1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

[Trinh thám - Kinh dị] Thiên Văn - Tang Thượng ( Hoàn)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 10: Manh mối trong giấc mơ

      Sắc mặt Tiểu Đường vẫn bình thản thay đổi, toàn thân vẫn giữ nguyên vị trí, chỉ có mũi kim là lần theo gương mặt trong gương, tiếng lạo xạo phát ra ngừng nghỉ, cuối cùng bé cũng khắc xong khuôn mặt với vô số những vệt chấm . Sau khi dùng đủ loại mực tô điểm, khuôn mặt khắc gương giống y hệt người . Đặc biệt là đôi mắt rất có hồn, cho dù đứng ở góc độ nào, đôi mắt ấy vẫn như dõi theo mình vậy.

      Mang đống những thắc mắc trong bụng, Lão Mục và mọi người đưa tôi đến bệnh viện gần đó. Sau khi bác sĩ kiểm tra xong liền , vết thương của tôi nặng lắm, chỉ bị thương ngoài da nên cũng ảnh hưởng lắm đến các hoạt động bình thường.

      Từ bệnh viện chúng tôi về thẳng nhà Tiểu Đường, đun bình nước sôi, vừa uống cho ấm người vừa tiếp tục phân tích tình hình, thế nhưng uống vã cả mồ hôi đầu mà vẫn chưa đưa ra kết luận gì. Thấy đêm khuya, Lão Mục cùng hai người kia đứng dậy chào ra về.

      Cả đêm chạy ngược chạy xuôi, bé Tiểu Đường tuổi ăn tuổi ngủ kìm được, vội đánh răng rửa mặt rồi lăn ra ngủ. Tôi cẩn thận cởi bớt quần áo, nằm xuống bên cạnh Tiểu Đường, bả vai vừa căng vừa đau, cứ thế lăn qua lăn lại trở mình mãi vẫn chẳng thể ngủ được.

      Lắng nghe tiếng thở đều đều và những câu mớ thỉnh thoảng thốt ra khỏi miệng Tiểu Đường, lòng tôi rối như tơ vò, trong đầu như bật slide trình chiếu, loạt hình ảnh vừa xảy ra cứ xoẹt qua xoẹt lại mãi thôi.

      Trằn trọc hơn nửa tiếng đồng hồ vẫn ngủ được, tôi khẽ ngồi dậy bước xuống giường, khoác chiếc áo khoác lên người rồi với tay bật đèn bàn lên, nhàng lật từng trang của cuốn nhật ký lấy từ nhà ông Từ, đọc lại những lời mớ của cậu hồi ở Liên Xô.

      “Vàng... bọn họ... bọn họ... vàng...”, những từ ngữ xuyên suốt cuốn nhật ký cứ thế lặp lặp lại trước mắt, đến nỗi tôi mụ mị cả đầu.

      Hít sâu vài hơi, tôi cố dặn mình phải bình tĩnh lại, vừa vắt óc suy nghĩ vừa lật giở từng trang nhật ký. Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ có tiếng lật giấy sột soạt bên tai, khiến tôi càng buồn chán và sốt ruột vô cùng.

      Lật lật lại xem khoảng bảy tám lần mà vẫn chưa tìm ra manh mối gì, tôi đành gấp cuốn nhật ký lại, hai tay chống cằm, nghiêng đầu nhìn ngọn đèn bàn, đầu óc trống rỗng.

      Ánh đèn mờ mờ, hề chói mắt, nhưng nhìn lâu tự nhiên biến thành màu vàng chói, lấp lánh như thỏi vàng. Đột nhiên, đầu óc tôi trở nên tỉnh táo lạ thường, cái gọi là “vàng” ấy, chẳng lẽ lại ám chỉ bảo vật nào đó, còn “bọn họ” chính là những người canh giữ bảo vật? Tuy suy nghĩ này hết sức hoang đường, nhưng với tình hình trước mắt, có lẽ chỉ có thể liên tưởng được như vậy.

      Đầu tiên tôi giả thiết rằng suy đoán này là đúng, rồi tiếp tục phát triển theo hướng đó, có thể năm ấy khi cậu khảo sát ở gần khu vực Cổ Tháp tình cờ phát ra món bảo vật và cùng với những người trông giữ bảo vật thề rằng mãi giữ kín chuyện. Còn về tấm Long Bản, đó có thể là tín vật kiểu như khế ước, được lấy từ chỗ những người trông giữ bảo vật. Mặc dù vậy, hình như trong chuyện này còn có điều gì khuất tất, khiến cậu vẫn luôn cam tâm, nên trước khi chết lấy cơ thể và các tác phẩm của mình để làm ám hiệu. Chắc chắn những người trông giữ bảo vật cũng biết điều này, nên sau khi cậu chết tìm mọi cách để cản trở cho bí mật đó lọt ra ngoài. Cổ Tháp do người Liêu xây dựng, vậy bảo vật chắc cũng do người Liêu để lại, những người trông giữ đó chắc...

      Mẹ kiếp, sao lại lộn xà lộn xộn thế! Tôi lắc mạnh đầu, chắc có lẽ mình bị tẩu hỏa nhập ma rồi. Bảo vật nghìn năm, vệ sĩ bất tử, quá ư nực cười, nghe như tiểu thuyết phiêu lưu hạng ba với đống sơ hở vậy. Chưa kể đến chuyện những vệ sĩ đó sao có thể trường sinh bất lão được, chỉ riêng chuyện bọn họ biết lái xe, theo dõi cũng đủ khiến người ta cười thối mũi rồi.

      Bây giờ nghĩ lại, những suy nghĩ lúc đó tuy hoang đường vô lý nhưng phương hướng chung chính xác, chỉ có điều chân tướng việc hề liên quan đến bảo vật, càng có chuyện trường sinh bất lão, mà là kết cục khác hoàn toàn bất ngờ và khó đoán.

      Nhìn cuốn nhật ký với những dòng chữ nghiêng ngả, câu cú lủng củng, tôi chợt nhớ ra chuyện, Mã Vân Vĩ từng với tôi, bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều chứa đựng tâm tư tình cảm của tác giả lúc sáng tác, đây đúng là lý giải rất phù hợp với thực tế.

      Tìm lấy giấy bút, đối chiếu với nội dung nhật ký, tôi sao lại những câu chữ lặp lại liên tục, ý nghĩa đứt đoạn đó, với hi vọng đặt bản thân mình vào vị trí của ông Từ.

      Hơn nửa tiếng sau, thay hết trang giấy trắng này đến trang giấy trắng khác mà vẫn tìm ra được chút lô-gic và quy luật nào, thế nhưng tôi có thể cảm nhận sâu sắc rằng, mặc dù cậu trong giấc mơ nhưng vẫn mang tâm trạng vô cùng sợ hãi.

      Viết mãi, tôi thấy buồn ngủ quá, ngáp liên tục mấy cái, đầu óc rối tung rối mù, cây bút máy trong tay dần đưa những nét nguệch ngoạc, tôi hoàn toàn như cái máy, chẳng hiểu mình viết cái gì.

      Trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tâm hồn tôi bay bổng phiêu bạt đến mười ba đêm tại Liên Xô năm đó. Cậu nằm giường giống Tiểu Đường lúc này, hai mắt nhắm nghiền, nét mặt hoảng hốt, miệng ngừng lẩm bẩm; còn ông Từ Vạn Lý là tôi, ngồi dưới ngọn đèn , mượn ánh sáng yếu ớt đặt bút viết, từng câu từng câu “vàng... bọn họ...” nghiêng nghiêng ngả ngả ra trang giấy.

      đúng! Tôi chợt giật thót mình, lực đôi tay bất giác mạnh lên, ngòi bút “cạch” tiếng, cắm sâu vào trang giấy. Tôi đột nhiên nghĩ ra chuyện, đúng, là hai chuyện, mười ba bài nhật ký này – có điều bất thường!

      Cơn buồn ngủ hoàn toàn tan biến, tôi sốc lại tinh thần, lật giở bài nhật ký đầu tiên, đọc kỹ từng tí .

      Bài nhật ký đầu tiên được viết vào thứ Năm ngày 13 tháng 11 năm 1986, câu đầu tiên là: “Lên giường mới được mười mấy phút, tôi bỗng nhiên nghe thấy Thạch kêu gào rất to trong giấc mơ: Rất nhiều... rất nhiều... vàng... bọn họ vẫn còn... bọn họ nhìn... bọn họ sao lại...”.

      Tôi ngẫm nghĩ lúc, đây chắc là lần đầu tiên ông Từ nghe thấy cậu mơ, nhưng theo lô-gic thông thường mà , ông phải nghi ngờ và ngạc nhiên mới đúng, ít nhất phải ghi lại cảm giác khi lần đầu tiên nghe thấy, nhưng ông hề làm vậy.

      Giở sang bài nhật ký ngày 12 tháng 11, nội dung ghi lại lịch trình làm việc và những gì mắt thấy tai nghe trong thời gian ông Từ khảo sát tại Liên Xô, cách hành văn trơn tru mạch lạc, nét bút ngay ngắn bình tĩnh, có vẻ đúng với thực hơn. Lật giở lại mấy trang trước đó, nội dung cũng gần như tương tự.

      Bài nhật ký cuối cùng được viết vào thứ Ba ngày 25 tháng 11 năm 1986, nội dung vẫn là những câu mớ của cậu, còn bài nhật ký từ ngày 26 tháng 11 trở về sau lại là những ghi chép mạch lạc lưu loát, hề đề cập gì đến những lời mớ nữa.

      Tôi lặng ngồi trước đèn, nghiêng đầu, tay chống lên trán tay lật giở những bài còn lại.

      Ngoài mười ba bài nhật ký đó, ông Từ hề nhắc đến cậu chữ, điều này quá bất thường, hề phù hợp với phản ứng tâm lý của con người sau khi gặp phải chuyện kỳ quái. Lẽ nào trong tháng khảo sát tại Liên Xô, cậu chỉ mớ trong mười ba ngày, thời gian còn lại hề có cử chỉ hành động bất thường; còn ông Từ cũng chỉ ghi chép lại mười ba ngày đó, rồi sau đó giả câm giả điếc, có động thái gì?

      Đúng lúc này, Tiểu Đường trở mình tỉnh giấc, dụi mắt lẩm bẩm:

      - Chị Tiêu Vi, chị làm gì thế, sao vẫn chưa ngủ?

      Tôi quay đầu lại, trả lời qua quýt:

      - sao, chị định vào nhà vệ sinh.

      Tôi cầm cuốn nhật ký, tắt đèn, nhàng rời khỏi phòng. Khép cánh cửa phòng ngủ lại, tôi lần mò trong bóng tối ra phòng khách, từ từ ngồi xuống ghế sô-pha, cố duỗi thẳng người, nhưng đầu óc lại quay cuồng ghê gớm.

      Tôi biết, cậu tôi bị chứng mất ngủ trầm trọng, lúc ngủ chịu được bất cứ tiếng động và ánh sáng nào, dù là nhất. Mẹ tôi rằng, đấy là hậu quả của việc thức đêm học bài từ thời học cấp Ba, vì thế cho dù vào những ngày hè nóng nực nhất, cậu cũng phải đóng chặt cửa ngỏ, thậm chí còn kéo rèm kín mít.

      Thử nghĩ xem, trong thời gian khảo sát tại Liên Xô năm đó, liên tục trong mười ba đêm, ông Từ ở bên cạnh giường bật đèn bàn, vừa dỏng tai lắng nghe ngóng vừa lấy bút ghi chép vậy mà cậu vẫn cứ ngủ ngon lành lại còn mớ nữa chứ...

      Dòng suy nghĩ khiến tôi đứng bật dậy theo phản xạ, trong đầu khẳng định điều: Ông Từ lừa tôi, cuốn nhật ký này là giả.

      Suy nghĩ vừa ra trong đầu, tôi lập tức hưng phấn hẳn lên, nếu có thể chứng minh cuốn nhật ký này là giả, mọi nghi ngờ trước đó đều có thể được giải đáp. Tôi từng làm công tác thẩm tra tài liệu thời gian, cũng mất ít năm nghiên cứu lĩnh vực này nên nếu đây là cuốn sổ giả, chắc chắn qua được mắt tôi. Thế nhưng sau khi quan sát cụ tỉ, các trang giấy trong cuốn nhật ký đều cũ nhàu, ít nhất cũng phải qua mười mấy năm rồi, thể có khả năng sau này bị làm giả; keo gáy sách vẫn còn nguyên, hề bị bung, đôi chỗ còn thấy những mảng cáu bẩn bết lại, chắc chắn cuốn sổ được viết vào năm đó.

      Lật giở bên trong, trước sau hai bài nhật ký đầu tiên và cuối cùng đều thấy có dấu hiệu bị cắt rời hay xé rách, như vậy cũng loại trừ khả năng bị người khác cố ý cắt xén . Nhìn vào những nét đặc trưng như nét chữ, cách dùng từ... cũng chẳng hề có chút khác biệt nào, ràng là do cùng người viết ra.

      Chẳng lẽ suy đoán của tôi sai, chẳng nhẽ cuốn nhật ký này đúng là nhật ký ?

      Tôi đứng lên vào phòng bếp, tìm ít muối, rắc lên bệ bếp rồi dùng chày tán thành bột mịn. Sau đó lấy đầu ngón tay nhúm ít muối nghiền rắc vào bài nhật ký đầu tiên ghi lại lời mớ của cậu, lắc sang hai bên cho muối dàn đều khắp các ngóc ngách, sau đó lấy tay áo lau những hạt nổi bề mặt.

      Tôi cẩn thận nhấc cuốn nhật ký lên, đón lấy ánh sáng, nghiêng đầu quan sát. Những tinh thể muối xíu lọt vào những khe lõm, được ánh đèn chiếu vào ra những nét chữ mờ mờ, chỉ cần nhìn kỹ chút là có thể nhận ra.

      Giống với những bài sau, đây đều là những lời mớ của cậu, từ “vàng” được nhấn mạnh rất nhiều lần, nét chữ cuối cùng hất lên góc bên phải, kéo rất dài. Chắc do ông Từ giật mình, theo phản xạ tăng lực viết của bàn tay.

      Tôi cầm cuốn nhật ký, trong đầu lúc đó như nồi nước sôi, những thắc mắc như vô số bong bóng nước cứ đua nhau nổi lên, càng lúc càng nhiều, chật cứng cả mà chẳng có bong bóng nào vỡ ra được.

      Giây phút này, tôi hoàn toàn rơi vào trạng thái mơ hồ, thể lý giải nổi những gì diễn ra trước mắt. Tất cả có vẻ chỉ có thể chứng tỏ được điều: Cuốn nhật ký phải là giả, đúng là cậu tôi vô tình mớ trong mười ba ngày, còn ông Từ hình như cũng mất những xúc cảm bình thường của con người, chỉ ghi lại đúng những gì được nghe thấy trong mười ba ngày, vì thế mới khiến cho nội dung cuốn nhật ký bị đứt đoạn như thế.

      Tôi lắc lắc đầu rũ bỏ những suy nghĩ mơ hồ, phủi sạch những hạt muối cuốn nhật ký, tắt đèn ra khỏi bếp. Phòng khách tối om om, yên tĩnh đến rợn người, chỉ có tiếng kêu đều đặn của chiếc kim đồng hồ treo tường.

      Tôi hít sâu hơi, đến bên cửa sổ, kéo rèm ra, hai tay chống lên bệ cửa sổ, nhìn ra ngoài xa.

      Lúc này mây đen tan hết, vầng trăng tròn lơ lửng , lạnh lẽo tỏa sáng, thành phố rộng lớn phủ màu trắng xóa, tiếng gió gầm rít qua cửa sổ giống như tiếng kêu rên của người bệnh trước lúc chết.

      Tôi nhìn chớp mắt, mọi suy nghĩ rối tung trong đầu, ông Từ cũng chỉ hôm qua mới biết tôi đến tìm gặp nên chắc thể nào lên kế hoạch lừa gạt tôi được. Vậy chỉ có thể chứng tỏ điều, trí nhớ của ông bị mất hai ngày quan trọng, hoặc giả như , ông sử dụng thủ pháp vi diệu nào đó để lại câu đố thể đoán ra được.

      Đứng lặng người hồi lâu, đến khi đôi chân bắt đầu tê dại, cơn buồn ngủ ập đến rũ cả mắt, tôi mới ôm cuốn nhật ký đó nằm ghế sô-pha chìm vào giấc ngủ. Có lẽ do quá nhiều thắc mắc chất chứa trong lòng nên giấc ngủ cứ chập chà chập chờn, liên tục mơ thấy ác mộng: Gã lùn cầm dao truy sát, ông Từ cố ý bài binh bố trận, lại còn “bọn họ” thần bí nữa, cứ lần lượt ra trước mắt tôi. Khuôn mặt của mọi người đều mơ hồ , giống như bức tranh thủy mặc bị thấm nước, vừa là người lại vừa có vẻ phải vậy. Tôi định tiến đến gần quan sát, trong chớp mắt họ chợt tan biến như mây khói.

      Tôi ngủ mạch đến tận trưa hôm sau mới mở được mắt ra, toàn thân nhức mỏi, trước mắt như từng khuôn mặt người trong mơ. Tôi ngồi dậy, rời khỏi ghế sô-pha vào phòng ngủ, Tiểu Đường vẫn nằm dạng chân dạng tay giường ngủ ngon lành, rơi cả chăn xuống đất cũng biết.

      Tôi nhặt chăn lên, đắp cho bé, sau đó khẽ khàng đóng cửa phòng ra ngoài. Cái bụng đói meo cứ réo ầm ĩ, tôi liền xuống bếp tìm ít rau thịt chuẩn bị nấu cơm, vừa đong gạo vào nồi, bỗng nghe có tiếng người gõ cửa.

      Tôi vội chạy ra phòng khách, mở cửa ra thấy Lão Mục đứng ở ngoài, hai mắt đỏ ngầu, tóc tai rối bù. Chào hỏi xong, tôi mời ta vào nhà.

      Lão Mục mặt buồn bã bước vào phòng khách, kịp ngồi xuống uống chén nước vội mở miệng:

      - Người đứng dưới nhà tối qua chính là ông Từ Vạn Lý.

      Tôi tưởng tai mình có vấn đề, vội hỏi:

      - Ai? Từ... Từ Vạn Lý?

      Lão Mục nhìn thẳng vào mắt tôi, mặt rất nghiêm túc, khẳng định:

      - Đúng, chính là Từ Vạn Lý!

      Hóa ra, tối qua sau khi chia tay chúng tôi, Lão Mục liền quay trở về đơn vị, nhờ người quen lấy toàn bộ nhật ký cuộc gọi trong máy điện thoại bàn nhà ông Từ. Ngoài hai cuộc gọi của tôi, lần trước khi đến thăm và lần sau khi gặp nạn, hề thấy có gì bất thường, nhưng trong băng ghi hình của camera giám sát khu chung cư lại thấy hình ảnh hết sức khó hiểu.

      Năm phút trước khi tôi quay trở lại nhà ông Từ, chiếc xe con hiệu Santana 3000 màu đen mang biển kiểm soát Thẩm Dương lái vào cổng khu chung cư, dừng dưới chân nhà ông Từ nhưng tắt đèn tắt máy. lúc sau, vợ chồng ông Từ mặc áo len vội vàng bước xuống cầu thang, chui vào trong xe. Chiếc xe lao nhanh rời khỏi khu chung cư, và suýt đụng tôi ở cổng ra vào.

      Sau khi tôi, Lão Mục, Tiểu Đường và mấy người khác bước lên cầu thang lâu, mưa tuyết dần tạnh, trời cũng quang đãng hơn. ông cụ bước tập tễnh từ ngoài vào khu chung cư, cứ lòng vòng trước cửa cầu thang. Ông ta mấy lần dợm bước đến cầu thang, giơ tay lên, có vẻ như định ấn chuông nhưng rồi lại dừng lại, ngửa mặt lên nhìn. Động tác này lặp lại rất nhiều lần, cho đến khi đèn trong nhà tắt hẳn, ông Từ mới quay người vội vàng rời khỏi khu chung cư.

      Do bên ngoài khu chung cư chỉ có camera chiếu thẳng cửa chính, nên chỉ có thể nhìn thấy chiếc xe và ông cụ cùng mất hút trong gió tuyết mà biết theo hướng nào. Qua điều tra, biển số xe ô-tô là biển giả của tỉnh Thẩm Dương, sau khi hỏi thăm bảo vệ trực ban, bọn họ đều xác nhận ông già đó chính là Từ Vạn Lý.

      Tôi há hốc mồm, mãi chẳng được lời nào.

      Lão Mục lấy chiếc USB Tsinghua Tongfang màu vàng từ trong túi ra, cắm vào máy tính bàn trong phòng khách, trầm ngâm :

      - Trong này copy toàn bộ nội dung đoạn băng ghi hình trong camera lúc đó, tự xem .

      Giữa trời gió tuyết, ông Từ tập tễnh tiến vào khu chung cư, có lúc hình ảnh của ông trực diện với camera, mặc dù quần áo hoàn toàn khác với hồi chiều, nhưng nhìn hình dáng, mặt mũi chính xác là ông Từ Vạn Lý, hơn nữa đôi lông mày còn nhíu chặt lại, trông có vẻ như mang nặng mối lo âu gì đó.

      Xem đến đây, tôi cảm thấy vô cùng băn khoăn, ràng ông cụ nhận được điện thoại của tôi, tại sao sau đó lại vội vàng ra như vậy? Nếu ông thực muốn hé lộ với chúng tôi điều gì khi quay trở lại tại sao cứ chần chừ mãi, lên lầu? Tôi quay lại nhìn Lão Mục, ta cười cười lắc đầu, cũng thể lý giải nổi.

      Tắt máy tính, Lão Mục tiếp với tôi, sau khi trời sáng ta tìm đến trường mĩ thuật nhờ các cao nhân ở đấy xem kỹ bức tranh, ngoại trừ những ngọn tháp cao ra những phần khác đều được vẽ bình thường. Ngoài ra, khi hỏi những người lớn tuổi, họ đều biết gì về Từ Vạn Lý, trừ việc nghe đâu như ông ta có thói quen rất kỳ lạ, đó là luôn đóng cửa thư phòng im lìm và nghiêm cấm bất kỳ ai tới gần.

      Tôi ngỡ ngàng nhớ lại vẻ sốt sắng của ông Từ khi dẫn tôi vào trong thư phòng, chắc chắn là có ý đồ gì đó, nhưng giống như những gì tôi suy đoán tối qua, những chuyện kỳ lạ sau cái chết của cậu tôi giờ ông ta mới nghe thấy, làm sao có thể biết trước mà gài bẫy được? Thế nhưng, Từ Vạn Lý chỉ mới rời khỏi nhà năm phút trước khi tôi tới, điều đó chứng tỏ ông ta ở nhà suốt nhưng cố ý nghe điện thoại của tôi. Nếu thực ông ta cố tình như vậy, có thể là để cho tôi thời gian suy nghĩ, phán đoán ra chân tướng rồi mới quyết định ra . Thế nhưng tại sao ông ta lại phải làm như vậy?

      Tôi lập tức lấy quyển sổ ghi chép ra để Lão Mục giúp tôi phân tích tình hình. Sau khi Lão Mục xem xong, ta trầm tư lúc, rồi chuyện này quá lạ kỳ, lại còn chiếc khay sứ trong Cố Cung Thẩm Dương nữa chứ, hai chuyện này nhất định có liên quan đến nhau. Các cấp lãnh đạo Cục An ninh Quốc gia vùng Đông Bắc cũng bắt đầu quan tâm đến chuyện này, trước mắt họ phải báo cáo lên cấp và tin tưởng rằng nhanh chóng được phê duyệt, bên phía Bắc Kinh cũng hợp tác cùng điều tra.

      Tôi như trút bớt được gánh nặng, nếu như được giúp đỡ của lực lượng An ninh Quốc gia hệ số thành công tăng gấp đôi, còn về phía cá nhân tôi mà , có được trợ giúp đúng lúc quả là còn gì hạnh phúc hơn.

      Tôi lại hỏi Lão Mục về hướng của Tang Giai Tuệ, Sở Khinh Lan và Hắc Lão Ngũ. ta rằng vì có liên quan đến kỹ nghệ bí truyền của Kiện môn và những bí về Cố Cung nên chỉ có Tang Giai Tuệ người của công an tỉnh tham gia, còn với cấp bậc nay ta được phép biết thêm chi tiết cụ thể nào.

      Sắc mặt của Lão Mục chợt trở nên nghiêm nghị, rằng trước mắt mọi việc giống như bài toán khó, chỉ có thể điều tra dựa vào những manh mối có được gồm mảnh da lưng của cậu tôi và mười chín bức quốc họa của Từ Vạn Lý. Chỉ đến khi được cấp phê chuẩn, ta mới được phép phối hợp hành động cùng tôi, đồng thời lúc đó mới có thể kéo thêm cả Tiểu Đường quay về Cẩm Châu lần nữa để điều tra.

      Nghe có thể trở lại Cẩm Châu, trong lòng tôi hi vọng tràn trề, nhưng lại có chút lo lắng khi nghe đến việc đưa Tiểu Đường cùng vì thấy chuyện này được thực tế cho lắm. đứa con điệu chảy nước, biết đấm đá còn làm được trò trống gì?

      Sau khi Lão Mục rời lâu, Tiểu Đường tỉnh giấc bước ra khỏi phòng, tay vỗ vỗ bụng, ngoác mồm kêu đói ầm ĩ. Tôi vội dọn cơm canh lên bàn, vừa ăn vừa qua với bé về tình tình nay.

      Tiểu Đường rất chăm chú nghe, nhưng khi nghe tôi nhắc đến chuyện có thể trở lại Cẩm Châu để mở cuộc điều tra bé vội vàng bỏ đũa xuống, vỗ tay hoan hỉ, nhưng giọng điệu vẫn đều đều đổi:

      - Hay quá, chị Lan Lan từng xuống lòng Cố Cung rồi, nghe rất chi là hấp dẫn, xem ra em cũng có cơ hội được tham gia rồi.

      Lúc đó tôi chỉ mỉm cười vì tính khí trẻ con của bé, nhưng hề biết rằng rất nhiều chuyện sau này đều từ bé mà ra, thậm chí còn rất nhiều người khác bị cuốn vào khiến cho việc ngày càng trở nên kỳ lạ.

      Sau khi ăn cơm xong, Tiểu Đường đưa tôi đến bệnh viện để thay băng, may mà chữa trị kịp thời nên vết thương vẫn chưa bị lên mủ, nếu rắc rối to. Lúc ra ngoài đợi xe, tôi buột miệng hỏi:

      - Tiểu Đường, có phải thợ xăm thân khắc hình bọn em cần phải có khả năng hội họa nhất định , nếu sao có thể xăm đẹp như thế chứ?

      Tiểu Đường thở dài, giọng hơi có chút xúc động:

      - Vâng, ban đầu là phải rèn luyện kỹ năng hội họa, tức là sao chép mọi loại tranh, thậm chí còn phức tạp và công phu hơn cả hình xăm, cho nên thời cổ đại...

      đến đây, bé lập tức im bặt, rồi thở dài thườn thượt, khuôn mặt bỗng chốc trở nên buồn thảm, cho dù tôi có gặng hỏi thế nào chăng nữa cũng thêm câu nào. Thấy vẻ bí hiểm của bé, tôi khỏi tò mò: Cổ đại... cổ đại gì chứ?

      Sau bữa ăn tối, Lão Mục lại đến nhà Tiểu Đường, xếp những bức ảnh chụp mười chín bức quốc họa ra mặt bàn, rồi với chúng tôi, dựa vào những kiểm định về thời đại sử dụng những tấm giấy này và loại mực đó cho thấy chúng đều ra đời vào khoảng trước hoặc sau năm 1989, cùng thời điểm với bức tranh toàn cảnh Cẩm Châu, điều này hết sức bất ngờ.

      Chúng tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng nhận định rằng, những bức tranh này chỉ có thể là từ người vẽ, rồi được đánh số năm khác nhau; Từ Vạn Lý cứ cách năm lại thêm bức, cứ như thế liên tục trong mười chín năm. Thế nhưng về động cơ và phương cách cất giấu khó để suy đoán.

      Lão Mục bất ngờ quay sang hỏi tôi:

      - À, Tiêu Vi, liệu ngọn tháp trong bức tranh của cậu ở Cẩm Châu có đủ mười chín tầng ?

      Câu hỏi này tôi cũng từng nghĩ đến, là người sinh ra và lớn lên ở Cẩm Châu, hơn nữa đơn vị cũng nằm đối diện với vườn hoa tháp cổ, nên có nhăm mắt tôi cũng biết tháp cổ nay chỉ có mười ba tầng, chứ phải là mười chín tầng.

      Thế nhưng câu hỏi của Lão Mục khỏi khiến tôi phải suy ngẫm, bức tranh của cậu tôi và cả mười chín bức quốc họa của Từ Vạn Lý đều mang ám thị rất kỳ lạ, liên quan đến ngọn tháp cổ.

      Lão Mục gật gật đầu, trầm ngâm :

      - sai, sau khi Cục An ninh Quốc gia nghiên cứu xong, cũng đưa ra những quan điểm như thế, hơn nữa họ cũng đưa ra sắc lệnh phát triển điều tra trong thời gian sắp tới, hãy chuẩn bị tinh thần, có thể phải quay trở lại Cẩm Châu bất cứ lúc nào đấy.

      Trước khi Lão Mục rời , tôi lôi chiếc bật lửa và con dao của tên lùn làm rơi ra, nhờ ta kiểm tra dấu vân tay. Ngay sáng sớm hôm sau, Lão Mục gọi điện tới, thông báo với tôi dấu vân tay đó hoàn toàn bình thường. Trong lòng tôi nảy ra vô số những hoài nghi, lẽ nào gã lùn trong hai lần đó chính là , tên trước là đàn ông để lại dấu vân tay, tên sau lại là phụ nữ để lại dấu vân tay, nhưng tại sao lại có thể giống nhau đến như thế và chỉ nhắm vào tôi. Nếu như tên sau đúng là phụ nữ, tại sao lại luôn mang theo bật lửa trong người, nếu đấy phải là người nghiện hút thuốc lẽ nào lại là tên thái giám?

      Tiểu Đường ngồi lặng lẽ góc, giống như trầm tư suy nghĩ, tay phải vân vê chiếc kim sáng loáng, ngừng miết lên lòng bàn tay còn lại, do vô ý miết mạnh quá khiến mũi kim đâm sâu vào da thịt, làm trào ra những giọt máu tươi. Tôi hoảng hốt hỏi nghĩ gì mà bất cẩn thế. Tiểu Đường chỉ cúi đầu gì, lúc lâu sau, mới bất ngờ thốt lên:

      - Xem ra... – Dừng lại lúc, bé lắc đầu, mắt nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay, trong vô thức – thể như thế, thể như thế được, làm sao mà họ vẫn ...

      Tôi chợt giật mình nhận ra, điệu bộ của Tiểu Đường lúc này giống cậu tôi khi mơ ngủ, đặc biệt là câu “bọn họ vẫn ”, tôi vội vàng gặng hỏi:

      - Tiểu Đường, em vừa bọn họ vẫn ... bọn họ là ai?

      Tiểu Đường giật mình bừng tỉnh, mặt ngơ ngác hỏi lại tôi:

      - Em gì?

      Sau khi nghe tôi kể lại, bé bình thản :

      - Chắc là chị nghe nhầm. – rồi quay lưng bước vào trong phòng, nhàng đóng cánh cửa lại.

      Cho đến khi tối muộn, đợi tôi nấu xong cơm gọi ra ăn, Tiểu Đường mới mở cửa bước ra, tôi phát trong lòng bàn tay trái có thêm hơn chục vết cứa nông sâu khác nhau, có chỗ máu vẫn ứa ra, có chỗ liền miệng.

      Tôi giật thót tim, nhưng vì quen với tính cách kỳ lạ của bé nên hỏi thêm câu nào mà chỉ tìm bông và cồn y tế, nhàng giúp băng rửa vết thương.

      Lông mày Tiểu Đường cau lại, nhàng xoa xoa lòng bàn tay, rồi bất ngờ hỏi:

      - Chị Tiêu Vi, chị có biết lòng bàn tay chị Lan Lan có những lỗ ?

      Tôi cũng nhớ có lần Tang Giai Tuệ nhắc đến chuyện trong lòng bàn tay Sở Khinh Lan có khắc lỗ , rồi dùng kỹ thuật điều khiển bằng khớp xương bàn tay mà mở được cánh cửa Hắc xà Linh môn dưới lòng Cố Cung. Nghe , tất cả những cao thủ mở khóa đều khắc rãnh trong lòng bàn tay, sâu vào tận trong xương cốt để cố định những dụng cụ mở khóa đặc biệt.

      Thấy tôi gật đầu, Tiểu Đường tiếp tục:

      - Em luôn tò mò... – Dừng lại lúc, bé đứng dậy kéo tay tôi, rồi từ từ bước tới bên cửa sổ.

      Bên ngoài trời tối sầm, những đám mây lững lờ trôi , chúng ngừng biến đổi hình dạng, ở tít đằng xa lấp ló vài ngôi sao xíu, thoắt thoắt .

      Tiểu Đường ngẩng mặt nhìn lên trời cao, đôi lông mi ngừng chuyển động, phải lúc lâu sau mới cúi đầu xuống:

      - (Ngẩng mặt nhìn trời, xoay đầu thấy bóng), xem ra đúng như vậy rồi. Tay chị Lan Lan chằng chịt những vết tích thời gian, nhưng bản thân tại sao lại biết?

      Tôi nghe mà thấy mông lung, khẽ khàng hỏi lại:

      - Vết tích thời gian gì, Sở Khinh Lan biết cái gì?

      Tiểu Đường thở hắt, mơ hồ lắc đầu:

      - Cao thủ mở khóa, cao thủ xăm hình, xem ra chỉ có hai đứa chúng em, nhưng cũng đủ. Lẽ nào... – đến đó, Tiểu Đường quay mặt sang phía tôi cười khúc khích, lập tức chuyển chủ đề. – Chị Tiêu Vi, em đói quá, chị em mình ăn cơm thôi!

      Thấy Tiểu Đường lấp lửng, tôi cũng ép, nhưng luôn cảm thấy này chứa rất nhiều bí mật.

      Trong suốt nửa tháng sau đó, có chuyện gì bất thường xảy ra, Tiểu Đường cũng tới cửa hàng, hàng ngày chỉ đưa tôi tới bệnh viện thay băng rồi về, nhốt mình trong phòng khổ luyện kỹ thuật khắc hình. Đồ vật trong nhà và bốn bức tường đều chằng chịt những hình vẽ các loại động vật, chim muông, thậm chí cả những bức chân dung. Chúng đều rất tinh tế và sắc nét, giống như những tác phẩm điêu khắc tinh xảo vậy.

      hôm, sau khi ăn cơm tối xong, tôi và Tiểu Đường cùng ngồi sô-pha trò chuyện đủ mọi chủ đề. Khi đến những đường vân bề mặt gỗ hồng mộc, Tiểu Đường lập tức trở nên trầm tư, bé đứng dậy tắt hết đèn trong phòng chỉ để lại duy nhất chiếc đèn tường bé, chầm chậm bước tới trước chiếc gương lớn trong phòng khách. Tôi cũng tò mò theo, đứng bên cạnh quan sát.

      Tiểu Đường dừng lại lúc, biết lưỡng lự điều gì, rồi đột nhiên bước tới trước bước, hất cằm ra phía trước, đôi mắt mở to nhìn chằm chằm vào mặt mình trong gương.

      Dưới ánh đèn vàng mờ ảo, da của Tiểu Đường trở nên trắng bệch, hai khuôn mặt ở trong gương lẫn ở ngoài đời nhìn trực diện với nhau, hai đôi mắt cùng chớp chớp, giống như là hai người đứng đối diện nhau vậy.

      Tôi đứng phía sau khỏi bất ngờ, vì chưa hiểu muốn làm gì, định cắt lời hỏi, Tiểu Đường kịp ra dấu im lặng, rồi đưa ngón tay trỏ bên trái chầm chậm chạm vào mặt gương, tay phải lôi chiếc kim từ trong túi ra, từ từ đưa lên trước mặt, sau đó thận trọng đâm thẳng vào mặt gương.

      tiếng “rắc” phát ra, mặt gương lập tức xuất lỗ mắt , hết sức tròn trịa có chút dấu hiệu nứt vỡ, nằm ngay góc bên trái vầng trán.

      Sắc mặt Tiểu Đường vẫn bình thản thay đổi, toàn thân vẫn giữ nguyên vị trí, chỉ có mũi kim là lần theo gương mặt trong gương, tiếng lạo xạo phát ra ngừng nghỉ, cuối cùng bé cũng khắc xong khuôn mặt với vô số những vệt chấm . Sau khi dùng đủ loại mực tô điểm, khuôn mặt khắc gương giống y hệt người . Đặc biệt là đôi mắt rất có hồn, cho dù đứng ở góc độ nào, đôi mắt ấy vẫn như dõi theo mình vậy.

      Tiểu Đường khẽ gật đầu, lùi lại vài bước, đứng sát bên cạnh tôi, cả hai chúng tôi cùng chăm chăm nhìn vào khuôn mặt đó. mặt gương giờ đây ngoài tôi và Tiểu Đường ra, còn có thêm khuôn mặt đó, xếp song song với nhau, nét mặt và thần thái tinh xảo đến vô cùng. Tôi ngỡ ngàng, giữa khuôn mặt gương và khuôn mặt của người đứng cạnh tôi bây giờ, thể phân biệt đâu mới là khuôn mặt của Tiểu Đường.

      Bỗng ý tưởng chợt lóe lên trong đầu tôi, hay là lúc trước, cũng vào buổi tối như thế này, cậu tôi cũng kinh ngạc khi nhìn thấy hình xăm lưng mình, rồi tiện tay khắc lại khuôn mặt của chính mình, nét biểu cảm đó vừa hết sức kinh ngạc lại mang nét hoang mang...

      Tôi bừng tỉnh trở lại thực tại, cố nén những băn khoăn trong lòng, ngừng tán dương tài nghệ của Tiểu Đường. Tiểu Đường buồn bã lắc đầu, đôi mắt vẫn rời khỏi khuôn mặt gương, khẽ :

      - Quá kém, khác biệt lớn quá! Nếu đem so sánh với nét khắc hình rồng tấm gỗ hồng mộc và mười chín ngọn tháp kia, đây chỉ là rác rưởi thôi.

      Tôi phì cười, an ủi:

      - Chị thấy đẹp lắm, giống y như mà!

      rồi tôi đưa tay sờ lên mặt gương. Những lỗ chi chít tạo thành những đường nét mềm mại, giống hệt như tác phẩm điêu khắc thủy tinh, nhưng lại hề thô cứng.

      Hết sức tò mò, tôi liền lấy cây kim từ tay Tiểu Đường, thử cào lên mặt gương, chỉ thấy cứng như đá, cố miết thử vài đường, mũi kim đều bị trượt .

      Thấy tôi cứ mân mê cây kim mà làm được gì, Tiểu Đường liền mỉm cười:

      - Chị Tiêu Vi, chị biết miết hình bằng tay chỉ phí công vô ích thôi.

      Tiểu Đường tiếp tục giải thích với tôi, miết hình là kỹ năng tất yếu của nghệ thuật khắc hình, nó hoàn toàn dựa vào cảm nhận của đầu ngón tay khi lần theo kết cấu và đường vân rồi từ đó mới tìm ra vị trí hợp lí để đặt mũi kim.

      Tiểu Đường hướng dẫn tôi dùng đầu ngón tay nhàng và thận trọng đặt lên mặt gương để cảm nhận chất liệu nhưng cho dù tôi mân mê bao lâu chăng nữa ngoài cảm giác trơn lạnh ra thấy điều gì khác.

      Tiểu Đường cười mỉm rồi đưa tay ấn lên đầu ngón tay tôi, vừa từ từ miết mặt gương, vừa giải thích nét dày mịn, nét thưa ghồ ghề, bất kể là chất liệu gì bề mặt đều để lại dấu vân của mình, đó cũng là lựa chọn tốt nhất để chọc mũi kim, câu thành ngữ “kiến phúng tháp châm” (thấy chỗ hở châm kim vào) cũng chính là từ đó mà ra.

      bé cứ thao thao tràng giang đại hải, còn tôi gật gù cố tỏ ra là mình hiểu, nhưng phải rằng, những điều này thần kỳ, làm sao chỉ miết lên bề mặt chất liệu mà có thể nhận ra bao điều cổ quái đến thế, sau này còn bao điều phức tạp hơn thế nữa đây?

      Tiểu Đường tiếp tục , sau khi miết hình, phải dựng thẳng đứng mũi kim, dùng lực và khéo léo của đầu mũi kim để xăm hình. Khi xăm phải hoàn toàn tập trung, kết hợp với lực từ mảnh vải lụa trong lòng bàn tay cuốn quanh mũi kim.

      Tiểu Đường lại lôi ra mũi kim nhỉnh hơn mũi kim kia chút, rằng tôi giờ chưa biết gì về kỹ thuật xăm nên phải dùng vật thay thế, mũi kim này xem ra phù hợp nhất. bé hướng dẫn tôi đặt mũi kim lên đường vân tay của ngón trỏ tay phải, đồng thời dùng ngón tay cái giữ chặt, làm sao để đảm bảo chúng luôn dính chặt lấy nhau được nới lỏng dù chỉ trong giây lát.

      Sau khi thấy các ngón tay tôi ở đúng vị trí, bé mới dùng đầu ngón tay miết lên mặt gương vài cái rồi chọn ra vị trí, sau đó nắm lấy tay tôi nhàng đặt mũi kim lên đúng vị trí đó và giữ chặt.

      Tiểu Đường bất ngờ ấn mạnh lên mũi kim, tôi kịp cảm thấy lực đẩy quá mạnh nhưng ngay lập tức mũi kim nhàng đâm sâu vào mặt gương. Sau khi nhấc tay ra, mũi kim gắn vuông góc với mặt gương, giống như nó vốn mọc đó mà hề bị rơi xuống.

      Chứng kiến cảnh này, tôi đờ đẫn như hóa đá, biết là thực hay mơ. lúc sau Tiểu Đường rút mũi kim ra cho vào trong bọc và :

      - Chị Tiêu, lần này nếu Cẩm Châu, chị nhất định phải cho em cùng để được tận mắt nhìn thấy mảnh da xăm hình của cậu chị, em nghe nó được xăm cách thần kỳ, nhưng em vẫn chưa tin lắm, vì về nghệ thuật xăm hình ở Trung Quốc nay, chưa có ai qua được em.

      Tôi gật gật đầu, :

      - sao, dựa vào quan hệ giữa chị và Mã Vân Vĩ việc lấy mẫu vật ra chắc là khó lắm.

      Lúc đó, khi đồng ý với Tiểu Đường tôi nghĩ sâu xa gì, chỉ coi Tiểu Đường như đứa trẻ hay tò mò thôi. Nhưng sau này tôi mới biết, thực ra ý định khác.

      Kể từ khi tôi chuyển tới đây, Tiểu Đường hề tới cửa hàng, mọi chi tiêu trong nhà đều do bé chi trả. khó để nhận ra Tiểu Đường là hết sức thời thượng, từ ăn uống, thời trang cho đến đồ trang điểm đều là hàng hiệu; đặc biệt là quần áo, mặc nếu như phải thiết kế của Dior. Nghĩ lại lúc tôi bằng chừng này tuổi, có đồ của Giordano hay của Baleno xa hoa rồi, xem ra thế hệ 9X nay đúng là dám tiêu tiền. Thế nhưng tôi lại nghĩ, mỗi lần xăm hình đầu con hổ bé xíu Tiểu Đường nhận được ba nghìn tệ, trong mấy năm trời mở tiệm, chắc chắn bé cũng chẳng thiếu tiền.

      Ngoài khả năng xăm hình thông thường, Tiểu Đường thỉnh thoảng còn lôi bút lông ra vẽ lại những bức họa nổi tiếng của Trung Quốc. Bất kể loại tranh đó là tranh tĩnh hay tranh động; chủ thể là hoa lá, động vật hay chân dung, chúng đều rất có hồn, tới mức khó phân biệt, xem ra này thực người đa tài. Giờ nghĩ lại, lúc đó đáng lẽ ra tôi phải đoán ra thân phận của này, nhưng tôi vô tình bỏ qua nó.

    2. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 11: Ký ức

      trẻ tuổi kia ăn vận rất đơn giản, người gầy gầy nhắn, mái tóc mỏng màu hung vàng tết thành hai bím tóc, làn da trắng muốt đến độ vầng trán hơi dô còn hằn lên vài đường tĩnh mạch xanh xanh, da của ấy mỏng tới mức dường như có thể nhìn thấy cả mạch máu lưu chuyển.

      Hơn nửa tháng sau, vào buổi sáng, Lão Mục bất ngờ xuất trước cửa và đem đến tin tốt lành, Cục An ninh Quốc gia tiến hành nghiên cứu và quyết định vụ này do Sở Công an thuộc khu vực Đông Bắc hoàn toàn chịu trách nhiệm dưới chỉ huy trực tiếp của Trần Đường mà phải chịu quản lý từ công an tỉnh, xem ra chúng tôi nhanh chóng được trở lại Cẩm Châu. Thế nhưng trước khi trở lại Cẩm Châu, chúng tôi phải tới Bắc Kinh tìm người quen trong Bộ Quân để xác minh lại số nghi ngờ.

      Tôi vội vàng hỏi ta đến Bắc Kinh tìm ai. Nhưng Lão Mục cũng , chỉ khẳng định rằng đến Bắc Kinh có người đến đón và đưa . Đồng thời ta còn thêm với tôi, tất cả mọi việc từ nay về sau chỉ có ta, tôi và Tiểu Đường hành động; được phép có người thứ tư tham gia, và để đảm bảo an toàn, họ trang bị cho tôi vũ khí phòng thân.

      Nghe thấy mình được trang bị súng, tôi khẽ gật đầu, xoắn chặt hai bàn tay, trong lòng cảm thấy phấn khích và háo hức khó tả.

      Chỉ vài ngày sau, Lão Mục lái xe đưa chúng tôi tới ngôi biệt thự nằm ở vùng ngoại ô của Tô Gia Đồn thuộc tỉnh Thẩm Dương. Ở đó, tôi gặp Trần Đường – người phụ trách an ninh của cả khu vực Đông Bắc tiếng tăm lừng lẫy, và số vị lãnh đạo cao cấp khác nữa. Trần Đường khoảng chừng 37 tuổi, người dong dỏng cao, phong thái đĩnh đạc uy nghiêm với ánh mắt sắc sảo. Sau vài câu chào hỏi và giới thiệu, Trần Đường cầu chúng tôi chuẩn bị tới Bắc Kinh ngay trong đêm nay, rồi đưa cho tôi khẩu súng lục ổ quay 92 cùng băng đạn.

      bao nhiêu ngày sờ tới súng, tôi ngứa ngáy tay chân, lập tức tháo ổ súng, băng súng kiểm tra ngay khi nhận lấy nó. Quả đúng là hổ danh, nếu đem so với khẩu súng tôi thường dùng trước đây khẩu này đúng là trời vực.

      Trần Đường mỉm cười quay sang hỏi Tiểu Đường:

      - bé, có muốn khẩu như thế ?

      Tiểu Đường lắc đầu quầy quậy, trả lời dõng dạc:

      - Cháu biết dùng mà cũng dùng đến, hơn nữa... – Dừng lát, bé cúi đầu lấy chiếc kim từ trong bọc, giơ ra trước mặt Trần Đường – cháu có cái này rồi, nó còn có sức mạnh hơn cả súng nữa cơ!

      rồi tiện tay chọc mũi kim xuống mặt bàn, cây kim phát ra tiếng rít , nhàng như chọc vào miếng đậu phụ, trong chốc lát nhìn thấy chiếc kim đâu nữa. Trần Đường và những người chứng kiến cảnh này đều trợn tròn mắt khỏi ngỡ ngàng.

      Khoảng 11 giờ 30 phút tối hôm đó, Lão Mục lái chiếc xe Jeep mang biển quân tới đón tôi và Tiểu Đường vài vòng quanh thành phố để đảm bảo bị bám theo, rồi mới tiến ra quốc lộ, chân đạp mạnh ga, lái xe lao vút về phía Bắc Kinh.

      Do là đêm khuya nên quốc lộ vắng tanh, ngoài vài ánh đèn pha của những chiếc xe chở hàng ra còn gì khác.

      Ban đầu Tiểu Đường rất phấn khích, hào hứng kể chuyện cười cho mọi người, ngừng hỏi han chúng tôi mọi điều, nhưng chỉ lúc sau, chịu được liền gục lên cửa kính xe, ngủ ngon lành.

      Lão Mục lái xe cách điêu luyện, chiếc Jeep luôn đạt tốc độ 110km/h nhưng vẫn êm ru. Tôi ngồi phía trước cạnh ghế lái, mặt hướng ra bên ngoài, chăm chú ngắm nhìn khu rừng lùi dần về phía sau, dưới làn sương mỏng trong đêm và ánh đèn pha ô-tô, lá cây như được phủ màu vàng mờ mịt.

      Từ trong gương chiếu hậu tôi nhìn thấy Tiểu Đường giờ nằm hẳn xuống hàng ghế sau, miệng nhai tóp tép, hoàn toàn ngủ say.

      Tôi chăm chú quan sát bé ngủ lúc lâu, thấy lòng nhàng và thanh bình hơn nhiều. Cho dù trước mặt còn nhiều khó khăn và vất vả, nhưng có người bạn đồng hành như vậy quả là điều hạnh phúc. Nghĩ đến việc lái xe trong đêm sợ nhất là buồn ngủ và ngủ gật, nên tôi chủ động tắt máy sưởi trong xe, cởi áo khoác của mình đắp cho Tiểu Đường, rồi quay sang chuyện phiếm với Lão Mục.

      Tiếp xúc với Lão Mục cũng lâu nên tôi cảm thấy rất thân thiết, hơn nữa tôi và ta còn phải phối hợp nhiều trong công việc, tốt nhất nên cởi mở để nhanh hiểu nhau hơn, vì vậy chúng tôi chuyện rôm rả từ chủ đề này sang chủ đề khác.

      Lão Mục kể với tôi, tên đầy đủ của ta là Mục Chí Kiệt, năm nay 49 tuổi, là người sinh ra và lớn lên ở Tô Gia Đồn, Thẩm Dương. Năm 1976 lão gia nhập quân ngũ, thuộc lữ đoàn trinh sát 40 thành phố Thẩm Dương, đây cũng là tiền thân của binh đoàn đặc chủng Trung Quốc. Năm 1979 cuộc bạo loạn phản kháng tự vệ xảy ra, đầu là quân khu thành phố Quảng Châu, rồi lần lượt lan đến các quân khu khác, lúc bấy giờ Lão Mục mang hàm trung đội trưởng, nên nhận luôn nhiệm vụ hộ tống đoàn chuyên gia bác sĩ lên tuyến . Sau khi rời khỏi quân ngũ vào năm 1982, do những thành tích xuất sắc và khả năng đặc biệt của mình mà ta lại được Cục An ninh Quốc gia vùng Đông Bắc triệu tập làm việc.

      Nghe lão kể đến giờ vẫn chưa kết hôn, tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng liền hỏi:

      - Lão Mục, tại sao tìm vợ ? Cứ mình thế này đơn lắm!

      Lão Mục nghe xong phản ứng gì, chỉ trầm ngâm rất lâu trước khi trả lời cách bình thản:

      - Làm đặc công, khó lập gia đình!

      rồi ta vân vê chòm râu, mặt vẫn hướng về phía trước nhưng ánh mắt lại để lộ nét đau khổ khó diễn tả.

      Ngoài những thông tin này, Lão Mục dường như thêm gì nhiều. Tôi cũng tự hiểu rằng, Cục An ninh Quốc gia khi tuyển chọn người cũng có những cầu riêng rất khắt khe, họ phải điều tra hoàn cảnh gia đình trong tám đời, bất kể là người có hay em thân thích, đều phải tuyệt đối trung thành với đất nước và tư cách chính trị được phép vấy bẩn. Nghĩ đến hoàn cảnh đó, nên tôi cũng dám hỏi nhiều.

      Khoảng hai tiếng sau, xe chúng tôi tới thành phố Cẩm Châu. Mặc dù là buổi tối, khó có thể nhìn khung cảnh thành phố, nhưng nhờ có ánh đèn pha ô-tô mà tôi vẫn nhìn thấy hai chữ “Cẩm Châu” tấm biển hiệu màu xanh ở đầu quốc lộ dẫn vào trung tâm thành phố, nó thực tác động mạnh lên thần kinh tôi lúc này.

      Tôi đặt hai tay lên cửa kính xe, cố mở mắt to để nhìn ra bên ngoài, sống mũi cay cay, hai hàng nước mắt chỉ chực trào ra, chỉ mong được về thăm bố mẹ ngay bây giờ. Tôi xa nhà vài tháng nay rồi, cũng dám gọi điện về hỏi thăm, biết bệnh tình của mẹ tôi thế nào, bà được xuất viện hay chưa?

      Bỗng nhiên, tôi nghe thấy giọng Lão Mục bên cạnh:

      - Lại đổi xe rồi!

      Tôi giật mình quay đầu lại, nhìn thấy tay phải Lão Mục chỉnh chiếc gương chiếu hậu trong xe hơi nghiêng sang bên phải, đồng thời tay trái chỉnh vô-lăng sang trái, hai mắt vẫn rời chiếc gương chiếu hậu.

      Tôi lập tức hiểu ra ngay, vội nuốt những lời chuẩn bị thốt ra vào bụng, chắc chắn có người theo dõi! Tôi gặng hỏi cũng quay đầu, chỉ với tay kéo dây an toàn thắt quanh người, mắt mở to chăm chú theo dõi phía đằng sau qua gương chiếu hậu.

      mặt gương chiếu hậu trong suốt và nét, lên hai ánh đèn pha cách chúng tôi chừng năm mươi mét, do ánh đèn quá chói nên tôi thể nhìn là loại xe gì, nhưng qua phán đoán chiếc xe đó theo sát chúng tôi với cùng tốc độ.

      Lão Mục sang số, với tôi, từ lúc chúng tôi ở phía tây Thẩm Dương, ta phát ra chúng tôi bị theo đuôi, cứ khoáng qua hai trạm thu phí chúng lại thay chiếc xe khác, liên tục theo sát chúng tôi. Thế nhưng từ sau khi đến thành phố Lăng Hải, mật độ đổi dày hơn, cách trạm thay xe; từ trạm Bắc Cẩm Châu, trạm Lăng Hải, trạm Đông Cẩm Châu, trạm Tùng Sơn và sắp tới ìà trạm Cẩm Châu đều như thế.

      rồi Lão Mục thò tay vào túi ngực, móc ra hai miếng giấy màu bạc hình tròn to bằng đồng xu, miếng dán lên mặt kính cửa sổ bên ta, miếng còn lại Lão Mục ra hiệu cho tôi dán vào vị trí đối diện.

      Hai miếng dán đó tạo thành góc hình cung cố định, giống như mặt kính lồi được thu , qua ánh sáng phản chiếu từ hai chiếc gương chiếu hậu hai bên, có thể nhìn rô hơn hình ảnh của chiếc xe theo dõi đằng sau. Tôi chăm chú nhìn kỹ, ra là chiếc xe Passat màu trắng mang biển Cẩm Châu.

      Tôi chau mày, quay sang hỏi Lão Mục:

      - Lão Mục, liệu đây có phải là bọn xã hội đen đó ?

      Lão Mục quét mắt qua chiếc gương, khẽ lắc đầu, chậm rãi :

      - Ban đầu tôi cũng nghĩ thế, thế nhưng mãi thấy chúng ra tay mà chỉ theo sát nút chúng ta, có vẻ như giống bọn xã hội đen lắm. Rất khó có thể đoán được động cơ của chúng, đặc biệt là tại sao vào trong địa phận Cẩm Châu rồi chúng lại theo sát ta với mật độ dày đặc như thế. – rồi, ta quay ra phía sau xe nhìn Tiểu Đường, khẽ dặn. – Đừng đánh thức bé vội, để xem tình hình thế nào .

      Tôi gật đầu tán thành, tay trái nắm chắc dây an toàn, tay phải cầm chặt khẩu súng, hồi hộp tới mức rời mắt khỏi gương chiếu hậu, trong đầu tưởng tượng ra rất nhiều tình huống và cách tấn công nếu trường hợp xấu nhất xảy ra.

      Thế nhưng lạ cái, tôi cứ đợi mãi mà vẫn thấy chúng ra tay hành động, xem ra độ nhẫn nại của chúng cũng ít. Chạy thêm vài trạm nữa, khi chúng tôi vào tới địa phận Hưng Thành thuộc đảo Hồ Lô, chiếc xe bám theo sau lại quay lại mật độ như trước, cứ hai trạm lại thay chiếc xe khác. Cứ lặp lặp lại quy luật như thế cho đến khi qua vùng Sơn Hải Quan, chiếc xe theo dõi mới từ từ biến mất.

      Lão Mục đặt ra giả thuyết, nếu những chiếc xe đó là của bọn xã hội đen phạm vi hoạt động của chúng chỉ trong địa phận tỉnh Liêu Ninh, do tưởng rằng chúng tôi di chuyển tới Cẩm Châu nên mới vội vàng bám theo. Nhưng tại sao chúng trực tiếp lao tới hoặc chặn đầu xe chúng tôi ngay quốc lộ, sau khi xử lí xong tẩu thoát.

      - Sau khi phát ra những phán đoán đó là sai, nên chúng phải thay đổi kế hoạch, vậy là chuyến tới Bắc Kinh lần này e rằng khó có thể thuận buồm xuôi gió rồi.

      Lão Mục gật đầu trầm ngâm, sắc mặt vẫn lạnh lùng:

      - Cứ chờ xem thế nào . Thế nhưng động được đến chúng ta ở Bắc Kinh, cũng phải là chuyện đơn giản. – rồi, ta quay phắt sang phía tôi hỏi – Tiêu Vi, có thuộc đường ở Hưng Thành ?

      Tôi hơi bất ngờ và thấy khó hiểu, tại sao Lão Mục lại chuyển phắt chủ đề như thế:

      - Đây là thành phố biển, thuộc đảo Hồ Lô, hồi tôi cũng từng tới đây tắm biển cùng bố mẹ.

      Lão Mục khẽ mỉm cười, quay đầu hướng về phía trước thêm câu nào nữa.

      Sau đó, chúng tôi lặng lẽ qua Hà Bắc, Thiên Tân. Tầm sáu giờ sáng tới nội thành Bắc Kinh.

      Lão Mục giảm bớt tốc độ, rút điện thoại ra, lắp tai nghe rồi ấn hàng gồm hơn hai mươi số, sau khi ấn nút gọi, điện thoại phát ra những tiếng cạch cạch. ta nheo nheo đôi mắt, ràng là rất tập trung nghe những tiếng hồi ầm trong điện thoại.

      Tôi cũng chăm chú lắng nghe, thấy những tiếng cạch cạch đó giống như tiếng đánh máy, nhưng phải là năm chữ mà là ba chữ và sáu chữ , thi thoảng còn nghe thấy tiếng cào của móng tay, thanh lúc nặng lúc , biết chúng có ý nghĩa gì.

      Lão Mục với tôi đây là mã thanh, phương thức liên lạc dùng riêng trong nội bộ Cục An ninh Quốc gia, thông qua biến đổi tần suất và mức độ nặng của thanh để diễn tả những từ và cụm từ khác nhau nhằm truyền tải thông tin, rất phù hợp với những lúc tiện chuyện. Khi nào có thời gian ta dạy cho tôi và Tiểu Đường cách sử dụng loại ngôn ngữ này.

      Khi chiếc xe chạy qua trạm thu phí cầu Tứ Phương thi những tia nắng mặt trời bắt đầu ló ra từ đằng đông, chúng chiếu lên cửa kính, khiến khung cảnh như bừng sáng, chúng tôỉ lái xe thẳng về phía đông vòng đai ba thành phố, hòa vào dòng xe tấp nập đường.

      Từ lúc xuống cầu Kình Tùng, con đường trở nên tắc nghẽn do mật độ xe quá nhiều, ì ạch mất hơn tiếng chúng tôi mới tới được Tây Trực Môn. Lão Mục dừng xe trước cửa hàng KFC để tôi mua ít đồ ăn sáng, sau đó ta còn lái xe chạy vòng vòng quanh khu Tây Trực Môn để chắc chắn rằng có ai theo sau, tới ngã ba mới nhấn ga tiếp tục lao vút .

      Cảnh vật hai bên đường cứ lần lượt chạy tuột ra phía sau, theo như thông tin bảng chỉ dẫn bên đường xe chạy về hướng Hương Sơn.

      Chiếc xe lao vun vút về phía trước, chỉ hơn hai mươi phút sau, chúng tôi đến khu vực núi non bao quanh, trước mặt là những ngôi nhà được xây dựng theo lối kiến trúc phương Tây với những chiếc cổng cao ngất, nhưng lại thấy treo biển hay bất kì vật gì đằng trước. Những ngôi biệt thự lớn khác nhau, cứ san sát và nối tiếp nhau chạy dài về tít đằng xa. Đây giống như khu biệt thự liền kề, nhưng tôi thể đếm được có tất cả bao nhiêu vì có quá nhiều. Phía trước cổng lớn là trạm gác, có hai chiến sĩ công an mặc quân phục và trang bị đầy đủ súng ống, nghiêm trang đứng gác bên ngoài. Bên cạnh người đàn ông trung tuổi đứng chắp hai tay sau lưng đứng đợi.

      Lão Mục lái xe chầm chậm đến bên cạnh, hạ cửa kính ô-tô xuống, giơ tay chào. Người đàn ông trung niên khẽ gật đầu rồi quay người tiến tới trước mặt chiến sĩ gác cổng điều gì đó, thanh ba-ri-e lập tức được kéo lên.

      Khuôn viên bên trong rất sạch và yên tĩnh, chỉ có vài người bộ con đường rộng thênh thang; hai bên đường phủ màu xanh mát mắt xen kẽ là những phiến đá vuông lót lối và những cây thông cao vút, cành lá sum suê in bóng xuống mặt đường; đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, càng khiến cho gian xung quanh trở nên yên bình và tĩnh lặng. Chiếc xe cuối cùng cũng đỗ lại trước cửa ngôi biệt thự ba tầng màu trắng ngà.

      đứng trước cửa là người đàn ông trung tuổi mặc quân phục cảnh sát, Lão Mục mở cửa xe ô-tô, bước nhanh tới trước mặt người đàn ông rồi vài câu. Người đàn ông đó hướng mắt về phía tôi giơ tay ngang trán chào theo kiểu quân đội rồi dẫn chúng tôi vào bên trong. Nhìn quân hàm mà người đàn ông này đeo vai, ràng cấp bậc của ông ấy rất cao.

      gian bên trong ngôi biệt thự rộng rãi và thoáng đãng, nội thất được trang trí vô cùng trang nhã và sang trọng; trần nhà có chiếc đèn pha lê rất lớn và lộng lẫy, tường treo bức tranh điêu khắc bằng gỗ sậm màu, dưới sàn nhà trải thảm đỏ dày, tất cả mọi vật dụng khác đều mang nét tinh tế rất riêng mà tôi chưa từng thấy.

      Tiểu Đường khẽ kéo vạt áo tôi, vào tai:

      - Chị Tiêu Vi, đây là nhà của quân đội sao?

      Tôi khẽ lắc đầu, tỏ ý cũng biết, mặc dù trong lòng rất tò mò, nhưng vẫn cầm tay bé lặng lẽ sau lưng Lão Mục.

      Chúng tôi thang bộ lên tầng thứ hai, rồi rẽ vào hành lang dài và hẹp. Cảm giác ở này lại khác hẳn, mỗi khoang cửa sổ lại treo tấm rèm nhung in hình thiên nga xanh đen, giữa hai khoang cửa sổ là chiếc đèn tường hắt lên những tia sáng vàng dịu , tạo cảm giác tĩnh mịch đến vô cùng.

      Tôi bỗng nhìn thấy nữ cảnh sát dắt theo chừng mười bảy mười tám tuổi, từ đầu hành lang kia bước về phía chúng tôi.

      trẻ tuổi kia ăn vận rất đơn giản, người gầy gầy nhắn, mái tóc mỏng màu hung vàng tết thành hai bím tóc, làn da trắng muốt đến độ vầng trán hơi dô còn hằn lên vài đường tĩnh mạch xanh xanh, da của ấy mỏng tới mức dường như có thể nhìn thấy cả mạch máu lưu chuyển. Dáng vẻ cũng bình thường có gì xuất sắc, nhưng ánh mắt lại trong veo, vô định; hành động chậm rãi cẩn thận, ràng đây là mù. khoác vai chiếc ba-lô màu xanh bộ đội, tay trái cầm chiếc ô dài, mũi kim loại màu bạc đầu chiếc ô cào xuống mặt sàn phát ra tiếng lạo xạo, mỗi bước qua để lại mặt thảm vệt xước . Tôi khịt khịt mũi, ngửi thấy mùi hương rất lạ.

      Chờ cho họ qua đoạn xa, Tiểu Đường mới kéo sát tôi lại, khẽ thầm vào tai:

      - Chị Tiêu Vi, chị có biết , ấy là thầy thuốc đấy!

      Tôi giật mình, là thầy thuốc sao? Vội quay đầu nhìn lại, ấy vừa đúng lúc bước xuống cầu thang, còn quay đầu hướng về phía chúng tôi. Trong đôi mắt vô hồn ấy ánh lên tia sáng kì lạ, thế rồi bước thẳng xuống cầu thang.

      Bước tới trước cánh cửa phía cuối hành lang, người đàn ông rất lịch để chúng tôi đứng đợi ở ngoài, mở cánh cửa rồi mình bước vào bên trong.

      Tiểu Đường bước tới trước cánh cửa sổ, khẽ kéo tấm rèm nhung lên, ngó đầu nhìn xuống, rồi vẫy tay ra hiệu gọi tôi lại. Tôi vội đến bên cạnh, gầy guộc vừa gặp ở cầu thang cũng xuống sân, bước vào trong chiếc xe Jeep màu đen mang biển số quân đội. Nhưng điều khiến tôi khó hiểu là trời quang mây tạnh, hơn nữa chỉ có vài bước chân mà vẫn phải che ô, cả người co rúm dưới bóng chiếc ô, như sợ gặp phải tia nắng mặt trời.

      Tôi khẽ lắc đầu, trong lòng dâng lên cảm giác rất khó tả, nghĩ lại dáng vẻ kỳ lạ cuả ấy, trong đầu chợt nghĩ đến căn bệnh máu trắng, nếu tại sao lại có những hành động kỳ lạ đến vậy?

      Trong đầu miên man suy nghĩ chợt có tiếng cửa mở, người đàn ông trung niên ban nãy bước ra, tay ra hiệu mời chúng tôi vào còn tay kia cầm lấy nắm cửa kéo sang bên.

      Diện tích bên trong căn phòng khá rộng nhưng nội thất lại rất giản đơn, ngoài bộ bàn ghế sô-pha bằng da màu nâu đậm, bên bày bộ ấm chén pha lê ra còn vật dụng nào khác nữa, khiến cho căn phòng trở nên trống trải vô cùng. Bên cửa sổ treo tấm rèm nhung in hình thiên nga màu xanh đen, còn trần nhà bật vài bóng đèn màu vàng. Lan tỏa khắp gian bên trong căn phòng là mùi hương nhè , đó chính là mùi hương từ người trẻ lúc nãy.

      Chúng tôi theo chân Lão Mục bước sang bên phải căn phòng, rồi vòng qua tấm bình phong bằng gỗ, đằng sau đó là khoảng gian u, chỉ kê vẻn vẹn có chiếc giường lớn. người đàn ông lớn tuổi với thân hình gầy guộc chỉ còn da bọc xương nằm nghỉ, chiếc vỏ chăn màu xanh đậm trùm kín tận ngực.

      Mái tóc bạc bù xù, nước da vàng ệch, hai mắt nhắm nghiền, khuôn miệng mím chặt, trán hằn sâu vết đốm tròn, to gần bằng ba đầu ngón tay chụm lại, khiến cho khuôn mặt ông ta trở nên đáng sợ. Đứng bên cạnh giường là người đàn ông cũng khá đứng tuổi mặc quân phục, đeo hàm thiếu tướng và môt người khác chừng năm mươi tuổi, đeo kính gọng đen, dáng người hơi đậm.

      Người này đưa mắt nhìn tôi lúc mới quay sang Lăo Mục khẽ gật đầu, rồi cúi người xuống ghé sát vào tai ông già nằm giường, khẽ :

      - Thủ trưởng, ngài tỉnh dậy chưa? Cháu của Tôn Thạch tới rồi ạ!

      Nghe thấy vậy, tôi khỏi ngỡ ngàng. Chúng tôi phải qua bao đoạn đường đến đây, chỉ vì ông già kỳ dị nằm giường kia muốn gặp tôi.

      Ông già đó vẫn nằm yên chút phản ứng, duy chỉ có phần ngực khẽ phập phồng, cổ họng khẽ phát ra tiếng khò khè.

      Người đàn ông đeo kính gọng đen kia cố gọi thêm vài lần nữa, ông già mới khẽ nhúc nhích, khó khăn lắm mới mở được đôi mắt nặng trĩu, đôi đồng tử màu xám mờ đục tới mức có thể giãn ngay lập tức. Ông già cố gắng lắm mới thở hắt được hơi, khẽ nghiêng đầu lờ đờ nhìn chúng tôi lượt, cuối cùng đôi mắt ông dừng lại chỗ tôi, ánh mắt bỗng nhiên lóe sáng, trong khó nhọc:

      - Mi... Long... Long Bản... lấy... lấy ra... cho ta xem.

      Mặc dù thanh đứt đoạn khó nghe, lại dùng tiếng địa phương hơi buồn cười, nhưng khẩu khí của ông già rất kiên quyết, giống như mệnh lệnh uy nghiêm của cấp .

      Tôi ngơ ngác biết phải làm gì, đành quay đầu nhìn Lão Mục, người đàn ông đeo kính gọng đen lập tức bước tới trước, đưa tay phải về phía tôi, khẽ :

      - Đừng làm ngơ nữa, mau đưa nó ra đây!

      Tôi lưỡng lự rút tấm Long Bản ra đưa cho người đàn ông đó, ông ta lập tức quay đầu về phía ông già.

      Ông già khẽ rùng mình, đôi mắt trợn tròn nhìn chằm chằm vào tấm Long Bản, sắc mặt dần có chút sức sống. Ồng run rẩy thò ra ngón tay gầy quắt như chân gà từ trong chăn ra, khẽ chạm lên mặt tấm Long Bản, giọng hổn hển:

      -Thiên... Thiên Văn... quả đúng là...Thiên...

      Vừa dứt hơi, cổ họng ông khẽ rung lên, toàn thân nằm ẹp xuống giường, đầu quay bên, ngừng thở. Nhưng đôi mắt ông vẫn nhìn chằm chằm về tấm Long Bản.

      Tiểu Đường kêu lên tiếng kinh hãi, nép sau lưng tôi, nắm chặt cổ tay, miệng run run hỏi:

      - Chị Tiêu Vi, ông ấy... ông ấy chết rồi sao?

      Tôi tuy sợ nhưng trong đầu ngổn ngang những câu hỏi. Tất cả chuyện này là như thế nào? Ông già này là ai? Tại sao sau khi nhìn thấy tấm Long Bản lại lăn ra chết?

      Tôi đưa ánh mắt nhìn về phía người đàn ông đeo kính gọng đen cầm tấm Long Bản trong tay, gượng hỏi:

      - Đây...

      Chưa để tôi hết câu ông ta lắc đầu, vẻ mặt trầm xuống ra hiệu tạm thời được hỏi.

      Với ra đột ngột của ông già kỳ dị, người đàn ông đeo kính gọng đen cùng vị thiếu tướng kia dường như dự liệu từ trước nên thái độ của họ rất bình thản, chỉ có điều ánh mắt vẫn đượm nỗi buồn sâu sắc. Họ với nhau câu gì mà chỉ cùng đưa tay kéo tấm chăn phủ kín khuôn mặt ông già, cúi đầu chào vĩnh biệt.

      Chứng kiến những cảnh vừa xảy ra, lòng tôi ngừng suy nghĩ, lẽ nào họ muốn tôi chứng kiến cái chết của ông già này? Chắc chỉ giản đơn như thế chứ? Thế nhưng từ thái độ kì quặc của ông già khi nhìn thấy tấm Long Bản, tôi đoán chắc ông ấy có biết phần nào nội tình của nó, nếu sao lại phản ứng dữ dội như thế chứ, miệng liên tục nhắc nhắc lại hai chữ “Thiên Văn”, nó có nghĩa là gì?

      lâu sau, bên ngoài vọng vào tiếng bước chân vội vã, rồi tốp cảnh sát cả nam lẫn nữ ùa vào trong phòng, khuôn mặt ai cũng đều lộ vẻ buồn bã, bi thương, có người còn rơi nước mắt. Sau khi cúi đầu đưa tiễn ông già, họ vội vã ra để lo hậu .

      Người đàn ông đeo kính mắt đen quay sang vài câu với vị thiếu tướng trước khi dẫn chúng tôi ra ngoài, tiến thẳng tới căn phòng ngay gần đấy.

      Sau khi đóng cửa lại, Lão Mục mới lần lượt giới thiệu chúng tôi với nhau, người đàn ông này tên là Chung Hồng Đạt, là trưởng phòng của bộ phận thuộc Cục An ninh Quốc gia, đồng thời là người phụ trách cao nhất trong vụ án bức tranh Cuộc tiến công ở Cẩm Châu tại khu vực Bắc Kinh. Khu biệt thự Hương Sơn này là khu nhà dành cho các vị lãnh đạo Trung ương cấp cao về hưu.

      Tôi khỏi bất ngờ, vị này là trưởng phòng của bộ phận quan trọng thuộc Cục An ninh Quốc gia, cấp bậc , xem ra vụ án này đă nhận được quan tâm đặc biệt của Cục An ninh Quốc gia.

      Nhưng tôi cũng khỏi phân vân, tại sao Cục An ninh Quốc gia lại liên kết với bên Bộ Công an? Lẽ nào tình bên trong còn phức tạp hơn rất nhiều?

      Chung Hồng Đạt bước lên trước, bắt tay chúng tôi, ôn tồn :

      - Vẫn may là bị muộn, coi như tâm nguyện của ông ấy được thực . Tiêu Vi, chuyện cùa cháu chú biết cả rồi, đơn giản chút nào đâu.

      Rồi ông quay đầu nhìn sang Tiểu Đường, nét mặt giấu nổi vẻ hào hứng:

      - Tiểu Đường giỏi lắm, cháu giúp đỡ chúng ta ít.

      Chung Hồng Đạt là người thẳng thắn, ông kể với chúng tôi toàn bộ việc chút khách khí.

      ra, từ khi Từ Vạn Lý mất tích cách kỳ bí, Cục An ninh Quốc gia đă bắt đầu quan tâm chú ý, nhanh chóng lập nhóm chuyên án đặc biệt, mở cuộc điều tra chi tiết về những người tham gia sáng tác bức tranh panorama Cuộc tiến công ở Cẩm Châu. Thông qua mối quan hệ hành chính đặc biệt và phê chuẩn của Ủy ban Quân Trung ương, họ tới thăm Trưởng ban Trù bị Trung ương của kiện sáng tác bức tranh panorama Cuộc tiến công ở cẩm Châu – cựu chỉ huy quân , đại tướng Từ Văn Uyên, cũng là ông già vừa mới qua đời.

      Đại tướng Từ Văn Uyên gần tám mươi tuổi, người ở thành phố Thái An tỉnh Sơn Đông, mười lăm tuổi tham gia hoạt động cách mạng, từng tham gia kháng chiến chống Nhật, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chống Mỹ và viện trợ Triều Tiên. Có thể cuộc đời của ông là tấm gương tiêu biểu trong quân dội, năm 1955 ông được Bộ Chỉ huy Quân Trung ương trao hàm đại tướng, nhận nhiệm vụ chỉ huy quân của toàn tỉnh.

      Đại tướng Từ Văn Uyên lập gia đình, nên từ lúc về hưu sức khỏe còn được như xưa, ông chuyển tới sinh sống ở khu Hương Sơn từ mấy năm trước. Cách đây hai mươi năm, kể từ khi biết bản sao bức tranh panorama Cuộc tiến công ở Cẩm Châu của cậu tôi với những chuyện ly kì và đáng sợ xung quanh nó, ông cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

      Theo lời kể của ông, do Tổng cục Chính trị trực thuộc Bộ Quân Trung ương quyết định thực bức tranh Cuộc tiến công ở Cẩm Châu, nên đơn vị quân tỉnh cũng dám lơ là, nhanh chóng phái người đến hợp tác giúp đỡ; đến ông cũng phải đích thân tham gia chỉ đạo, thậm chí còn sang cả Matxcova và Volgograd là hai thành phố của Liên Xô cũ để tham quan học tập.

      Khi đó, cậu tôi tuy là người trẻ nhất đoàn nhưng lại đánh cờ vua rất giỏi, nên gây ấn tượng sâu sắc với Từ Văn Uyên; họ cùng ở nơi đất khách quê người, lại chẳng có trò tiêu khiển gì khác, nên tối nào hai người cũng ngồi đánh cờ tới tận khuya, rồi dần trở thành bạn tri kỉ lúc nào hay.

      Buổi tối trước khi từ Liên Xô về nước, họ tổ chức bữa tiệc chiêu đãi, mời tất cả mọi người trong đoàn cùng tham gia. Người Nga hổ danh, rượu nặng như thế mà họ vẫn từng cốc từng cốc như ; trong bầu khí vui vẻ và náo nhiệt, mọi người trong đoàn đều uống say bí tỉ. Chỉ riêng Từ Văn Uyên vốn tửu lượng tốt, nên uống đến chai thứ năm mà vẫn bình thản như có chuyện gì xảy ra.

      Sau khi buổi tiệc kết thúc, mọi người trở về phòng riêng nghỉ ngơi. Từ Văn Uyên vẫn còn lôi ra chai rượu Mao Đài và bàn cờ, kêu người tìm bằng được cậu tôi, nhắn rằng lúc nãy cậu tôi liên tục thoái thác là tuổi nhất nên biết uống rượu, nên bây giờ phải tiếp cờ với ông ấy, đợi mai lên máy bay ngủ sau.

      Thấy Từ Văn Uyên say mê chơi cờ như vậy, cậu tôi đành vui vẻ gật đầu đồng ý. Nhưng khi đánh cờ, trong lòng cậu vẫn nhấp nhổm yên, thành ra những nước cờ sai lầm dẫn đến việc thua mất vài ván.

      Từ Văn Uyên càng thắng càng ham, miệng cười ha hả dứt, chỉ vào cậu tôi mà :

      - Cái tên Tiểu Thạch này, coi như hôm nay bị ta hạ đo ván. Sướng! Sướng! Mẹ kiếp, đúng là sướng! Chỉ e những ngày đấu cờ của chúng ta sắp chấm dứt rồi. - Ngừng lại chút, ông thêm với cậu tôi - Sau khi về nước, bức tranh panorama được chính thức ra mắt, nhóm họa sĩ các chắc sắp giải tán rồi, ta cũng chính thức được nghỉ ngơi.

      Nghe Từ Văn Uyên vậy, sắc mặt của cậu tôi bỗng dưng thay đổi hẳn, đứng phắt dậy :

      - Sao... sao lại... sao lại nhanh thế...

      Từ Văn Uyên ngỡ ngàng, hiểu vì sao cậu tôi lại thế:

      - Tiểu Thạch, cậu gì?

      Cậu tôi sững người trong giây lát rồi lập tức lao vụt ra ngoài, chốc sau quay về, sau khi đóng chặt mọi cánh cửa, cậu mới xoay lưng tiến tới trước mặt Từ Văn Uyên, cởi áo khoác mặc người, vén chiếc áo len mặc bên trong lên, thận trọng rút từ cạp quần ra mảnh gỗ màu đỏ sậm.

      Từ Văn Uyên phì tiếng, rồi lập tức đẩy bàn cờ sang bên, cười ha hả:

      - Cái tên Tiểu Thạch này, đúng là lắm chuyện! Ta mới chỉ nghỉ ngơi thôi mà tặng ta mảnh gỗ làm quan tài, lại còn làm bộ bí mật nữa chứ!

      Cậu tôi chỉ khẽ mỉm cười, vẫn nâng niu miếng gỗ trong tay như bảo bối. Ngồi xuống trước mặt Từ Văn Uyên, cậu nhàng đặt miếng gỗ lên mặt bàn cờ, bàn tay vẫn ngừng mân mê tấm gỗ, sau đó đột ngột ngẩng đầu lên nhìn Từ Văn Uyên, khẽ :

      - Lão Từ, học trò đâu dám. Người thử nhìn kĩ hoa văn mặt tấm gỗ này .

      Nghe cậu tôi vậy, Từ Văn Uyên vội cúi xuống nhìn miếng gỗ; đó là miếng gỗ vuông vức, màu đỏ thẫm, nhẵn bóng, giống như mảnh thủy tinh dày qua gọt giũa cẩn thận. Ở giữa là vệt hoa văn nhạt màu uốn lượn, mang hình dạng nhã nhặn nhưng hơi kỳ lạ: Nó được tạo bởi vô số những nét chấm nối liền nhau.

      Từ Văn Uyên như bị thôi miên, ông cầm miếng gỗ lên, lật ra sau phát ngay chính giữa tấm gỗ là hai đầu rồng đối diện nhau, thần thái hết sức sống động, để lộ hai chiếc răng nanh nhọn hoắt, còn thân rồng là những lớp vẩy xếp tầng tầng lớp lớp, cực kỳ tinh xảo. Lật qua lật lại quan sát hồi lâu, nhưng cũng chưa biết đó là vật gì, ông liền thắc mắc:

      - Tiểu Thạch, đây là cái gì, cậu lấy từ đâu ra thế? Sao ta nhìn mãi mà nhận ra?

      Cậu tôi suy nghĩ vài giây rồi mới chậm rãi kể lại. Mấy ngày trước, khi có chút thời gian rảnh rỗi, cậu cùng với hai người trong đoàn tới Volgograd dạo chơi con phố bộ, vô tình bắt gặp sạp hàng rong chuyên bán cổ vật Trung Quốc. Nghe người bán hàng kể rằng trước đây ông ta từng là sĩ quan chỉ huy quân trong đội quân Hồng quân Viễn Đông của Liên Xô cũ, từng tham gia cuộc chiến chống Nhật năm 1945 tại Trung Quốc, những cổ vật bày bán đều được đem về từ đó. Để chứng minh điều mình , ông ta còn kể cho cậu tôi vài kiện mà sau khi tới Trung Quốc được tận mắt chứng kiến.

      Tháng Tám năm 1945, Thế chiến II vào giai đoạn khốc liệt nhất. Theo cầu của Mỹ và , nguyên soái Stalin cuối cùng cũng tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 8 tháng 8, Liên Xô tập hợp lực lượng quân đội hùng mạnh, tấn công từ ba hướng Đông - Tây - Bắc với chiến tuyến kéo dài hơn bốn nghìn ki-lô-mét, vượt qua khu vực miền trung Liên Xô, tiến đến biên giới Nội Mông, đóng quân tại Mãn Châu rồi phát động cuộc tấn công toàn diện. Do mất cảnh giác, nên quân Nhật nhanh chóng bị thất thế. Bảy ngày sau, tức ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng Hirohito đầu hàng vô điều kiện. Mặc dù quân Nhật chấp nhận bại trận, nhưng vẫn chịu hạ vũ khí, đến ngày 16 tháng 8 số quân ít ỏi còn lại vẫn tiếp tục tấn công đánh phá vài vùng ở Liên Xô.

      Để nhanh chóng giành được thắng lợi, quân đội Liên Xô quyết định dùng quân chiếm lĩnh vùng đất của quân đội Mãn là Phụng Thiên, ép chúng đầu hàng vô điều kiện và tìm cho ra hoàng đế Phổ Nghi.

      Đêm ngày 19 tháng 8, hơn chục máy bay quân xuất bầu trời Thẩm Dương, liên tiếp thả mưa bom xuống nơi quân Nhật chiếm đóng. Có thể do lần này cuộc tấn công quá bất ngờ, nên quân Nhật kịp trở tay. Sau đó những chiếc máy bay quân an toàn đáp xuống sân bay Thẩm Dương, vị vua cuối cùng cúa Trung Quốc - Phổ Nghi kịp trốn thoát mà bị bắt tại ngay phòng chờ tại sân bay Thẩm Dương.

      Phổ Nghi khi trốn chạy khỏi thành Bắc Kinh mang theo rất nhiều báu vật cùng với hành lí, tổng cộng có tới năm mươi bảy chiếc hòm gỗ loại lớn. Do tham chiến ở nước ngoài, nên kỷ luật quân đội được khép chặt, khi nhìn thấy núi báu vật, những người lính Nga kiềm chế nổi mình, họ reo hò vui sướng rồi xông vào giành giật. Người đàn ông này lúc đó vốn thuộc cấp chỉ huy nên cũng lấy được ít báu vật, trong đó gồm cả tấm gỗ này.

      Ông ta hiểu khá về lịch sử Trung Quốc, nên cũng biết các vị vua Trung Hoa luôn tự coi mình là rồng, lúc bấy giờ ông nhận ra điều đặc biệt gì tấm Long Bản, chỉ nghĩ rằng vật mà Phổ Nghi mang theo người ắt hẳn rất quý báu, nên mới giấu .

      Tháng Chín năm 1945, quân đội Trung Quốc chiếm được toàn bộ vùng Đông Bắc, hỗ trợ và hợp tác cũng quân đội Liên Xô giành thắng lợi cuối cùng. Quân đội Liên Xô trước khi rút về nước, quyết định để lại toàn bộ khí giới của quân đội Nhật cho Trung Quốc, nhưng lại mang theo những báu vật mà họ thu được về nước.

      Sau khi Thế chiến II kết thúc, người đàn ông này được nhận huân chương Sao đỏ do chính nguyên soái Stalin trao thưởng trước khi quay trở về quê hương. Nhưng sau đó, do tu chí làm ăn mà chỉ ham mê canh bạc đỏ đen, nên tất cả tiền của trong nhà đều đội nón ra . Vì kế sinh nhai, ông ta đành phải bán những bảo vật Trung Quốc mà mình có trong tay.

      Khi nghe kể tấm gỗ là báu vật trong cung do đích thân hoàng đế Phổ Nghi mang theo bên người khi trốn chạy, cậu tôi cảm thấy vô cùng phấn khích và tò mò, rời mắt khỏi nó nửa giây, cuối cùng cậu từ bỏ quyết định mua chiếc bình hàng nghìn năm tuổi từ thời nhà Minh, dốc hết số tiền nguời, thậm chí còn vay thêm đồng nghiệp, bỏ ra cả đống tiền chỉ đế mua miếng gỗ.

      Thấy Từ Văn Uyên chăm chú nghe, cậu tồi liền cầm miếng gỗ lên, đưa cho ông và rất chân thành:

      - Lão Từ, chúng ta là hai bạn cờ có duyên gặp gỡ. Miếng gỗ này cho dù học trò biết nó là gì, nhưng theo như quan sát, ông già người Liên Xô này hề dối, chắc chắn đây là cổ vật vô giá. Học trò chẳng có thứ gì đáng giá, xin tặng nó cho người làm kỉ niệm.

      Từ Văn Uyên vô cùng thích miếng gỗ này nên nhận nó, sau đó ông tháo chiếc đồng hồ đeo tay tặng lại cho cậu tôi. Chiếc đồng hồ này tuy kiểu cách có hơi cũ, nhưng chi tiết thiết kế hết sức tinh xảo, quan trọng hơn đó là món quà ki niệm do chính thủ tướng Chu Ân Lai tặng sau khi đội quân cùa ông giành được thắng lợi trong trận chiến.

      Nghe tới đó, tôi bất giác sờ lên chiếc đồng hồ đeo ở cổ tay, suy nghĩ miên man, ra đây chỉ là món quà kỷ niệm của cậu tôi mà còn là vật mà thủ tướng Chu Ân Lai từng dùng. ngờ nó lại mang ý nghĩa sâu sắc đến thế, chẳng trách thông thường rất ít khi thấy cậu tôi tháo đồng hồ ra. Tôi cũng lờ mờ nhận ra, cậu tôi có hai mảnh gỗ giống nhau, mảnh tặng cho Từ Văn Uyên, còn mảnh kia đem giấu bên trong bức tường nhà.

      Thế nhưng suy nghĩ kỹ lại thấy chuyện này có vẻ hợp lý lắm. báu vật được cậu nâng niu gìn giữ đến như thế, sao có thể dễ dàng tặng cho người khác được. Hơn nữa mảnh gỗ còn lại ở nhà cậu lại được cất giấu thông qua ám thị của bức tranh, ràng là cậu cố ý với chúng tôi, nó có mối liên Quan Âmật thiết với Cổ Tháp Cẩm Châu và chùa Đại Quảng Tề. Nhưng theo như lời kể của người đàn ông Liên Xô từng tham chiến tại Trung Quốc mảnh gỗ liên quan đến hoàng đế Phổ Nghi, và dường như nguồn gốc của nó là từ tỉnh Thẩm Dương. Hay cách khác, chúng có từ thời Mãn Thanh và là vật dụng của hoàng đế.

      Thấy tôi bật người đứng dậy, toan cắt lời hỏi Chung Hồng Đạt giơ tay ra hiệu im lặng rồi tiếp:

      - Đừng vội, ta còn chưa hết, chuyện sau đó còn hấp dẫn hơn nhiều!

      Tôi đành nghe theo, lúc ngồi xuống ghế, vô tình tôi quay đầu nhìn lại đằng sau, chợt thấy vẻ mặt Tiểu Đường rất đăm chiêu, đôi lông mày xinh đẹp chau lại nhưng ánh mắt sáng ngời lại nhìn trừng trừng về hướng, hai tay đan chặt lấy nhau đầu gối, như rất tập trung suy nghĩ.

      Phát ra tôi nhìn, bé liền cười xòa, ngại ngùng :

      - Có vẻ rất hấp dẫn đấy, chị Tiêu Vi, cứ để nghe nốt !

      Sau khi tổ sáng tác trở về nước, đúng như lời Từ Văn Uyên , họ tuyên bố giải tán; còn Từ Văn Uyên cầm tấm Long Bản trở về Thẩm Dương, và coi đó như là báu vật luôn mang theo mình, cứ lúc nào rảnh rỗi là lại lôi ra ngắm nghía. Ông cũng mời rất nhiều nhà nghiên cứu cổ vật đến để tìm hiểu nguồn gốc của tấm Long Bản, mọi người đều xác nhận đó chinh là cổ vật từ thời nhà Liêu, nhưng thế chính xác vào thời gian nào và ở đâu. Sau đó, Từ Văn Uyên ngày càng cao tuổi, bệnh tật luôn nên sức khỏe cũng yếu dần, sau khi nghỉ hưu chuyển về khu an dưỡng này nên còn đủ khả năng để tìm hiểu thêm.

      Trong mười mấy năm sau đó, Từ Văn Uyên vẫn luôn nhớ tới người bạn cờ tri kỉ, nên cũng nhiều lần thư từ hỏi thăm, nhưng do công việc cả hai bên đều rất bận rộn, vì thế họ có thời gian để gặp mặt nhau. ra đột ngột của cậu tôi, ông cũng hay biết. Nhưng khi biết chuyện, những kỉ niệm ngày xưa ùa về khiến cho ông nghẹn ngào xúc động, ngăn nổi dòng nước mắt.

      Thấy Từ Văn Uyên ngày đêm buồn rầu, Chung Hồng Đạt cũng thấy xót xa, đành an ủi và ra sức khuyên nhủ để Từ Văn Uyên đồng ý mang tấm Long Bản kiểm nghiệm lần nữa.

      Từ Văn Uyên buồn bã và suy nghĩ rất lâu, sau khi lấy lại tinh thần, ông cử người lấy chiếc hộp da sờn cũ, được khóa cẩn thận nằm phía dưới gầm giường lên, bên trong là chiếc túi vải nhung đỏ buộc chặt đầu. Ông đặt chiếc túi lên mặt bàn, hai tay run rẩy rút đoạn dây thít miệng túi, lôi ra tấm Long Bản được khắc hết sức tinh xảo.

      Từ Văn Uyên nâng niu ôm tấm gỗ vào lòng, ánh mắt nhìn xa xăm lúc lâu, rồi rằng ông cũng gần đất xa trời, giữ lại tấm Long Bản này cũng để làm gì, chi bằng hiến tặng nó cho đất nước, nhưng với cầu, đợi thêm vài ngày nữa, để Tiêu Vi và Tiểu Đường tới đối chiếu xem hai tấm Long Bản khác nhau ở điểm nào, hình khắc mặt gỗ có ý nghĩa gì?

      Chung Hồng Đạt vô cùng cảm thông nên thúc ép gì thêm, vừa bước ra khỏi cửa, ông lập tức liên lạc với Cục An ninh Quốc gia vùng Đông Bắc đề nghị đưa tôi và Tiểu Đường đến càng sớm càng tốt. Nhưng ngờ rằng, sáng sớm ngày hôm qua, người phụ trách ở Hương Sơn gọi điện cho Chung Hồng Đạt báo bệnh tình của Từ Văn Uyên rất trầm trọng, chắc thể sống được bao lâu nữa, nên ông đòi đích thân Chung Hồng Đạt tới gặp.

      Khi Chung Hồng Đạt tới nơi, Từ Văn Uyên bị hôn mê, khuôn mặt trắng bệch, chỉ qua đêm mà già hàng mấy chục tuổi. Ông nằm giường, hai mắt nhắm chặt, mê man, nhưng miệng luôn khẽ lẩm nhẩm:

      - Thiên Văn... Thiên Văn...

      Chung Hồng Đạt hết sức tò mò, sốt ruột hỏi mọi ngươi "Thiên Văn” nghĩa là gì, nhưng cũng chẳng có ai hiểu. Người phụ trách ở đây cho biết, hôm qua sau khi Chung Hồng Đạt ra về, có thể do Từ Văn Uyên nghĩ đến người bạn tri kỉ mất nên buồn rầu khóc lóc cả ngày, đến bữa chỉ ăn vài miếng lấy lệ rồi đổ hết. Khi đó, mọi người chỉ nghĩ tính nguời già hay nghĩ ngợi nên cũng để ý.

      Đến khoảng 12 giờ đêm, nhân viên tuần tra khi qua dãy hành lang, bất chợt nghe thấy có tiếng đổ vỡ trong phòng Từ Văn Uyên, kèm theo đó là tiếng kêu lớn, nhưng sau đó lập tức im bặt.

      Người nhân viên vô cùng hoảng hốt, liền lôi chìa khỏa dự phòng ra mở cửa chạy vào bên trong. Người này chỉ kịp nhìn thấy Từ Văn Uyên mặc bộ đồ ngủ, chân trần, ngồi bất động dưới sàn như người mất hồn, mặt hướng về phía cửa sổ, bên cạnh đó là chiếc gương lớn vỡ tan tành, tấm Long Bản cũng lăn lóc dưới đất, ngay chính giữa những mảnh gương vỡ.

      Người trực ban vội vàng gọi người đến ứng cứu, mấy người bọn họ chật vật mãi mới khiêng được ông cụ nằm lên giường. Từ Văn Uyên nằm giường, nghiêng người sang bên, úp hai tay lên mặt, toàn thân co quắp run rẩy, miệng ngừng kêu la:

      - Tắt đèn... tắt đèn... kéo rèm lên... kéo rèm lên... nhanh kéo rèm lên...

      Giọng lạc vì sợ hãi, cứ như bên ngoài cửa sổ có thứ gì đó vô cùng đáng sợ. nhân viên vội chạy ra mở cửa sổ dể kiếm tra phía bên ngoài, nhưng phát ra bất cứ dấu hiệu nào bất thường. Đối diện với cửa sổ là ngọn núi Hương Sơn đắm chìm trong ánh trăng vằng vặc, vài đám mây mỏng vắt ngang qua ngọn núi, khung cảnh hết sức tỉnh lặng và yên bình.

      Sau khi kéo kín toàn bộ rèm cửa sổ, căn phòng tối om nhưng Từ Văn Uyên vẫn ngừng sợ hãi, trùm kín chăn lên đầu. Sau đó mọi người thay rèm cửa bằng tấm màn nhung dày rồi tắt hết những bóng đèn lớn trong phòng, tinh thần của ông mới dần dần trở lại bình thường.

      Nhưng chẳng mấy chốc, hơi thở của ông trở nên nặng nề và gấp gáp, chân tay lạnh băng, đôi mắt trợn trừng, miệng sùi bọt mép, thêm được câu nào. Sau khi các nhân viên y tế khám xong, họ kết luận ông bị cú sốc tinh thần quá mạnh, kết hợp với việc cơ thể già yếu suy nhược lâu ngày, e rằng khó có thể qua được lần này.

      Lúc đó, tất cả nhân viên phụ trách đều rất lo lắng, túc trực cả đêm với hi vọng tình hình khá hơn, nhưng Từ Văn Uyên vẫn hôn mê sâu, chỉ đôi ba lần mơ màng mở mắt trong giây lát, miệng lẩm bẩm hai tiếng "Thiên Văn".

      Nghe vậy, Chung Hồng Đạt càng tò mò hơn, với tay cầm lấy tấm Long Bản, chăm chú quan sát, ngoài những nét khắc tinh tế sắc sảo và trọng lượng khá đằm tay thấy điều gì khác thường ở tấm Long Bản; nhưng với biểu lộ khác thường của Từ Văn Uyên, có thể thấy đêm qua ông cụ nhìn thấy điều gì đó vô cùng kinh khủng.

      Đúng lúc đó, Từ Văn Uyên ho tiếng, người hơi động đậỵ, sau khi nhìn thấy Chung Hồng Đạt, ông lập tức với tay lắp bắp:

      - ... ... hãy... ... tìm, ta... ta... muốn... xem tấm Long Bản đó, tấm... Long Bản... của Tiểu Thạch...

      Những nhân viên y tế có mặt ở đó đều biết tình hình của Từ Văn Uyên thể kéo dài được lâu nữa nên vội vàng tìm mọi cách để cấp cứu cho ông. Có người mách, dạo gần đây có bốc thuốc đông y có biệt tài bấm huyệt tên là Tống Nguyệt Uyên, có thể bắt bệnh và chữa trị bệnh nan y. Nhờ có biệt tài này mà rất nổi tiếng, đến cả những quan chức cao cấp trong chính phủ cũng phải tìm đến để xin chữa bệnh.

      Đây chính là hi vọng cuối cùng nên mọi người lập tức cho mời Tống Nguyệt Uyên tới. Ban đầu ai cũng nghĩ đấy phải là phụ nữ lớn tuổi, nhưng ngờ Tống Nguyệt Uyên là mù mười bảy tuổi. Tuy khiếm thị, nhưng tay nghề của Tống Nguyệt Uyên vô cùng cao siêu, khả năng bắt mạch và châm cứu chuẩn xác tới từng mi-li-mét.

      Tống Nguyệt Uyên lấy ra ba giác châm cứu màu xanh lam, bên trong đựng thảo dược, đầu ngón trỏ từ từ ấn lên vầng trán đầy vết nhăn của Từ Văn Uyên, nhàng châm ba huyệt ngay chính giữa hai đầu lông mày, đốt cháy những dược liệu trong giác, sau đó cẩn thận tẩm thuốc vào đầu mũi kim, lần lượt châm cứu lên cánh tay và gan bàn chân. Chỉ khoảng mười phút sau, sắc mặt của Từ Văn Uyên dần hồi phục trở lại.

      Thế nhưng theo lời Tống Nguyệt Uyên, do ông cụ từ tham gia chiến trận, vào sinh ra tử biết bao nhiêu lần, nên nội lực bị giảm sút rất nhiều, các cơ quan nội tạng trong cơ thể bị hủy hoại nghiêm trọng. Phương thức châm cứu này chỉ là cứu chữa tạm thời chứ thể giúp ông sống thọ lâu hơn. Chỉ cần gặp cú sốc nữa, vô phương cứu chữa.

      Nghe Tống Nguyệt Uyên vậy, mọi người đều thở dài buồn bã. Chung Hồng Đạt luôn ghi nhớ lời dặn dò của Từ Văn Uyên và cũng do nóng lòng muốn sớm tìm ra bí mật của tấm Long Bản, nên vừa về tới đơn vị lập tức gọi cho Cục An ninh Quốc gia vùng Đông Bắc, hỏa tốc điều Lão Mục, tôi và Tiểu Đường tới Bắc Kinh. Lúc lên lầu, chúng tôi nhìn thấy mù Tống Nguyệt Uyên xuống sau khi châm cứu cho Từ Văn Uyên xong.

      Tới giờ, tôi mới hiểu được đầu đuôi câu chuyện, nhưng vì sao đêm hôm đó Từ Văn Uyên lại có những biểu bất thường như thế, hay hai từ “Thiên Văn” bí mà ông ngừng thốt lên tôi thể giải thích nổi. Mọi việc chắc phải bắt đầu từ khẩu khí của Từ Văn Uyên và những hoa văn hết sức kì lạ mặt tấm Long Bản.

      Ngoài ra, những hoài nghi của tôi trước đây vẫn chưa có lời giải đáp. Hai tấm gỗ Long Bản này từ đâu mà ra, rốt cuộc nó có nguồn gốc từ Liên Xô cũ hay từ Cẩm Châu? Tấm Long Bản được cậu giấu sau hốc tường trong nhà chắc chắn dùng để ám thị môt bí mật nào đó, nhưng tại sao tấm kia lại dễ dàng trao tặng cho Từ Văn Uyên, điều này khó hiểu.

      Chung Hồng Đạt đưa chúng tôi quay lại phòng của Từ Văn Uyên lần nữa để mặc niệm trước khi lên xe. Chúng tôi quay trở lại trung tâm thành phố mà thẳng tới khu ngoại ô Xương Binh, dừng xe trước căn biệt thự rất đỗi bình dị. Chung Hồng Đạt giới thiệu đây là địa điểm liên lạc của Cục An ninh Quốc gia, giờ tạm thời là nơi nghỉ ngơi của chúng tôi. Trước khi rời , ông còn hỏi mượn tấm Long Bản của tôi, rằng mang về đơn vị để tiến hành kiểm định. Lão Mục sau khi thu xếp ổn thỏa cho chúng tôi xong, cũng cùng Chung Hồng Đạt. Ăn cơm tối xong, Tiểu Đường sang phòng tôi trò chuyện. chuyện này chuyện kia, cuối cùng lại quay sang chủ đề Từ Văn Uyên. Tiểu Đường lấy từ trong bọc ra chiếc kim, vân vê lúc, bé liền đưa mũi kim lên trán.

      Tôi vô cùng sửng sốt, gắt giọng hỏi:

      - Tiểu Đường, em định làm gì đấy?

      Tiểu Đường đặt chiếc kim xuống, quay sang bảo tôi:

      - Chị Tiêu Vi, chị có thấy hình tròn trán Từ Văn Uyên giống hình xãm ?

      Tôi sững ngưởi, lục lại trong trí nhớ, đúng là hình tròn trán ông ấy khác thường:

      - Cũng khá giống, nhưng đó là vết giác hơi mà.

      Tiểu Đường liếc nhìn sang tôi, lắc đầu, :

      - Chị hiểu đâu, đó là loại xăm vô cùng tinh xảo nhưng... - đến đây, bé vươn vai ngáp ngủ, chuyển ngay sang chủ đề khác - Em buồn ngủ quá, chị em mình ngủ thôi. – xong lập tức đứng dậy thẳng ra cửa.

      Tôi quá quen với cách chuyện lấp lửng cùa bé nên cũng cố gặng hỏi. Nhìn theo dáng hình bé khi bước ra khỏi phòng, tay vẫn rời chiếc kim, tôi chợt nhận ra, ba trẻ Sở Khinh Lan, Đường Nhã Kỳ, Tống Nguyệt Uyên đều có tên rất lạ, dáng người nhắn và còn có điểm tương đồng kỳ dị, đó ỉà cả ba đều có tài năng thiên bẩm liên quan đến kim châm, liệu họ có phải chị em nhà?

      Bỗng nhiên Tiểu Đường dừng bước, hai bàn tay nắm chặt, đầu hề quay lại chỉ bình thản :

      - Nữ nhân tâm, hải đế châm (lòng dạ đàn bà như mò kim đáy bể)... Chị Tiêu Vi, chị cứ suy nghĩ !

      rồi, bé đẩy cửa bước ra.

      Sáng sớm ngày thứ tư ở đây, chúng tôi còn chưa kịp ăn sáng Chung Hồng Đạt và Lão Mục tới mang theo bọc da màu đen. Chung Hồng Đạt giở bọc da đó ra, đặt hai tấm Long Bản lên bàn, cả hai đều có màu đỏ thẫm, bóng láng, các đường vân đó giống nhau tới mức thể tìm ra điểm khác biệt dù chỉ là chấm .

      Nét biểu cảm mặt Chung Hồng Đạt rất kỳ lạ, ông ngồi ghế sô-pha, lặng im suy nghĩ hồi lâu, rồi mới cất lời:

      - ràng hai tấm Long Bản này là cùng khuôn.

      Chung Hồng Đạt tiếp tục giảng giải với chúng tôi, qua giám định của các nhà khảo cổ học cho thấy, chất liệu gỗ của hai tấm Long Bản này là giống nhau, đều bắt nguồn từ thời nhà Liêu. Chúng được làm y hệt cách tinh xảo và chính xác tới từng mi-li-mét từ chiều dài, chiều rộng đến chiều cao. Điều đặc biệt hơn nữa là những đường vân bề mặt, từ vị trí cho tới độ lớn bé đều sai lệch li, thậm chí cả số lượng vết châm, độ nông sâu và quy luật phân bố cũng giống nhau như tạc. Chúng chính là bản sao của nhau.

      Đó thực điều kỳ diệu, đến cả công nghệ nay cũng khó có thể tạo ra tác phẩm tinh tế và chuẩn xác đến như thế, vậy làm thế nào mà từ hàng nghìn năm trước, họ tạo ra tấm Long Bản với kỹ thuật cao siêu đến như thế?

      Nghĩ tới nghệ thuật xăm hình bề mặt tấm Long Bản, tôi liền quay sang hỏi Tiểu Đường. bé suy ngẫm lát trước khi bước tới gần mặt bàn, dùng tay áo lau sạch lớp bụi bám đó, hai tay cầm hai chiếc kim, đầu cúi thẳng, hai mắt nhìn chằm chằm lên mặt bàn.

      Chung Hồng Đạt vội đứng dậy, hỏi:

      - , định...

      Tôi biết chắc Tiểu Đường nghĩ ra cách nào đó, nên lập tức kéo tay ngăn Chung Hồng Đạt lại, dùng ánh mắt ra hiệu cho ông được làm phiền.

      Tiểu Đường khẽ nheo mắt, miệng lẩm bẩm vài câu, hai tay cùng ấn mạnh xuống, tiếng "cách!" vang lên, hai mũi kim chọc xuống mặt bàn chừng vài mi-li-mét. Dừng lát, bé liền rút hai mũi kim ra, rồi lặp lại quá trình đó tại vị trí tiếp theo.

      Hai bàn tay Tiểu Đường chuyển động đều thoăn thoắt, cho dù là đường thẳng hay vòng cung mũi kim cũng đều giữ khoảng cách nhất định và đều tăm tắp, khiến người xem thể rời mắt.

      Cứ như thế, lúc sau, mặt bàn xuất hình ảnh của hai bông hoa mai giống y hệt nhau, từ nét chấm cho tới mật độ phân bố, thảy đều thể tìm ra khác biệt.

      Đây là lần đầu tiên Chung Hồng Đạt nhìn thấy tài nghệ của Tiểu Đường, nên ông thể rời mắt khỏi hai bông hoa mai mặt bàn, tay miết khẽ lên những cánh hoa còn miệng thi há hốc như được chứng kiến thứ gì kì diệu lắm. Mãi lâu sau ông mới vỗ đùi, quay sang nhìn Tiểu Đường, phấn khích :

      - , ra là như thế, như vậy có thể giải thích được, đây chính là kỹ thuật khắc mai bằng hai tay.

      Tiểu Đường khẽ thở dài, lắc đầu :

      - phải, phải đâu, kỹ thuật của cháu còn non kém lắm, mọi người hãy chú ý quan sát mà xem.

      Chúng tôi cùng cúi đầu xuống mặt bàn, quan sát lại kỹ hơn mới nhận ra, mặc dù hai bông hoa mai trông rất giống nhau, nhưng xét về chi tiết, bông này vẫn nhỉnh hơn bông kia chút, cánh hoa có phần được cân xứng, những đường vân hay độ lớn của lỗ châm vẫn có khác biệt. Đặc biệt, ở vị trí những cánh hoa giao nhau, có lộn xộn trong thứ tự sắp xếp, khiến góc bên trong có phần thống nhất.

    3. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Tiểu Đường kể với chúng tôi đây là kỹ thuật khắc hình bằng hai tay, nó được phân thành hai loại khác nhau: loại là khắc những hình dạng giống nhau, còn loại kia là khắc những hình dạng khác nhau. rồi, bé nhấc hai cây kim lên, rồi dùng mũi kim bên tay trái quét qua đường ngang, sau đó dùng mũi kim bên tay phải miết thành đường dọc. Dừng trong giây lát, rồi hai tay Tiểu Đường lại thao tác cùng lúc tạo ra những đường nét có hình dạng và vị trí khác nhau.

      Chỉ lát sau, Tiểu Đường dừng mũi kim, mặt bàn giờ đây lại xuất hình bông hoa cúc với đầy đủ thân lá, đung đưa trước gió.

      ra mũi kim bên tay trái khắc bông hoa, còn mũi kim bên tay phải khắc thân lá, cuối cùng chụm lại tại điểm. Phải đây là kỹ thuật có hai, khiến những người chứng kiến cũng dám tin vào mắt mình.

      Tiểu Đường quay sang giải thích, đây là nghệ thuật thiên biến vạn hóa với rất nhiều phương pháp thao tác khác nhau, nhưng vẫn phải tuân theo quy tắc chung, đó là phải kết hợp nhuần nhuyễn và thống nhất giữa bốn yếu tố là Kim - Thế - Tâm - Vật. Cũng có nghĩa là, các đầu ngón tay, cách chuyển động mũi kim, ước lượng, trí tưởng tượng cùng kết cấu của vật thể luôn phải được xác định ràng, luôn phải cùng nhau bao giờ tách rời. Chỉ cần lơ là trong bốn yếu tố nhất định thể nào khắc được hình mẫu lí tưởng.

      đến đây, Tiểu Đường khẽ chỉ tay lên mặt bàn, cách chắc chắn rằng:

      - Giả dụ hai tấm Long Bản này được xếp cạnh nhau, hai tay cháu có thể cùng thao tác lúc, nhưng khi khắc sang mặt sau, nhất định phải lật nó lại, khiến vị trí và góc độ mũi kim chắc chắn có chênh lệch, nên thể nào khác biệt giữa hai mặt, dù ít hay nhiều. ai có thể thực được thuật khắc Xoay vòng này hoàn hảo cả.

      Có chăng vẫn còn khả năng khác, đó là treo hai tấm Long Bản này lên, phía dưới có thêm vật hỗ trợ giữ yên vị trí, rồi người thợ xăm vòng quanh chúng.

      Tiểu Đường bật cười rồi :

      - thể nào, người xưa thường "lực từ dưới đất", cơ thể và mặt đất thể tách rời, nghệ thuật xăm hình cũng thế, chân vững khiến tâm thế xáo động theo.

      Chúng tôi quay sang nhìn nhau, nghĩ rằng nghệ thuật xãm hình lại có nhiều quy định chặt chẽ đến vậy. Chung Hồng Đạt vân vê cằm, nhận định:

      - Từ trước đến nay ta lại nghĩ xăm hình chi đơn thuần là dùng mũi kim và mực để xăm lên da thịt.

      Tiểu Đường mỉm cười:

      - Cái này hề đơn giản như chú nghĩ đâu. Đến mực để xăm hình cũng được phân ra làm rất nhiều loại, phải dựa vào đặc tính của vật cần xăm mà chọn ra loại mực phù hợp, và mỗi hình xăm lại kết hợp với loại mũi kim khác nhau.

      rồi, bé giở bọc kim ra cho chúng tôi xem.

      Bên trong bọc là rất nhiều hộp to đủ màu sắc, Tiểu Đường lấy ra chiếc túi màu hồng bằng nắm tay, bên trong cắm đầy những mũi kim to , ngắn dài khác nhau; ngoài ra miệng túi còn cài chặt những mũi kim màu bạc, màu vàng. bé rút mũi kim bạc, mỏng như sợi tóc từ miệng túi ra, đảo mắt vòng, rồi bất ngờ đâm mũi kim về phía Chung Hồng Đạt, hét lớn:

      - Chết này!

      Chung Hồng Đạt sợ hãi kêu thất thanh, bật người ra phía sau. Tiểu Đường vội dừng lại, cười khoái chí:

      - Ối giời! Cháu chỉ trêu chú chút thôi, đây là chiếc kim mà cháu thích nhất đấy, cái này dùng với chú được.

      Lúc đó, tôi chỉ nghĩ Tiểu Đường đùa , cái kim vừa bé tí vừa ngắn ngủn, rơi xuống đất là mất luôn, có gì mà đặc biệt.

      Nhưng sau này, khi chúng tôi vào bên trong Cổ Tháp Cẩm Châu, gặp phải rất nhiều cửa ải nguy nan, tôi mới nhận ra rằng đó là bảo bối hiểm có.

      Những lời của Tiểu Đường khiến tôi phải khẳng định điều rằng hai tấm Long Bản kia nhất định phải do cùng nghệ nhân tạo ra, nhưng tại sao chúng lại giống nhau đến như vậy, đó vẫn là điều bí .

      Sau khi Lão Mục lau sạch mặt bàn, Chung Hồng Đạt mới mở bọc da khác, lôi ra ống giấy cuộn tròn rồi phủ lên mặt bàn, ra đó là bản thiết kế 3D của ngọn tháp, mặt giấy hơi ố vàng, chứng tỏ nó có từ rất lâu rồi.

      Chung Hồng Đạt chỉ vào tấm bản đồ, nghiêm túc :

      - Đây là bản thiết kế cấu tạo của Cổ Tháp Cẩm Châu mà Cục An ninh Quốc gia phải nhờ tới giúp đỡ của Cục Quản lý Di sản Văn hóa Trung Quốc mới có được.

      Máu tò mò nổi lên, tôi liền :

      - Cục trưởng Chung, có phải muốn chúng tôi nghiên cứu ngọn tháp này?

      Chung Hồng Đạt gật đầu:

      - sai, đấy chính là ý định của tôi. Cổ Tháp Cẩm Châu được xây dựng ròng rã trong ba năm, là nơi bảo tồn những báu vật mà hoàng hậu để lại, đây cũng được coi là di sản cấp hai của quốc gia. Các chuyên gia khảo cổ và các nhà nghiên cứu tiến hành khảo sát tìm hiểu nó từ ngay sau ngày giải phóng, bên trong chắc có gì, vấn đề là ở bên dưới. Tiêu Vi là người có liên quan trực tiếp nên tôi nghĩ tốt nhất là giao việc này cho , Lão Mục và Tiểu Đường cùng để hỗ trợ. Có thể tìm ra câu trả lời hay , xem ra phải nhờ đến bản lĩnh của ba người rồi.

      Tôi khẽ gật đầu, được người dày dặn kinh nghiệm như lão Mục hỗ trợ còn gì tốt hơn, thế nhưng nếu đem theo cả Tiểu Đường, ngây thơ yếu đuối cùng, chỉ e chúng tôi lại phải vất vả bảo vệ cho bé nữa. Nghĩ đến đó, tôi liền hỏi:

      - Ngoài ba người chúng ta, còn ai nữa ạ?

      Chung Hồng Đạt khẽ mỉm cười, vừa cuộn bản thiết kế lại vừa :

      - Đừng mong đợi có thêm người khác, chỉ có ba người là , Lão Mục và Tiểu Đường thôi. Thậm chí khi cũng hậu thuẫn của các đơn vị địa phương đâu, điều này là để đảm bảo thông tin bị rò rỉ ra ngoài và giữ bí mật tuyệt đối. Chuyện này chỉ có những lãnh đạo cấp cao ở Cục An ninh Quốc gia và bốn chúng ta được biết.

      Thấy tôi có vẻ lo lắng, Cục trưởng Chung liền cười vang và cố tình trêu chọc:

      - Mọi người nhất định phải cẩn để các di vật bị sứt mẻ hay thiếu sót gì đâu đấy, bằng tôi cũng chẳng cứu được ba người khỏi tội cố tình phá hoại và đánh cắp báu vật quốc gia đâu.

      Sau lần chuyện đó, thấy Chung Hồng Đạt tới gặp chúng tôi nữa. Lão Mục bận rộn thu xếp công việc trước khi tới Cẩm Châu nên cũng tới. Chỉ có tôi và Tiểu Đường quanh quẩn ở ngôi biệt thự, cả ngày chỉ ăn, ngủ, lên mạng rồi xem ti-vi.

      Cho tới ngày, khi tôi và Tiểu Đường ngồi ăn sáng bé bỗng nhiên nhắc đến Tống Nguyệt Uyên. Tiểu Đường rằng tôi dạo này thường xuyên bị đau nửa đầu, thử đến gặp Tống Nguyệt Uyên xem sao. Tôi biết căn bệnh này xuất phát từ thói quen thường xuyên thức khuya, để lâu có hại đến sức khỏe nên cũng muốn chữa trị cho khỏi hẳn, vì vậy hỏi Lão Mục địa chỉ phòng khám của Tống Nguyệt Uyên, và nhờ ta cử người đưa chúng tôi tới đó.

      Phòng khám của Tống Nguyệt Uyên nằm con đường từ khu Xương Bình tới Hồi Long Quan, cách chỗ chúng tôi xa lắm nên cần lái xe, tàu điện ngầm tuyến 12 lúc là tới, vừa để ra ngoài thay đổi khí vừa để biết đường phố Bắc Kinh ra sao.

      Hành khách tàu điện ngầm đông nghịt, tiếng chuyện, tiếng động cơ, tiếng loa phát thanh khiến cho gian xung quanh trở nên vô cùng ồn ào hỗn loạn. Tôi và Tiểu Đường như lọt thỏm giữa đám người đông như kiến cỏ, đành cố gắng nắm chắc tay vịn, quay đầu ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài, thỉnh thoảng quay sang với nhau vài câu chuyện phiếm. Hai đồng chí được Lão Mục cử theo vẫn đứng phía sau chúng tôi.

      Khi đoàn tàu chầm chậm dừng lại, tiếng loa phát thanh vang lên thông báo tới ga Long Tắc, và chuẩn bị tới ga tiếp theo là ga Hồi Long Quan, Tiểu Đường bỗng nhiên thốt lên tiếng, rồi với tôi câu đầu đuôi:

      - Chị Tiêu Vi, chị thấy có nghĩa gì sao?

      Tôi ngơ ngác quay sang, hỏi lại:

      - Nghĩa gì là nghĩa gì?

      Tiểu Đường hơi chau mày lại, trả lời với vẻ ngập ngừng:

      - Chính là... Hồi...

      Vừa đến đó, cánh cửa tàu tự động bật mở, hành khách dưới ga lại ùn ùn kéo lên, đẩy chúng tôi tụt hẳn vào bên trong.

      Sau khi tìm được chỗ đứng thích hợp, tôi liền quay sang hỏi lại Tiểu Đường. bé chỉ lặng im sau đó lại liến thoắng trả lời có chuyện gì cả. Thế nhưng nghĩ đến sắc mặt bé lúc nãy, chắc chắn là nghĩ ra chuyện gì đó. Tôi cũng cố gặng hỏi gì thêm, chỉ thấy rất kỳ lạ. Hồi gì nhỉ? Lẽ nào chính là Hồi Long Quan?

      Sau này nghĩ lại hoàn cảnh lúc bấy giờ, tôi luôn tự trách mình sao lúc đó đầu óc lại phản ứng chậm chạp đến như thế, từ mà Tiểu Đường lỡ thốt ra chính là từ khóa vô cùng quan trọng, tôi quá ngờ nghệch khi bỏ qua nó.

      Chúng tôi đứng thêm lúc nữa rồi xuống ga Hồi Long Quan. Sau khi ra khỏi ga, hai chị em hỏi thăm những người đường mới biết làng Hồi Long Quan cách đây đoạn đường khá dài nữa, nên chúng tôi quyết định bắt taxi cho nhanh.

      Ngôi làng này được quy hoạch đổi mới nên có khá nhiều tòa nhà cao tầng mọc lên khắp nơi, duy chỉ còn vài căn nhà mái bằng ở phía Tây Bắc là còn giữ vẻ dân dã, trong số đó có phòng khám của Tống Nguyệt Uyên.

      Đó là căn nhà thấp lè tè có kết cấu như tứ hợp viện Bắc Kinh, phía bên ngoài là lớp tường gạch cũ nham nhở gần hết, chứng tỏ căn nhà này rất lâu đời, nhưng vẫn lưu giữ được những nét độc đáo của kiến trúc thời. Cửa chính sơn đỏ hé mở, cánh cửa là hai vòng đồng to gần bằng miệng bát, sáng bóng. Phía tấm biển bằng gỗ có khắc ba chữ: Cửu Khiếu Đường.

      Tiểu Đường ngẩng đầu, nheo nheo đôi mắt quan sát kỹ tấm biển hiệu, rồi quay đầu sang với tôi:

      - Cái tên này có điều gì đó rất cổ quái.

      Tiểu Đường giải thích, theo thuật ngữ Đông y, cửu khiếu tức là chỉ chín lỗ cơ thể người gồm: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, đường niệu đạo phía trước và hậu môn phía sau. Trong nghệ thuật xăm hình cũng có câu ý tương tự "Văn khắc thân hình, biến thể trước mặc", nhưng cũng có Cửu cấm, có nghĩa là được xăm tại chín điểm này, nếu phải nhận tai họa.

      Tôi đứng như trời trồng, vô thức đưa tay lên miết theo viền môi:

      - Biết như thế là phải tội, nhưng đến con ngươi cũng có thể xăm sao? Lại còn niệu đạo, hậu môn nữa... đúng là chuyện tiếu lâm.

      Thấy tôi thắc mắc như vậy, Tiểu Đường chỉ cười khúc khích, rồi :

      - Đấy là bí mật. Thôi! Chúng ta vào trong !

      Chúng tôi vòng qua bức tường gạch bao xung quanh, mỗi viên gạch ghép với nhau tạo thành bức tranh phong cảnh sinh động. Bước vào bên trong, trước mắt chúng tôi là khoảng sân lớn vuông vức, dưới nền là những phiến đá lớn màu xanh rêu, mỗi phiến rộng chừng hai mét vuông, ngoài lỗ sâu ở chính giữa có thêm bất cứ chi tiết nào khác, khiến gian trở nên trống trải và rộng thênh thang.

      Tôi ngó nghiêng quan sát bốn phía phát ra điểm rất kỳ lạ, các phòng trong tứ hợp viện dù là phòng chính hay buồng đều có cửa sổ, tất cả cửa ra vào đều treo tấm rèm dày màu đen, khiến gian bên trong kín như bưng, tia sáng nào lọt qua.

      Chúng tôi dặn hai đồng chí cảnh sát cùng đứng bên ngoài, chỉ có tôi và Tiểu Đường bước lên bậc thềm, đưa tay vén bức rèm vải rồi từ từ mở cánh cửa gỗ. Cánh cửa nhàng mở ra tiếng động, có vẻ như tấm bản lề vừa được tra thêm dầu. Bỗng nhiên, trong bóng tối, giọng yếu ớt khẽ phát ra:

      - Hai người mau vào , bên ngoài lạnh lắm!

      Giọng nghe rất trẻ trung, ước chừng người này chỉ dưới hai mươi tuổi.

      "Soạt!" khoảng tối om trước mắt bỗng vụt sáng, gian bên trong khá rộng, có ngồi trong góc khuất cạnh chiếc bàn trà, mặt bàn là ngọn nến cháy, hướng mặt về phía cửa ra vào. Dưới ánh nến phập phồng, khuôn mặt của Tống Nguyệt Uyên trắng bệch, lặng yên bất động, tay vẩy mạnh que diêm để tắt lửa.

      Tôi khẽ chau mày, trong lòng ngừng thắc mắc, liệu này có bình thường , giữa ban ngày mà lại ngồi mình trong căn phòng tối om, lại còn đốt ngọn nến, đúng là khác người.

      miên man suy nghĩ, bất chợt tôi nhận ra, vừa xong ấy "hai người vào ", chủ ngữ ràng là "hai người", trong khi tôi và Tiểu Đường đều giày bệt, bước rón rén, lại chưa vào trong phòng, vậy tại sao ấy lại nhận ra có hai người?

      Do lần đầu trực tiếp gặp mặt, nên tôi cũng giữ lễ hỏi nhiều và cũng nghĩ linh tinh, chỉ kéo tay Tiểu Đường bước vào trong. Dưới ánh nến le lói, tôi liếc qua căn phòng, cả bốn bức tường đều là những tủ sách lớn, bên xếp kín những tầng sách lớn bé. Kỳ lạ là khí trong phòng khá lạnh, hình như bên trong này hề dùng lò sưởi. Tống Nguyệt Uyên khẽ quay người sang, cất tiếng:

      - Ngồi xuống , chúng ta từng gặp nhau rồi!

      Tôi giật mình lần thứ hai, vẫn biết người mù thường có thính giác rất nhạy, nhưng nhạy tới mức độ này quả bình thường chút nào, tôi nén nổi tò mò liền cất tiếng hỏi:

      - Làm... làm sao biết chúng ta gặp nhau?

      Tống Nguyệt Uyên khẽ nở nụ cười, tay trái chỉ về hai chiếc ghế gỗ, ý mời chúng tôi ngồi xuống đó, rồi mới nhàng :

      - Em nhận ra tiếng bước chân của hai người khi gặp nhau ở khu an dưỡng Hương Sơn.

      Nghe thấy vậy tôi càng cảm thấy kỳ lạ hơn, đến mức dám tin đó là , thính giác của người này quá mức tưởng tượng, cấp độ này chắc chỉ cao thủ võ lâm mới đạt được. Tôi trộm nhìn đôi mắt của này, con ngươi vẫn đứng yên chút động tĩnh, quay sang nhìn Tiểu Đường, cũng chỉ bắt gặp khuôn mặt ngỡ ngàng, bé nhìn tôi khẽ lắc đầu khó hiểu.

      Trong mọi cảm giác của con người về vạn vật xung quanh, phải đến tới chín mươi phần trăm là nhờ con mắt. Trước đây mỗi lần lấy khẩu cung phạm nhân, ngoài những lời khai, tôi còn cực kỳ để ý đến ánh mắt của họ, để từ đó phán đoán ra cốt lõi việc. Trong lúc trực tiếp chuyện với nhau, sau khi người thực hành động nào đó, hai mắt của người nghe nhận tín hiệu trước tiên, sau đó mới đến não bộ và tứ chi; giống như khi gặp ánh sáng chói, con người ta tự động phản xạ bằng cách co đổng tử lại, hay khi trời lạnh, chúng ta thấy nổi da gà. Đây đều là những phản ứng vô điều kiện trong cuộc sống thường nhật, trong bất cứ hoàn cảnh nào ta cũng thể cố tạo ra chúng.

      Nghĩ vậy, tôi càng tò mò hơn, liền nghĩ cách để thử Tống Nguyệt Uyên. Tôi giả vờ như điều chỉnh tư thế ngồi, tiện lúc xoay ghế, khẽ dậm chân lên mặt sàn.

      Nghe thấy tiếng động, Tống Nguyệt Uyên liền phản ứng, khẽ quay đầu hướng về phía tiếng động phát ra, chứng tỏ chú ý lắng nghe, nhưng đôi mắt vẫn bất động, hề có dấu hiệu của quan sát.

      Lúc đó tôi mới tin rằng bị mù . Nhưng có điều khác thu hút chú ý của tôi, đó là bàn tay phải của Tống Nguyệt Uyên luôn để mặt bàn trà, năm đầu ngón tay liên tục chuyển động và gõ đều mặt bàn, giống như đánh đàn hay gõ máy tính gì đó, tuy phát ra tiếng động nhưng lại rất có quy luật.

      Tôi khẽ lắc đầu, trong bụng nghĩ rằng, dù có nhìn thấy hay cũng quan trọng, miễn là tìm ra bệnh giúp tôi, nên chủ động cất lời:

      - Tôi nghe châm cứu rất giỏi, nên hôm nay tìm đến đây để bắt bệnh, tôi thường xuyên bị đau nửa đầu, cũng khoảng ba bốn năm nay rồi.

      Tống Nguyệt Uyên khẽ mỉm cười, bảo tôi đưa tay ra để bắt mạch.

      Tôi khẽ quay người, xắn tay áo lên rồi đưa tay ra, đặt lên mặt bàn lạnh buốt. Theo ấn tượng của tôi về những lần khám trước đây ở phòng khám đông y, các thầy thuốc đều đặt đầu ngón tay lên mạch cổ tay bệnh nhân để bắt mạch; nhưng Tống Nguyệt Uyên lại chỉ ngửa bàn tay tôi lên, rồi dùng đầu móng tay của ngón trỏ và ngón giữa khẽ đặt lên cổ tay tôi. Móng tay của ấy rất mềm nhưng lạnh buốt như đá, vừa mới đặt lên cổ tay thôi, tôi nén nổi tiếng xuýt xoa.

      Dưới ánh nến tranh tối tranh sáng, bàn tay của Tống Nguyệt Uyên càng trắng bệch lạnh lẽo, lòng bàn tay trơn mịn, hề có đến đường vân.

      Tôi chợt giật mình hoảng hốt, khẽ rụt đầu, nghi hoặc. Tống Nguyệt Uyên như nhận ra thái độ này của tôi, liền mỉm cười:

      - Kỳ lạ phải ? Từ khi sinh ra tôi có đường vân tay rồi, đây cũng là loại bệnh, nhưng sao, tôi quen rồi, nó giúp tôi bắt mạch rất tốt.

      Tôi khẽ nuốt nước bọt, hai mắt mở to nhìn chằm chằm, đây đúng là thần diệu, chỉ cần dựa vào tiếng động phát ra là có thể phán đoán được tâm lý và suy nghĩ của người khác cách chuẩn xác.

      Tống Nguyệt Uyên nhoẻn miệng cười, gì, hai tay lấy chiếc bọc ra, rút lấy cuộn da cũ, đặt lên mặt bàn. Sau khi mở cuộn da đó ra, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy bên trong là hàng trăm mũi kim màu trắng bạc được xếp ngay ngắn thẳng hàng. Chúng có rất nhiều chủng loại, to có có, dày có mỏng có, ngắn có dài có, nhưng đều có điểm chung là mũi kim nhọn hoắt.

      Đầu ngón tay lướt qua lượt các mũi kim, rồi ngẫu nhiên chọn ra chiếc, tav kia cầm chiếc lọ sứ , sau khi cắm mũi kim vào trong chiếc lọ, Tống Nguyệt Uyên lắc sang hai bén, lúc lấy ra mũi kim được bọc lớp sáp trắng khắp bề mặt. Trong cả quá trình, mọi công đoạn đều được thực cách thuần thục và liền mạch trong nháy mắt, thậm chí đến những người sáng mắt cũng khó có thể thực nổi.

      Trong đầu tôi vẫn ngừng dâng lên cảm giác rất lạ, cách sử dụng những mũi kim và cách thao tác của Tống Nguyệt Uyên rất giống với Tiểu Đường. Nghĩ đến đó, tôi liền quay đầu nhìn về phía Tiểu Đường, bắt gặp ánh mắt bé cũng chăm chăm quan sát Tống Nguyệt Uyên, vẻ mặt để lộ kinh ngạc và kì quái kém.

      Tống Nguyệt Uyên đưa mũi kim lên trước mặt, miệng lẩm nhẩm điều gì đó, nhưng thanh vô cùng , tôi thể nhận ra điều gì. Tôi vô cùng hoảng hốt khi nhận ra hành động này của sao lại giống Tiểu Đường đến thế.

      Tống Nguyệt Uyên đứng dậy, lần bước tới trước mặt tôi, với tay lấy chiếc bát sứ màu xanh nhạt đưa cho tôi để tôi giơ lên sát má.

      Tôi cầm chiếc bát sứ, chỉnh lại tư thế ngồi, rồi liếc mắt quan sát khuôn mặt Tống Nguyệt Uyên.

      Khoảng cách bây giờ rất gần, tôi có thể nhận thấy nước da của rất trắng, ngũ quan sắc nét, giống như khuôn mặt của búp bê sứ, mong manh và dễ vỡ, cơ thể của toát ra mùi hương nhè .

      Tống Nguyệt Uyên giơ tay trái ra, đặt ngón cái lên huyệt thái dương của tôi, dùng lực ấn hơi mạnh. dựa vào chiếc bàn trà phía sau lưng để đứng cho vững, tay phải cầm chiếc kim từ từ hạ xuống rồi cắm đúng vào mạch. Tôi cảm thấy nơi huyệt thái dương bị chích khẽ nhói đau, ngay lập tức dòng chất lỏng chảy dần xuống má, từng giọt từng giọt tí tách vào bên trong bát sứ.

      Các ngón tay của Tống Nguyệt Uyên ngừng vê tròn mũi kim, nhàng ấn mũi kim vào sâu hơn, trong khi máu vẫn chảy thành dòng xuống má, đầu óc tôi bỗng trở nên nhàng hơn rất nhiều, giống như có làn nước ấm áp lan tỏa khắp nơi, khiến những chỗ đau trước đây trở nên sảng khoái cách khó tả.

      Tống Nguyệt Uyên vừa điều khiển mũi kim vừa lẩm nhẩm điều gì đó mà tôi nghe hiểu lắm, nhưng có thể tổng kết lại bằng bốn từ: Suy nhược thần kinh.

      Chỉ vài phút sau, máu từ thái dương chảy được gần lưng chiếc bát , màu đỏ thẫm, sanh sánh và dần đông đặc lại.

      Tống Nguyệt Uyên khẽ rút mũi kim ra từ từ, rồi dặn dò tôi:

      - Chị hãy bớt thức khuya và cố ăn nhiều đồ bổ dưỡng cho trí não.

      Tôi gật đầu, đặt chiếc bát đựng máu xuống mặt bàn, đứng dậy thò tay vào túi áo rút ví tiền ra và :

      - Của tôi hết bao nhiêu tiền?

      Tống Nguyệt Uyên khẽ lắc đầu, mỉm cười :

      - cần đâu, chuyện thôi mà!

      Trước lúc rời , tôi và Tiểu Đường lần lượt bước tới bắt tay chào tạm biệt . Tôi nhận thấy lúc Tiểu Đường bắt tay Tống Nguyệt Uyên, toàn thân hai người khẽ rung , vẻ mặt biểu lộ sắc thái hết sức kỳ quái.

      Tiểu Đường nhìn Tống Nguyệt Uyên thêm vài lần nữa trước khi rút tay lại, cũng năng gì, chỉ quay đầu kéo tay tôi vội vàng bước nhanh ra khỏi cửa. Khi đóng cánh cửa lại, tôi nén nổi tò mò nên quay đầu nhìn thêm lần nữa, nhưng Tống Nguyệt Uyên án binh bất động ghế, khẽ cúi đầu xuống như suy ngẫm điều gì đó rất nhập tâm, nên tôi thể nhìn thấy vẻ mặt của lúc đó.

      Phải đến tận sau này, tôi mới biết tại sao lúc đó khi hai người họ bắt tay nhau lại có phản ứng mãnh liệt đến vậy. Nội tình chứa sâu xa bên trong đó khiến tôi thể nào đoán ra được.

      Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi cổng, đúng lúc có chiéc xe ô-tô bảy chỗ màu đen đỗ xịch trước mặt, chiếc xe mang biển số W của Tứ Xuyên, chứng tỏ nó từ Tứ Xuyên tới nhưng từ thành phố nào. Sau khi cánh cửa xe được mở ra, người bước xuống, ngó nghiêng nhìn ra xung quanh.

      Đó là người phụ nữ trẻ, chắc cũng trạc tuổi tôi, ăn vận hết sức giản dị. Người này có dáng hình mảnh khảnh, các nét khuôn mặt rất thanh tú nhưng lại hết sức nghiêm nghị.

      Tôi chỉ nhìn qua là có thể đoán ra, người này chắc chắn là cảnh sát, hơn nữa còn là cảnh sát hình chuyên nghiệp. Vốn trong nghề nhiều năm, tiếp xúc với rất nhiều dạng người, vẻ sắc sảo và nghiêm nghị khuôn mặt của ấy xa lạ gì với tôi, nên chắc chắn thể nhầm.

      Đúng lúc đó, ấy cũng quay đầu nhìn về phía chúng tôi, đôi lông mày khẽ cau lại. Qua biểu lộ sắc thái đó, tói đoán rằng ấy cũng có những suy nghĩ giống mình, hoặc là hai chúng tôi có thần giao cách cảm.

      Mặc dù thấy hơi lạ, nhưng lúc đó tôi suy nghĩ gì hơn, với tay gọi chiếc taxi rồi lên xe quay về. Sau khi chiếc taxi dược khoảng hơn chục mét, tôi vô thức quay đầu lại thấy đó đỡ người từ trong xe bước ra, người đó có vẻ ngoài to béo, khoác chiếc áo choàng dài màu xanh đậm, bước chân liêu xiêu, dò dẫm từng bước vào trong sân, có vẻ như người này nhìn thấy gì, chắc là bệnh nhân tới để chữa bệnh.

      suốt chặng đường về, Tiểu Đường ngồi im chỗ năng gì, đôi mắt nhìn thẫn thờ ra ngoài cửa sổ như miên man suy tư điều gì đó. Tôi vài lần hỏi bé rằng vì sao lúc hai người bắt tay lại có phản ứng khác lạ như vậy, nhưng Tiểu Đường vẫn lặng yên, hề quay lại trả lời câu hỏi của tôi.

      Tôi khẽ lắc đầu khó hiểu, cảm thấy những có khả năng đặc biệt đều rất khó hiểu, hề giống với người bình thường chút nào.

      Bỗng nhiên, tôi nhớ ra Tống Nguyệt Uyên là người mù, vậy tại sao trong phòng lại có nhiều sách đến như vậy. Nhưng khi nghĩ lại, tôi thấy mình đúng là người lo xa, người ta có nhiều sách nhưng đâu nhất thiết phải đọc nó, cũng có thể đó là do ông bà, bố mẹ họ để lại.

      Nhưng phải rằng khả năng của Tống Nguyệt Uyên vô cùng đặc biệt, mặc dù chỉ châm cứu cho tôi có lần, nhưng từ đó trở , bệnh đau đầu của tôi hề tái phát, thậm chí cả bệnh mất ngủ giờ cũng thuyên giảm rất nhiều. Nếu sau này có cơ hội, nhất định tôi phải tìm gặp để nhờ chữa bệnh kinh nguyệt đều.

    4. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      hần 2: Chuyến thám hiểm dưới lòng cổ tháp

      Chương 12: Sinh Tức Mộc

      Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng nhìn vào cái lỗ tròn xíu ấy, như thể vẫn chưa tin vào những điều chính mắt mình trông thấy. Chẳng nhẽ bên trong thân cột lại dấu vật thể sống nuốt chửng mũi kim đó. Lão Mục khẽ khom lưng, dùng đầu ngón tay khẽ cậy dấu tích vừa để lại, đôi lông mày chau lại tập trung suy nghĩ lời nào.

      Chúng tôi ở Bắc Kinh gần nửa tháng, theo chỉ thị của Chung Hồng Đạt, vào buổi tối ngày Chủ nhật, Lão Mục lái xe đưa tôi và Tiểu Đường quay trở lại Cẩm Châu.

      Khi vừa tới huyện Liêu Chung thuộc Thẩm Dương, nhiệt độ giảm xuống rệt, mặt đường vẫn còn đóng băng, hai bên đường tuyết phủ trắng xóa, xem ra ở đây vừa có trận tuyết lớn, do tình hình thời tiết Lão Mục phải giảm tốc độ xe rất nhiều.

      Chúng tôi qua trạm thu phí Cẩm Châu đoạn đường cao tốc Kinh Thẩm vào lúc sáu giờ sáng, mặt trời cũng bắt đầu rạng. Ngồi xe đường dài suốt đêm, ngủ được sâu khiến đầu óc tôi nặng trịch, nhưng khi nhìn thấy hình ảnh rất đỗi quen thuộc của quê hương mình bừng sáng trong ánh bình minh, tinh thần tôi bỗng hưng phấn hẳn, tôi rất muốn được về nhà thăm bố mẹ, rất muốn tới mộ thắp hương cho cậu tôi, cho La Viễn Chinh và Phùng Siêu. Nhưng đó chỉ là mong ước xa xỉ, ngay lúc này tôi thể thực được.

      Thấy tôi thở dài buồn phiền, Tiểu Đường đưa tay từ đằng sau nhàng ôm lấy vai tôi. Lão Mục cũng quay sang an ủi tôi vài câu, hỏi địa chỉ nhà tôi, rồi lái xe vòng quanh khu phố .

      Khi gần tới nơi, chiếc xe chạy chậm lại, tôi hạ cửa kính xe xuống chút, chăm chú nhìn ô cửa sổ quen thuộc nhưng thấy hai bóng hình quen thuộc đâu, cảm giác nhớ nhà khiến tôi kìm nổi lòng và nước mắt cứ thế chảy giàn giụa.

      Nhưng tôi chợt nhớ đến nguy hiểm rập rình nếu như chúng tôi bị theo dõi và phát , nên bảo Lão Mục nhanh chóng lái xe ra khỏi khu vực này.

      Sau khi được đoạn khá xa, chúng tôi dừng lại tại quán bên đường để ăn sáng. Do cũng chưa biết đâu nên Lão Mục chạy xe vòng quanh Cẩm Châu thăm thú cảnh vật xung quanh. Tới gần trưa, Lão Mục lái xe vào bãi đỗ xe của siêu thị Đại Nhuận Phát nằm bên cạnh công viên Cổ Tháp. Chúng tôi vào siêu thị mua đầy đủ nước uống, bánh quy và lương khô để chuẩn bị cho chuyến thám hiểm sắp tới, sau đó mới vào tiệm KFC gần đó để ăn trưa. Ăn xong, ai với ai câu nào, mọi người tranh thủ chợp mắt lúc để giữ sức, đợi đến chiều tối bắt đầu chuyến .

      Cửa hàng KFC nhìn ra con phố bộ qua khung cửa kính lớn, bên ngoài dòng người lại tấp nập, những mái hiên của dãy cửa hàng đối diện nối tiếp nhau san sát. Lúc đó là giữa trưa, nên ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào bên trong qua lớp cửa kính, cảm giác rất ấm áp dễ chịu. Tôi khoanh tay trước ngực, đầu hơi tựa lên cửa kính, hai mắt khẽ nhắm lại, miên man suy nghĩ lúc lâu sau cơn buồn ngủ mới đến. Tôi dần chìm vào giấc ngủ mộng mị.

      Trong giấc mơ, những tấm Long Bản kích thước to khác nhau lơ lửng bay lượn trước mắt tôi, chúng có tới hàng trăm hàng nghìn tấm, dày đặc như sao trời. Rồi từ những tấm Long Bản chui ra những con rồng đỏ, chúng như vừa được thoát xác khỏi nơi chật chội tù túng, nên ra sức bay lượn khắp nơi, chúng há to cái miệng đỏ lòm, để lộ ra những chiếc răng nanh nhọn hoắt và trắng nhởn. Cuối cùng, chúng quay đầu lại lao thẳng về phía tôi với tốc độ chóng mặt.

      Tôi sợ đến mức toàn thân run lẩy bẩy, miệng ú ớ nên lời, vội vàng choàng tỉnh, mồ hôi vã ra đầm đìa, giống như vừa bị ại đó dội cả gáo nước lên người. Nhìn ra ngoài cửa sổ, trời chiều bắt đầu tối lại.

      Lão Mục cũng tỉnh dậy từ lúc nào, nhìn tôi đầy lo lắng, vỗ vỗ lên tay tôi cho tỉnh ngủ :

      - Sao thế, vừa gặp ác mộng à?

      Tôi có hơi chút ngượng ngùng, khẽ mỉm cười rồi gật đầu trả lời; đưa mắt nhìn sang Tiểu Đường, nghiêng đầu thành ghế, mắt vẫn nhắm chặt ngủ say sưa, nước miếng chảy qua khóe mép, làm ướt cả góc vai áo. Chúng tôi khẽ đánh thức Tiểu Đường dậy, sau khi ăn tạm chút đồ ăn , chúng tôi xách đồ, quay lại xe.

      Trước khi khởi hành, Lão Mục lấy từ trong cốp xe ra ba bộ đồ màu đen, đưa cho chúng tôi. Nhìn bộ quần áo từ tay Lão Mục, tôi thấy nó khá giống bộ quân phục diễn tập của cảnh sát với rất nhiều túi có khóa kéo. Bộ quần áo được may bằng loại vải Gore-Tex chuyên để may Jacket, nhưng rất mềm, mỏng và . Khi cầm tay, ngoài cảm giác xốp và , bộ quần áo gây ra tiếng sột soạt như những loại vải pha ni-lông thông thường khác, nên khi mặt lên người hề có cảm giác nặng nề và vướng víu. Lão Mục với chúng tôi, đây là bộ quần áo thiết kế riêng cho bộ đội đặc công, nó những có thể giữ ấm, chống thấm nước, mà còn rất và thoải mái khi mặc, thích hợp với những người phải thực công việc dưới điều kiện thời tiết gian khổ.

      Tiếp theo, Lão Mục lấy ra chiếc hộp đựng dụng cụ, xếp đầy bên trong là xẻng, cuốc, xà beng, dây thừng, búa, thêm cả nước lọc và lương khô, nhét vào chiếc ba-lô khoác vai rất lớn. Sau đó, ta đưa cho chúng tôi mỗi người chiếc dao gấp, bộ đàm dây và chiếc đèn pin mini, đó đều là những dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát để cho vào ba-lô của mỗi người. Nhìn những dụng cụ đó, tôi chẳng có cảm giác sắp phải xuống lòng tháp mà giống như chuẩn bị leo núi vậy.

      Sau khi chuẩn bị xong xuôi, Lão Mục khoác chiếc ba-lô to nhất lên vai, gọi chúng tôi xuống xe, ngang qua siêu thị Đại Nhuận Phát để ra phía ngoài. Lúc đó trời cũng tối hẳn, những cơn gió lạnh buốt thổi tới, xộc vào mũi rồi chạy thẳng xuống phổi, như tiếp thêm luồng khí trong lành khiến tinh thần chúng tôi trở nên sảng khoái lạ thường.

      Công viên Cổ Tháp được dựng nền kiến trúc của ngôi chùa Đại Quảng Tế, phía mái còn phủ lớp tuyết trắng xóa, bên trong ngọn tháp điểm xuyết đống tuyết rơi xuống mà chưa kịp tan. Bốn ngọn đèn cao áp ở phía dưới chân ngọn tháp, chiếu luồng ánh sáng cực mạnh ngược lên tận đỉnh, khiến cả ngọn tháp lên lung linh trong màn đêm giá lạnh.

      Chúng tôi đứng ở bên ngoài, quan sát bốn phía xung quanh, Lão Mục quyết định vào trong chùa Đại Quảng Tế trước, mà thẳng vào bên trong Cổ Tháp.

      Bước vào bên trong công viên, tôi mới thấy người tập thể dục đông lắm. Chúng tôi giả vờ như tham quan, lại lại hai vòng, sau khi xác định xong vị trí, tiện lúc có ai để ý, chúng tôi tiến vào dãy hành lang núp dưới bóng cây tùng cổ thụ ở phía sau.

      Đứng dưới bóng tùng già, ánh sáng từ chiếc đèn cao áp vẫn le lói xuyên qua tán lá hình kim, khiến mọi vật trước mắt tôi trở nên mập mờ. Lão Mục quỳ hẳn xuống dưới đất, lôi chiếc dao gấp trong ba-lô ra, đào hố dưới gốc cây tùng, cẩn thận nhét chìa khóa ô tô vào trong cái túi bóng, rồi chôn nó xuống đất.

      Tôi hiểu vì sao ta lại làm thế, nên khẽ cất tiếng hỏi:

      - định làm gì thế?

      Lão Mục thầm trả lời, do tình hình phía dưới Cổ Tháp chưa thế nào, phòng khi có trường hợp xấu xảy ra, người nào đó thoát ra được vẫn có thể lấy chìa khóa xe. xe có đầy đủ giấy tờ và tiền bạc, đủ để quay lại Bắc Kinh.

      Nghe ta thế, tôi thấy buồn cười, cứ như chúng tôi ăn trộm vậy, trong khi mình đường đường chính chính thực nhiệm vụ được giao cơ mà. Nhưng suy nghĩ lại, tôi lại thấy đó chính là kinh nghiệm đáng quý của bộ đội đặc công, nên cũng tháo chiếc đồng hộ kỉ niệm của cậu ra, ngắm nghía vuốt ve lúc rồi đưa cho Lão Mục chôn xuống đất cùng với chiếc chìa khóa xe.

      Sau khi chôn chiếc chìa khóa xe ô-tô và chiếc đồng hồ của tôi xong xuôi, Lão Mục đánh dấu vị trí thân cây tùng. Tôi hít hơi sâu, rồi ngẩng đầu nhìn lên tán lá sum suê vẫn bị phủ đầy tuyết trắng nặng trĩu, dưới ánh sáng mập mờ, chúng như những tán mây trắng trắng trôi lững lờ trong trung. biết ngày xưa, cậu tôi phát ra điều gì bên trong lòng tháp kia, liệu lần này chúng tôi có thể tìm ra nó ?

      Bỗng dưng tôi thấy mình như nhân vật trong bộ phim trinh thám, đứng trước mê cung, biết chắc gặp nguy hiểm nhưng thể tiến tới, đó là thứ cảm giác lo lắng và bồn chồn rất khó tả.

      Trời về đêm mỗi lúc lạnh, những con gió rít qua tán lá, khiến lớp tuyết phủ đó bay lả tả như trận mưa tuyết. Chúng tôi ngồi xuống, dựa lưng vào gốc cây, lắng nghe từng động tĩnh từ phía bên ngoài rồi lặng yên chờ đợi.

      Cứ như vậy cho đến khoảng mười giờ tối, người bộ trong công viên thưa dần rồi vắng lặng bóng người, ngay sau đó là tiếng cổng sắt đóng lại, khoảng mười phút sau, công viên trở nên yên lặng đến lạ thường. Lão Mục đứng bật dậy, khua tay khua chân cho đỡ mỏi rồi rảo bước chân bước xung quanh, ngó nghiêng quan sát các phía để thám thính tình hình, khi thấy có dấu hiệu gì bất thường ta mới vẫy tay gọi chúng tôi:

      - Nhanh! Chúng ta mau xuống dưới tháp.

      Tôi kéo tay Tiểu Đường, sát theo chân Lão Mục, chúng tôi rón rén nấp sau tảng đá rồi nhanh chóng di chuyển tới hàng rào trước cửa ngọn tháp. Khi tới gần, tôi mới nhận ra ngọn tháp cao chừng năm sáu mươi mét, diện tích bề mặt cũng gần bằng nửa sân bóng. Ánh sáng từ những ngọn đèn cao áp rọi lên thân tháp, đan xéo vào nhau khiến cho ngọn tháp càng trở nên hùng vĩ hơn, in bóng xuống nền tuyết trắng phau.

      Cổ Tháp Cẩm Châu được thiết kế theo kết cấu tám mặt mười ba tầng, diện tích các tầng dần khi lên cao, tầng dưới cùng được coi là trụ tháp, cao hơn mười mét, mỗi mặt tháp có cửa hang rất lớn, tường khắc tượng Bồ tát với dáng vẻ rất kỳ lạ, đứng hai bên là hai vị quan nhân với vẻ mặt quắc thước, tôi biết tên gọi là gì. Các bức tượng khắc tường đều bị tàn phá nghiêm trọng qua thời gian, nhưng riêng các đường nét khuôn mặt vẫn được thần khí, từ ánh mắt vô định cho đến đôi lông mày chau, khuôn miệng hơi hé mở, chứng tỏ họ hướng mắt nhìn về phía xa xa. Khuôn mặt của họ trở nên dữ tợn hơn dưới ánh đèn, khiến tôi có phần rợn tóc gáy.

      Do trước đây thường xuyên xảy ra tượng gạch đá rơi xuống, khiến ngưởi tham quan bị thương, nên vào mùa hè năm 1993, chính quyền thành phố quyết định đóng cửa toàn bộ ngôi tháp cổ này. Cả tám cổng hang dẫn xuống dưới đều bị chặn bởi những tảng đá lớn, thậm chí còn được cố định bằng xi-măng nên thể nào xuống được dưới. Nhưng theo sơ đồ kết cấu của ngọn tháp, tấng cao nhất chính là nơi cất giữ những di vật của hoàng hậu Liêu, nó được dựng bởi những tảng đá hơn.

      Tôi ngẩng đầu lên nhìn qua lúc, chau mày suy nghĩ rồi khẽ thầm với Lão Mục:

      - Lão Mục,chỗ này sáng quá, nếu chúng ta trèo lên đó, sợ rằng có người phía ngoài kia nhìn thấy mất.

      Lão Mục gật đầu tán thành, tay xoa xoa cằm, mắt nheo lại, tập trung suy nghĩ lúc lâu rồi bỗng nhiên chỉ tay lên vị trí tảng đá nằm giữa hai bóng đèn:

      - Vị trí đó bị che khuất vì hai bóng đèn đều chiếu tới, chúng ta có thể trèo lên đó.

      Tôi nhìn theo hướng tay ta thấy đúng là như thế, hai cạnh của ngọn tháp giao nhau tại đường gấp và thụt sâu vào trong, khi hai luồng ánh sáng đèn ở hai góc giao nhau, chúng tạo nên khoảng lý tưởng. Dọc theo đó, các tảng đá mấp mô, bị bào mòn qua thời gian, giống như những bậc thang, nên có thể men theo đó để leo lên.

      Thân tháp rất cao, các mỏm đá khá nhọn, với tôi thành vấn đề gì, chỉ lo Tiểu Đường yếu ớt chịu được, nên quay lại hỏi bé:

      - Em có sợ ?

      Tiểu Đường lắc đầu quầy quậy, khuôn mặt rất hào hứng, lúc lắc vận động hai tay, :

      - Em sợ đâu, thậm chí còn rất phấn khích đây.

      Tôi và Lão Mục quay sang nhìn nhau mỉm cười, thấy yên tâm phần nào, chúng tôi đỡ Tiểu Đường nhảy qua hàng rào rồi cùng nhảy sang. Trước mặt là tảng đá cao chừng năm mét, nên chúng tôi phải hỗ trợ nhau để trèo lên, nhanh chóng nấp vào vị trí khuất bóng.

      Cả ba chúng tôi cùng nấp trong khoảng tối quan sát, cũng may nó vừa đủ cho cả ba người. Tiểu Đường quay đầu sang nhìn bức tượng Bồ tát khắc tường hang rồi với chúng tôi:

      - Khuôn mặt đúng là khắc , nhưng thân dưới phải.

      Tôi lập tức đưa mắt nhìn về bức tượng mà Tiểu Đường tới. Khuôn mặt Bồ tát bị che lấp phần bởi lớp rêu phong thời gian, những vết sứt mẻ qua hàng nghìn năm mưa gió khiến cho khuôn mặt trở nên thô ráp và sần sùi, giống như bị đục đẽo bằng mũi dao.

      Lão Mục đưa tay phủi sạch lớp tuyết bám mỏm đá, lôi sợi dây thừng trong ba-lô ra, luồn đầu dây qua khe đá, buộc lại chặt, rồi nắm đoạn dây còn lại leo trước. Khi Lão Mục leo được lúc, tôi liền kéo tay Tiểu Đường đẩy bé lên trước, còn mình leo lên sau cùng.

      Những tảng đá bên ngoài ngôi tháp bị thời gian tàn phá, chúng còn gắn kết như vốn có mà bị nứt toác thành những khe lớn; từ trong khe đá, rêu phong cỏ dại đua nhau mọc tua tủa, dưới từng đợt gió lùa, chúng lắc lư tạo ra những tiếng rít gào khiến cho người nghe cảm thấy lạnh lẽo đến rùng mình. Có những mỏm đá bị băng tuyết phủ dày, chỉ còn nhô ra mép khoảng ba đầu ngón tay, vậy mà chúng tôi vẫn phải bước lên, dồn toàn bộ sức nặng của cơ thể lên mỏm đá bé xíu đó, điều đó quả thực quá khó khăn và nguy hiểm đối với những người bình thường đặc biệt là trong điều kiện thời tiết như thế này. Do phải gồng mình trong thời gian dài nên các khớp xương của tôi dần trở nên đau mỏi và tê cứng.

      Nhưng chúng tôi vẫn kiên trì và cố gắng bám chặt các mỏm đá, nhàng và cẩn thận leo lên từng bước , cho tới khi đến tầng thứ chín. Những con gió lùa đến mỗi lúc mạnh hơn, lạnh thấu xương, khiến cho chúng tôi khó để đứng vững. Khi cúi đầu nhìn xuống phía dưới, chúng tôi giờ cách mặt đất khoảng khá xa. Phía trước mặt là tòa nhà của Sở Công an thành phố với rất nhiều cửa sổ sáng đèn, bên trong phòng vẫn còn thấp thoáng những bóng người qua lại. Dưới chút chính là phòng làm việc của tôi, nhưng giờ chỉ là khoảng tối đen vắng lặng.

      Tôi bỗng chạnh lòng trong giây lát, nhớ quay quắt những kỉ niệm từ khi trở thành cảnh sát. Tôi thở dài xót xa khi nghĩ rằng biết mình còn có thể quay trở lại làm việc ở Sở Cảnh sát nữa hay .

      Chúng tôi tiếp tục leo lên tầng mười hai, phía đỉnh tháp dần thu hẹp lại. Bỗng nhiên, từ đầu, đàn vô số những con chim màu đen bay ra rào rào, khiến lớp băng tuyết bay tứ tung, rơi khắp đầu khắp mặt chúng tôi.

      Từ đâu xuất đàn chim lạ khiến cả ba giật thót tim, điều lo sợ hơn cả là có thể bị người khác phát ra, nên chúng tôi vội vàng núp vào bóng tối, úp mặt sát mỏm đá rồi hít thở sâu lấy lại bình tĩnh, tay chân tê cứng, mặt mũi lấm lem nhưng ai dám cử động mạnh. Băng tuyết mặt tôi bắt đầu tan chảy, khiến mặt lạnh buốt như bị kim châm.

      lúc sau, tôi mới khẽ ngẩng đầu nhìn lên, ra đó là đàn quạ bị kinh động ào ào bay ra khỏi tổ, chúng lao thành đàn bay vút lên trời, dưới ánh trăng mờ ảo tạo thành vô số những vệt đen li ti, và chỉ trong nháy mắt biến mất. Lúc đó tôi mới nhớ ra, đỉnh tháp này từ lâu là nơi trú ngụ của hàng nghìn con quạ, nên người ta còn gọi đây là tháp Quạ, trong tám cảnh quan nổi tiếng của thành phố Cẩm Châu.

      Đợi lúc chờ cho gian xung quanh trở lại yên lặng như cũ, chúng tôi mới tiếp tục leo lên . Lần này, chúng tôi leo mạch thẳng lên tới đỉnh, phía đỉnh người ta cũng dựng ngọn tháp, thân là mười ba hình trụ tròn nối với nhau, có chiều cao khoảng mười mét, mũi tháp nhọn hoắt chọc thẳng lên trời.

      Đỉnh tháp được xây dựng theo hình vòng cung, diện tích lớn lắm, bề mặt phủ tuyết trắng xóa và vô số phân quạ.

      Do vị trí đứng rất cao so với mặt đất, nên chúng tôi phải cố gắng khom người xuống thấp, gần như bò rạp nền tuyết trắng để tránh bị phát . Đó cũng là lúc nửa đêm, ánh trăng chiếu thẳng từ đỉnh đầu xuống mặt tuyết trắng xóa, phản chiếu những tia sáng nhấp nháy.

      Chúng tôi dùng tay gạt lớp tuyết sang hai bên, để lộ ra khoảng , phía dưới là mặt đá màu xanh thẳm hình thoi, dùng viên đá gõ lên đó vài tiếng, từ dưới phát ra những tiếng cộp cộp, chứng tỏ lớp đá này dày lắm.

      Lão Mục gần như quỳ mọp xuống, đưa tay hạ chiếc ba-lô sau lưng, lấy ra bộ dụng cụ cuốc xẻng, đưa cho tôi chiếc rồi gọn lỏn:

      - Cậy lên!

      Tôi bắt chước động tác của Lão Mục, dùng mũi xẻng chọc vào khe đá, sau giữ chắc tay tại vị trí đó, lấy hết sức ấn mạnh cán xẻng xuống. “Rắc!” tiếng, ngay sau đó là tảng đá được bẩy lên. Chúng tôi vội vàng đỡ lấy rồi chuyển nó sang bên cạnh. Quả đúng như dự đoán, bên dưới trống . Chúng tôi tiếp tục chuyển sang cậy hai tảng đá khác, khi thấy miệng hố vừa đủ cho người chui xuống chúng tôi dừng tay. Tôi vội vàng đặt chiếc xẻng xuống, hai tay bám chặt lên mép tảng đám ngó đầu xuống dưới nhìn thử.

      Bên dưới là cái động sâu hun hút, tôi cũng nó sâu bao nhiêu, chỉ thấy mùi ẩm mốc bốc lên, nhưng lúc sau cũng giảm dần.

      Thấy vậy, chúng tôi chưa vội xuống luôn, Lão Mục ném thử viên đá xuống dưới để thám thính, “cạch… cạch… cạch…” tiếng va chạm của viên đá vọng lên.

      Lão Mục khẽ gật đầu, quay sang bảo với tôi:

      - sâu lắm đâu, chỉ chừng hai mét thôi. Để tôi xuống trước, hai người xuống sau nhé.

      rồi, ta bấu chặt mép tảng đá rồi thả tay tụt cả người xuống, thân hình cao lớn của Lão Mục nhanh chóng mất hút trong lòng động.

      lúc sau, giọng ta khẽ vọng lên:

      - sao!

      Trong vòng mấy phút, thấy Lão Mục thêm câu gì, chắc là tìm hiểu tình hình phía dưới, cuối cùng ta cũng ra hiệu cho chúng tôi cùng xuống.

      Tôi cầm tay Tiểu Đường rồi từ từ thả bé xuống trước, rồi mình trèo theo sau. Lão Mục lần lượt đỡ chúng tôi xuống, sau khi cả ba cùng yên vị, chúng tôi dựa lưng vào nhau, lôi đèn pin cá nhân ra soi xét xung quanh.

      Ánh đèn pin trở nên quá sáng trong gian bé này, khiến mọi vật nét đến lạ thường. Tôi nhận thấy diện tích bên trong lớn lắm, chỉ rộng hơn hai mươi mét vuông, gian ngột ngạt, xung quanh bốc mùi mốc meo giống như mùi của thức ăn thiu, tôi lập tức đưa tay bịt mũi lại. Lớp xi-măng dưới nền nhẵn mịn vì những vết chân mài mòn, lớp mái nằm ngay sát đầu, sau thanh xà ngang gắn kết với nhau vững chắc, chúng bị tầng tầng lớp lớp mạng nhện giăng kín mít. Hàng chục con nhện mải miết chăng tơ vừa thấy ánh đèn quét qua liền vội vã chạy trốn, làm hệ thống mạng nhện rung lên bần bật.

      Ngay ở vị trí chính giữa là cột trụ bằng gỗ rất lớn, bề mặt khá nhẵn nhụi, thân cột phải chừng ba người ôm mới hết, đỉnh cột đỡ những thanh xà ngang phía , còn chân cột chôn chặt dưới nền đất. bức tường phía đông là giá gỗ hai tầng, có cấu tạo rất đặc biệt, giống như tủ thờ, nhưng cũng bị hư hỏng nặng nề, bề mặt phủ kín mạng nhện và lớp bụi dày. Các bức tường còn lại cũng khá khẩm hơn, tất cả đều bị ố vàng hay rêu mốc gần hết, hầu như thể nhìn thấy những bức họa bức tường vẽ những gì.

      Lão Mục tiến lên phía trước, tay cầm chiếc đèn pin soi kỹ, tay kia đặt lên cằm, hơi chau mày lại. Quan sát kỹ từng bước tường rồi bỗng dưng khẽ:

      - đúng! – Rồi quay lưng lại, ngón tay chỉ quanh lòng tháp, giọng hết sức ngạc nhiên – Tại sao lại chỉ có sáu cạnh mà phải là tám cạnh?

      Tôi lúc này cũng ngỡ ngàng, vội vàng quay đầu nhìn khắp bốn phía xung quanh, phát ra điều hết sức khó hiểu, ra bên trong lòng tháp là kết cấu sáu cạnh chứ phải là tám cạnh như nhìn từ bên ngoài. Như vậy mặt bên trong ít hơn mặt bên ngoài hai cạnh, hề giống với bản thiết kế mà Chung Hồng Đạt đưa cho chúng tôi xem.

      Đúng lúc cả ba chúng tôi chưa hết ngỡ ngàng, bên ngoài trận gió lớn bỗng lùa vào miệng hang, cuốn theo cả những bông tuyết trắng tinh, dưới ánh trăng chúng lả tả rơi xuống trông như những hạt vàng lấp lánh thảnh thơi phiêu mình trong gió. Cảnh tượng này mới nên thơ và lãng mạn làm sao.

      Tôi giũ giũ tóc để những hạt tuyết rơi xuống, rồi bước tới bên bức tường trước mặt, bỗng tôi chợt thấy toàn thân Tiểu Đường run rẩy, liền hỏi:

      - Em bị làm sao thế? Em sợ à?

      Tiểu Đường lập tức quay sang nhìn tôi, khuôn mặt nhợt nhạt, hai hàm răng lập cập va vào nhau. Tiểu Đường đưa hai tay kéo cao cổ áo lên, rồi nhàng trả lời tôi:

      - Em… sao, chỉ là hơi lạnh thôi!

      Thấy Tiểu Đường thế, tôi cũng nghĩ là bé lạnh , nên nắm chặt tay để ủ ấm.

      Sau đó, cả ba chúng tôi cũng vòng quanh lòng tháp để quan sát kĩ hơn, ngoài việc mặt bên trong ít hơn mặt bên ngoài hai cạnh ra, chúng tôi chưa phát ra thêm điều gì khác lạ.

      cạnh phía Tây Bắc, có chiếc cầu thang xoắn bằng gỗ chạy xuống dưới, các bậc thang phủ dày lớp đất đá nên còn nhìn màu gì, thậm chí còn bị mục gần hết. Thử soi dền pin xuyên qua lớp mạng nhện, tôi chỉ thấy khoảng sáng mờ mờ, còn xung quanh vẫn tối đen như mực.

      Lão Mục đưa tay thử lay chiếc cầu thang, những tiếng kẽo kẹt vang lên trong mỗi lần rung, lớp đất cát rơi xuống bụi mù. Lão Mục gật gật đầu :

      - Mọi di vật của hoàng hậu nhà Liêu được trưng bày ở viện bảo tàng rồi, chẳng còn gì ở đây nữa, theo tôi thấy cầu thang này vẫn còn dùng được, chúng ta thử xuống đó xem sao.

      Tôi khẽ gật đầu đồng ý, quay lại định gọi Tiểu Đường thấy đứng quay lưng về phía chúng tôi, quỳ gối trước bức tường, hai tay chống xuống đất, đầu hơi nghiêng sang trái, cả người bất động tập trung quan sát thứ gì đó.

      Tôi nhàng bước tới, ánh trăng từ miệng hang chiếu xuống thành đường thẳng, rồi hắt sáng lên góc tường. Nửa người Tiểu Đường dưới ánh trăng đúng cỗ khuất tầm mắt tôi.

      Tôi nhàng quỳ xuống sau lưng Tiểu Đường, đưa mắt nhìn theo hướng quan sát củ bé. Bức bích họa bị hư hỏng nặng, lại còn phủ đầy bụi đất, nên thể nào nhìn thấy gì. Thế nhưng vẫn còn góc được giữ nguyên vẹn, thậm chí tôi còn nhận ra hình người trong bức họa, đó là Quan Thế Bồ Tát trong bộ áo màu trắng, chân đứng đài sen, hai tay giơ cao qua đầu, tay áo trượt xuống để lộ cả khủy tay, bàn tay cầm vật dẹt dẹt nghiêng góc 45 độ, khung cảnh đằng sau là những ngọn núi trùng trùng điệp điệp, là những đám mây lơ lửng lưng chừng, giống như ở chốn bồng lai vậy.

      Thấy Tiểu Đường vẫn chăm chú quan sát, tôi liền tò mò vỗ lên vai bé, hỏi :

      - Em nhìn gì thế?

      Tiểu Đường giật nảy mình, hốt hoảng quay đầu, tay vỗ vỗ ngực:

      - Ối giời, làm em hết cả hồn! Em mải nhập tâm suy nghĩ.

      Tôi cũng ngỡ ngàng kém, liền hỏi lại:

      - Sao thế?

      Tiểu Đường đưa ngón tay chỉ về bức họa Quan Bồ Tát, :

      - Chị Tiêu Vi, chị nhìn xem, tay Bồ Tát có phải cầm tấm Long Bản ?

      Nghe đến tấm Long Bản, tôi giật mình vội vàng nhìn xem thực hư thế nào. Mặc dù bức họa còn nét nữa, nhưng đúng là vật mà Bồ Tát cầm càng nhìn càng thấy giống, đặc biệt là dáng hình dẹt dẹt, màu đỏ sậm, trông rất giống tấm Long Bản.

      Thấy hết sức kỳ lạ, tôi liền hỏi Tiểu Đường:

      - Đây cũng là khắc hình sao?

      Tiểu Đường miết ngón ta lên bề mặt bức họa, lúc lâu sau mới lên tiếng:

      - phải, em sờ mãi vẫn phát ra, nó bị hư hỏng nặng quá.

      Tôi vội vàng gọi Lão Mục tới, ta cũng bất ngờ kém khi nhìn thấy hình ảnh tấm Long Bản. Suy nghĩ lúc, ta bỗng thốt lên:

      - Trong lòng Cổ Tháp chỉ có sáu cạnh, ta thử xem năm cạnh còn lại xem sao.

      Nghe Lão Mục vậy, chúng tôi mới sực nhớ ra, liền đứng dậy vòng quanh tìm kiếm, thậm chí còn nhấc cả chiếc giá gỗ ra để xem xét. Quả nhiên, đúng như dự đoán, năm cạnh còn lại đều vẽ những bức họa giống nhau, tay Quan Thế Bồ Tát đều cầm vật dẹt dẹt, màu đỏ thẫm.

      Riêng bức họa vách tường phía Đông, nhờ có chiếc giá gỗ nên vẫn giữ được gần như nguyên vẹn hình dạng, vật trong tay Bồ Tát có hình vuông dẹt, xung quanh là những hoa văn uốn lượn, giống y hệt với tấm Long Bản tôi giữ, nhưng do vết sơn bề mặt bị bong tróc phần nào, nên Tiểu Đường thể đoán được hình vẽ đó có phải là được khắc hay .

      Lão Mục xoa cằm suy tư lúc trước khi lùi bước ra sau, quay đầu nhìn theo hướng tấm Long Bản tường. Đó chính là vị trí của chiếc cột trụ gỗ lớn màu đen bóng, nằm ở giữa lòng tháp. ta nhàng bước lại gần, giơ chiếc đèn pin soi ngược lên đỉnh cột trụ.

      Tôi cũng ngẩng đầu nhìn lên, dưới ánh đèn pin, bề mặt của chiếc cột trụ được phủ lớp sơn đen bóng loáng, nhưng đỉnh nhìn lắm, hình như đó có khắc vài bức họa phải.

      Để nhìn hơn, Tiểu Đường trèo lên vai Lão Mục. tận tay miết lên bề mặt cột trụ. Trong giây lát, bé reo lên mừng rỡ:

      - Là khắc hình! Đây mới chính là khắc hình, vòng tròn khá to nhé!

      Tôi và Lão Mục đều hết sức ngỡ ngàng, đồng thanh hỏi lại:

      - Vòng tròn gì?

      Lão Mục vẫn để Tiểu Đường đứng vai và từ từ quanh vòng, để bé kiểm tra kĩ càng hơn.

      Lần này, Tiểu Đường phát thêm điều rất quan trọng, bề mặt cột trụ khắc sáu hình tròn có đường kính khoảng 40 cen-ti-mét nối liền với nhau, cân xứng với nhau và đều lõm vào trong, xung quanh là những đường hoa văn giống như những đám mây, lần lượt hướng về sáu tấm Long Bản nằm trong tay sáu vị Bồ Tát các cạnh tháp.

      Sau khi Lão Mục hạ Tiểu Đường xuống, chúng tôi lập tức cùng nhau phân tích lại những chi tiết vừa khám phá. Dựa vào những phán đoán về hình dạng và vị trí của những vòng tròn kia, chúng tôi đều cho rằng nó tượng trưng cho mặt trời, Bồ Tát dùng tấm Long Bản để hứng lấy tia nắng. Mặc dù chưa mục đích của việc này, nhưng nghĩ đến việc ngọn tháp này được xây dựng theo kiến trúc Phật Giáo, nên tôi đoán hành động đó tượng trưng cho nghi thức đặc biệt nào đó trong Phật Giáo.

      Thế nhưng, nghĩ kĩ lại cũng khó hiểu, vì sao họ lại chỉ khắc lên đó sáu hình mặt trời, trong khi truyền thuyết kể lại rằng bầu trời có tới mười mặt trời. Lẽ nào đây chỉ là dụ ý trong kiến trúc sáu cạnh của ngọn tháp cổ này?


      Những hình rồng tấm Long Bản mà cậu tôi giữ chính là khắc hình, những mặt trời thân cột kia cũng là khắc hình, dựa vào lí thuyết này, tôi đoán hoa văn trong những bức bích họa cũng có thể là khắc hình hoặc là loại ám hiệu gì đó.

      Nghĩ tới đây, tôi liền nhận ra những bức họa kì lạ trong lòng tháp dường như đều có liên quan tới tấm Long Bản, kết hợp với những phán đoán ban đầu, tôi đoán chắc cậu tôi lấy hai tấm Long Bản từ trong lòng tháp này.

      Tôi liền với Lão Mục và Tiểu Đường về những phán đoán này, Lão Mục cũng khẽ gật đầu tỏ ý tán thành, :

      - Đầu tiên ta chỉ có tấm Long Bản của cậu Tiêu Vi, sau khi gặp Từ Văn Uyên mới phát ra tấm thứ hai, nếu như giả thuyết cậu Tiêu Vi lấy hai tấm Long Bản từ trong lòng tháp là đúng dựa vào số lượng những bức bích họa ta có thể đoán rằng tổng cộng có đến sáu tấm Long Bản. Nếu phán đoán của ta là đúng, biết bốn tấm Long Bản còn lại bị người khác lấy mất, hay vẫn còn nằm tại đây?

      Tôi cũng suy nghĩ lúc, cảm thấy những suy luận của Lão Mục khá lô-gic, nhưng thực ra tôi vẫn còn thắc mắc, cậu tôi kể với Từ Văn Uyên rằng mua lại hai tấm Long Bản từ tay người lính quân Liên Xô cũ, vậy điều này nên giải thích thế nào đây?

      Chúng tôi cứ đoán già đoán non nhưng vẫn tìm ra đáp án hợp lý, nên đành gác lại nghi vấn này tại đây và tiếp tục bước tới chiếc cầu thang xoắn, phủi hết lớp đất cát và mạng nhện phía rồi thận trọng bước xuống.

      Chiếc cầu thang dài và rất hẹp, tổng cộng gồm bốn mươi bậc thang, những tiếng kẽo kẹt vang lên sau mỗi bước chân, cảm giác như các bậc thang có thể gẫy bất cứ lúc nào. Chúng tôi lấy hết can đảm, nhắm mắt đưa chân lần theo cầu thang bước xuống dưới. Phải rất khó khăn và mất nhiều thời gian chúng tôi mới xuống được tới nơi, Lão Mục lập tức dùng đèn pin soi bốn phía xung quanh.

      Do kết cấu của ngọn tháp giống hình kim tự tháp, tầng luôn và hẹp hơn tầng dưới nên khi bước xuống dưới này, diện tích có phần rộng hơn chút ít, ngoài đám mạng nhện dầy mỏng lớn bé giăng khắp nơi ra, hầu như có gì ở dưới này. Quan sát kỹ sáu cạnh tường thấy chúng đều được ghép từ những tảng đá lớn, có bức họa nào đó mà chỉ chằng chịt những vết nứt lớn , gió từ bên ngoài cũng có thể lọt xuống dưới này, thậm chí tôi còn nhìn thấy cả ánh trăng mờ ảo xuyên qua những khe nứt đó. Tiểu Đường miết ngón tay lên mặt tường hồi lâu, thậm chí còn lấy mũi kim ra cào cào kiểm tra, nhưng vẫn phát ra điều gì đặc biệt.

      Cứ như vậy, chúng tôi chầm chậm tiến xuống từng tầng , trừ việc diện tích của những tầng bên dưới luôn lớn hơn tầng ra chúng tôi phát thêm dấu hiệu gì khác thường, cho tới khi xuống đên tầng cuối cùng của ngọn tháp. gian của tầng tháp cuối cùng rất cao, rộng và thoáng đãng, ngoài chiếc cột trụ ở chính giữa ngọn tháp ra, tôi nhìn thấy bất cứ thanh xà ngang nào bắc ngang đỉnh đầu, cảm giác như vào điện thờ rộng mênh mông mà ở đó con người ta trở nên bé vô cùng. Đứng ở đây, cho dù chúng tôi có thầm từ bốn phía thanh cũng lập tức vọng lại liên hồi.

      Bước tới trước cột trụ ở chính giữa, chúng tôi lau sạch lớp bụi phía dưới chân cột phát ra dưới đó còn là mặt gỗ nữa, mà thay vào đó là tảng đá lớn ghép thành, bề mặt được phẳng cho lắm, thậm chí còn để lại nhiều dấu vết đục đẽo thô kệch. Dưới ánh đèn pin, những tinh thể đá còn phản chiếu lấp lánh như đá thạch .

      Quan sát khắp mọi nươi nhưng vẫn tìm thấy gì, tôi bắt đầu sốt ruột, liền quay sang hỏi Lão Mục:

      - Bây giờ chúng ta phải làm gì?

      để cho Lão Mục kịp trả lời, Tiểu Đường liền tiến lên trước, phủi qua lớp bụi dày sàn rồi lập tức quỳ gối xuống, tay ngừng dò dẫm.

      Thấy hành động khác thường của Tiểu Đường, tôi biết ngay nhận ra điều gì đó, liền vội hỏi:

      - Sao đấy?

      Tiểu Đường ngẩng đầu nhìn lên tôi, đôi mắt hơi nheo lại, ra hiệu cho tôi được gì, rồi lại cúi đầu xuống, các ngón tay miết kỹ lên mặt sàn dưới chân, sau đó khẽ ngẩng đầu lên, đôi mắt mở to, giọng khẽ run rẩy:

      - Trời ơi! Là khắc hình… lớn lắm, toàn bộ mặt sàn đều là khắc hình.

      Tôi cũng vô cùng ngỡ ngàng khi nghe thấy điều đó, liền ngồi sụp xuống, hai tay phủi sạch đất cát nền, lấy đèn pin soi từng ngóc ngách, nhưng nhìn nhìn lại vẫn thấy gì ngoài lớp xi-măng và những đường nứt tảng đá, càng thấy những đường hoa văn chạm khắc đó. Vậy khắc hình ở đâu ra chứ? Lão Mục cũng quay sang khẽ chau mày :

      - Chỉ là đá tảng thôi, loại này rất phổ biến mà.

      Tiểu Đường khẽ lắc đầu, đầu ngón tay gõ gõ lên mặt đá, khẽ :

      - Đúng là có hoa văn, nhưng chắc chắn là khắc hình.

      Thấy chúng tôi vẫn còn bán tín bán nghi, Tiểu Đường liền giải thích: Khắc hình phân thành hai loại là khắc cục bộ và khắc toàn bộ. Loại đầu tiên dùng để khắc những hoa văn lên bề mặt vật dụng hay đồ dùng, ví dụ như hình rồng lên tấm Long Bản, hoa mai mặt gương. Loại thứ hai khó hơn gấp bội, cần phải có tay nghề điêu luyện mới thực được vì đó là kỹ thuật rất phức tạp, giống như thay cho vật dụng khuôn mặt mới, ví dụ như từ hòn ngọc Kê Huyết khắc thành hình con dấu, hay từ viên ngọc xanh biếc khắc thành chiếc nhẫn.

      Tôi dám tin vào tai mình sau khi nghe Tiểu Đường như thế, liền đưa mắt nhìn sang hai bên, nếu đúng như lời dùng từng mũi kim để khắc lên cả mặt sàn rộng hàng trăm mét vuông như thế này phải mất bao lâu mới hoàn thành? Tôi vẫn thấy mơ hồ về cái gọi là nghệ thuật khắc hình này, nó giống như nghệ thuật điêu khắc mà chúng ta vẫn thường nhắc đến, nhưng lại phức tạp hơn rất nhiều.

      Thấy vẻ mặt tôi vẫn còn ngơ ngác, Tiểu Đường gật đầu, rồi lạnh nhạt :

      - sai, điêu khắc chính là bộ phận của khắc hình. Chỉ có điều sau này, do nghệ thuật Thích Châm thực phát triển nên họ mới chuyển sang nghệ thuật Chạm Khắc. Thế nhưng loại này chỉ sử dụng cho những sản phẩm đơn giản, còn với những sản phẩm có giá trị cao cần phải sử dụng đến Thích Châm.

      Nghe những điều Tiểu Đường , tôi và Lão Mục mắt tròn mắt dẹt nhìn nhau, được lời nào. Chúng tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, chỉ biết cúi đầu hoang mang nhìn tảng đá ở dưới chân, ra nghệ thuật chạm khắc bắt nguồn từ chính những hình xăm cơ thể, điều này đúng là nằm ngoài sức tưởng tượng.

      Tiểu Đường để ý đến thái độ của hai chúng tôi nữa, bé lấy ra mũi kim, cạo bề mặt tảng đá, phát ra những tiếng rít ghê tai, sau đó tự lẩm bẩm mình:

      - Tảng đá lớn như vậy, người thể hoàn thành nổi, đến cả nhà Lão Trương làm chắc cũng xong.

      Tôi tò mò hỏi nhà Lão Trương nào, Tiểu Đường cười đáp:

      - Là Nê Nhân Trương[1], chị tin ?

      [1] Là nhân vật có tài năng phi phàm trong tác phẩm Tiền chiến hậu chiến của Cổ Long.

      Tôi ngạc nhiên, vẫn hiểu gì. Tiểu Đường liền cười khúc khích, giải thích gì thêm, chỉ ngồi sụp người xuống, dùng đầu mũi kim cắm vào khe đá, rồi lồm cồm lần theo. Tôi và Lão Mục nhìn nhau, năng gì chỉ biết theo sau.

      Mũi kim miết mạnh lên rãnh đá khẽ rít lên chói lói, trong khoảng vắng lặng, nó gần giống tiếng chim hót mãi dứt. Tiểu Đường tập trung cao độ. Cuối cùng, bề mặt tảng đá cũng được cào qua lượt, bé đứng dậy, hai tay bóp lưng, khẽ thở dài:

      - ổn rồi, tìm thấy kẽ hở nào, xem ra tảng đá này rất dày.

      Lão Mục ồ lên tiếng, rồi ta cũng tìm hiểu qua về Cổ Tháp. Truyền thuyết kể rằng người ta chôn sống con rồng ngay dưới chân Cổ Tháp, và cả những bức tượng Bồ Tát tay cầm tấm gỗ Long Bản. Rất có thể phía dưới tảng đá này có cất giấu cỗ máy khổng lồ hoặc là chúng có liên quan đến tồn tại của Cố Cung ở Thẩm Dương. Chắc chắn bên dưới có căn hầm hoặc cất giữ bí mật nào đó, nếu người ta bao giờ đặt ở đây tảng đá khắc hình công phu như thế này chỉ để làm cảnh.

      Suy luận của tôi cũng giống của Tiểu Đường và Lão Mục, thậm chí tôi còn nghĩ rằng, trước đây, cậu tôi cũng vô tình phát ra bí mật này nên sau này mới xảy ra nhiều chuyện kỳ lạ đến thế. Nhưng tất cả chỉ là giả thuyết, vấn đề trước mắt nay vẫn là làm thế nào để mở được tảng đá dưới chân ngọn tháp này. Chúng tôi chỉ có ba người, trong tay lại có thiết bị gì khác ngoài xẻng và cuốc, mà tảng đá này dày như thế, chắc phải dùng đến thuốc nổ mới có thể phá được nó, xem ra để xuống được dưới đó là cả công cuộc đầy khó khăn.

      Tiểu Đường đưa ra ý kiến gì, chỉ cầm đèn pin soi khắp nơi, hình như cố tìm thứ gì đó. Bỗng nhiên, bé thốt lên tiếng, rồi vội chạy tới chiếc cột trụ, vỗ vỗ tay lên đó, “cộp… cộp… cộp”, tiếng động chứng tỏ phía bên trong lõi là rỗng.

      Tôi và Lão Mục cũng vội vàng chạy tới, hỏi xem có phát . Tiểu Đường khẽ sờ tay lên cột trụ, ngập ngừng trả lời:

      - Chiếc cột này hình như có vấn đề gì đó, để em thử xem sao.

      rồi, Tiểu Đường lôi chiếc kim dài bằng ngón tay ra, khẽ cắm lên bề mặt cột trụ, hai đầu ngón tay khẽ xoay , mũi kim từ từ tụt vào trong. Mũi kim đâm vào khoảng vài cen-ti-mét, tôi thấy vai bé khẽ rung lên, rồi vội vàng đưa tay trái lên nắm lấy mũi kim, hai chân ghì chặt xuống đất, lấy hết sức kéo mũi kim ra.

      Tôi và Lão Mục chưa kịp hiểu Tiểu Đường làm gì, nên chỉ biết đứng bên quan sát. Nước da bé trắng nhợt nhanh chóng, thần sắc hoảng sợ, hét lớn:

      - Nhanh… giúp em… kéo nó ra!

      Lão Mục phản ứng rất nhanh, đưa tay nắm chặt lấy hai tay Tiểu Đường. Tôi cũng kịp suy nghĩ gì, vội vàng lao tới giúp tay, nín thở, cố gắng dồn hết sức lực để kéo mạnh. Cho dù trực tiếp cầm vào mũi kim, nhưng tôi vẫn cảm nhận rất mũi kim đó như tụt mạnh vào thân cột, giống như bị lực rất mạnh hút vào bên trong.

      Mũi kim và rất trơn nên cực kỳ khó kéo, mặc dù chúng tôi cố gắng hết sức mình, nhưng nó vẫn từ từ lặn vào bên trong thân cột, chỉ để lại bề mặt chiếc cột lỗ tròn bé xíu.

      Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng nhìn vào cái lỗ tròn bé xíu ấy, như thể vẫn chưa tin vào những điều chính mắt mình trông thấy. Chẳng nhẽ bên trong thân cột lại giấu vật thể sống nuốt chửng mũi kim đó. Lão Mục khẽ khom lưng, dùng đầu ngón tay khẽ cậy cậy dấu tích vừa để lại, đôi lông mày chau lại tập trung suy nghĩ lời nào. Tiểu Đường đá hai chân vào thân cột chửi bới:

      - Mẹ kiếp! Đáng chết! Đáng chết!

      bé ngẩng đầu lên nhìn khắp thân cột lượt, thở dài ngao ngán rồi với chúng tôi, xăm thân và khắc hình là hai loại nghệ thuật mang tính hư hoại thân thể con người hay các chất liệu khác. Mỗi chất liệu mang lại đặc tính khác nhau, trong đó khó nhất phải kể đến loại gỗ Sinh Tức Mộc hay còn gọi là cây Bất Tử.

      Sinh Tức Mộc là loại gỗ chỉ tồn tại ở khu vực Đông Bắc, bình thường rất hiếm gặp, nghe đó chính là loại biến thể kỳ lạ của cây ngô đồng. Chúng có khả năng chịu rét chịu hạn cực tốt, khi trưởng thành thân cây có thể cao hơn mười mét, rất dài, thẳng và cứng như thép, đặc biệt nhất là khả năng tái sinh vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần cắm cành cây xuống đất cũng có thể sinh sôi nảy nở, chính vì thế tuổi thọ của nó có thể lên đến hàng nghìn năm. Thành ngữ có câu “Sinh sinh bất tức” (sinh sôi ngừng) cũng từ đây mà ra. Cột trụ trước mắt chúng tôi thực ra chính là gốc cây Sinh Tức Mộc, vừa xong khi Tiểu Đường cầm mũi kim thăm dò động vào tế bào bên trong, khiến thân cây lập tức nảy sinh phản ứng chữa trị vết thương,hút luôn cả mũi kim vào bên trong.

      Nghe tới đó, tôi kìm được, liền cắt lời Tiểu Đường:

      - Em vừa cây này là vật thể sống á? Vậy … kinh khủng quá. đời này có loại thực vật như vậy sao?

      Tiểu Đường thở hắt ra, chán chường trả lời:

      - Chỉ cần thử lại lần nữa là biết ngay!

      rồi, bé thò tay vào trong ba-lô lôi ra chon dao nhíp mà Lão Mục lúc trước đưa cho, dùng mũi dao khoét lỗ sâu ở đúng vị trí cây kim bị hút vào. Mạt gỗ rơi lả tả thành lớp nền đất, vết lõm thân cột để lộ ra mảng đen tuyền.

      Tiểu Đường gật đầu rồi bặm môi cầm mũi dao cứa mạnh vào thân cây. vài mảnh vỏ khô màu nâu đen rơi xuống, để lộ ra khoảng trơn nhẵn màu nâu đậm to gần bằng miệng bát, trông qua hơi giống mảnh kính tối màu, bóng loáng đền độ có thể soi gương, nhưng nhìn thấy mũi kim đâu nữa.

      Tôi nhặt mảnh vỏ khô vừa rơi xuống lên, lật qua lật lại quan sát kỹ. Nó dày khoảng cen-ti-mét, tôi thử gập đôi lại, thấy dẻo khác thường, đưa lên mũi ngửi nhận ra đó là lớp sơn dầu rất dày bề mặt chiếc cột. Vừa xong, do chưa nắm bắt được điều này, nên sơ suất làm mũi kim của Tiểu Đường bị hút vào trong.

      Tôi nhìn lên thân cây cột khổng lồ, trong lòng vẫn chưa dám tin vì quá thần kỳ. Loại cây này đúng là có hai đời, nhưng tại sao từ trước đến nay tôi chưa từng nghe thấy? Bỗng nhiên, tôi cảm giác như có điều gì ổn, nếu như Cổ Tháp Cẩm Châu được xây dựng thân cây còn sống, chưa tính đến việc ngọn tháp được xây dựng cách đây hàng ngàn năm, chỉ riêng việc thân cây vẫn ngừng phát triển, tại sao lại đâm thủng ngọn tháp?

      Nghe thắc mắc của tôi, Tiểu Đường cũng đồng tình:

      - Đúng thế, điều này em cũng hiểu - bé cúi đầu, dùng mũi chân cào lên mặt đất, rồi lưỡng lự – Hoặc là… vấn đề nằm ở tảng đá này. Em đoán rằng lúc trước, khi dựng ngọn tháp này người ta đốn thân cây, đẽo đục nhẵn mịn rồi đặt vào trong tảng đá, lợi dụng sức ép và độ khít của tảng đá và thân cây để khống chế khả năng tiếp tục sinh trưởng của nó.

      Lời giải thích của bé cũng khá hợp lý, nhưng tôi vẫn chưa thực được thuyết phục. Khả năng tái sinh của loại cây này vô cùng thần kỳ, nó thừa sức bật tung bất kể mọi thứ đè nén bên , dù đó có là vật mang trọng lượng lớn hơn gấp nhiều lần. Huống chi thân cây lớn như vậy chẳng cần đến hàng nghìn năm, chỉ trong nháy mắt là có thể chọc thủng cả tòa tháp đồ sộ.

      Tiểu Đường trầm tư suy nghĩ lúc rồi bỗng hứng khởi đưa tay vỗ vỗ lên trán hiểu ra rồi. bé giải thích, thực vật thuộc hành Mộc còn đất đá thuộc hành Thổ, thực vật có thể sống đất đá, điều này hoàn toàn phù hợp với thuyết Mộc khắc Thổ trong mối tương quan Ngũ hành. Nhưng có khi Thổ lại phản khắc Mộc, dẫn đến việc thực vật ngừng sinh trưởng và giữ mãi hình dáng cố định. Tảng đá trước mặt vô cùng nặng, đại diện cho lớn mạnh của hành Thổ, ngoài ra nó còn được khắc hình nên càng phát huy đặc tính của Thổ sinh, nên chẳng trách đến cả Sinh Tức Mộc cũng bị khống chế.

      Tôi nghe thêm mông lung, thực thể nắm thế nào là chính khắc thế nào là phản khắc, nhưng nghe Tiểu Đường giải thích trơn tru và chắc như đinh đóng cột tôi cũng thể tin. Tôi đưa tay vỗ vỗ lên thân Sinh Tức Mộc, ngó nghiêng vòng, rồi :

      - Thân cây này cao vài chục mét, tảng đá khổng lồ bên dưới cũng phải rộng đến vài trăm mét vuông, xét về tổng thể đây là công trình cực kỳ quy mô, nếu dùng dến các loại máy móc nâng kéo như bây giờ làm sao làm nổi. Vậy những người xây dựng tòa tháp này phải làm như thế nào? Điều này có hơi xa vời thực tế.

      Lão Mục khẽ gật đầu, tay xoa xoa cằm, tiếp nối câu chuyện:

      - Có thể là… còn giả thuyết khác. Có thể tảng đá vốn nằm sẵn ở đây, còn thân cây được vận chuyển từ nơi khác đến trồng lên .

      Nếu theo giả thuyết của Lão Mục, vẫn là tách rời thân cây. Với kỹ thuật của hàng nghìn năm trước, việc vận chuyển thân cây khổng lồ như thế này quả là quá sức tưởng tượng.

      Tiểu Đường quay sang nhìn Lão Mục, khẽ gật đầu :

      - Lão Mục phải, điều đó rất có khả năng - Lão Mục mỉm cười, tay vẫn tiếp tục vân vê cằm, gì thêm. Tiểu Đường bèn tiếp – Trước đây có người từng , Sinh Tức Mộc được mọi người hết mực sùng bái, vốn là loại gỗ hiếm có nên chúng hầu hết được sử dụng làm cột trụ trong chùa chiềng hay Phật tháp, thấm đẫm sắc màu linh thiêng và vĩnh cửu. Đúng rồi! Hai người biết , theo truyền thuyết, Sinh Tức Mộc là loại gỗ đóng quan tài tốt nhất đấy, vì người chết sau khi chôn bao nhiêu năm cũng bị thối rữa.

      Mặc dù thấy những lời này của Tiểu Đường hơi quá, nhưng tôi cũng muốn phản bác lại mà chỉ im lặng lắng nghe. Nhớ lại hồi bé, chúng tôi thường xuyên tới đây nô đùa dưới thân Cổ Tháp, lúc bấy giờ chỉ nghĩ ngọn tháp này hùng vĩ, nào biết rằng nó được dựng lên từ thân cây khổng lồ. Hồi ấy, những người già thường bảo Cổ Tháp chính là ngọn tháp sống, quả nhiên, nó đúng là “sống” .

      Tôi chợt nghĩ người Liêu dùng loại gỗ cực hiếm này để xây tháp, lại còn thêm tảng đá khổng lồ làm nền, chắc chắn là có mục đích cất giữ thứ vô cùng quan trọng bên dưới.

      Tôi miên man chìm trong dòng suy nghĩ, nghe thấy tiếng của Tiểu Đường khẽ:

      - “Phụng Hi Ngô Đồng, Long Yết Sinh Tức”. Lão Mục, chị Tiêu Vi, em nghĩ mình đoán ra phần nào hàm ý trong bức bích họa kia rồi.

      Tiểu Đường kể, Sinh Tức Mộc là loại cây mà cành lá phân bổ theo quy luật nhất định, chúng mọc đều ra sáu hướng xung quanh, đến cả khoảng cách giữa các nhánh cây cũng theo tỉ lệ nhất định. Dựa vào những phân tích về hình dáng và kết cấu của Cổ Tháp Cẩm Châu chiếc cột trụ trong tháp là thân cây, ở mỗi tầng tháp đều có sáu thanh xà ngang chính là sáu nhánh mọc ra từ thân cây. Hơn nữa, sáu nhánh cây này có tên khoa học là Yết Long chi, được cho là thế đứng của con rồng khi nghỉ ngơi. Sáu bức tượng Bồ Tát tay cầm tấm Long Bản hướng về sáu vòng tròn tượng trưng cho sáu mặt trời, điều này chắc chắn tượng trưng cho nghi thức thờ cúng rất đặc biệt nào đó. Trong đó, sáu vòng tròn ở tầng cùng chính là sản phẩm của nghệ thuật khắc hình.

      Sau khi nghe Tiểu Đường đưa ra những phân tích đó, tôi càng thêm phấn khích, cảm giác mình cách chân tướng còn xa nữa. Nhưng quay về với thắc mắc ban đầu, tảng đá dưới chân khổng lồ như thế, làm sao để xử lý nó đây? Điều đó lại khiến chúng tôi thở dài chán nản.

      Lão Mục quanh chiếc cột vòng rồi quỳ xuống, xoa xoa tay lên bề mặt tảng đá và chỗ giao cắt giữa tảng đá với thân cây lúc rồi quay đầu với chúng tôi:

      - Cột trụ này chôn sâu dưới đất, thử xem chúng ta có tìm được gì ở thân cây nào?

      rồi, Lão Mục lấy cán dao gõ khắp thân cây “cộp… cộp… cộp…”, thanh trầm đục vang lên chứng tỏ bên trong đó là rỗng, dội vào bức tường rồi kéo theo rất nhiều tiếng vang vọng.

      Tiểu Đường lập tức chạy tới, nhanh nhảu giải thích thêm với vẻ phấn khích: Mũi kim lúc nãy bị hút vào, chứng tỏ thân cây rỗng, khéo đó chính là huyệt đạo bí mật để ta xuống dưới cũng nên. Thế nhưng Mặc ngôn có câu: “Văn thân khắc hình, lậu thân xuyên thể, bất cụ kim thạch, duy khủng sinh tức”, tức là trong thế giới nghệ thuật xăm thân khắc hình, thợ xăm thân khắc hình có thể ứng dụng mọi chất liệu, nhưng kỵ nhất là xăm khắc Sinh Tức Mộc. Như vậy, ta thể sử dụng thuật khắc hình để mở nó, mà chỉ còn cách dùng ngoại lực tác động lên.

      Nhưng nếu dùng ngoại lực làm hỏng kết cấu ban đầu. Do vậy, chúng tôi quyết định mỗi người dùng con dao cá nhân của mình cào mạnh lên thân cây, để làm sạch lớp sơn dầu sơn màu đen phía bên ngoài, khai lộ ra lớp thân cây .

      Lớp thân cây Sinh Tức Mộc có màu nâu đậm, trơn bóng, hề có đường vân, trông như vừa được mài sáng bóng, thậm chí còn phản chiếu cả hình ảnh của chúng tôi lên đó. Do thân cây to lớn, khum hình vòng cung, khiến cho hình ảnh phản chiếu trong đó cũng bị méo mó , giống như chúng tôi đứng trong nhà gương.

      Tiểu Đường chậm rãi quỳ xuống, gí sát đầu vào thân cây, ngón tay khẽ chạm lên bề mặt, mắt mở to quan sát kỹ. Hai khuôn mặt đối diện với nhau, sáng tối, nhưng khuôn mặt phản chiếu lại méo mó dị dạng, đôi mắt mở to, biểu cảm kì quái, giống như bên trong người nhìn trộm ra bên ngoài vậy.

      Tôi đứng sau lưng Tiểu Đường, ngỡ ngàng dõi theo từng cử động, nhớ ngay đến buổi tối trước đây, bé cũng đứng trước gương khắc khuôn mặt mình lên đó. Tôi bắt đầu hơi hoang mang nghi ngờ.

      Nhưng lúc sau, Tiểu Đường đứng dậy với Lão Mục, lớp vỏ của Sinh Tức Mộc rất cứng, cần phải xác định vị trí của đường vân cực hiếm của nó, rồi mới dùng mũi dao tách ra được. Nhưng nhất định được cưa đứt hoàn toàn mà phải để lại đoạn để thân cây có thể hồi phục, nếu bị coi là bất kính, thậm chí còn là bị trừng phạt.

      Sau đó, Tiểu Đường chỉ tay lên vị trí để cho Lão Mục dùng mũi dao rạch đường; nhưng trước khi rạch, bé còn cẩn thận dặn dò: Chú ý sao cho lực mũi dao vừa phải, chỉ chọc vào đúng cen-ti-mét. Nếu mũi dao quá tách được lớp thân cây, nhưng nếu sâu quá mũi dao lập tức bị hút vào bên trong.

      Lão Mục gật đầu đồng ý, hai tay cầm chắc đằng chuôi, chĩa mũi dao thẳng về phía thân cây, nhàng chạm vào vị trí điểm, rồi dứt khoát chọc sâu mũi dao xuống. tiếng “tách!” vang lên, chứng tỏ mũi dao chọc vào bên trong thân cây. Lão Mục hết sức tập trung làm sao cho mũi dao chỉ chọc sâu cen-ti-mét, vừa đúng với tiêu chuẩn mà Tiểu Đường cầu.

      Tiểu Đường hơi nghiêng đầu ngó sang, nhướn đôi lông mày rồi khẽ reo lên tán thưởng:

      - Nếu để chú thi viết thư pháp chắc chắn thể thua Vương Hựu Quân.

      Nghe Tiểu Đường thế, tôi lại có liên tưởng kì lạ: cen-ti-mét bây giờ tương đương với ba phân trong đơn vị đo lường thời cổ đại, và Vương Hựu Quân phải là Vương Hi Chi hay sao, lẽ nào điển tích “nhập mộc tam phân”[2] là từ đây mà ra? Từ khi quen biết Tiểu Đường, tôi nhiều lần được nghe cách suy luận kì lạ của bé. Tiểu Đường bình thường rất thích vẽ người, đặc biệt là phụ nữ, hơn nữa bé còn mang họ Đường, lẽ nào… Trong đầu tôi bỗng nhiên lóe lên ý nghĩ, lập tức thốt lên:

      - Tiểu Đường, em có phải là Đường Bá…

      - Chị Tiêu Vi!

      [2] Tục truyền rằng lần hoàng để đưa tấm ván cho Vương Hi Chi bảo viết chữ để đem khắc, ai ngờ bút lực của Vương Hi Chi mạnh mẽ đến nỗi nét chữ khắc sâu vào tấm ván đến ba phân.

      Tiểu Đường vội vàng trừng mắt phẩy tay, ra hiệu cho tôi được tiếp, thế nhưng nhìn sắc mặt biểu cảm của bé, tôi biết suy luận của mình là đúng.

      Tôi lập tức nín thinh, lặng lẽ nhìn bé nhưng trong lòng như lửa đốt. Đệ nhất phong lưu Đường Bá Hổ lại chính là bậc thầy xăm hình, điều này thực quá sức tưởng tượng. Nhưng với người rất đỗi bình thường như tôi mà được kết giao với hậu duệ đích truyền của ông ấy, đúng là có nằm mơ cũng dám nghĩ tới, nếu tôi ra chắc chẳng có ai tin đó là .

      Lão Mục phần nào đoán ra tôi về điều gì, nên cũng buông câu:

      - Văn hóa Trung Hoa là mạch đạo nối truyền ngừng nghỉ, xem ra đạo lý này đúng đắn.

      Tôi buông tiếng thở dài, lặng lẽ gật đầu, trong lòng quả thực rối như tơ vò. Cứ cho là đám văn nhân tài tử nổi tiếng như Vương Hi Chi[3], Đường Bá Hổ là thợ xăm thân khắc hình chăng nữa, thế còn những người khác sao, những Diêm Lập Bản[4], Trương Thạch Đoan[5], thậm chí là cả Mễ Phế[6] …

      [3] Danh họa kiêm thư pháp gia nổi tiếng thời Đông Tấn.

      [4] Danh họa đời Đường, nổi tiếng với bức tranh Cố Đế Vương đồ.

      [5] Danh họa đời Tống, nổi tiếng với bức tranh Thanh minh thượng hà đồ.

      [6] Danh họa đời Tống, nổi tiếng với dòng tranh Hoa điểu.

    5. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 13: Sáu đường luân hồi

      Đường hang chếch góc 45 độ, mặt bên trong rất trơn và nhẵn, người tôi nằm thoai thoải, nhanh chóng trượt theo đường ống xuống dưới.

      Lưng và mông bị cọ xát nóng rát, toàn thân phủ đầy chất lỏng dinh dính như nhớt cá trê, khiến tốc độ trượt càng lúc càng nhanh vun vút.

      Chúng tôi cùng lặng yên theo đuổi suy nghĩ riêng của mỗi người, sau đó quay lại với công việc dở dang. Dưới hướng dẫn của Tiểu Đường, Lão Mục từ từ tác lớp vỏ thân Sinh Tức Mộc sang hai bên, nhưng tại vị trí tiếp giáp với mặt đất vẫn giữ nguyên trạng, sau đó dùng tay gắng sức kéo hai mép sang hai bên.

      Lớp vỏ Sinh Tức Mộc vốn có tính đàn hồi cao như cục cao su, từ từ cong theo lực kéo của bàn tay. Lão Mục dùng chân giữ mép, để lộ ra phần thân cây bên trong, quả đúng la rỗng .

      Tiểu Đường và tôi cùng ngó vào trong, Lão Mục cũng vội vàng cúi xuống. Trong giây sơ suất, hai mép vỏ lập tức bật lại, giam hãm chúng tôi ở bên trong.

      Dưới ánh đèn pin chói lóa, tôi cảm giác như mình bị nhốt trong chiếc thùng gỗ màu vàng nhạt với những đường vân gỗ vô cùng nét; mặt phía trong thân cây trơn mịn và bóng loáng tới mức khiến cho người ta phải tưởng rằng nó mới được mài giũa kĩ càng. Ánh đèn pin khiến thân cây phản chiếu long lanh, khi sờ lên bề mặt thấy có cảm giác dính dính ướt ướt giống như keo, tỏa mùi thơm rất đặc biệt.

      - Nhìn này!

      Quay đầu sang vừa kịp thấy đường rạch thân cây liền lại tiếng động, nhanh tới mức chỉ trong nháy mắt, vết rạch lúc nãy biến mất để lại chút dấu vết nào.

      Tôi trợn tròn mắt nhìn theo, nín thở vì việc diễn ra trước mắt quá thần diệu. Cả đời này, có lẽ đây là trải nghiệm đặc biệt và kì quái nhất của tôi.

      Bên dưới có vẻ thấp hơn mặt sàn, xung quanh là sáu miệng hang hình tròn chĩa ra các hướng khác nhau, khoảng cách rất đều, đường kính rộng khoảng mét. Lão Mục ném viên đá vào bên trong, “cách… cách…”, vài tiếng vọng lên rồi mất hút, thực thể đoán được độ sâu của nó.

      Chúng tôi bàn bạc qua về tình hình rồi quyết định chui xuống miệng hang, dù sao thân cây cũng nối thẳng xuống dưới lòng đất, đó là điều chắc chắn.

      định chui vào miệng hang, Lão Mục liền giữ vai tôi lại, mặt đầy lo âu.

      - Từ từ , tôi thấy việc này ổn lắm – ta đưa tay vỗ khắp các vách xung quanh, tiếp – Vừa nãy, tôi thấy rất lạ, Sinh Tức Mộc vốn có khả năng hồi sinh rất mạnh, vậy tại sao lại có thể để rỗng ở bên trong?

      Tôi như bừng tỉnh vì lí lẽ mà Lão Mục vừa đưa ra. Cả tôi và Lão Mục cũng quay sang Tiểu Đường hi vọng bé có thể đưa ra đáp án.

      Tiểu Đường cũng lưỡng lự:

      - Lão Mục đúng. Người xưa hai miền nam bắc đều có hoạt bảo, miền nam có Tằm Tơ Ngũ Sắc, còn miền bắc có cây Bất tử chính là Sinh Tức Mộc. Chúng có đặc điểm chung là khả năng hồi sinh rất mãnh liệt, cho dù bị tàn phá tới mức nào cũng vẫn có thể nhanh chóng hồi phục trạng thái ban đầu. Điều này… em… em cũng biết là vì sao.

      Lão Mục đưa mắt nhìn sang bốn phía, bỗng nhiên rút con dao ra cứa mạnh lên lớp gỗ đầu. “Bập!” Nửa lưỡi dao cắm thẳng vào phần thân. ta nhanh chóng xoay mũi dao vòng, dùng toàn bộ sức mạnh của cánh tay để bẩy lưỡi dao lên. mảnh gỗ tròn như con quay bị tách khỏi thân cây rơi xuống.

      Tôi vội cúi xuống nhặt lên, ghé mặt vào quan sát kĩ. Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng Tiểu Đường kêu lên:

      - Ôi trời! Phía kia chuyển động kìa!

      Tôi cũng vội ngẩng đầu lên nhìn, ngay lập tức đứng chết lặng. Bề mặt lớp gỗ lập tức trở nên mềm oặt rồi nhanh chóng tràn xuống dưới như sóng cuộn. Trong nháy mất nó dày lên những nửa mét.

      Lão Mục nhanh như cắt choàng hai tay kéo chúng tôi ra sau, ấn chúng tôi ngồi xuống. Tôi sợ hãi đến cực độ, nếu như lớp gỗ này hồi sinh, nó có thể kẹp nát chúng tôi chỉ trong tích tắc. Thế nhưng, đương lúc hoang mang, tôi lại chỉ nghĩ đến việc chui vào trong những miệng hang kia.

      Nhưng kì lạ, lớp gỗ chỉ cuộn lên lúc rồi dừng lại, vết lõm bề mặt lập tức biến mất để lại chút dấu vết. Chúng tôi ngồi bệt xuống nền, ngẩng cổ lên nhìn chằm chằm vị trí vừa hồi sinh, thấy khó hiểu vô cùng.

      Do việc vừa xong diễn ra quá bất ngờ, trong lúc sợ hãi tôi vô thức siết chặt hai bàn tay, giờ bình tĩnh lại mới thấy lòng bàn tay phải đau rát như bị vật sắc nhọn chọc phải. Tôi xòe bàn tay ra, mảnh gỗ mà Lão Mục vừa khoét lúc nãy có rất nhiều mũi dằm sắc nhọn thấm đầy máu. loại gỗ này cuối cùng là cứng hay mềm, chỉ chắc chắn điều là nó có kết cấu vô cùng chặt chẽ.

      Lão Mục nhặt lấy miếng gỗ trong tay tôi, để vào lòng bàn tay mình ngó nghiêng quan sát, sau đó đặt lại mặt đất, dùng mũi dao chặt mạnh. Miếng gỗ lập tức vỡ đôi, mùi hương nồng nồng khó tả nhanh chóng phả ra, và mũi kim dài gần bằng ngón tay bọc mình ở bên trong.

      Ban đầu tôi cứ ngỡ đó là chiếc kim lúc nãy bị hút vào của Tiểu Đường, nhưng khi nhìn kĩ lại phải, bề mặt mũi kim còn khắc những hình hoa văn khá mờ nhưng rất thanh thoát và tinh tế, chắc chắn nó phải mang ý nghĩa gì đó. Tôi tò mò hỏi:

      - Chiếc kim này từ đâu ra thế?

      Tiểu Đường cầm mũi kim lên, gí sát tận mặt để xem xét, bỗng nhiên sắc diện bé trở nên hoảng hốt, giọng đầy lo sợ:

      - Đây chắc chắn phải mũi kim mà những người thợ xăm thân khắc hình sử dụng, nhưng những họa tiết đó lại là khắc hình, hơn nữa kỹ thuật lại vô cùng tinh xảo, tuổi đời rất cao, ít nhất cũng phải đến mấy trăm năm.

      Tôi ngỡ ngàng như thể tin vào những gì mình vừa nghe thấy, lẽ nào trước chúng tôi cũng có người chui vào trong thân cây Sinh Tức Mộc, rồi làm rơi mũi kim này vào đây. Ý nghĩ này vừa vụt đến, tôi liền quay sang nhìn Lão Mục, thấy sắc mặt của ta cũng ngỡ ngàng kém. Tôi vội nhìn xuống sâu cửa hang, bên trong vẫn tối đen như mực, yên lặng đến rợn người, thỉnh thoảng luồng khí mát lịm lại thổi ngược lên.

      Trong lòng tôi bỗng vô cùng bất an, trong đầu bỗng đặt ra hàng loạt câu hỏi lời giải đáp, những người đó là ai, có phải họ cũng tìm hiểu điều gì đó, hàng trăm năm trước họ xuống lòng cây cuối cùng là để làm gì?

      Tiểu Đường hoàn toàn phản đối những suy luận của tôi, bé khẳng định thân cây vẫn hoàn toàn nguyên vẹn, chỉ cần mũi kim cũng làm thay đổi cục diện bên trong, nên bé cho rằng mũi kim đó ngay từ đầu được cài ở đây. Thực ra, tảng đá bên dưới chỉ có tác dụng khống chế phát triển bên ngoài của cây, còn bên trong . Mũi kim thuộc kim tinh, theo mối tương quan Ngũ hành Kim khắc Mộc, cho nên người ta dùng mũi kim để khống chế hồi sinh bên trong của thân cây.

      Nếu theo những suy luận của Tiểu Đường vị trí đối diện phía dưới chân chúng tôi cũng mũi kim nữa, tổng cộng có sáu mũi kim, chúng có thể được đạt theo mạng lưới hoặc vị trí tương ứng. Nguyên lí này có thể là do người dựng tháp lúc bấy giờ nghĩ ra. Dù với mục đích gì chăng nữa, cũng rất khó để kết luận điều này đúng hay sai, hoặc cũng có thể người ta dùng cây kim đó để đánh dấu lối vào. Nhưng cả tảng đá và thân cây đều to lớn như thế, dùng mũi kim để khống chế hay đánh dấu đúng là rất khó tin nổi.

      Nghe vậy, tôi lập tức nghĩ đến việc, liền rút mũi dao ra, định bụng tìm cây kim còn lại ở phía dưới chân. Nhưng Lão Mục kéo tay tôi lại, lắc đầu :

      - Đừng cố làm gì, nếu như cả thân cây đều hồi sinh chúng ta làm sao quay về được?

      Tôi liền rút tay lại, trách mình suy nghĩ sao đơn giản quá. Đúng là như thế, nếu như tôi cố lấy mũi kim đó ra, còn gì khống chế hồi sinh của thân cây nữa, và chúng tôi lập tức bị chôn sống trong này.

      Tiểu Đường tham gia vào câu chuyện giữa tôi và Lão Mục, bé tập trung quan sát mũi kim, ánh mắt toát lên mê hoặc, lấy tay áo lau sạch mũi kim, cẩn thận nhét vào trong bao da, rồi khi trở về tìm người để nhờ xem giúp.

      Lúc đó, tôi hề biết rằng, chiếc kim này liên quan trực tiếp tới Tống Nguyệt Uyên, và các việc lại cứ chồng chéo lên nhau cách kì lạ. Có bốn người phụ nữ quan trọng nhất trong câu chuyện này, hai người trong số đó, tôi kết giao trong thời gian rất ngắn.

      Bên trong thân cây giấu lối khác, chứng tỏ có người cất giấu bí mật quan trọng bên dưới, dù tốt hay xấu chúng tôi cũng phải làm cho trắng đen. Cả ba chúng tôi quyết định chọn miệng hang rồi chui xuống theo thứ tự, tôi xuống trước, Lão Mục hộ tống theo sau, còn giữa là Tiểu Đường. Tôi ngồi xuống, từ từ thả hai chân vào miệng hang, rồi hết sức cẩn thận tụt người xuống dưới.

      Đường hang chếch góc 45 độ, mặt bên trong rất trơn và nhẵn, người tôi nằm thoai thoải, nhanh chóng trượt theo đường ống xuống dưới.

      Lưng và mông bị cọ xát nóng rát, toàn thân phủ đầy chất lỏng dinh dính như nhớt cá trê, khiến tốc độ trượt càng lúc càng nhanh vun vút.

      khí bên dưới rất lạnh, mọi thứ xung quanh tối om, càng xuống dưới nhiệt độ càng hạ thấp, thế nhưng khí vẫn lưu thông, chứng tỏ bên dưới phải là ngõ cụt.

      Để tiết kiệm pin, chúng tôi đều tắt hết đèn pin của mình, để mặc cho người trôi tự do xuống dưới. gian yên tĩnh cách khác thường, ngoài tiếng kêu la của chúng tôi chỉ còn tiếng quần áo và đồ đạc cọ xát với đường ống, phát ra tiếng rào rào như tằm ăn rỗi.

      Chỉ lúc sau, hai thứ thanh đó hòa lẫn vào nhau, phát ra những tiếng gầm rú chói tai như bị tra tấn. Nhưng sau đó chúng tôi cũng quen dần, chỉ biết nhắm mắt chờ đợi, trong lòng vô cùng sốt ruột, biết dưới đó như thế nào?

      Chúng tôi trượt như thế khoảng năm sáu trăm mét, thành máng xuất lối ngoặt, khiến cả người chúng tôi cũng nghiêng theo. Tôi cứ đinh ninh là sắp tới nơi, trống ngực đánh thình thịch, nhưng đợi mãi vẫn thấy thay đổi nào, chúng tôi vẫn tiếp tục trượt xuống dưới.

      Cứ mải miết trong cùng trạng thái khiến con người ta cảm thấy mệt mỏi, giống như lái xe đường trường vậy, mãi mãi mà vẫn chưa tới đích. Đúng lúc chúng tôi đau cứng, tinh thần mệt mỏi, bỗng nhiên, đường ống trở nên dốc đứng, tốc độ trượt nhanh đến chóng mặt, trong khi tôi chưa kịp phản ứng toàn thân rơi xuống khoảng vô định.

      việc diễn ra quá bất ngờ khiến tôi hét lên sợ hãi, theo thói quen, các cơ trong người lập tức co quắp lại, hai tay chới với, toàn thân rơi tự do trong trung.

      Tôi cũng biết khoảng đó cao bao nhiêu, chỉ đoán rằng chúng tôi rơi xuống cái hố rất lớn, nhưng ngờ hai chân tôi lại chạm vào bề mặt bằng phẳng giống như gỗ, khoảng cách rơi của chúng tôi chỉ cách nhau khoảng chừng hai ba mét.

      Tôi kêu lên tiếng, theo phản ứng, lập tức đư hai tay lên ôm đầu, lăn vài vòng sang bên cạnh, đê tránh Tiểu Đường và Lão Mục rơi xuống.

      Đúng như dự đoán, Tiểu Đường và Lão Mục lần lượt rơi phịch xuống. Tôi nhanh chóng đứng dậy, quờ quạng trong bóng tối, cất vài tiếng gọi Tiểu Đường và Lão Mục, lập tức thanh từ bốn phía xung quanh lập tức vang lên, xem ra, diện tích ở đây hề .

      Nghe thấy tiếng trả lời của Tiểu Đường và Lão Mục, tôi liền hướng về phía đó dò dẫm tới. Cả ba cùng hỏi han xem có bị làm sao ? Cũng may đó là bề mặt gỗ, ngoài việc bị bất ngờ rơi hụt xuống dưới ra, chúng tôi đều bị thương tích gì. Tôi bước tới kéo Tiểu Đường dậy.

      Cả ba chúng tôi đứng quay lưng vào nhau, vội vàng lôi đèn pin ra soi khắp nơi. Do gian ở đây tối đặc lại được bao phủ bởi lớp sương mỏng, bên ánh sáng đèn cũng mờ mờ ảo ảo, khiến cho mắt chúng tôi vẫn chưa kịp thích nghi với điều kiện ánh sáng này. Phải mất lúc sau hai mắt tôi mới dần dần nhìn nơi này, khi ánh đèn lướt qua, nhưng thứ mà tôi nhìn thấy khiến tôi thể ngỡ ngàng, miệng cứng lại thốt nên lời.

      Khoảng trước mắt tôi có kết cấu hoàn toàn giống thầng tháp phía , độ lớn cũng gần như nhau, cao khoảng mười mét, gồm sáu cạnh vuông vức, chính giữa là cột trụ bằng Sinh Tức Mộc; bao xung quanh là sáu đường ống kéo thẳng xuống; cách mặt đất khoảng ba mét, màu vàng nhạt, giống như cái túi vô đáy, xem ra đây mới chính là gốc cây. Ngay lập tức, tôi thấy sáu đường ống kia từ từ chuyển động, rồi nhàng thu ngắn lại mà phát tiếng động gì, miệng ống nâng lên cao cho tới khi dính chặt với thân cây, để lại sáu lỗ tròn đen ngòm.

      Tôi đứng như trời trồng, ngẩng đầu nhìn theo sáu miệng ống đó, cảm thấy mọi việc diễn ra cực kỳ quái gở. Điều này càng giúp tôi khẳng định rằng dưới lòng tháp tồn tại cỗ máy huyền bí, nhưng tôi vẫn chưa thể giải thích vì sao nó lại được xây dựng nên?

      Tiểu Đường khẽ mỉm cười rằng dù là cây gì chăng nữa, cũng thể tách khỏi mặt đất. Chúng tôi đứng nhìn lúc, sau khi nhận thấy có nguy hiểm gì, mới vòng xung quanh để thám thính. Ba người chúng tôi tìm thấy chiếc cầu thang nào, xem ra đây là tầng cuối cùng và cũng là căn phòng bí mật được cất giấu dưới lòng Cổ Tháp.

      Sáu cạnh xung quanh trống trơn, phủ lớp rêu xanh dày, mịn và mát giống như tấm thảm màu xanh; qua ánh đèn pin, những hạt sương li ti vẫn còn đọng lại bề mặt, phản chiếu lung linh.

      Điều kì lạ xuất , mặt tường đầu tiên xuất miếng kim loại hình thái cực, to gần bằng miệng chum. Khi quan sát kĩ hơn, chúng tôi nhận thấy tấm kim loại đó bị chôn sâu khoảng chừng năm cen-ti-mét, bên phủ kín bụi đất. Đường viền xung quanh kín mít, tôi đoán đây chính là miệng hầm dẫn xuống bên dưới.

      Nhìn thấy thế, tôi hào hứng hẳn lên, điều này chứng tỏ chúng tôi đến đúng nơi cần đến, và bên dưới căn hầm hứa hẹn có rất nhiều bí mật.

      Lão Mục lập tức lôi cuốc xẻng từ trong ba-lô ra, gạt sạch lớp bụi đất tường rồi cắm sâu mũi xẻng vào khe, sau khi cắm chắc mũi xẻng, ta bẩy mạnh cán xẻng lên. Nhưng bẩy mãi, mũi xẻng cong hẳn mà miếng kim loại kia vẫn nằm im nhúc nhích. Lão Mục lôi chiếc dao nhíp ra thử chọc mạnh lên , những tiếng “cách… cách…” giòn tan phát ra mà bề mặt vẫn hề hấn gì.

      Tôi sờ lên bề mặt tấm kim loại hình thái cực, ràng nó được đúc bằng kim loại liền khối nên cứng chắc vô cùng, biết giải quyết thế nào với nó đây.

      Thấy Lão Mục lôi tiếp chiếc búa ra, Tiểu Đường vội ngăn lại, bé nghiêng đầu quan sát tấm kim loại hình thái cực hồi lâu, hai tay miết miết lên bề mặt rồi với chúng tôi, hai hình dương đây là khắc hình, có lẽ nó là chìa khóa khởi động của cỗ máy, nên dùng ngoại lực tác động cũng có ý nghĩa gì.

      Tôi nghe thấy vậy liền lo lắng hỏi:

      - Chúng ta đều phải là Sở Kinh Lan, vậy ai mở được nó chứ?

      Tiểu Đường vẫn nhìn chăm chăm lên tấm kim loại, chậm rãi trả lời câu hỏi của tôi:

      - Em cũng biết mở khóa, nhưng hai biểu tượng dương này là khắc hình, cổ ngữ có câu “dĩ hình chế hình”, ta thử cách khác xem sao.
      Nghe Tiểu Đường như vậy, do bản thân vẫn chưa nghĩ ra cách gì, nên đành để bé thử trước xem sao.

      Tiểu Đường lấy ra hai mũi kim, lần lượt đặt lên hai biểu tượng dương, dừng lại lúc, hai bàn tay của bé thoăn thoắt đưa mũi kim lên xuống đều đặn. Tiếng kim loại chạm vào nhau phát ra tiếng rít chói tai. Động tác của Tiểu Đường mỗi lúc nhanh. Bỗng nhiên, tiếng “tách” vang lên, hình thái cực từ từ tách ra theo đườn chữ S ở chính giữa, rồi kéo sang hai bên để lộ miệng hố đen ngòm.

      Chúng tôi vội vàng cúi đầu xuống quan sát, ngay bên dưới lại là tấm kim loại trơn nhẵn, màu đen bóng, có bất vứ khe nứt nào và càng thấy dấu hiệu bị hoen gỉ. Dùng cán dao gõ xuống, thấy vọng lên những thanh nặng trịch, chứng tỏ lớp kim loại này rất dày, trừ khi khoan thủng nếu thể xuyên qua.

      Tiểu Đường lại áp dụng cách vừa xong, nhưng vừa mở được lớp kim loại này, bên dưới lại xuất lớp kim loại khác, màu sắc và chất liệu khác gì nhau, cảm giác như phía dưới tầng hầm này đều được xếp kín bằng các tầng kim loại giống y hệt nhau.

      Thấy tình hình có vẻ khó khăn, Lão Mục cho rằng nên tìm kiếm vị trí khác, nhất thiết trông chờ ở sáu tấm kim loại hình thái cực này. Chúng tôi đều đồng ý và bắt đầu chia nhau ra tìm ở từng góc , nhưng kết quả vẫn thấy gì, đến cả chiếc cột trụ cũng là đặc bên trong.

      Tôi bắt đầu thấy sốt ruột, quay sang bàn bạc lại với Lão Mục:

      - Hay là chúng ta quay về, rồi lần tới mang theo chiếc máy khoan để khoan lớp kim loại đó ra.

      Lão Mục trầm ngâm nghĩ lúc, rồi lắc đầu :

      - ổn, miệng ống giờ cũng co lại cao hơn chục mét, nếu có thang ta cũng thể trèo lên đó được, bây giờ chỉ còn cách tiếp thôi.

      Lão Mục vừa ngừng lại, Tiểu Đường bỗng thốt lên bàng hoàng, ngón tay chỉ xuống đất, giọng khẽ run run:

      - Em biết rồi, đây chính là sáu đường luân hồi.

      Sáu đường luân hồi?!!!

      Tôi ngỡ ngàng nhận ra, trong tiềm thức của mình, sáu đường luân hồi chỉ tồn tại trong phim và tiểu thuyết, hình như đó là khái niệm dùng để chỉ đầu thai của kiếp người trong Phật giáo, lẽ nào sau vòng tròn thái cực này chính là sáu đường luân hồi. Suy nghĩ mãi, tôi vẫn thấy hoài nghi. Vòng tròn thái cực tôi biết, nó bắt nguồn từ Đạo giáo Trung Quốc, ngày trước, bố tôi cũng tập Thái Cực Quyền nên tôi xa lại gì với biểu tượng này. Nhưng thời nhà Liêu đa phần mọi người đều rất tin Phật, vậy tại sao lại khắc hình thái cực trong ngôi tháp Phật giáo, điều này rất khó lý giải.

      Đôi mày của Tiểu Đường cũng chau lại, giải thích gì thêm, chỉ quỳ xuống trước hình tròn thái cực, lấy ra thanh kim loại màu bạc to bằng đốt ngón tay, đầu mài tròn, rồi lấy thêm lọ sứ màu xanh nhạt. bé đổ dung dịch trong suốt trong chai lên đầu thanh kim loại, rồi mới cào lên bề mặt hình thái cực.

      Tôi và Lão Mục chưa hiểu làm gì, chỉ đứng im ở phía sau quan sát, thấy tinh thần Tiểu Đường tập trung cao độ cũng dám làm phiền.

      Hai tay của Tiểu Đường chuyển động khá chậm, nhưng lại dồn rất nhiều lực, các cơ bắp cánh tay đều gồng lên, chỉ lúc sau cánh tay lấm tấm mồ hôi, hơi thở bé mỗi lúc gấp gáp. Tôi bắt đầu thấy lo lắng, khẽ hỏi:

      - Em sao chứ?

      Tiểu Đường quay đầu lại, chỉ hơi liếc nhìn tôi qua đuôi mắt, khó nhọc buông từng tiếng:

      - sao…

      Cùng với loạt tiếng lách cách vọng tới, tôi ngỡ ngàng nhận ra, bề mặt tấm kim loại khẽ chuyển động và dần dần biến thành màu vàng nhạt. Màu vàng nhạt từ từ lan tỏa khắp bề mặt, sau đó càng lúc ngày càng rệt, dưới ánh đèn pin, lớp kim loại như phát ra ánh sáng lấp lánh.

      Càng nhìn tôi càng cảm thấy hiếu kì, kìm được liền đưa tay ra sờ thử. Lớp kim loại vẫn cứng đanh, ngoài việc biến màu ra thấy dấu hiệu gì khác thường.

      Tiểu Đường cất thanh kim loại , đưa tay lau vệt mồ hôi mặt, thở hắt ra rồi :

      - May quá, đường đầu điên là Nhân Đạo, coi như chúng ta gặp may rồi, màu này khá may mắn đấy!

      đợi tôi hỏi lại, Tiểu Đường vội đứng dậy nhanh chân bước tới tấm kim loại khác, rồi cũng cào cào lên bề mặt lúc, lập tức tấm kim loại dần biến thành màu xanh nhạt, đó là màu xanh lam trong vắt giống như bầu trời buổi trưa hè nắng gắt hay những con sóng biển dưới ánh nắng chói chang. Tiểu Đường nhăn mặt, cắn chặt môi, qua kẽ răng:

      - Súc Sinh Đạo!

      bé nhanh thoăn thoắt chạy tới mở nốt bốn tấm kim loại còn lại, chúng lần lượt đổi màu, đầu tiên là màu trắng đục, rồi đến màu xanh lá, màu đỏ, tấm cuối cùng càng cạo càng trong suốt, mãi lâu sau mới chuyển thành màu xám đục, ngay sau đó là những tiếng rùng rùng rít lên từng hồi.

      Thấy có vẻ nguy hiểm, tôi và Lão Mục vội vàng hỏi Tiểu Đường có chuyện gì xảy ra vậy. Tiểu Đường vừa lúc lắc cổ tay cho đỡ mỏi vừa giải thích với chúng tôi: Sáu đường luân hồi, hay còn gọi là sáu đường sinh tử, chính là đạo lí cơ bản trong thuyết pháp Phật giáo. Trong sáu đường này chia thành ba đường thiện và ác. Ba đường thiện chính là Thiên, Nhân và Asura; ba đường ác là Súc Sinh, Ác Quỷ và Địa Ngục, mỗi đường đều có màu sắc tượng trưng khác nhau. Trong đó gồm: Thiên Đạo là trắng đục, Nhân Đạo là vàng nhạt, Asura là màu xanh lá, Súc Sinh là màu xanh lam nhạt, Ác Quỷ là màu đỏ, Địa Ngục là màu xám khói.

      Đây là sáu đường luân hồi trong thuyết đầu thai, sáu vòng thái cực khắc hình chính là tượng trưng cho sáu đường luân hồi. Chiếc cột đặt ở chính giữa tảng đá có tác dụng chống trụ cho cả ngọn tháp, có thể đây chính là cỗ máy xoay trục, và thân cây Sinh Tức Mộc chính là trục xoay, với độ xoay lên tới 360 độ. Nhưng nay, nó bị mất bản vị, và chỉ còn giữ lại sáu tấm kim loại này.

      Còn việc tại sao tấm kim loại khi bị cào lại biến màu chắc là do khi xây dựng, những người thợ cao tay dùng phương pháp khắc màu bên trong tấm kim loại.

      Lời giải thích của Tiểu Đường quá huyền bí với nhiều kĩ thuật của phái Mặc môn, nên tôi nghe hiểu lắm, nhưng nếu suy nghĩ kĩ thấy cũng có lí. Nhưng bây giờ chúng tôi làm thế nào để mở nó ra? Tôi liền nghĩ tới trục xoay trong lòng tháp, liệu có điều kì bí nào ở đây chăng?

      Tiểu Đường đắn đo lúc rồi rằng suy đoán của tôi rất hợp lí, có thể thử xem sao. rồi bé bước tới bên chiếc cột, quanh vài vòng, ngừng xoa vỗ lên bề mặt, cuối cùng chọn điểm cách mặt đất chừng mét, rồi bảo Lão Mục dùng mũi dao gọt quanh thân cây. Lớp vỏ sau khi bị tách ra, để lộ sáu lỗ hướng ra sáu phía khác nhau.

      Tôi thấy vô cùng háo hức, nếu như đây cũng là dấu tích do vết kim cổ để lại chắc chắn bên trong thân cây còn địa đạo nữa. Nghĩ vậy, tôi liền bảo Tiểu Đường dùng kim thăm dò thử xem sao.

      Tiểu Đường khẽ gật đầu đồng ý, rồi lôi chiếc kim ra, cắm thẳng vào thân cây chừng hơn cen-ti-mét, tôi nhận thấy các ngón tay bé bỗng khựng lại, giống như vừa chạm vào vật rất cứng, từ bên trong khẽ phát ra tiếng rít rồi mũi kim nhanh chóng bị hút vào thân cây. Tiểu Đường vội vàng rút mũi kim ra, giục Lão Mục lấy mũi dao khoét thử. Nhưng khoét mãi bên trong vẫn đặc nguyên khối, những chỗ bị dao phạm phải ngay lập tức được lấp liền lại.

      Lần này chúng tôi lí do vì sao, lẽ nào cỗ máy nằm ở đây? Nhưng tại sao lại xuất sáu lỗ động, và tại sao thân cây ở đây lại rỗng trong? Tiểu Đường khẽ chau mày, đưa tay vỗ lên thân cây rồi thở dài, :

      - Mỗi lỗ mắt là động, xem ra cần phải hy sinh sáu mũi kim mới xong.

      ra, thân cây và sáu đường luân hồi kia có quan hệ đặc biệt và thông trực tiếp với nhau, sáu lỗ tròn chính là lỗ khóa, cần phải dùng đến mũi kim của Tiểu Đường mới có thể mở được.

      Trong đầu đặt ra vô số câu hỏi mà biết thực hư ra sao, trong đó, điều mà tôi vẫn luôn thắc mắc là Tiểu Đường tuy còn rất trẻ vậy tại sao lại tinh tường những kiến thức cổ xưa như thế. Nhưng nghe những lời giải thích của Tiểu Đường, tôi đoán chắc rằng biết cách mở khóa.

      Tiểu Đường lập tức mở bọc kim rồi chọn ra sáu chiếc kim có chiều dài bằng nhau, kẹp chặt trong lòng bàn tay, vừa lắc đầu vừa thở dài, miệng lẩm bẩm:

      - Giá như có chị Lan Lan ở đây đến nỗi này.

      Sau đó, bé đưa cho tôi và Lão Mục mỗi người hai mũi kim, dặn chúng tôi phải tuyệt đối nghe theo hiệu lệnh. Cả ba người cắm mũi kim vào cùng lúc, vì khi sáu mũi kim hợp lực lại kích hoạt trục xoay, khiến tầng tháp xoay chuyển, hoặc có thể lấy lại bản vị của sáu đường đại đạo. Sau khi giảng giải xong, Tiểu Đường bỗng nhiên vừa cười vừa :

      - May sao chúng ta có ba người, đủ sáu tay, chứ nếu chỉ có hai người chết chắc.

      Dù tôi có bán tín bán nghi nhưng vẫn cầm lấy hai chiếc kim, giữ chặt hai đầu, chỉ cần ấn mạnh chút là thân kim cong lại. Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ về khả năng của mũi kim, mong manh và bé xíu thế này liệu có thể mở được cỗ máy của ngọn tháp khổng lồ ?

      Theo hướng dẫn của Tiểu Đường, chúng tôi vòng qua thân trụ, mỗi người đứng góc tạo thành hình tam giác, miệng lẩm bẩm đếm hai ba rồi đưa mũi kim lên chọc vào sáu lỗ cùng lúc. Khi mũi kim chọc sâu vào khoảng hai cen-ti-mét, tôi cảm giác như chọc phải vật vô cùng cứng, và rồi, từ bên trong lực hút rất mạnh xuất , cảm giác tay mình thể giữ nổi mũi kim, tôi định bụng thả tay ra.

      Đúng lúc đó, Tiểu Đường hét lớn:

      - Đẩy mạnh vào!

      Tôi kịp nghĩ ngợi gì, hai tay vẫn ghìm chặt đầu kim, nghe thấy hiệu lệnh liền đẩy mạnh người về phía trước, mũi kim giống như vật thể sống, chạy thẳng vào bên trong thân cột, chỉ trong nháy mắt nó biến mất cùng sáu lỗ mắt.

      Tôi đưa tay sờ lên thân trụ, bề mặt vẫn trơn nhẵn, để lại bất cứ dấu vết gì, trong lòng có chút hoang mang, tôi biết rằng, khi các mũi kim bị hút vào cũng là lúc cánh cửa được mở ra. Đúng như dự đoán, chỉ khoảng năm giây sau, bên trong thân trụ vọng ra tràng thanh chát chúa như kim loại chuyển động,mặt đất dưới chân kẽ rung lên, sau đó cả tầng tháp bắt đầu chuyển động.

      Lão Mục hét lớn:

      - Lại đây!

      Cả ba chúng tôi lập tức chạy tới đứng sát bên nhau, cầm chắc tay người kia, mắt vừa tập trung ngó nghiêng quan sát mọi hướng xung quanh. Những thanh va chạm như tiếng tiếng gầm rú của con quái vật bị tra tấn, khiến đầu óc tôi trở nên tê dại.

      Mặt đất rung chuyển khoảng ba mươi giây, tầng tháp xoay quanh thân trục theo chiều kim đồng hồ sau đó chầm chậm dừng lại, tiếng động khinh khủng kia cũng giảm rất nhiều, giống như cỗ máy vừa được tra dầu.

      Chúng tôi ai dám tự động di chuyển, chỉ đứng yên chỗ và chờ đợi. Thân trụ xoay đến khoảng sáu mươi độ bất ngờ phát ra tiếng động to sau đó dừng hẳn lại, chỉ còn vang những tiếng “tách… tách…” rất .

      Đoán rằng đến lúc hành động, chúng tôi quay ra nhìn nhau, mặt ai nấy đều hết sức hào hứng, vội vàng chạy tới trước tấm kim loại hình thái cực trước mặt. Quả nhiên, tấm kim loại biến mất, để lộ ra miệng hố đen ngòm. Dùng đèn pin soi lên năm vị trí còn lại, tất cả đều là miệng hố tròn sâu. Điều đó chứng tỏ, sau khi tầng tháp xoay chuyển tự động mở những vòng thái cực này ra, khiến sáu đường địa đạo khôi phục được bản vị.

      Lão Mục quỳ gối xuống đất, tay cầm đèn pin soi xuống dưới, tôi và Tiểu Đường cũng vội chạy tới, hướng mắt theo luồng sáng. Tường hố rất nhẵn, dưới ánh đèn pin, tôi nhận ra tất cả đều là kim loại, tưởng rằng có thể nhìn tận xuống đáy nhưng ngó nghiêng hồi lâu vẫn thấy đâu cả.

      Tôi hồ nghi quay sang với Lão Mục:

      - Tấm kim loại mở được rồi, giờ chúng ta xuống dưới thôi.

      Lão Mục “ừ” tiếng rồi nhặt viên đá lên ném xuống dưới như mọi lần, viên đá lách cách rơi xuống, Lão Mục lắng tai nghe lúc, sau đó chau mày :

      - Hố sâu quá, phải gần ba mươi mét đấy, bên dưới lại là mặt gỗ.

      Chúng tôi bàn luận chút rồi quyết định xuống bằng đường Nhân Đạo, hy vọng đó là đường may mắn. Lão Mục hạ chiếc ba-lô lưng xuống, lấy ra cuộn dây thừng leo núi, đầu buộc vào cạp quần tôi, rồi cùng móc kim loại thít lại chặt. Miệng ngậm chiếc đèn pin, hai tay nắm chắc sợi dây, tôi ra hiệu cho Lão Mục và Tiểu Đường từ từ hạ tôi xuống.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :