Ngũ tiên chính là trời, đất, thần, người và quỷ.

      Ba loại “lân, vũ, mao” thuộc Ngũ trùng lại được thể trong Súc Sinh Đạo của sáu đường luân hồi. Lục Lân, Lục Vũ, Lục Mao được tôn trọng hơn cả; nghe đó là ba linh vật mang mình đặc trưng của sáu loài khác nhau nên được gọi là “tam giới lục bất tượng” (ba loài sáu dạng).

      Tôi nghe xong thấy ngỡ ngàng vô cùng, là chưa từng nghe thấy những thứ này bao giờ, hai là thấy Tiểu Đường tuổi trẻ mà sao biết nhiều kiến thức cổ xưa kỳ quái như thế.

      Tiểu Đường mỉm cười, vui vẻ trả lời:

      - Những thứ này đều được ghi trong bài nhận biết sinh vật của Mặc Văn Đường tập, em chỉ đọc lại từ trong sách ra, có gì ghê gớm đâu.

      Tôi khẽ gật đầu, nhìn cái gọi là “tam giới lục bất tượng”, trong lòng rối bời, cứ như mình bất ngờ vượt thời gian và gian, trở về thuở hồng hoang với những sinh vật chỉ có trong truyền thuyết này hôm nay tôi nhìn thấy.

      Mất lúc lâu, chúng tôi ai với ai câu gì, cứ đứng lặng người trong bóng tối, hơi thở dần gấp gáp hơn, có vẻ như ai cũng bất ngờ trước những gì nhìn thấy trước mắt.

      Mãi sau, Tiểu Đường mới lấy ra cây kim khắc hoa văn, bước nhanh đến phía trước, nhàng gỡ vẩy của con quái ngư khổng lổ ra. Những mảnh vẩy hình bầu dục lần lượt được cậy ra, loạt xoạt, loạt xoạt, thanh sắc bén đến chói tai. Đến chỗ mắt cá trơn tròn màu đen bóng, Tiểu Đường mạnh tay hơn. “Sựt!” Mũi kim đâm nhát vào trong, từ vết châm lập tức rỉ ra thứ dịch lỏng dính dính màu xanh cốm, từ từ chảy xuống vách tường, mùi cá tanh nồng bỗng chốc bốc ra khắp nơi.

      Tôi hít hít mấy hơi, mùi tanh tưởi đó khiến tôi cảm thấy như thể bước vào chợ hải sản, chẳng lẽ là cá sống sao? Tôi lắc mạnh đầu, đúng là hoang đường. Nhưng mùi tanh đó phải giải thích thế nào đây?

      Lão Mục đưa tay ra chấm vào chất dịch, vê vê lúc rồi đưa lên mũi ngửi, mắt bỗng trợn tròn quay đầu nhìn Tiểu Đường đầy nghi hoặc.

      Tiểu Đường lạnh lùng, lắc đầu :

      - Để em xem lại xem sao.

      bé từ từ di chuyển đến chỗ con vật được gọi là quái điểu trong Lục Vũ trùng, đưa tay chạm , lớp lông bỗng phồng lên, rung nhè . Tiểu Đường lấy mũi kim cắm vào mỏ chim, ấn mạnh, bỗng nghe “cạch” tiếng, mỏ chim há ra, cái lưỡi hồng hồng nhơm nhớp từ từ thòi ra, mặt lưỡi loang loáng vết nước. bé tiếp tục dùng cây kim cắm vào thân con quái thú Lục Mao, khi rút kim ra, đầu kim dính ít máu đỏ, chỗ vết châm cũng rỉ ra chút dịch đỏ, càng nhìn càng thấy giống máu.

      Tôi thấy cổ mình cứng đờ, sợ hãi đến đờ cả người. Lẽ nào ba loại quái thú này đúng là có tồn tại đời, sau khi chết mới bị xăm dính lên vách tường như vậy. Thế nhưng bao nhiêu năm trôi qua, tại sao dịch lỏng khô, màu máu vẫn tươi, chẳng lẽ chúng còn sống? Lẽ nào “bọn họ” mà cậu nhắc đến phải chỉ con người, mà chính là chúng?

      Nghĩ vậy, tôi bất giác lùi lại mấy bước, quan sát kĩ những con quái thú đó, người lạnh toát, bên tai văng vẳng những thanh lạ giống như tiếng kêu của các loài chim loài thú lạ, từ từ vọng lại trong tầng tháp trống rỗng.

      Những gì trước mắt quá khó lý giải, tôi chỉ còn biết cầu cứu Tiểu Đường:

      - Tiểu Đường, chuyện này rốt cuộc là thế nào, chị thấy ba con vật này có lông có thịt, chỉ thiếu điều động đậy được thôi, em có chắc chúng đều phải là sinh vật sống ?

      Tiểu Đường chau mày, quay người đến trước cây cột trụ Sinh Tức Mộc, vuốt , rồi nheo mắt nhìn lên đỉnh tháp, suy nghĩ lúc rồi đầy dứt khoát:

      - Chắc chắn phải sinh vật sống, nếu em đoán nhầm, có lẽ chúng được nuôi nhờ khả năng dưỡng sinh của cây Sinh Tức Mộc này.

      Hóa ra, cây Sinh Tức Mộc được chia thành sáu cành sáu nhánh, gắn chặt với trần tháp; sau khi cành lá mọc dài ra lại rủ xuống sáu mặt, lan kín trong vách tháp, cung cấp dinh dưỡng cho ba sinh vật kỳ lạ đó, giữ cho chúng nhiều năm bị thối rữa.

      Lý giải này nghe qua có vẻ hợp lý, nhưng tôi vẫn hoàn toàn tin như vậy, nhất là vì ba sinh vật đó quá giống . Chúng có đầy đủ lông lá máu thịt, mềm mại như động vật sống, tại sao lại chưa từng tồn tại?

      Tiểu Đường đưa tay nhổ sợi lông đuôi màu đỏ xen trắng mình Lục Vũ trùng, vo trong lòng bàn tay, :

      - “Lõa lân mao côn vũ”, chính là Lục Lõa, Lục Lân, Lục Mao, Lục Côn, Lục Vũ, sáu loại này gọi chung là Tôn trùng. Nhưng dù sao cũng chỉ là truyền thuyết, chưa hề có người tận mắt nhìn thấy, em cũng chẳng thể hiểu nổi.

      đoạn, Tiểu Đường bước đến trước Lục Mao trùng, lấy ngón tay nhổ nhúm lông màu đen, cúi xuống quan sát tỉ mỉ, mắt chớp, tập trung cao độ. Mãi lâu sau, bé bỗng :

      - Có lẽ chúng được tạo ra bởi kỹ thuật ghép da.

      Nghệ thuật xăm hình chỉ việc dùng kim xăm hình lên cơ thể người hoặc sinh vật sống, trong đó lớp da chính là vật liệu quan trọng để khắc họa nội dung, vì thế kỹ thuật này lại được chia thành thuật Cắt da và thuật Ghép da. Cắt da là kỹ thuật lóc ra miếng da rồi dùng kim xăm lên bề mặt. Ghép da thường dùng để xăm những hình lớn, ban đầu ghép những mảnh da lại qua việc sử dụng các kỹ thuật đặc biệt là xung, ép, điểm, hoạch, bát để tạo thành mảnh lớn. Những thợ xăm giỏi có thể khiến các miếng ghép để lộ mối nối, rồi dùng hình xăm và màu mực để che , trông như tổng thể hoàn chỉnh. Con Lục Mao trùng trước mắt, thân xác và các chi đều có khe , ràng là được ghép thành.

      Tôi nghe mà rùng mình, đây chính là kỹ thuật cấy ghép trong y học đại đây mà, người cổ đại sao có thể nắm bắt kỹ thuật này chứ? Lại nghĩ đến hình mặt người sau lưng cậu, hôm đó ông Từ ràng nhìn thấy, nhưng cậu lại sống chết thừa nhận, mảnh da cũng mất tích cách bí , có phải đây chính là kết quả của kỹ thuật ghép da hay ?

      Nghe tôi hỏi vậy, Tiểu Đường khẽ lắc đầu:

      - Chị Tiêu Vi, chị còn nhớ Cửu Khiếu Đường của Tống Nguyệt Uyên ? Trong Mặc môn những có Cửu cấm mà còn có Hoạt cấm. Thuật Ghép da chỉ có thể thực cơ thể chết, bao giờ được làm vật sống, điều này là đại bất kính, bị trời tru đất diệt đấy. Còn nữa, sau khi thực thuật Ghép da, các cơ thịt, mạch máu và xương cốt đều khó về đúng vị trí, nên thuật này chỉ đơn thuần là ghép những mảnh thành mảnh lớn mà thôi. Về mảnh da của cậu chị, em vẫn lý giải được, đợi khi chúng ta ra ngoài em xem tận mắt rồi kết luận sau.

      đợi tôi đồng ý. Lão Mục liền chỉ lên vách tường, tiếp:

      - Hay là chúng ta cậy mấy con này ra, xem xem bên trong rốt cuộc là cái gì.

      Tiểu Đường chợt kêu “a” lên tiếng, lắc đầu quầy quậy, xua tay lia lịa, vội vàng ngăn cản:

      - được! được! Tôn trùng thánh linh, được xúc phạm. Nếu được nhuận dưỡng từ cành lá cây Sinh Tức Mộc, chúng bị thối rữa ngay, tuyệt đối được gỡ lấy ra.

      xong, Tiểu Đường lấy tay vuốt vuốt mái tóc, chỉnh lại quần áo, quỳ trước ba con Tôn trùng vừa bị động đến, miệng lẩm nhẩm:

      - Mặc môn Đường tông Nhã Kỳ thất lễ.

      bé cúi người dập đầu, miệng vẫn ngừng lẩm bẩm trông hết sức cung kính. Những lời từ tâm của Tiểu Đường mỗi lúc mỗi , dần dần nghe nữa nhưng thần thái vẫn vô cùng thành khẩn.

      Thấy thái độ của Tiểu Đường giống như tín đồ trung thành, lại nghĩ những con Tôn trùng đó quá mức kỳ quái, tôi và Lão Mục chẳng biết gì, cũng chắp tay vái lạy. Lúc đó trong bụng thầm nghĩ, dập đầu trước những con thú nhân tạo này cũng khá thú vị.

      Sau khi bàn bạc, chúng tôi đều cho rằng tầng thứ năm cũng tương tự như vậy, liền quyết định xuống tiếp. Do nắm kết cấu cơ bản của tầng tháp dưới lòng đất, nên lần này chúng tôi chọn bừa lấy Thái cực đồ để mở ra.

      Vừa chạm đất, chúng tôi vội bật đèn pin, quan sát mọi thứ xung quanh. Quả nhiên là cấu tạo giống với tầng và tầng ba, xem ra tầng năm này lại là xuất phát điểm mới của Lục đạo.

      Giống những lần trước, chúng tôi lấy kim ra châm lên thân cây Sinh Tức Mộc, lần lượt mở sáu đường Thái cực. Tiểu Đường bước đến trước lối , :

      - Nhân tẩu Nhân Đạo! Chúng ta theo đường cũ, xuống từ đây nhé!

      Vừa chui người vào đường ống, tôi liền cảm giác có gì đó ổn. Bên trong là luồng khí lành lạnh màu xám, ngửi có mùi, vừa giống hơi nước của suối nước nóng, lại giống sương mù dày đặc. Tóc tai, quần áo ngay lập tức xuất những giọt nước tí tách chảy xuống.

      mải suy nghĩ, bỗng “phụt!” tiếng, cuộn khói xám phụt thẳng vào mặt. kịp tránh, tôi giơ tay lên vuốt vuốt mặt, toàn là những hạt bụi xíu.

      Mọi người đều bất ngờ trước tượng này, Lão Mục nghĩ lát bèn :

      - Tầng nước lưu trữ dưới lòng đất thường có độ sâu khoảng ki-lô-mét so với mặt đất, lượng nước lưu trữ lớn hơn rất nhiều so với tổng lượng nước của các sông ngòi hồ ao bề mặt, nay lượng nước lưu trữ thăm dò được gấp trăm lần so với lượng nước bề mặt. số tầng nước thậm chí còn chứa loại nước “hóa thạch” bị phong tỏa mấy triệu năm rồi.

      Mặc dù lời giải thích của Lão Mục rất hợp tình hợp lý, tôi vẫn có chút băn khoăn, ẩm ướt có thể lý giải được, dù sao cũng ở dưới lòng đất cả nghìn mét, nhưng cuộn khói xám kỳ lạ vừa nãy ràng được phụt ra, là khó hiểu.

      Sau khi chui xuống mặt đất, khắp nơi đều là màn sương dày đặc màu xám như thế, chúng quấn chặt lấy chúng tôi, cứ như thể trong bồn tắm lớn. mùi lạ lạ kích thích mạnh niêm mạc mũi, vừa hít hơi liền lập tức hắt xì, tôi vội vàng lấy tay bịt mũi. Đột nhiên tôi cảm thấy đầu óc quay cuồng, có lẽ do thiếu ô-xy bởi khí ẩm và mùi lạ ở đây.

      Màn sương dày đặc đến kinh người, để tránh thất lạc, chúng tôi cầm tay nhau, tay ai cũng ướt nhẹp, chẳng là mồ hôi hay nước. Tôi dựa vào hai người họ, giơ đèn pin lên rọi xung quanh. Ánh sáng trắng cắt qua màn sương dày đặc trong căn phòng lập tức hình thành luồng sáng dài và hẹp, những hạt bụi trong màn sương bay khắp nơi, giống như những sinh vật xíu bay lượn trong sương mờ.

      Tôi lấy tay khoắng cái, màn sương đậm đặc chính là hơi nước, hành động của tôi làm xuất vòng xoáy mà mắt thường có thể nhìn thấy, những hạt bụi chuyển động nhanh hơn, trông cảnh tượng hết sức kỳ lạ.

      Tôi chợt nhớ ra, liệu tường có bích họa nào , liền vội quay người rọi đèn pin xem xét.

      Do màn hơi nước dày đặc nên ánh sáng đèn pin chỉ có thể đem lại cái nhìn cục bộ. Tôi nhìn thấy bức tường gần đấy kết thành đám màu trắng, kết cấu nhẵn mịn. Tôi cảm thấy hơi lạ, tường sao lại màu trắng, liền buông tay Tiểu Đường ra, vặn núm đèn pin, phóng to chùm sáng để có thể nhìn hơn.

      Chùm sáng đột ngột phóng to, trước mắt tôi là khuôn mặt người trắng bệch, giương mắt nhìn chằm chằm vào chúng tôi.

      Khoảng cách lúc đó chỉ độ nửa mét, tuy là nam hay nữ nhưng bỗng nhiên xuất khuôn mặt người ở cự ly gần như vậy quá bất ngờ. Tôi dựng hết tóc gáy, mắt hoa lên, vứt đèn pin xuống đất, nhảy lùi về sau mấy bước, tay ôm ngực, tim đập thình thịch, há miệng thở hồng hộc.

      Lão Mục và Tiểu Đường vội lao tới, kéo tay tôi hỏi bị làm sao. Tôi run rẩy chỉ vào vách tường, giọng lạc :

      - Có… có người…

      Mặt bọn họ chợt biến sắc, vội quay đầu cầm đèn pin chiếu vào, toàn thân chợt run bắn lên, Tiểu Đường hét lên tiếng, chạy ra phía sau, ôm chặt lấy tôi. Lão Mục hắng giọng, bước đến chắn trước mặt tôi, rút phắt con dao ra, nắm chắc chuôi dao, hơi khụy người xuống, sẵn sàng tư thế phòng vệ.

      ta chắn hết tầm nhìn khiến tôi nhìn phía trước xảy ra chuyện gì, chỉ thấy vai ta rung bần bật, răng nghiến kèn kẹt, có lẽ do quá kinh ngạc.

      lúc lâu, chúng tôi ai gì, người đứng thẳng đơ. Bốn bề vô cùng yên tĩnh, ánh đèn pin chiếu thẳng về phía trước, ngoài tiếng nghiến răng của Lão Mục, hình như còn nghe thấy cả nhịp tim thình thịch của mấy người chúng tôi.

      Hơn chục giây trôi qua, tôi nhịn được tiếp, khẽ gọi:

      - Mục!

      Lão Mục từ từ quay đầu lại, mặt mày xám xịt, giọng méo hẳn :

      - Đó phải là người!

      Tôi há hốc miệng, mất mấy giây mới hiểu ra ta gì. Thế nhưng thể như thế được, ràng tôi vừa nhìn thấy khuôn mặt người, chắc chắn là khuôn mặt người, tại sao… Đột nhiên, tôi sững sờ, phải người, chẳng lẽ là…


      Thấy vẻ mặt khác thường của tôi, Lão Mục lắc đầu, lách người sang bên cạnh, cầm đèn pin lên soi. Tôi run rẩy nhìn về phía trước, người lập tức cứng đờ. Phải thế nào bây giờ, cái thứ đó đúng là thể gọi là người, mà nếu là người cũng phải người, mà là nửa người.

      vách tường đen sì, nửa thân người trần trụi chìm hẳn vào trong. Khuôn mặt khá nổi bật, tuy thấy tóc, nhưng cổ họng phẳng lì, ngực nhô lên, ràng là phụ nữ, chỉ có điều thể đoán được khoảng bao nhiêu tuổi. ta giương to mắt, con ngươi lấp lánh trông như người sống, nhưng nét biểu cảm hết sức đặc biệt, cười hay khóc.

      Trắng đen ràng, tương phản mạnh mẽ, giống như bức tranh xé giấy, đẹp mê hồn.

      Tôi chợt nhớ đến ba loại Tôn trùng gặp ở tầng trước, chúng cũng có hình thức như thế này, chẳng lẽ này cũng được tạo bởi thuật Ghép da? Cái kiểu tự kỷ ám thị quả là có tác dụng, an-drê-na-lin nhanh chóng hạ xuống, nhịp tim cũng dần bình thường trở lại.

      Tôi kéo tay Tiểu Đường, mạnh dạn tiến về phía trước, từ từ đưa ngón tay trỏ lên chạm vào khuôn mặt đó. Tuy chỗ ngón tay tiếp xúc lạnh toát nhưng lại mềm mại và đàn hồi rất tốt, giống hệt như chạm vào cơ thể người sống. Rọi đèn pin vào, các nếp nhăn, lông, thậm chí cả những nốt ruồi da đều mồn . Tôi bất giác lắc đầu, chợt nảy sinh ảo giác đôi mắt ấy nhìn theo tôi, ánh mắt giống hệt như trong bức tranh da người của cậu.

      Tôi bất giác rùng mình, mặc dù biết đây là người chết, nhưng khuôn mặt ấy lại tràn đầy sức sống, chẳng khác nào người .

      Tôi quay lại nhìn Lão Mục, thấy ta khẽ lẩm nhẩm vài câu rồi đột nhiên :

      - Thứ này trước đây tôi từng nhìn thấy rồi!

      Cùng lúc, ta liên tục vuốt râu, gí ngón tay vào mặt người, móng tay nhanh chóng chuyển từ màu hồng sang màu trắng rồi biến thành màu xanh, nét mặt lộ vẻ đau khổ và tức giận.

      Quen biết Lão Mục lâu như vậy, luôn là người điềm đạm bình tĩnh, đây là lần đầu tiên tôi thấy có biến đổi cảm xúc lớn như vậy. Nhưng điều khiến tôi khó hiểu hơn cả là sao ta lại từng nhìn thấy nửa người phụ nữ này ở đâu đó. Khi tôi gặng hỏi, ta chỉ lặng im , nghiến răng nghiến lợi nhìn chăm chăm vào vách tường.

      Tôi quay sang nhìn Tiểu Đường, bé cũng giống Lão Mục, nhìn như bị thôi miên, đôi mắt ánh lên vẻ khó tả, hình như cũng chẳng xa lạ gì với hình ảnh này. Tôi thấy khó hiểu, lay bé:

      - Tiểu Đường, cái này có phải là được ghép thành ?

      Tiểu Đường quay phắt đầu lại, mép giật giật, giọng run rẩy:

      - ! ! Đây… chính là người chết!

      Đầu óc tôi quay cuồng, sững sờ nhìn hai người rồi lại quay sang nhìn lên tường, trong thoáng chốc, thần trí chợt hoảng loạn đến cùng cực. Cùng lúc đó, trong đầu tôi lên suy nghĩ nực cười, có lẽ nào những xác chết trong tiểu thuyết Ma thổi đèn và Đạo mộ bút ký mà tôi từng đọc trước đây thực tồn tại?

      Lão Mục đột nhiên xoay người, khẽ rít qua kẽ răng:

      - Mau xem năm mặt còn lại!

      Tôi hiểu ra vấn đề, theo nguyên lý mặt gương trong tầng tháp vách tường của năm mặt còn lại cũng có xác chết. Nghĩ vậy, chúng tôi cùng nắm tay nhau, giơ đèn pin lên, gạt lớp sương mù, chuyển động ngược chiều kim đồng hồ men theo vách tháp.

      Đến gần bức tường gần nhất bên trái, chúng tôi phát thấy hố lõm đều, mặt cắt phía dưới có lỗ tròn bằng đầu ngón tay, cứ liên tục phụt ra những luồng khói xám mờ mờ, chảy men theo vách tường như dòng nước rồi nhanh chóng hòa quyện vào những đám khói xung quanh. Hóa ra khói đặc bao trùm cả tầng tháp bắt nguồn từ mắt động này, thế nhưng tại sao lại thấy xác chết đâu? Tôi vội quỳ xuống quan sát tỉ mỉ chỗ hố. Mép trong trơn tròn, mấp mô, rất giống khuôn hình lưng người.

      Tôi chợt thót tim, xác chết trong tường biến mất! Cùng lúc tôi phát ra, hố lõm có vị trí cho tứ chi, đây chính là mấu chốt của vấn đề. Xác chết vách tường chỉ có đầu, còn mắt động kia chính là lỗ thông chứa dưỡng chất rễ cây Sinh Tức Mộc. Cây Sinh Tức Mộc gắn với cơ thể xác chết, nuôi dưỡng cơ thể nghìn năm mục rữa.

      Ý nghĩ vừa nảy ra, tôi bỗng cảm thấy mồ hôi túa ra đầy cổ chảy xuống người. Tôi nhớ lại cuốn nhật ký của ông Từ, trong giấc mơ cậu có câu hoàn chỉnh rằng: “Bọn họ nhất định ra, nhất định ra…”

      Bọn họ quả nhiên là ra! Mọi suy đoán đến lúc này mới được giải đáp, nỗi sợ hãi từ sâu trong đáy lòng cuối cùng lại đúng là .

      Nhìn hố lõm đó, tôi thấy đầu óc quay cuồng, mồm miệng khô rát, trước mắt dần dần ra hình ảnh: Trong màn khói dày đặc cuồn cuộn tuôn trào, nửa thân người trần trụi lảo đảo kêu rên, vùng vẫy thoát ra khỏi bức tường, bò mặt đất…

      thể nào! thể nào! Tôi giật mạnh tóc, cắn chặt môi, muốn lấy cảm giác đau đớn để ngăn chặn những ý nghĩ quái gở của mình, quay người lại tôi lắp bắp hỏi Tiểu Đường:

      - Em ơi, cái này…

      Tiểu Đường vẻ mặt hết sức nghiêm nghị, giơ tay ra hiệu cho tôi đừng gì. bé cúi đầu suy nghĩ, sờ lên mặt tường, rồi bước nhanh sang trái. Lớp khói dày đặc bao phủ cả tầng tháp, Tiểu Đường vừa bước vài bước, hình ảnh mờ dần, tôi vẫy Lão Mục, vội bám theo phía sau.

      Ở mặt tháp thứ ba vẫn là hố lõm, ba mặt tháp còn lại đều giống như vậy. Xem ra chỉ có bức tường đầu tiên là lưu giữ xác chết, còn trong năm bức tường còn lại biến mất. Thế nhưng ở dưới lòng đất sâu thế này, bọn họ có thể đâu được, là tự họ hay có người đưa họ ra?

      Nghi ngờ nảy sinh ảo giác, trong lúc hoang mang cực độ, tôi nhìn sang xung quanh, cảm giác như trong những góc tối đen kia là những đôi mắt lạnh lùng, sẵn sàng xông ra bất cứ lúc nào, tôi bất giác rùng mình.

      Lão Mục theo sát đằng sau chúng tôi, khi quay lại bức tường đầu tiên, ta nắm chặt cổ tay tôi, bất ngờ hỏi câu:

      - Tiêu Vi, có biết giải phẫu ?

      Tôi hơi sững người, biết ta hỏi vậy có ý gì, nhưng cũng gật đầu vì hồi mới vào đội cảnh sát hình , tôi từng giúp việc nửa năm cho lão pháp y Từ Thụy Hồng, nên có chút kiến thức về giải phẫu học.

      Lão Mục hạ ba-lô lưng xuống, lấy ra hai cây xà beng, giúi vào tay tôi, :

      - Vậy tốt, chúng ta phá bức tường ra, giải phẫu xác chết!

      ta to nhưng dứt khoát từng từ như thể đó là mệnh lệnh, khiến người khác thể làm theo. Tôi thấy có gì đó ổn lắm, liền quay lại nhìn Tiểu Đường, ánh mắt bé lấp lánh, gì mà chỉ ra sức gật đầu.

      Tôi vốn sẵn tính tò mò, nay nhìn hai người họ quyết tâm như vậy, nên chút chần chừ, giơ tay nhận lấy xà beng, cùng Lão Mục đục tường để đưa xác chết ra.

      Giống tầng tháp bên , bức tường ở dưới này cũng xây bằng gạch đá mà bằng những thứ chất liệu giống xi-măng, theo thời gian mủn dần, chỉ cần đục mạnh tay vỡ nát, lông lốc xuống dưới.

      Khoét được khoảng đủ rộng xung quanh cái xác, chúng tôi thò tay vào, cậy mạnh xác chết ra. Mặc dù hồi còn làm cảnh sát, tôi tiếp xúc với muôn vàn xác chết khác nhau, nhưng lúc này cảm giác do đôi tay đem lại khó hình dung, cứ như thể nắm phải người sống vậy.

      Xác chết long ra được chút rồi sao kéo tiếp được nữa. Tôi cúi đầu nhìn xuống rồi đột ngột hét toáng lên. đạo của xác chết được nối với đường ống trông khá giống sợi dây thừng, to bằng khoảng hai ngón tay, màu lòng đỏ trứng, đầu còn lại xuyên vào ống thông trong hố. Tôi giật mạnh, thấy trơn ướt như được bôi dầu nhờn.

      Tiểu Đường kêu lên tiếng, bước nhanh đến, thò tay sờ vào trong, sau đó hét ầm:

      - Đây chính là rễ cây Sinh Tức Mộc, chị Tiêu Vi đoán đúng, xác chết được cây Sinh Tức Mộc nuôi dưỡng suốt thời gian chôn vùi trong vách tường.

      Tôi lạnh toát cả người, cúi xuống nhìn xác chết, nghiến răng kén kẹt. Nhuận dưỡng đành, đằng này lại nối vào bộ phận đó của xác chết quả là vô đạo đức. Là phụ nữ, tôi thấy vô cùng căm phẫn.

      Lão Mục hắng giọng, rút phắt con dao găm ra, cắt xoẹt nhát đứt ngang thân rễ. Hai đầu chỗ cắt bỗng phụt ra ít máu đỏ tươi, lúc đầu có vẻ phụt rất mạnh nhưng ngay sau đó đông cứng lại, giống như vòi nước bị vặn chặt.

      Chúng tôi đặt xác chết ngay ngắn mặt đất, sau đó tất cả đều quỳ xuống bên cạnh, quan sát tỉ mỉ. Thấy nửa thân dưới còn cắm đoạn rễ cây trông như mọc thêm cái đuôi, tôi rùng mình buồn nôn.

      Đột nhiên, mắt tôi dừng lại ở chỗ hốc vai và gốc đùi của xác chết. Đó hoàn toàn là tổ chức da phẳng nhẵn, hề thấy có bất cứ vết sẹo nào. Tôi đưa tay ra chạm thử, cảm giác cực kỳ nhẵn mịn, chứng tỏ xác chết này bẩm sinh có tứ chi chứ phải sau này bị cắt bỏ.

      Lão Mục và Tiểu Đường chắc chắn cũng chú ý đến chi tiết này, chúng tôi cùng ngẩng đầu lên nhìn nhau nhưng rồi lại cùng khẽ lắc đầu. Trong đầu tôi cứ thắc mắc mãi, nếu đây là con người tại sao lại có hình hài thế này, trừ phi đó là người tàn tật bẩm sinh.

      Trước khi chính thức giải phẫu, Lão Mục nheo mắt lại, lật qua lật lại quan sát kỹ bề ngoài xác chết, và phát ra điểm kỳ lạ. Lỗ mũi, lỗ tai, miệng, niệu đạo và hậu môn của xác chết đều bị bịt kín bởi loại keo trong suốt, giống như thạch rau câu, rất mềm, hòa quyện với các tổ chức cơ thể giống như tự nhiên vậy, tài nào tách ra được. Ngay cả tròng mắt cũng được quết lớp mỏng, chẳng trách ánh mắt lại sáng lấp lánh như vậy.

      Tiểu Đường cũng cúi đầu quan sát, đột nhiên mặt mày biến sắc, kêu lên thất thanh:

      - Trời đất, đây là Cửu cấm, người phụ nữ này bị bịt kín cửu… bát khiếu.

      Tôi ngớ người ra nhưng rồi chợt nhớ Tiểu Đường từng , cơ thể người có tổng cộng cửu khiếu: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, niệu đạo và hậu môn, thợ xăm thân khắc hình tuyệt đối được tiến hành xăm những vị trí này.

      Tôi thấy thực khó hiểu, xác chết này bị bịt kín cửu khiếu, trong đó chi có đạo là bị bịt bằng rễ cây, vậy rốt cuộc điều này có ý nghĩa gì?

      Tiểu Đường nghĩ hồi lâu, sau đó cho chúng tôi biết, kết hợp với Cửu cấm trong Mặc Văn Đường tập, nếu bé đoán nhầm người dựng tháp hồi đó phải có dụng ý riêng, ngăn cho cửu khiếu thông ra bên ngoài, coi đây như kiểu cách ly biến tướng. Còn việc tại sao chỉ để mỗi đạo nối với rễ cây Sinh Tức Mộc có lẽ đây là con đường nhuận dưỡng. đến đây, Tiểu Đường bỗng trở nên ngập ngừng, hạ giọng :

      - Nếu muốn để sinh khí lưu giữ trong cơ thể, bắt buộc phải bịt kín cửu khiếu trước khi người đó chết…

      Nghe thấy vậy, tôi bất giác đấm mạnh xuống sàn, điều này thực thể tưởng tượng nổi, thủ đoạn này quá tàn nhẫn, sao lại có thể ra tay cơ thể sống cơ chứ?

      Lão Mục phản ứng gì, chỉ chậm rãi kể về số tộc người lạc hậu ở Trung Quốc và Đông Nam Á cổ đại, thường lấy phụ nữ làm vật tế thần, việc tùy ý hủy hoại thân thể những người phụ nữ này phải là hiếm gặp. Tôi vẫn thể chấp nhận được cách lý giải này. Người Liêu luôn sùng tín đạo Phật, mà đạo Phật luôn lấy từ bi làm gốc, phổ độ chúng sinh, trong tòa tháp Phật nghìn năm thờ xá lợi của hoàng hậu, đáng lẽ phải là nơi sạch tôn nghiêm, sao lại có thể để xảy ra những hành động tàn nhẫn như thế.

      Chúng tôi đoán già đoán non mãi mà chẳng ra được điều gì. Lão Mục vỗ vai tôi cái, rồi nhìn vào xác chết, tư lự :

      - Thôi đủ rồi, đừng kéo dài thời gian vô ích, mau ra tay !

      Tôi định thần lại, quỳ xuống, đẩy mạnh cằm xác chết ra sau, để lộ phần cổ trắng nõn như ngọc.

      Lão Mục quỳ xuống theo, tay phải cầm chắc dao găm, cắm vào họng xác chết. tia máu đỏ tươi lập tức phọt ra, chảy lan ra xung quanh.

      Tiếp đó lưỡi dao từ từ di chuyển xuống dưới, rạch đường thẳng xuống tận rốn, máu chảy mỗi lúc nhiều, cơ thể trắng nõn ngọc ngà hằn lên những đường máu ngoằn ngoèo, thỉnh thoảng còn tỏa mùi hương đặc biệt của cây Sinh Tức Mộc, khiến đầu óc bỗng tỉnh táo lạ thường.

      Con người sau khi chết, lượng ô-xy thiếu hụt khiến máu dần chuyển màu, căn cứ vào đó có thể phán đoán được thời gian tử vong. Theo kinh nghiệm nhiều năm trong nghề cảnh sát, tôi thấy những dòng máu này màu sắc rất tươi tắn, cho thấy chức năng nhuận dưỡng của cây Sinh Tức Mộc quả là lợi hại, có thể sánh ngang với formalin[1].

      [1] Dung dịch dùng để ngâm xác chết, tránh phân hủy.

      Với trợ giúp của tôi, con dao trong tay Lão Mục lướt nhanh thoăn thoắt, chẳng mấy chốc lồng ngực của xác chết được mổ phanh. ta lần lượt lôi từng bộ phận nội tạng dính đầy máu giơ lên trước mắt quan sát cẩn thận. Mặc dù thiếu thốn dụng cụ, nhưng nhìn độ thành thục trong các động tác của Lão Mục, thua kém gì pháp y chuyên nghiệp, khiến tôi và Tiểu Đường khỏi ngỡ ngàng.

      Đến tử cung của xác chết, Lão Mục chợt dừng tay, hít sâu hơi, gọi chúng tôi cùng xem. Tôi vươn cổ ra phía trước, lập tức lấy tay bịt chặt miệng, ngồi sụp xuống đất, Tiểu Đường cũng run lẩy bẩy theo.

      Cảnh tượng trước mắt quá sức kinh hoàng. Rễ cây Sinh Tức Mộc xuyên qua cổ tử cung, sau đó chia thành vô số những sợi nhung mao mềm mại lan ra tứ phía, gắn chặt vào nội mạc tử cung thành thể thống nhất.

      Lão Mục dán mắt nhìn, mãi lâu gì, chỉ khẽ gật đầu, liên tục vuốt vuốt râu, nét biểu cảm hết sức khó hiểu.

      Lúc đó tôi thể đoán ra ý đồ thực của ta là gì, mãi sau này hỏi lại mới , để rồi nảy sinh cảm giác sợ hãi khó tả về tòa tháp cổ này.

      Xung quanh bất thường trong tử cung xác chết, chúng tôi phân tích qua và đưa ra nhận định đây chính là nguyên nhân giúp cho xác chết nghìn năm thối rữa. Cơ thể người được khéo léo nối với rễ cây giống như kỹ thuật cấy ghép đại, nhờ vào chức năng nhuận hoạt dưỡng sinh của rễ Sinh Tức Mộc để cùng tồn tại, đây có thể gọi chính xác là “người thực vật”.

      Thế nhưng là khó hiểu, vì cho dù có sử dụng kỹ thuật y học đại cũng thể cấy ghép động vật và thực vật với nhau, vậy thời cổ đại làm sao đạt được kỹ thuật cao siêu đến vậy. Còn về chuyện tại sao xác chết bị thiếu tứ chi; tại sao chỉ còn mặt tháp giữ được xác chết, xác chết ở các mặt tháp còn lại đâu; “bọn họ” mà cậu nhắc tới phải chăng là những xác chết này… những câu hỏi ấy cứ quanh quẩn mãi trong đầu, thể tìm được lời giải thích thỏa đáng.

      Tôi day day trán ngồi sụp xuống, thấy bức xúc chỉ muốn rủa xả ai đó, những gì mắt thấy tai nghe bên dưới lòng tháp cổ thực thể lý giải nổi bằng những tư duy thông thường. Cậu và ông Từ đều dùng tranh làm ám hiệu, chứng tỏ hai người họ biết nội tình, nhưng ở hoàn cảnh thực tế năm đó, chắc chắn hai người thể tiếp xúc với những thứ cổ quái này. Lẽ nào vẫn còn những bí mật chưa được phát ? Tôi càng nghĩ càng cảm thấy mơ hồ, cảm giác như bị vây chặt trong đống hoài nghi thắc mắc, sao thoát ra được. Lịch sử và thực đan xen phức tạp, tất cả đều vô cùng thần bí khó hiểu.

      Tôn trọng người khuất, chúng tôi xếp đặt ngay ngắn cho xác chết rồi đặt xuống dưới chân tường. Nghĩ đến việc xác chết được Sinh Tức Mộc nhuận dưỡng nhanh chóng bị thối rữa, trở thành bộ xương trắng dưới lòng đất, tôi bất giác thở dài. ai biết ta là ai, tại sao lại bị nhốt ở đây, tất cả đều là những câu đố biết bao giờ mới có thể giải được.

      Lau sạch vết máu tay, chúng tôi ngồi xuống nghỉ lúc. Sau khi bàn bạc, chúng tôi quyết định tạm thời bỏ qua những thắc mắc để tiếp tục xuống tầng tháp tiếp theo.

      Tiểu Đường rút cây kim khắc hoa văn ra, mở bừa hình Thái cực, Lão Mục thò đầu xuống nhìn rồi :

      - Theo ám hiệu trong tranh của ông Từ, sáu tầng tháp dưới lòng đất đến đây là dừng, còn sâu nữa là gì chỉ còn tùy ý trời thôi.

      Nghe vậy, chúng tôi quay lại nhìn nhau, ai cũng chỉ gượng cười, ôm chặt để cổ vũ nhau mà cũng là để cổ vũ chính mình. Tôi quàng tay ôm chặt lấy hai người họ, trong lòng đan xen quá nhiều cảm xúc, xúc động nhận ra thế giới này mình có thêm người trai và người em .

      Tiếp đó, chúng tôi gài đèn pin trước ngực áo, xếp hàng theo thứ tự, Lão Mục đầu, Tiểu Đường ở giữa, tôi chốt cuối cùng. Từng người chui vào trong địa đạo.

      Khi Lão Mục và Tiểu Đường đều vào trong, tôi ngồi xuống miệng ống, khom người tuột vào trong. Đúng khoảnh khắc sắp chui vào địa đạo, tôi tình cờ ngoảnh mặt sang, hình như xác chết đó khẽ chớp chớp mắt phải. Tiếp sau đó cơ thể tụt xuống, mắt bị che khuất nhìn thấy gì nữa.

      Tôi cố gồng người vào vách động, chớp mắt lia lịa, trong lòng thắc mắc biết hình ảnh vừa nhìn thấy có ? Tôi rất muốn quay lại để kiểm chứng nhưng lại đủ can đảm. Do dự hồi lâu, tôi quyết định tụt xuống dưới.

      Xuống sâu khoảng ba mươi mét, chúng tôi đến kịch đường ống, giơ đèn pin lên rọi, phía dưới là tảng nham thạch sần sùi, cách miệng ống khoảng mét, hóa ra tầng tháp được treo lơ lửng . Chúng tôi lần lượt nhảy xuống, chui vào khe hở, phát thấy bên trong khá bằng phẳng, xếp đầy những hòn đá mấp mô, lấy đèn pin soi lên bề mặt thấy ánh sáng phản chiếu lấp lánh cực kỳ đẹp mắt.

      Chúng tôi chụm đầu bàn bạc, thống nhất rằng nếu tầng tháp có thể tự xoay chứng tỏ đây chính là mặt đứt đoạn của tầng nham thạch, sáu đường luân hồi kết thúc ở đây. phân tích tình hình, chợt đầu chúng tôi có tiếng cạch cạch, thanh dội lại ầm ầm trong gian hẹp, khiến đầu đau như búa bổ. Tôi vội bịt chặt tai, nhưng chẳng ích gì, não như sôi lên sùng sục.

      Quay đầu lại nhìn, hóa ra đáy đường ống khép lại. Tôi vươn tay chạm khẽ rồi thở dài, thế là chẳng thể quay về được nữa, đành phải tiếp tục xuống vậy.

      Theo kết cấu tầng tháp, chúng tôi chọn vị trí trung tâm, bò về phía trước. Những hòn đá nhọn sắc khiến đầu gối, khuỷu tay của chúng tôi đều bị trầy xước đau đớn, máu chảy đầm đìa. Trong gian hẹp, ngoài chùm ánh sáng trắng chiếu hắt xung quanh, chỉ còn tiếng thở nặng nề của mấy người chúng tôi.


      ~~~~~>Hoàn

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :