1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

[Trinh thám - Kinh dị] Thiên Văn - Tang Thượng ( Hoàn)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 5: Mèo vờn chuột

      Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt.

      Sau khi trở về nhà bố mẹ, tôi nhốt mình trong phòng, thức trắng hai đêm đau khổ suy nghĩ, lần nữa sắp xếp lại trong đầu toàn bộ tình tiết việc thành hệ thống, lập kế hoạch chu đáo cho hành động tiếp theo của tôi.

      Tuy hoàn cảnh trước mắt rất khó khăn, Viện Kiểm sát thành phố và tên hung thủ giấu mặt đều dõi theo tôi, khiến hành động của tôi gặp nhiều hạn chế. Thế nhưng suy nghĩ cách biện chứng đây có thể lại là ưu thế lớn nhất của tôi lúc này. Nếu biết tận dụng thời gian tại ngoại, khiến hai thế lực sáng tối tự khống chế nhau tôi hoàn toàn có thể tạo ra khe hở an toàn trong hoàn cảnh phức tạp và nguy hiểm nay. Việc cần kíp bây giờ là tôi cần chọn đúng thời cơ để phá vòng vây, chui ra từ khe hở an toàn đó.

      Hạ quyết tâm xong, tôi thấy mình cứng rắn hơn, lập tức bắt tay vào hành động. Trước hết cần làm xem quanh tôi có tất cả bao nhiêu đôi mắt theo dõi. Bắt đầu từ ngày thứ ba, mỗi ngày ngoài việc đến bệnh viện thăm mẹ vào giờ cố định, toàn bộ thời gian còn lại tôi lang thang, len lỏi khắp các ngóc ngách trong thành phố.

      Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học Công an Nhân dân Trung Quốc, chuyên ngành trinh sát hình và khám nghiệm trường; cộng thêm sau nhiều năm thực tiễn công tác, kinh qua rất nhiều vụ trọng án, tiếp xúc với vô số loại tội phạm, có thể được coi là chuyên gia chống phát . Tôi phải tận dụng ưu thế trời cho này, chơi ván mèo vờn chuột với những kẻ theo dõi tôi.

      Nhiệm vụ đầu tiên của chống phát chính là chống theo dõi, đây là kĩ năng vô cùng khó khăn và phức tạp, những phải rèn luyện lâu dài mà còn phải kết hợp với môt loạt các môn tự nhiên và xã hội khác như tâm lý học, hành vi học, lý luận học và đạo đức học. Người bị theo dõi cần tận dụng triệt để những điều kiện ngoại cảnh có sẵn như địa hình tự nhiên, kiến trúc xây dựng, đặc điểm con người, điều kiện khí hậu… kết hợp với khả năng quan sát tinh tế và óc phân tích tỉ mỉ để từ đó tìm được ra quy luật hành vi và trạng thái tâm lý của kẻ theo dõi. khi nắm tình hình dễ dàng phát ra sơ hở để chờ thời cơ trốn thoát.

      Bước đường phố nhộn nhịp, tôi lợi dụng hình ảnh phản chiếu từ những tấm kính lấp lánh của các cửa hàng bên đường, tập trung phân tích đặc trưng hình dáng của tất cả những người trong phạm vi có thể quan sát được, sau đó chủ động điều chỉnh tốc độ và hướng của mình, hay dừng, nhanh hay chậm, thẳng hay rẽ, để quan sát phản ứng của họ. Vào gian thời gian, điều kiện khí hậu và vị trí địa lý khác nhau, dựa vào trang phục, thần thái, đồ vật mang theo và bạn đồng hành của người theo dõi để phân tích động cơ xuất hành, cử chỉ, hành động của họ.

      Sau khoảng tuần, tôi cơ bản tìm hiểu được tình hình quanh mình, đối tượng theo dõi tôi gồm năm nhóm, mỗi nhóm dưới ba người. Trong đó bốn nhóm có cả nam và nữ, thường xuyên đổi người thay thế nhau, nhóm còn lại toàn nam, từ đầu đến cuối đều là những gương mặt quen thuộc. Hơn nữa, tôi ngày càng cảm nhận thấy ràng hai nhóm đối tượng này cũng dần dần nhận ra tồn tại của đối phương, và cố tình tránh né nhau; nhờ vậy chú ý của chúng bị phân tán phần, và cũng giảm bớt độ tập trung trong việc theo dõi tôi.

      Thấy mục tiêu trước mắt cơ bản đạt được, tôi mừng thầm trong bụng, quyết định thực ngay bước thứ hai.

      Tôi biết đây là lúc phải tiến hành chiêu độc, biến ám phỏng thành minh sát, lợi dụng tâm lý phản nghịch thường thấy trong mỗi người để ra tay làm mẻ lớn.

      Việc thầy liệm trang Mã Trấn Quốc mất tích, cái chết oan nghiệt của La Viễn Chinh và Phùng Siêu, và cả chuyện hãm hại tôi, tất cả đều nằm ngoài mục đích ngăn cản tôi tìm hiểu chân tướng việc. Nhưng chưa có lần nào bọn chúng trực tiếp giáp mặt với tôi, điều này khiến tôi khó hiểu. có lần tôi đoán chúng dám ra mặt vị sợ tôi là cảnh sát, nhưng Phùng Siêu cũng là cảnh sát, vì thế tôi ngay lập tức phủ nhận suy đoán này.

      Có thể do giác quan thứ sáu nhạy cảm của phụ nữ, tôi luôn có cảm giác vì lý do bí nào đó mà bọn chúng ra tay mà chỉ liên tục gây trở ngại cho công việc điều tra của tôi mà thôi. Còn cảm giác này đúng hay sai tôi thể đưa ra nhận định chính xác được.

      Nếu phán đoán này là chính xác, cộng thêm quan hệ ràng buộc giữa bọn chúng và Viện Kiểm sát rất có thể đem lại cho tôi những kết quả thể ngờ tới. Còn nếu phán đoán sai, bọn chúng muốn ra tay với tôi, vậy tất cả cùng quyết chiến mẻ, nếu có chết tôi cũng phải kéo thêm vài kẻ cùng. Hơn nữa, tôi nghĩ bọn chúng có thể giải quyết tôi cách êm thấm trước vô số cặp mắt quan sát như vậy.

      Tôi trở về nhà riêng, nhìn tổ ấm ngày trước giờ đây phủ đầy bụi, trống rỗng lạnh lẽo, nghĩ đến người đàn ông thương tôi hết mực bao giờ quay về nữa, dương cách biệt, tất cả niềm vui niềm hạnh phúc đều biến thành bọt bong bóng, lòng tôi đau như muốn phát điên.

      Ngồi bên chiếc giường ngủ, tôi lặng nhìn bức ảnh cưới treo ở đầu giường, nước mắt lăn dài, khóc thành tiếng.

      Sau khi khóc vơi nỗi lòng, tôi lau khô nước mắt, nhàng vuốt ve sinh linh bé trong bụng, cố gắng cảm nhận từng cử động của con. Tôi thở dài, cắn răng thầm : Con à, phải mẹ nhẫn tâm, mà vì mẹ phải báo thù cho cha, báo thù cho chú Phùng Siêu của con. Con đừng trách mẹ, con nhé!

      Tôi chụp lại bức tranh bị tháo tung, lái xe đến phòng tranh panorama tiến hành điều tra thực địa.

      Hôm đó là buổi sáng thứ Bảy, người trong phòng tranh rất đông, rất giống với khung cảnh hôm La Viễn Chinh bị giết hại. Tôi len vào đám đông, tay cầm máy ảnh, vòng quanh lan can bảo vệ tìm kiếm khu vực tranh sáng tác của cậu tôi.

      Sau khi quan sát tỉ mỉ, tôi phát thấy nội dung hai bức tranh hoàn toàn giống nhau, chỉ có duy nhất chi tiết khác biệt, đó là dưới chân Cổ Tháp, trước cổng chùa Đại Quảng Tế chỉ có ba chiến sĩ. Điều đó có nghĩa “cậu” là chiến sĩ dư.

      Mặc dù xung quanh ồn ào náo nhiệt, nhưng trong đầu tôi lại rất tĩnh, trực giác mách bảo, La Viễn Chinh phát thấy khác biệt này nên định gọi điện cho tôi chăng? Và có thể do kích động nhất thời nên chọn phương án bấm số cách vô thức.

      Nhưng sau khi phân tích kỹ hơn, tôi liền phủ nhận ngay suy đoán đó. Dáng vẻ của La Viễn Chinh rất hoảng hốt, theo những gì tôi biết về tính cách của chồng, chút khác biệt này tuy đáng ngạc nhiên nhưng vẫn đủ để biến đổi cảm xúc đột ngột như vậy. Vậy , rốt cuộc nhìn thấy gì cơ chứ?

      Tôi cố gắng lục lọi trong trí nhớ hình ảnh đoạn bang gi hình, từ từ bước đến vị trí La Viễn Chinh đứng, thậm chí còn bắt chước theo tư thế của : Trước tiên đưa tay ra vịn lan can, sau đó lùi ra xa, nheo mắt lại, chăm chú ngắm nhìn.

      Du khách cứ liên tục qua lại trước mặt tôi, nhưng do tập trung cao độ, điểm nhìn lại ở phía xa, nên họ đều bị kéo thành từng bóng đen quét rất nhanh qua mắt tôi, mờ mờ ảo ảo rồi biến mất.

      Mặc dù tôi cố đứng yên, nhưng do phản xạ có tránh né, đầu tôi vẫn tránh khỏi bị xoay chuyển, bức tranh phía xa bị những bóng người dài ngoằng cắt qua, giống như những hình ảnh slide lần lượt được trình chiếu, thể từng biến đổi ở mọi góc độ.

      Đột nhiên, toàn thân tôi toát mồ hôi, ánh mắt tập trung vào điểm, hình ảnh chợt lên mồn .

      Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy “cậu”, và “cậu” cũng nhìn tôi!

      Theo bố cục gian trong bức tranh chùa Đại Quảng Tế nằm sát con phố, theo phỏng đoán chính là phố Sĩ ngày nay; đối diện là dãy nhà mái bằng giống như cửa hàng, trước cửa ngôi nhà quả là có chiến sĩ đứng, tay cầm súng, mặt nhìn ra ngoài bức tranh, ngũ quan ràng, trông y hệt cậu. Lúc đó, tôi vừa vặn đứng đúng vị trí đối diện với “cậu”, ánh nhìn hai bên gặp nhau, ánh mắt “cậu” vẫn mang vẻ hoang mang kinh ngạc như thế.

      Tại sao? Tại sao? Tại sao?

      Quá đỗi ngạc nhiên, tôi bất giác lùi về phía sau, hơi dịch chuyển sang trái sang phải, bỗng nhiên lại phát ra thêm điểm khác biệt nữa. Khi tôi dịch chuyển, ánh mắt của “cậu” hề theo tôi, mà nhìn thẳng về phía trước, chứng tỏ hình ảnh ở đây hề sử dụng kỹ thuật vẽ ánh nhìn đa chiều. Tại sao lại như vậy?

      Trong lúc lui về phía sau, đột nhiên tôi cảm giác chân mình giẫm phải thứ gì đấy, tiếp theo đó là tiếng hét của phụ nữ lớn tuổi.

      Tôi quay ngoắt lại, vội vàng xin lỗi. Người phụ nữ lớn tuổi mặt đầy tức giận, chỉ thẳng vào mặt tôi mắng nhiếc hồi lâu rồi mới từ bỏ , mồm vẫn liên tục lẩm bẩm:

      - Nhìn cái quái gì thế biết, cứ dán mắt vào…

      “Nhìn cái quái gì thế…” câu này chợt làm tôi ngẩn cả người, trong đầu như có tia sáng xoẹt qua, những việc dồn ứ trong đầu, quẩn quẩn quanh quanh, đan xen lẫn lộn, gợi cho tôi chút khái niệm mơ hồ. Tôi như thể sáng tỏ được điều gì đó, nhưng lại thể phân tích mổ xẻ vấn đề để hình thành những đầu mối mạch lạc.

      Tôi chợt nhớ đến La Viễn Chinh, mù mờ hiểu ra chắc cũng tại nhận ra số điểm bất thường giữa hai bức tranh nên mới vội vàng gọi điện cho tôi.

      Nghĩ vậy, tôi lập tức đưa ra quyết định, tuyệt đối thể để cho tên sát thủ giấu mặt kia đoán ra được ý nghĩ của mình. Thế là, tôi chụp lại hình người chiến sĩ đó, rồi làm ra vẻ tức cảnh sinh tình đưa tay dụi dụi mắt, đứng ngay ra lúc, sau đó mới chậm rãi rời khỏi phòng tranh.

      đường lái xe về, mắt tôi nhìn thẳng về phía trước, cố gắng giữ chắc vô-lăng nhưng trong đàu cứ mải miết suy nghĩ: Tại sao cậu lại vẽ bản thân thành người chiến sĩ? Tại sao phải thay đổi vị trí nhân vật? Tại sao phải sử dụng những kỹ thuật vẽ tranh khác nhau? La Viễn Chinh rốt cuộc phát ra điều gì trong đó? Rốt cuộc định với tôi điều gì?

      Mọi thắc mắc như những hạt đậu bị rang nóng, cứ nổ lách tách lách tách trong đầu, tôi nghĩ đến nát óc nhưng vẫn giải thích được điều gì.

      Khi qua nhà ga, vừa đúng lúc gặp đèn đỏ. Trong lúc chờ đợi tôi tắt điều hoà, mở cửa kính xe, thò đầu ra hít bầu khôn khí trong lành bên ngoài, mong có thể giải toả được trạng thái não thiếu ô-xy do phải tập trung suy nghĩ cao độ.

      Phải thừa nhận rằng, mọi chuyện đời vô cùng thú vị, những hành động vô tình lại đem đến những phát ngoài sức tưởng tượng cho con người ta. Có thể , số phận của tôi lại lần nữa chuyển ngoặt tại đay. Khách sạn nằm đối diện nhà ga, ngăn cách nhau bởi con phố, cao tới hai mươi tấng, bên ngoài treo những bức pano quảng cáo cực lớn. Trong đó có bức pano quảng cáo máy tính Lenovo nổi bật nhất, người mẫu xinh đẹp với gương mặt tươi cười rạng rỡ, tay ôm chiếc máy tính tay chỉ về phía trước.

      Do khách sạn có kiến trúc hình bán nguyệt, rất giống với kết cấu bên trong phòng tranh panorama, nên tôi để ý khá kỹ. Đột nhiên tôi phát , ngón tay người mẫu cũng dùng kỹ xảo đa chiều đó.

      Hoá ra kỹ thuật này cũng khá phổ biến trong thực tế, tôi liền quan sát hướng ngón tay rốt cuộc là chỉ hướng nào rồi quay đầu nhìn theo.

      Đối diện với bức pano người mẫu là toà nhà chính của nhà ga màu vàng nhạt. hiểu lúc đó tôi nghĩ gì mà quay sang hạ ngay kính ghế phụ xuống để ngắm kỹ, ngón tay người mẫu hình như chỉ về chiếc đòng hồ hình vuông rất to đỉnh toà nhà chính. Lúc đó vừa đúng mười giờ trưa, chuông đồng hồ chậm rãi điểm từng tiếng từng tiếng, thanh vang xa kéo dài lấn át hoàn toàn tiếng ồn ào đường phố. Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn, trong đầu biết nghĩ gì mà quên cả đèn xanh bật sáng. Những chiếc xe phía sau bực tức bấm còi thúc giục ầm ĩ, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì.

      Bỗng đồng chí cảnh sát giao thông đường bước đến, gõ mạnh vào kính xe, lớn giọng nhắc nhở:

      - Chị nhìn gì thế, còn chưa chịu !

      Tôi giật mình, như chợt bừng tỉnh sau cơn mơ, giây phút đan xen giữa mơ hồ và tỉnh táo trong đầu khiến tôi chợt hiểu ra được số điều.

      Tôi từ từ ngẩng mặt lên nhìn đồng chí cảnh sát, nhàng :

      - nhìn gì thế?

      Thấy cảnh sát nghệt mặt ra, tôi cũng chẳng buồn giải thích, chỉ cười cười rồi nhấn ga, lái xe thẳng mạch về nhà.

      Dạo này liên tục xảy ra những chuyện hay nên tôi chẳng buồn dọn dẹp nhà cửa, phòng ốc bừa bãi lộn xộn, bức tranh của cậu bị tháo rời, nằm yên sàn phòng khách.

      Tôi day mạnh hai bên huyệt thái dương, đợi đầu óc hoàn toàn minh mẫn rồi mới tỉ mỉ ngồi ghép lại bức tranh, dựng vào lưng ghế sô-pha. Tôi tìm đúng vị trí trong phòng tranh lúc đó, khuỵu gối xuống, nheo mắt lại quan sát. Trước cửa hàng bên đường quả đúng thiếu người. Tôi mở máy ảnh ra, tìm bức ảnh chụp người chiến sĩ, đặt màn hình hướng ra ngoài rồi từ từ quay về vị trí cũ quan sát. Lúc này, người chiến sĩ nhìn thẳng vào tôi, hoàn toàn trùng khớp với khung cảnh trong phòng tranh panorama.

      Tôi lần tìm lại cảm giác kỳ lạ lúc trước đo, nín thở, từ từ nghiêng người, theo ánh mắt của người chiến sĩ quay đầu nhìn lại phía sau, chỗ đó chính là bức tường treo ti-vi trong phòng khách.

      Lúc La Viễn Chinh phát ra điều bất thường của bức tranh trong phòng tranh panorama, đầu óc bỗng nhiên bị xáo trộn, hoàn toàn giống với trạng thái mà tôi vừa trải qua, đây chính là cảm xúc thông thường của con người cũng chính là mấu chốt vấn đề mà tôi nghĩ đến.

      Cậu vẽ mình thành người chién sĩ, chắc chắn có dụng ý sâu xa nào đó, có thể chính cậu dựa vào hiệu ứng cảm xúc thông thường này để sáng tác bức tranh chăng. Nếu người chiến sĩ này là cậu, vậy lúc này nếu ở nhà cậu ánh mắt người chiến sĩ chỉ đến đâu?

      Tôi cố gắng nhớ lại cách bài trí trong nhà cậu, vị trí này cũng đặt chiếc ti-vi, nhưng phía đó lại treo bức thư pháp nằm ngang, có viết bảy chữ thảo lớn “Hoạ long hổ nan hoạ cốt”, nét chữ rồng bay phượng múa, thế nhưng bây giờ nó bị đốt mất. Bức thư pháp ấy được treo từ bao giờ, chỉ biết rằng khi tôi bắt đầu có trí nhớ thấy nó được treo ở đó, nghe là của nhà thư pháp nổi tiếng tặng cho cậu.

      Còn nhớ hồi tôi từng hỏi cậu, có phải bức thư pháp đó có nghĩa là xương khó vẽ nhất đúng . Cậu xoa đầu tôi cười lớn, trả lời câu hỏi mà chỉ cậu thích câu này, nó luôn nhắc nhở bản thân rằng nghệ thuật có điểm dừng, đừng bao giờ kiêu căng tự mãn. Mãi đến sau này lớn lên, tôi mới hiểu được hàm ý của câu đó hề đơn giản như mình nghĩ, và tôi cũng biết được sau nó còn có vế câu “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Thế nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy cậu kể tại sao lại chỉ chọn vế đầu mà làm thành câu đối hoàn chỉnh.

      Tôi nhìn chăm chú, trong óc như có cỗ xe phóng với tốc độ cao cùng đủ mọi thanh hỗn loạn, tôi cứ quỳ mãi cho đến khi hai đầu gối tê dại mới chuyển sang ngồi bệt xuống sàn.

      Tôi cố tĩnh tâm sắp xếp mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu. biết mất bao lâu, tôi mới từ từ ngẩng đầu lên, nhìn hình ảnh cậu trong máy ảnh, bất giác nhoẻn miệng cười.

      Tôi nghĩ mình tìm ra bí mật cậu để lại! (Để tiện phân biệt, tạm thời tôi gọi bức tranh trong phòng tranh panorama là tranh lớn, bức tranh cậu sao chép lại là tranh ).

      Thực ra cậu ra câu đố vô cùng phức tạp cho chúng tôi. Người chiến sĩ trong bức tranh sử dụng kỹ thuật vẽ tranh đặc biệt, ánh mắt di động, định hướng, khiến người ta khó bề nắm bắt. Còn chiến sĩ trong bức tranh lớn mắt cố định, khiến người xem nhìn thấy ngay. Hai nhân vật tuy đều là hình ảnh cậu, nhưng vị trí đứng giống nhau, chính là để ám chỉ thay thế giữa gian và nhân vật.

      Lấy người chiến sĩ trong bức tranh lớn thay vào bức tranh ở nhà câu, ánh mắt nhìn thẳng vào bức thư pháp bức tường đối diện. Còn câu “Hoạ long hổ nan hoạ cốt” ngầm ám chỉ điều, bí mật thực nên thể ra ngoài mà nên cất giấu phía trong.

      Khi đốt tranh, tôi ngắm khá kỹ bức thư pháp đó, nó được đóng khung cẩn thận, nhưng có gì đặc biệt, điều đó chứng tỏ: Bí mật mà cậu muốn cất giấu, có lẽ được mình trong vách tường phía sau bức thư pháp. Lần này, tôi có thể khẳng định bí mật đó vẫn liên quan đến mảnh da người.

      Nghĩ vậy, tôi thở dài tiếng, chợt cảm thấy nhõm dễ chịu vô cùng. Với nhận định này, tuy trước khi nhắm mắt cậu trăn trối cầu chúng tôi hoả thiêu cả thi thể và bộ sưu tập tranh, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim, cậu vẫn hi vọng ai đó hiểu được ý của cậu và giải được bí mật đó. Thế nhưng, tại sao cậu phải dốc hết tâm can, sử dụng ám hiệu phức tạp như vậy chứ? Nếu phải do cơ duyên trùng hợp, tôi bao giờ phát được ra. Còn nữa, La Viễn Chinh chắc chắn cũng nghĩ đến những điều này nên mới có phản ứng mạnh mẽ thế. Thế nhưng kỳ lạ ở chỗ, nếu La Viễn Chinh cũng giải được câu đố này, tại sao gọi điện cho tôi trước mà lại gọi cho người khác, điều này vô cùng khó lý giải.

      Nghĩ rằng việc thể chần chừ, tôi quyết định tạm thời gác những nghi vấn đó lại, lập tức đến nhà cậu để kiểm chứng những suy đoán của mình. Nhưng vừa định đứng dậy, tôi lại chợt băn khoăn biết nên đánh lạc hướng những con mắt xung quanh như thế nào?

      Tôi ngồi sàn nhà, vắt óc suy nghĩ, cuối cùng cũng ra được kế


      Cậu tôi vợ con, quyền thừa kế tài sản nghiễm nhiên thuộc về mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi giờ bị tai biến, mỗi ngày riêng tiền thuốc mất hàng nghìn tệ, sắp tới còn phải làm phẫu thuật, tiền bạc trong nhà cũng gần cạn kiệt. Tôi còn trẻ chưa tích luỹ được gì, giờ những mất chồng lại còn mất việc, như vậy hoàn toàn có thể lợi dụng điểm này để tung hoả mù.

      Quyết định xong, tôi cảm thấy hơi có lỗi với cậu, nhưng nghĩ lại, chẳng phải cậu cũng hi vọng có người giải được bí mật đó hay sao, thế là tôi lại thấy lòng.

      Ngày hôm sau, tôi đến nhà họ hàng thân thích, báo với họ rằng bán tài sản và căn nhà của cậu để gom tiền chữa bệnh cho mẹ, còn dặn mọi người tìm giúp người mua, giá cả quan trọng, chỉ cần hợp lý là được. Hầu hết mọi người nghe vậy đều tỏ ra thông cảm, mấy tháng nay liên tục xảy ra những chuyện hay, quả thực gây quá nhiều khó khăn cho gia đình tôi.

      Sau nhiều lần giao dịch, cuối cùng tôi cũng liên hệ được với người mua, giá cả cũng được thoả thuận nhanh chóng. Buổi sáng hôm đó, tôi thuê mấy cửu vạn ở chợ người về, bắt đầu cho chuyển bàn ghế và đồ đạc trong nhà cậu.

      Nhà cậu rộng, phải tới hơn 170 mét vuông, là căn nhà do Uỷ ban Chính hiệp thành phố phân cho vào năm 1998. Đồ đạc trong nhà rất nhiều, chỉ riêng bộ bàn ghế tới hơn hai mươi món, rồi còn vô số các loại đồ cổ, đồ sưu tầm nữa. Đội cửu vạn phải mất trọn ba ngày vừa dỡ vừa đóng, chở chở về mới chuyển xong đồ đạc trong nhà cậu.

      Ba ngày này, tôi cũng được thảnh thơi, liên tục phải giám sát bên cạnh, chỉ huy công việc, mắt rời khỏi vị trí treo bức thư pháp. Tôi nhận thấy các bức tường được dán giấy in hoa vàng nhạt, quăn mép và phai màu, trong khi đó. Vị trí chỗ tường được bức thư pháp che phủ sạch hơn nhiều so với những vị trí xung quanh, để lộ khoảnh hình chữ nhật nhàn nhạt.

      Trưa ngày thứ ba, tranh thủ lúc đội cửu vạn ra ngoài ăn cơm, tôi quyết định ra tay.

      Tuy ở tầng hai, nhưng phòng khách có cửa sổ khá lớn, thoáng mát, nhìn được ra khoảng phía xa. Ban ngày tiện kéo rèm, để tránh có người nhòm ngó, tôi cố tình bảo cửu vạn chất đống vỏ thùng các-tông, sách vở và những đồ đạc linh tinh ở đó để che bớt tầm nhìn phía ngoài cửa sổ.

      Sau khi đóng cửa, căn phòng trở nên yên tĩnh lạ thường, tim tôi bắt đầu đập thình thịch, hai tay toát mồ hôi, cảm giác hồi hộp chưa từng có xuất tựa hồ như bí mật đó ở ngay trước mắt.

      Tôi đứng trước bức tường ngắm nghía lúc, sau đó vào kho tìm búa và tua-vít rồi trở lại phòng khách, kéo chiếc ghế gấp cũ kỹ lại, trèo lên, bắt dùng tua-vít cạo lớp giấy dán tường phía ngoài khu vực treo thư pháp, bên trong lộ ra bức tường đá rêu xanh.

      Lo sợ có người nghe lén ngoài tường, tôi dám gõ mạnh tay mà quay đầu búa, dùng cán gỗ gõ nhè vào tường, vừa gõ vừa ghé sát tai lắng nghe, cố gắng phân biệt thanh ở từng chỗ khác nhau,

      Do đồ đạc trong phòng dọn gần hết, nên cứ mỗi nhát búa lại nghe thấy tiếng vọng từ tứ phía. Thấy ổn, tôi lấy tay trái giữ chặt đầu búa, tránh trường hợp do quá run mà lực gõ đều.

      Cuối cùng, khi cán búa chạm vào chỗ mà trước đó là vị trí của chữ “Cốt” trong bức thư pháp, người tôi chợt run bắn, suýt chút nữa kêu lên thành tiếng. thanh chỗ này còn trầm trầm chắc nịch nữa, mà là tiếng coong coong trống rỗng.

      Quả đúng như tôi dự đoán, sau bức thư pháp đúng là có bức tường kép.

      Tôi mừng thầm trong bụng, gõ tiếp vài nhát để định vị, tìm đúng khe nối ngoài rìa, cắm chặt mũi tua-vít vào rồi dùng búa gõ mạnh.

      Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt.

      Tôi cắn chặt môi, nắm chặt tua-vít trong tay, vặn từ từ, từng mảnh vỡ to thi nhau rơi lộp bộp xuống đất.

      Tôi cố dặn mình được nôn nóng, rút tua-vít ra, nhàng cạo những mảng tường nứt, phía trong dần lộ ra lớp thạch cao màu xám nhạt, hề nhìn thấy tường gạch. Tôi thò tay chạm thử, thấy phẳng và cứng giống bột bả tường, bề mặt chằng chịt những vết hoa văn, biết nó được đặt ở đây bao nhiêu năm rồi.

      Tôi dắt chiếc búa vào sau lưng, hai tay nắm chặt tua-vít, bẩy mạnh đám bột bả lên. Lớp bột bả ăn sâu vào tường chừng năm sáu cen-tin-mét, do bị kết lại từ lâu nên rất khó cậy. Tôi lại dám quá mạnh tay, sợ bị người khác nghe thấy.

      Sau khi cậy được hết đám bột bả, tường tro lại cái hõm vuông vức, dưới trái phải đều là gạch đỏ. Tôi nhòm vào trong, dưới đáy hõm hình như có tấm gỗ hồng mộc, xung quanh thấy khe hở nào, có vẻ như nó là tấm gỗ chắn.

      Gỗ hồng mộc vừa cứng vừa chắc, khó bị mục ruỗng, lại được bảo quản khá nguyên vẹn, phản chiếu ánh sáng mờ mờ. Tôi hơi sốt ruột, nếu gõ mạnh hơn dễ gây tiếng vang, thế nhưng thời gian cấp bách, nếu tôi nhanh chóng quay ra khiến người khác nghi ngờ.

      Tôi suy nghĩ nhanh, quyết định quay ra ngay mà đục tấm gỗ ra. Nhưng khi vừa giơ chiếc búa lên tôi chợt dừng lại.

      Bề mặt tấm gỗ hoàn toàn nhẵn bóng, có vẻ như nó được khắc hoa văn mờ mờ phải. Tôi vừa mừng vừa lo, vội đưa tay sờ thử, đồng thời rọi chiếc đèn pin mini rồi thò đầu vào bên trong.

      Những hình hoa văn đó hơi đậm so với màu gỗ, lấy đầu ngón tay miết thử thấy ram ráp những lỗ li ti dày đặc giống như được khắc bằng kim, tạo thành những đường uốn lượn theo phương nằm ngang ở vị trí trung tâm tấm gỗ, hai đầu kéo dài vào thân tường. Tôi gật gù, xem ra bí mật chính là đây rồi. Nếu ngu ngốc dùng búa phá hỏng nó có lẽ bây giờ tôi hối hận chết mất.

      Tôi thò cán búa vào trong, gõ vài nhát, thanh phát ra lạ, cảm giác giống như tiếng kim loại. Mối nghi ngờ trỗi dậy, ràng là gỗ sao lại gõ nghe có tiếng kim loại chứ? Quá đỗi tò mò, tôi tiếp tục dùng tua-vít cắm vào đầu khắc hoa văn của tấm gỗ, vặn siết mấy vòng, phát ra tiếng cót ca cót két ghê tai. Nhưng quan sát tấm gỗ, tuyệt nhiên thấy để lại vết tích gì.

      Khỉ ! Đây là lại gỗ quỷ quái gì chứ, sao mà cứng thế biết, tôi bực mình lẩm bẩm chửi thầm.

      Nghĩ nghĩ lại, tôi thấy thể chần chừ được nữa, nếu bây giờ bỏ , căn nhà sau này thuộc quyền sở hữu của người khác, như vậy mọi công sức của tôi từ trước đến giờ đều đổ sông đổ biển hết.

      Tôi quyết định dùng tua-vít cắm vào khe nối giữa gỗ và tường, tay trái giữ cố định, lấy cán gỗ làm điểm tỳ, tay phải ấn xuống, dùng hết sức bình sinh bẩy mạnh lên, làm bật cả viên gạch ở bên cạnh. Thấy viên gạch sắp rơi xuống, tôi vội đưa tay ra đỡ lấy rồi nhàng đặt xuống đất.

      Thấy sắp thành công, tôi dám để lỡ thời gian, liền cậy nốt ba viên gạch còn lại, cả tấm gỗ được chôn sâu vào trong. Tôi hít hơi, từ từ thò hai tay vào nhàng nhấc tấm gỗ ra.

      Tấm gỗ , dài khoảng 20 cen-ti-mét, rộng khoảng 3 cen-ti-mét, hình chữ nhật vuông vức, bề mặt đánh véc-ni nên vẫn còn giữ những vân gỗ tự nhiên, các đầu góc tròn trịa, nhẵn bóng, nặng khoảng 3,5 - 4 ki-lô-gam.

      Tôi lật tấm gỗ lại, phát những hoa văn đó quấn xung quanh thân gỗ, hai đầu gặp nhau ở mặt sau, chính là hai đầu rồng đối nhau. Mặc dù được tạo thành từ chuỗi lỗ li ti nhìn có vẻ đơn giản nhưng lại cực kỳ tinh xảo, có thần thái. Đôi rồng nhe nanh giơ vuốt, vẩy rồng sắc nét, ở thế chuẩn bị gào thét bay lên. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, đây lại là con rồng thân hai đầu có đuôi. Sợ ở trong phòng quá lâu, tôi tiện ngắm kỹ, nhanh tay ghép những viên gạch vào chỗ cũ, lấy bột bả nhét đầy chỗ trống, rồi dùng loại keo cực dính dán lại tấm dán tường cẩn thận.

      Tôi đứng ngắm nghía cẩn thận, trông hoàn toàn nguyên vẹn, chắc bị ai phát ra, sau đó tôi gập chiếc ghế gấp lại, kéo ra xa. Nhìn tấm gỗ dưới nền nhà, tôi biết tính thế nào, hôm nay quên mang túi xách, lại mặc ít quần áo, làm thế nào mang ra ngoài bây giờ.

      Rất nhiều suy nghĩ ập đến, nhưng mãi vẫn nghĩ ra cách gì ổn thoả, tôi sốt ruột lòng vòng trong phòng, toát cả mồ hôi trán. Lúc nghiêng đầu lau mồ hôi, tôi chợt nhìn thấy mấy thùng sách xếp trước cửa sổ, ý nghĩ loé lên trong đầu. có cách!

      Tôi vội chạy lại, chọn cuốn to nhất, dày nhất, bìa màu xanh đậm, hình như là cuốn lý thuyết tranh sơn dầu gì gì đó. Đặt cuốn sách xuống sàn nhà, tôi lật trang bìa cứng ra, rồi sau đó bắt chước nhân vật chính trong phim Nhà tù Shawshank, cầm tua-vít đâm mạnh nhiều nhát vào những trang sách bên trong. Vụn giấy bay tả tơi, ruột sách bị khoét thành hình chữ nhật. Tôi nhét tấm gỗ vào trong, gập bìa sách lại, vừa khít, thấy gì bất thường.

      Tôi nhanh chóng vơ gọn chỗ vụn giấy bỏ vào bồn rửa mặt, bật lửa đốt sạch, sau đó vặn vò xả sạch tro tàn. Quay trở ra, cầm cuốn sách lên, suy nghĩ lát, tôi liền đặt nó lên phía cùng đống sách. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, điều này đương nhiên tôi hiểu. Tiếp đó, tôi khom người ra ban công, vơ lấy nắm đất, quay lại cửa phòng khách, rắc đều quanh diện tích khoảng chừng mét vuông. Khi khoá cửa, tôi còn dứt sợi tóc nhét vào khe cửa rồi nhanh chóng bước xuống lầu.

      Nhà cậu tôi ở cạnh trường Đảng cũ Thạch Kiều Tử, ngay sát trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, cũng rất gần với khu tập thể công ty Thạch Hoá, là khu đông dân cư, rất nhiều cửa hàng cửa hiệu lớn được xây dựng dọc hai bên đường. Tôi đút hai tay vào túi quần, nhìn quanh quất xung quanh, rồi bước vào quán ăn ven đường, gọi món bánh cảo thịt bò và đĩa dưa chuột dầm ăn lót dạ.

      Lúc đó vừa đúng giờ cơm trưa, trong quán chật kín chỗ, tiếng người cười ồn ào, hầu hết đều là sinh viên trường đại học quanh đó. Việc ăn trưa tại đây cũng được tôi tính toán trước. Những kẻ theo dõi chắc chắn muốn bị tôi nghi ngờ, nên đợi ngoài cửa, tạo cơ hội để tôi có thời gian tính toán đem tấm gỗ ra bằng cách nào.

      Tôi nhai trệu trạo, trong đầu cứ nghĩ mãi tại sao cậu lại chôn tấm gỗ vào trong tường, tại sao chất gỗ lại cứng đến thế, lẽ nào cậu phát ra loại vật chất mới?

      Tôi thầm nghĩ: Khỉ ! Cứ như chuyện khoa học viễn tưởng vậy, chả khác gì Vệ Tư Lý[1]. Thế nhưng bây giờ tìm được tấm gỗ, đồng thời cũng nguỵ trang cẩn thận rồi, việc cần làm lúc này là tìm đưa nó ra ngoài cách hợp tình hợp lý. Nhưng tấm gỗ quá lớn, thể giấu bên người được, kể cả chờ đến chiều tối mới cắp cuốn sách ra cũng phải là thượng sách.

      [1]Tên nhân vật trong seri truyện Hệ Tư Lý hệ liệt cuả nhà văn Hồng Kông nổi tiếng Nghê Khuông.

      lúc suy nghĩ miên man, phía sau chợt vang lên tiếng cười của mấy nam sinh viên, có người còn gõ bàn đập ghế phụ hoạ nữa, chẳng biết có chuyện gì mà họ lại vui như vậy.

      sẵn bực bội, tôi định quay lại nhắc nhở, nhưng mấy câu tiếp theo của các cậu sinh viên khiến tôi lập tức dừng ngay ý nghĩ đó. Tội dựng tai nghe ngóng thông tin, phân tích trong đầu, rồi ngay lập tức nghĩ ra sáng kiến, có thể là vô cùng tuyệt vời.

      Tôi vội vàng ăn sạch cơm canh, đứng dậy sang bàn bên cạnh bắt chuyện. Khi biết các em đều là sinh viên khoa thiết kế nghệ thuật trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, tôi liền dối là hôm nay chuyển nhà, hỏi họ có muốn mua số sách lý luận giá rẻ .

      Trí nhớ của tôi rất tốt, để gợi thêm tò mò của họ, tôi kể ra cài tên sách xem qua ở nhà cậu. Bọn họ quả nhiên rất hứng thú, nhất là khi nghe đến giá cả, liền lập tức tỏ ý muốn mua.

      Lúc này, trưởng nhóm cửu vạn gọi điện cho tôi, họ ăn cơm xong, buổi chiều khi nào có thể tiếp tục làm. Tôi vội vàng thanh toán, kéo theo mấy sinh viên đó về nhà cậu, bảo họ đợi dưới tầng.

      Lúc mở cửa, tôi che người chắn tầm nhìn của mấy tay cửu vạn đứng phía sau, cố tình thực các động tác chậm, quan sát tỉ mỉ lỗ khoá thấy phát điều gì bất thường, nhưng sợi tóc ở khe cửa thấy đâu nữa.

      Tôi cắn răng cười khẩy tiếng, cũng khá nhanh đây, trong lúc tôi ăn cơm có kẻ chui vào rồi. Đây được coi là nghệ thuật mở khoá điển hình, sử dụng công cụ đặc biệt kết hợp thủ pháp điêu luyện để mở lõi khoá trong khi vẫn giữ nguyên bề ngoài khoá. Xem ra bọn chúng những là hắc thủ mà còn là cao thủ.

      Bước vào phòng, tôi nhìn thấy lớp đất mặt sàn xuất những vết chân mới, kích thước khá to, có lẽ là của đàn ông, hướng về cả trước và sau. Liếc nhìn cuốn sách, lạy trời lạy đất nó vẫn còn nguyên.

      Tôi mừng thầm trong bụng, biết chúng phát ra điều gì, liền cầu đội cửu vạn khiêng mấy thùng sách đó xuống chỗ khô ráo dưới tầng, xếp chật kín khoảng.

      Tôi nhấc quyển sách lên, thấy nặng tay biết là tấm gỗ vẫn còn đó, liền tiện tay kê xuống dưới mông, ngồi chào mời sinh viên đến xem sách.

      Do giá tôi đưa ra rất rẻ nên các bạn sinh viên mua khá nhiều, còn gọi thêm các bạn bè đến xem. Chỉ trong buổi trưa, sách bán gần hết, chỉ còn lại hai quyển, tôi đem tặng nốt cho bé đeo kính.

      Nhìn bé ôm sách mừng rỡ bước , tôi bề ngoài vừa giả vờ như hóng mát đếm số tiền lẻ trong tay, nhưng trong lòng căng thẳng vô cùng. Nếu lúc này bọn chúng thừa cơ đến tấn công, chỉ cần lật giở bìa sách mọi chuyện bị lộ tẩy hết.

      Ít phút sau, mấy tay cửu vạn hò nhau khuân đồ cuối cùng xuống, tôi mới thở phào nhõm, nhặt cuốn sách lên, rồi cùng họ lên chiếc xe chở hàng thuê từ trước đó.

      Sau khi vận chuyển đến tận nơi người nhận, thanh toán nốt số tiền còn lại, chúng tôi tiếp tục lái xe trở về. Đến cổng khu chung cư nơi tôi ở, trước khi xuống xe, tôi đem mấy món đồ thủ công mỹ nghệ chọn trước đó và cả cuốn sách xếp vào trong chiếc thùng các-tông khá to, nhàng ôm trước ngực, thong thả bước về nhà.

      Mấy bước đường ngắn ngủi, nhưng quãng đường hơn năm mươi mét ấy, tôi tuy vẻ ngoài thong dong nhưng trong lòng hồi hộp căng thẳng tột cùng.

      Tôi rất chậm, nhìn dáo dác xung quanh, miệng lẩm nhẩm huýt sáo, thậm chí ngay cả lúc cúi xuống thắt dây giầy tôi còn cố tình đạt chiếc thùng xuống bên cạnh, mục đích là để cho những “con mắt” kia nhìn thấy ngay bên trong toàn những đồ linh tinh.

      Vừa bước qua cửa nhà, tôi lập tức quay người lại nín thở, áp sát tai vào cánh cửa, cố gắng nghe ngóng động tĩnh phía ngoài. Khoảng năm phút, xác định có người theo dõi, tôi mới nhón chân bước vào phòng khách, đặt chiếc thùng xuống đất, lấy tấm gỗ ra, ngồi ghế sô-pha bắt đầu quan sát cẩn thận.

      Tôi lấy tay áo lau qua bụi bề mặt, tấm gỗ trở nên bóng đỏ, thậm chí còn có cảm giác trong suốt như pha lê, bốn cạnh được đánh ráp cẩn thận, ngoài hình chạm rồng ra, chỗ nào có dấu hiệu bị sứt mẻ hay mục ruỗng.

      Hình rồng được chạm trổ hết sức kỳ quặc, phải là chạm trổ thông thường mà được tạo thành bởi những lỗ li ti nối liền với nhau, mỗi lỗ chỉ bằng đầu tóc, đâm sâu vào thân gỗ, ngoài rìa được sơn bằng loại sơn dầu màu đỏ sẫm, thấm sâu vào thân gỗ, lan toả đều các lỗ, khiến ta có cảm giác như màu sắc tự nhiên. Đưa tấm gỗ lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm đặc trưng của gỗ.

      Tôi lật lật lại tấm gỗ, quan sát tới hơn chục phút, ngoài cảm giác nặng tay, tôi chẳng nhận ra thêm điều gì. Cong tay gõ vài nhát, thấy có tiếng vang dứt khoát, giống y hệt thanh của kim loại.

      Mất cả buổi chiều chẳng làm gì, chỉ ôm tấm gỗ hồng mộc xem xét, đến tối, tôi ăn vội mấy miếng mì gói, kéo rèm cửa sổ phòng ngủ lại, đặt tấm gỗ phía dưới đèn bàn quan sát, nhưng dù ở góc độ nào, nguồn sáng nào tầm gỗ vẫn chẳng có gì khác thường.

      hề nản chí, tôi tiếp tục bê chậu nước ra, nhàng đặt tấm gỗ xuống, gợn nước từ từ lan ra, những lỗ li ti của hình chạm rồng tạo ra vô số bọt nước bé xíu mặt nước rồi lần lượt vỡ tan biến. Rất lâu, tôi vẫn chẳng thấy phản ứng gì.

      Tôi lấy khăn mặt lau khô tấm gỗ, đặt lên bàn, khoanh chân ngồi chiếc giường đối diện, tay chống cằm, lặng lẽ quan sát, tuyệt nhiên thấy dấu vết gì. Cậu tôi mất công cất giấu kỹ như vậy, rốt cuộc tấm gỗ hồng mộc chết tiệt này chứa bí mật gì đây? Lúc này tôi thể giao nó cho đơn vị để tiến hành giám định kỹ thuật, cũng thể mạo hiểm dùng ngoại lực tháo rời, thế nhưng nếu chỉ ngồi suy luận lung tung cũng phải cách hay. Nghĩ vậy, tôi quyết định tạm thời gác những thứ đó lại, tiếp tục lên kế hoạch các bước tiếp theo.

    2. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 6: Hồng mộc nghìn năm tuổi

      Tiểu Đường đưa tay phải ra, ngón tay thon dài trắng nõn, gạt nhanh giữa rừng kim giống như đánh đàn piano, thoáng chốc ngón tay xuất cây kim dài chưa đến ba cen-ti-mét. Động tác dù quá nhanh, nhưng tôi vẫn thể nhìn cách làm cụ thể của .

      Tiểu Đường khéo léo giữ chân kim, nhúng vào lọ sứ màu lục ngoáy tròn, khi rút cây kim ra, đầu kim chuyển màu xanh lam đậm sáng bóng.

      Sáng sớm hôm sau, sau khi ăn sáng qua loa, tôi nhét tấm gỗ vào túi xách rồi ra khỏi nhà.

      Vừa rời khỏi khu chung cư được vài bước, tôi bỗng thấy lợm giọng buồn nôn, liền ngồi sụp xuống bên cạnh bồn hoa ven đường và nôn thốc nôn tháo. Gần đây triệu chứng ốm nghén ngày càng xuất rệt, xem ra cần sớm giải quyết cái thai.

      Tôi cố kìm những đợt ợ chua cuộn lên trong dạ dày, bắt xe đến bệnh viện phụ sản thành phố, nhờ người quen tiến hành làm xét nghiệm chọc dò ối, kết quả xét nghiệm cho thấy cái thai trong bụng là con trai.

      Cầm tờ kết quả xét nghiệm tay, tim tôi đập loạn xạ, vừa buồn chán vừa đau khổ, tôi hỏi dò bác sĩ xem bao lâu uống được thuốc sổ thai. Bác sĩ vốn là chị dâu của bạn thân thời trung học của tôi, chị ta nhìn tôi dò xét hồi lâu mới ngập ngừng cho biết, trong ba tháng đầu có thể dùng thuốc, chỉ có điều rất nguy hiểm, sức khoẻ rất khó hồi phục, còn có khả năng dẫn đến vô sinh vĩnh viễn. Chị còn hỏi tôi thai nhi ràng là con trai, sao lại muốn bỏ, tôi bây giờ ba mươi, thuộc trường hợp sản phụ cao tuổi, nếu may bị vô sinh chữa trị kịp nữa.

      Tôi ngây người, mãi lâu sau mới gật đầu, rằng tiện muốn hỏi cho biết, sau đó cảm ơn bác sĩ rồi chầm chậm rời khỏi bệnh viện.

      Bên ngoài mặt tròi gay gắt chiếu thẳng vào đầu vào mặt khiến tôi choáng váng, mắt mũi hoa lên. Tôi bước chậm rãi, sắc mặt vẫn thản nhiên như , nhưng trong lòng dày vò ghê gớm. Tôi nắm chặt tay, gào lên thành tiếng: Viễn Chinh, em xin lỗi! Con trai, mẹ xin lỗi…

      Việc làm tiếp theo quả là vô cùng đau khổ, tôi thực muốn nhớ lại. Qua bạn bè, tôi thầm mua thuốc sổ thai để từ bỏ đứa con trai mà tôi chưa thấy mặt, cũng chính vì thế tôi phải chịu nỗi đau mà người khác khó có thể hình dung, và rồi cam chịu cả đời mất khả năng làm mẹ. Tôi chỉ nhớ rằng, giây phút nuốt thứ thuốc đó vào bụng, nước mắt tôi đầm đìa, tim như bị hàng ngàn hàng vạn mũi kim châm. Con của tôi, con của tôi…

      Sau đó, tôi cắn răng chịu đựng những phản ứng do thuốc sổ gây ra, hàng ngày vẫn xuất bình thường trước mặt người thân bạn bè, cố tỏ ra điều gì bất thường, nhưng trong bụng ngày đêm nhẩm tính ngày tính tháng, mỗi ngày lại phải quấn thêm lượt khăn quanh bụng, còn phải cố làm ra dáng của bà bầu.

      Rất đơn giản, tôi cần tận dụng cơ hội là bà bầu để làm tê liệt những đôi mắt vô hình kia. Tranh thủ thời gian khẩn trương kết thúc mọi hành động tại Cẩm Châu. Ngày tháng cứ thế trôi qua lặng lẽ như dòng nước, bụng tôi cũng càng ngày càng “to”. Mặc dù tôi hiểu , mọi lúc mọi nơi đều bị giám sát, nhưng tôi cảm nhận được rệt những đôi mắt đó dính chặt theo nữa, có thể chúng nghĩ rằng tôi từ bỏ hoàn toàn ý định điều tra, chuyên tâm làm bà mẹ đợi ngày sinh.

      Thầy liệm trang Mã Trấn Quốc vẫn sống chết ra sao, vụ sát hại La Viễn Chinh và Phùng Siêu vẫn chẳng có tiến triển gì; tay tài xế xe bán tải, tài xế xe Accord và gã lùn vẫn như bốc hơi khỏi trần gian… Có thể là hết cách.

      Lâu dần, tôi bắt đầu sinh nghi. Tôi tin phía cảnh sát lại vô dụng như vậy, tình tiết vụ án sờ sờ trước mắt, tại sao lâu như vậy vẫn chưa điều tra ra manh mối gì. Nhưng nghĩ lại, có lẽ Mã Vân Vĩ cố ý giấu giếm vì muốn tôi tiếp tục mạo hiểm nữa.

      Từ bỏ hết hi vọng nơi cảnh sát, tôi bắt đầu tự lên kế hoạch hành động. Bức tranh sao chép đó được vẽ sau khi hoàn thành bức tranh panorama vào tháng Mười năm 1989, vậy tấm gỗ hồng mộc chắc chắn phải có trước thời gian này. Và việc cậu lấy sáng tác tranh làm ám hiệu, chứng tỏ ý tưởng đó được nảy sinh trong thời gian tham gia sáng tác bức tranh panorama.

      Để khẳng định giả thiết này, tôi vùi đầu vào thư viện thành phố, tìm đọc loạt những tài liệu lịch sử liên quan đến bức tranh panorama Cẩm Châu, lấy máy ảnh chụp lại, rồi lại lên mạng tìm tài liệu liên quan, in ra từng trang .

      Tài liệu nhiều vô kể, tôi kiên trì bỏ ra ba ngày sắp xếp tổng hợp tài liệu, tìm ra những thứ thực giúp ích cho tôi. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm Châu trong nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm được sáng tác sau khi nhận được phê chuẩn của Tổng cục Chính trị Quân uỷ Trung ương, đơn vị thực là Quân khu Thẩm Dương và chính quyền thành phố Cẩm Châu. Đây được coi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, mục đích là tái hình ảnh chiến tranh khốc kiệt hồi đó, kết hợp hoàn hảo tính chân thực và tính nghệ thuật. Quân khu Thẩm Dương mời rất nhiều hoạ sĩ, học giả nổi tiếng của Học viện Mỹ thuật Trung ương, Học viện Nghệ thuật Giải phóng quân và Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn Thẩm Dương cùng hoạ sĩ Tôn Thạch của Cẩm Châu lập thành tổ sáng tác, ngoài ra họ còn mời đến ít những lãnh đạo, chiến sĩ từng tham gia chiến dịch Liêu Thẩm làm cố vấn lịch sử.

      Tổ sáng tác làm việc theo nguyên tắc khách quan cẩn trọng, nhiều lần tiến hành điều tra thực địa khắp thành phố Cẩm Châu. Quân khu Thẩm Dương còn cử hai máy bay chuyên dụng đưa các hoạ sĩ bay vòng quanh Cẩm Châu ở tầm thấp quan sát nhiều lần, chụp lại rất nhiều ảnh và ghi hình tư liệu. Sau đó, tổ sáng tác còn đến hai thành phó của Liên Xô là Matxcova và Volgograd, khảo sát tỉ mỉ về hội hoạ, kiến trúc của phòng tranh panorama, cố gắng để bức tranh đạt đến trình độ hoàn hảo.

      Về quá trình sáng tác cụ thể qua rất nhiều công đoạn vô cùng phức tạp, đầu tiên là vẽ phác thảo và phủ màu thủ công hàng vạn mảnh tranh; sau đó khi được Tổng cục Chính trị thẩm duyệt đồng ý mới bắt đầu sáng tác chính thức. Trong thời gian sáng tác, còn phải sửa lại nhiều lần, hao tốn tâm huyết biết bao người, huy động biết bao nhân lực vật lực, sau ba năm trời mới hoàn thành bức tranh.

      Bức tranh có tổng chiều dài 122,22 mét, cao 16,1 mét, treo quanh vòm tường phòng tranh, tổng diện tích lên đến 1968 mét vuông, trọng lượng 4 tấn. Giữa bức tranh và đài quan sát còn đặt những mô hình về địa hình, công việc, vũ khí… được thu theo tỉ lệ nhất định; đồng thời còn phối hợp với các loại thanh, ánh sáng tiên tiến đem đến cho người xem cảm giác như được nhìn tận mắt. Theo thống kê, nay thế giới mới chỉ có bốn mươi tám bức tranh panorama, tranh cỡ lớn càng hiếm. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm Châu có thể coi là bức tranh số chỉ ở Trung Quốc mà còn thế giới.

      Sau khi nắm được những tài liệu này, tôi phân tích thêm những giả thiết trước đó: Giả sử tên hung thủ giấu mặt đúng là đến từ Thẩm Dương, vậy chắc chắn phải là người biết tình hình năm đó, rất có thể là hoặc số người nào đó trong nội bộ tổ sáng tác, hơn nữa thế lực cũng phải rất mạnh, tổ chức chặt chẽ, nếu chúng thể thực vụ án lớn đến vậy.

      Cậu tôi là thành viên trong tổ sáng tác, từng tham gia thực địa ở Cẩm Châu và khảo sát tại Liên Xô, nguồn gốc tấm gỗ hồng mộc chắc chỉ từ trong hai nơi này. Thế nhưng, khả năng được lấy từ Liên Xô gần như bằng , bởi vì Liên Xô thể tạo ra vật mang thần vận phương Đông như vậy. Nhất là hình chạm rồng, theo như quan sát và khảo chứng của tôi, đó chính là loại rồng vàng ba ngón bốn vuốt đặc trưng của Trung Quốc, rất thịnh vào thời Tống, Liêu, Kim, Nguyên. Liên tưởng đến việc chùa Đại Quảng Tế được khởi công xây dựng vào đời Liêu, nơi cậu đặt người chiến sĩ ở vị trí tương ứng trong bức tranh, tôi dám khẳng định rằng, cậu có được tấm gỗ hồng mộc nhờ cơ duyên nào đó khi khảo sát tại đây.

      Tổng hợp hai điểm , tôi có thể đưa ra kết luận sơ bộ như thế này: Cậu và số người nào đó trong tổ sáng tác có được tấm gỗ trong chùa Đại Quảng Tế hoặc trong Cổ Tháp. ai biết họ phát ra bí mật gì trong đó, chỉ biết họ hề báo cáo lên cấp thầm cất giấu. Theo lô-gic thông thường, trong tay những người kia chắc cũng phải có thứ tương tự, hơn nữa đôi bên có thề ước nào đó nên tất cả đều giấu kín trong lòng, chưa bao giờ tiết lộ ra bên ngoài.

      Có thể đó là bí mật động trời mà cậu luôn cất giấu trong lòng, vì thế đầu tiên là giấu tấm gỗ vào trong vách tường nhà, sau đó để lại manh mối ở hai bức tranh lớn , trước khi ra , trong lòng cậu vô cùng mâu thuẫn nên cầu người nhà đốt hết tất cả. Lúc này, lời thề năm đó mất hiệu lực, đàm người kia chắc do nóng lòng muốn có được tấm gỗ hồng mộc trong tay cậu nên ra tay bằng mọi giá.

      Sau khi đưa ra kết luận, tôi tiến hành chứng minh bằng các luận chứng, và thấy rằng đây là kết luận duy nhất hợp lý có được sau hàng loạt điều tra từ những dấu vết sót lại. Vậy tiếp theo tôi có hai lựa chọn: là tìm đến các hoạ sĩ cũng tham gia sáng tác tranh hồi đó để làm chân tướng, tìm ra hung thủ; hai là dò la những nghệ nhân dân gian nhờ họ giải mã giúp bí giấu trong tấm gỗ hồng mộc.

      Nghĩ vậy, tôi nghĩ thầm, chịu đựng bao ngày, xem ra đến lúc rời khỏi Cẩm Châu rồi.

      Thời điểm đó gần cuối năm, thời tiết ngày lạnh nên phải mặc nhiều áo đơn hơn, cơ thể trông nặng nề đồ sộ, có chút ra dáng bà bầu. Nghĩ đến thiên thời địa lợi nhân hoà, thời cơ chín muồi, tôi định sẵn ngày rời là vào dịp tết Nguyên đán, để đám người kia trở tay kịp. Tôi tin bọn chúng muốn đoàn tụ với gia đình.

      Buổi tối trước hôm lên đường, tôi bắt chiếc xe taxi đến bệnh viện quân đội 205 thăm mẹ.

      Ba ngày trước mẹ tôi mới làm phẫu thuật mổ hộp sọ, lấy ra lượng máu đông cực lớn trong não, tại vẫn chưa ổn định, vẫn trong trạng thái hôn mê sâu. Tôi ngồi chếch bên giường, nắm đôi tay lạnh ngắt, nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng bệch của mẹ, vừa đau lòng vừa lo lắng. Cứ nghĩ đến ngày mai lên đường xa, con đường phía trước nguy hiểm khó lường, nước mắt tôi cứ thế trào ra ngăn nổi.

      Bố tôi kéo ghế ra ngồi sát bên tôi, liên tục thở dài. Bởi mãi chẳng có thông tin gì sáng sủa, bố ngày càng tiều tụy, lưng còng trông thấy, chỉ mấy ngày gặp như già mấy chục tuổi.

      chuyện với bố vài câu, tôi đưa cho ông cái tấm thẻ ngân hàng trong đó có số dư tiền bán nhà cậu, ấp a ấp úng :

      - Bố! Mẹ bệnh nặng, bố thể rời mẹ lúc này được. Con liên hệ với người bạn ở tỉnh ngoài, định đến đó sinh con, nhân tiện cũng muốn thư giãn chút.

      Nghe tôi vậy, bố ngẩng đầu lên, ngạc nhiên nhìn tôi và :

      - Vi Vi, con…con… thế… thế làm sao được?

      Tôi dám thêm điều gì, cố gượng cười, gật mạnh đầu thể quyết tâm của bản thân.

      Bố nhìn tôi hồi lâu, trong mắt tràn đầy vẻ đau khổ. Ông khẽ thở dài, nhận lấy tấm thẻ ngân hàng, nhét vào trong túi áo ngực. lát sau, ông đột nhiên kéo tay tôi :

      - Thôi được, Vi Vi, nếu con quyết định như vậy, bố cũng ngăn cản, nhưng… con nhất định phải chăm sóc tốt bản thân, tuyệt đối đừng làm điều gì dại dột.

      Người ta bố vẫn luôn hiểu con , bố tôi quả nhiên đoán được ý đồ của tôi, câu đó của ông càng khiến tôi thấy thêm tội lỗi, nếu phải do phút bốc đồng thiếu suy nghĩ của tôi đâu đến nỗi rơi vào cảnh nhà tan cửa nát hôm nay. Càng nghĩ tôi càng thấy đau buồn, thể kìm nén được lòng mình, tôi ôm chặt lấy bố khóc tức tưởi.

      Bố vỗ lưng dịu dàng an ủi tôi. Đợi khi tôi nín khóc, bố khẽ đẩy tôi ra, lấy từ trong túi áo ngực ra chiếc đồng hồ, nhét vào trong tay tôi và :

      - Cái này cho con.

      Mặt đồng hồ làm bằng thép trắng, dây đeo bằng da màu nâu, kiểu dáng cũ, vỏ ngoài chằng chịt vết xước,mặt kính còn bị nứt đường, kim cũng ngừng quay; nhìn có vẻ quen quen nhưng nhất thời nhớ ra được nhìn thấy nó ở đâu.

      Bố thở dài, trầm lạng tiếp:

      - Cậu con suốt thời gian đổ bệnh có tỉnh táo lại lúc, đưa chiếc đồng hồ Enicar này cho mẹ con, còn dặn dặn lại nhất định phải để cho con. Sau đó bố nghe mẹ con , chiếc đồng hồ này do vị thủ trưởng cũ trong quân đội tặng cho cậu năm cậu tham gia sáng tác bức tranh panorama, là loại đồng hồ Enicar Thuỵ Sĩ rất phổ biến thời đó. Con hãy nhận lấy, đừng phụ lòng kỳ vọng của cậu.

      Tôi chợt thấy nhói lòng, hoá ra cậu vẫn luôn nhớ đến tôi. Tôi liền tháo chiếc Longines ra cẩn thận đeo chiếc Enicar vào tay, nghẹn ngào :

      - Bố, con biết rồi, bố yên tâm .

      Bố mỉm cười, nhìn tôi âu yếm, mãi lâu sau mới lên tiếng:

      - Con , đừng lo nghĩ đến mẹ con, ở nhà có bố. mình con ở ngoài, phải hết sức cẩn thận, chăm sóc tốt cho bản thân con nhé!

      Tôi lau nước mắt, gật đầu lia lịa, chào tạm biệt bố, rồi vừa bước vừa ngoái đầu lại cho đến lúc ra khỏi phòng bệnh.

      Quay trở về nhà, tôi đặt báo thức trong điện thoại, cắm dây sạc pin, rồi chẳng buồn thay quần áo lao luôn lên giường, nắm chặt chiếc đồng hồ tay, nước mắt ướt nhoà, nhìn lên trần nhà khóc thành tiếng.

      Cả đêm đó tôi mất ngủ, trong đầu rối như mớ bòng bong, cũng chẳng hiểu mình nghĩ gì, mãi đến khi trời tảng sáng, chống cự lại được cơn buồn ngủ, tôi mới mơ màng chợp mắt được nửa tiếng.

      Buổi sáng, tôi lục lấy chiếc áo jacket ngắn bằng da màu đen mà bình thường ít khi mặc, bọc gọn tấm gỗ hồng mộc, nhét vào giữa đống vải quấn bụng, đem theo toàn bộ giấy tờ tuỳ thân và tiền bạc, bắt taxi đến bệnh viện phụ sản thành phố.

      Khi đẩy cánh cửa lớn ở sảnh bệnh viện, nhờ hình ảnh phản chiếu trong tấm kính, tôi nhìn thấy rất trong sân có hai người đàn ông mặc áo bông màu xám vờ hút thuốc, mắt ngừng liếc theo tôi.

      Tôi hắng giọng lạnh lùng, thầm bye bye rồi nặng nề bước vào sảnh lớn, xếp hàng lấy số, sau đó hai tay chống hông, từ từ bước vào nhà vệ sinh nữ tầng hai. Cho dù chúng có gan to cỡ nào cũng dám theo vào đến tận nhà vệ sinh nữ.

      Tôi vào phòng, chốt cửa lại, áp tai vào cửa lắng nghe đọng tĩnh bên ngoài. Trong nhà vệ sinh im phăng phắc, chỉ có tiếng nước tách tách từ bồn nước bị rò đầu. Khi xác định chắc chắn có ai, tôi thở phào vội vàng cởi cúc áo, tháo những thứ buộc quấn quanh bụng ra, rồi chẳng quan tâm đến sạch bẩn, tôi vạch đám giấy trong thùng rác ra nhét hết vào, sau đó khoác chiếc áo jacket da, cài tấm gỗ vào sau lưng.

      Tôi rút điện thoại ra nhìn đồng hồ, 9 giờ rưỡi, vừa kịp lúc. Tôi chuyển điện thoại sang chế độ yên lặng, bỏ vào chiếc túi ni lông, buộc chặt miệng túi, mở nắp bồn nước rồi từ từ xối nước dìm xuống. Tối qua tôi sạc đầy pin, ít nhất có thể đủ dùng trong năm sáu ngày tới, đến khi cảnh sát phát ra tôi bỏ trốn, muốn định vị bằng sóng điện thoại cứ tha hồ đến bệnh viện mà tìm.

      Thấy mọi việc sắp xếp ổn thoả, tôi lấy tay vỗ vỗ ngực để giữ bình tĩnh, bước ra khỏi phòng vệ sinh, mở cửa sổ, gác chân nhảy lên bệ cửa, lách người trèo ra ngoài, ôm lấy ống thoát nước dọc tường, từ từ tụt xuống bãi đỗ xe phía sau toà nhà.

      Liên tục mấy tháng trời ngụy trang và quan sát cẩn thận giúp tôi nhận ra những kẻ theo dõi buông lỏng hơn nhiều, những giảm số người theo dõi mà chúng còn nghĩ đến việc phái sẵn người theo dõi phía sau bệnh viện.

      Tôi đứng yên tại chỗ, nhìn ngó xung quanh, nhận thấy có gì bất thường, liền chầm chậm rời khỏi bãi đỗ xe trước con mắt ngơ ngác của mấy người lấy xe, sau đó chui vào chiếc taxi chờ khách ven đường, thẳng đến nhà ga.

      Trước đó, tôi lên mạng tra lịch trình chạy tàu, biết sắp có chuyến tàu K7341 chạy từ ga Sơn Hải Quan, qua Cẩm Châu đến Thẩm Dương. Sở dĩ tôi lựa chọn bỏ trốn bằng ô-tô là do ô-tô đông người, nếu tôi vẫn bị bám theo, thậm chí có thể xảy ra ẩu đả tiện thoát thân.

      Từ taxi bước xuống, chiếc đồng hồ lớn nóc toà nhà chính ở nhà ga vừa chỉ đúng 10 giờ 15 phút, loa phát thanh phát thông báo, nhắc nhở hành khách chuyến tàu K7341 bắt đầu vào ga soát vé, đoàn tàu cách giờ khởi hành chưa đến mười phút.

      Tôi băng qua đường, xong vào sảnh bán vé, mua vé rồi vội vàng chạy vào phòng chờ tàu, hoà lẫn giữa đám đông hành khách, cố giữ bình tĩnh, chầm chậm bước vào sân ga, leo lên tàu.

      Ít phút sau, tiếng còi tàu hú vang, đoàn tàu rung mình lắc mạnh cái rồi từ từ chuyển bánh. Trong lòng tôi dâng lên cảm giác xót xa, nhớ đến bố mẹ, nhớ đến cậu, nhớ đên La Viễn Chinh và Phùng Siêu, chẳng biết bao giờ tôi mới được về nhà, thậm chí còn có thể về nhà được nữa hay .

      Tôi thở dài lắc đầu, nhìn ra ngoài cửa sổ, từng giọt nước mắt lăn dài gò má.

      Đoàn tàu lao nhanh khỏi sân ga, những tia nắng chiếu qua cửa sổ rọi thẳng vào mặt tôi, tuy ấm áp nhưng có cảm giác chói mắt. Tôi nheo mắt lại, nhìn thành phố Cẩm Châu mỗi lúc xa, mờ dần trong những giọt nước mắt, nỗi đau dâng lên trong lòng.

      Do tâm trạng vô cùng buồn chán, tôi chỉ ngồi khoanh tay dựa lưng vào thân tàu, nhắm mắt tĩnh tâm. Dưới chân là tiếng bánh xe va vào đường sắt tạo ra nhịp lắc đều đều, bên tai là tiếng người ầm ĩ trong toa tàu, tôi cảm thấy trong đầu như có cây lim đâm vào từng dây thần kinh đau nhói. Sau hơn hai tiếng đòng hồ, đoàn tàu chạy chậm dần, cuối cùng tiến vào sân ga Thẩm Dương. Nghe theo thông báo, tôi mới bừng tỉnh, vội xuống tàu, theo dòng người đông đúc ra khỏi sân ga.

      Đứng mình giữa quảng trường nhà ga Thẩm Dương, từng đoàn hành khách vội vã lướt qua tôi. Nhìn khung cảnh lạ lẫm xung quanh, tôi cắn chặt răng, nhủ thầm trong bụng: Ta đến, ta nhất định tìm ra các người! Sau đó, tôi gọi chiếc taxi thẳng đến chợ điện tử phố Tam Hảo khu Hoà Bình, mua chiếc điện thoại mới và thẻ sim Thần Châu trả trước.

      Thẩm Dương là thành phố trực thuộc tỉnh, phồn hoa hơn Cẩm Châu rất nhiều, khắp nơi đều thấy những toà nhà chọc trời, đường xe cộ nườm nượp, người người lại như mắc cửi. Ở đây tôi thông thuộc địa hình, đường phố cũng nhớ tên, nếu đơn độc chiến đấu chắc chắn thua thiệt, cần phải tìm người dân bản địa hướng dẫn, hỗ trợ mới được. Tôi có vài bạn học hồi còn ở trường cảnh sát, quan hệ cũng rất tốt, nhưng lúc này tôi chịu án, lại bỏ trốn, sao dám tìm ai chứ?

      Tôi ngồi ghế đá ven đường, sàng lọc trong đầu từng người quen. Chợt tôi nhớ đến người, nếu có gì bất trắc đây chắc chắn là lựa chọn tốt nhất.

      Tôi hào hứng rút điện thoại ra, thử gọi cho bạn học Tang Giai Tuệ, cũng là người bạn tốt nhất của tôi đời này, công tác tại tổng đội trinh sát hình Sở Công an tỉnh.

      đen đủi, điện thoại của Tang Giai Tuệ lại tắt máy. Tôi thấy thất vọng, bởi lẽ trong nghề cảnh sát hình của chúng tôi, sợ nhất là khi xảy ra án mà liên lạc được, vì thế quy ước ngầm đó là phải mở máy 24/24 giờ. Nếu có chuyện gì đặc biệt nhất thiết được tắt máy, để đề phòng máy hết pin, bình thường còn phải đem theo pin dự phòng nữa.

      Tôi suy nghĩ hồi lâu, vẫn can tâm chịu thua, lại gọi tiếp cho tổng đội trinh sát hình , dối là người nhà của Tang Giai Tuệ, bảo ở nhà có việc gấp nhưng liên hệ được với ấy. Người nhận điện thoại thông báo cho tôi biết mấy ngày trước Tang Giai Tuệ ngoại tỉnh phá án, vẫn chưa về, hẹn tôi hôm khác gọi lại.

      Cúp điện thoại xong, tôi thở dài thườn thượt, thầm trách phận đen đủi, tình hình này đành dựa vào chính mình thôi.

      Tôi đứng dậy, quay đầu nhìn quanh tứ phía, đường dòng người lại nườm nượp, tuy ai nhìn tôi, nhưng hình như tất cả đều giám sát tôi. Tôi chột dạ, vòng tay ra sau chạm vào tấm gỗ hồng mộc dắt sau thắt lưng, quyết định trước tiên cần tìm nơi an toàn để cất giấu , nếu lúc nào cũng đem theo bên người, cho dù đánh mất cũng gây bất tiện cho hành động của tôi.

      Tôi nghĩ tốt nhất nên mua ngăn bảo hiểm ở ngân hàng, bèn kéo tay người đường hỏi thăm. Người đó cho biết gần đây có ngân hàng Kiến Thiết, ở chếch phía đối diện với Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, sát ngay chợ đồ cổ Lỗ Viên.

      Nghe thấy Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn ở ngay gần đó, tôi ngẩn người, tim đập loạn xạ, cảm xúc dâng trào. Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn chỉ là trường cũ của cậu tôi, mà hồi sáng tác tranh panorama, rất nhiều học giả và hoạ sĩ nội tiếng của ngôi trường này cũng tham gia. trong những mục đích chuyến lần này của tôi chính là tìm gặp họ để điều tra.

      Cảm ơn người đường xong, theo chỉ dẫn của ta, tôi băng qua các ngõ phố, đến học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn. Trông thấy có bảo vệ ở cổng, xuất phát từ tinh thần cảnh giác cao độ, tôi dám xông vào trong, chỉ đứng dưới gốc cây đối diện, lặng lẽ quan sát, tính xem làm thế nào để trà trộn vào.

      Cổng trường liên tục có sinh viên ra ra vào vào, khuôn mặt các em đều rất trẻ trung tươi tắn, khiến tôi nhớ lại cậu tôi hồi trẻ. Mải nhìn, chợt tôi bất giác thấy hoảng hốt, ánh mắt mờ hẳn , hình như tôi vừa nhìn thấy người con trai, cắp tấm ván vẽ dưới nách, mỉm cười bước nhanh về phía tôi. Dáng vẻ đó, cách ăn mặc đó giống hệt như cậu tôi thời trẻ, lại có vẻ giống như người chiến sĩ trong bức tranh.

      Tiến gần thêm, tấm ván vẽ dưới nách cậu ta như hoá thành tấm gỗ hồng mộc, phát ra ánh sáng mờ mờ dưới ánh nắng mặt trời.

      Tôi thấy hơi run, căng mắt nhìn kỹ, giữa ban ngày trời sáng, mọi thứ vẫn y nguyên.

      Nghĩ lung tung hồi lâu, cuối cùng tôi cũng từ bỏ ý định vào trường, lắc đầu thở dài đến ngân hàng Kiến Thiết ở chỗ đầu lối rẽ. Vừa định đẩy cửa bước vào, tôi chợt nhìn thấy chợ đồ cổ Lỗ Viên ở bên cạnh, tim tôi đập mạnh, tại sao tìm người am hiểu giám định tấm gỗ, xem bên trong nó rốt cuộc giấu bí mật gì?

      Chợ đồ cổ Lỗ Viên là khu chợ đồ cổ lớn nhất vùng Đông Bắc, diện tích rất rộng, có thể sánh ngang với chợ Phan Gia Viên ở Bắc Kinh, trục chính là con phố dài, hai bên là các cửa hiệu san sát, cao có thấp có, cột kèo chạm trổ, hoành phi bắt mắt, tất thảy đều mô phỏng theo kiến trúc Minh Thanh. Tuy hôm đó phải cuối tuần, nhưng người đến chợ vẫn đông nghịt, vô cùng nhộn nhịp.

      Tôi dọc con phố bộ, nhìn quanh ngó quất tìm kiếm rất lâu, cuối cùng chọn được cửa hàng phía ngoài trông cổ kính nhất có tên Hội Bảo Trai và đẩy cửa bước vào.

      Thấy có người vào, chủ cửa hàng liền tươi cười ra, nhiệt tình chào hỏi. Đó là ông già hơn bảy mươi tuổi, bộ râu trắng muốt, mặc bộ áo dài bông màu xanh thẫm, tay cầm ấm trà đất, trông rất giống dáng vẻ của ông tiên.


      Lúc đó cửa hàng có khách, tôi nhận thấy đây là cơ hội hiếm có, liền rút tấm gỗ hồng mộc ra, dối là của tổ tiên để lại, nay cần tiền gấp, muốn nhờ ông ta giám định giúp, sau đó rút luôn hai trăm tệ để gửi tiền công.

      Ông lão đặt ấm trà xuống, vuôt vuốt chòm râu, gật đầu cười ha ha, ông gạt tay tôi, đây chỉ là chuyện . Sau đó ông đeo cặp kính lão vào, nhấc tấm gỗ lên, nheo mắt tỉ mẩn ngắm nhìn. Ngắm nghía khoảng chừng năm sáu phút, ông lão ngẩng đẩu lên, ánh mắt sáng ngời, liên mồm đây là vật báu hiếm có, lưu luyến ngắm vuốt lúc lâu mới chậm rãi bảo tôi: Đây là loại gỗ hồng mộc cực hiếm ở dãy núi Stanovoy[1]. Theo kinh nghiệm của ông, có lẽ nó có lịch sử dưới nghìn năm. Hình chạm rồng bề mặt đúng là được chạm khắc bằng kim, nhưng gỗ hồng mộc vốn rất cứng, thua kém gì gang hay đá, thực thể tưởng tượng được người ta chạm khắc nó như thế nào. Màu đỏ thẫm xung quanh lỗ kim là loại sơn dầu có tính thẩm thấu cao, ngấm sâu vào thân gỗ. vẫn chưa nhận ra tấm gỗ có ý nghĩa gì, nhưng căn cứ vào độ tinh xảo, rất có thể nó được lấy ra từ thứ đồ trang trí thời cổ nào đó, chắc chắn có giá trị lưu giữ rất cao. Nghe ông lão vậy, đầu óc tôi chợt trở nên u mê, tấm gỗ nghìn năm lịch sử hiếm gặp xuất đời, bên còn chạm khắc hình rồng kỳ quái, cảm giác thay đổi quá lớn, nó cách quá xa so với thực, việc có vẻ ngày càng trở nên phức tạp rồi.

      [1] Dãy núi Stanovoy hay còn gọi là Ngoại Hưng An Lĩnh là mốc biên giới tự nhiên giữa Nga và Trung Quốc.

      Thấy tôi mãi mở lời, ông cụ cứ tưởng tôi suy nghĩ, hỏi lại có đồng ý bán hay , còn sẵn sàng trả giá cao để mua lại. Tôi lắc đầu bịa ra lý do để từ chối, sau đó cầm tấm gỗ rời khỏi cửa hàng.

      Tôi đút hai tay vào túi áo, bước vô định phố, trong bụng thầm nghĩ: Nếu tấm gỗ cách tại cả nghìn năm lịch sử, hơn nữa lại được lấy từ núi Stanovoy, như vậy nó đúng là vào thời nhà Liêu Trung Quốc rồi. Theo những gì tôi khảo chứng trước đó, nhà Liêu khởi nguồn từ Đông Bắc, từng hưng thịnh thời, hoàng cung và gia đình quý tộc sùng bái đạo Phật, chùa Đại Quảng Tự và Cổ Tháp Cẩm Châu đều do người Liêu xây dựng, xem ra tấm gỗ này rất có thể của người Liêu để lại. Nhưng điều khiến tôi thể lý giả được là cậu phát ra nó như thế nào? Có lẽ cậu tìm ra nó bên trong Cổ Tháp ở lần khảo sát thực địa năm đó?

      suy nghĩ, bỗng nhiên từng đám mây đen nặng trĩu bay ngang đầu, mặt trời bị các tầng mây che khuất, bầu trời dần tối sầm lại, trung lất phất những hạt tuyết theo gió bấc luồn lạo xạo vào trong cổ áo, rồi nhanh chóng hoá thành nước chảy xuống, lạnh đến run người.

      Tôi lắc mạnh đầu, hai tay túm chặt cổ áo, ngập ngừng nhưng rồi cũng quyết định gửi tấm gỗ vào ngân hàng, sau đó tìm nhà nghỉ để ở lại. Quay người rảo bước đến đầu phố, định đưa tay ra vẫy xe, chợt cửa hiệu thu hút ánh nhìn của tôi. Thực ra bề ngoài cửa hiệu trông rất bình thường, hề nổi bật so với các cửa hiệu khác, nhưng hai bên cửa chính lại treo đôi câu đối “ Hoạ long hoạ hổ nan hoạ cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm”, câu đối này khiến tôi vô cùng tò mò.

      Tôi dừng bước dưới bậc thềm, khoanh tay ngắm nhìn hàng giờ, bỗng nhiên nhớ đến bức thư pháp treo trong phòng khách nhà cậu, chẳng phải chính là vế đầu câu đối này hay sao? Ngẩng đầu ngắm kỹ tên cửa hiệu, là bốn chữ Khải to, màu đen, được khắc tấm biển gỗ màu nâu: Hiệu xăm Tiểu Đường.

      Nhớ ra bức tranh da người của cậu, tôi liền dứt khoát bước lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào.

      Luồng khí nóng trong phòng ập tới ấm áp tựa mùa xuân, cùng mùi hương phảng phất hơi giống mùi đàn hương, mang lại cảm giác khoan khoái lan toả khắp người. Nhìn quanh thăm dò, tôi thấy diện tích tổng thể lớn lắm, chỉ khoảng hơn mười mét vuông, tất cả đồ gia dụng đều làm bằng gỗ trắc chạm khắc tinh tế, tạo hình sang trọng, đậm đà phong thái cổ kính. Phía trong có chiếc bàn bát tiên, bên cạnh bàn có hai người quay lại nhìn tôi.

      Trong đó, người là gã trạc ba mươi tuổi, dáng người vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, mặt mũi dữ tợn, mày trơn mắt , trông bộ dạng vô cùng hung dữ. Chiếc áo bông của gã vắt vai, tay áo sơ-mi xắn cao để lộ ra cánh tay phải cơ bắp cuồn cuộn.

      Bên cạnh đó là nhiều nhất cũng chỉ hai mươi tuổi, mặc chiếc áo len cao cổ màu hồng nhạt và chiếc quần bò màu xanh, eo thon, da trắng, cằm nhọn, nét mặt dịu dàng, trông đầy vẻ thanh tú. Nhất là đôi mắt phượng đen láy tinh nhanh, trông rất có hồn.

      Nhìn thấy vậy, tôi đoán ngay ra chính là chủ cửa hiệu, còn gã thanh niên là khách hàng chuẩn bị xăm mình. dám làm phiền, tôi chào câu, sau đó ra hiệu cho cứ tiếp tục công việc, sau đó ngồi lên chiếc ghế gỗ đỏ bên cạnh. Tôi chỉ thấy cầm hòn đá màu hồng hạt, xoa vài đường lên bắp tay của gẵ thanh niên, da liền xuất lớp bột màu đỏ nhạt, sau đó lấy chiếc lọ sứ màu lục nhạt, rút nút bấc, rót ra ít chất dịch dính như keo màu nâu vàng, lấy ngón trỏ chấm vào rồi bôi từng tí lên tay gã thanh niên.

      lấy tấm vải trắng lau sạch những giọt dung dịch chảy ra ngoài, lạnh lùng :

      - Hơi đau chút, nhưng hết ngay.

      Gã thanh niên ngẩng đầu nhìn , mặt đầy vẻ cung kính, giọng nịnh nọt:

      - Tiểu Đường, em cứ việc xăm thoải mái !

      đoạn, gã ta rút từ trong túi ra bao thuốc lá Trung Hoa mềm, gỡ lấy điếu thuốc ngậm vào miệng, lấy bật lửa chuẩn bị châm hút.

      Bỗng tên Tiểu Đường mặt biến sắc, đưa tay giật lấy điếu thuốc ném mạnh xuống dưới chân, giọng nghiêm nghị :

      - được hút thuốc!

      Gã trai nghệt mặt, nhếch mép cười gượng, hề tỏ ra tức giận, trái lại còn ngoan ngoãn cất bao thuốc và chiếc bật lửa vào túi.

      Tôi hơi ngạc nhiên, nghĩ bụng này tuổi còn trẻ nhưng tính khí quả vừa, gã thanh niên kia ràng là tay giang hồ thế mà lại ngoan ngoãn nghe lời như vậy.

      chiếc bàn bát tiên bày khá nhiều thứ, nào bình nào lọ đủ mọi màu sắc, phải tới mấy chục loại, trông có vẻ như bày biện lộn xộn, nhưng hình như chúng được sắp xếp theo quy luật đặc biệt nào đó. Trong đó có khối gỗ màu vàng nhạt, diềm ngoài khắc hình sóng cuộn cao khoảng hơn nửa phân, rộng bằng chừng nắm tay, trông giống như cái chặn giấy, bề mặt cắm chi chít các loại kim màu trắng bạc, to có có, dài có ngắn có.

      Tiểu Đường đưa tay phải ra, ngón tay thon dài trắng nõn, gạt nhanh giữa rừng kim giống như đánh đàn piano, thoáng chốc ngón tay xuất cây kim dài chưa đến ba cen-ti-mét. Động tác dù quá nhanh, nhưng tôi vẫn thể nhìn cách làm cụ thể của .

      Tiểu Đường khéo léo giữ chân kim, nhúng vào lọ sứ màu lục ngoáy tròn, khi rút cây kim ra, đầu kim chuyển màu xanh lam đậm sáng bóng.

      Tôi thấy khá thú vị, liền nhoai người ra phía trước, mở to mắt, muốn nhìn xem xăm hình rốt cuộc được làm như thế nào.

      Tiểu Đường dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp chặt chân kim, giơ thẳng trước mắt, lông mày hơi chau lại, chăm chú ngắm nhìn lúc, miệng lẩm nhẩm vài câu, sau đó cần nhìn, bất chợt đâm thẳng vào bắp thịt cánh tay của gã thanh niên, rồi lại nhanh chóng rút ra, sát ngay lỗ kim đầu tiên đâm tiếp mũi thứ hai…

      Vết kim châm da nhìn rất , màu sắc tươi tắn, nhưng tuyệt nhiên chảy chút máu nào.

      cứ thế đưa kim nhanh thoăn thoắt, cây kim như lướt mặt da. Tôi nhẩm tính ít nhất trong giây cũng châm được năm sáu mũi kim, cứ thế dán mắt vào quan sát. Khi mũi kim hơi nhạt màu, Tiểu Đường lại xoay tay cắm kim vào lọ sứ để chấm thêm mực rồi tiếp tục châm.

      Tiểu Đường làm việc hết sức nghiêm túc, tay như múa, chỉ sau năm ba phút cái đầu hổ sống động như , to bằng nắm tay, màu xanh đậm xuất bắp tay của gã thanh niên.

      Tiểu Đường lùi lại nửa bước, nghiêng đầu nheo mắt nhìn, miệng hơi nở nụ cười, có vẻ rất hài lòng. lại đổ thêm ít dung dịch màu vàng nâu vẩy lên hình xăm đầu hổ, xé tấm màng băng lại, xoa hai tay vào nhau nhàng :

      - Nhớ phải kiêng nước kiêng gió trong ba ngày, cũng được ăn thịt gia cầm và hải sản đâu đấy.

      Gã trai đứng dậy, cười ngậm nổi miệng, như thể nhận được món hời, gật đầu lia lịa cảm ơn Tiểu Đường, rút tiền thanh toán, mặc áo vào rồi đẩy cửa ra. Nhìn số tiền bàn chắc cũng phải hơn ba nghìn tệ. Tôi hít hơi, nghĩ bụng nghề này dễ kiếm tiền .

      Tiểu Đường thèm đếm lại, kéo ngăn kéo ra, vứt tiền vào, rồi lấy khăn mùi soa lau sạch cây kim, cắm luôn vào cục gỗ màu vàng nhạt.

      Tôi để ý hầu như cần nhìn mà vẫn cắm trúng phóc, ngay ngắn, đúng chỗ khe hở trong rừng kim. Cây kim bạc đứng thẳng, hề vướng vào những cây kim khác, cắm sâu quá nửa. Quả thực là do lực tay mạnh hay do thân gỗ mềm.

      mải suy nghĩ, Tiểu Đường bước đến trước mặt tôi, lạnh lùng hỏi:

      - Chào chị, chị đến xăm mình phải ?

      Bị hỏi bất ngờ, tôi buột miệng :

      - À… tôi… tôi rảnh rỗi đến xem tí thôi. – Vừa dứt lời, tôi mới thấy mình liều, đây chẳng phải cửa hàng siêu thị gì, ràng là bị thần kinh rồi.

      Tiểu Đường nhìn tôi chằm chằm, mím môi mỉm cười :

      - Vậy à, thế chị cứ thong thả xem nhé.

      rồi thèm để ý đến tôi, ra dọn dẹp đồ bàn, rồi lấy chiếc khăn mặt trắng ra lau tay.

      Tranh thủ lúc quay người treo khăn mặt, tôi bước nhanh đến trước bàn bát tiên, dùng ngón cái ấn mạnh vào cục gỗ vàng nhạt, chỉ thấy cứng ngắc như đá, hề lưu lại dấu vết gì.

      Tôi bắt đầu nghi ngờ, khó tưởng tượng nổi mảnh mai thế này mà bàn tay lại có sức mạnh ghê gớm đến thế. Trong thoáng chốc, đầu tôi nảy ra suy nghĩ táo bạo, nếu Tiểu Đường huy động hết sức lực, liệu có thể chọc thủng tấm gỗ hồng mộc hay ?

      Tôi quay ra cửa nhìn, nghĩ ngợi lúc liền quyết định vòng tay ra sau lưng rút tấm gỗ hồng mộc, nhàng đặt lên bàn, khẽ :

      - Em à, em… em xem cái này…

      Tiểu Đường vừa liếc nhìn qua gật gật đầu, lạnh nhạt lên tiếng:

      - Tuyệt đấy, châm pháp tốt, đúng kiểu “lưu thuỷ miên diên, nhập mộc tam phân” (mềm mại như nước chảy, mà sâu vào gỗ đến ba phân).

      Tuy hết sức thản nhiên, nhưng tôi nghe như sấm nổ bên tai, ngờ hình rồng tấm gỗ đúng là được khắc bằng kim, có vẻ như Tiểu Đường cũng biết chút về gốc rễ vấn đề. Xem ra đúng là “ mòn gót giày tìm chẳng thấy, đến khi tìm thấy chẳng tốn công”, lần này vô tình tìm đến đây lại hoá ra tìm đúng chỗ.

      Nghĩ vậy, tôi liền vòng qua bàn, đứng trước mặt Tiểu Đường, vội hỏi:

      - Em à, em… em những hoa văn này được khắc bằng kim đúng ?

      Tiểu Đường nghiêng đầu nhìn tôi, chớp chớp mắt rồi đột nhiên lấy tay che miệng cười sằng sặc:

      - Dạo này thú vị đấy, đầu tiên là có người đem đến chiếc khay sứ, bây giờ đến lượt chị lại đem đến tấm gỗ hồng mộc, mà lại đều là… - Ngừng lát, lại mỉm cười hỏi. – Chị à, chị phải cũng là cảnh sát đấy chứ?

      vừa cuòi vừa như vậy, thấy đâu vẻ lạnh lùng khi nãy mà chỉ giống như bé mới lớn chưa hiểu đời. Tuy nhiên mấy câu ấy khiến tôi rối trí, gì mà khay sứ bát sứ chứ, trán tôi cũng chẳng khắc chữ nào, sao ta lại đoán ra thân phận của tôi? Nhưng đến khi tôi hỏi lại Tiểu Đường lại chẳng gì, chỉ cười cười đưa mắt nhìn tôi thăm dò.

      Tôi gặng hỏi hồi lâu, thậm chí còn móc tiền ra nhưng Tiểu Đường vẫn chỉ mỉm cười . Tôi đành nhặt tấm gỗ lên, rồi ra về.

      Tôi mua ngăn két tại ngân hàng Kiến Thiết gần đó, cất cẩn thận tấm gỗ rồi tìm nhà nghỉ cần đặt chứng minh thư, tạm thời nghỉ lại.

      Đêm đến, tôi nằm giường, hai tay gối đầu, nhìn chăm chăm lên trần nhà suy nghĩ. Tường nhà nghỉ cách tốt, bên ngoài khá ồn, thỉnh thoảng lại có ánh đèn xe rọi qua cửa sổ, hắt bóng lên trần nhà thành những hình thù biến dạng nhảy nhót giống như bức tranh kỳ quặc.

      Tôi thấy buồn ngủ, trong bụng cứ đoán già đoán non, tên Tiểu Đường quả là có gid đó rất đặc biệt, ràng ta nhận ra điề gì đó từ tấm gỗ, thậm chí còn đoán được cả thân phận của tôi, nhưng tại sao lại cho tôi bí mật chứa trong tấm gỗ? Mặc dù đoán ra được, nhưng tôi nhất quyết bỏ qua manh mối có trong tay, ngày mai tôi lại tìm ta, bất luận thế nào, dù có phải chặn đường đón ngõ, tôi cũng phải hỏi cho ra vấn đề.

      Sáng sớm hôm sau, tôi dậy từ rất sớm, bắt taxi quay lại chợ đồ cổ Lỗ Viên, nhưng cửa hiệu xăm Tiểu Đường cửa đóng im ỉm, còn chắn cả bức rào sắt nữa.

      Tưởng mình đến sớm quá, cửa hiệu chưa mở cửa, tôi liền dạo quanh chợ đồ cổ, thỉnh thoảng lại quay trở lại để xem thử thế nào, nhưng đợi mãi đến tận khi trời tối, vẫn thấy cửa hiệu mở cửa, tôi đành buồn bã trở về.

      Chờ đợi ngoài cửa hiệu ba ngày liền, vẫn hề thấy bóng dáng Tiểu Đường, tôi đâm sinh nghi, bất giác nghĩ liệu có phải hung thủ giấu mặt kia phát thấy tôi đến cửa hiệu xăm, tưởng là Tiểu Đường có quen biết tôi nên giết người diệt khẩu.

      Nghĩ vậy, tôi thấy vô cùng áy náy vì mình lại phạm phải sai lầm lớn, hung thủ giấu mặt sau khi phát ra tôi mất tích, kiểu gì cũng đoán ra tôi đến Thẩm Dương, biết chừng theo dõi tôi từ trước. Thế nhưng tại sao chúng ra tay trực tiếp với tôi mà cứ liên tục làm gián đoạn quá trình điều tra, điều này khó hiểu.

      Cứ nghĩ đến Tiểu Đường, tôi lại day dứt, tài năng như thê, nếu quả thực bị hạ độc thủ chỉ vì trót gặp gỡ tôi đáng tiếc. Trong thâm tâm tôi thầm cầu nguyện cho ấy bình an vô . Nhưng mặt, tôi lại thấy mình thế lực đơn độc, nay lại bị theo dõi, cứ thế này những vô cùng nguy hiểm mà còn thể triển khai được các hướng điều tra, nhất định phải tìm cho được người trợ giúp.

      Ôm ấp hi vọng, tôi lại nhấc máy gọi thử cho Tang Giai Tuệ, lần này bạn bắt máy.

      Nghe thấy giọng của tôi, Tang Giai Tuệ vô cùng ngạc nhiên, hỏi tôi sao lại dùng đầu số của Thẩm Dương, có phải đến đây phá án , lại còn trêu rằng, vụ án nhất định phải rất lớn, nếu chẳng mất công đích thân phó đội trưởng của chúng ta xuất mã.

      Tôi cười gượng gạo, nghĩ thầm chính tôi mới sắp bị sử có, liền kể sơ qua cho Tang Giai Tuệ nghe loạt những gì xảy ra gần đây và tình cảnh nay, hi vọng ấy có thể giúp đỡ.

      Đầu dây bên kia, Tang Giai Tuệ im lặng hồi lâu, mãi sau mới lẩm bẩm :

      - việc kỳ quặc quá, hoá ra là cậu, tại sao lại xuất … - Ngừng lát, Giai Tuệ đột nhiên . – qua điện thoại tiện, Tiêu Vi, cậu đến ngay nhà tớ nhé, có thể có thứ khiến cho cậu thấy hứng thú đấy.

      Lúc đó tôi ngàn lần thể ngờ tới, cái thứ mà tôi thấy hứng thú ấy những liên Quan Âmật thiết đến Tiểu Đường mà hơn nữa thực chứa đằng sau nó càng thần bí phức tạp gấp ngàn lần, số phận tương lai của tôi từ đây cũng gắn chung số phận với đội Tang Giai Tuệ. Tất nhiên, tất cả đều là chuyện sau này.

    3. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 7: Truyền nhân của Mặc môn

      Tiểu Đường gật đầu, đứng dậy đến ngồi bên cạnh tôi, nhàng giảng giải: Xăm hình hồi đầu gọi là Thích Thanh (xăm hình bằng mực xanh), bắt nguồn từ Trung Quốc với lịch sử kéo dài hơn 3500 năm. Loại hình này dùng trong các hình phạt xưa, gọi là Mặc hình; tức là dùng kim và mực khắc chữ hoặc biểu tượng đặc biệt lên mặt tội phạm, để chúng mãi mãi ghi nhớ tội danh mình phạm phải.

      Cảnh sát hình chúng tôi hàng ngày phải xông pha khắp nơi phá án, vợ chồng thường xuyên xa cách, có thời gian lo liệu việc nhà. Lâu dần, mâu thuẫn ngày càng nhiều, tình cảm phai nhạt, hôn nhân cũng vì thế rất dễ rơi vào tình trạng báo động đỏ. Tang Giai Tuệ giống tôi, cũng là người rất đam mê công việc, làm việc gì cũng đều hết mình hết lòng. Hai năm trước, sau khi ly hôn, chồng cũ nhận quyền nuôi con, còn sống mình tại khu tập thể gần sở công an tỉnh. Khi tôi đến dưới chân khu tập thể, Giai Tuệ đứng đợi ở cổng từ lâu.

      Đất khách gặp người quen, nhất là tình cảnh của tôi nay người thân thích, hoàn cảnh khó khăn, gặp được người bạn thân nhất thế này thực buồn vui đan xen lẫn lộn. Hai chúng tôi hẹn mà cùng nắm chặt tay nhau, tình cảm chân thành nét mặt.

      Tang Giai Tuệ cho tôi biết thời gian vừa qua rất bận, mới đây lại vừa Thiết Linh điều tra chuyên án của sở, nửa đêm hôm qua mới về đến Thẩm Dương. Sau khi nhận điện thoại của tôi, ấy lập tức liên hệ với tổng đội để dò hỏi, mới hay biết tôi xảy ra chuyện lớn như vậy.

      Thấy tôi mặt mày ủ rũ, Tang Giai Tuệ :

      - Tiêu Vi, cậu cũng đừng sốt ruột, tình cảnh nay tuy có khó khăn nhưng mọi việc rồi cũng qua thôi. Đúng rồi, tớ có thứ muốn cho cậu xem, nhất định cậu hứng thú với nó đấy.

      Tôi thở dài, cố gượng cười, :

      - Cách cách à, cậu phải an ủi tớ đâu. Tớ bây giờ lo liệu được cho bản thân còn hứng thú với thứ gì nữa cơ chứ?

      Tang Giai Tuệ mỉm cười, ôm lấy vai tôi:

      - Trong cậu sầu não chưa kìa, chẳng giống phong cách thường ngày của cậu tí nào. thôi, mình lên nhà chuyện, tớ giới thiệu cậu với mấy người, đều là những nhân vật tài năng hiếm có.

      chiếc sô-pha da trong phòng khách có ba người ngồi: nam, hai nữ. Thấy tôi bước vào, họ liền đứng cả lên.

      Người đàn ông là ông già đen đúa, gày gò ốm yếu, tầm sáu bảy chục tuổi, tóc thưa điểm bạc, da mặt nhăn nheo, mắt to nhưng ánh mắt vô cùng tinh nhanh, người mặc bộ quần áo lụa màu đen, chân đôi giầy vải kiểu dáng cũ, trông toát lên vẻ ương ngạnh của tay giang hồ trong xã hội cũ. Người thứ hai là trẻ có gương mặt tròn, tóc tết bím, trông rất ngây thơ trong sáng, vai khoác chiếc túi xách bằng vải dù mà xanh đậm căng phồng; kỳ lạ ở chỗ mặc dù trong phòng rất ấm nhưng ta vẫn đeo đôi găng tay da mà đen. Người còn lại chính là Tiểu Đường – bé nghệ nhân xăm mình mà nhiều ngày nay tôi vẫn tìm, nhìn tôi cười láu lỉnh.

      Thấy tôi đứng ngây người ở cửa, Tang Giai Tuệ kéo tôi lại, lần lượt giới thiệu từng người : Ông già thó tên Hắc Lão Ngũ, là vua trộm khét tiếng vùng Đông Bắc; mặt tròn tên Sở Khinh Lan, là trưởng môn nhân đời thứ hai mươi chín Bắc phái Kiện môn của Trung Quốc; Tiểu Đường tên là Đường Nhã Kỳ, là thợ xăm nổi tiếng ở Thẩm Dương.

      Nghe giới thiệu xong, tôi ù hết cả tai, mãi vẫn chưa định thần được, gì mà vua trộm, gì mà Kiện môn, lại còn hai mươi chín đời nữa… Đóng phim chắc? Nhìn kiểu ăn mặc chẳng giống ai của họ, tôi lại càng nghi hoặc hơn, cảm giác như vừa bất ngờ rơi vào thế giới võ hiệp.

      Nghe Giai Tuệ giảng giải, tôi dần dần hiểu ra câu chuyện là như thế này:

      Tháng Tư năm 2009, viện bảo tàng Cố Cung Thẩm Dương tiến hành trùng tu sau mười năm hoạt động, các chuyên gia phát ra tấm kim loại khắc hình đôi rồng ngay dưới ngai vàng trong điện Sùng Chính. Sau khi dùng máy thăm dò, họ phát dưới tấm kim loại có khoảng rộng lớn, thể xác định được diện tích cụ thể của nó.

      Các chuyên gia khảo cổ dùng rất nhiều cách, nhưng thể mở được tấm kim lại Song Long đó. Sau nhiều lần thăm dò, họ chỉ có thể kết luận: Bao phủ toàn bộ diện tích phía dưới điện Sùng Chính là tấm kim loại lớn, gần như chạy khắp Cố Cung, và Song Long có lẽ là cánh cửa ngầm thông xuống địa cung. Thế nhưng cũng chính lúc này, những việc ly kỳ liên tiếp xảy ra, các chuyên gia khảo cổ tham gia quá trình khai quật đều lần lượt qua đời trong những vụ tai nạn thông thường.

      Qua điều tra của công an, có thể là lực lượng vô danh nào đó thầm cản trở công tác khai quật ở Cố Cung. Do tình tiết vụ án nghiêm trọng, lại có liên quan đên Cố Cung Thẩm Dương – di tích quan trọng của quốc gia nên Sở Công an khu vực Đông Bắc trực thuộc Bộ Công an cũng tham gia phá án.

      Lúc đó có người nhận ra tấm kim loại Song Long chính là ổ khoá vô cùng phức tạp, nên gợi ý mời Sở Kiếm Minh – bậc thầy mở khoá ở Trường Xuân để hợp tác điều tra.

      Sau khi Lão Sở mình vào điện Sùng Chính, ông ta biến mất đầy bí . Sau rất nhiều ngày tìm kiếm nhưng thấy tung tích ông ta, bất đắc dĩ tổ chuyên án lần nữa quay về Trường Xuân, tìm cháu của Sở Kiếm Minh, cũng chính là người duy nhất thừa kế kỹ thuật mở khoá của Bắc phái Kiện môn Sở Khinh Lan; rồi lại bằng những thủ tục hành chính đặc biệt, mời vua trộm khét tiếng vùng Đông Bắc Hắc Lão Ngũ ra khỏi trại giam cùng trợ giúp.

      Thế là ba người gồm Tang Giai Tuệ, Sở Khinh Lan và Hắc Lão Ngũ sau khi mở được chiếc khoá Song Long, cùng thâm nhập vào dưới lòng Cố Cung. Vượt qua rất nhiều thử thách, họ mở được ổ khoá cuối cùng và lấy được chiếc khay sứ Thanh Hoa đời vua Khang Hy.

      Cố Cung Thẩm Dương do Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng, nhưng bên trong lại tìm thấy chiếc khay sứ Khang Hy; hơn nữa, sau khi tiến hành khám nghiệm họ cũng loại bỏ được khả năng bị đánh tráo, khiến việc càng lúc càng trở nên phức tạp rối rắm hơn.

      Để tìm hiểu bản chất chiếc khay sứ, ba người bọn họ tìm đến trấn Cảnh Đức. Được giúp đỡ của lão nghệ nhân gốm sứ, họ phát ra bức tranh phong cảnh khay sứ Thanh Hoa thực chất là hình xăm.

      Nghe đến đây, tôi bất giác rùng mình, mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu được sáng tỏ đôi chút, lẽ nào trong chiếc khay sứ đó cũng lồng dán miếng da người có hình xăm? Liên tưởng đến bức tranh da người của cậu, tôi mới chợt bừng tỉnh, chắc chắn là như vậy, chúng đều là hình xăm, chẳng trách Tang Giai Tuệ rằng trong tay ấy có món đồ mà tôi hứng thú.

      Nhưng ngờ, Tang Giai Tuệ lại lắc đầu, nghiêm túc :

      - Cậu đoán sai rồi, chiếc khay sứ đó có da người mà chỉ có hình xăm.

      Tôi chẳng hiểu gì hết, vội hỏi lại ấy:

      - Cách cách, cái này… cái này, phải thế chứ, nếu có da người, sao lại gọi là hình xăm, đó… đó chẳng phải là hình xăm sao?

      đợi Tang Giai Tuệ mở miệng, Tiểu Đường đột nhiên cười phá lên rồi rành rọt hỏi:

      - Ai bảo chị hình xăm chỉ được xăm cơ thể người?

      Tôi ngay lập tức quay sang nhìn bé, trong bụng đầy nghi ngờ, hình xăm đương nhiên phải được xăm cơ thể người rồi, thế nhưng Tiểu Đương như vậy là có ý gì? Nhìn quanh lượt, thấy ba người bọn họ chẳng có biểu gì khác thường, chỉ nhìn tôi cười cười. Tang Giai Tuệ vòng tay với lấy túi xách, kéo khoá, lấy ra bức ảnh đưa cho tôi:

      - Cậu xem chiếc khay sứ mà bọn tớ tìm thấy trước .

      Nhìn góc độ chụp có thể biết bức ảnh được chụp từ xuống ở cự ly gần để lưu giữ toàn bộ hình ảnh chiếc khay sứ. Rìa chiếc khay sứ là vòng tròn những cánh hoa đều tăm tắp, giữa đáy là dãy núi cao trùng điệp với những đường nét dứt khoát, thân núi còn có làn sương mù vờn quanh bồng bềnh trông rất chân thực, sinh động.

      Tôi cầm bức ảnh tay, cúi đầu ngắm nghía hồi lâu, mơ hồ nhận thấy có điều gì đó rất khác lạ. Tuy tôi hiểu lắm về hội hoạ, nhưng cũng dễ dàng cảm nhận thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng trong bức tranh sơn thuỷ này rất giống với hình ảnh chiến sĩ da cậu tôi.

      Tang Giai Tuệ ngồi sát lại, chỉ tay vào chiếc khay sứ, :

      - Thế nào, nhìn ra nghệ thuật gì rồi chứ?

      Tôi chau mày, giọng đầy ngờ vực:

      - Cách cách, cậu đừng bảo tớ thứ trong này là hình xăm đấy nhé.

      Tang Giai Tuệ vỗ đùi, hào hứng :

      - Đúng, chính là hình xăm. Thế nào, nằm mơ cũng nghĩ đến đúng ?

      Tim tôi đập loạn xạ, tay run run, suýt chút nữa vứt bức ảnh ra xa, kỳ lạ hết sức. Tôi có biết đôi chút về công đoạn làm đồ gốm sứ, hoa văn đồ sứ phải được vẽ trước khi đưa vào nung ở nhiệt độ cao, thế nên bức tranh sơn thuỷ đó là hình xăm, có đánh chết tôi cũng tin được.

      Thấy vẻ mặt tôi hoang mang, Tang Giai Tuệ cười cười, vẫy tay gọi Tiểu Đường:

      - Em qua giải thích cho chị ấy .

      Tiểu Đường gật đàu, đứng dậy đến ngồi bên cạnh tôi, nhàng giảng giải: Xăm hình hồi đầu gọi là Thích Thanh (xăm hình bằng mực xanh), bắt nguồn từ Trung Quốc với lịch sử kéo dài hơn 3500 năm. Loại hình này dùng trong các hình phạt xưa, gọi là Mặc hình; tức là dùng kim và mực khắc chữ hoặc biểu tượng đặc biệt lên mặt tội phạm, để chúng mãi mãi ghi nhớ tội danh mình phạm phải.

      Theo thời gian, xuất phát từ ý thức làm đẹp và tín ngưỡng tôn giáo, có người khắc hình lên da, rồi dùng loại mực lâu phai đổ vào vết châm, để cho những hoa văn da thịt vĩnh viễn bao giờ biến mất. Cứ thế, ngày này sang ngày khác, càng lúc càng có nhiều người bắt chước làm theo. Lâu dần, hình thành nên nhóm người chuyên làm nghề này để nuôi sống gia đình, gọi là thợ xăm thân khắc hình. Nghệ thuật xăm hình sau hàng nghìn năm phát triển dần được hoàn thiện, sau đó hình thành nên môn phái lưu truyền đến tận ngày nay, đó là Mặc môn hay còn gọi là Văn môn, tên gọi này bắt nguồn từ Mặc hình thời cổ.

      Thời Xuân Thu Chiến quốc, nghệ thuật xăm hình Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, xuất hàng loạt những nghệ nhân tài năng với nhiều thủ pháp và hoa văn độc đáo. Trong đó, tuyệt kỹ xăm hình đỉnh cao những có thể xăm cơ thể người, mà còn có thể xăm các loại chất liệu khác. Xăm cơ thể người gọi là Xăm hình, xăm các loại chất liệu khác gọi là Khắc hình, điều này được rút trong câu “văn khắc thân hình, biến thân trước mặc” (xăm thân khắc hình, màu mực trai khắp).

      Nghe Tiểu Đường giảng giải, tôi khẽ thở dài, bức tranh sơn thuỷ chiếc khay sứ chắc chắn là tác phẩm khắc hình mà bé vừa . Thế nhưng tôi thực bất ngờ, môn nghệ thuật này quá thần lỳ, bề mặt khay sứ vẫn vô cùng nhẵn bóng, hề có chút sần sùi, thể hiểu nổi người ta khắc như thế nào. Nếu những lời Tiểu Đường chỉ có thể lấy câu “Xảo đoạt thiên công” (khéo đoạt công trời) để hình dung thôi.

      Tang Giai Tuệ với tay lấy bức ảnh, tiếp nối câu chuyện. Sau khi đến trấn Cảnh Đức và được biết trong chiếc khay sứ có điều bất thường, dưới chỉ dẫn của lão nghệ nhân sứ, bọn họ lập tức quay về Thẩm Dương tìm Đường Nhã Kỳ kiểm tra, quả nhiên đó chính là bức tranh sơn thuỷ được ra bởi nghệ thuật khắc hình.

      Tôi gật đầu vẻ hơi hiểu ra vấn đề, trong bụng thầm nghĩ, thảo nào mấy hôm nay Tiểu Đường về nhà, hoá ra bị ba người bọn họ mời đến đây. Nghĩ vậy, tôi nén nổi tò mò liền hỏi:

      - Có phải bức tranh da người của cậu tôi có điểm tương đồng với chiếc khay sứ, đó đều là hình xăm, thứ mà cậu tôi có hứng thú… chính là nó, đúng ?

      Tang Giai Tuệ nhìn chăm chăm vào tôi, lắc đầu, rành rọt:

      - phải, thứ thực khiến chúng tớ quan tâm là tấm Long Bản trong tay cậu cơ.

      Hoá ra, hôm tôi vô tình bước vào hiệu xăm hình, Tiểu Đường thoạt nhìn phát ngay ra hình rồng tấm Long Bản cũng là tác phẩm khắc hình, chỉ có điều lúc đó cả hai quen biết nhau, nên cho tôi biết. Đợi tôi khỏi, bé liền thông báo cho Tang Giai Tuệ, mọi người đều thắc mắc tại sao lại xuất hiên thêm vật khắc hình như vậy và người phụ nữ đó là ai. Đúng lúc đó, tôi lại gọi điện cho Tang Giai Tuệ, nghe xong câu chuyện, ấy biết ngay đó là tôi nên muốn tôi đến ngay.

      Tang Giai Tuệ bảo tôi đến ngân hàng lấy tấm Long Bản về, đặt lên chiếc bàn trà màu trắng rồi để bức ảnh khay sứ song song bên cạnh. Tấm gỗ đỏ sẫm, khay sứ xanh đậm, hình đôi rồng và tranh sơn thuỷ nền trắng muốt càng lên sống động, giống như muốn thoát ra từ bức hình nền.

      Tôi nhìn chớp mắt, hình ảnh hoà lẫn vào nhau, tựa hồ như con rồng lớn màu đỏ bay lượn quanh những dãy núi non trùng điệp, bên tai còn thấp thoáng nghe thấy từng đợt gió rít trong rừng và tiếng rồng gầm thét.

      Ngắm nghía hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy hết sức mơ hồ, khay sứ Thanh Hoa thời Khang Hy và tấm Long Bản thời nhà Liêu cách nhau gần sáu trăm năm, vốn dĩ chẳng liên hệ gì đến nhau, nhưng lại gặp nhau ở điểm chung là đều được khắc hình với thủ pháp hoàn toàn giống nhau, lại còn lần lượt dẫn đến hai vụ án đặc biệt nghiêm trọng và hết sức ly kỳ. Rất khó lý giải rằng đây chỉ là trùng hợp của lịch sử, trong đó chắc chắn phải chứa bí mật kinh thiên động địa nào đó.

      Vụ án Cố Cung Thẩm Dương tuy ly kỳ, nhưng dù sao cũng chẳng liên quan gì đến tôi nên tôi muốn hao tốn chất xám suy nghĩ đến nó; nhưng còn mảnh da của cậu, tấm Long Bản, lại còn La Viễn Chinh, Phùng Siêu và Mã Trấn Quốc, những câu hỏi lớn ấy cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi nhất định phải làm sáng tỏ. Thế nhưng tình hình trước mắt mấy ngày càng trở nên phức tạp, chân tướng việc khó đoán mà biết mọi việc nên bắt đầu từ đâu.

      Tôi cố trấn tĩnh lại, sau đó quay sang với Tang Giai Tuệ:

      - Cách cách, bây giờ tớ hoàn toàn còn chút minh mẫn gì cả rồi, trong đầu chẳng nghĩ ra được điều gì cả. Nhưng cũng may gặp được mọi người, tớ muốn tham gia vào đội điều tra cùng mọi người làm sáng tỏ vụ án ở Cẩm Châu. Việc này cậu nhất định phải giúp tớ.

      Tang Giai Tuệ chần chừ lúc rồi lắc đầu , ấy dò hỏi cặn kẽ phó giám đốc Sở Công an tỉnh là Tư Mã Cường, do vẫn trong thời gian chịu giám sát mà tôi lại đột nhiên bỏ trốn, vì thế án chuyển lên Viện Kiểm sát tỉnh, Sở Công an thời được nhúng tay vào. Do vậy, ấy tìm đến lãnh đạo Bộ Công an khu vực Đông Bắc là Trần Đường, hi vọng ta có thể giúp cứu vãn tình thế, tốt nhất là xoa dịu được vụ này. Trần Đường cho biết, vụ án của tôi tuy lớn, nhưng dù sao vẫn thuộc án hình của địa phương, liên quan đến an ninh quốc gia, vì thế Bộ Công an cũng tiện ra mặt can thiệp.

      Tang Giai Tuệ tỏ ý xin lỗi, kéo tay tôi, thành khẩn :

      - Tiêu Vi, rất xin lỗi, chỉ e là tớ giúp gì được cậu, mấy hôm nữa bọn tớ phải rời Thẩm Dương rồi.

      Do phát được manh mối quan trọng, bọn họ phải lập tức lên đường đến thành phố Bắc Trấn thuộc tỉnh Cẩm Châu. Còn mục đích của chuyến là gì, vì tôi phải người trong nội bộ tổ chuyên án vụ Cố Cung nên được tiết lộ.

      Bắc Trấn là thành phố cấp huyện thuộc Cẩm Châu, trước đây mỗi khi điều hành công tác trinh sát hình của cơ quan, tôi ít lần đến đó. Vì đây vốn là quê gốc nên tôi nén nổi tò mò gặng hỏi về lý do chuyến của Giai Tuệ.

      Từ lúc bước vào của, tên Sở Khinh Lan chỉ cúi đầu, năng gì, cũng chào hỏi tôi, dáng vẻ mang đầy tâm trạng nặng trĩu. Lúc này, mới chợt ngẩng đầu lên, vội nắm lấy tay Tang Giai Tuệ, căng thẳng :

      - Chị Giai Tuệ, được !

      đợi Tang Giai Tuệ đáp lời, ông già Hắc Lão Ngũ lúc lắc đầu, cười khùng khục:

      - được , được . Chuyện này… hay đấy, hay đấy!

      Mặc dù tôi rất muốn biết tình hình cụ thể là gì, nhưng nhìn bộ dạng cố tình giấu giếm của họ, ràng vẫn coi tôi là người ngoài, vậy cũng nên cố tình xen vào, vì thế tôi gặng hỏi nữa. Nghĩ đến chiếc cọc lúc sắp chết đuối khó khăn lắm mới vớ được nay cũng mất nốt, tôi đau khổ vô cùng, ôm tấm Long Bản tay, ngồi lặng yên gì.

      Đoán biết tâm trạng vui của tôi, Tang Giai Tuệ an ủi vài câu, rồi bảo: Vì Tiểu Đường từng giúp họ giải đáp bí mật chiếc khay sứ, nên bé cũng coi như gia nhập vào vụ án Cố Cung; để tránh bị hung thủ giết hại, Bộ Công an cử lính đặc công luôn bên cạnh bảo vệ. Trong thời gian tại Thẩm Dương, nếu có chỗ nào thích hợp, tôi có thể dọn đến ở cùng Tiẻu Đường, như vậy đảm bảo an toàn tính mạng của tôi.

      Tôi giả vờ suy nghĩ lúc rồi đồng ý. Kỳ thực, trong lòng tôi rất vui, vì như vậy những tiết kiệm được tiền thuê nhà nghỉ lại có thể tranh thủ dò hỏi Tiểu Đường, biết chừng tôi có thể tìm được bí mật của tấm Long Bản.

      Buổi tối, Tang Giai Tuệ lái xe đưa tôi đến nhà Tiểu Đường, sắp xếp xong xuôi, mọi người lại cùng nhau đến nhà hàng Đông Lai Thuận ở gần đó ăn thịt dê nhúng, trao đổi về tình hình gần đây. Trong lúc ăn, tôi phát ra Hắc Lão Ngũ chính là người Hồi.

      Tang Giai Tuệ vốn trầm tính ít , Tiểu Đường và Sở Khinh Lan cũng chẳng mấy khi mở lời, tôi lại là người ngoài, quen biết mấy với bọn họ nên cũng có chuyện gì để ; duy nhất chỉ có Hắc Lão Ngũ cứ ồm ồm như chuông vỡ hào hứng đủ mọi chuyện, khiến những thực khách xung quanh khỏi tò mò nhìn sang. Khoảng tám rưỡi, Tang Giai Tuệ thanh toán tiền, chúng tôi chia tay nhau, ai về nhà nấy.

      đường về nhà cùng Tiểu Đường, tôi cứ có cảm giác sau lưng có người theo dõi, mấy lần quan sát nhưng phát thấy gì, nhưng cảm giác đó lại rất , biết là lính đặc công của Bộ Công an hay là tên hung thủ giấu mặt trước kia. Nhưng tôi cũng chẳng buồn đoán già đoán non, thực lực của Bộ Công an tôi biết , nếu ai dám động đến tôi trước mắt họ, chẳng khác gì tự tìm đến đường chết.

      Suốt đêm ai với ai câu gì. Đến sáng hôm sau, Tang Giai Tuệ gọi điện thông báo họ chuẩn bị lên đường Bắc Trấn để tiến hành bước điều tra tiếp theo của vụ án Cố Cung; đồng thời dặn dò tôi hành cẩn trọng, gặp khó khăn hay nguy hiểm có thể trực tiếp cầu cứu Sở Công an, dù sao cũng từng là đồng chí chung chiến tuyến, mọi người khoanh tay đứng nhìn.

      Nghe Giai Tuệ vậy, tôi thấy trong lòng có chút chua xót, tuy vậy vẫn chúc lên đường may mắn, sớm về sớm, nhân tiện dò hỏi hộ tiến triển vụ án liên quan đến tôi.

      Những ngày tiếp theo, tôi đều ở nhà Tiểu Đường, ngoài lúc mua đồ ăn tại khu chợ gần nhà, thời gian còn lại tôi cố gắng hạn chế ra khỏi nhà, để tránh phiền phức.

      Lâu dần, tôi phát tính cách Tiểu Đường có vẻ xa cách, bình thường cung cách đối xử cũng rất lạnh lùng; mặc dù sống chung với nhau, nhưng mấy khi chuyện với tôi, lúc có việc gì lại ngồi tỉ mẩn lau chùi những cây kim bạc dùng để xăm hình.

      Tôi vốn dĩ hay tò mò, gặp chuyện gì cũng đều muốn hỏi cho ra nhẽ nên dò hỏi bé học kỹ thuật xăm hình từ đâu, thân thế ra sao. Nhưng Tiểu Đường đều tránh né trả lời hoặc đánh trống lảng sang chuyện khác, bé luôn có vẻ gì đó vô cùng bí khó hiểu.

      Tôi biết đa phần thợ xăm đều khá lập dị nên cũng muốn hỏi nhiều, vì thế quay ra hỏi bé câu đối treo ngoài cửa có nghĩa gì. Với câu hỏi này, Tiểu Đường hề giấu giếm, giải thích đó là câu đối truyền đời của Mặc môn, cũng có thể coi như là môn quy, bất cứ truyền nhân nào cũng phải ghi nhớ. Còn cội nguồn của nó Tiểu Đường cũng biết.

      Và khi hỏi làm thế nào xăm được hình lên các bề mặt chất liệu khác, Tiểu Đường liền giải thích rất nhiệt tình, miệng mồm hoạt động ngừng. bé giới thiệu với tôi, nghệ thuật xăm hình nhìn bề ngoài có vẻ bình thường nhưng bên trong nó chứa những bí mật khôn cùng. Bất kỳ thợ xăm thân khắc hình có tay nghề nào cũng cần phải nắm thuộc tính của các loại chất liệu, phải nhận biết được đường của từng hình xăm, rồi áp dụng những thủ pháp tuyệt kỹ để di chuyển kim châm, chứ phải cứ dùng lực mạnh là được. Nếu tay còn là tay, mà thành cục gạch. Đấy là còn chưa kể đến số chất liệu siêu cứng, ngay cả kim loại cũng khó xuyên thủng. Để tôi có thể cảm nhận được bằng trực quan, Tiểu Đường liền bảo tôi lấy tấm Long Bản ra để tự mình thử nghiệm.

      Thấy Tiểu Đường có ý muốn thử, tôi mừng thầm trong bụng; từ lâu tôi muốn xem tận mắt những vi diệu trong môn nghệ thuật này nên lập tức rút tấm Long Bản ra đưa cho bé. Nhưng Tiểu Đường đón ngay lấy mà vào nhà vệ sinh rửa sạch tay vừa vọng ra đó là quy tắc từ xưa đên nay của Mặc môn: Trước khi xăm hình, khắc hình đều phải rửa tay sạch. Những cây kim bạc dùng để xăm hình bình thường đều được cắm loại gỗ đàn hương rất quý để đảm bảo sạch trơn bóng, đồng thời thể tôn trọng với người và vật được xăm.

      Sau khi hoàn tát công tác chuẩn bị, Tiểu Đường đặt tấm Long Bản ngay ngắn mặt bàn, nhàng dùng ngón tay gõ mấy phát. Khi thấy có thanh kim loại đanh gọn phát ra, bé khẽ gật đầu, dùng đầu ngón trỏ vuốt ve khoảng trống tấm gỗ, thỉnh thoảng ấn xuống, mắt nheo nheo lại, giống như tận hưởng thứ gì đó. Đồng thời, ngón cái và ngón trỏ phải kẹp chặt cây kim bạc dài chừng ba cen-ti-mét, nhàng lướt qua tấm gỗ, phát ra thanh lạo xạo. Đột nhiên, bé bỗng khựng lại, cổ tay lắc mạnh, cắm phập cây kim xuống, “kịch!” tiếng, đầu kim mới chỉ cắm vào thân gỗ.

      lập tức nhấc tay lên, cầm chặt duôi kim rôi đâm mạnh vào trong. Thân kim mảnh dẻ rung lên bàn bật rồi từ từ uốn cong như sợi mì, chỗ tiếp xúc giữa cây kim và mặt gỗ phát ra thanh như tiếng nghiến răng chói tai, nhưng cây kim vẫn chẳng đâm sâu thêm được tí nào.

      Thử sức hồi lâu, trán Tiểu Đường vã mồ hôi, chảy dọc theo gò má, móng tay bắt đầu chuyển sang màu trắng bệch, tay cũng run rẩy theo, trông có vẻ mất sức khá nhiều. bé ngẩng đầu thở dài hơi, vê vê đầu ngón tay rồi từ từ rút cây kim ra, bề mặt tấm Long Bản ra lỗ kim xíu. Tôi biết rất độ cứng của tấm Long Bản, Tiểu Đường chỉ dùng cây kim mảnh mà xuyên được lỗ thủng như thế này quả thực đáng kinh ngạc. Tôi lấy tay xoa xoa, thấy xung quanh lỗ kim trơn nhẵn, nhưng so với hình chạm rồng còn kém xa.

      Tiểu Đường mặt buồn thiu, vuốt tấm Long Bản, đau khổ :

      - Chán quá, tài năng của em chưa đủ chín, chỉ làm được đến vậy thôi.

      Sau đó Tiểu Đường bắt đầu giảng giải mớ lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc. Tôi mơ hồ hiểu lắm, chắc là liên quan đến kỹ thuật đặc biệt của thợ xăm thân khắc hình.

      Nhìn tấm Long Bản, tôi bất chợt nghĩ hình xăm người chiến sĩ da cậu tôi do ai làm? Nhưng da có mảnh da trong tay, tất cả những tôi có là bức ảnh cận cảnh nên Tiểu Đường cũng khó đưa ra phán đoán cụ thể mà chỉ nghệ thuật xăm ở đây rất tinh xảo, bản thân bé cũng chưa chắc làm được, chắc chắn phải tay nghề của thợ xăm bình thường.

      Thời gian trôi qua nhanh, tôi ở nhà Tiểu Đường hơn nửa tháng, hàng ngày chẳng mấy khi ra ngoài, hết ăn rồi ngủ, vì thế người cũng béo ra, thần sắc cũng tốt hơn trước rất nhiều.

      Nhiều ngày trôi qua thấy có gì mới mẻ, tôi bắt đầu sốt ruột, đứng ngồi yên, quyết định thể tiếp tục lãng phí thời gian như vậy, liền bắt đầu triển khai kế hoạch điều tra định sẵn.

    4. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 8: Cuốn nhật ký

      Đó là chân dung chính diện của chàng trai trẻ chỉ to bằng ngón tay, nhưng nét vẽ hết sức sinh động, tóc đen môi đỏ, ngũ quan ràng, biểu cảm sinh động, vừa hoảng hốt lại vừa hoang mang, nhất là đôi mắt vô cùng sáng và tinh nhanh, giống như ánh mắt của người chăm chú nhìn mình.

      Thời điểm tổ chức đám tang cậu, khách từ Thẩm Dương đến viếng rất đông, họ chủ yếu là giáo viên và bạn học của cậu, trong đó ấn tượng nhất là ông già tên Từ Vạn Lý. Lúc ông ta đến tiền hô hậu ủng hết sức rầm rộ, sau đó còn được lãnh đạo Chính hiệp và Học viện Mỹ thuật thành phố mời ăn cơm. Nghe mẹ tôi giới thiệu qua, ông Từ là cựu giáo sư của Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, đồng thời là hoạ sĩ sơn dầu nổi tiếng Trung Quốc, từng tham gia sáng tác tranh panorama. Hồi học, cậu tôi là học trò của ông, tình cảm thầy trò rất sâu sắc; năm đó cậu tôi được vào tổ sáng tác tranh panorama cũng là nhờ có ông Từ giới thiệu.

      Với những người nổi tiếng như Từ Vạn Lý việc hỏi thăm rất dễ. Sau khi tìm được địa chỉ, ngay chiều chủ nhật, tôi xách hai túi hoa quả tìm đến nhà ông. Từ Vạn Lý dáng người gầy gò, tóc bạc trắng, mặc dù tay trống ba-toong nhưng lưng vẫn còn rất thẳng. Chưa để tôi kịp giới thiệu bản thân, ông kéo tay tôi, vui mừng chào hỏi:

      - A đầu, cháu là cháu của Thạch, đúng , tên là Tiêu… Tiêu Vi, làm cảnh sát hình . Lần trước đến Cẩm Châu kịp chuyện với cháu, cháu đến để thăm ta sao?

      Tôi khẽ cười rồi gật đầu, :

      - Ông Từ, trí nhớ của ông tôt, lần này cháu đến Thẩm Dương công tác, tiện thể đến thăm ông.

      Ông liên mồm tốt qua tốt quá rồi bảo tôi vào trong nhà tiếp đón rất nhiệt tình. Do tai hơi bị nghễnh ngãng nên ông chuyện rất to, rất hào sảng.

      Vợ ông Từ là người phụ nữ hiền lành phúc hậu, bà vừa cười vừa rót hai tách trà rồi lui về phòng, đề hai chúng tôi ở lại phòng khách chuyện.

      Sau khi hỏi thăm, tôi cố tình chuyển đề tài sang cậu tôi, với hi vọng phát vài điều từ miệng ông. Ông Từ tay vuốt chòm râu, lim dim mắt đắm chìm trong cảm xúc dồn về, lời của ông đong đầy cảm giác thương cảm, đơn. Ông thao thao bất tuyệt đủ những chuyện thời cậu còn học, chi tiết thời gian đều rất ràng, đủ để thấy tình cảm của ông về người học trò quý sâu sắc nhường nào.

      Những câu chuyện ấy gợi cho tôi nhớ về cậu. trong lòng bùi ngùi, tôi day trán, trầm tư gì.

      Ông Từ nhấp ngụm trà, sau đó chuyển sang chủ đề khác, ông kể: Tháng Chín năm 1986, Tổng bộ Chính trị quân Giải phóng thành lập tổ sáng tác tranh panorama, huy động hơn ba mươi hoạ sĩ toàn quốc, đều là những học giả và giáo sư thành danh thời bấy giờ. Vốn dĩ đến lượt hoạ sĩ vừa mới ra trường như cậu tôi, nhưng vì luôn đánh giá cậu tôi có năng khiếu bẩm sinh, là hạt giống có thể ươm mầm, nên ông Từ nhiều lần tiến cử, cuối cùng cấp cũng đồng ý bổ sung thêm suất.

      Thời đó, mọi người rất vô tư trong sáng, trước nhiêm vụ chính trị quan tọng như vậy, họ chỉ thấy vinh dự tự hào, tất cả đều cống hiến vô tư, mảy may nghĩ đến thù lao, mỗi người tự chia chủ đề sáng tác của mình rồi bắt đầu khảo sát thực địa. Còn nhớ năm đó cậu mới ngoài ba mươi, là chàng trai trẻ tuổi nhất tổ, ngày ngày chăm chỉ lao đầu vào sáng tác. Cũng chính nhờ có cơ hội ấy, tài năng hội hoạ của cậu mới được khẳng định, rồi từ đó cứ phát triển dần lên, dành được nhiều thành tích trong lĩnh vực sáng tác tranh sơn dầu. Về sau, mỗi lần cậu đến Thẩm Dương thăm ông Từ, đều rắng nhờ tiến cử của thầy mới có được cậu ngày hôm nay.

      đến đây, ông Từ dừng lại đôi giây, thở dài đau khổ :

      - Mới ngoài năm mươi tuổi, trong thời kỳ đỉnh cao sáng tác của người hoạ sĩ, đáng tiếc, cậu cháu… cậu cháu ra sớm quá!

      Tôi khẽ gật đầu, nhưng trong lòng lại lên suy nghĩ khác: Năm đó cậu tìm ra tấm Long Bản rồi mình bí mật cất giữ nó hơn hai mươi năm, lại có vợ con để chia sẻ, đây quả là gánh nặng tâm lý vô cùng nặng nề, chỉ nghĩ đến cũng đủ thấy đau khổ tột cùng. Nay cậu ra , đó chẳng phải chính là giải thoát sao?

      Thấy tôi mãi chẳng gì, ông Từ chớp chớp mắt, dường như ông cảm thấy điều gì đó, liền cười hỏi tôi:

      - Cháu à, cháu từ xa xôi đến đây tìm ta, nếu ta đoán nhầm chắc phải có chuyện gì, đúng ?

      Tôi giật mình, nhìn khuôn mặt hiền từ của ông, ông chính là người thân cận nhất của cậu ngoài tôi và mẹ, những kiêng dè ban đầu bỗng chốc tan biến, tôi quyết định giấu giếm nữa, liền kể lại câu chuyện xảy ra sau khi cậu ra , nguyên văn toàn bộ. Để ông cụ khỏi lo lắng, tôi đề cập đến nhứng việc xảy ra với tôi thời gian qua.

      Ông Từ ngồi dựa hẳn lưng vào chiếc ghế thái sư, hai mắt nheo vào chỉ còn bằng đường kẻ, tay phải nắm lấy chòm râu, yên lặng lắng nghe. Đợi tôi xong, ông khẽ lắc đầu, con ngươi đảo lia lịa, tay trái liên tục gõ nhịp vào tay vịn ghế tạo thành những tiếng cạch cạch theo nhịp. lúc sau, ông đột nhiên thở dài, chậm rãi :

      - Xem ra ta vẫn trốn được…

      Tiếng ông vọng lại trong phòng khách, khí bỗng trở nên vô cùng yên ắng.

      Tôi nghe mà chẳng hiểu gì, sao lại trốn với trốn gì ở đây, định mở miệng hỏi ông Từ liền ngồi thẳng người dậy, tay phải nắm lấy cổ tay tôi, nắm rất chặt. Ông ghé đầu sát lại, mắt nhìn chăm chăm vào tôi, cực nhưng cũng cực nhanh:

      - Tối hôm đó, khoảng hơn mười giờ, sau khi xem hết chương trình truyền hình, ta đánh răng rửa mặt xong định lên giường ngủ cậu cháu chạy từ ngoài vào, mặt trắng bệch rất đáng sợ, như thể gặp ma vậy. Cậu ấy ngồi trước mặt ta, cúi đầu hồi lâu gì. Mặc cho ta gặng hỏi nhiều lần, cậu ấy cũng , lại còn kéo ta ra ngoài uống rượu. Ta muộn quá rồi, cậu ấy chịu, nhất định kéo ta , vì vậy… ta đoán… cậu ấy xảy ra chuyện…

      Ngón tay ông bấm chặt cổ tay tôi, bấm rất mạnh, rất mạnh.

      Hơn hai mươi năm trước, cậu cũng dùng lực bấm này để thể nỗi sợ hãi của mình, còn hôm nay, lực bấm từ ngón tay của ông Từ phút chốc kéo tôi vượt thời gian trờ về buổi tối hôm đó, cho tôi thấy cảm giác chân thực đến ngỡ ngàng.

      Ông Từ dần buông lỏng cổ tay toi ra, nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, trời sẩm tối, ánh mắt ông xa xăm, giọng trầm khàn…

      Thạch kéo ông Từ ra khỏi nhà khách quân khu, từ từ băng qua những con phố im lìm, tĩnh lặng. Đến quán ăn ven đường, cậu gọi vài món xào và chai Nhị Oa Đầu. Ông Từ ngồi đối diện với cậu, lòng đầy thắc mắc, Thạch từ trước đến giờ chưa từng uống ngụm rượu nào, tại sao hôm nay lại phá lệ như thế, xem ra chắc chắn gặp phải chuyện rắc rối gì rồi, mà chuyện cũng hề .

      Khi đồ ăn và rượu được đem ra, Thạch tự rót rượu vào cốc mình, uống ực hơi hết sạch, sau đó cậu nghiến răng nghiến lợi, chần chừ hồi lâu, rồi đột nhiên ghé đầu sang :

      - Thưa thầy, thầy có biết… có biết , bọn… bọn họ vẫn còn.

      Câu đầu cuối, thốt ra bất ngờ hết sức khó hiểu. Ông Từ ngây người, vội vàng đặt đũa xuống hỏi:

      - Con cái gì… ai vẫn còn?

      Thạch như nghe thấy gì, cứ nhìn chăm chăm ông Từ, ánh mắt lên vẻ hoảng hốt tột cùng. Đôi mắt cậu khiến ông Từ cảm giác như bị rết bò dọc sống lưng, vừa lạnh vừa ngứa, vô cùng khó chịu.

      Thạch nhìn chằm chằm vào ông Từ lúc, môi mấp máy, vừa định mở miệng, chợt ánh nhìn chuyển hướng qua sau vai ông, nét mặt đột nhiên biến sắc. Cậu há hốc mồm, yết hầu cứ giật lên giật xuống, phát ra chuỗi thanh ùng ục kỳ lạ, giống như định thốt lên điều gì.

      Ông Từ thấy lạ liền quay đầu lại nhìn theo hướng ánh mắt của cậu.

      Phía sau lưng ông là cánh cửa sát mặt đường của cửa hàng, có treo tấm rèm vải bông màu đen rất dày, bức tường ố vàng bên cạnh cửa treo cái khung gương to. Mặt gương lồi lõm đều, những bám đầy cáu cặn mà còn bị nứt đường, bề mặt phủ lớp hơi nước mỏng khiến cho khuôn mặt của cậu chở nên biến dạng.

      Có thể do góc nhìn, nên nhìn lúc lâu ông Từ bỗng sinh ra ảo giác lạ, cứ như thể Thạch ở trong gương mới là người . Hơn nữa đôi mắt của cậu còn nhấp nháy, dù cho thay đổi góc nhìn nào cũng đều hướng thẳng về phía ông.

      Ông Từ càng nhìn càng cảm thấy rùng mình ớn lạnh, liền quay đầu lại hỏi cậu:

      - Thạch, rốt cuộc con muốn gì? Cái gì mà họ vẫn còn, họ rốt cuộc là ai?

      Cậu nuốt ực miếng nước bọt, khoé mép giật giật, miệng há to như muốn nhưng rồi đột nhiên lại lấy hai tay che mặt, cúi đầu xuống, hai vai rung bần bật, khóc nức nở.

      Đêm đông khuya khoắt giá lạnh, trong quán ăn bé tồi tàn, cậu cứ thế khóc rất lâu, nước mắt giàn giụa, mặc cho ông Từ gặng hỏi kiểu gì cũng .

      Sau đó, cậu lau khô nước mắt, cũng ăn uống gì, chỉ liên tục uống rượu, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên, hai con mắt đỏ sòng sọc, ngây người nhìn vào chiếc gương đối diện, vẻ mặt vô cùng ngây dại, miệng vẫn ngừng lẩm bẩm:

      - Bọn họ vẫn còn, bọn họ vẫn còn…

      rưỡi sáng, lúc quán ăn đóng cửa cậu say mềm. Ông Từ gọi xe đưa cậu về nhà khách, rồi nhờ nhân viên nhà khách cùng dìu cậu lên phòng, đặt xuống giường.

      Để cậu ngủ ngon hơn, ông Từ giúp cậu cởi giầy tất quần áo. Lúc đắp chăn, ông vô tình phát sau chiếc áo may-ô như có hình gì đó mờ mờ.

      Nếu bởi tính tò mò của ông Từ, việc cứ như thế bình lặng trôi qua. Nhưng lúc đó, ông nén nổi tò mò, đưa tay kéo áo lên, và bất ngờ phát thấy ở chính giữa lưng cậu có hình xăm mặt người nho .

      Đó là chân dung chính diện của chàng trai trẻ chỉ to bằng ngón tay, nhưng nét vẽ hết sức sinh động, tóc đen môi đỏ, ngũ quan ràng, biểu cảm sinh động, vừa hoảng hốt lại vừa hoang mang, nhất là đôi mắt vô cùng sáng và tinh nhanh, giống như ánh mắt của người chăm chú nhìn mình.

      Ông Từ buột miệng kêu lên thảng thốt rồi vội ngồi sụp xuống giường, cúi người xuống nhìn, nghiên cứu hồi lâu bất chợt ông giật thót mình khi phát hình ảnh ấy chính là chân dung của cậu.

      Sau phút bàng hoàng ngạc nhiên, ông đưa tay ra chạm vào hình xăm, thấy vùng da nhẵn bóng ấm áp, hề có cảm giác sần sùi nào cả, màu sắc ngấm đều vào trong da.

      Ông vuốt vuốt râu, trí tò mò lên đến đỉnh điểm, xem ra đây có lẽ là ảnh mà Thạch nhờ người xăm cho, nhưng sao lại xăm vào sau lưng và chỉ xăm mỗi khuôn mặt mình bé xíu?

      Nghe thấy tiếng ngáy đều đều của cậu học trò ruột, ông Từ biét chắc thể hỏi thêm được điều gì, liền đắp chăn cho cậu, đóng cửa rồi nhàng rời khỏi phòng.

      Quay trở về phòng mình, rửa tay qua loa, ông Từ leo lên giường trằn trọc mãi, cả đêm ngủ yên giấc, trong đầu toàn những ý nghĩ kỳ quặc. Cử chỉ của Thạch hết sức bất thường, ràng là gặp phải chuyện gì đó, nhưng tại sao lại hoảng hốt thế? Cậu liên tục lẩm bẩm “bọn họ”, vậy “bọn họ” ở đây là ai? Lại còn hình xăm kỳ lạ nữa, rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao lại xăm ở sau lưng? thể hiểu nổi.

      Sáng hôm sau, khi ông Từ đến nhà ăn sáng nhìn thấy cậu đâu, cảm thấy có chút bất ổn, ông liền lên phòng tìm. Thấy nhân viên phục vụ dọn dẹp, ông hỏi ta được biết cậu dậy và rời từ lúc nào .

      Chín rưỡi sáng, tổ sáng tác triệu tập cuộc họp thường nhật để báo cáo tiến triển công việc và nghiên cứu phương án làm việc tiếp theo. Ông Từ vẫn thấy cậu đâu, hỏi người phụ trách mới hay sáng sớm Thạch xin phép về nhà, là thấy người khó chịu, có lẽ do bệnh loét dạ dày tái phát.

      Nửa tháng sau đó cậu vẫn hề quay lại tổ sáng tác, cũng chẳng có tin tức gì. Hồi đó giống như bây giờ, do có điện thoại để liên lạc cộng thêm công việc quá bận rộn, ông Từ cũng để ý đến chuyện đó nữa.

      đến đây, ông Từ đột nhiên dừng lại, đưa tay cầm lấy cốc trà, mở nắp, gạt những cánh chè rồi cúi xuống uống.

      Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ có tiếng nhấp trà của ông Từ, vọng từng tiếng, từng tiếng .

      Câu chuyện của ông Từ xuất nhân vật khủng bố nào, nhưng hiểu sao tôi nghe mà rùng cả mình, vẻ hoảng hốt của cậu trước mắt, giống như chính tôi được chứng kiến việc. Nhất là hình khuôn mặt đó, càng mồn , sao xoá được.

      Lúc này, tôi hoàn toàn bị hỗn hoặc. Theo như suy đoán trước đây, cậu mãi về sau mới tìm người xăm hình, mục đích là để ám chỉ nơi cất giấu tấm Long Bản. Nhưng ngờ, hình xăm có từ khi cậu tham gia vào tổ sáng tác tranh, điều đó chứng tỏ những suy đoán của tôi là sai. Hơn nữa người chiến sĩ da người ràng mặc quân phục, tại sao ông Từ lại chỉ nhìn thấy mối khuôn mặt, chẳng lẽ cậu xăm thành hai lần? Nhưng cậu làm như vậy với mục đích gì chứ?

      Đầu tôi rối như tơ vò, thái dương bắt đầu đau nhức, giống như bên trong có vật sắc nhọn muốn xuyên thủng đầu.

      Tôi bê tách trà, uống ừng ực cốc trà nguội ngắt từ lâu, hi vọng những suy nghĩ chồng chất trong đầu dần dịu lại.

      Năm 1986, năm 1986… Năm đó tôi vừa tròn năm tuổi, bắt đầu biết chuyện rồi, và cũng còn lưu giữ chút ký ức mơ hồ. Hình như tôi có nghe mẹ , từ sau khi cậu tham gia tổ sáng tác, trong ba năm đó cậu trở về nhà, vì thế chắc chắn cậu dối ông Từ. Tại sao cậu lại dối là bị ốm, tự động rời khỏi tổ sáng tác nửa tháng, rốt cuộc cậu đâu, có phải là tìm “bọn họ” mà cậu luôn mồm nhắc tới ?

      Bao nhiêu hoài nghi từ đâu cứ cuộn lên trong đầu, chúng tạo thành mớ hỗn độn lớn, và tôi ngoài cách xoáy theo cách bị động còn biết làm gì hơn.

      biết từ khi nào bên ngoài bắt đầu đổ tuyết lớn, bầu trời tối sầm lại, căn phòng cũng trở nên tối và lạnh hơn. Gió bấc gầm rít, quất mạnh vào cửa sổ, đập vào kính ầm ầm.

      Tôi thở dài tiếng, rũ bỏ những suy đoán lối thoát trong đầu, ngẩng lên nhìn chiếc đồng hồ treo tường, bốn rưỡi chiều. Ông Từ vỗ đùi cái, tự kêu mình lẩm cẩm rồi đứng lên bật đèn phòng khách, mở điều hoà và gọi bà Từ phòng trong ra, bảo bà mau xuống bếp nấu cơm, là muốn giữ tôi ở lại ăn tối.

      Rót hai tách trà mới, ông Từ bê tách trà lên, cúi xuống uống vài ngụm, tiếp: Nửa tháng sau, cậu lại đột nhiên quay trở lại tổ sáng tác, trông gầy thấy , lại còn đen sạm , nhưng tinh thần tốt hơn rất nhiều. Khi ông Từ hỏi, cậu chữa bệnh dạ dày, còn về hình xăm mặt người sau lưng cậu mực ông Từ hoa mắt nhìn nhầm, thậm chí câu chuyện uống rượu tối hôm đó cũng nhất quyết thừa nhận.

      Ông Từ tức giận chỉ thẳng vào mặt cậu, mắng:

      - đừng có lung tung, ta vẫn chưa lẩn thẩn đến thế đâu, cũng đến mức uống nhiều quá mà năng bừa bãi. Đêm đó rất lạ, chắc chắn có chuyện gì xảy ra rồi. Nếu vẫn coi ta là thầy giáo đừng có giấu ta.

      Cậu bĩu môi, cười sằng sặc, vội xua tay, thanh minh:

      - Thầy ơi, chắc chắn thầy nhớ nhầm rồi, con biết uống rượu, điều này phải là thầy cũng biết sao?

      Cuối cùng, hai người mỗi người ý, chẳng ai chịu ai, khiến cho khí hết sức căng thẳng. Cậu liếc mắt nhìn ông Từ, khẽ mỉm cười, rồi nghiêm túc :

      - Nếu thầy tin, con chứng minh cho thầy xem!

      rồi cậu liền cởi luôn áo trước mặt ông Từ để kiểm chứng. Sau lưng nhẵn thín, chẳng những thấy hình mặt người mà đến vết sẹo cũng chẳng thấy đâu cả.

      đến đây, ông Từ thở dài tiếng, ngập ngừng :

      - Tối hôm đó, ràng ta nhìn thấy, ràng có… có hình mặt người, giống hệt… Thạch, nhưng tại sao… tại sao lại thấy đâu nữa…?

      Ông Từ trầm ngâm lúc, đôi mày chau lại đầy khó hiểu, vuốt râu liên tục, rồi lại lắc đầu quầy quậy. Nhìn điệu bộ của ông, có vẻ đến tận hôm nay ông vẫn hoài nghi về việc xảy ra ngày hôm đó.

      Tôi gì, cũng biết phải gì, chỉ ngồi lặng yên, cảm giác đầu óc thể dung nạp được những thông tin đột ngột này. Rốt cuộc đúng là ông Từ già rồi hoa mắt hay là cậu trong thời gian bỏ ấy tìm người xoá vết xăm?

      Tôi nghĩ kỹ lại. đúng! đúng! Nếu theo suy đoán , chắc chắn sau đó cậu xăm lại, mà lần này xăm cả hình người chiến sĩ. Cứ xăm xăm lại như vậy, chưa cần đến chuyện phiền phức nhiễu , mà động cơ của việc làm đó là gì chứ?

      Bỗng nhiên tôi nhớ ra chuyện, vội lấy máy ảnh trong túi xách ra, tìm bức ảnh người chiến sĩ bằng da người của cậu, đặt trước mặt ông Từ, khẩn khoản:

      - Ông Từ, ông xem thử xem, có phải là khuôn mặt này ?

      Ông Từ vùa nhìn giật thót mình, tay chỉ vào màn hình, run rẩy đáp:

      - Đúng… đúng… chính là khuôn mặt này, cho dù có di chuyển đến góc độ nào ánh mắt vẫn hướng về phía mình, chắc chắn ta nhớ nhầm… nhưng… nhưng lúc đó hình ảnh ta nhìn thấy có thân người.

      đoạn, ông chống ba-toong đứng dậy, vòng ra phía sau ngón tay khẽ chạm vào lưng tôi, rồi ghé sát vào tai tôi, rất bằng giọng điệu lạ lùng:

      - Ở đây, là ở đây, khuôn mặt đó… chính là ở chỗ này…

      Hơi nóng từ miệng ông phả thẳng vào tai tôi, khiến tôi cảm thấy buồn buồn nhưng lại dám động đậy. Mặc dù cách lớp áo dày, nhưng cảm giác sau lưng vẫn rất ràng, ngón tay ông Từ gõ từng nhát , lực gõ mỗi lúc mạnh, vị trí hề xê dịch, như muốn khẳng định với tôi, đây chính là vị trí mà cậu lóc da.

      Tôi ngồi thẳng lưng, lắc mạnh đầu, cố tập trung tinh thần phân tích: Xem ra trước mắt chỉ có khả năng, đầu tiên đúng là cậu có xăm hình mặt người, nhưng sau đó xoá xăm lại toàn thân người chiến sĩ, và khuôn mặt giữ nguyên đổi, vẫn là khuôn mặt cậu. Tất nhiên cũng có khả năng nữa, đó là bên dưới hình mặt người cậu xăm thêm hình vào. Thế nhưng vẫn tồn tại vấn đề trước đó, tại sao cậu phải làm thế, điều này quả thực khó hiểu.

      Sau khi quay lại chỗ ngồi, chúng tôi ai gì, hẹn mà gặp cùng nhìn vào bức ảnh. “Cậu” cũng hoảng hốt nhìn chúng tôi, miệng hơi nhếch lên, như muốn cho chúng tôi biết điều gì đó.

      Bên ngoài gió bấc gào thét, nhưng trong phòng lại vô cùng tĩnh mịch, chỉ có tiếng xoong nồi va vào nhau ở dưới bếp.

      Tôi nhìn ông Từ, ông cũng nhìn tôi, hai người cứ thế nhìn nhau mười mấy giây, sau đó cùng lắc đầu cười gượng.

      Đột nhiên, ông Từ à lên tiếng rồi vỗ mạnh vào thành ghế như chợt nhớ ra đièu gì đó. Ông câu:

      - theo ta! – Rồi đứng lên túm lấy tay tôi, chống gậy ba-toong bước nhanh vào thư phòng.

      Gian thư phòng diện tích lớn, chỉ khoảng năm sáu mét vuông, bức tường phía đông đặt giá sách gỗ rất lớn, chạm sát trần nhà và gần như che kín bức tường, bốn tầng xếp đầy những cuốn sách đủ loại, nhét chật cứng. Ba bức tường còn lại treo bức tranh thuỷ mặc. Ông Từ đứng trước giá sách, đưa ba-toong cho tôi rồi từ từ cúi người xuống đưa tay kéo cánh tủ ở tầng cuối cùng, lấy ra chồng những cuốn sách và mỏng, sau đó quay người nhàng đặt lên bàn làm việc.

      Tôi liếc nhìn, nhận ra đó là những cuốn nhật ký thông thường bọc bìa ni-lông xanh đỏ, bụi phủ đầy. Các hình hoa lá và hình người đều là những hình ảnh hết sức cũ kỹ bìa sổ của những năm 80 thế kỷ XX. Các trang bên trong quăn mép ố vàng, biết nó có từ bao năm rồi.

      Ông Từ rút ra cuốn ở dưới cùng, lấy tay áo lau sạch bụi, ngồi ghế, tay nhấm nước bọt, từ từ lật giở từng trang ra xem. Thỉnh thoảng ông dừng lại trầm tư, đôi mày chau lại, ánh mắt nhìn vô định, giống như hồi tưởng lại chuyện cũ năm xưa.

      Tôi đứng bên cạnh, lặng lẽ ngắm nhìn, hiểu dụng ý của ông là gì.

      Mãi lâu sau, ông Từ thẳng vai lại, có vẻ như đột ngột rời khỏi cơn trầm tư, vội vàng đứng dậy đóng cửa, quay lại bàn chỉ vào cuốn nhật ký đó, giọng nhát gừng:

      - Mấy hôm sau, tổ sáng tác được khảo sát ở Liên Xô, Thạch và ta ở chung phòng, ta… ta ghi lại những câu mớ của cậu ấy hằng đêm….

      - mớ? mớ gì cơ? – Tôi bắt đầu nghi ngờ, vốn dĩ tưởng là bí mật ghê gớm nào, sao giờ lại liên quan đến mớ, chẳng lẽ trong mơ cậu tiết lộ điều gì đó?

      Ánh mắt ông Từ đột nhiên trở nên sâu thẳm, ông khẽ gật đầu, đẩy cuốn nhật ký vào tay tôi, :

      - Đây là toàn bộ lời mớ của Thạch mấy tối đó, ta dám để lọt từ nào, cháu xem cẩn thận nhé.

      Tôi cầm cuốn nhật lý, thấy ngoài bìa hơi nước dần bốc hơi, đó chính là mồ hôi tay của ông Từ. Họng tôi khô khốc, vội nuốt khan miếng nước bọt, cảm giác hồi hộp chưa từng có, như thể chỉ cần mở cuốn nhật ký ra tìm ra lời giải đáp cho mọi thắc mắc chất chứa trong lòng.

      Tôi cố định thần lại, mở cuốn nhật ký ra theo chỉ dẫn của ông Từ rồi vội lật giở qua những trang đầu, bởi vì những trang đó đều là những ghi chép bình thường, theo lô-gic trật tự, tôi cứ thế lật thẳng đến trang ghi chép ngày đến Liên Xô.

      Theo cầu của Tổng bộ Chính trị quân Giải phóng, tổ sáng tác năm đó đến hai thành phố của Liên Xô cũ là Matxcova và Volgograd khảo sát tháng, phần nhật ký vừa tròn ba mươi bài, trong đó có hơn mười ba bài ghi lại những lời mớ của cậu.

      Nhật ký được ghi bằng loại bút mực màu xanh đậm, lâu ngày bị phai màu, nét chữ cẩu thả, thậm chí còn lên xuống rất khó đọc. Ông Từ với tôi, do viết vào ban đêm nên chữ có hơi khó đọc. Nghe đến việc ông nửa đêm khuya khoắt còn viết nhật ký, tôi ý thức được rằng những nội dung được ghi trong nhật ký chắc chắn phải nội dung bình thường, hai tay chợt run lên, khiến cuốn nhật ký cũng rung lên bần bật. Tôi hít sâu hơi, cố bình tĩnh lại, tập trung vào đọc.

      Những chữ viết trong cuốn sổ rời rạc lộn xộn, theo lô-gic nào cả, cả trang toàn là “bọn họ vẫn còn…”, “bọn họ nhìn…”, “bọn họ sao lại” v.v… chỉ có chủ ngữ, có vị ngữ, biết rốt cuộc cậu định gì.

      Đọc tiếp, tôi chợt phát thấy trong mỗi trang nhật ký đều xuất từ “vàng”.

      Trong cuốn nhật ký của hơn hai mươi năm trước, đều là những câu chữ khó hiểu, nếu đó là lời trong cơn mơ của cậu tại sao lại xuất nhiều từ “vàng” đến thế? Tôi thống kê sơ lược, trong mười ba bài nhật ký xuất tới bốn mươi hai từ “vàng”, phải chăng đây chính là điều kỳ lạ trong cuốn nhật ký?

      Nghe tôi hỏi, ông Từ mắt sáng lên, gật đầu tán thành rồi khẽ với tôi, lúc đó ông cũng tưởng mình nghe nhầm nên lắng nghe cẩn thận, nhưng đúng là “vàng” . Hơn nữa liên tục trong mười ba đêm, chắc chắn thể nghe nhầm được. Mà mỗi lần nhắc đến từ này, giọng cậu bỗng trở nên the thé chói tai, toàn thân run bần bật, thậm chí còn khóc lóc nghẹn ngào giống như gặp phải chuyện gì đáng sợ. Thế nhưng…

      đến đây, ông Từ đột nhiên dừng lại, môi khẽ mấp máy, bàn tay ông nắm rồi thả thả rồi nắm, cứ lặp lặp lại rất nhiều lần, đốt ngón tay kêu răng rắc, hơi thở cũng gấp gáp hơn.

      - Thế nhưng làm sao ạ? – Thấy thái độ khác thường của ông Từ, tim tôi thót lại, vội hỏi câu.

      Ông Từ ngập ngừng lúc, ngón tay lật giở lại những trang nhật ký, đến bài số mười ba, ông di chuyển ngón tay xuống đoạn cuối:

      - Thế nhưng ở đây cậu cháu lại những câu tương đối hoàn chỉnh.

      Tôi vội cúi xuống nhìn, quả nhiên, đoạn kết của bài nhật ký viết ràng: “Bọn họ nhất định ra, nhất định ra…”

      Tôi chau mày:

      - Ông Từ, câu này có nghĩa gì, cái gì ra?

      Ông Từ lắc đầu :

      - biết, đây là lần cuối cùng ta nghe Thạch mơ, sau đó nghe thấy thêm lần nào nữa.

      ra, bọn họ từ đâu ra? Trong đầu tôi đặt ra câu hỏi như vậy!

      Đọc xong mười ba bài nhật ký cũng gần tiếng đồng hồ trôi qua, mùi thơm hấp dẫn của thức ăn lọt qua khe cửa gọi mời. Tôi chậm rãi gấp cuốn nhật lý lại, mãi lâu được lời nào, đầu óc quay cuồng.

      vài câu của cậu trong mơ khiến tôi nghĩ ra điều gì đó. Kết hợp với những điều tra ban đầu, có thể trong thời gian cậu khảo sát ở Cẩm Châu phát ra bí mật nào đó trong Cổ Tháp hoặc trong chùa Đại Quảng Tế, và nó có liên quan đến vàng. “Bọn họ” được nhắc đến ở đây, có thể là số người biết chuyện khác. Nhưng tại sao lại là “Bọn họ nhất định ra”, điều này khó phán đoán, lẽ nào những người đó vẫn ở trong Cổ Tháp?

      Nghĩ vậy, tôi chợt thấy lạnh toát sống lưng, toàn thân run bắn, bên trong toà tháp cổ nghìn năm chẳng lẽ có giam giữ số người?

      thể nào! Tôi véo mạnh cái vào đùi, cố ngăn ý nghĩ quái dị đó. Nhưng đồng thời, tôi lại cảm thấy rất khó hiểu, cậu từ đầu đến cuối hề đề cập đến tấm Long Bản và hình xăm, tại sao lại thế?

      Tạm thời gạt bỏ những ý nghĩ hoang đường đó, tôi lại hỏi ông Từ, năm đó những hoạ sĩ Thẩm Dương tham gia tổ sáng tác tranh panorama còn có những ai?

      Ông vuốt vuốt râu, hai mắt sáng lên nhìn lên trần nhà suy nghĩ lát, rồi chậm rãi kể cho tôi, gồm cả ông có tất cả mười bốn người, đều là cựu giáo sư Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn. Thế nhưng hơn hai mươi năm trôi qua, đa số đều mất, chỉ còn có hai người ra nước ngoài mất liên lạc từ lâu, chắc cũng sớm ra rồi. Bản thân ông có thể sống đến ngày hôm nay cũng coi như được trời thương.

      Nghe ông vậy, tôi tiêu tan hết hi vọng, trong lòng nặng trĩu, xem ra manh mối này coi như đứt đoạn.

      Ăn tối tại nhà ông Từ xong, tôi và ông còn trò chuyện rất lâu, nhưng vẫn ra được manh mối nào có giá trị. Thấy ông cụ dáng vẻ mệt mỏi, có vẻ tiếp tục cuộc chuyện được nữa, tôi dặn ông giữ gìn sức khoẻ rồi cáo từ ra về.

    5. ThuyThuy0411

      ThuyThuy0411 Well-Known Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      507
      Chương 9: Lại người nữa mất tích

      Chỉ nghe thấy “xoạch” tiếng, bả vai phải rung lên, vật cứng sắc nhọn đâm mạnh, tiếp đó là cảm giác đau thấu tim. Tôi bị trúng nhát dao.

      Tôi kêu lên tiếng, tay trái bám chặt lấy lan can, nhảy lên phía . Chỗ xương cốt bị lưỡi dao phạm phải, ngừng kêu răng rắc.

      Vừa ra khỏi cửa cầu thang, cơn gió mạnh cuốn theo những hạt tuyết tạt thẳng vào mũi tôi, gần như thở nổi, vô cùng khó chịu. Tôi vội quay người lại, ho vài tiếng, day day mũi rồi dựng cổ áo jacket cho đỡ lạnh, tiện đà đánh mắt nhìn lên .

      Chợt tôi nhìn thấy bóng người đứng trước cửa sổ nhà ông Từ, đầu nghiêng nghiêng, hai tay bám vào song cửa, dán mắt nhìn theo tôi. Ánh sáng trắng hắt ra từ sau lưng khiến dáng người lên mờ tối, trông hệt như bức tranh thủy mặc. Do khoảng cách xa nên tôi nhìn mặt, nhưng nhìn hình dáng đúng là ông Từ. Có lẽ do phát ra tôi quay đầu lại nhìn, hai tay ông vội kéo tấm rèm cửa lại, quay người bước , sau đó ánh đèn cũng vụt tắt.

      Tôi ngây người đứng nhìn lúc, sau đó lắc đầu quay , từ từ rời khỏi khu chung cư chìm trong gió tuyết.

      Lúc đó đúng mười rưỡi đêm, trời tối đen, tuyết ngày càng dày, nhưng gió hơn. Đường phố vắng tanh vắng ngắt, bóng người hay xe cộ.

      Tâm trạng rối bời, tôi muốn bắt xe mà vừa khoanh tay ôm hai vai chậm rãi bước từng bước vỉa hè vừa ngẫm nghĩ lại những lời ban nãy của ông Từ. Bên tai ngoài tiếng tuyết rơi, bốn bề đều vô cùng yên tĩnh.

      Ánh đèn đường đỉnh đầu hắt xuống yếu ớt, khắp nơi đều màu vàng ảm đạm, tuyết lớn làm giảm bớt tầm nhìn, khiến khung cảnh phía xa mờ mờ ảo ảo. Dưới chân, tiếng lớp tuyết bị giẫm vỡ kêu lạo xạo, trong đầu cũng phút thảnh thơi, cứ tưởng lần này có thêm thu hoạch, ngờ lại thêm mớ nghi hoặc vào đầu.

      Những bông tuyết to bằng móng tay cứ thế rơi vào đầu, vào mặt, vào áo jacket, rồi lại nhanh chóng tan . Càng , tôi càng thấy lạnh, cơ thể như bị đóng băng, ngón chân vừa tê vừa đau, chịu nổi nữa, tôi liền dừng lại, định gọi chiếc taxi. Thế nhưng đúng giây phút dừng bước, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng động rất lạ.

      Tiếng động phát ra từ sau lưng, cực ngắn và , như thể dừng lại theo đúng nhịp bước chân tôi. Trong thoáng chốc, tôi xác định được nguồn gốc của tiếng động.

      Đó chỉ là tiếng động được phát ra do bước chân người giẫm lên tuyết, mà còn là thanh phát ra khi chân chạm hẳn xuống, sau đó lập tức dừng phắt lại.

      Tim tôi đập loạn xạ, tâm trí cực kỳ hoảng hốt khi phát ra có kẻ theo dõi!

      Vốn dĩ phản xạ đầu tiên phải là quay đầu lại, nhưng tôi lập tức dừng ngay lại, trong đầu suy luận rất nhanh: Là ai chứ? Là lính đặc công do Bộ Công an cử theo? , thể nào, họ chỉ phụ trách bảo vệ Tiểu Đường, tôi chẳng qua là đối tượng ăn theo, nếu phải họ, chắc chắn đó là hung thủ giấu mặt, xem ra chúng theo đến tận Thẩm Dương.

      Những suy nghĩ đó ra rất nhanh chỉ trong chớp mắt, có nhiều thời gian để phân tích kỹ, tôi lập tức điều chỉnh động tác quay đầu của mình, cố tình làm ra vẻ tự nhiên, tiện đà giơ cổ tay lên xem đồng hồ.

      Tôi vờ như tìm ánh sáng, giơ cánh tay lên góc đặc biệt phía trước lông mày, ánh sáng đèn đường vừa vặn chếch 45 độ, hình ảnh phía sau lưng phản chiếu lên mặt đồng hồ giúp tôi quan sát được cơ bản tình hình.

      mặt đồng hồ, mờ mờ ra bóng người đen sì phía sau, những hạt tuyết theo gió rơi liên tục xuống đầu, xuống vai người đó...

      Tôi vốn có nghề trong việc khám nghiệm trường hình , nên khả năng nắm bắt cự ly, phương hướng khá chính xác. Tuy hình ảnh mặt đồng hồ chỉ mờ mờ, nhưng kết hợp với góc độ phản chiếu ánh sáng, khoảng cách dự đoán bằng mắt và độ sáng tối của gian lúc đó, trong đầu tôi nhẩm tính rồi đưa ra nhận định cơ bản về hình dáng của người này: Cao khoảng mét bảy, chiều cao và cân nặng xấp xỉ tôi, so với đàn ông thuộc dạng gầy , cách tôi khoảng 15-16 mét.

      Thấy bóng đen đứng im bất động, tôi từ từ hạ tay xuống, ý nghĩ thoáng qua đầu, xem ra tôi lại bị theo dõi rồi. định giả vờ gọi xe để tranh thủ quan sát, nhưng suy nghĩ lại, tôi quyết định phải bắt sống.

      Tôi giả vờ hà hơi vào tay cho ấm, sau đó nhấc chân tiếp, tinh thần căng thẳng tột cùng, con ngươi đảo liên tục, nhìn quanh tứ phía, chuẩn bị tìm thời cơ và địa điểm thích hợp để ra tay.

      Tuyết hôm đó rất nhiều, từng bông tuyết cứ thế tới tấp rơi xuống, kết thành vô số những đường kẻ màu trắng dài trung rồi cắm thẳng xuống lớp tuyết dưới đất, phát ra thanh bộp bộp. Phía xa thỉnh thoảng quét qua mấy tia sáng yếu ớt, tiếp đó là tiếng còi ô-tô vọng lại, còn lại xung quanh hết sức yên tĩnh vắng vẻ.

      Tôi cố tình giảm nhịp thở, hai tay đút vào túi áo, nhấc cao chân rồi hạ xuống, cố gắng làm giảm lực giẫm của đôi chân để phát ra thanh quá to, đồng thời căng tai lắng nghe động tĩnh sau lưng.

      Rất nhanh, tôi phát ra trong khoảng thời gian chân tôi nhấc lên và hạ xuống, bóng đen dường như cũng giữ tốc độ bước giống tôi, tiếng bước chân giẫm xuống ngắn, dứt khoát và đều đặn, đồng thời cũng rất .

      Tôi nuốt nước bọt đánh ực, trong lòng bắt đầu thấp thỏm, đây chính là thuật theo dõi đêm tuyết đây. Còn nhớ hồi học đại học, tôi được học điều này trong môn Kỹ thuật Thực chiến, điểm cốt lõi trong thuật theo dõi đêm tuyết là phải hạ chân xuống trong khoảng giữa nhịp chân của người trước, như vậy vừa có thể tránh phát ra thanh lại có thể che giấu được hành vi của mình. Xem ra người này chính là cao thủ theo dõi.

      Tôi từ từ tiến về phía trước, cố gắng giữ yên đầu, nhưng hai mắt quét đảo sang tứ phía, trong đầu phân tích rất nhanh tình hình trước mắt, chỉ mong có thể tìm ra cách khả dĩ để khống chế .

      được khoảng hơn hai trăm mét, tôi nhìn thấy bên đường có vườn hoa, bên ngoài có hàng rào bảo vệ, bên trong trồng những cây thông cao vút, đỉnh thông vương đầy hoa tuyết, nặng trĩu, xòa cả ra ngoài đường. Phía trước xa, có lối rẽ sang phải.

      Tôi lập tức nghĩ ra kế, liền rút điện thoại trong túi áo ra, vừa vừa nhấn số lung tung, đồng thời cố tình so vai lên để cho kẻ đằng sau đoán ra ý đồ của tôi, lần bấm cuối cùng tôi ấn và giữ phím #, điều chỉnh điện thoại về chế độ yên lặng.

      Tôi áp điện thoại lên tai, đợi vài giây, sau đó cất cao giọng, giả vờ cấp bách:

      - Alô... ừ... là tớ đây... vừa mới ra... đen đủi quá, gọi được xe. Trời lạnh chết khiếp được, cóng hết cả người rồi. – Vừa chuyện, tôi vừa tăng tốc bước vào lối rẽ.

      Liếc thấy những cành cây đủ che khuất, tôi liền dừng lại, khẽ xoay gót nhàng quay người lại, đứng yên giữa trời tuyết, nhanh chóng cắt điện thoại, rồi chuẩn bị sẵn sàng ôm cây đợi thỏ.

      Lúc đó tôi cứ ngỡ mình triển khai để lọt sơ hở nào, nhưng đến hôm nay nghĩ lại, tôi mới thấy mình đúng là chứng nào tật nấy, lại vẫn giữ thói tự tin võ đoán.

      Sau khi dừng lại, tôi dán mắt nhìn ra phía đầu đường, hai tay nắm chặt, người hơi khuỵu xuống, sẵn sàng tư thế tấn công. Thế nhưng đợi hơn chục giây, tôi nhận ra chẳng nghe thấy tiếng bước chân nào cả.

      Trong lòng bắt đầu nảy sinh nghi ngờ, rồi chợt ngộ ra, bóng đen cố ý bám theo tôi nên đồng thời cũng lắng nghe động tĩnh của tôi, sau khi rẽ sang đường nhánh tôi chợt đứng im, tiếng động cũng mất theo, chắc chắn điều đó khiến cho đối phương nghi ngờ, và chắc chắn cũng dừng lại, thậm chí chạy mất từ lâu.

      Tôi thầm nguyền rủa mình đúng là đồ óc lợn, sao có thể phạm phải sai lầm nghiêm trọng như vậy chứ, tôi quyết định thể bỏ lỡ cơ hội trước mắt, hai chân liền bật dậy, chạy như bay băng chéo qua chỗ rẽ đầu đường. Như vậy vừa có thể quan sát đối phương lại vừa có thể chủ động giữ khoảng cách nhất định, tránh bị ta mai phục tấn công. Thế nhưng nhìn quanh lượt, tôi ngẩn người ra, vỉa hè chỉ có ánh đèn đường hắt xuống ảm đạm, những bông tuyết đua nhau rơi xuống và hai hàng dấu chân mà chẳng thấy bóng người đâu.

      Mẹ kiếp, tên khốn đó biến mât rồi chắc? Tôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, chạy nhanh đến, quỳ xuống quan sát tỉ mỉ dấu chân mặt đất.

      Dấu chân đầu tiên ở góc đường, mũi chân hướng về phía trước, khoảng cỡ 37, nhìn hoa văn đế giầy để lại chính là giầy của tôi, có dấu vết gì khác. Dấu chân thứ hai cũng vậy, có vấn đề gì, dấu chân thứ ba... dấu chân thứ tư... Tôi lần ngược theo dấu chân, cứ thế từ từ giật lùi về sau, mãi đến dấu chân thứ mười bảy, quả nhiên phát ra điều bất thường.

      Viền xung quanh dấu chân này nứt rộng ra ràng là bị dấu chân khác đè lên, hoa văn bị vỡ lung tung chứng tỏ có kẻ giẫm lên. Xem tiếp dấu chân thứ mười tám, cũng lại như vậy.

      Tôi từ từ đứng thẳng người lên, dậm dậm đôi chân tê cứng, đưa tay lên bóp trán, trong lòng hoang mang tột độ, chẳng lẽ kẻ đó bám theo đến đây rồi đột nhiên biến mất?

      Bỗng nhiên, như nghĩ ra điều gì đó, tôi vội quỳ xuống nền tuyết, cúi thấp người tiếp tục quan sát. Mép bên phải trong dấu chân thứ mười tám nghiêng góc khá lớn, tôi thò tay chạm , hạt tuyết rất xốp. Vị trí lòng bàn chân hơi sâu, vị trí gót chân lại rất nông, xem ra người này nhất định quay người sang phải, cho nên mới để lại dấu chân như thế.

      Tim tôi bỗng thót lại, chợt cảm thấy có gì đó bất ổn. Nhưng chưa kịp nghĩ ra đuôi mắt tôi liếc thấy giữa lùm cây trong vườn hoa có bóng người đen sì đứng thẳng, ánh đèn đường chiếu hắt qua, giữa cơ thể , tia sáng dài và di chuyển nhanh...

      Dao!

      Thoáng chốc, bóng đen vụt xông ra, nhành cây bị va quệt mạnh kêu rắc rắc, lớp tuyết dày phủ cành cây rào rào rơi xuống. xông đến trước mặt tôi, cánh tay giơ lên vụt giáng xuống, con dao vạch vệt hình vòng cung sáng lóa, nhằm thẳng vào mặt tôi.

      Cự ly quá gần, lại kịp đề phòng, tôi quỳ sụp xuống đất, tuyết dày đường trơn, trợ sức được. Loáng thấy nhát dao sắp đâm trúng mặt, tôi sợ hãi toàn thân vã mồ hôi lạnh.

      Thế nhưng đúng lúc nguy cấp như thế, sức mạnh bản thân chợt được khơi dậy, hai tay chống xuống đất, cuộn mình lăn sang làn đường dành cho xe đạp. “Bịch!” gáy tôi đập mạnh vào vỉa hè lát đá đau điếng, mắt nảy đom đóm.

      Chưa để tôi kịp đứng dậy, bóng đen lại xông đến, giơ chân phải lên định đạp mạnh vào mặt tôi. Tôi nghiêng người né được cú trời giáng vào mặt nhưng vai lại bị hứng cú khá đau, tôi lăn tiếp mấy mét ra giữa lòng đường. Trong tình thế cấp bách, tôi tiện tay nắm lấy hai nắm tuyết, vo chặt rồi ném mạnh về phía .

      giơ cánh tay để đỡ, những hạt tuyết vỡ ra bay tung tóe, phút chốc làm thành lá chắn . Thấy bóng đen bị chặn lại, tôi liền bò chồm lên, đứng chính diện với .

      Dưới ánh sáng mù mờ của ngọn đèn đường, lúc này tôi mới nhìn : Đầu cua, mũi quặp, mặt dài, đúng là gã lùn giao đấu với tôi bên bờ sông Linh Hà tối hôm đó.

      Mặc dù bất ngờ về thân phận của bóng đen, nhưng điều khiến tôi khó hiểu hơn cả là lần trước thấy khá đù đờ tại sao hôm nay lại trở nên linh hoạt như vậy, lại còn nắm vững được thuật theo dõi cực kỳ cao siêu nữa.

      Thấy tiếp tục vung dao lao tới, tôi biết tay chắc chắn đánh nổi, liền quay người co chân bỏ chạy. Gã lùn bám đuổi riết theo sau, con dao lăm lăm trong tay.

      Đêm khuya tuyết lớn, đường phố vắng vẻ, chúng tôi trước sau rượt đuổi nhau. Những bông tuyết rơi xuống mặt lập tức bị mồ hôi làm tan chảy, tiếng thở hổn hển của hai bên nghe thấy , lớp tuyết dưới chân bị đạp vỡ lạo xạo.

      Mấy lần tôi suýt bị đuổi kịp, lưỡi dao sắc lạnh lướt qua tai, chém phải tóc rơi lả tả, nếu né nhanh, có lẽ tôi bị đâm chết từ lâu.

      Tôi lấy hết sức bình sinh, chạy thục mạng dọc theo con phố, miệng thở hồng hộc, hít từng hớp khí lạnh toát vào phổi, người nóng hầm hập, vô cùng khó chịu.

      Chạy hồi lâu, vẫn chẳng thấy bóng người, tôi sốt ruột chửi rủa, trật tự trị an Thẩm Dương là cái kiểu quái gì đây, rượt đuổi chém người giữa đường lúc lâu mà chẳng có cảnh sát nào xuất ? Nhưng đột nhiên tôi lại nghĩ, lần trước tôi đuổi theo , bây giờ đuổi theo tôi, trong khi tôi lại là cảnh sát, điều này chẳng phải quá ư nực cười sao?

      đường thỉnh thoảng có mấy chiếc xe lao qua, nhưng nhìn thấy cảnh tượng này, những dừng lại giúp đỡ mà tất cả còn tăng tốc vọt , khiến tôi tức điên lên cứ thế chửi thầm trong bụng: Mẹ nó chứ, cầu cho chúng mày bị lật xe hết !

      Chạy được gần ki-lô-mét, tôi hoàn toàn kiệt sức sau quãng đường dài, thực mệt chịu nổi, tim đập loạn xạ, ngực đau như muốn nổ tung, tức hết mạn sườn.

      Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy phía trước có mấy cái nhà ống tối tăm tồi tàn, nằm san sát nhau. Trong tình thế cấp bách, tôi lao luôn vào đó, luồn lách hồi rồi chui vào gầm cầu thang tối om.

      Chạy vào gian kín đáo vốn là điều tối kỵ khi muốn thoát khỏi truy đuổi, nhưng tôi vẫn chui vào vì trong đầu nảy ra kế hoạch khác. Chẳng là tôi nhận định, những căn nhà cũ kiểu này lâu rồi được sửa chữa, đèn hành lang chắc chắn bị hỏng hết, vì thế trước khi xông vào tôi ước đoán trong đầu tình hình xung quanh và đoạn đường phía trước, rồi nhắm mắt xông vào trong gầm cầu thang, lúc sau mới mở mắt ra, vì thế nên cảm thấy quá tối.

      Khi cảm nhận thấy chân giẫm lên chiếu nghỉ cầu thang tầng , tôi mới giơ tay ra bám lấy lan can đề phòng bị trượt chân, rồi chạy thẳng lên tầng hai. Cùng lúc đó, tôi nghe thấy sau lưng mình gã lùn cũng đuổi đến, nhưng tiếng bước chân chậm và hơn rệt.

      Tôi mừng thầm trong bụng, trong căn nhà tối om như thế này, gã lùn đó nhất thời nhìn mọi vật, liền quay phắt người lại, vịn vào lan can lao xuống, định tấn công bất ngờ nhân lúc kịp đề phòng.

      ngờ vừa lao gần đến nơi, bỗng nghe tiếng “tạch”, gầm cầu thang lóe lên rồi ngọn lửa xanh lét tỏa sáng từ chiếc bật lửa.

      Do gian hẹp, ánh lửa lập tức chiếu sáng gầm cầu thang tối om, soi bộ dạng của cả hai người.

      Thấy tôi lao xuống, gã lùn sững người, nhưng ngay lập tức nhếch mép cười khả ố rồi vung con dao trong tay lên.

      Tôi nhủ thầm trong bụng đúng là đen tới số, vội quay người lại, nhưng kịp nữa. Chỉ nghe thấy “xoạch!” tiếng, bả vai phải rung lên, vật cứng sắc nhọn đâm mạnh, tiếp đó là cảm giác đau thấu tim. Tôi bị trúng nhát dao.

      Tôi kêu lên tiếng, tay trái bám chặt lấy lan can, nhảy lên phía . Chỗ xương cốt bị lưỡi dao chạm phải, ngừng kêu răng rắc.

      Vừa lên được vài bậc thang, cổ áo bỗng bị thít chặt từ phía sau, tôi bị tóm gọn. Tôi gắng sức giật mạnh khỏi tay , rồi theo đà nằm sấp xuống, xoay người mặt đối mặt với gã lùn.

      phản ứng cũng rất nhanh, nhảy lên phía trước bước, chân phải giẫm lên tay trái tôi, ép nửa người xuống, giơ con dao nhọn trong tay lên, nhằm tôi đâm tới.

      Lúc này, tôi tay bị thương, tay bị giẫm, hoàn toàn mất khả năng phòng vệ. Thấy con dao chuẩn bị đâm vào mặt, tôi nghiêng đầu né rồi dùng hết sức bình sinh, co đầu gối lên thúc mạnh vào háng của .

      Đầu gối cứng như đá của tôi huých cú như trời giáng vào đúng giữa háng , mạnh đến nỗi tôi cũng cảm thấy đau điếng người.

      Gã lùn kêu lên tiếng thảm thiết, người nhảy dựng lên, “coong... coong...” con dao nhọn và chiếc bật lửa rơi xuống đất, ôm đũng quần ngã lăn ra đất. Lực giẫm dưới chân bỗng mạnh hơn, vừa day vừa nghiến, gần như giẫm nát bàn tay tôi.

      Tôi cố nén đau, chống hai cùi chỏ lên bậc thang, lùi lên phía để tránh bị tấn công tiếp.

      Gã lùn cố bò dậy, miệng ngừng rên rỉ, đứng dựa vào tường. Ánh lửa chiếu vào mặt trông vô cùng dữ tợn và đáng sợ. há miệng mấy lần nhưng phát ra tiếng gì, mấy lần định vồ lấy tôi nhưng lại dám.

      Cầm cự hồi lâu, gã lùn đột nhiên hai tay ôm chặt đũng quần, loạng choạng chạy ra khỏi khu nhà.

      Mắt tôi nhìn theo trân trân, để mặc bỏ , dám đuổi theo, sau đó co người lại nằm xuống đất, há miệng thở dốc, trong bụng vẫn còn run sợ. Nếu lúc này đâm cho nhát, ngày mai tôi chỉ còn là cái xác chết cóng thôi.

      Tiếng rên rỉ xa dần rồi mất hẳn, chiếc bật lửa dưới đất vẫn bật cháy, hình như là loại zippo vỏ inox. Gió lạnh lùa sát nền đất, ngọn lửa chập chờn, phát ra tiếng kêu phụt phụt, hình ảnh xung quanh cũng chập chờn theo ánh lửa.

      Tôi dựng tai lắng nghe, khi chắc chắn xa mới từ từ bò dậy, ngồi thần người bậc thang. Mông cứng ngắc lạnh toát còn vai và bàn tay đau rát như thiêu đốt, tôi dám động đậy, chỉ tựa vào lan can cầu thang.

      Lúc này, từ trong cánh cửa sắt của hộ gia đình bên cạnh chợt vọng ra tiếng chửi rủa của người đàn ông trung niên:

      - Ngoài kia kêu gào cái đ. gì thế, nửa đêm nửa hôm, còn làm ầm nữa tao báo cảnh sát đấy.

      Tôi nhổ phì cái, trong bụng thầm đắc ý: Ai bảo theo dõi tao. Mẹ kiếp! Hôm nay cho tiệt giống nhà mày...

      đúng! Tôi chợt sững người lại, ý nghĩ đáng sợ vụt lên trong đầu, đại não chợt tê dại, cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng đến tận gót chân. đúng, đúng, phải... phải là đàn ông!

      Vừa nãy khi đầu gối thúc vào háng , tôi có cảm giác hoàn toàn chỉ là xương va vào nhau, chỗ háng của hề có cái ấy, vậy chắc chắn phải đàn ông rồi. Thế nhưng khuôn mặt , dáng vẻ , lại còn giọng nữa, chẳng giống phụ nữ chút nào.

      Tôi xoa đầu gối, cố hồi tưởng lại cảm giác lúc nãy, có lẽ phải đàn ông , mà là nữ giả nam, thế nhưng sao lại giống như vậy được.

      Nghĩ lại trước đó đầu mẩu thuốc lá tìm được dấu vân tay, tôi vịn vào lan can đứng dậy, rút khăn mùi soa bọc con dao và chiếc bật lửa mặt đất lại, nhét vào túi áo, sau đó từ từ bước ra khỏi khu nhà.

      Vết thương sau vai nhức lên từng cơn, máu chảy ồ ạt cầm được, chảy dọc theo sống lưng vào cả trong quần; nhưng theo kinh nghiệm, tôi đoán chắc chỉ là vết thương ngoài da, nguy hiểm lắm. Tôi cắn chặt môi, nghiêng đầu sang bên, khuỷu tay choãi mạnh về phía sau giống tư thế người bẻ lưng cho đỡ mỏi, tay còn lại với đến chỗ bả vai, bịt chặt chỗ vết thương, ngăn cho máu chảy ra.

      Bên ngoài tuyết vẫn gầm gào, nhiệt độ xuống rất thấp, ít nhất cũng hai mươi độ. Tôi đứng bên đường hồi lâu, tuyết rơi đầy đầu, lạnh đến nỗi răng va vào nhau lập cập, người cóng như que kem, mãi mới bắt được chiếc taxi đến bệnh viện gần nhất.

      Vừa được đoạn ngắn, tôi chợt giật thót mình khi nghĩ đến việc: Gã lùn (cũng có thể là phụ nữ) bám theo tôi suốt cả quãng đường, chắc chắn có ý đồ tốt, nay lại bị hớ như vậy, lẽ nào quay ra hạ thủ ông Từ ? Nghĩ vậy, tôi vội bảo lái xe quay lại đường cũ.

      đường , tôi rút điện thoại gọi vào máy điện thoại bàn nhà ông Từ. Cảm ơn trời phật, bồ tát phù hộ, ông cụ vẫn bình yên vô , vừa đánh răng rửa mặt lên giường ngủ, nhưng ông có vẻ ngạc nhiên khi nhận cú điện thoại lúc nửa đêm của tôi.

      taxi tôi tiện giải thích, chỉ là nhớ ra vài việc quan trọng, muốn gặp và trao đổi trực tiếp với ông, bảo ông nhất định phải chờ, ngoài tôi ra ai gọi cửa cũng được mở.

      Ông Từ hỏi thêm gì, vui vẻ nhận lời. Lúc cúp điện thoại, tôi nghe láng máng bên cạnh có tiếng người gì đó, sau đó điện thoại cắt hẳn.

      Mặc dù giọng đó ràng, cũng phân biệt được là nam hay nữ, nhưng tôi cứ có cảm giác cực kỳ quen tai. Lúc đó, tôi cứ mặc định trong đầu đấy có thể là giọng của vợ ông, nên cũng nghĩ ngợi gì thêm.

      Trong lòng tôi vẫn luôn có tảng đá đè nặng trĩu, giờ tôi bị thương nếu lại gặp phải kẻ nào đó tấn công, chắc chống chọi nổi. Nghĩ lúc, tôi rút điện thoại ra gọi cho Tiểu Đường, báo cho bé địa chỉ nhà ông Từ, rằng mình gặp số chuyện rắc rối, bảo mau đến.

      Lúc đó trong đầu tôi tính toán rằng, bên cạnh Tiểu Đường luôn có lính đặc công của Bộ Công an bảo vệ, lúc cần thiết, cũng coi là có người trợ giúp mình, mà nếu họ giúp cũng coi như cổ vũ mình.

      Trong xe bật điều hòa, lạnh cóng, chẳng biết là do hỏng hay là muốn tiết kiệm xăng. Máu cầm lại, vai tôi chuyển sang cảm giác tê tê ngứa ngứa, cứ như có đàn kiến bò lung tung đó, hết sức khó chịu, nhưng lại dám gãi.

      Tôi xoay người, ngồi nghiêng ghế, cố gắng ngồi bất động, trong đầu cứ suy nghĩ miên man. Gã lùn sao lại có thể là phụ nữ chứ, lần trước ở Cẩm Châu chỉ là muốn hại tôi, sao lần này lại muốn ra tay sát hại? Chẳng lẽ lần này việc tôi gặp gỡ ông Từ khiến chúng lo lắng nên cố tình diệt cỏ tận gốc?

      Nghĩ nghĩ lại, đầu tôi lại càng rối tung lên.

      Bên ngoài trời lạnh cóng, cửa sổ xe phủ lớp băng dày, nhìn đến đâu. Tôi đưa tay quệt vài đường cửa kính xe, ghé trán vào nhìn ra ngoài.

      Cái lạnh cửa kính ngấm vào da thịt, rồi nhanh chóng lan tỏa khắp người khiến cho cái đầu nóng bừng vì mớ bòng bong của tôi bỗng trở nên tỉnh táo hơn.

      Nhìn thành phố tĩnh lặng trôi chầm chậm trong đêm, đầu óc váng vất, có lúc tôi nghĩ đến việc đầu hàng, cảm giác như thế giới này có lẽ chưa từng thuộc về mình, tất cả đều lạ lẫm, giống những gì mình nghĩ. việc rồi về đâu? Số phận tương lai của tôi rồi như thế nào?

      Ngẩn ngơ hồi lâu, tôi đột nhiên vỗ mạnh vào đùi, vì chợt nhớ ra chuyện quan trọng. Hồi trước thầy liệm trang Mã Trấn Quốc mất tích bí , khóa cửa hề bị cậy phá, chứng tỏ hung thủ nhất định là người quen gọi cửa, còn bây giờ ông Từ Vạn Lý...

      Tôi thầm kêu giời, xem ra mình lại sơ ý rồi, ngong ngóng gọi điện lại cho ông Từ, mặc dù chỉ cách có mười phút mà sao liên lạc được. Lòng tôi như lửa đốt, luôn miệng giục tài xế lái nhan hơn nữa.

      tài xế bị tôi giục nhiều, bực mình quay lại lườm cái, giọng bực bội:

      - Chị ơi, đừng đùa nữa, bằng lái của tôi bị phạt chín điểm rồi, chị còn muốn tôi kiếm cơm hay hả?

      đường lớp tuyết rơi rất dày, xe rất khó , liên tục trượt và chết máy, thể tăng tốc hơn được, hơn nửa tiếng sau mới đến nơi.

      Vừa nhìn thấy khu chung cư nhà ông Từ ở phía trước, tôi rút vội ra năm mươi tệ, đặt lên bệ lái, rồi đợi lấy lại tiền thừa, cứ thế đẩy cửa nhảy vội xuống xe.

      Tôi lảo đảo chạy đến cổng khu chung cư, vừa đúng lúc cánh cổng tự động bật mở, bên trong hắt ra hai chùm ánh sáng trắng, có lẽ có xe ra.

      Tôi tránh người sang bên, chạy mạch đến chân tòa nhà, ngửa mặt nhìn lên cửa sổ nhà ông Từ, thấy rèm cửa kéo kín, phòng ốc tối om, liền giơ tay ấn chuông.

      Tiếng chuông cửa chết tiệt cứ réo liên hồi nhưng mãi chẳng thấy ai trả lời, tôi sốt ruột cuống cả lên, liên tục trách mình phản ứng chậm chạp, ông Từ chắc chắn xảy ra chuyện rồi.

      ân hận giày vò, đột nhiên có bàn tay vỗ lên vai tôi. Cái vỗ đó trúng ngay vết thương khiến tôi đau điếng người, suýt nữa kêu thành tiếng. Tôi sợ hú hồn, tưởng có kẻ đánh lén, liền nhảy vội sang bên, quay đầu lại nhìn.

      Hóa ra tôi lo hão, người đó là Tiểu Đường, bé mặc chiếc áo lông vũ màu trắng trông đáng như chú gấu con, chớp chớp mắt, nhìn tôi đầy nghi ngờ. Sau lưng còn có ba người đàn ông cao to, mặc áo da màu đen, cắt đầu cua, vẻ mặt lạnh lùng, ánh mắt tinh nhanh, chắc chắn là lính đặc công của Bộ Công an. Bọn họ xuất đầu lộ diện như thế này, chắc là do Tiểu Đường cầu.

      Tôi cũng có thời gian khách sáo nữa, vội thuật sơ qua chuyện vừa xảy ra cho bọn họ nghe, và cả những suy đoán của tôi nữa.

      Tiểu Đường tuy là người bề ngoài lạnh lùng nhưng ra lại hết sức nhiệt tình, nghe tôi kể xong liền rút điện thoại ra, :

      - Chị Tiêu Vi, chị còn nghĩ ngợi gì nữa, mau báo cảnh sát !

      đợi tôi đáp lời, người đàn ông khoảng 48, 49 tuổi, để râu ngắn, trông có vẻ như là đội trưởng liền lắc đầu, khẽ:

      - cần phiền phức như vậy đâu, để tôi xem khóa cửa xem sao.

      Người đàn ông đó đến trước cánh cửa, khuỵu gối xuống, vuốt vuốt ổ khóa, tay phải rút từ trong ngực áo ra cây kim màu trắng khá dài và mảnh trông hơi giống chiếc kẹp tóc, đoạn đầu có chia nhánh, nhàng cắm vào ổ khóa, xoay xoay mấy cái, cánh cửa sắt liền khẽ phát ra tiếng “cạch”.

      Tiểu Đường chen lên trước mấy bước, tò mò hỏi:

      - Ôi, Lão Mục, hóa ra chú cũng biết mở khóa à? Nhưng có vẻ như mở nhanh bằng chị Lan Lan.

      Lão Mục rút cây kim loại ra, quay đầu nhìn Tiểu Đường mỉm cười, vuốt vuốt râu, gì.

      Mặc dù chưa nhìn thấy Lan Lan ra tay mở khóa bao giờ, nhưng tôi thấy cách thức mở khóa của Lão Mục vô cùng điêu luyện, xem ra người lính đặc công này thực tay có hạng. Thế nhưng mở khóa và theo dõi đều là những kĩ năng bắt buộc trong nghề này, nên tôi cũng lấy làm ngạc nhiên.

      Sau khi mở được cánh cửa sắt, chúng tôi vừa định xông lên gác Lão Mục vội ngăn chúng tôi lại, thăm dò xung quanh lượt rồi quay sang với thanh niên cùng:

      - Cậu canh chừng ở lối dưới, nếu sau khi chúng tôi lên gác, có người mở cửa vào nhớ đừng làm họ giật mình, chỉ cần theo lên là được.

      Người thanh niên đó chút chần chừ, tuân lệnh xuống. Thấy Lão Mục sắp xếp như vậy, tôi khẽ gật đầu, nghĩ bụng người này cũng cẩn thận chu đáo.

      Chúng tôi bước nhanh theo Lão Mục lên gác. Cửa nhà ông Từ đóng kín, ổ khóa còn nguyên vẹn, bề mặt thấy dấu vết cậy phá, gõ cửa hồi lâu thấy người ra mở. Lão Mục lại chọc cây kim loại vào, lắc lắc mấy cái, ổ khóa liền mở ra.

      Theo thói quen, tôi nhấc chân phải lên, định đạp cửa xông vào. Lão Mục chặn ngay lại, lắc đầu khẽ :

      - Đừng vội, những căn nhà kiểu cũ này đều là loại cửa kéo đấy.

      đoạn, ta lại vê vê đầu ngón tay, đầu cây kim loại chĩa sang hai bên, bám chặt lấy ổ khóa. ta nắm lấy đuôi kim loại, kéo cánh cửa ra để hở khe , lách người về phía bản lề cửa.

      Tôi thầm khen giỏi, đúng là trình độ của lính đặc công cao siêu , mở cửa cũng rất cẩn thận.

      Luồng khí nóng ùa qua khe cửa, trong phòng tối om, tiếng động gì.

      Cánh cửa được kéo rộng hơn, Lão Mục đứng dậy, khom lưng thò đầu vào trong quan sát cẩn thận, kiểm tra xem có người mai phục . Sau mấy giây, ta đột nhiên thò tay vào trong, mò công tắc điện bật đèn lên rồi bước vào trước.

      Tôi chau mày, ta hành quá chủ quan, định nhắc là phải giữ lại dấu vân tay, bỗng kịp hiểu ra: Nếu là người quen gọi cửa công tắc đèn chỉ lưu lại dấu vân tay của người trong nhà, hơn nữa tên hung thủ thân phận ràng, cho dù có tìm thấy dấu chân phỏng có ích gì.

      Nghĩ vậy, tôi bắt đầu thấy thán phục Lão Mục, trong thời gian ngắn mà suy nghĩ chu đáo, hành quyết đoán như vậy, quả thực đơn giản.

      Phòng khách cũng có gì khác thường, mặt sàn rất sạch , có bất kỳ dấu chân dính bùn dính tuyết nào cả.

      Tôi dẫn bọn họ vào trong phòng ngủ. Sau khi đèn bật sáng, chúng tôi thấy giường có hai bộ chăn gối, ràng hai vợ chồng ông Từ ngủ; thò tay vào trong chăn, vẫn còn hơi ấm; tủ đầu giường còn để lọ thuốc an thần và nửa chai nước.

      Tôi và Lão Mục đưa mắt nhìn nhau, nhanh chóng chia ra tìm kiếm cẩn thận mọi ngóc ngách của căn phòng nhưng phát thấy gì. Tôi đoán chắc vợ chồng ông Từ bị người quen bắt cóc. Mẹ kiếp, lại đến muộn mất rồi!

      Tôi ngồi phịch xuống mép giường, day mạnh huyệt thái dương, thấy dằn vặt ghê gớm, vừa nãy sao cứ chần chừ mọi việc cho ông. Bây giờ ông Từ cũng bốc hơi giống Mã Kiến Quốc, tất cả những người trong cuộc đều lần lượt biến mất như thể thương lượng từ trước, kế hoạch điều tra sau này triển khai thế nào đây?

      Lão Mục vắt hai tay sau đầu, nheo mắt lại, bước từng bước vòng quanh căn phòng, nhìn quanh quất thăm dò xung quanh. lúc sau, ta từ từ đứng dậy, cúi đầu suy nghĩ rồi đột nhiên ngẩng mặt lên to:

      - đúng, ông Từ bị bắt cóc, mà là bọn họ cùng với nhau.

      Tôi sững người, đứng bật dậy:

      - Cái gì?

      Lão Mục cười mỉm, hơn:

      - Từ Vạn Lý hề bị bắt cóc, ông ta quyết định tự mình ra khỏi nhà.

      Thấy chúng tôi đều tỏ ý nghi ngờ, Lão Mục vẫy vẫy tay, dẫn chúng tôi vào phòng khách, chỉ vào giá giầy bằng gỗ bên cạnh cửa, :

      - Nhìn thấy gì , giá cùng để hai đôi dép lê, đôi to đôi , trông khá cũ, chắc là của vợ chồng ông ta. Mấy đôi khác đều để ở giá dưới cùng, màu sắc còn mới, chắc là để dành cho khách.

      Lão Mục lại bước đến cửa sổ phòng khách, sờ sờ vào thân máy sưởi, rồi lại thò tay ra phía sau chiếc điều hòa hiệu Haier ở bên cạnh, tiếp:

      - Hơi ấm còn, nhưng trong phòng lại lạnh. Mọi người nghĩ rằng điều hòa được mở từ trước và cũng mới vừa tắt thôi sao?

      Ngừng lát, Lão Mục vuốt vuốt râu, khẳng định:

      - Nếu là bắt cóc, giữa đêm hôm khuya khoắt, dù là người quen cũng phải có hành động đe dọa, sao có thể để cho hai ông bà kịp thay giầy, tắt đèn và điều hóa chứ?

      Nhìn hai đôi dép lê, tôi nhớ loáng thoáng, hình như đó đúng là hai đôi dép mà vợ chồng ông Từ , hơn nữa trong phòng ấm hơn hẳn bên ngoài, chắc chắn là vừa tắt điều hòa xong. Con mắt của Lão Mục lợi hại , chỉ trong chớp mắt phân tích chi tiết đến thế, khả năng quan sát tinh tế nhanh nhạy và suy luận lô-gic như vậy, thực khiến người khác khỏi ngỡ ngàng. So với ta, tôi chỉ như con tép riu.

      Trong phút ngỡ ngàng, tôi bỗng nhớ lại lúc ông Mã Kiến Quốc mất tích, đèn trong phòng vẫn chưa tắt, cây ba-toong vứt chỏng chơ dưới đất; còn ở đây tất cả mọi thứ trong phòng đều vẫn nguyên si, sàn nhà lại phát thấy dấu chân nào cả, cây ba-toong của ông Từ cũng chẳng thấy tăm hơi đâu, vậy hai ông bà đúng là tự ý rời nhà rồi.

      Nghĩ vậy, trong lòng tôi lại càng nghi hoặc hơn, ràng tôi dặn ông Từ ở nhà đợi, tại sao ông bà lại nghe theo mà vô duyên vô cớ bỏ như thế, chẳng lẽ lại cố tình tránh né tôi, điều này hoàn toàn vô lý.

      Tôi nhìn Lão Mục, khẽ hỏi:

      - Lão Mục, thử xem liệu đây có phải là trường giả do bọn bắt cóc dựng lên ?

      Lão Mục suy nghĩ lúc rồi lắc đầu:

      - giống lắm, mà cũng cần thiết phải làm vậy. À, đúng rồi, thử nhìn xem trong phòng có bị mất gì ?

      Tôi vỗ vỗ đầu, lập tức nghĩ đến cuốn nhật ký của ông Từ, vội bước vào thư phòng, kéo cánh cửa tủ sách, những cuốn nhật ký vẫn đặt nguyên si ở đấy.

      Mặc dù biết là có giúp ích được gì nhưng tôi vẫn rút cuốn nhật ký ghi lại những lời mớ của cậu, thử lật giở vài trang, chắc chắn đúng là cuốn sổ đó, tôi liền nhét vào trong ngực áo, định bụng có thời gian nghiên cứu xem thế nào.

      lúc sau, Lão Mục vội vàng bước từ ngoài vào, giọng điệu có chút khác lạ:

      - Tôi nghĩ việc này có gì đó bình thường!

      Hóa ra, bọn họ tìm thấy chiếc áo khoác của hai ông bà treo mắc áo trong phòng khách, bên trong có cả tiền, chìa khóa... nếu họ vội ra ngoài, sao có thể tay được. Kết hợp với những chi tiết khác như tắt điều hòa, thay dép lê, tất cả đều bất thường, cứ như thể quay về nữa.

      Tôi cũng cảm thấy vô cùng băn khoăn, chẳng lẽ chuyến thăm bất ngờ của tôi khiến cho hai ông bà bỏ nhà ra sao? Tôi sốt ruột đề nghị:

      - Chúng ta thử kiểm tra nhật ký cuộc gọi và băng ghi hình trong camera giám sát khu chung cư xem sao, chừng phát ra được điều gì.

      Lão Mục lắc đầu, khẽ :

      - Chuyện đó để sau . – Sau khi dò xét vòng, ta chau mày, ngập ngừng tiếp. – Tôi cứ có cảm giác ông cụ muốn với chúng ta bí mật nào đó, nhưng sợ điều gì đấy nên ra được, vì vậy mới cố tình bày ra tình huống thế này.

      Tôi sững người lúc rồi nhìn quanh quất khắp phòng, trong đầu dần nảy sinh cảm giác bất an, có vẻ như chuyện này gặp ở đâu đó rồi phải. Cái kiểu ám hiệu này quá quen thuộc, bức tranh mà cậu tôi vẽ hồi đó chẳng phải cũng như vậy sao?

      Tôi kể sơ lược những tình tiết việc trước đó cho Lão Mục nghe, ta nghĩ ngợi lúc rồi :

      - Khả năng này rất có thể xảy ra, chúng ta thử tìm kỹ lại lần nữa xem sao.

      Thế là, chúng tôi kiểm tra cẩn thận lượt căn phòng với hi vọng có thể phát ra dấu hiệu nào đó mà ông cụ để lại.

      Với kinh nghiệm của mình, tôi kiểm tra phòng khách và thư phòng. Nhớ lại chuyện trước đây cậu tôi dùng tranh của mình để ra ám hiệu, theo lập luận tương tự, tôi tập trung quan sát những bức tranh treo tường.

      Bộ sưu tập của ông Từ vô cùng phong phú, tường treo kín mít những bức tranh lớn khác nhau, tổng cộng có tới hơn hai mươi bức, đóng khung cẩn thận, đa số đều là phong cảnh thủy mặc.

      Tôi chẳng có chút hiểu biết gì về những tác phẩm nghệ thuật này, ngắm nghía hồi lâu vẫn chẳng nhận ra điều gì khác thường, lòng rối như tơ vò, tôi ngồi bệt xuống nền nhà, mặt mày đờ đẫn.

      Lão Mục ngừng lật giở những bức tranh thư pháp, nghiêng đầu kiểm tra mặt trước mặt sau, ngón tay sờ sờ vuốt vuốt liên tục lên mặt tranh.

      Nghe tiếng tranh sột soạt, trong đầu tôi cứ nghĩ, chẳng lẽ hướng điều tra dùng tranh làm ám hiệu lại sai? Đột nhiên, tôi nghĩ đến điểm bất thường: Ông Từ là họa sĩ sơn dầu nổi tiếng, tại sao trong thư phòng của ông lại chẳng thấy bức tranh sơn dầu nào mà lại đều là quốc họa[1]?

      [1] Dòng tranh thủy mặc hoặc thư pháp của Trung Quốc.

      Vừa nghĩ đến đó, tôi liền lao đến quan sát tỉ mỉ từng bức tranh.

      Dần dần, tôi phát thấy có điểm kỳ lạ, ở góc dưới mỗi bức tranh đều có ghi chữ Từ Vạn Lý bằng chữ phồn thể, đóng dấu triện vuông đỏ với niên đại khác nhau, xem ra ông cụ chỉ thích tranh quốc họa mà còn sáng tác ít.

      Nghĩ lại, tôi mơ hồ cảm thấy lập luận này đúng lắm, liền quay ra nhìn kỹ mốc thời gian ở góc dưới bức tranh, bức sớm nhất là năm 1990, bức muộn nhất là năm 2008, tức là năm kia, tất cả có mười chín bức, trải dài suốt mười chín năm,

      Năm 1990, là năm đầu tiên hoàn thành bức tranh panorama Cẩm Châu, cũng có nghĩa là, kể từ sau năm đó, ông Từ bắt đầu sáng tác tranh quốc họa, cho đến tận năm 2008. Thế nhưng tại sao chỉ có mười chín bức, tại sao năm 2009 và năm 2010 lại vẽ tiếp, chẳng lẽ niên đại đề ở đây có ý gì đó?

      Tôi bóp trán, vắt óc suy nghĩ, cố huy động các nơ-ron thần kinh nối kết các mối liên tưởng. Giả sử niên đại tranh quả đúng là có ý, vậy nếu bỏ qua những bức tranh ở các năm giữa, năm 1990 Trung Quốc tổ chức Á vận hội, năm 2008 tổ chức Thế vận hội, đây là hai kiện lớn cả thế giới biết đến, chẳng lẽ ông Từ muốn ám chỉ...

      Tôi thở dài, tự thân cảm thấy ý nghĩ này quá ư hoang đường, nếu suy đoán theo hướng này Từ Vạn Lý chắc chắn phải họa sĩ mà là nhà tiên tri.

      Mặc dù vậy, tôi vẫn muốn bỏ cuộc. Tiến lên trước mấy bước, tôi khoanh tay, nghiêng đầu dán mắt nhìn vào bức tường, càng nghĩ càng thấy chuyện này hết sức ly kỳ. Bỗng nhiên, cảm giác quen thuộc chợt về, cậu tôi từng khoét tường để giấu tấm Long Bản, bên ngoài che giấu bằng bức tranh thư pháp, có lẽ nào ông Từ cũng làm như vậy?

      Tôi vội bê chiếc ghế gỗ bên cạnh lại, đứng lên mặt ghế, lật từng bức tranh ra xem xét.

      Màu sắc chỗ tường được tranh che phủ trông khá phạt, chứng tỏ các bức tranh này được treo ở đây từ lâu. Tôi gõ tay, dỏng tai lắng nghe thanh phát ra.

      Tôi cứ gõ mãi, cho đến khi ngón tay tê dại mà vẫn nghe thấy tiếng gì đặc biệt, có vẻ như bức tường này có chỗ nào rỗng cả. Vậy là vẫn phải bắt tay tìm kiếm đầu mối từ chính những bức tranh rồi.

      Tôi gỡ từng bức tranh xuống, chuyển cho Lão Mục, dặn ta phải xếp cẩn thận theo thứ tự thời gian. Lão Mục lập tức hiểu ra ý đồ của tôi, liền đưa tay đỡ những bức tranh, xếp theo thứ tự niên đại mặt sàn.

      Khi tất cả các bức tranh được gỡ xuống và đặt ngay ngắn sàn nhà, trong phòng chẳng còn lối nào. Chúng tôi quỳ xuống, di chuyển nhàng, ngắm vuốt từng bức tranh rồi lại sờ nắn cạnh khung tranh với hi vọng tìm ra bí mật chứa trong đó.

      Mặc dù giấy vẽ tranh rất mỏng mềm, lâu ngày còn bị ố vàng, nhưng vẫn được bảo quản khá nguyên vẹn, hầu như thấy có vấn đề gì. Quay ra ngắm nội dung bức tranh, tất cả đều là tranh phong cảnh, có núi có sông, có cây có đá, có đình có gác, có...

      Có tháp!

      Tôi chợt giật mình, lấy tay ra dụi mắt, sau đó lại vội quét mắt nhanh qua dãy tranh. Đúng là có tháp!

      Trong tất cả các bức vẽ đều thấy tòa tháp xuất ở những vị trí khác nhau, hoặc là chủ thể hoặc là bối cảnh. Trong đó có bức với tựa đề Linh Ba giang tháp đồ, vẽ con sông lớn chảy xuyên qua dãy núi, tòa tháp mình giữa núi sông, bên có mây vờn quanh, bên dưới có nước sông hắt bóng, rất khó để nhận ra, chỉ thấy hình ảnh lộn ngược méo mó mặt sông.

      Tôi hít sâu hơi, đột ngột chuyển hướng suy nghĩ đến người chiến sĩ trong bức tranh của cậu, trong đầu dần hiểu ra vấn đề, có khi đây là ám hiệu mà ông Từ để lại, ý muốn bí mật ở trong tòa tháp? Nhất là khi tham gia vào tổ sáng tác tranh panorama, cậu tôi lại phụ trách vẽ đúng khu vực Cổ Tháp, kết hợp những chi tiết đó lại, chắc có lẽ ám hiệu của ông Từ chính là ở đây. Nhưng có điều tôi nghĩ mãi ra, đó là tại sao hồi chiều khi tôi đến thăm, ông cụ lại trực tiếp luôn? Còn bây giờ lại ra vội vã, chuyện này là kỳ bí.

      Tôi liền quay ra những suy đoán của mình cho Lão Mục nghe, ta thấy rất hứng thú, sau khi quan sát tỉ mỉ, khẽ gật đầu suy đoán này rất có lý, rồi cùng tôi quan sát từng tòa tháp trong các bức tranh.

      Tranh thủy mặc của Trung Quốc thường đòi hỏi ý cảnh hài hòa, chỉ với vài nét vẽ là có thể lấy giả tả thực, mười chín tòa tháp to có có, vẽ rất có hồn, nhưng lại chẳng khác nhau mà đều chung vẻ.

      Tôi lấy làm lạ, quay ra di ngón tay đếm số tầng tháp, nhiều ít, vừa đúng mười chín tầng.

      Mười chín bức tranh, mười chín tòa tháp, mười chín tầng tháp, tất cả đều là con số mười chín!

      Xem đến đây, tôi và Lão Mục quay sang nhìn nhau, mãi lâu chẳng ai lời nào. Điều này thể nào là trùng hợp được, chắc chắn là ám hiệu cố tình để lại. Thế nhưng tại sao lại đều là mười chín tài nào đoán ra được. Xem ra cấu đố ông Từ đưa ra quả là khó giải.

      Lúc này, Tiểu Đường và chàng đặc công trẻ tuổi kia cũng từ ngoài bước vào, nghe chúng tôi kể lại điểm đặc biệt trong các bức tranh, bọn họ đều tỏ ra hiếu kỳ, vội ngồi xuống cùng quan sát.

      Tiểu Đường đưa tay chạm vào tòa tháp cao, khi ngón tay vừa chạm mặt giấy, bé liền kêu to:

      - Ôi, đây là khắc hình mà!

      Cùng lúc, Lão Mục cũng thốt lên sau lưng tôi:

      - đúng, là hai mươi tầng!

      Tiếng kêu kinh ngạc của hai người họ khiến tôi sững người, mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Tôi là người đầu tiên bừng tỉnh, khắc hình mà Tiểu Đường chắc chắn có ý chỉ tòa tháp cao kia phải được vẽ bằng bút, mà là tác phẩm khắc hình trong nghệ thuật xăm hình. Thế nhưng hai mươi tầng tháp mà Lão Mục nhắc tới là sao, điều này tôi chẳng thể hiểu nổi.

      Lão Mục vuốt vuốt râu, ngoắc tay ra hiệu cho Tiểu Đường trước. Tiểu Đường chạm vào lượt mười tám bức tranh còn lại, nét mặt càng lúc càng trở nên khó hiểu. bé đứng dậy với chúng tôi, những tòa tháp cao này đều được nghệ nhân nào đó dùng kim khắc lên giấy vẽ, là nghệ thuật khắc hình cực kỳ cao siêu. Thấy Lão Mục và mọi người vẫn chưa hiểu, bé lại giảng giải sơ qua những kiến thức về xăm hình.

      Trong bức tranh thủy mặc lại chứa nghệ thuật khắc hình, điều này hoàn toàn tương đồng với khay sứ Thanh Hoa và tấm Long Bản. Nhưng mọi chuyện đến quá bất ngờ, nhất thời thể đưa ra nhận định chính xác, tôi quay lại hỏi Lão Mục, tại sao lại thừa ra tầng tháp?

      Lão Mục cười cười, chỉ vào bóng tháp hắt mặt nước, :

      - Mọi người nghĩ xem, nếu đây là bóng tháp, chắc chắn nó phải giống y hệt tháp . Điều này có nghĩ là trong bức tranh này, còn chứa tòa tháp khác.

      Tôi vội cúi xuống nhìn lại, quả đúng như vậy, hai tòa tháp sáng tối ngược nhau, giống như đối xứng nhau qua gương, bất giác khẽ gật đầu. Nghiền ngẫm lời của Lão Mục, có vẻ như câu của ta khá xác đáng, xem ra chỗ này chắc chắn có chứa bí mật nào đó.

      Suy nghĩ lúc, đầu tôi bắt đầu căng ra, hình ảnh già nua của ông Từ dần dần ra trước mắt, mờ ảo xa xôi.

      Tạm gác lại những nghi ngờ về vụ mất tích của ông Từ, chúng tôi quay ra hỏi Tiểu Đường làm thế nào nhận biết được hình khắc. Những tòa tháp đó hòa chung với cảnh vật xung quanh, nhìn qua có gì khác biệt, rất giống với hình ảnh được vẽ bằng mực tàu.

      Tiểu Đường lắc đầu, với tay chọn lấy bức tranh, đầu ngón tay di di thân tòa tháp trong tranh, nức nở khen ngợi. bé cho chúng tôi biết, theo quan sát của , những tòa tháp trong tranh đều sử dụng thuật châm kim mềm trong nghệ thuật khắc hình, tức là chạm khắc hình ảnh hoa văn những đồ vật có chất liệu mềm như giấy, vải... khác hẳn với thuật châm kim cứng, đây là kỹ thuật vô cùng cao siêu, sau khi khắc xong, nhìn khác gì đồ . đoạn, đứng dậy định tìm nghiên mực để biểu diễn cho chúng tôi xem.

      Tìm khắp cả căn phòng, ngoài những dụng cụ vẽ tranh sơn dầu ra, chẳng thấy bút mực giấy nghiên đâu, thậm chí cũng chẳng có đến tờ giấy vẽ nào cả.

      Chúng tôi quay lại thư phòng, người đứng người ngồi, mặt mày ủ rũ, chẳng ai gì, tất cả đều nhìn chăm chăm vào những bức tranh vứt lung tung mặt sàn, vẻ mặt vô cùng thất vọng và buồn chán.

      Lão Mục cúi người cầm lên bức tranh, ngắm nhìn hồi lâu, khẽ gật đầu rồi lẩm bẩm như mình:

      - Nghề nào cũng có trạng nguyên, ông Từ cả đời mê tranh sơn dầu, tôi nghĩ ông ấy chắc thể đạt tới trinh độ cao siêu trong lĩnh vực tranh quốc họa như thế này...

      Tôi giật mình, ý của Lão Mục ràng muốn mười chín bức tranh quốc họa vẽ hình tháp này chưa chắc do ông Từ vẽ, mà được vẽ dưới bàn tay của người khác. Thế nhưng tại sao tên và dấu triện ở góc tranh đều là của ông ấy? Lại còn những tòa tháp được khắc hình nữa, chẳng lẽ ông Từ vốn dĩ là thợ xăm thân khắc hình nên hòa trộn hai loại hình nghệ thuật ấy với nhau?

      Lúc do vội vàng nên Tiểu Đường đem theo túi xách, bé liền tìm chiếc kim khâu trong hộp đựng đồ lặt vặt trong nhà bếp. Mặc dù khó có thể so được với cây kim xăm chuyên nghiệp, nhưng dù sao có còn hơn . Thế nhưng trong tay có mực, chất liệu mực của tranh sơn dầu lại dính quá, nên thể biểu diễn cho chúng tôi xem cái gọi là thuật châm kim mềm được.

      Tôi tìm kiếm khắp nơi, thấy nan giải chợt nhớ đến vết thương sau vai, tôi liền cởi áo jacket bên ngoài ra. Lúc này vết thương ngừng chảy máu, máu đông lại thành cục bả vai.

      Lúc này bọn họ mới biết tôi bị thương nặng, ngạc nhiên hỏi sao lại để xảy ra cơ này. Tôi giải thích qua loa vài câu vết thương ngoài da mấy nghiêm trọng, rồi bảo Tiểu Đường gắp cục máu đông, bỏ vào cốc nước sôi cho tan ra để làm mực.

      Tiểu Đường khuấy đều cốc nước máu, gật đầu có thể dùng tạm được. bé cầm lấy cây kim, chấm ít “mực”; ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa tay phải giữ đuôi kim giống như động tác cầm bút lông, ấn vào hình tòa tháp hắt bóng dưới nước.

      Động tác của Tiểu Đường cực cực nhanh, đầu kim chạm xuống rồi rút ra ngay, bề mặt hơi ố vàng của bức tranh lập tức ra chấm đỏ nho .

      Tay phải của Tiểu Đường dừng lại lúc, cổ tay lắc , rồi từ chấm đỏ đó liên tục châm tiếp những mũi kim tiếp theo, rất nhàng, hề phát ra tiếng động nào dù là nhất. lúc sau, đường cong mảnh màu đỏ dần ra giấy.

      Nước máu thấm vào giấy vẽ, đường cong đỏ hơi nhòa trông rất giống với nét vẽ bằng bút lông, thậm chí còn tạo thành những vết tơ bút và hất bút y hệt với phong cách vẽ mười chín tòa tháp trong tranh. Nhìn kỹ lại, giấy vẽ vẫn nguyên vẹn như lúc đầu, mảy may bị rách hỏng.

      Tiểu Đường gật đầu tỏ ý hài lòng, bé đặt kim sang bên, ngẩng đầu với chúng tôi:

      - Thuật châm kim mềm của Tiểu Đường vẫn chưa học được đến nơi đến chốn, mới chỉ học qua những bước cơ bản. Nhưng mọi người hãy tin ở cháu, những tòa tháp này thực đều là tác phẩm khắc hình đỉnh cao, cháu thể nhìn nhầm được.

      Tiểu Đường chắc như đinh đóng cột lại còn biểu diễn cụ thể nữa, chúng tôi thể tin trong mười chín bức tranh sơn thủy này đúng là có chứa nghệ thuật khắc hình. Trong nhà ông Từ có mười chín bức tranh khắc hình, góc dưới đều đề tên ông, điều này khỏi khiến người ta liên tưởng đến việc ông Từ bề ngoài là họa sĩ sơn dầu, nhưng thực chất rất có thể là thợ xăm thân khắc hình, quả là đáng sợ.

      Nhìn từng tòa tháp trong các bức tranh, tôi bất giác nghĩ đến hình xăm người chiến sĩ lưng cậu, có thể nào do cùng người xăm , chẳng lẽ lại là ông Từ? Nhưng xem ra giả thuyết này đúng lắm, những gì ông Từ kể lại cho tôi lúc ban ngày hoàn toàn giống lời dối, hơn nữa ông ta cũng có lý do gì để gạt tôi, vậy phải lý giải điều này như thế nào đây?

      Hai vợ chồng ông Từ bất ngờ bỏ , trong nhà phát thấy bất cứ dấu hiệu của hành vi cưỡng ép nên thể coi là vụ án hình ; đồng thời cũng thể công khai truy tìm người mất tích bởi chúng tôi có lý do báo án, hai là muốn đánh rắn động cỏ, đành thầm cuộn những bức tranh lại, tắt điện đóng cửa cẩn thận rồi ngậm ngùi xuống lầu.

      Hai giờ sáng, mưa tuyết tạnh, mây đen đầu dần tan, vầng trăng sáng trong dần ra, hắt bóng khu chung cư thành khoảng tối đen như mực, còn phía xa tuyết phản chiếu ánh trăng, sáng đến lóa mắt. Gió bấc gầm rít ầm ầm, xoáy tung bụi tuyết thành từng đám mù mịt như sương.

      Vừa được vài bước, Lão Mục đột nhiên kéo tay chúng tôi lại, giọng khẽ rít:

      - Đứng im, mau nhìn xuống chân!

      Tôi vội đứng lại, cúi đầu xuống nhìn. Có hai hàng dấu chân kéo dài từ cổng khu chung cư đến tận cửa cầu thang, phía trước là đám dấu chân lộn xộn, lớp tuyết trắng xốp bị dẫm thành vệt tròn, lõm hẳn xuống so với xung quanh, chứng tỏ có người loanh quanh ở khu vực này.

      Tôi sốt ruột, giữa đêm hôm khuya khoắt, lại đúng hôm trời đổ tuyết lớn, nếu là người của khu chung cư này tại sao họ lại loanh quanh ở đây mà vào nhà, chắc chắn đây thể là do mộng du rồi. Người đó có thể là ai chứ, là tên hung thủ giấu mặt chăng?

      Nghĩ đến đây, tôi và Lão Mục quay sang nhìn nhau, cùng bước nhanh đến, quỳ xuống nền tuyết, tỉ mỉ quan sát.

      Hai hàng dấu chân ra vào, khoảng cách bước chân khá ngắn, độ sâu giống nhau, hoa văn dưới đế giầy lưu lại khá nét, chứng tỏ người này to cao và dấu chân được lưu lại khi tuyết tạnh. Thế nhưng ai trong chúng tôi biết tuyết ngừng rơi từ khi nào, vì thế thể đoán được thời gian chuẩn xác người đó có mặt ở đây.

      Do cánh cửa cầu thang luôn đóng kín, chàng đặc công trẻ tuổi lại chỉ canh cửa từ bên trong, nên cũng thể biết chuyện xảy ra như thế nào. Tôi nghĩ lúc bèn quay sang :

      - Có thể xem lại băng ghi hình của camera giám sát.

      Lão Mục lắc đầu :

      - cần phải phiền phức như vậy đâu.

      rồi ta lại rút cây kim loại giống chiếc kẹp tóc ra, nhàng khều lấy ít bụi tuyết ở quanh mép dấu chân, thấy tuyết bị vỡ hay sụt xuống, sau đó ta lại đến phía đầu xe, cúi xuống kiểm tra lớp tuyết dưới gầm, thấy cao hơn hẳn so với nền tuyết xung quanh. Lão Mục mỉm cười hài lòng, quay lại với tôi:

      - Nếu tôi đoán nhầm sau khi chúng ta vào khu nhà được lúc tuyết tạnh, người này đến ngay sau đó ít phút và đợi ở ngoài khá lâu, có lẽ đến khi nhìn thấy chúng ta tắt điện mới bỏ .

      Theo dõi, lại là theo dõi! Đó là ý nghĩ đầu tiên lên trong đầu tôi, thế nhưng nghĩ kỹ lại, tôi thấy hợp lý chút nào. Tên lùn là nam hay nữ kia bị tôi huých bị thương, cho dù may mắn phải nằm viện ít nhất cũng phải nằm liệt giường mười, mười lăm hôm, thể liều lĩnh bám theo đến đây được. Còn nếu có kẻ khác bám theo đuôi đội Lão Mục và Tiểu Đường có vẻ cũng thực tế lắm, hơn nữa với năng lực của đội Lão Mục, chắc chắn họ sớm phát ra rồi.

      Loại trừ hai khả năng này chỉ còn khả năng cuối cùng là bọn người đưa vợ chồng ông Từ . Thế nhưng cũng lại ổn, nếu chúng muốn theo dõi hành động của chúng tôi, sao lại phải chạy ra chạy vào như thế, cứ nấp chỗ là được rồi. Mà cho dù nhất thời nảy ra ý định theo dõi chúng tôi, tại sao lại mạo hiểm đến gần như thế, ngộ nhỡ bị phát phải là rất dở hơi sao?

      Trong đầu tôi cứ mải suy nghĩ mông lung, chân bước lung tung khắp nơi, lớp tuyết bị tôi giẫm phát ra những tiếng lạo xạo, mặt đất phủ đầy tuyết xuất thêm vòng tròn dấu chân tôi ngay bên cạnh đám dấu chân trước đó.

      Tôi từ từ dừng chân, cúi đầu quan sát, bằng trực giác tôi mù mờ đưa ra phán đoán như thế này: Người này hẳn có ác ý, có thể chỉ muốn vào để cho chúng tôi điều gì đó, nhưng hiểu vì sao đến chân cầu thang lại bắt đầu do dự, cuối cùng vẫn lựa chọn việc bỏ .

      Đồng thời, hôm nay cuối cùng gã lùn cũng quyết tâm hạ thủ tôi, nhưng tại sao chỉ có mình ra tay mà có đồng bọn hỗ trợ? Xét về quy mô và tính chặt chẽ trong tổ chức của chúng, chuyện này hề khó. Hồi ở Cẩm Châu theo dõi tôi, bọn chúng huy động đến mấy nhóm người cơ mà.

      Càng nghĩ tôi càng thấy khó hiểu, mọi ý nghĩ tưởng hóa giả thi nhau bật ra, việc ngày càng trở nên phức tạp tới mức khó dự đoán được điều gì, mỗi người trong cuộc đều chứa bí mật của riêng mình, còn tôi gần như biến thành con ngốc, ngày càng thêm lún sâu vào mà mãi tìm ra được manh mối nào ràng cả. Nghĩ đến đây, dây thần kinh đa nghi trong đầu lại bắt đầu hoạt động, tôi bất giác ngẩng lên nhìn Lão Mục và Tiểu Đường. Họ đều đứng sấp bóng, ánh trăng dịu dàng tỏa sáng sau lưng, đổ bóng dài nền tuyết. Khuôn mặt hai người họ mờ mờ nhưng ánh mắt lại lấp lánh ánh sáng, nhìn tôi chớp mắt.

      Tôi ngây ngô nhìn họ, đột nhiên thấy cảm giác bất an dội lên trong lòng, Lão Mục và Tiểu Đường lẽ nào cũng giấu những bí mật nào đó thể cho người khác biết?

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :