Trò Chơi Vương Quyền 3A : Sự trở lại của Ngoại nhân - George R. R. Martin [Best Seller]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      SANSA


      Lời mời có vẻ vô hại, nhưng mỗi lần đọc, ruột gan Sansa lại rối tung lên. ta sắp làm nữ hoàng, xinh đẹp, giàu có, và ai ai cũng mến ta, vậy tại sao ta lại muốn ăn tối với con của kẻ phản bội? Chắc do tò mò thôi, cho là vậy; có lẽ Margaery Tyrell muốn ước chừng mức độ của kẻ địch thủ mà ta thế chỗ. Liệu ta có bực tức với mình nhỉ? Liệu ta có cho rằng mình nghĩ ta có ý xấu

      Sansa đứng tường lâu đài quan sát khi Margaery Tyrell và đoàn tùy tùng vào chân đồi High Hill của Aegon. Joffrey đón dâu mới của tại cổng thành để chào đón ta đến thành phố này, và bọn họ cưỡi ngựa bên nhau giữa đám đông tung hô hò reo, Joff rạng rỡ trong chiếc áo giáp mạ vàng, còn Nhà Tyrell lộng lẫy trong màu xanh với chiếc áo khoác phủ hoa mùa thu được thêu từ vai xuống. ta mười sáu tuổi, tóc nâu, mắt nâu, thon thả và xinh đẹp. Người ta hô vang tên ta khi ta ngang qua, họ giơ con cái ra để được ta chúc phúc, và họ trải hoa bên dưới móng ngựa của ta. Mẹ và bà ngay sau ta, họ ngồi chiếc xe ngựa cao và bốn phía thùng xe đều được khắc hình trăm bông hồng leo, mỗi bông hoa đều được mạ vàng sáng bóng. Đám đông cũng reo hò chào đón họ.

      Đám đông ấy kéo phăng mình xuống ngựa và giết chết mình, nếu phải vì Chó Săn. Sansa chẳng làm gì để người dân căm ghét mình, và Margaery Tyrell kia cũng làm gì để giành được tin của người dân. ta có muốn mình cũng mến ta nhỉ? đọc lại thiệp mời trông có vẻ như được viết bằng chính tay Margaery. ta có muốn lời chúc mừng của mình ? Sansa cũng tự hỏi liệu Joffrey có biết gì về bữa tối này . Theo những gì biết, có lẽ đây chính là hành động của . Ý nghĩ đó khiến thấy sợ. Nếu Joff là kẻ đứng sau lời mời này, chắc chắn chuẩn bị sẵn vài câu đùa ác độc để hạ nhục trước mặt lớn tuổi hơn kia. Liệu có ra lệnh cho lính lột trần thêm lần nữa ? Lần gần nhất làm vậy, Tyrion ngăn , nhưng bây giờ người lùn ấy thể cứu được nữa.

      ai có thể cứu mình, trừ Florian. Ser Dontos hứa giúp chạy trốn, nhưng phải đợi đến buổi tối diễn ra tiệc cưới của Joffrey. Kế hoạch được vạch đâu ra đấy, ngài hiệp-sĩ-ngu-ngơ hết lòng hết dạ với hứa như vậy; từ giờ đến lúc đó, cần phải làm gì, ngoài việc chịu đựng, và đếm từng ngày từng giờ.

      Và ăn tối với kẻ thay thế vị trí của mình nữa chứ…

      Có lẽ công bằng với Margaery Tyrell. Có lẽ lời mời chỉ đơn giản là lòng tốt đơn thuần, hành động lịch thôi. Có lẽ đó chỉ là bữa tối. Nhưng đây là ở Tháp Đỏ, là Vương Đô, là cung điện của vua Joffrey Baratheon, và nếu ở đó có điều mà Sansa Stark học được, đó là hoài nghi.

      Dù vậy, vẫn phải nhận lời. Bây giờ đâu còn thân phận gì nữa, ngoài đứa con bị thải hồi của kẻ phản bội, và em đáng ghét của lãnh chúa phiến loạn. gần như thể từ chối lời mời của hoàng-hậu-tương-lai của Joffrey.

      Giá như Chó Săn ở đây. Đêm diễn ra trận chiến, Sandor Clegane đến phòng của để đưa khỏi thành phố này, nhưng Sansa lại từ chối. Thi thoảng, nằm thao thức cả đêm, tự hỏi liệu làm vậy có khôn ngoan . còn giấu chiếc áo khoác trắng của ông ta trong ngăn kéo bên dưới những bộ váy lụa hè. biết tại sao lại giữ chiếc áo ấy. Chó Săn biến thành kẻ hèn nhát, nghe người ta đồn thế; trước cao trào của trận chiến, ông ta say rượu đến mức Quỷ Lùn phải gọi binh lính. Nhưng Sansa hiểu lắm. biết bí mật sau khuôn mặt cháy rộp của ông. Chỉ có thể ngọn lửa làm ông sợ. Đêm đó, lửa khiến cả con sông rực cháy, và lửa xanh lan nhanh khắp chốn. Ngay cả trong lâu đài nữa, lúc ấy Sansa sợ lắm. Bên ngoài… gần như thể tưởng tượng nổi bên ngoài thế nào.

      Thở dài, lấy giấy mực và viết bức thư trả lời lịch cho Margaery Tyrell.

      Khi bữa tối được ấn định tới, cận vệ của vua đến đón , đó là người đàn ông khác hẳn Sandor Clegane... y như bông hoa với con chó. Khi nhìn thấy Ser Loras Tyrell đứng ngoài ngưỡng cửa, tim Sansa đập nhanh hơn. Đây là lần đầu tiên được gần chàng như vậy, kể từ khi chàng quay trở lại Vương Đô để hướng dẫn đội quân tiên phong của cha . Trong khoảnh khắc, biết phải gì. “Ser Loras,” cuối cùng cũng cố được mấy tiếng, “trông ngài… dễ mến.”

      Chàng nở nụ cười bối rối. “Tiểu thư quá tốt bụng. Và xinh đẹp. Em tôi háo hức chờ tiểu thư.”

      “Tôi rất mong ngóng đến bữa tối này.”

      “Margaery và bà tôi cũng vậy.” Chàng cầm tay và dẫn về phía các bậc thang.

      “Bà của ngài ư?” Sansa thấy khó khi cùng lúc phải bước , trò chuyện và suy nghĩ, trong khi Ser Loras cầm tay . Qua lớp lụa, cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay .

      “Phu nhân Olenna. Bà dự bữa tối với tiểu thư.”

      “Ồ,” Sansa . Mình trò chuyện với chàng, và chàng chạm vào mình, cầm tay mình và chạm vào mình. “Nữ Hoàng Gai, người ta gọi bà như vậy. Có phải ?”

      “Phải.” Ser Loras cười. Nụ cười chàng ấm áp biết bao, thầm nghĩ khi chàng tiếp, “Tốt nhất là tiểu thư nên dùng danh từ đó trước mặt bà, nếu tiểu thư bị châm chích đấy.”

      Sansa đỏ mặt. kẻ ngốc cũng biết người phụ nữ nào vui vẻ khi bị gọi là “Nữ Hoàng Gai.” Có lẽ mình ngu ngốc đúng như lời Cersei Lannister . ra sức nghĩ đến điều gì đó thông minh và quyến rũ để với chàng, nhưng miệng lưỡi cứ ríu lại. buột miệng khen chàng đẹp thế nào.

      Dù vậy, chàng quả là rất tuyệt. Trông chàng có vẻ cao hơn lần đầu tiên gặp, nhưng vẫn lịch lãm và có duyên, và Sansa chưa từng thấy chàng trai nào có đôi mắt đẹp đến thế. Chàng còn là chàng trai nữa, chàng là người đàn ông trưởng thành, là hiệp sĩ của Ngự Lâm Quân. nghĩ trông chàng khi mặc bộ đồ trắng còn đẹp hơn so với bộ đồ xanh và vàng của Nhà Tyrell. Điểm màu duy nhất người chàng là cây trâm cài áo khoác; bông hồng của Highgarden được chạm trổ tinh xảo trong màu vàng nhạt, nép mình giữa vô số những chiếc lá xanh mềm mại.

      Ser Balon Swann mở cửa pháo đài Maegor cho họ qua. Ông ta cũng mặc toàn đồ trắng, mặc dù ông ta mặc đẹp bằng nửa Ser Loras. Phía hào cắm chông xa xa, hai chục người đàn ông tập luyện với gươm và khiên. Tòa lâu đài đông đúc lắm rồi, vì vậy khu vực bên ngoài được dành cho khách khứa căng lều, chỉ dành lại các khoảng sân rất bên trong để tập tành. trong hai người sinh đôi Nhà Redwyne bị Ser Tallad kéo giật lùi, mắt ta núp sau khiên. Ser Kennos béo mập của Kayce, người thở phì phì mỗi khi giơ cây gươm dài lên, có vẻ lấy tay ôm ghì lấy Osney Kettleblack, nhưng Ser Osfryd, em của Osney cáu kỉnh đấm thùm thụp vào mặt Morros Slyn mặt-ếch. Dù dùng kiếm hay đến mai, chắc chắn Slynt đầy vết thâm tím. Chỉ nghĩ vậy thôi Sansa thấy chùn bước. Vẫn chưa chôn xong xác kẻ thiệt mạng trong trận đấu trước, bọn họ chuẩn bị cho trận đấu sắp tới.

      Ở rìa sân, hiệp sĩ với hai bông hồng vàng khiên chiến đấu với ba đối thủ. Ngay cả khi họ quan sát, ông ta cũng túm lấy đầu người và đánh người đó tới tấp.

      “Có phải đó là em của ngài ?” Sansa hỏi.

      “Thưa tiểu thư, phải,” Ser Loras . “Garlan thường huấn luyện ba người cùng lúc, thậm chí có lúc bốn người. Khi chiến đấu hiếm khi nào người đấu với người, ta vậy, vì vậy ta muốn mọi người được chuẩn bị tốt.”

      “Chắc hẳn ta dũng cảm lắm.”

      ấy là hiệp sĩ giỏi,” Ser Loras trả lời. “ tay kiếm giỏi hơn tôi, là vậy, mặc dù tôi dùng giáo giỏi hơn ta.”

      “Tôi vẫn còn nhớ,” Sansa . “Ngài cưỡi ngựa rất cừ.”

      “Tiểu thư tốt bụng khi vậy. Tiểu thư thấy tôi cưỡi ngựa khi nào vậy?”

      “Tại cuộc đấu ngựa của quân sư, ngài nhớ sao? Ngài cưỡi con tuấn bạch mã, và áo giáp của ngài hình cả trăm loại hoa. Ngài tặng tôi bông hồng. Hôm đó ngài còn tung hoa hồng trắng cho các khác nữa.” thấy ngượng ngùng khi về chuyện đó. “Ngài vinh quang nào đẹp bằng nửa tôi.”

      Ser Loras nở nụ cười khiêm tốn nhất với . “Tôi chỉ đơn giản thôi, và người đàn ông nào có mắt đều thấy thế, thưa tiểu thư.”

      Chàng nhớ, Sansa giật mình nhận ra như vậy. Chàng chỉ tỏ thái độ tử tế với mình thôi, chàng nhớ gì đến mình hay bông hồng. cứ chắc rằng hành động của chàng có ý nghĩa nào đó, rằng hành động ấy hội tụ mọi ý nghĩa. bông hồng đỏ, phải hồng trắng. “Đó là khi ngài khiến Ser Robar Royce ngã ngựa,” cách tuyệt vọng.

      Chàng rụt tay khỏi cánh tay . “Thưa tiểu thư, tôi giết chết Robar tại Storm’s End.” Đó phải lời khoe khoang gì; chàng có vẻ buồn.

      Chàng, và người khác trong Đội Vệ Binh Cầu Vồng của vua Renly, đúng vậy. Sansa có nghe nhiều người phụ nữ về điều đó quanh giếng nước, nhưng trong khoảnh khắc, quên mất. “Đó là khi Lãnh chúa Renly bị giết, phải ? tội nghiệp cho em đáng thương của ngài.”

      “Cho Margaery ư?” Giọng của chàng căng lên. “Chắc chắn rồi. Nhưng lúc đó nó ở Bitterbridge. Nó nhìn thấy cảnh ấy.”

      “Dù vậy khi ấy nghe …”

      Tay Ser Loras khẽ chạm vào thanh gươm. Chuôi gươm làm bằng da trắng, quả táo chuôi gươm là bông hồng làm bằng thạch cao tuyết hoa. “Renly chết rồi, Robar cũng vậy. đến họ có ích gì ?”

      gay gắt trong giọng của chàng khiến sửng sốt. “Tôi… thưa ngài… tôi có ý định xúc phạm gì đâu.”

      “Tiểu thư Sansa, chắc chắn là vậy rồi,” Ser Loras đáp lời, nhưng ấm áp biến mất khỏi giọng của chàng. Chàng cũng đỡ cánh tay nữa.

      Họ lên bậc thang quanh co trong im lặng mỗi lúc nặng nề hơn.

      Ôi, tại sao mình lại phải nhắc đến Ser Robar làm gì? Sansa trộm nghĩ. Mình phá hỏng mọi thứ rồi. Chàng giận mình rồi. cố nghĩ ra đôi điều để sửa sai, nhưng mọi ngôn từ xuất trong tâm trí đều trở nên yếu ớt. Giữ im lặng , nếu ngươi chỉ khiến tình hình tệ hơn thôi, tự nhủ.

      Lãnh chúa Mace Tyrell và tùy tùng được xếp ở phía sau phòng ở hoàng gia, trong vọng lâu được gọi là Maidenvault kể từ khi vua Baelor giam cầm các chị em của mình trong đó, để khi nhìn thấy họ ông ta nảy sinh các ý nghĩ xác thịt. Bên ngoài các cánh cửa cao được chạm trổ là hai lính gác mặc áo choàng xanh được viền sa-tanh vàng, bông hồng vàng của Highgarden được thêu ngực. Cả hai đều cao bảy thước, vai rộng, hông hẹp, cơ bắp nổi cuồn cuộn. Khi Sansa đến đủ gần để nhìn mặt họ, thể phân biệt khác nhau giữa hai người. Họ đều có hàm bạnh, đôi mắt cùng màu xanh, và ria dày màu đỏ đồng.

      “Họ là ai vậy?” hỏi Ser Loras, trong chốc lát tạm quên mối bất an của mình.

      “Lính riêng của bà tôi,” . “Mẹ họ đặt tên cho họ là Erryk và Arryk, nhưng bà thể phân biệt hai người, vì vậy bà gọi họ là Tả và Hữu…”

      Tả và Hữu mở cửa, Margaery Tyrell xuất nhanh đến chào đón họ.

      “Tiểu thư Sansa,” ta , “tôi rất vui khi phu nhân đến. Xin chào mừng phu nhân.”

      Sansa quỳ xuống dưới chân hoàng hậu tương lai. “Thưa hoàng hậu, vinh hạnh cho thần quá.”

      “Tại sao tiểu thư gọi tôi là Margaery thôi? Tiểu thư đứng lên . Loras, đỡ tiểu thư Sansa đứng lên . Tôi gọi là Sansa được ?”

      “Rất vinh hạnh.” Ser Loras đỡ đứng dậy.

      Margaery cho trai lui ra với nụ hôn âu yếm rồi cầm tay Sansa. “Đến đây nào, bà tôi đợi, và bà phải là người kiên nhẫn nhất đâu.”

      ngọn lửa tí tách cháy trong lò sưởi, và các ngọn bấc mùi thơm ngọt được rải sàn phòng. Xung quanh chiếc bàn dài, khoảng chục người phụ nữ ngồi yên vị.

      Sansa chỉ nhận ra phu nhân Alerie của Lãnh chúa Tyrell, người phụ nữ cao, trang nghiêm, bím tóc bạc dài được cột nhẫn trang sức. Margaery giới thiệu mọi người với . Có ba người Nhà Tyrell, là Megga, Alla và Elinor, và họ cũng tầm tuổi Sansa. Tiểu thư Janna đẫy đà là chị của Lãnh chúa Tyrell, và kết hôn với người Nhà Fossoway; phu nhân Leonette xinh xắn, mắt sáng cũng là người mang họ Fossoway, và bà kết hôn với Ser Garlan. Septa Nysterica có khuôn mặt lấm chấm sẹo do bệnh đậu mùa, nhưng trông có vẻ vui tươi. Phu nhân Graceford xanh xao nhưng thanh lịch có bầu, và tiểu thư Bulwer mới chỉ là bé con khoảng tám tuổi. “Merry” là từ mà dành cho Meredyth Crane bụ bẫm và ồn ã, nhưng nhất quyết được gọi là tiểu thư Merryweather, tiểu thư có đôi mắt đen đẹp bí hiểm, mang đúng vẻ đẹp của Nhà Myrish.

      Cuối cùng, Margaery đưa tới trước mặt người phụ nữ tóc trắng, da nhăn nheo ngồi đầu bàn. “Tôi vinh dự được giới thiệu bà tôi, phu nhân Olenne, góa phụ của ngài Luthor Tyrell quá cố, nguyên là lãnh chúa của Highgarden, và ký ức về ông là niềm an ủi của chúng tôi.”

      Ở người đàn bà có tuổi ấy tỏa ra mùi nước hoa hồng. Tại sao nhỉ, trông bà rất nhắn mà. Ở bà toát ra điều gì gai góc cả. “Cháu , hôn ta nào,” phu nhân Olenna , kéo mạnh cổ tay Sansa bằng bàn tay lốm đốm. “Cháu tử tế khi đến đây ăn tối với ta và đàn gà mái ngu ngơ của ta.”

      Đầy ý thức trách nhiệm, Sansa hôn lên má người phụ nữ già ấy. “Thưa phu nhân, người tốt bụng khi mời cháu đến đây.”

      “Ta biết ông nội cháu, Lãnh chúa Richard, dù cũng lắm.”

      “Ông mất trước khi cháu chào đời.”

      “Cháu , ta biết điều đó chứ. Người ta ông ngoại Tully cháu cũng hấp hối. Lãnh chúa Hoster ấy, chắc chắn bọn họ với cháu rồi chứ? Ông ấy già quá rồi, mặc dù cũng chưa già bằng ta đâu. Nhưng dù sao, ai mà chẳng phải chết, có điều cái chết đến quá sớm với số người. Cháu tội nghiệp, chắc cháu biết điều đó. Ta biết cháu cũng đau khổ nhiều. Chúng ta rất tiếc cho mất mát của cháu.”

      Sansa liếc nhìn Margaery. “Tôi rất buồn khi nghe về cái chết của Lãnh chúa Renly, thưa hoàng hậu. Ngài ấy rất hào hiệp.”

      “Tiểu thư tử tế,” Margaery .

      Bà lão khịt mũi. “Hào hiệp, phải rồi, quyến rũ, và rất sạch . Ông ta biết cách ăn mặc, biết cách cười, cách tắm, và ông ta biết rằng những điều ấy phù hợp với vị trí của vị vua. Gia tộc Baratheon lại có những quan điểm kỳ cục, chắc chắn vậy. Xuất phát từ dòng máu Targaryen thôi, ta cho là vậy.” Bà hít hơi sâu. “Có lần bọn họ cũng cố bắt ta cưới gã Targaryen, nhưng ta sớm kết thúc chuyện đó.”

      “Renly dũng và lịch thiệp, bà ạ,” Margaery . “Cha cũng quý ông ấy, Loras cũng thế nữa.”

      “Loras còn trẻ,” phu nhân Olenna quả quyết , “và giỏi dùng gậy quật ngã người ta từ ngựa xuống. Việc đó đâu có giúp thằng bé khôn ngoan hơn. Về phần cha cháu, nếu như ta sinh ra vốn là mụ nhà quê với cái thìa gỗ to tướng, ta nhồi thêm trí thông minh vào cái đầu to sụ béo múp của cha cháu rồi.”

      “Mẹ,” phu nhân Alerie quở trách.

      “Hứ, Alerie, đừng có với ta bằng cái giọng đó. Và đừng gọi ta là mẹ. Nếu ta sinh ra con, chắc chắn hẳn ta còn nhớ. Ta chỉ chịu trách nhiệm là sinh ra chồng con, lãnh chúa ngu ngốc của Highgarden thôi.”

      “Bà ơi,” Margaery , “bà cẩn trọng chứ, nếu Sansa nghĩ sao về chúng ta nào?”

      “Con bé nghĩ chúng ta cẩn trọng về chính mình. trong số chúng ta, bằng mọi giá.” Người phụ nữ có tuổi quay sang Sansa. “Đó là phản quốc, ta cảnh bảo bọn họ, Robert có hai con trai, và Renly có trai, làm sao nó có thể có tuyên bố nào khác cho chiếc ghế sắt xấu xí đó? Con trai ta , chẳng lẽ nó lại muốn vợ nó làm hoàng hậu sao? Gia tộc Stark nhà ngươi từng là vua, gia tộc Arryn và Lannister cũng vậy, và cả gia tộc Baratheons nữa, nhưng gia tộc Tyrell chỉ là đội quân phục vụ cho đến khi Aegon Chúa Rồng đến và nướng thịt vị vua hợp pháp của Reach trận Cánh Đồng Cháy. Nếu ra, lời tuyên bố của chúng ta đối với Highgarden cũng có vẻ mạo hiểm, cũng như những người Nhà Florent đáng sợ ấy vẫn luôn luôn rền rĩ. ‘Điều đó sao?’ ngươi hỏi vậy, đúng là sao , trừ những kẻ ngu ngốc như con trai ta. Ý nghĩ về ngày nó nhìn thấy cháu nội cháu ngoại của nó đặt mông lên Ngai Sắt khiến Mace phồng lên như… nào, ngươi gọi là gì nào? Margaery, cháu thông minh và dễ thương, hãy cho bà già ngớ ngẩn này biết tên của con cá bình thường đến từ Đảo Summer mà nó phồng lên to gấp mười lần cơ thể nó khi cháu thọc thọc vào nó ?”

      “Bà ơi, người ta gọi đó là cá phồng ạ.”

      “Tất nhiên là vậy rồi. Những người ở Đảo Summer có trí tưởng tượng chút nào. Con trai ta phải lấy con cá phồng làm con dấu, là thế. Nó có thể đặt chiếc vương miện lên đầu con cá, giống như Nhà Baratheon làm với biểu tượng con hươu đực của họ, có lẽ như thế khiến thằng bé vui. Chúng ta tốt hơn hết nên tránh xa khỏi ngu dốt của nó , nhưng nếu con bò bị vắt sữa rồi vú nó đâu còn sữa nữa. Sau khi Lãnh chúa Cá Phồng đặt chiếc vương miện đó lên đầu Renly, tất cả chúng ta phải quỳ xuống, để bây giờ chúng ta ở đây nhìn thấu mọi việc. Sansa, cháu sao về điều đó?”

      Miệng Sansa há hốc và cảm thấy mình rất giống con cá phồng. “Gia tộc Tyrell có thể tìm theo dấu vết cuộc tấn công đến tận thời Garth Tay Xanh,” là câu trả lời hay nhất mà có thể xoay sở nghĩ ra trong thời gian ngắn.

      Nữ Hoàng Gai khịt mũi. “Thế Nhà Florent, Rowan, Oakheart, và nửa các gia đình cao quý khác ở phương nam cũng vậy. Garth thích trồng hạt đất phì nhiêu, người ta vậy. Ta thắc mắc tại sao đôi tay ông ta lại xanh lét.”

      “Sansa à,” phu nhân Alerie chen vào, “chắc cháu đói lắm. Chúng ta cùng ăn thịt lợn lòi nhé, và vài chiếc bánh chanh được ?”

      “Cháu rất thích bánh chanh,” thêm.

      “Và chúng ta được kể rằng,” phu nhân Olenna tuyên bố, và ràng bà có ý định im lặng. “Rằng Varys có vẻ nghĩ chúng ta nên biết ơn vì thông tin đó. Ta chưa bao giờ chắc chắn về mục đích của tên quan hoạn, thực là thế. Với ta, bọn họ chỉ là những người đàn ông với bộ phận hữu ích lại bị cắt mất. Alerie, con sai họ mang đồ ăn vào được , hay là con định để mẹ đói đến chết? Đến đây, Sansa, đến đây ngồi cạnh ta, ta nhạt nhẽo như những người khác đâu. Ta mong là cháu ưa mấy người làm trò hề.”

      Sansa chỉnh lại váy và ngồi xuống. “Cháu nghĩ… người làm trò hề ấy. Ý bà là… những người đóng vai hề đúng ạ?”

      “Trong trường hợp này là chim muông. Cháu tưởng tượng ta về cái gì nào? Về con trai ta? Hay về những phu nhân dễ thương này? Ồ , đừng đỏ mặt chứ, mái tóc khiến cháu trông giống quả lựu lắm. Đàn ông ai cũng là hề hết, thực là thế, nhưng những người đóng vai hề gây cười hơn những người ngồi ngai vàng nhiều. Margaery, cháu , gọi Cục Bơ , để chúng ta xem liệu chúng ta có thể khiến tiểu thư Sansa nở nụ cười . Tất cả mọi người cứ ngồi yên, chẳng lẽ ta phải bảo các người mọi điều hay sao? Sansa chắc hẳn nghĩ bữa tối của cháu ta được tham dự bởi đàn cừu đấy.”

      Cục Bơ đến trước khi thức ăn được dọn ra, ta mặc bộ lông vũ xanh và vàng của người làm trò tiêu khiển trong cung điện. người béo tròn, to gấp ba lần Moon Boy, xe ngựa kéo vào sảnh, nhảy lên bàn, và đặt quả trứng khổng lồ ngay trước mặt Sansa. “Tiểu thư, xin hãy đập vỡ,” ông ta . Khi đập, cả chục con gà lông vàng chui ra và chạy tứ tán. “Bắt lấy chúng!” Cục Bơ hét lên. Tiểu thư Bulwer bé bỏng túm được con và đưa cho ông ta, trong khi ông ta ngửa đầu ra sau, thả con gà vào cái miệng to lớn của ông ta, và có vẻ như nuốt trọn cả con gà. Khi ông ta ợ ra, những sợi lông vàng xíu bay ra khỏi lỗ mũi. Tiểu thư Bulwer gào lên thương tiếc, nhưng nước mắt bé lại biến thành niềm vui sướng khi con gà con chui ra khỏi ống tay áo bé và chạy xuống cánh tay.

      Khi người hầu mang nước sốt tỏi tây và nấm vào, Cục Bơ bắt đầu tung hứng và phu nhân Olenna dướn người về trước chống khuỷu tay lên bàn. “Sansa, cháu có biết con trai ta ? Lãnh chúa Cá Phồng của Highgarden ấy?”

      Lãnh chúa vĩ đại ạ,” Sansa lịch trả lời.

      thằng ngu vĩ đại có,” Nữ Hoàng Gai . “Cha nó cũng ngu nữa. Chồng ta, Lãnh chúa Luthor quá cố. Ồ, ta ông ấy lắm, đừng hiểu nhầm ta nhé. Ông ấy rất tốt bụng, và giỏi chuyện chăn gối, nhưng vẫn là gã ngu thôi. Ông ấy cưỡi ngựa vách đá khi săn mồi theo kiểu chim ưng ấy. Bọn họ ông ta ngẩng mặt nhìn lên trời và hay biết con ngựa đưa mình đâu.

      Và giờ đứa con trai ngu ngốc của ta cũng y như vậy, chỉ khác là nó cưỡi sư tử, thay vì con ngựa con. Cưỡi sư tử dễ hơn, nhưng xuống lưng nó dễ đâu, ta cảnh cáo nó rồi, nhưng nó lại chỉ tủm tỉm cười. Sansa à, nếu cháu có con trai, nhớ thường xuyên đánh nó để nó học cách quan tâm đến cháu. Ta chỉ có thằng con trai và chẳng bao giờ đánh nó, thế nên bây giờ nó quan tâm đến Cục Bơ hơn là quan tâm đến ta. Sư tử phải là con mèo cảnh, ta với nó rồi, và nó chỉ bảo ta là ‘mẹ tặc tặc.’ Vương quốc của nó có quá nhiều tiếng tặc tặc. Những ông vua này làm tốt hơn nhiều nếu bọn họ đặt gươm xuống và chịu khó lắng nghe các bà mẹ.”

      Sansa thấy miệng mình lại há hốc ra. xúc đầy miệng thìa nước xốt trong khi phu nhân Alerie và các phu nhân khác cười rúc rích trước biểu diễn của Cục Bơ, khi ông ta tung các trái cam đầu, khuỷu tay và mông quần rộng lùng thùng của ông ta.

      “Ta muốn cháu cho ta biết về thằng quý tộc đó,” phu nhân Olenna bỗng nhiên . “Joffrey ấy.”

      Các ngón tay của Sansa nắm chặt quanh thìa. ư? Mình thể. Đừng hỏi tôi, làm ơn đừng hỏi, tôi thể . “Cháu… cháu… cháu.”

      “Đúng, là cháu. Ai biết hơn cháu nào? Thằng bé đó có vẻ tử tế, ta có thể công nhận với cháu. Có vẻ như vậy là đủ về nó, nhưng đó là máu của dòng họ Lannister thôi. Nhưng chúng ta nghe được số chuyện phiền nhiễu. Mấy chuyện đó có ? Nó có ngược đãi cháu ?”

      Sansa lo lắng nhìn quanh. Cục Bơ thả cả quả cam vào miệng, nhai và nuốt gọn, rồi ông ta vỗ vỗ má, thổi phù hạt cam ra bằng đường mũi. Các phu nhân cười khúc khích. Người hầu vào rồi ra, và Maidenvault bắt chước tiếng lanh canh của bát đĩa. con gà con nhảy bàn rồi chạy cả vào bát nước sốt của phu nhân Graceford. Có vẻ như ai chú ý gì đến họ, nhưng dù vậy, vẫn sợ.

      Phu nhân Olenna tỏ ra mất kiên nhẫn. “Tại sao cháu lại há miệng nhìn Cục Bơ vậy? Ta hỏi cháu câu hỏi, và ta chờ đợi câu trả lời. Hay là Nhà Lannister lấy cả lưỡi của cháu rồi hả?”

      Ser Dontos cảnh cáo chỉ được năng tự do trong rừng. “Joff… vua Joffrey, ngài ấy… Nhà vua rất công bằng, đẹp trai, và … và dũng cảm như con sư tử.”

      “Phải, tất cả những ai mang họ Lannister đều là sư tử, và khi người Nhà Tyrell đánh hơi có mùi thơm của hoa hồng,” người phụ nữ ngắt lời. “Nhưng nó có tử tế ? Có tốt bụng, biết thương ? Nó có ân cần như vị vua ? Liệu nó có thương và cư xử dịu dàng với Margaery, bảo vệ danh dự của con bé như danh dự của chính nó ?”

      “Có ạ,” Sansa dối. “Ngài ấy rất… rất nhã nhặn.”

      “Cháu vậy đấy. Cháu này, cháu biết , có người cháu đại ngốc, khác gì Cục Bơ kia, ta bắt đầu tin lời bọn họ đấy. Nhã nhặn ư? Ta dạy Margaery nhã nhặn đáng giá thế nào. Có khi còn kém giá trị hơn cú rắm của diễn viên kịch câm. Aerion Brightfire nhã nhặn lắm, nhưng con quỷ cũng có thể nhã nhặn. Câu hỏi là, Joffrey là ai?” Bà nạt người hầu qua. “Ta thích tỏi tây. Đem món xốt này và mang pho mát cho ta.”

      “Thưa phu nhân, pho mát được phục vụ sau món bánh ạ.”

      “Pho mát được phục vụ khi ta muốn, và ta muốn được phục vụ ngay bây giờ.” Bà lão lại quay sang Sansa. “ bé, cháu sợ à? cần phải sợ, ở đây chỉ có phụ nữ thôi. cho ta nghe , hại gì đến cháu đâu.”

      “Cha cháu luôn luôn .” Sansa bình thản , nhưng dù vậy, vẫn khó nên lời.

      “Lãnh chúa Eddard, đúng vậy, ông ta nổi tiếng như vậy, nhưng người ta gọi ông ấy là kẻ phản bội và chặt đầu ông ta vì lý do đó.” Đôi mắt của bà lão ấy nhìn chằm chằm vào mắt , sắc sảo và sáng như mũi kiếm.

      “Joffrey,” Sansa . “Joffrey làm việc đó. Ngài ấy hứa khoan hồng, và rồi ngài ấy ra lệnh chặt đầu cha cháu. Ngài ấy đó là khoan hồng, và ngài ấy đưa cháu lên thành và bắt cháu nhìn cảnh đó. Cái đầu của cha cháu. Ngài ấy muốn cháu khóc, nhưng…” đột nhiên dừng lại, và che miệng. Mình quá nhiều rồi, Thánh thần ơi, bọn họ biết, bọn họ nghe thấy, bọn họ rồi kể lại mất.

      “Kể tiếp .” Margaery là người thúc giục. Hoàng-hậu-tương-lai của Joffrey. Sansa biết ta nghe được những gì.

      “Tôi thể.” Nếu ta với sao, nếu thế sao? Chắc chắn lúc ấy giết mình, hoặc giao mình cho Ser Ilyn. “Tôi có ý… cha tôi là kẻ phản bội, trai tôi cũng vậy, trong tôi có huyết mạch của kẻ phản bội, làm ơn , đừng bắt tôi phải gì thêm nữa.”

      bé, bình tĩnh,” Nữ Hoàng Gai ra lệnh.

      “Bà ơi, ấy sợ, bà nhìn xem.”

      Người phụ nữ già gọi Cục Bơ lại. “Kẻ ngốc kia! Hát cho chúng ta nghe. bài hát dài. Bài ‘Chú gấu và chợ phiên hầu ’ rất hợp đấy.”

      “Vâng!” người pha trò to béo trả lời. “Rất hợp! Thần hát trong tư thế trồng cây chuối được ạ?”

      “Như thế có hay hơn ?”

      ạ.”

      “Thế ngươi cứ đứng bằng hai chân . Chúng ta muốn mũ của ngươi rơi xuống. Như ta còn nhớ, ngươi chẳng bao giờ gội đầu cả.”

      “Theo lệnh phu nhân!” Cục Bơ cúi thấp người, ợ cái to, rồi đứng thẳng, giật tung bụng áo và hát rống lên. “Có con gấu, con gấu, CON GẤU! Da đen nâu, người đầy lông lá…”

      Phu nhân Olenna nhoài người ra trước. “Ngay cả khi ta còn ít tuổi hơn cháu, Tháp Đỏ này vẫn nổi tiếng là tai vách mạch rừng. Hừm, hay hơn khi nghe bài hát, và trong lúc đó đám đàn bà con chúng ta thoải mái trò chuyện.”

      “Nhưng,” Sansa , “Varys… ông ấy biết, ông ấy luôn luôn…”

      “Hát to lên!” Nữ Hoàng Gai thét vào mặt Cục Bơ. “Đôi tai già của ta sắp điếc rồi, ngươi biết chứ. Thằng hề ngốc kia, ngươi định thầm với ta sao? Ta trả tiền thào đâu đấy. Hát !”

      “… CON GẤU!” Cục Bơ rống lên như sấm, giọng hát sâu của ông ta vang vọng khắp căn phòng. “ÔI, ĐẾN ĐÂY, BỌN HỌ , ĐẾN CHỢ PHIÊN THÔI! HỘI CHỢ Ư? NHƯNG TÔI LÀ CON GẤU! GẤU ĐEN NÂU, VÀ ĐẦY LÔNG LÁ!”

      Người phụ nữ già da nhăn nheo mỉm cười. “Ở Highgarden, có vô số nhện giữa các bông hoa. Nếu đàn nhện bám vào hoa, chúng ta cho phép chúng giăng tơ, nhưng nếu chúng rơi xuống đất, chúng ta giẫm lên bọn chúng.” Bà vỗ lên mu bàn tay Sansa. “Nào, bé, . Joffrey là loại đàn ông thế nào, mang họ Baratheon nhưng trông giống hệt Nhà Lannister?”

      “VÀ XUỐNG ĐƯỜNG TỪ ĐÂY ĐẾN ĐÓ. TỪ ĐÂY! ĐẾN ĐÓ! BA CẬU BÉ, CON DÊ, VÀ CON GẤU NHẢY NHÓT!”

      Sansa thấy tim mình giật thót. Nữ Hoàng Gai ngồi gần đến mức ngửi thấy hơi thở chua loét của bà. Những ngón tay gầy hốc hác của bà bấu chặt cổ tay . Phía bên kia, Margaery cũng lắng nghe. cơn rùng mình chạy trong sống lưng . “ con quỷ,” thầm, run đến mức gần như nghe thấy giọng mình. “Joffrey là con quỷ. dối về con trai người bán thịt và bắt cha cháu giết chết con sói tuyết. Khi cháu làm phật ý, sai lính đánh cháu. hiểm độc và tàn nhẫn, thưa phu nhân, đó là . Và thái hậu cũng thế.”

      Phu nhân Olenna Tyrell và cháu nhìn nhau. “À,” bà lão , “ là đáng tiếc.”

      Ôi, thánh thần ơi, Sansa thầm nghĩ và kinh hãi. Nếu Margaery kết hôn với , Joff biết chuyện này và mình bị đổ lỗi. “Làm ơn,” buột miệng, “đừng dừng cuộc hôn lễ…”

      “Đừng lo, Lãnh chúa Cá Phồng nhất quyết Margaery phải là hoàng hậu rồi. Và lời của người Nhà Tyrell ra có giá trị hơn mọi kho vàng ở Casterly Rock. Ít nhất là trong thời kỳ của ta. Dù vậy, bé, chúng ta cám ơn cháu vì .”

      “…NHẢY NHÓT VÀ QUAY CUỒNG, ĐƯỜNG ĐẾN CHỢ PHIÊN! CHỢ PHIÊN!” Cục Bơ nhảy lò cò, rống lên và dậm chân.

      “Sansa, có muốn đến thăm Highgarden ?” Khi Margaery Tyrell mỉm cười, trông ta rất giống trai Loras. “Hoa mùa thu nở, còn có các lùm cây và đài phun nước, những khoảng sân râm mát, những dãy cột cẩm thạch. Cha tôi luôn có ca sĩ trong cung điện, họ hát hay hơn Cục Bơ này nhiều, có cả người thổi tiêu, kéo đàn và chơi đàn hạc nữa. Chúng tôi có những con ngựa tốt nhất, và những con thuyền êm ái để giương buồm dọc Mander. có biết săn mồi Sansa?”

      chút thôi,” đáp lời.

      “ÔI, NÀNG NGỌT NGÀO VÀ TRONG TRẮNG! NGƯỜI THIẾU NỮ CÓ MẬT ONG TÓC!”

      mến Highgarden như tôi, tôi chắc chắn đấy.” Margaery vuốt lọn tóc của Sansa. “Khi nhìn thấy Highgarden rồi, muốn rời bước đâu. Và có lẽ muốn phải rời .”

      “TÓC NÀNG ẤY! TÓC NÀNG ẤY! NÀNG THIẾU NỮ CÓ MẬT ONG TÓC!”

      “Yên nào, cháu ,” Nữ Hoàng Gai nghiêm nghị . “Sansa vẫn chưa ấy muốn ghé thăm chúng ta mà.”

      “Ôi, cháu muốn lắm,” Sansa . Highgarden đúng là nơi mà vẫn luôn mơ ước, giống như tòa cung điện đẹp đẽ đầy phép màu mà từng hy vọng được thấy ở Vương Đô.

      “…MÙI HƯƠNG CỦA MÙA HÈ. CON GẤU! CON GẤU! GẤU ĐEN NÂU, VÀ ĐẦY LÔNG LÁ!”

      “Nhưng hoàng hậu,” Sansa tiếp, “bà ấy để cháu đâu…”

      “Bà ta đồng ý. có Highgarden, gia tộc Lannister có hy vọng giữ Joffrey ngai vàng. Nếu thằng con trai ngu ngốc của ta đề nghị, bà ta có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp thuận đề nghị của nó.”

      “Ngài ấy đề nghị chứ ạ?” Sansa hỏi. “ ạ?”

      Phu nhân Olenna cau mày. “Ta thấy cần phải cho nó lựa chọn. Tất nhiên là nó hay biết về mục đích thực của chúng ta.”

      “NÓ NGỬI THẤY HƯƠNG VỊ CỦA MÙA HÈ!”

      Sansan nhăn trán. “Thưa phu nhân, mục đích thực của chúng ta ạ?”

      “NÓ KHỊT KHỊT MŨI, HÉT LÊN VÀ NGỬI THẤY! MẬT ONG TRONG HƯƠNG VỊ CỦA MÙA HÈ!”

      bé, để thấy cháu kết hôn an toàn,” bà lão khi Cục Bơ la hét bài hát, “với cháu trai của ta.”

      Kết hôn với Ser Loras, ôi… Sansa nghẹn lời. nhớ Ser Loras trong chiếc áo giáp màu ngọc bích lấp lánh và tung tặng đóa hồng. Ser Loras trong bộ lụa trắng, rất thuần khiết, vô tư, và đẹp trai. Hai lúm đồng tiên nơi khóe miệng chàng khi cười. ngọt ngào trong nụ cười của chàng, hơi ấm nơi bàn tay chàng. chỉ có thể hình dung mọi việc thế nào khi chàng cởi bỏ áo giáp và được vuốt ve làn da mềm mại bên dưới, khi được đứng kiễng chân lên và hôn chàng, khi được luồn các ngón tay vào những lọn tóc quăn màu nâu dày, và chìm đắm trong đôi mắt nâu sâu thẳm của chàng. Hai má ửng đỏ.

      “ÔI, NÀNG THIẾU NỮ, TÔI TRONG TRẮNG VÀ CÔNG BẰNG LẮM NHÉ! TÔI BAO GIỜ KHIÊU VŨ VỚI CON GẤU LÔNG LÁ! CON GẤU! CON GẤU! TÔI BAO GIỜ KHIÊU VŨ VỚI CON GẤU LÔNG LÁ!”

      “Sansa, thích ?” Margaery hỏi. “Tôi có chị em , chỉ có em trai tôi. Ôi, làm ơn là có mà, làm ơn ưng lòng lấy trai tôi .”

      Ngôn từ trong cứ bay biến. “Vâng. Tôi đồng ý. Tôi mong như vậy hơn cả. Được kết hôn với Ser Loras, được thương ngài ấy…”

      “Loras ư?” Phu nhân Olenna có vẻ khó chịu. “ bé, đừng có ngốc thế. Ngự Lâm Quân bao giờ kết hôn. Ở Winterfell người ta dạy cháu sao? Chúng ta về cháu trai Willas của ta. Nó hơi nhiều tuổi so với cháu, nhưng nó ngoan lắm. hề ngu ngốc chút nào, và bên cạnh đó, nó là người thừa kế Highgarden.”

      Sansa thấy choáng váng; vừa mới thôi, đầu óc ngập tràn mơ ước về Loras, thế mà bây giờ những ước mơ ấy tiêu tan. Willas ư? Willas ư? “Cháu,” đột nhiên . lịch thiệp là áo giáp của quý bà. Ngươi được làm phật ý họ, cẩn trọng với từng lời của ngươi. “Cháu biết Ser Willas. Thưa phu nhân, cháu chưa từng có vinh hạnh được gặp ngài ấy. Ngài ấy… ngài ấy có phải là hiệp sĩ giỏi như các em của ngài ấy ?”

      ,” Margaery . “ ấy chưa bao giờ đọc lời thề.”

      Bà của chau mày. “ cho ấy nghe . Thằng bé tội nghiệp bị què, thế đấy.”

      ấy bị thương khi làm cận vệ, khi cưỡi ngựa trong cuộc đấu ngựa đầu tiên,” Margaery kể. “Ngựa của ấy ngã và đè bẹp chân ấy.”

      “Đấy là tại con rắn của gã người Dorne, gã Oberyn Martell ấy. Và cả tay học sĩ của gã nữa.”

      “TA KÊU HIỆP SĨ, NHƯNG NGƯƠI LẠI LÀ CON GẤU! CON GẤU! CON GẤU! GẤU ĐEN NÂU, VÀ ĐẦY LÔNG LÁ!”

      “Willas chỉ còn chân, nhưng trái tim ấy đầy thương,” Margaery . “Hồi tôi còn , ấy thường đọc cho tôi nghe, và vẽ cho tôi xem hình các ngôi sao. Sansa à, thương ấy nhiều như chúng tôi đấy.”

      “NÀNG ĐÁ CHÂN VÀ LOẠNG CHOẠNG, NÀNG THIẾU NỮ XINH ĐẸP, NHƯNG NÓ LIẾM MẬT TÓC NÀNG. TÓC NÀNG! TÓC NÀNG! NÓ LIẾM MẬT TÓC NÀNG!”

      “Khi nào tôi gặp ngài ấy?” Sansa hỏi, hơi ngập ngừng.

      “Sớm thôi,” Margaery hứa. “Khi đến Highgarden, sau khi tôi và Joffrey kết hôn. Bà đưa .”

      “Ừ,” bà lão , vỗ về tay Sansa và nụ cười nhăn nheo khuôn mặt. “Ta đưa cháu .”

      “RỒI NÀNG THỞ DÀI, NÀNG KÊU RÉ LÊN VÀ ĐÁ THÙM THỤP VÀO KHÍ! CON GẤU CỦA TÔI! NÀNG HÁT. CON GẤU CỦA TÔI ĐẸP! VÀ HỌ RỒI, TỪ ĐÂY ĐẾN ĐÓ, CON GẤU, CON GẤU VÀ NÀNG THIẾU NỮ XINH ĐẸP.” Cục Bơ rống lên hát câu cuối cùng, nhảy lên trung và đáp cả hai chân xuống đất với tiếng loảng xoảng làm rung cả các ly rượu bàn. Những người phụ nữ cười vang và vỗ tay tán thưởng.

      “Ta nghĩ bài hát gớm ghiếc ấy bao giờ hết,” Nữ Hoàng Gai . “Nhưng nhìn này, pho mát của ta đến rồi đây.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      JON


      gian màu xám xịt chìm trong bóng tối, đượm mùi gỗ thông, rêu và cái lạnh. Màn sương mù mỏng lơ lửng mặt đất đen kịt khi dòng người cưỡi ngựa len lỏi qua lớp đá và cây cối rải rác, xuôi về phía những ngọn lửa trông như món đồ trang sức dưới đáy thung lũng. Có vô số ngọn lửa, Jon Snow đếm được, có lẽ phải hàng trăm hàng ngàn ngọn, như dòng sông của những đốm sáng lung linh dọc các bờ sông của Milkwater trắng như băng. Các ngón tay cậu nắm thanh gươm, hết mở ra lại nắm vào.

      Họ xuống núi có cờ trận hay kèn, im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng rì rầm xa xa của con sông, tiếng vó ngựa lọc cọc, và tiếng áo giáp bằng xương của Rattleshirt kêu lách cách. Đâu đó bên , con đại bàng bay vọt lên với đôi cánh to màu xám xanh, trong khi đó, bên dưới, nhóm gồm nhiều người đàn ông, chó và ngựa, cùng con sói tuyết, vẫn tiếp tục .

      hòn đá lăn xuống sườn núi, bị cản bởi móng guốc qua, và Jon thấy Bóng Ma quay đầu về phía thanh đột ngột đó. Bóng Ma theo dòng người cưỡi ngựa suốt cả ngày, đoạn đường xa lắm, giống thói quen vốn có của nó, nhưng khi mặt trăng mọc cao hơn ngọn cây thông, nó nhảy chồm lên, đôi mắt đỏ sáng rực. Những con chó của Rattleshirt chào đón Bóng Ma bằng tràng gầm gừ và sủa điên cuồng, nhưng con sói tuyết mảy may quan tâm đến chúng. Sáu ngày trước, con chó săn lớn nhất tấn công nó từ phía sau, khi đám dân du mục cắm trại nghỉ đêm, nhưng Bóng Ma quay lại và tấn công nó, khiến con chó phải bỏ chạy với vùng chân sau rớm máu. Sau cuộc đụng độ đó, những con chó còn lại trong đàn luôn giữ khoảng cách an toàn với Bóng Ma.

      Ngựa của Jon Snow khẽ hí lên, nhưng khi cậu chạm vào nó và khẽ , con vật liền im lặng. Giá như nỗi sợ hãi của chính cậu cũng được làm dịu dễ dàng như thế. Cậu mặc toàn đồ đen, màu đen của Đội Tuần Đêm, nhưng kẻ thù của cậu cưỡi ngựa cả phía sau và phía trước. Đám dân du mục, và mình cùng bọn họ. Ygritte mặc áo khoác của Qhorin Cụt Tay. Lenyl mặc áo giáp dài, cung thủ ngay dưới chân. Mũ của Qhorin bị người đàn ông thấp, thô kệch tên là Ryk Giáo Dài giành lại, nhưng vừa cái đầu hẹp của ông ta, vì vậy ông ta đưa mũ cho Ygritte. Rattleshirt đựng xương của Qhorin trong túi, cùng với cái đầu be bét máu của Ebben – người cùng Jon khởi hành để do thám Đèo Skirling. Chết cả rồi, bọn họ chết cả rồi, ngoại trừ mình, và mình cũng chết trong thế giới này.

      Ygritte cưỡi ngựa ngay sau lưng cậu, còn phía trước là Ryk Giáo Dài. Lãnh chúa Xương bắt bọn họ làm lính canh cậu.

      “Nếu con quạ này bay mất, ta tróc xương các ngươi,” ông ta cảnh cáo bọn họ khi họ bắt đầu lên đường, và ông ta cười nhăn nhở hở hàm răng xô lệch qua cái đầu lâu của gã khổng lồ đội đầu.

      Ygritte chế giễu ông ta. “Ông muốn bảo vệ ? Nếu muốn, cứ để yên cho chúng tôi làm.”

      Nhưng Jon thấy có đoàn khá đông người cùng. Rattleshirt có thể dẫn đầu đoàn, nhưng ai ngại ngùng chuyện với cậu.

      Gã du mục đầu nhìn cậu chằm chằm bằng ánh mắt mấy thân thiện. “Con quạ kia, có thể ngươi lừa phỉnh được những người khác, nhưng đừng nghĩ ngươi có thể gạt được Mance. Chỉ cần liếc nhìn ngươi cái thôi, ông ta biết ngay là ngươi hay dối. Và khi ông ta liếc ngươi, ta xẻ thịt con sói của ngươi để lấy lông làm áo khoác, rạch toang bụng con sói rồi tống con chồn vào bụng nó.”

      Gươm của Jon được kéo ra rồi lại tra vào, những ngón tay bên trong bao tay cong lại, nhưng Ryk Giáo Dài chỉ cười huề. “Thế mày tìm đâu ra chồn trong tuyết hả?”

      Đêm đầu tiên đó, sau ngày dài cưỡi ngựa, họ cắm trại đỉnh ngọn núi tên, xúm xụm gần đống lửa khi tuyết bắt đầu rơi. Jon nhìn những bông tuyết tan ra khi chúng bay lơ lửng ngọn lửa. Dù mặc cả áo len, lông và da, nhưng cậu vẫn thấy lạnh đến thấu xương. Ygritte ngồi bên cạnh cậu sau khi ta ăn xong, mũ trùm được kéo lên và hai tay ta thọc vào ống tay áo cho ấm. “Khi Mance nghe được việc làm với Cụt Tay, ông ta giữ ngay,” .

      “Giữ tôi làm gì?”

      cười vẻ khinh miệt. “Thay cho trong số chúng tôi. nghĩ là con quạ đầu tiên bay ra khỏi Tường Thành à? Tôi biết lòng dạ cháy bỏng ước muốn được tự do bay mà.”

      “Và khi tôi tự do,” chậm rãi, “tôi có được tự do ra ?”

      “Chắc chắn là có.” ta có nụ cười ấm áp, mặc dù răng hơi khấp khểnh. “Chúng tôi cũng tự do giết . Được tự do nguy hiểm lắm, nhưng ai cũng thích hương vị của nó.” ta đặt bàn tay đeo găng lên đùi cậu, ngay phía đầu gối. “Rồi thấy.”

      Tôi thấy chứ, Jon thầm nghĩ. Tôi thấy, nghe, và học, và khi được, tôi đưa tin về Tường Thành. Đám dân du mục bắt cậu phá lời thề, nhưng tận sâu trong đáy lòng, cậu vẫn là người của Đội Tuần Đêm, và thực bổn phận cuối cùng mà Qhorin Cụt Tay trao cho cậu. Trước khi mình giết ông ấy.

      Dưới đáy dốc, họ đến gần con suối chảy xuống từ chân núi để hòa vào dòng Milkwater. Trông con suối toàn đá và băng, mặc dù bọn họ nghe thấy tiếng nước chảy bên dưới mặt nước đóng băng. Rattleshirt dẫn bọn họ băng suối, làm vỡ tan lớp băng mỏng.

      Người cưỡi ngựa mở đường của Mance Rayder đến gần khi bọn họ xuất . Jon liếc nhìn ước chừng lực lượng của họ: tám tay cưỡi ngựa, cả đàn ông và đàn bà, họ đều mặc áo lông thú và da thuộc, có người đội mũ hoặc mặc áo giáp. Họ được trang bị giáo và thương được nung qua lửa, trừ người đầu, người đàn ông tóc vàng với đôi mắt ướt, ông ta cầm chiếc hái cong lớn làm bằng thép bén. Gã Mít Ướt, nhận ra ngay lập tức. Các em áo đen kể cho nhau nghe nhiều chuyện về người này. Giống như Rattleshirt, Harma Đầu Chó và Alfyn Crowkiller, ông ta là tay cưỡi ngựa nổi tiếng.

      “Lãnh chúa Xương,” Gã Mít Ướt khi ông ta thấy bọn họ. Ông ta quắc mắt nhìn Jon và con sói tuyết của cậu. “Ai kia?”

      con quạ,” Rattleshirt – ông ta thích được gọi là Lãnh chúa Xương, do chiếc áo giáp kêu loảng xoảng của ông ta. “Nó sợ tôi cũng tróc xương nó như tróc xương Cụt Tay.” Ông ta lắc lắc túi đựng chiến lợi phẩm với những tên du mục khác.

      “Chính nó giết chết Qhorin Cụt Tay,” Ryk Giáo Dài . “Nó và con sói của nó.”

      “Và nó cũng làm vậy với Orell nữa,” Rattleshirt .

      “Cậu chàng này là người biến hình, hay cũng gần gần thế,” Ragwyle . “Con sói của cậu ta ngoạm miếng chân của Cụt Tay đấy.”

      Đôi mắt ướt của gã Mít Ướt lại liếc nhìn Jon. “ sao? Hừm, giờ nhìn , ta thấy cậu ta có con sói bên cạnh. Đưa cậu ta đến gặp Mance, có thể ngài ấy giữ cậu ta lại.” Ông ta xoay ngựa và phóng nước đại , nhóm người cưỡi ngựa của ông ta chạy miết phía sau.

      Gió thổi mang theo cái ẩm ướt và cảm giác ảm đạm khi họ băng thung lũng của Milkwater và cưỡi hàng qua lán trại sông. Bóng Ma vẫn sát Jon, nhưng thính hơi của con sói giống như dấu hiệu, và chẳng mấy chốc, xung quanh họ nào là đám man di, nào là chó thi nhau gầm gừ và sủa ăng ẳng. Lenyl quát cho đàn chó im lặng, nhưng bọn chúng đoái hoài gì đến . “Chúng nghe lời vì con quái thú của ngươi đấy,” Ryk Giáo Dài .

      “Chúng là chó, còn Bóng Ma là chó sói” Jon . “Bọn chúng biết nó cùng chủng loại.” Cũng giống như ta với ngươi vậy. Nhưng cậu có nhiệm vụ cần hoàn thành, đó là nhiệm vụ mà Qhorin đặt lên vai cậu khi lần cuối cùng họ ngồi với nhau bên đống lửa – trà trộn trong đám du mục và tìm hiểu xem bọn họ tìm kiếm cái gì tại nơi hoang tàn lạnh giá ảm đạm của Frostfangs.

      chút quyền lực,” Qhorin với Gấu Già như vậy, nhưng ông ta chết trước khi biết bọn họ tìm kiếm gì, hay liệu Mance Rayder tìm được cái đó bằng việc đào xới lung tung chưa.

      Dọc con sông là những đống lửa để đun nấu, giữa vô số xe ngựa và xe trượt tuyết. Rất nhiều tên du mục kéo lều lên, lều được làm bằng da sống, vỏ cây và len rút. Những người khác trú ngụ sau các tảng đá trong những mái che tạm bợ, hoặc ngủ bên dưới xe ngựa. Bên đống lửa, Jon thấy người đàn ông tôi mũi những ngọn giáo dài và vứt thành đống. Chỗ khác, hai tên có râu mặc da thuộc tập luyện, lao vào nhau qua ngọn lửa, và càu nhàu mỗi khi người kia ra được đòn. Bên cạnh, khoảng chục người phụ nữ ngồi thành hình tròn và vót mũi tên.

      Mũi tên cho em của ta, Jon thầm nghĩ. Mũi tên cho đoàn quân của cha ta, cho người dân ở Winterfell và Deepwood Motte và Last Hearth. Mũi tên cho phương bắc.

      Nhưng phải nơi đâu cậu nhìn thấy cũng là hình ảnh của chiến tranh. Cậu thấy những người phụ nữ nhảy múa, nghe thấy em bé khóc, và cậu bé con chạy ngay phía trước con ngựa của cậu, tất cả bọn họ đều mặc da lông thú và chơi đùa vui vẻ. Cừu và dê lang thang khắp nơi, trong khi bò chậm chạp tìm cỏ bờ sông. Mùi thịt cừu nướng tỏa ra từ bếp lửa, và ở bếp lửa khác, cậu thấy con lợn lòi được quay xiên.

      Trong khoảng trống mà xung quanh được vây bọc bởi những cây thông cao vút, Rattleshirt xuống ngựa. “Chúng ta cắm trại ở đây,” ông ta với Lenyl, Ragwyle và những người khác. “Cho lũ ngựa và chó ăn, và các ngươi cũng ăn . Ygritte, Giáo Dài, đưa con quạ này đến gặp Mance để ngài xem mặt cậu ta. Sau đó chúng ta cho cậu ta ăn sau.”

      đoạn đường còn lại, bọn họ bộ ngang qua nhiều bếp lửa và nhiều lều trại hơn, Bóng Ma ngay sau gót họ. Jon chưa bao giờ nhìn thấy nhiều tên du mục đến thế. Cậu tự hỏi liệu có ai từng nhìn thấy nhiều du mục thế này chưa. Các lán trại cứ dài mãi, lán sau có vẻ dễ bị tấn công hơn cái trước. Đóng quân dàn trải như vậy, đám du mục phòng vệ, có hố bẫy, cũng có cọc nhọn, chỉ có các nhóm tuần quanh vòng ngoài của lán trại. Mỗi nhóm dừng lại ở bất cứ đâu bọn họ muốn, ngay khi bọn họ thấy nhóm khác dừng lại hoặc tìm thấy địa điểm thích hợp. Đám người tự do. Nếu các em của cậu nhìn thấy những người này trong tình cảnh hỗn độn thế này, rất nhiều người trong số họ đổi máu để lấy tự do đó. Bọn họ có vô số người, nhưng Đội Tuần Đêm có kỷ luật, và khi chiến đấu, kỷ luật hạ gục con số, chín trong mười lần là thế, có lần cha vậy với cậu như vậy.

      cần hồ nghi đâu là lều của Lãnh chúa Hoster. Căn lều ấy to gấp ba lần căn lều lớn nhất gần kề mà cậu thấy, và cậu nghe tiếng nhạc vọng ra từ trong lều. Giống như rất nhiều những túp lều hơn khác, căn lều này được làm bằng da sống được khâu cùng da thú, nhưng da sống làm lều của Mance Rayder là các tấm da còn lông trắng xù xì của gấu tuyết. Mái lều có chóp nhọn được đặt bộ gạc lớn của loài nai sừng tấm từng có thời tự do lại khắp Bảy Phụ Quốc, trong thời kì của Tiền Nhân.

      Ở đây, ít nhất bọn họ cũng thấy người bảo vệ; hai lính canh ngoài cửa lều, tựa người lên những cây giáo cao, khiên da được cột vào tay họ. Khi bọn họ nhìn thấy Bóng Ma, người hạ thấp mũi giáo và , “Con thú phải ở ngoài này.”

      “Bóng Ma, ở lại đây,” Jon ra lệnh. Con sói ngồi xuống.

      “Giáo Dài, canh chừng con thú.” Rattleshirt kéo mạnh cửa lều và ra hiệu cho Jon và Ygritte vào trong.

      Túp lều nóng và đầy khói. Các thùng than bùn cháy được đặt khắp bốn góc lều, phủ lên khí ánh lửa đỏ mập mờ. Nền đất được trải nhiều da lông thú hơn. Jon cảm thấy vô cùng đơn độc khi cậu đứng đó trong bộ đồ đen, chờ đợi vinh dự được diện kiến người tự phong cho mình là Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành. Khi mắt quen dần với khí ảm đạm đỏ rực đầy khói, cậu nhìn thấy sáu người, và ai để ý gì đến cậu. người đàn ông trẻ tuổi, da đen và người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp cùng uống rượu mật ong. người phụ nữ mang bầu đứng bên lò than nướng hai con gà, trong khi người đàn ông tóc xám mặc áo rách rưới màu đỏ đen ngồi bắt chéo chân gối, thổi đàn luýt và hát:

      Vợ của người xứ Dorne đẹp như ánh mặt trời,

      Nụ hôn của nàng ấm áp hơn mùa xuân.

      Nhưng lưỡi gươm của người xứ Dorne làm bằng thép đen,

      Và nụ hôn của nó vô cùng đáng sợ.

      Jon biết bài hát này, mặc dù nghe thấy bài hát ở đây – trong túp lều bờm xờm cách xa Tường Thành - quả là kỳ lạ, khi nơi đây cách những ngọn núi đỏ và những cơn gió ấm áp của Dorne cả chục ngàn dặm.

      Rattleshirt bỏ cái mũ nhuộm vàng xuống khi đợi bài hát kết thúc. Bên dưới chiếc áo giáp xương-và-da, ông ta nhắn, và nét mặt bên dưới cái đầu lâu khổng lồ rất đỗi bình thường, với chiếc cằm , râu mỏng, và hai má hõm vàng vọt. Mắt ông ta rất gần nhau, vành lông mày chạy thẳng ngang trán, mái tóc đen được cạo thành chỏm hình chữ V giữa trán.

      Vợ của người xứ Dorne ca hát khi tắm,

      Bằng giọng hát vô cùng ngọt ngào.

      Lưỡi gươm của người xứ Dorne cũng có bài ca riêng,

      Sắc bén và lạnh lùng như kẻ hút máu.

      Bên cạnh lò than, người đàn ông thấp, nhưng cực kỳ to lớn ngồi ghế đẩu gặm con gà. Mỡ nóng chảy xuống cằm ông ta và dính vào bộ ria trắng như tuyết, nhưng nụ cười vô cùng rạng rỡ. Những dải băng dày cộp bằng vàng, khắc dấu hiệu ma thuật được quấn quanh đôi cánh tay lực lưỡng của ông ta, và ông ta mặc áo giáp sắt đen chắc chắn chỉ có thể thuộc về người rừng chết. Cách đó vài mét, người đàn ông cao hơn, thanh mảnh hơn mặc áo da xâu lẫn vảy bạc đứng chau mày nhìn tấm bản đồ, hai thanh gươm lớn cầm bằng hai tay treo lủng lẳng sau lưng ông ta, trong bao da. Ông ta đứng thẳng như cây giáo, cơ bắp dẻo dai, râu ria cạo sạch, hói đầu, mũi thẳng và mắt sâu. Thậm chí trông ông ta còn có vẻ bình thường nếu như ông ta có tai, nhưng cả hai tai ông ta đều đâu mất, do bị hoại tử vì tê cóng hay vì lưỡi dao của kẻ thù, Jon cũng biết được. Thiếu đôi tai, trông đầu ông ta có vẻ hẹp và nhọn.

      Cả người đàn ông râu trắng và gã hói đều từng là chiến binh, chỉ cần liếc nhìn Jon cũng thấy như vậy. Hai người này nguy hiểm hơn Rattleshirt nhiều. Cậu tự hỏi ai là Mance Rayder.

      Khi nằm mặt đất, nếm được vị máu nơi đầu lưỡi,

      Các em quỳ gối bên cạnh , và cầu nguyện,

      mỉm cười và hát,

      “Các em, hỡi các em, thời kỳ của chúng ta hết, người xứ Dorne lấy cuộc đời của ta, nhưng như thế cũng quan trọng, vì ai ai cũng phải chết, và ta được thưởng thức vợ của gã rồi!”

      Khi khúc nhạc cuối cùng của bài hát “Vợ người xứ Dorne” kết thúc, người đàn ông hói đầu cụt tai rời mắt khỏi bản đồ và giận dữ quắc mắc vẻ hung ác với Rattleshirt và Ygritte, còn Jon đứng giữa hai người họ. “Gì đây?” ông ta . “ con quạ?”

      “Là gã con hoang mặc đồ đen moi ruột Orell,” Rattleshirt , “và cũng là người biến hình.”

      “Hai ngươi có nhiệm vụ giết hết bọn chúng.”

      “Người này đến,” Ygritte giải thích. “ ta tự tay giết Qhorin.”

      “Thằng nhóc này sao?” người đàn ông tai tức giận trước tin này. “Cụt Tay đáng ra phải là của ta. Con quạ kia, ngươi có tên ?”

      “Thưa bệ hạ, Jon Snow.” Cậu tự hỏi liệu ông ta có chờ cậu quỳ gối .

      “Bệ hạ?” Gã tai nhìn sang gã râu trắng. “Ngươi có nghe thấy ? Cậu ta nghĩ ta là vua cơ đấy.”

      Gã râu trắng cười như nắc nẻ, đến mức làm bắn thịt gà vung vãi. Ông ta lấy mu bàn tay to tướng quệt mỡ miệng. “Thằng nhóc này chắc mù rồi. ai nghe về ông vua bị cụt tai chưa? Tại sao ư, vì như thế vương miện của ông ta trôi tuột xuống cổ! Ha ha!” Ông ta cười toe toét với Jon và lau các ngón tay vào mông quần cho sạch. “Quạ kia, khép mỏ lại . Xoay người ngươi nữa, biết đâu ngươi tìm thấy người mà ngươi tìm kiếm.”

      Jon quay người lại.

      Người ca sĩ đứng lên. “Ta là Mance Rayder,” ông ta khi đặt đàn luýt sang bên. “Còn ngươi là con hoang của Ned Stark, họ Snow ở Winterfell.”

      Sửng sốt, Jon lên lời trong khoảnh khắc, trước khi lấy lại bình tĩnh, “Làm sao… làm sao ngài biết…”

      “Chuyện đó để sau,” Mance Rayder . “Cậu bé, cậu thích bài hát này ?”

      “Thích lắm. Trước tôi nghe rồi.”

      “Nhưng có quan trọng , vì ai ai cũng phải chết,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành khẽ , “và ta từng được thưởng thức vợ của gã người Dorne rồi. cho ta nghe, Lãnh chúa Xương của ta ? Có phải ngươi giết ông bạn cũ Cụt Tay của ta ?”

      “Phải.” Mặc dù đó là hành động của ông ta, hơn là của tôi.

      “Thế Tháp Đêm chẳng còn đáng sợ nữa,” vị vua với giọng u buồn. “Qhorin là kẻ thù của ta. Nhưng cũng từng là em của ta. Vì vậy… ta có nên cám ơn ngươi vì giết ông ta , Jon Snow? Hay ta nên nguyền rủa ngươi?” Ông ta nhìn Jon, cười mỉa mai.

      Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành trông giống vị vua, nhưng cũng giống tên du mục. Ông ta có chiều cao trung bình, khuôn mặt góc cạnh, với đôi mắt nâu sắc sảo và mái tóc nâu dài chuyển bạc. đầu ông ta có vương miện, tay đeo vòng vàng, cổ đeo trang sức, thậm chí bạc cũng . Ông ta mặc đồ len và da, và mảnh vải duy nhất người ông ta là chiếc áo khoác len màu đen rách rưới, những chỗ rách dài được vá bằng lụa đỏ phai màu.

      “Ngài nên cám ơn tôi vì giết chết kẻ thù của ngài,” sau cùng Jon , “và nguyền rủa tôi vì giết bạn ngài.”

      “Ha ha!” người đàn ông râu trắng cười vang. “Trả lời hay lắm!”

      “Đồng ý.” Mance Rayder vẫy tay ra hiệu cho Jon đến gần hơn. “Nếu ngươi gia nhập đội chúng ta, ngươi hiểu chúng ta nhất. Người đàn ông mà ngươi nhầm với ta là Styr, Magnar vùng Therm. Magnar nghĩa là ‘lãnh chúa’ trong Cổ Ngữ.” Người đàn ông tai lạnh lùng nhìn Jon rồi nhìn người đàn ông râu trắng. “Người ăn thịt gà hùng hục kia là Tormund trung thành của ta. Người phụ nữ…”

      Tormund đứng lên. “Từ từ . Ngài nêu tước hiệu của Styr rồi, ngài phải danh hiệu của tôi nữa.”

      Mance Rayder cười ồ. “Nếu ngươi muốn. Jon Snow này, trước mặt ngươi là Tormund Người Khổng lồ, Cao-kều-ba-hoa, Người-thổi-tù-và và Người-phá-vỡ-mạn-thuyền. Và ông ta cũng là Tormund Nắm Đấm Sét, Chồng của Gấu, Vua-rượu-mật-ong của Ruddy Hall, Người phát ngôn của Thánh Thần và Cha của Quỷ Dữ.”

      “Như thế nghe giống tôi hơn rồi,” Tormund . “Jon Snow, rất vui được gặp cậu. Ta rất ưa mấy gã biến hình, mặc dù ưa Nhà Stark lắm.”

      xinh đẹp bên cạnh lò than kia,” Mance Rayder tiếp, “là Dalla.” Người phụ nữ mang bầu bẽn lẽn mỉm cười. “Hãy cư xử với nàng như ngươi cư xử với nữ hoàng, nàng ấy mang thai đứa con của ta.” Ông ta quay sang hai người còn lại. “ nàng kiều này là em Val của nàng ấy. bé Jarl trẻ trung bên cạnh là em út cưng của nàng.”

      “Em phải bé cưng của ai hết,” Jarl , giọng giận dữ và khó chịu.

      “Và Val cũng thế,” Tormund râu trắng khịt mũi. “Đến giờ ngươi phải nhận ra điều đó, nhóc ạ.”

      “Jon Snow, vậy là cậu biết hết chúng ta rồi,” Mance Rayder . “Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành và cung điện của ngài, là thế này đây. Giờ đến lượt ngươi đôi lời, ta nghĩ là vậy. Ngươi đến từ đâu?”

      “Winterfell,” cậu , “bằng lối Hắc Thành.”

      “Và điều gì đưa ngươi lên Milkwater này, khi mà nơi đây cách xa nhà ngươi đến vậy?” Ông ta đợi Jon trả lời, mà nhìn Rattleshirt ngay lập tức. “Bọn họ có bao nhiêu người?”

      “Năm. Ba chết và cậu ta ở đây. Tên còn lại leo lên sườn núi, ngựa chạy theo được.”

      Mắt Rayder lại gặp mắt Jon. “Có phải các ngươi chỉ có năm người ? Hay còn nhiều em khác của ngươi lẩn tránh đâu đó?”

      “Chúng tôi có bốn người, và Cụt Tay nữa. Qhorin giỏi bằng hai mươi người bình thường.”

      Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành cười khi nghe đến đó. “Điều đó cần phải nghĩ lại. Dù vậy… thằng nhóc đến từ Hắc Thành với người rừng từ Tháp Đêm ư? Làm sao lại như thế được?”

      Jon chuẩn bị sẵn lời dối. “Tướng chỉ huy cử tôi theo Cụt Tay để học hỏi kinh nghiệm, vì vậy ông ta đưa tôi rừng cùng.”

      Magnar Styr cau mày khi nghe Jon . “ rừng, lại như vậy… làm sao quạ lại rừng ở tận Đèo Skirling được?”

      “Các ngôi làng bị bỏ hoang,” Jon , rất chân thành. “Có vẻ như tất cả người dân đều biến mất.”

      “Biến mất, à ừ,” Mance Rayder . “Và chỉ là người dân. Jon Snow, ai cho ngươi biết chúng ta ở đây?”

      Tormund khịt mũi. “Chính là Craster, nếu tôi là thiếu nữ biết đỏ mặt. Mance à, tôi với ngài rồi, kẻ đó đáng bị chặt đầu cho thấp bớt .”

      Nhắc đến vị vua này khiến cho người đàn ông già có vẻ khó chịu. “Tormund, chịu khó uốn lưỡi bảy lần trước khi . Ta biết đó là Craster rồi. Ta chỉ hỏi Jon xem cậu ta có thôi.”

      “Ha.” Tormund đập tay. “Ừm, tôi lại chen ngang rồi!” Ông ta cười khì với Jon. “Thằng nhóc, thấy chưa, đó là lý do ông ấy là vua, còn ta . Ta uống nhiều hơn, đánh nhau giỏi hơn, hát to hơn, và to lớn gấp ba ông ấy, nhưng Mance láu cá lắm. Ngươi biết , ông ấy nuôi con quạ, và quạ là loài chim gian xảo lắm.”

      “Lãnh chúa Xương, ngươi nên điều đó riêng với cậu ta,” Mance Rayder với Rattleshirt. “Các ngươi ra ngoài, để chúng ta chuyện riêng.”

      “Sao cơ, cả tôi nữa à?” Tormund .

      , ngươi ,” Mance .

      “Tôi ăn ở nơi tôi được chào đón.” Tormund đứng lên. “Tôi và mấy con gà này ra ngoài đây.” Ông ta túm lấy con gà khác bếp, dúi nó vào túi được khâu áo khoác và , “Ha,” rồi vừa bước vừa liếm các ngón tay. Những người khác cũng theo ông ta ra ngoài, trừ Dalla.

      “Ngồi xuống , nếu ngươi muốn,” Rayder khi bọn họ hết. “Ngươi đói ? Tormund để lại cho chúng ta ít nhất là hai con gà.”

      “Thưa bệ hạ, tôi rất vinh hạnh. Và cám ơn ngài.”

      “Bệ hạ ư?” Vị vua mỉm cười. “Đó phải là tước vị mà người thường được nghe người dân tự do gọi. Với hầu hết mọi người, ta là Mance, số người gọi ta là ngài Mance. Ngươi uống rượu mật ong chứ?”

      “Rất vui lòng,” Jon .

      Vị vua rót rượu cho mình khi Dalla cắt đôi con gà được nướng giòn tan và đưa cho mỗi người nửa. Jon tháo găng tay và dùng tay ăn gà, cậu mút máp từng thớ thịt gà khỏi xương.

      “Tormund đúng lắm,” Mance Rayder khi ông ta xé toạc ổ bánh mỳ. “Quạ đen đúng là loài chim gian xảo… nhưng ta từng là con quạ khi ngươi mới chỉ lớn bằng đứa bé trong bụng Dalla, Jon Snow. Vì vậy, cẩn thận đừng giở trò gian xảo với ta.”

      “Theo ý ngài, thưa đức Mance.”

      Vị vua cười ồ. “Đức Mance! Tại sao nhỉ? Lúc trước ta hứa kể cho ngươi nghe chuyện làm sao ta biết ngươi. Ngươi biết chưa?”

      Jon lắc đầu. “Rattleshirt gửi thư trước cho ngài sao?”

      “Bằng quạ đưa tin à? , chúng ta huấn luyện quạ đưa tin. , ta biết mặt ngươi từ lâu rồi. Ta từng nhìn thấy ngươi. Hai lần.”

      Ban đầu Jon hiểu gì, nhưng khi suy nghĩ kĩ, Jon mới vỡ lẽ. “Khi ngài là em của Đội Tuần Đêm…”

      “Giỏi lắm! Đúng, đó là lần đầu tiên. Hồi đó, ngươi mới chỉ là cậu bé con, còn ta mặc toàn đồ đen, là trong số hàng chục người cưỡi ngựa hộ tống Tướng chỉ huy Qorgyle khi ngài đến gặp cha ngươi tại Winterfell. Lúc ta quanh sân gặp ngươi và trai Robb của ngươi. Đêm trước hôm đó tuyết rơi, hai em ngươi dựng ngọn núi tuyết lớn cổng và đợi có người qua bên dưới ngọn núi đó.”

      “Tôi còn nhớ,” Jon và nở nụ cười sửng sốt. người em trẻ tuổi, mặc đồ đen bục công , đúng rồi… “Ngài thề gì.”

      “Và ta vẫn giữ lời thề. Ít nhất là lời thề đó.”

      “Chúng tôi xô tuyết vào bác Tom Bự. Ông là cận vệ chậm chạp nhất của cha.” Sau đó, bác Tom rượt theo hai em họ quanh sân, cho đến khi cả ba người đỏ rực lên như táo chín. “Nhưng ngài ngài thấy tôi hai lần. Lần khác là khi nào?”

      “Khi vua Robert đến Winterfell để phong cho cha ngươi làm quân sư của ngài ấy,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành khẽ .

      Đôi mắt Jon mở to vẻ tin. “ thể nào.”

      “Có thể chứ. Khi cha ngươi biết đức vua đến, ông ấy chuyển lời đến ông chú Benjen của ngươi ở Tường Thành, để mời ông ấy đến ăn tiệc. Giữa các em mặc đồ đen và người dân có nhiều giao thiệp hơn ngươi tưởng, và chẳng mấy chốc, ta cũng biết tin đó. cơ hội quá tuyệt ta thể cưỡng lại được. Chú ngươi biết mặt ta, vì vậy ta e ngại ông ta, và ta cũng cho rằng cha ngươi khó lòng nào nhớ mặt gã trẻ tuổi mà ông ta gặp sơ sơ từ nhiều năm trước. Ta muốn mục sở thị ông vua Robert này, vua với vua, và ước lượng sức mạnh của ông chú Benjen của ngươi nữa. Hồi đó, ông ta là Lính Biệt Kích Rừng đầu tiên, và là tai họa của tất cả người dân của ta. Vậy là ta thắng con ngựa giỏi nhất và lên đường.”

      “Nhưng,” Jon phản đối, “Tường Thành…”

      “Tường Thành có thể ngăn cản đội quân của ta, nhưng ngăn cản người đàn ông đơn thương độc mã. Ta mang theo cây đàn luýt và túi bạc, leo lên băng gần Long Barrow, bộ vài dặm từ phía nam của New Gift, và mua con ngựa. chung, ta tận dụng thời gian tốt hơn Robert, khi ông ta phải bằng xe ngựa lớn, chậm chạp để bà hoàng được êm ái dễ chịu. Khi tới phía nam của Winterfell, ta gặp ông ta và hòa vào cùng đoàn. Những người cưỡi ngựa tự do và kỵ sĩ vòng ngoài luôn luôn tự gia nhập vào các đám diễu hành hoàng gia, với hy vọng được phục vụ nhà vua, và cây đàn luýt giúp ta được chấp thuận dễ dàng.” Ông ta cười. “Ta biết mọi bài hát hài hước thô thiển đời này, dù là bài hát ở phương bắc hay phương nam của Tường Thành. Nơi ở của ngươi. Đêm mà cha ngươi mở tiệc đãi Robert, ta ngồi phía sau sảnh của ông ta, chiếc ghế cùng với những người cưỡi ngựa tự do khác, lắng nghe Orland ở Oldtown chơi đàn hạc cao và hát về những vị vua chết bên dưới biển. Ta chú ý quan sát thịt và rượu mật ong của cha ngươi, ta cũng quan sát Sát Vương và Quỷ Lùn… lưu tâm đến tất cả con cái của Lãnh chúa Eddard và những con sói tuyết chạy dưới gót chân chúng.”

      “Bael Thi Sĩ,” Jon và nhớ đến câu chuyện mà Ygritte để cho cậu nghe ở Frostfangs, đúng vào đêm mà cậu suýt giết chết ta.

      “Hồi đó ta cũng thế. Ta phủ nhận, rằng thành tích của Bael cũng truyền cảm hứng cho chính ta… nhưng ta lẻn với trong số các chị em của ngươi. Bael sáng tác bài hát của riêng ông ta, và những bài hát đó sống đến tận ngày nay. Ta chỉ hát những bài hát mà những người đàn ông giỏi hơn sáng tác ra. Thêm rượu ?”

      ,” Jon . “Nếu ông bị phát … bị bắt…”

      “Chắc chắn cha ngươi chém đầu ta ngay.” Vị vua nhún vai. “Mặc dù khi ta được ăn bàn ăn của ông ta, ta được bảo vệ bởi quyền của khách. Luật lệ về hiếu khách có từ thời Tiền Nhân, và thiêng liêng như cây mặt người.” Ông ra hiệu về phía bàn ăn giữa hai người bọn họ, đó có ổ bánh mỳ xé và xương gà. “Ở đây, ngươi là khách, và an toàn trước hiểm nguy… ít nhất là đêm nay. Vì vậy, Jon Snow, hãy thành với ta. Có phải ngươi là quạ đưa tin thay áo choàng, vì sợ hãi hay còn lý do nào khác đưa ngươi đến lều của ta?”

      Dù là quyền của khách hay , Jon Snow cũng biết rằng đến đây tức là cậu bước lớp băng mỏng manh. Chỉ cần sai bước, cậu bị lao xuống làn nước lạnh giá, đủ để tim cậu ngừng đập. Cẩn trọng cân nhắc từng lời trước khi , cậu tự nhủ. Cậu hớp hơi rượu dài để tận dụng thời gian cân nhắc câu trả lời. Khi đặt sừng đựng rượu sang bên cạnh, cậu đáp lời, “Ngài hãy với tôi lý do tại sao ngài đổi áo, và tôi cho ngài biết lý do của tôi.”

      Mance Rayder cười khẽ, đúng như Jon mong đợi. Vị vua này chỉ đơn thuần giỏi huyên thuyên này nọ. “Chắc chắn rồi ngươi được nghe câu chuyện tại sao ta đào ngũ.”

      “Có người là vì vương miện. Có người vì đàn bà. Người khác ngài có dòng máu của dân du mục.”

      “Máu du mục là máu của Tiền Nhân, cũng là dòng máu chảy trong huyết quản của Nhà Stark. về vương miện, ngươi thấy ta có chiếc vương miện nào ?”

      “Tôi thấy người phụ nữ.” Cậu liếc sang Dalla.

      Mance cầm tay ta và kéo lại gần mình. “Phu nhân của ta ngoài cuộc nhé. Ta gặp nàng đường trở lại lâu đài của cha ngươi. Cụt Tay là người sắt đá, nhưng ta là người bằng da bằng thịt, và ta say mê vẻ duyên dáng của phụ nữ… và điều đó có nghĩa ta cũng giống ba phần tư đàn ông trong Đội Tuần Đêm. Có những người đàn ông vẫn mặc đồ đen nhưng lại có số đàn bà gấp mười lần lão vua nghèo này đây. Jon Snow, ngươi lại phải đoán tiếp rồi.”

      Jon cân nhắc giây. “Cụt Tay ngài có niềm say mê đặc biệt với nhạc của người du mục.”

      “Trước đây. Và giờ vẫn thế. Đúng rồi, gần trúng mục tiêu rồi đấy. Nhưng chưa chính xác.” Mance Rayder đứng lên, cởi móc gài áo và vắt lên ghế. “Vì cái này đây.”

      chiếc áo choàng sao?”

      “Áo choàng len đen của Lời Tuyên Thệ Đội Tuần đêm,” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành . “ hôm, trong buổi rừng, chúng ta bắt được con nai sừng tấm to, đẹp lắm. Chúng ta lột da nó khi mùi máu của nó khiến con mèo ma chui ra khỏi hang. Ta xua nó , nhưng nó nhanh chóng xé toạc áo choàng của ta thành các mảnh . Ngươi thấy ? Đây, đây và đây nữa?” Ông ta cười thầm. “Nó cào toạc lưng và tay ta, máu chảy máu còn nhiều hơn cả lũ hươu nữa. Các em sợ ta chết trước khi họ đưa ta trở về cho Maester Mullin chữa trị tại Tháp Đêm, vì vậy, họ đưa ta đến ngôi làng của dân du mục – chúng ta biết ở đó có người phụ nữ giỏi giang biết chữa thương. Bà ấy chết rồi, nhưng con bà nhìn thấy vết thương của ta. ta lau sạch vết thương, rồi khâu lại, cho ta ăn cháo và uống thuốc đến khi ta khỏe trở lại, đủ để cưỡi ngựa. Và ấy cũng vá lại áo cho ta nữa, bằng loại lụa đỏ tươi của vùng Asshai mà bà ấy lấy được từ chiếc tàu bị trôi giạt bờ Frozen Shore. Đó là thứ tài sản lớn nhất của ấy, và cũng là món quà ấy dành cho ta.” Ông ta lại khoác chiếc áo lên vai. “Nhưng ở Tháp Đêm, ta được giao cho chiếc áo len mới, toàn màu đen, được cắt đẹp mắt, cho cùng tông với quần đen, giày đen, áo chẽn đen và áo giáp đen của ta. Chiếc áo khoác mới bị mòn, bị sờn, bị rách, bị toạc… và hơn hết, là có màu đỏ. em của Đội Tuần Đêm mặc toàn bộ đồ màu đen, và Ser Denys Maillister nghiêm nghị nhắc nhở ta, như thể ta quên. Đến lúc đốt chiếc áo cũ của ngươi rồi, ông ta vậy.

      Sáng hôm sau, ta bỏ … đến nơi mà ta biết rằng nụ hôn phải là tội ác, và người đàn ông có thể mặc bất cứ loại áo khoác nào ta muốn.” Ông ta gài khóa vào và ngồi xuống. “Còn ngươi sao, Jon Snow?”

      Jon lại hớp ngụm rượu nữa. Chỉ có chuyện khiến ông ta tin. “Ngài ngài ở Winterfell, vào buổi tối mà cha tôi thết tiệc vua Robert.”

      “Ta vậy, và đúng là như vậy.”

      “Vậy chắc chắn ngài nhìn thấy tất cả chúng tôi. Hoàng tử Joffrey và Tommen, công chúa Myrcella, trai Robb, em trai Bran và Rickon, em Arya và Sansa của tôi. Ngài thấy bọn họ lối giữa, ai ai cũng nhìn ngắm bọn họ, và bọn họ ngồi ghế cạnh chiếc bàn ngay dưới bục ngự trị của vua và hoàng hậu.”

      “Ta vẫn còn nhớ.”

      “Mance, ngài có thấy tôi được xếp ngồi đâu ?” cậu nhoài người ra trước. “Ngài có biết bọn họ xếp cho thằng con hoang ngồi đâu ?”

      Mance Rayder nhìn Jon lúc lâu. “Ta nghĩ tốt nhất là chúng ta nên tìm cho ngươi chiếc áo choàng mới,” vị vua và đưa hai tay ra trước.

      DAENERYS


      Qua dòng nước xanh tĩnh lặng, họ nghe thấy tiếng trống đều đều gõ nhịp và tiếng mái chèo vút của những con thuyền lớn. Vấu thuyền cọt kẹt khi họ tỉnh dậy, những sợi dây nặng nề đều bị kéo căng. Buồm của Balerion rũ xuống cách đáng thương cột buồm. Nhưng dù vậy, khi đứng boong tàu ngắm nhìn lũ rồng đuổi nhau nền trời xanh thẳm quang mây, Daenerys Targaryen cảm thấy sung sướng chưa từng thấy.

      Dothraki của gọi biển là nước độc, họ tin vào bất cứ thứ chất lỏng nào mà ngựa của họ thể uống. Vào ngày mà ba con tàu nhổ neo khỏi Qarth, bọn họ nghĩ người ta giương buồm xuống địa ngục, thay vì đến Pentos. Những kỵ sĩ tâm phúc trẻ tuổi, dũng cảm của nhìn chăm chăm vào bờ biển mỗi lúc bị thu hơn bằng đôi mắt to cộ, từng người trong số họ đều cố thể nỗi sợ hãi trước hai người còn lại, trong khi hầu Irri và Jhiqui tuyệt vọng bấu chặt lấy lan can tàu và nôn ọe mỗi khi sóng vỗ. Những người còn lại trong khalasar bé của Dany ở dưới boong tàu, vì họ thích được đồng hành với những con ngựa lo lắng của họ hơn là thế giới mênh mông đáng sợ quanh con tàu. Khi cơn gió mạnh bất ngờ tấn công họ sáu ngày trong cuộc hành trình biển, nghe thấy tiếng họ qua cửa hầm chứa hàng của tàu; lũ ngựa đá và hí ầm ĩ, những người cưỡi ngựa cầu nguyện với giọng run rẩy mỗi khi tàu Balerion nghiêng ngả hoặc lắc lư.

      Nhưng cơn gió mạnh nào có thể khiến Dany sợ hãi. Daenerys Bão Tố, người ta gọi như vậy, vì cất tiếng khóc chào đời ở Dragonstone xa xôi khi cơn bão khủng khiếp nhất trong lịch sử của Westeros gầm rú, cơn bão khủng khiếp đến mức nó xé toạc những miệng máng xối các tường thành lâu đài và nhấn chìm đội thuyền của cha .

      Vùng biển hẹp luôn có bão, và hồi , Dany vượt con biển này cả trăm lần, khi chạy từ Thành Phố Tự Trị này đến Thành Phố Tự Trị khác trước những kẻ giết thuê của Usuper. biển. vị mặn chát của hơi biển, và mênh mông của bốn chân trời chỉ được bao bọc bởi mái vòm của bầu trời trong xanh bên . Khung cảnh ấy khiến thấy mình bé, và được tự do. thích những con cá heo thi thoảng bơi bên cạnh Balerion, khi chúng cắt mặt sóng như những cây giáo màu bạc, và nhảy vọt lên. Hơn nữa còn mến các thủy thủ, cùng các bài ca và câu chuyện của họ. chuyến biển đến Braavos, khi quan sát đoàn thủy thủ cùng kéo cánh buồm xanh khổng lồ trong cơn gió lên, còn nghĩ tuyệt vời khi được làm thủy thủ. Nhưng khi kể cho trai Viserys nghe, túm tóc vặn cho đến khi khóc òa lên. “Em mang máu rồng trong người,” thét vào mặt . “Máu rồng, phả máu cá tanh tưởi đâu.”

      ấy đúng là ngốc, quá ngốc, Dany thầm nghĩ. Nếu khôn ngoan hơn và kiên nhẫn hơn, có lẽ là người giương buồm để giành lại ngai vàng thuộc về . Viserys ngu ngốc và ác độc, nhận ra như vậy, nhưng đôi lúc, vẫn rất nhớ . nhớ người đàn ông yếu đuối, tàn nhẫn trong , chỉ nhớ người trai có lúc cho phép lẻn lên giường ngủ của và kể cho nghe biết bao chuyện về Bảy Phụ Quốc, về cuộc sống của họ tươi đẹp hơn biết bao nhiêu khi lấy lại ngai vàng.

      Thuyền trưởng quỳ dưới chân . “Thưa nữ hoàng, liệu có nên giương buồm Balerion ?” ông ta bằng giọng Valyrian nặng pha lẫn giọng Pentos. “Như thế chúng ta cần phải chèo, kéo thuyền , hay cầu nguyện trời nổi gió.”

      “Cứ làm vậy , thuyền trưởng,” đáp lời với nụ cười mỉm, và hài lòng khi lôi kéo được ông ta về phía mình. Thuyền trưởng Groleo là người Pentos có tuổi, giống ông chủ của ông ta, lão Illyrio Mopatis, và ông ta lo lắng khác gì trẻ khi chở theo ba con rồng tàu. Khoảng năm mươi thùng nước biển vẫn được treo lủng lẳng mép thuyền, đề phòng trường hợp rồng phun lửa. Ban đầu, Groleo muốn mấy con rồng phải được nhốt trong chuồng, và Dany cũng bằng lòng để ông ta khỏi sợ, nhưng nhìn mấy con rồng khổ sở quá, đành lòng và nhất quyết thả chúng được bay lượn thoải mái.

      Bây giờ, đến cả thuyền trưởng Groleo cũng vui mừng vì điều đó. Chỉ có ngọn lửa được phun ra và được dập tắt dễ dàng; ngoài ra, Balerion đột nhiên có vẻ có ít chuột hơn nhiều so với trước, khi con tàu giương buồm dưới cái tên Saduleon. Và khi tò mò lớn dần lên, nhóm thủy thủ bắt đầu tỏ niềm tự hào lạ lùng với những con rồng “của họ.” Tất cả bọn họ, từ thuyền trưởng đến cậu bé nấu bếp, đều thích ngắm nhìn ba con rồng bay lượn… mặc dù, ai thích đến mức mê đắm như Dany.

      Chúng là con của mình, tự nhủ, và nếu phép thuật đúng, đó là ba đứa con duy nhất mà mình có.

      Vảy của con rồng Viserion màu kem tươi, còn sừng, xương cánh và bờm màu đồng nâu lấp lánh sáng dưới nắng trời. Rhaegal có màu xanh của mùa hè và màu đồng của mùa thu. Chúng bay lượn đầu mấy con tàu theo những vòng tròn lớn, mỗi lúc cao hơn, và cả hai đều cố trèo lên người nhau.

      Rồng luôn thích được tấn công từ cao, Dany học được như vậy. Nếu con bay được lên con khác, nó gấp cánh lại và lao đầu xuống, và chúng ngã nhào từ trời xuống trong tư thế khóa lấy nhau thành quả bóng có vảy, hàm táp liên tục và đuôi quất vào nhau. Lần đầu tiên chúng làm thế, sợ chúng ăn thịt nhau, nhưng đó chỉ là trò chơi của chúng thôi. Ngay khi chúng lao xuống mặt biển, chúng tách nhau ra ngay và bay vọt lên, la hét và rít ầm ĩ, nước biển mặn bốc hơi khi chúng bay trung. Drogon cũng bay tít trời, nhưng khuất tầm mắt của mọi người; có lẽ nó bay trước hoặc sau cả trăm dặm, để săn mồi.

      Drogon của lúc nào cũng đói. Đói và lớn nhanh như thổi. Chỉ năm, hoặc hai năm nữa, nó đủ lớn để cưỡi. Lúc đó, mình cần phải dùng tàu thuyền để vượt những con biển lớn nữa.

      Nhưng vẫn chưa đến lúc đó. Rhaegal và Viserion chỉ to bằng con chó , còn Drogon nhỉnh hơn chút. chú chó còn nặng cân hơn chúng; chúng toàn cánh, cổ và đuôi, và cân hơn vẻ bề ngoài. Và vì vậy, Daenerys Targaryen phải dựa vào gỗ, gió và vải bạt để đưa trở về nhà.

      Đến nay, gỗ và vải bạt phục vụ rất tốt, nhưng cơn gió hay thay đổi lại biến thành kẻ phản bội. Trong sáu ngày, sáu đêm, trời yên gió lặng, nhưng đến ngày thứ bảy, buồm của họ vẫn đủ gió để căng đầy. may mắn, hai con thuyền mà Magister Illyrio cử theo sau là thuyền buôn, mỗi thuyền có hai trăm mái chèo và đội chèo thuyền rất vững tay. Nhưng con tàu Balerion lại khác; nó là con tàu lớn, nặng, với những cột buồm cao sừng sững và cánh buồm khổng lồ, nhưng lại hữu dụng khi trời lặng gió. Vhagar và Meraxes thả dây để kéo con thuyền, nhưng tiến độ cực kỳ chậm chạp. Cả ba con thuyền đều chật kín, và chất đầy nặng trĩu.

      “Tôi thấy Drogon đâu,” Ser Jorah Mormont khi ông gia nhập với boong ở mũi tàu. “Nó lại mất tích sao?”

      “Chúng ta mới là người mất tích. Drogon ưa tốc độ chậm chạp này, tôi cũng thế.” Táo bạo hơn hai em của mình, con rồng đen này của là con đầu tiên thử đập cánh mặt nước, cũng là con đầu tiên cất cánh bay từ tàu này sang tàu khác, là con đầu tiên bay vút vào giữa đám mây bay qua… và là con đầu tiên ăn thịt động vật. Những con cá vừa nhảy lên khỏi mặt nước biển bị vây bọc trong ngọn lửa, bị vồ lấy và nuốt gọn. “Nó lớn đến chừng nào?” Dany tò mò hỏi. “Ngài có biết ?”

      “Ở Bảy Phụ Quốc, có nhiều chuyện kể về những con rồng lớn đến nỗi chúng có thể dễ dàng chộp thủy quái ngoài biển.”

      Dany cười. “Nhìn cảnh ấy chắc phải ly kì lắm.”

      “Khaleesi, chỉ là chuyện kể thôi,” vị hiệp sĩ bị lưu đày của . “Chuyện còn kể về những con rồng già khôn ngoan sống cách đây cả ngàn năm rồi.”

      “Ừm, thế con rồng sống được bao nhiêu tuổi?” ngẩng đầu lên khi Viserion nhào xuống thấp phía tàu, nó vỗ cánh chầm chậm và làm lay động cánh buồm ủ rũ.

      Ser Jorah nhún vai. “Tuổi đời tự nhiên của con rồng nhiều hơn tuổi đời của con người, hơn nhiều lần, hoặc chuyện ngày xưa khiến chúng ta tin vậy… nhưng những con rồng mà Bảy Phụ Quốc biết nhất là rồng của Nhà Targaryen. Chúng được sinh ra để chiến đấu, và chết khi chiến đấu. Giết con rồng đơn giản, nhưng vẫn có thể làm được.”

      Cận vệ Râu Trắng đứng cạnh hình chạm ở mũi tàu, bàn tay gầy gò nắm chặt thanh gỗ cứng, quay về phía họ và , “Con rồng Balerion được hai trăm tuổi khi nó chết trong triều đại Jaehaerys Người hòa giải. Nó to đến mức có thể nuốt gọn con bò rừng. Thưa nữ hoàng, rồng lớn ngừng, chừng nào còn có thức ăn và tự do.” Ông ta tên là Arstan, nhưng Belwas Khỏe Mạnh đặt tên cho ông ta là Râu Trắng vì bộ râu nhợt nhạt của ông ta, và đến giờ, hầu hết mọi người đều gọi như thế. Ông ta cao hơn Ser Jorah, nhưng lực lưỡng bằng ông; đôi mắt màu xanh nhạt, râu dài trắng như tuyết và mềm mượt như lụa.

      “Tự do ư?” Dany tò mò hỏi. “Ý ngươi là sao?”

      “Ở Vương Đô, tổ tiên của người xây dựng tòa lâu đài khổng lồ, có mái vòm cho rồng. Lâu đài đó tên là Hố Rồng. Lâu đài này vẫn đứng đỉnh Rhaenys, mặc dù bị hư hại hết rồi. Đó là nơi mà những con rồng hoàng gia trú ngụ thời xưa, và đó thực là nơi trú ngụ nhiều hang hốc, với cửa sắt rộng đến mức ba mươi kỵ sĩ sắp thẳng hàng cũng cưỡi ngựa qua được. Dù vậy, ràng là con rồng nào trong lâu đài ấy lớn bằng những con rồng tổ tiên. Các học sĩ rằng đó là do những tường thành xung quanh chúng, và cả mái vòm vĩ đại đầu chúng nữa.”

      “Nếu những bức tường có thể khiến thân hình chúng ta bé, chắc những tá điền bé tí hon còn mấy ông vua to lớn như người khổng lồ,” Ser Jorah . “Tôi thấy nhiều người đàn ông to lớn được sinh ra trong những ngôi nhà bé, và những gã lùn lại được sinh ra trong lâu đài.”

      “Con người là con người,” Râu Trắng trả lời. “Rồng là rồng.”

      Ser Jorah khịt mũi tỏ vẻ khinh miệt. “Sâu sắc .” Vị hiệp sĩ bị lưu đày ưa gã đàn ông có tuổi kia chút nào, ngay từ đầu ông tỏ thái độ này. “Vậy ông biết những gì về rồng?”

      “Ít thôi. Nhưng tôi từng phục vụ ở Vương Đô trong thời kì vua Aerys ngự trị Ngai Sắt, và tôi được bên dưới những cái đầu lâu rồng – chúng ngó xuống từ bốn bức tường thành trong phòng đặt ngai vàng của ngài.”

      Viserys cũng từng về những cái đầu lâu như thế,” Dany . “Gia tộc Usuper hạ xuống và giấu nhẹm . Ông ta chịu được cảnh những cái đầu lâu ấy ngó xuống ngai vàng đánh cắp của mình.” ra hiệu cho Râu Trắng đến gần hơn. “Ngươi từng gặp cha ta chưa?” Vua Aerys II băng hà trước khi con ông chào đời.

      “Thưa nữ hoàng, tôi có vinh hạnh được gặp ngài rồi.”

      “Ngươi thấy cha ta có tốt bụng và cao quý ?”

      Râu Trắng cố gắng hết sức để che giấu cảm xúc, nhưng cảm xúc vẫn hiển mặt ông ta. “Nhà vua… thường vui vẻ.”

      “Thường ư?” Dany mỉm cười. “ phải luôn luôn sao?”

      “Ngài rất khắt khe với những người mà ngài cho là kẻ thù của ngài.”

      người đàn ông khôn ngoan bao giờ biến mình thành kẻ thù của vua,” Dany . “Thế ngươi có biết trai Rhaegar của ta ?”

      “Người ta đồn rằng chưa ai từng thấy hoàng tử Rhaegar. Nhưng thần có đặc ân được gặp ngài ấy trong cuộc đấu ngựa, và thần thường được nghe ngài chơi đàn hạc với những sợi dây đàn bằng bạc rồi.”

      Ser Jorah khịt mũi. “Cùng với hàng ngàn người khác trong bữa tiệc thu hoạch nào đó. Rồi ông ông từng hộ tống ngài cho xem.”

      “Ser, tôi hề thế. Myles Mooton là cận vệ của hoàng tử Rhaegar, kế đến là Richard Lonmouth. Khi họ được phong hiệp sĩ, ngài là người phong tước cho họ, và ba người họ là bạn bè thân thiết với nhau. Lãnh chúa Connington trẻ tuổi cũng gần gũi với hoàng tử lắm, nhưng người bạn lâu năm nhất của ngài là Arthur Dayne.”

      “Thanh gươm Ban Mai!” Dany hồ hởi . “ Viserys thường kể về lưỡi gươm trắng phi thường của ấy. Ser Arthur là hiệp sĩ duy nhất ở vương quốc cùng tuổi với trai ta.”

      Râu Trắng cúi thấp đầu. “Vị trí của tôi được chất vấn về lời của hoàng tử Viserys.”

      “Nhà vua,” Dany sửa lại. “ ấy là vua, mặc dù chưa bao giờ trị vì. Viserys là con trai thứ ba. Nhưng ý ngươi là sao?” Câu trả lời của ông ta đúng như mong đợi. “Ser Jorah có lần gọi Rhaegar là con rồng cuối cùng. Chắc chắn ấy phải là chiến binh vô song mới được gọi như thế, phải ?”

      “Thưa nữ hoàng,” Râu Trắng , “Hoàng tử của Dragonstone là chiến binh hùng mạnh nhất, nhưng…”

      tiếp ,” hối thúc. “Ngươi cứ thoải mái với ta.”

      “Theo lệnh nữ hoàng.” Người đàn ông già tựa người vào cây gậy gỗ cứng, trán nhăn lại. “Thưa nữ hoàng, là chiến binh có bạn… người ta vậy, nhưng ngôn từ chỉ là ngôn từ, thể chiến thắng khi chiến đấu được.”

      “Gươm đao chiến thắng khi chiến đấu,” Ser Jorah thẳng. “Và hoàng tử Rhaegar biết cách dùng gươm.”

      “Ser, đương nhiên rồi, nhưng… thần chứng kiến cả trăm cuộc đấu ngựa và trận chiến. Nhưng dù hiệp sĩ có mạnh mẽ, nhanh nhẹn, tài năng đến đâu, vẫn có đối thủ ngang tài ngang sức với ta. người thắng trận này có thể nhanh chóng thua trận sau. vệt trơn trượt bãi cỏ, hoặc bữa ăn đêm hôm trước có thể đồng nghĩa với thất bại. đổi gió có thể mang đến chiến thắng.” Ông ta liếc nhìn Ser Jorah. “Hoặc phù hiệu ủng hộ của quý bà được buộc quanh cánh tay.”

      Nét mặt Mormont tối sầm lại. “Lão già, cẩn trọng với lời của ngươi đấy.”

      Arstan từng thấy Ser Jorah chiến đấu tại Lannisport, Dany biết điều đó, và trong cuộc đấu đó, Mormont giành chiến thắng với phù hiệu ủng hộ của quý bà được buộc quanh tay ông. Ông cũng chiếm được tin của người phụ nữ ấy; Lynesse của gia tộc Hightower, người vợ thứ hai của ông, phu nhân quý tộc và xinh đẹp… nhưng ta hủy hoại ông, và rời bỏ ông. Cho đến giờ, ký ức về ta vẫn khiến ông cay đắng. “Kỵ sĩ của ta, hãy lịch thiệp.” đặt tay lên cánh tay Jorah. “Arstan muốn làm ngài phật ý đâu, ta chắc chắn thế.”

      “Khaleesi, tuân lệnh người.” Giọng Jorah khó chịu.

      Dany quay lại với viên cận vệ. “Ta biết rất ít về Rhaegar. Chỉ là những chuyện Viserys kể thôi, và khi cả ta mất Viserys mới chỉ là cậu bé con. Thực ra ấy thế nào?”

      Ông ta cân nhắc chút rồi . “Có tài. Quả quyết, thận trọng, có trách nhiệm, biết hướng đến mục đích. Có chuyện về ngài ấy… chắc chắn Ser Jorah cũng biết chuyện đó.”

      “Nhưng ta muốn nghe ngươi kể.”

      “Tuân lệnh,” Râu Trắng . “Khi còn , hoàng tử của Dragonstone rất ham đọc sách. Người biết đọc nhanh đến mức người ta rằng nữ hoàng Rhaella chắc hẳn phải nuốt vài cuốn sách cùng với cây nến trong khi mang bầu ngài ấy. Rhaegar thích chơi với những đứa trẻ khác. Các vị học sĩ sợ hãi trước nhanh trí của ngài, nhưng các hiệp sĩ của cha ngài thường đùa rằng Baelor Vị Vua Được Chúc Phúc lại được hồi sinh. Cho đến ngày, hoàng tử Rhaegar tìm thấy thứ gì đó trong các cuộn giấy da, và điều đó thay đổi ngài. ai hay biết đó là thứ gì, chỉ biết rằng, sáng nọ, ngài ấy xuất sớm trong khoảng sân mà các kỵ sĩ đeo kiếm. Ngài tới chỗ Ser Willem Darry và , ‘Ta muốn gươm và khiên. Đến lúc ta phải là chiến binh rồi.’”

      “Và đúng là vậy!” Dany hồ hởi .

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Thực là vậy.” Râu Trắng cúi đầu. “Thưa nữ hoàng, xin người tha thứ. Chúng ta về các chiến binh, và thần nhận thấy Belwas Khỏe Mạnh dậy rồi. Thần phải chăm sóc ông ta.”

      Dany liếc nhìn phía cuối mạn tàu. Viên thái giám trèo lên giữa tàu, rất mau lẹ bất chấp thân hình đồ sộ. Belwas béo lùn, nhưng rất to lớn và lực lưỡng, cái bụng bự màu nâu nâu phưỡn ra với những vết sẹo trắng. Gã mặc quần rộng thùng thình, dải lụa quấn quanh bụng lụa màu vàng, và chiếc áo gi-lê bé xíu cách lố bịch lốm đốm đinh tán. “Belwas Khỏe Mạnh đói rồi!” gã rống lên vào mặt mọi người, nhưng hướng vào riêng ai. “Belwas Khỏe Mạnh phải được ăn ngay!” Quay người lại, gã thấy Arstan mũi tàu. “Râu Trắng! Ngươi phải mang đồ ăn cho Belwas Khỏe Mạnh!”

      “Ngươi ,” Dany với viên cận vệ. Ông ta lại cúi đầu và bước vội phục vụ nhu cầu của gã béo mà ông ta trông nom.

      Ser Jorah quan sát với vẻ cau mày. Mormont to béo và vạm vỡ, hàm rộng và vai u. điển trai, nhưng ông là người bạn thực thụ mà Dany từng biết. “Người khôn ngoan khi cho thêm muối vào lời của lão già đó,” ông với khi Râu Trắng khuất.

      “Nữ hoàng phải biết lắng nghe tất cả mọi người,” nhắc cho ông nhớ. “Những người sinh ra trong dòng dõi quý tộc và cả tầng lớp bình dân, kẻ mạnh và kẻ yếu, người quý phái và kẻ dễ bị mua chuộc. người có thể ngươi phản trắc, nhưng vẫn luôn luôn được ra.” đọc được điều đó trong cuốn sách.

      “Thưa nữ hoàng, vậy người hãy nghe tôi ,” vị hiệp sĩ bị lưu đày . “Gã Arstan Râu Trắng dối lừa người. Gã ta quá già để làm cận vệ, và quá dẻo mỏ để phục vụ gã thái giám bụng phệ kia.”

      Điều đó có vẻ kỳ cục, Dany phải thừa nhận như vậy. Belwas Khỏe Mạnh là cựu-nô-lệ, được sinh ra và huấn luyện trong hầm chiến đấu của Meereen. Magister Illyrio cử gã đến bảo vệ , hoặc chỉ do Belwas tuyên bố thế, vì đúng là cần bảo vệ. Gia tộc Usurper khi ngự trị ngai vàng ngỏ ý trao đất đai và quyền lực cho bất kỳ ai giết được . Có kẻ thử làm vậy, bằng ly rượu tẩm độc. càng đến gần Westeros, nguy cơ xảy ra cuộc tấn công khác càng cao. Hồi ở Qarth, tên phù thủy Pyat Pree cử gã Hội Âu Sầu bám theo để trả thù cho Người Bất Tử mà thiêu rụi trong Cung Điện Đổ Nát. Những lão phù thủy bao giờ quên bất cứ thiệt hại nào, người ta đồn vậy, và Hội Âu Sầu chưa bao giờ giết trượt bất cứ nạn nhân nào. Hầu hết những người Dothraki cũng quay lưng lại với . Người của Khal Drogo tự dẫn đầu các khalasar, và ai lưỡng lự khi tấn công nhóm người ít ỏi của khi họ nhìn thấy, họ sẵn sàng chém giết, bắt người của lao động quần quật và kéo lê Dany trở lại Vaes Dothrak để bắt ngồi ở nơi thích hợp với – giữa những con cừu già nhăn nheo của khaleen. hy vọng Xaro Xhoan Daxos phải là kẻ thù, nhưng nhà buôn người Qarth rất thèm muốn rồng của . Và Quaithe của Bóng Đêm, người phụ nữ kỳ lạ đeo mặt nạ sơn đỏ với những lời khuyên bí nữa. Liệu bà ta có phải là kẻ thù , hay chỉ là người bạn nguy hiểm? Dany biết tài nào biết được.

      Ser Jorah cứu mình khỏi kẻ đầu độc, và Arstan Râu Trắng cứu mình khỏi con quái thú đầu người, mình sư tử và đuôi bọ cạp. Biết đâu Belwas Khỏe Mạnh cứu mình khỏi tai ương kế tiếp. Gã cao lớn, hai cánh tay to như hai thân cây , và thanh gươm của gã bén đến mức gã có thể dùng gươm để cạo râu, nếu râu ria mọc hai gò má rám nắng trơn nhẵn của gã. Nhưng gã như đứa trẻ con. Là người bảo vệ, gã mơ ước gì cao sang. may mắn, vì mình có Ser Jorah và những người thân thiết. Và cả lũ rồng của mình nữa. Sắp tới, rồng là những người bảo vệ bất khả chiến bại của , y như rồng từng bảo vệ cho Aegon Nhà Chinh Phục và các chị em của người ba trăm năm trước. Nhưng lúc này, chúng mang đến cho nhiều nguy hiểm hơn là bảo vệ. đời này chỉ còn duy nhất ba con rồng còn sống, và thuộc về ; chúng vừa kỳ diệu, đáng sợ, vừa vô giá.

      cân nhắc về lời tiếp theo của mình bỗng cảm thấy hơi thở man mát phía sau gáy, và lọn tóc bạc lay động trước trán . Bên , tấm vải bạt kêu cót két và đu đưa. Bất chợt, tiếng hét vang vọng khắp con tàu Balerion. “Gió!” các thủy thủ hét lên. “Gió về, gió về!”

      Dany ngẩng lên nhìn cánh buồm của con tàu lớn khẽ lay động dần căng gió khi dây được kéo lên, và cánh buồm cất vang điệu nhạc mà họ nhớ da diết suốt sáu ngày qua. Thuyền trưởng Groleo chạy bổ về phía đuôi tàu, quát tháo ra lệnh những người Pentos trèo lên cột buồm. Ngay cả Belwas Khỏe Mạnh cũng rống lên và nhún nhảy.

      “Các thánh thần tuyệt!” Dany . “Jorah, ông thấy ? Chúng ta lại có thể lên đường rồi.”

      “Vâng,” ông , “nhưng tới đâu đây, thưa nữ hoàng?”

      Gió thổi cả ngày, ban đầu chỉ là những đợt gió đều đều từ phía đông, nhưng sau đó gió nổi lên mạnh hơn. Mặt trời lặn trong luồng màu đỏ rực. Mình mới được nửa đường đến Westeros, Dany tự nhắc mình, nhưng từng giờ trôi qua, mình càng đến đó gần hơn. cố hình dung xem cảm giác lúc đó thế nào, khi lần đầu tiên trông thấy đất liền, nơi được sinh ra để trị vì. Nơi ấy đẹp như mọi bờ biển mà từng trông thấy, chắc chắn thế. Làm sao có thể khác được?

      Nhưng buổi tối hôm đó, khi Balerion chìm trong bóng tối và Dany ngồi bắt chéo chân giường ngủ trong buồng lái của thuyền trưởng để cho rồng ăn – “Ngay cả khi ở biển,” Groleo tử tế , “nữ hoàng cũng có quyền ưu tiên hơn thuyền trưởng” – có tiếng gõ cửa.

      Irri ngủ bên dưới giường ngủ của (chiếc giường quá, đủ cho ba người, và tối nay là phiên Jhiqui được ngủ chung chiếc giường lông êm ái với khaleesi), nhưng hầu tỉnh giấc ngay khi nghe tiếng gõ và bước ra cửa. Dany kéo khăn phủ giường và nhét vào dưới hai cánh tay. mặc đồ, và mong đợi có người đến vào giờ này. “Vào ,” khi nhìn thấy Ser Jorah đứng bên dưới chiếc đèn lồng.

      Vị hiệp sĩ phải cúi đầu thấp xuống khi ông bước vào trong. “Thưa nữ hoàng. Tôi xin lỗi khi làm phiền giấc ngủ của người.”

      “Ser, ta vẫn chưa ngủ. Đến đây xem này.” lấy khoanh thịt lợn muối trong bát đặt đùi và giơ lên cho mấy con rồng thấy. Ba con rồng nhìn miếng thịt vẻ thèm thuồng. Rhaegal sải đôi cánh xanh ra và đập loạn xạ, cổ Viserion lắc lư ngật ngưỡng như cổ con rắn dài ngoằng khi nó hướng theo chuyển động của tay . “Drogon,” Dany khẽ , “Dracarys.” Và ném miếng thịt trong trung.

      Drogon di chuyển mau lẹ hơn cả con rắn hổ mang bành. Lửa có màu vàng cam, đỏ tươi và đen kịt phun ra từ miệng nó, đốt cháy miếng thịt trước khi nó rơi xuống. Khi hàm răng đen sắc nhọn của nó cắm phập vào miếng thịt, đầu Rhaegal lao tới gần hơn, như thể nó muốn cướp chiến lợi phẩm từ miệng của ông , nhưng Drogon nuốt gọn miếng thịt và rít lên, và con rồng xanh hơn chỉ rít lên trong cơn tức giận.

      “Rhaegal, rít nữa,” Dany bực bội và vỗ mạnh vào đầu nó. “Ngươi ăn miếng cuối cùng. Ta nuôi rồng tham ăn đâu.” cười với Ser Jorah. “Ta cần phải nướng thịt bếp than nữa.”

      “Tôi thấy rồi. Dracarys sao?”

      Cả ba con rồng cùng quay đầu khi nghe thấy từ đó và Viserion nhả luôn chùm lửa vàng nhạt khiến Ser Jorah phải vội vàng bước lùi lại. Dany khúc khích cười. “Cẩn trọng với từ đó nhé, ser, nếu chúng đốt cháy cả râu của ông đấy. Ở High Valyrian, từ đó nghĩa là ‘lửa rồng’. Ta muốn chọn khẩu lệnh mà ai có thể vô tình ra.”

      Mormont gật đầu. “Thưa nữ hoàng,” ông , “tôi tự hỏi tôi có thể riêng với người đôi điều được ?”

      “Được chứ. Irri, để chúng ta ở riêng lát.” đặt tay lên vai trần của Jhiqui và đánh thức hầu dậy. “Cả ngươi nữa. Ser Jorah cần chuyện riêng với ta.”

      “Vâng, thưa khaleesi.” Jhiqui trở mình giường, trần truồng và ngáp ngắn ngáp dài, mái tóc đen dày của rối tung. mặc quần áo nhanh rồi ra với Irri, đóng cánh cửa phía sau lưng.

      Dany cho ba con rồng ăn phần thịt muối còn lại và vỗ vỗ vào chỗ ngồi giường cạnh . “Ngồi , và cho ta biết ngươi phiền muộn vì chuyện gì.”

      “Ba điều.” Ser Jorah ngồi xuống. “Belwas Khỏe Mạnh. Artan Râu Trắng. Và Illyrio Mopati, người cử họ đến đây.”

      Lại nữa sao? Dany kéo chăn lên cao hơn và vắt đầu chăn lên vai. “Tại sao?”

      “Các phù thủy ở Qarth với người rằng người bị phản bội ba lần,” vị hiệp sĩ nhắc cho nhớ, khi Viserion và Rhaegal bắt đầu vật lộn với nhau.

      phản bội vì máu, vì vàng, và vì tình .” Dany quên điều đó. “Mirri Maz Duur là kẻ đầu tiên.”

      “Tức là vẫn còn hai kẻ phản bội nữa… và bây giờ hai kẻ đó đều xuất . Tôi lo vì điều đó. Người đừng quên rằng Robert sẵn sàng trao quyền thế cho bất cứ kẻ nào giết được người.”

      Dany nhướn người ra trước và kéo mạnh đuôi Viserion, để kéo cậu chàng ra khỏi người xanh lét của nó. Tấm chăn rơi xuống khỏi ngực khi cử động. vội vã kéo chăn lên và che lại vào người. “Usurper chết rồi,” .

      “Nhưng con trai ông ta trị vì.” Ser Jorah chuyển hướng nhìn, đôi mắt đen của ông bắt gặp đôi mắt của . “ đứa con biết vâng lời luôn trả hết các món nợ của cha nó. Kể cả các món nợ máu.”

      “Thằng nhóc Joffrey đó có thể muốn ta phải chết… nếu biết ta còn sống. Thế có liên quan gì đến Belwas và Arstan Râu Trắng? Lão già đó thậm chí chưa lần đeo gươm. Ông thấy rồi đó.”

      “Phải. Tôi cũng thấy ông ta khéo léo sử dụng cây gậy gỗ của mình thế nào. Người có nhớ ông ta giết con quái vật ở Qarth thế nào ? Dễ như thể ông ta cắt đứt cổ họng của người ấy.”

      “Có thể là vậy, nhưng giờ chưa,” . “Chính con quái thú có ngòi mới muốn giết ta. Ông ta cứu mạng ta.”

      “Khaleesi, người có thấy rằng Râu Trắng và Belwas có thể cùng hội cùng thuyền với kẻ ám sát ? Có thể đó là thủ đoạn để chiếm tin tưởng của người.”

      Nụ cười bất chợt của khiến Drogon rít lên, và Viserion đập cánh. “Thế thủ đoạn đó hiệu quả lắm.”

      Vị hiệp sĩ bị lưu đày cười đáp trả. “Đây là thuyền của Illyrio, thuyền trưởng của Illyrio, thủy thủ của Illyrio… và Belwas Khỏe Mạnh và Arstan cũng là người của ông ta, phải của người.”

      “Magister Illyrio bảo vệ ta. Belwas Khỏe Mạnh rằng ông ta khóc khi nghe tin trai ta chết.”

      “Vâng,” Mormont , “nhưng liệu ông ta khóc vì Viserys hay vì những kế hoạch mà ông ta cùng ngài ấy vạch ra?”

      “Kế hoạch của ông ta thay đổi. Magister Illyrio là bạn của Nhà Targaryen và giàu có…”

      “Ông ta sinh ra hề giàu có. Trong thế giới mà tôi thấy, ai giàu có nhờ tử tế tốt bụng cả. Các thầy phù thủy phản bội thứ hai có thể vì vàng. Illyrio Mopatis mong gì hơn vàng chứ?”

      “Da thịt của ông ấy.” Trong phòng, Drogon ngừng bay lượn, khói phụt ra từ miệng nó. “Mirri Maz Duur phản bội ta. Ta hỏa thiêu bà ta vì điều đó.”

      “Mirri Maz Duur nằm trong quyền kiểm soát của người. ở Pentos, người thuộc quyền kiểm soát của Illyrio. Khác nhau lắm. Tôi và người đều hiểu gã đó. Ông ta xảo quyệt, khôn khéo…”

      “Để lấy lại Ngai Sắt, ta cần những người đàn ông khôn khéo quanh ta.”

      Ser Jorah khịt mũi. “Kẻ bán rượu tẩm độc rượu của người cũng khôn khéo lắm. Những gã khôn khéo thường ấp ủ những kế hoạch đầy hoài bão.”

      Dany co chân lên bên dưới tấm chăn. “Ông bảo vệ ta. Ông, và những người thân thiết của ta.”

      “Bốn người đàn ông ư? Khaleesi, người tin rằng người rất hiểu Illyrio Mopatis. Nhưng người vẫn kiên quyết để quanh mình những người đàn ông mà người hiểu họ, chính là gã thái giám suốt ngày thở phì phò và gã cận vệ già nhất quả đất này. Mong người hãy rút ra bài học từ Pyat Free và Xaro Xhoan Daxos.”

      Ông ấy đúng, Dany tự nhắc mình. Ông ấy làm vậy vì tình thương. “Ta cho rằng, nữ hoàng đặt niềm tin vào ai cũng ngốc nghếch y như nữ hoàng tin tưởng tất cả mọi người. Bất kỳ ai phục vụ ta đều có thể mang lại rủi ro, ta hiểu điều đó, nhưng làm sao ta giành lại Bảy Phụ Quốc nếu như chấp nhận những rủi ro đó? Chẳng lẽ ta chinh phục Westeros với hiệp sĩ bị lưu đày và ba kỵ sĩ tâm phúc của Dothraki sao?”

      Ông vẫn ngoan cố. “Con đường người rất hiểm nguy, tôi phủ nhận điều đó. Nhưng nếu người mù quáng tin tưởng tất cả mấy gã dối trá và những kẻ chủ mưu, kết cục của người cũng giống kết cục của các trai người.”

      ngoan cố của ông khiến tức giận. Ông coi ta như đứa bé con. “Belwas Khỏe Mạnh còn thể tự thân tìm bữa sáng. Và Arstan Râu Trắng dối những gì với ta nào?”

      “Ông ta chỉ ra vẻ thôi. Ông ta thẳng thắn với người hơn bất cứ cận vệ nào khác.”

      “Ông ta chỉ thẳng thắn với ta khi được lệnh. Ông ta biết trai của ta.”

      “Có vô số người biết trai của người. Thưa nữ hoàng, ở Westeros, tướng chỉ huy của Ngự Lâm Quân ngồi trong hội đồng và phục vụ vua bằng cả khôn ngoan và gươm đao. Nếu tôi là người đầu tiên trong Đội Bảo Vệ Nữ Hoàng, xin người hãy nghe tôi. Tôi có kế hoạch cần bàn với người.”

      “Kế hoạch gì? cho ta.”

      “Illyrio Mopatis muốn người quay trở lại Pentos, dưới cùng mái nhà với ông ta. Tốt thôi, người hãy quay về… nhưng đó là khi người có thời gian, và mình. Chúng ta hãy cùng xem những tay lính mới này của người trung thành và biết nghe lời thế nào. Xin người hãy lệnh cho Groleo xoay bánh lái hướng về Vịnh Slaver.”

      Dany nghĩ thích nghe chuyện đó. Mọi điều từng nghe về việc buôn bán người tại các thành phố nô lệ lớn như Yunkai, Meereen và Astapor đều khốc liệt và đáng sợ. “Ở Vịnh Slaver có gì cho ta?”

      đội quân,” Ser Jorah . “Nếu Belwas Khỏe Mạnh được người quý mến nhiều đến vậy, người có thể mua cả trăm, cả ngàn người giống như gã trong các hầm chiến đấu ở Meereen… những tôi muốn giương buồm đến Astapor. Đến Astapor, người có thể mua người trong Hội Thanh Sạch.”

      “Những kẻ nô lệ đội mũ đồng nhọn ư?” Dany nhìn thấy người của Hội Thanh Sạch ở Thành Phố Tự Trị, họ canh gác ngoài cổng của các magister, quan nhiếp chính và cả vua. “Tại sao ta lại cần lính Hội Thanh Sạch? Thậm chí bọn họ còn biết cưỡi ngựa, trong khi phần lớn bọn họ đều béo phì.”

      “Những người của Hội Thanh Sạch mà người nhìn thấy ở Pentos và Myr chỉ là lính gác cổng nhà thôi. Đó là loại dịch vụ nhàng, và thái giám thường có xu hướng béo phúng phính. Thức ăn là khuyết điểm duy nhất của bọn họ. Đánh giá tất cả lính Hội Thanh Sạch thông qua vài tên nô lệ già gác cổng nhà khác gì đánh giá tất cả cận vệ qua Arstan Râu Trắng, thưa nữ hoàng. Người có biết câu chuyện về Ba Ngàn Qohor ?”

      .” Tấm ga giường lại trượt khỏi vai Dany và vắt nó về vị trí cũ.

      “Khoảng bốn trăm năm trước, khi người Dothraki lần đầu tiên cưỡi ngựa khỏi phương đông, cướp bóc và đốt cháy mọi thị trấn. Và thành phố xuất đường của họ. Thủ lĩnh của họ là Temmo. Khalasar của ông ấy lớn như Drogo, nhưng ít nhất bọn họ có năm mươi ngàn người. nửa trong số họ là các chiến binh tết tóc với những quả chuông treo lủng lẳng. Qohorik biết bọn họ tới. Họ củng cố tường thành, nhân đôi số binh lính, và thuê hai nhóm người tự do tên là Ngọn Cờ Sáng Chói và Con Trai Thứ. Và sau cùng, họ cử người đến Astapor mua ba ngàn quân Hội Thanh Sạch. Tuy nhiên, quãng đường quay trở về Qohor dài đằng đẵng, và khi quay trở về, họ chỉ nhìn thấy khói, tro bụi và nghe thấy tiếng đánh nhau hỗn loạn phía xa xa.

      Khi Hội Thanh Sạch tiến về đến thành phố, mặt trời lặn. Quạ và sói thưởng thức đại tiệc bên dưới tường thành với xác con ngựa to lớn của Qohorik. Ngọn Cờ Sáng Chói và Con Trai Thứ bỏ chạy, vì lính đánh thuê thể làm gì khi đối mặt với trận chiến chút hy vọng. Khi trời tối dần, người Dothraki rút lui về doanh trại để uống rượu, nhảy múa và ăn tiệc, nhưng ai ngờ rằng sớm mai, bọn họ trở lại để đè bẹp cổng thành, đạp đổ tường thành, hãm hiếp đàn bà con , cướp bóc và chém giết như bọn họ muốn.

      Rồi khi bình minh lên, Temmo và kỵ sĩ tâm phúc của ông ta đưa khalasar ra khỏi doanh trại, bọn họ thấy ba toán lính Hội Thanh Sạch xếp hàng thẳng tắp trước cổng cùng với cờ hiệu Gấu Đen bay phấp phới đầu. đội quân bé có thể dễ dàng bị đánh bại, nhưng người biết Dothraki rồi đấy. Những người này chân đất, và điều đó nghĩa là họ bị ngựa giẫm tan xương nát thịt.

      Dothraki tấn công. Lính Hội Thanh Sạch cầm khiên, hạ giáo và đứng thẳng. Ngoài hai mươi ngàn quả chuông kêu rủng rẻng đầu, bọn họ đứng yên hề chùn bước.

      Mười tám lần quân Dothraki tấn công, đánh dữ dội vào những tấm khiên và giáo mác như những con sóng xô vào bờ biển đầy đá. Ba lần Temmo cử các cung thủ bắn tên rơi như mưa vào Ba Ngàn Quân đó, nhưng lính Hội Thanh Sạch chỉ giơ khiên lên đầu cho đến khi cơn mưa tên chấm dứt. cuối cùng, chỉ còn sáu trăm người trong số họ còn trụ được… nhưng hơn mười hai ngàn quân Dothraki nằm chết chiến trường, trong đó có cả Khal Temmo, kỵ sĩ tâm phúc của ông ta, kos của ông ta, và cả các con trai của ông ta. Vào buổi sáng ngày thứ tư, khal mới đưa những người còn lại băng qua cổng thành đến nơi trú ngụ an toàn. Từng người bọn họ cắt bím tóc và ném xuống dưới chân của Ba Ngàn Quân. Kể từ ngày đó, đội lính thành phố của Qohor chỉ toàn là lính Hội Thanh Sạch, mỗi lính đều mang cây giáo dài treo lủng lẳng bím tóc người. Ở Astapor, thưa nữ hoàng, người thấy như thế. Cập bờ ở đó, và tiếp tục đến Pentos bằng đường bộ. Phải, như thế mất nhiều thời gian hơn… nhưng khi người ăn bánh mỳ với Magister Illyrio, phía sau người chỉ có bốn, mà có tới cả ngàn tay gươm bảo vệ người.”

      Đúng là kế hoạch này có khôn khéo, Dany nghĩ, nhưng… “Làm sao ta có thể mua cả ngàn lính nô lệ được? Thứ giá trị nhất ta có là chiếc vương miện mà hội Em Đá Quý đưa cho ta.”

      “Ở Astapor hay ở Qarth rồng đều là loài vật kỳ diệu. Có thể những kẻ nô lệ trao quà cho người, như Qartheen vậy. Nếu … những con tàu này chở được nhiều hơn là người Dothraki của người và đàn ngựa của họ. Họ đảm nhận những vụ trao đổi hàng hóa rất hay ở Qarth, tôi được tận mắt thấy cảnh đó. Những kiện lụa và da hổ, những bức trạm khắc ngọc bích và hổ phách, nghệ tây, chất nhựa thơm… thưa nữ hoàng, nô lệ rẻ mạt lắm. Da hổ lại đắt đỏ.”

      “Đó là da hổ của Illyrio,” phản đối. “và Illyrio là bạn của Nhà Targaryen. Ta ăn cắp hàng hóa của ông ấy.”

      “Vậy những người bạn giàu sang có ích gì nếu người dùng đến giàu sang đó, thưa nữ hoàng? Nếu Magister Illyrio từ chối người, ông ta chỉ là Xaro Xhoan Daxos với bốn cái cằm thôi. Và nếu ông ta thành thực hết lòng cho nghiệp của người, ông ta bực bội nếu người làm gì đó với ba con tàu chất đầy hàng hóa trao đổi được này. Còn gì hữu dụng hơn đối với các kiện da hổ của ông ta ngoài việc mua cho người

      đội quân?”

      Đúng vậy. Dany thấy trong lòng phấn khích. “ có nhiều hiểm nguy khi diễu đoàn binh dài như vậy…”

      “Ngoài biển khơi cũng lắm hiểm nguy. Cướp biển săn hàng ở hướng nam, và hướng bắc con sông Smoking ở Valyria vô số kẻ thủ ác. Cơn bão sắp tới có thể nhấn chìm hoặc khiến tàu thuyền của chúng ta tan tác, con thủy quái có thể kéo phăng chúng ta xuống tận đáy biển… hoặc chúng ta lại thể di chuyển được vì biển lặng gió, và chết vì khát trong khi đợi gió lên. Thưa nữ hoàng, đội quân diễu hành đường bộ gặp phải những mối nguy khác, nhưng nguy hiểm hơn.”

      “Nếu thuyền trưởng Groleo chịu chuyển hướng thuyền sao? Và Arstan, Belwas Khỏe Mạnh nữa, bọn họ làm gì?”

      Ser Jorah đứng lên. “Có lẽ đến lúc người tìm ra điều đó rồi.”

      “Được,” quyết định. “Ta làm vậy!” Dany ném tấm ga ra sau và nhảy vọt từ giường xuống. “Ta gặp thuyền trưởng ngay, và ra lệnh cho ông ta hướng tàu đến Astapor.” cúi xuống, mở hòm, vớ lấy mảnh vải đầu tiên, là chiếc quần lụa rộng màu cát. “Đưa cho ta chiếc thắt lưng,” lệnh cho Jorah khi kéo quần lên hông. “Và cả áo lót của ta nữa,” và quay người lại.

      Ser Jorah vòng tay quanh người .

      “Ôi,” Dany chỉ kịp vậy khi ông kéo lại gần và đặt lên môi nụ hôn. Ông có vị mặn của mồ hôi, muối và da, những mẩu sắt áo chiến của ông ấn sâu vào bộ ngực trần của khi ông kéo chặt vào lòng. bàn tay ông giữ vai , bàn tay còn lại trườn từ xương sống đến thắt lưng , và há miệng chờ lưỡi của ông, mặc dù hề gì. Râu ông ngứa quá, thầm nghĩ, nhưng miệng ông ngọt ngào lắm. Người Dothraki có râu, chỉ có ria dài thôi, và từ trước tới nay, chỉ có Drogo hôn . Ông nên làm thế này. Ta là nữ hoàng của ông, phải người phụ nữ của ông.

      Đó là nụ hôn dài, mặc dù Dany biết nó dài tới cỡ nào. Khi nụ hôn kết thúc, Ser Jorah buông ra, và nhanh chóng bước lùi lại bước.

      “Ông… đáng ra ông nên…”

      “Ta nên chờ đợi lâu đến vậy,” ông nốt câu giúp . “Đáng ra ta nên hôn người ở Qarth, ở Vaes Tolorru. Đáng ra ta nên hôn người hàng ngày, hàng đêm. Người được sinh ra để được hôn, được hôn thường xuyên và thực .” Đôi mắt ông dán vào bầu ngực .

      Dany giơ hai tay lên che ngực, trước khi hai núm vú cương lên phản lại . “Ta… như thế là đúng. Ta là nữ hoàng của ông.”

      “Nữ hoàng của ta,” ông , “và là người phụ nữ dũng cảm nhất, ngọt ngào nhất, và xinh đẹp nhất mà ta từng gặp. Daenerys…”

      “Nữ hoàng!”

      “Thưa nữ hoàng,” ông thừa nhận, “người còn nhớ con rồng ba đầu ? Người băn khoăn về nó, kể từ khi nghe các phù thủy ở Cung Điện Đổ Nát . Phải, và đây là ý nghĩa: Balerion, Meraxes và Vhagar, lần lượt được Aegon, Rhaenys và Visenya cưỡi. Rồng ba đầu của Nhà Targaryen – ba con rồng, và ba người cưỡi rồng.”

      “Đúng vậy,” Dany , “nhưng các trai ta đều chết.”

      “Rhaenys và Visenya thuộc về vợ của Aegon và các chị em của ngài. Người còn trai, nhưng người có thể lấy chồng. Và thành với người, Daenerys, đời này có người đàn ông nào thương người lòng bằng nửa tình ta dành cho người đâu.”

      BRAN


      Ngọn núi nằm hơi nghiêng so với mặt đất, nó vốn là khe đá dài và có hình dạng giống móng vuốt. Thông, táo gai và tần bì mọc lên từ những sườn núi thấp, nhưng bên lại trống trơn, khiến chỏm núi đứng đơn độc giữa nền trời đầy mây.

      Cậu cảm thấy tảng đá cao gọi mình. Cậu leo lên, ban đầu vừa chạy vừa nhảy cẫng lên hết sức dễ dàng, nhưng rồi cậu nhanh hơn và cao hơn, đôi chân khỏe mạnh của cậu bấu chặt vào sườn núi dốc. Chim bay túa ra từ những cành cây đầu khi nó chạy qua, chúng quắp và vỗ cánh phần phật bay lên trời. Cậu nghe thấy tiếng gió thở dài giữa các tán lá, những con sóc kêu ríu rít với nhau, ngay cả quả thông rơi xuống nền rừng cũng gây tiếng động. Những mùi vị bao quanh cậu như bài ca, bài ca ngập tràn cả khu rừng xanh này.

      Những viên sỏi khẽ tung lên bên dưới bàn chân cậu khi cậu lấy hết sức nhảy những bước cuối cùng đứng đỉnh núi. Mặt trời treo lủng lẳng những cây thông cao, đỏ rực và to lớn. Phía bên dưới cậu, cây cối và đồi núi trải dài mãi theo tầm mắt. con diều bay lượn , con diều đen bay giữa nền trời ửng hồng.

      Hoàng tử. Tiếng của con người đột nhiên vang lên trong đầu cậu, nhưng cậu vẫn cảm nhận được rệt của thanh ấy. Hoàng tử của rừng xanh, hoàng tử của rừng sói. Cậu mạnh mẽ, mau lẹ và dữ dội, tất cả những sinh vật sống trong khu rừng xanh này đều e sợ cậu.

      Tít xa bên dưới nền rừng, có thứ gì đó di chuyển giữa các thân cây. hình dạng màu xám thoắt thoắt , nhưng cũng đủ để đôi tai cậu vểnh lên. Phía dưới, cạnh con suối nước xanh chảy nhanh, hình hài khác chạy lướt qua. Cậu biết đó là chó sói. Những người em bé của cậu rượt đuổi theo con mồi. Lúc này, hoàng tử nhìn thấy nhiều sói hơn - những cái bóng chạy những bàn chân xám nhanh nhẹn. bầy sói.

      Cậu cũng từng có bầy đàn. Đàn của cậu có năm con, và con thứ sáu đứng ngoài cuộc. Đâu đó văng vẳng tiếng người phân biệt em cậu, nhưng nhờ vậy mà em cậu mới phân biệt được nhau. Cậu nhớ mùi của từng người. Chúng đều có mùi giống nhau, mùi chung của đàn, nhưng cũng có điểm khác biệt lắm.

      Người hay cáu giận với đôi mắt xanh gay gắt ở gần, hoàng tử cảm thấy điều đó, mặc dù cậu gặp trong nhiều cuộc săn mồi. Nhưng mỗi lần mặt trời lặn cậu lại xa hơn, và cậu là con cuối cùng. Những con sói khác đều rải rác đâu đó, như những chiếc lá bị gió lớn thổi phăng .

      Nhưng, đôi lúc, cậu lại nhìn thấy đàn, như thể đàn sói em vẫn ở bên cậu, chỉ là chúng nấp khỏi tầm nhìn của cậu sau tảng đá hay rừng cây. Cậu đánh hơi thấy bọn họ, đêm đến cũng nghe thấy tiếng hú, nhưng cậu lại cảm thấy hữu của chúng sau lưng mình… tất cả bọn họ, trừ người chị mất. Đuôi cậu gục xuống khi nhớ đến chị. Giờ chỉ còn bốn, phải năm. Bốn và con sói trắng có tiếng .

      Rừng xanh, những sườn núi phủ tuyết và những ngọn đồi đá, những cây thông vĩ đại và những cây sồi lá vàng, những con suối nước chảy ào ào và những con sông phủ băng đều là của chúng. Nhưng sói tuyết chị bỏ rừng hoang, tới nơi trú ngụ và trị vì của những kẻ săn mồi khác, và khi đến nơi đó, rất khó để tìm đường về. Hoàng tử sói vẫn còn nhớ.

      Gió đổi hướng đột ngột.

      Hươu, nỗi sợ hãi và máu. Mùi của con mồi đánh thức cơn đói trong cậu. Hoàng tử lại khịt mũi, quay đầu và cất bước chạy, dọc theo hướng đỉnh núi, hàm cậu bạnh ra. Sườn núi kia sâu hơn sườn núi cậu vừa leo lên, nhưng cậu vẫn chạy vững vàng đá, gốc cây và những chiếc lá mục rữa, xuống dốc núi và xuyên giữa các thân cây, những sải chân dài lướt nhanh mặt đất. Mùi của con mồi kéo cậu chạy về phía trước, nhanh hơn bao giờ hết.

      Con hươu nằm mặt đất, và chết dần khi cậu đến nơi, bao quanh cậu là tám con sói xám cùng đàn với cậu. Những con sói đầu đàn chuẩn bị ăn, trước nhất là con sói đực, kế đến là con sói cái, chúng lần lượt thay phiên xé thịt tươi từ dưới bụng đỏ quạch máu của con mồi. Những con khác trong đàn phải đợi, rất kiên nhẫn, trừ con cuối cùng – nó tới lui theo hình vòng tròn, hết sức thận trọng, cách đàn khoảng vài bước chân, đuôi của cậu hạ thấp xuống. Cậu phải ăn cuối cùng, và ăn bất cứ thứ gì mà những con khác để lại.

      Hoàng tử chạy theo tiếng gió thổi, vì vậy chúng nhìn thấy cậu đến khi cậu nhảy lên khúc gỗ rơi cách chúng khoảng sáu sải chân. Con sói canh gác nhìn thấy cậu đầu tiên, rên lên cách thảm thương, và cậu lẩn . Các con sói cùng đàn với cậu quay đầu lại nơi phát ra tiếng động và nhe răng ra, gầm gừ, trừ con sói cái và con đực đầu đàn.

      Con sói tuyết gầm gừ đáp trả cảnh cáo và cậu cũng nhe răng ra. Cậu to hơn chúng, gấp đôi con sói gầy gò cuối đàn, to bằng nửa hai con sói đầu đàn. Cậu nhảy vọt vào giữa đàn sói, khiến ba con sói văng ra khỏi vòng vây và rơi xuống bụi rậm.

      con khác lao vào cậu đớp lại. Cậu va vào đầu con sói tấn công, cắn phập vào chân và hất tung nó sang bên, khiến con sói kêu ăng ẳng và chạy khập khiễng.

      Giờ chỉ còn phải đối chọi với con sói đầu đàn, con sói đực xám, to lớn với cái mõm còn dính máu từ phần thịt bụng mềm của con mồi. mõm nó điểm màu trăng trắng, cho thấy nó là con sói già, nhưng khi mõm nó há ra, nước bọt còn dính máu đỏ chảy từ răng nó xuống.

      Con sói ấy chút sợ hãi, hoàng tử thầm nghĩ, và mình cũng thế. trận chiến hay đây. Rồi chúng lao vào nhau.

      Chúng đánh nhau rất lâu, vật lộn những gốc cây, bãi đá, những chiếc lá rụng và những khúc ruột rơi rải rác của con mồi, cào cấu nhau bằng răng và móng vuốt, rồi chúng buông nhau ra, tạo thế xoay tròn trước đối phương và lại lao vào chiến đấu tiếp. Hoàng tử lớn hơn, và mạnh hơn, nhưng con sói kia có cả bầy. Con sói cái lảng vảng gần chúng, khụt khịt và gầm gừ, và nó lao vào trận chiến mỗi khi con sói đực bị văng ra ngoài, mình mẩy đầy máu. Đôi lúc, các con sói khác cũng lao vào để vồ lấy cẳng chân hay bên tai khi hoàng tử quay mặt hướng khác. con sói khiến cậu tức giận đến mức cậu xoay tít trong cơn thịnh nộ và xé toạc cổ họng kẻ tấn công. Sau cú đòn đó, các con sói khác biết điều giữ khoảng cách an toàn.

      Và khi ánh đỏ cuối cùng của ngày len lỏi qua những cành cây xanh và vàng, con sói già nằm mệt lử đất, còn cậu nằm sấp, để lộ bụng và cổ họng. Đó là bại trận.

      Hoàng tử khịt mũi trước con sói và liếm láp máu từ lông và thịt nó. Khi con sói già khẽ rên lên, hoàng tử quay đầu . Hoàng tử đói rồi, và con mồi là của cậu.

      “Hodor.”

      thanh bất chợt vang lên khiến cậu dừng lại và gầm gừ. Những con sói khác nhìn cậu bằng đôi mắt vàng và xanh, với vẻ kính nể, và những đôi mắt ấy sáng bừng lên nhờ những tia sáng ban ngày cuối cùng. con sói nào nghe thấy thanh ấy. Đó chỉ là cơn gió lạ thổi vào tai cậu. Cậu cắn ngập bụng con hươu và xé miếng thịt bự.

      “Hodor, hodor.”

      , cậu thầm nghĩ. , đâu. Đó là ý nghĩ của cậu bé, phải ý nghĩ của con sói tuyết. Quanh cậu, rừng mỗi lúc tối hơn, cho đến khi chỉ còn bóng của những thân cây trong rừng, và tia sáng lóe lên từ mắt của mấy con sói. sâu trong những đôi mắt ấy, cậu nhìn thấy nét mặt tươi cười của người đàn ông, và mái vòm đá với những bức tường lốm đốm kali. Hơi ấm của máu dần tan biến lưỡi cậu. , đừng, đừng mà, mình muốn ăn, mình muốn ăn, mình muốn lắm…

      “Hodor, hodor, hodor, hodor, hodor,” Hodor hát khi ta khẽ lay vai cậu. Cậu luôn cố tỏ ra lịch , lúc nào cũng thế, nhưng Hodor cao tới hai mét và khỏe hơn cậu gấp nhiều lần, và cùng lúc, đôi tay to lớn của ta vỗ vỗ lên miệng Bran. “,” cậu tức giận kêu lên. “Hodor, bỏ ra, tôi đây, tôi đây.”

      Hodor dừng tay, vẻ luống cuống. “Hodor?”

      Rừng và sói đều biến mất. Bran lại là Bran, nằm bẹp trong căn phòng ẩm ướt của tháp canh cũ kỹ nào đó và bị bỏ hoang cả ngàn năm trước. Bây giờ nó còn giống tòa tháp nữa. Ngay cả những tảng đá sụp đổ cũng bị phủ đầy rêu mốc và cây thường xuân, đến mức người ta khó lòng nhận ra bên dưới là tảng đá, trừ khi người ta đứng đó. “Tháp Ngã Nhào,” Bran gọi nơi này bằng cái tên đó; nhưng Meera là người tìm được lối vào phòng này.

      “Ngài quá lâu rồi.” Jojen Reed 13 tuổi, chỉ hơn Bran có bốn tuổi. Jojen to lớn hơn cậu nhiều, có lẽ chỉ khoảng vài phân, nhưng lại có cách chuyện rất trịnh trọng, khiến cậu ta có vẻ già hơn và khôn ngoan hơn bình thường. Ở Winterfell, Già Nan gọi cậu ta là “ông cụ non.”

      Bran cau mày với cậu ta. “Ta muốn ăn.”

      “Chị Meera mang đồ ăn đến ngay.”

      “Ta chán ăn ếch lắm rồi.” Meera đến từ vùng Neck, rất thích ăn ếch, vì vậy, Bran hiểu tại sao chị lại bắt được nhiều ếch đến vậy, nhưng dù vậy… “Ta muốn ăn thịt hươu.” Trong giây, cậu lại nhớ đến mùi vị thơm ngon của thịt hươu, máu và miếng thịt tươi rói, và cậu chảy nước miếng. Mình chiến đấu, mình thắng vì con hươu ấy. Mình thắng. “Ngài có đánh dấu các thân cây ?”

      Bran đỏ mặt. Jojen vẫn luôn bảo cậu làm việc này việc kia khi cậu mở mắt thứ ba và khoác lên mình tấm lông của con sói tuyết Mùa Hè. Cậu ta bảo cậu bóc vỏ cây, bắt thỏ mang về nhưng được ăn, đặt vài viên đá thành hàng. Những việc ngớ ngẩn. “Ta quên mất,” cậu .

      “Lúc nào ngài cũng quên.”

      Đúng là vậy. Cậu cũng định làm những việc mà Jojen bảo, nhưng khi cậu là sói, những việc đó còn quan trọng nữa. Khi cậu là sói, luôn có vô số thứ để cậu nhìn, ngửi, và cả khu rừng bao la để cậu săn mồi. Và cậu còn biết chạy nữa! gì tuyệt hơn được chạy, trừ việc chạy săn mồi. “Jojen, ta là hoàng tử,” cậu . “Ta là hoàng tử rừng xanh.”

      “Ngài là hoàng tử,” Jojen khẽ nhắc cho cậu nhớ. “Ngài còn nhớ, phải ? cho tôi biết ngài là ai.”

      “Cậu biết rồi còn gì.” Jojen là bạn và cũng là thầy giáo của cậu, nhưng nhiều lúc Bran chỉ muốn cho cậu ta đấm.

      “Ta muốn cậu ra. cho ta biết cậu là ai.”

      “Bran,” cậu sưng sỉa . Bran, thằng què. “Brandon Stark.” Thằng què. “Hoàng tử của Winterfell.” Của Winterfell bị thiêu rụi và quật đổ, người dân nơi ấy bị giết chết hết. Những khu vườn bị phá hủy, nước nóng phun ra từ những tường thành nứt nẻ và bốc hơi bên dưới mặt trời. Làm sao mình có thể là hoàng tử của nơi mà có thể mình bao giờ được nhìn thấy nữa?

      “Mùa Hè là ai?” Jojen hỏi lại.

      “Sói tuyết của ta.” Cậu mỉm cười. “Hoàng tử rừng xanh.”

      “Bran là cậu bé, còn Mùa Hè là con sói. Hai người là sao?”

      “Là hai,” cậu thở dài, “và .” Cậu ghét Jojen khi cậu ta ngớ ngẩn như thế. Ở Winterfell, cậu ta muốn mình mơ giấc mơ của sói, thế mà bây giờ, lúc nào cậu ta cũng gọi giật mình quay lại.

      “Bran, hãy nhớ điều đó. Hãy nhớ ngài là ai, nếu con sói hủy hoại ngài. Khi ngài khoác lên mình bộ lông của Mùa Hè, bao giờ là đủ để chạy, săn mồi và hú gọi đâu.”

      Bộ lông ấy là của mình, Bran thầm nghĩ. Cậu thích lông của Mùa Hè hơn da thịt của chính cậu. Làm người đội lốt có gì hay nếu mình thể khoác bộ lông mà mình ưa thích?

      “Liệu ngài có nhớ ? Lần sau, nhớ đánh dấu cây nhé. Cây nào cũng được, quan trọng, miễn là ngài nhớ đánh dấu.”

      “Ta nhớ, ta nhớ. Nếu cậu thích, giờ ta có thể quay lại và đánh dấu luôn. Lần này ta quên đâu.” Nhưng ta phải ăn thịt hươu cái , và chiến đấu thêm với mấy con sói con.

      Jojen lắc đầu. “. Tốt nhất là ngài cứ ở đây, và ăn tối. Bằng miệng của chính ngài. Người biến hình thể sống bằng đồ ăn của con thú của gã đâu.”

      Làm sao cậu ta biết chứ? Bran bực dọc nghĩ. Cậu ta có phải là người biến hình đâu, làm sao cậu ta biết được.

      Hodor bất thình lình đứng lên, suýt đập đầu vào trần phòng. “HODOR!” ta hét lên và chạy ra cửa. Meera đẩy cửa ra trước khi ra tới nơi, và chị bước vào phòng. “Hodor, hodor,” chàng to béo đứng vững và

      cười khì.

      Meera Reed mười sáu tuổi, trưởng thành, nhưng chị cao hơn cậu em trai là mấy. Những người đầm lầy dật đều bé, có lần chị với Bran như vậy khi cậu hỏi sao chị cao hơn được. Tóc nâu, mắt xanh và mập mạp như đứa con trai, chị bước với duyên dáng mềm mại mà Bran chỉ có thể nhìn và ghen tị. Meera có dao găm dài, sắc, nhưng chị thích dùng cây đinh ba để bắt ếch, và bên tay kia là tấm lưới.

      “Có ai đói ?” chị hỏi và giơ cao chiến lợi phẩm: hai con cá hồi và sáu con ếch xanh béo tròn.

      “Ta đói,” Bran . Nhưng phải đói vì ếch đâu. Trước đây ở Winterfell, và trước khi xảy ra những việc khủng khiếp đó, Nhà Walder thường rằng ăn ếch khiến răng bị xanh lét và mọc rêu dưới nách. Cậu tự hỏi liệu gia tộc Walder còn sống hay chết. Cậu nhìn thấy xác họ ở Winterfell… nhưng ở đó có nhiều xác chết lắm, mà bọn họ lại nhìn vào bên trong các lâu đài.

      “Vậy chúng tôi phải cho ngài ăn thôi. Bran, ngài giúp tôi làm sạch ếch nhé?”

      Cậu gật đầu. Hờn dỗi với Meera khó lắm. Chị ấy vui tính hơn em trai, và lúc nào cũng biết cách làm cho cậu cười. Dường như có gì khiến chị ấy sợ, hay tức giận. Trừ Jojen, nhưng cũng thi thoảng thôi… Jojen Reed có thể làm tất cả mọi người sợ. Cậu ta mặc toàn đồ màu xanh, đôi mắt tối tăm như rêu, và cậu ta cũng có những giấc mơ xanh. Jojen mơ thấy điều gì, điều đó thành . Trừ mỗi chuyện cậu ta mơ thấy mình chết, thế mà giờ mình vẫn sống. Nhưng xét theo nghĩa nào đó, cậu chết.

      Jojen sai Hodor ra ngoài kiếm củi và đốt lửa trong khi Bran và Meera làm sạch cá và ếch. Họ dùng mũ của Meera làm nồi nấu, chặt mẻ cá ra thành các khúc , đổ nước và ít tỏi dại mà Hodor tìm thấy để làm món ếch hầm. Ăn món này ngon như thịt hươu, nhưng cũng tệ chút nào, Bran vừa ăn vừa nghĩ.

      “Meera, cám ơn,” Bran . “Cám ơn chị nhiều.”

      “Thưa hoàng tử, có gì.”

      “Mai chúng ta ,” Jojen , “tốt nhất là chúng ta nên tiếp.”

      Bran thấy Meera căng thẳng.

      “Em lại mơ giấc mơ xanh nào đó à?”

      ,” cậu ta thừa nhận.

      “Thế tại sao chúng ta phải ?” chị cậu ta gặng hỏi. “Tháp Ngã Nhào là nơi ở tốt cho chúng ta. Gần đây có ngôi làng nào, rừng phong phú, nhiều cá, nhiều ếch trong suối và hồ… và ở đây ai tìm thấy chúng ta.”

      “Chúng ta nơi như thế này mãi.”

      “Nhưng ở đây an toàn.”

      “Có vẻ an toàn thôi, em biết là thế,” Jojen , “nhưng được đến bao giờ nào? Ở Winterfell có đánh nhau, chúng ta thấy vô số người chết. Đánh nhau nghĩa là chiến tranh. Nếu chúng ta hay biết về đội quân nào đó…”

      “Có thể là đội quân của Robb,” Bran . “ Robb sớm trở về từ phương nam, ta biết ấy về. ấy quay về, với tất cả cờ hiệu và đuổi lũ người Đảo Iron đó .”

      “Vị học sĩ của ngài gì về Robb khi ông ấy hấp hối,” Jojen nhắc cho cậu nhớ. “Ông ấy đám người Đảo Iron ở bờ biển Stony, ở cả phương đông, gã Con Hoang của Bolton. Moat Cailin và Deepwood Motte đều sụp đổ, người thừa kế của Cerwyn chết, người cai quản thành trì Torrhen’s Square cũng chết. Đâu đâu cũng có chiến tranh, ông ấy vậy.”

      “Chúng ta bàn về vấn đề này rồi,” chị cậu . “Em muốn về Tường Thành, cùng với con quạ ba mắt của em. Điều đó cũng tốt thôi, nhưng Tường Thành ở xa lắm, Bran bằng chân được, chỉ có Hodor cõng ngài ấy. Nếu chúng ta cưỡi ngựa…”

      “Nếu là đại bàng chúng ta có thể bay,” Jojen nghiêm nghị , “nhưng chúng ta có cánh, và cũng có ngựa.”

      có cách có ngựa,” Meera . “Ngay cả ở sâu thẳm của rừng sói cũng có người rừng, chủ trại và người săn bắn. có người có ngựa.”

      “Và nếu họ có ngựa, chúng ta ăn trộm sao? Chúng ta là kẻ trộm sao? Mong muốn cuối cùng của chúng ta là bị người ta rượt đuổi.”

      “Chúng ta mua ngựa,” chị . “Đổi hàng lấy ngựa.”

      “Chị Meera, chị nhìn chúng ta thử xem. cậu què với con sói tuyết, gã to xác ngu si, và hai người đầm lầy dật ở cách Neck đến cả ngàn dặm. Chúng ta bị phát . Và lời đồn đại lan nhanh như gió. Chừng nào Bran còn bị coi là chết ngài ấy còn được an toàn. Nếu còn sống, ngài ấy là con mồi cho những kẻ muốn ngài ấy phải chết mãi mãi.” Jojen bước về phía đống lửa rồi lấy que chọc vào bếp. “Đâu đó ở phương bắc, con quạ ba mắt đợi chúng ta. Bran cần người thầy giỏi hơn em.”

      “Jojen, bằng cách nào nào?” chị cậu ta hỏi. “ bằng cách nào?”

      “Bằng chân,” cậu ta trả lời. “Từng bước .”

      “Từ Greywater đến Winterfell xa cả ngàn, cả vạn, cả triệu dặm, nhưng lúc đó chúng ta còn được cưỡi ngựa. Vậy mà em còn muốn chúng ta bộ quãng đường xa hơn thế, trong khi chúng ta hay biết đích đến ở chỗ nào. Em là bên ngoài Tường Thành. Chị, và em đều chưa từng tới đó, nhưng chị biết, bên ngoài Tường Thành là nơi rộng lớn, bao la lắm Jojen à. Ở đó chỉ có , hay có nhiều con quạ ba mắt? Làm sao chúng ta tìm được con quạ đó?”

      “Biết đâu nó tự tìm chúng ta.”

      Trước khi Meera kịp đáp trả, họ nghe thấy thanh đó; tiếng hú xa xa của con sói lảng vảng trong đêm. “Mùa Hè hú sao?” Jojen hỏi và lắng nghe.

      .” Bran biết tiếng hú con sói của cậu.

      “Ngài có chắc ,” ông cụ non hỏi.

      “Chắc chắn chứ.” Hôm nay Mùa Hè rất xa và chắc phải rạng sáng nó mới về. Có thể Jojen mơ thấy rừng xanh, nhưng cậu ta thể phân biệt giữa sói và sói tuyết. Cậu tự hỏi tại sao tất cả bọn họ lại nghe lời Jojen nhiều đến thế. Cậu ta phải hoàng tử như Bran, cũng to con và khỏe mạnh giống Hodor, cũng săn mồi giỏi bằng Meera, vậy mà Jojen luôn là người cho bọn họ biết bọn họ phải làm gì.

      “Chúng ta nên ăn trộm ngựa như Meera muốn,” Bran , “và cưỡi ngựa đến Umbers mãi tận Last Hearth.” Cậu dừng lại chút rồi tiếp. “Hoặc chúng ta có thể lấy trộm con thuyền, con buồm và giương buồm theo sông Bạch Đao đến Cảng White. Lãnh chúa Manderly béo ú cai trị ở đó, và ông ta rất thân thiện. Lúc trước ông ta muốn đóng thuyền. Có lẽ ông ta đóng được vài chiếc rồi, và chúng ta có thể thuyền đến Riverrun và đón Robb cùng với đội quân của ấy về. Lúc đó chuyện ai biết ta còn sống hay còn quan trọng nữa. Robb để bất cứ ai làm hại đến chúng ta đâu.”

      “Hodor!” Hodor ợ lên. “Hodor, hodor.”

      Dù vậy, ta là người duy nhất thích kế hoạch của Bran. Meera chỉ mỉm cười với cậu, còn Jojen cau mày. Chị em họ bao giờ lắng nghe điều cậu muốn, mặc dù Bran là người Nhà Stark và là hoàng tử, còn người Nhà Reed ở mãi vùng Neck chỉ là người cầm cờ hiệu của gia tộc Stark.

      “Hoooodor,” Hodor vừa vừa lắc lư. “Hooooodor, hooooooooodor, hoDOR, hoDOR, hoDOR.” Thi thoảng ta lại thích làm như vậy, chỉ để tên ta theo cách khác, cứ lặp lặp lại như vậy. Lúc khác, ta lại im hơi lặng tiếng đến mức người ta quên mất là ta có mặt ở đó. Hodor ngờ nghệch lắm. “HODOR, HODOR, HODOR!” ta hét toáng lên.

      ta ngừng lại đâu, Bran nhận thấy như vậy. “Hodor,” cậu , “sao ra ngoài tập kiếm ?”

      chàng coi chuồng ngựa quên béng gươm kiếm của mình, nhưng bây giờ ta nhớ ra. “Hodor!” ta hét lên rồi bỏ tập gươm. Họ có ba thanh gươm lấy trong hầm mộ ở Winterfell, nơi mà Bran và Rickon trốn khỏi đám người của Theon Greyjoy. Bran đòi dùng cây gươm của bác Brandon, Meera cầm cây gươm mà chị tìm thấy đùi của Lãnh chúa Richard. Cây gươm của Hodor nhiều tuổi hơn, là thanh sắt nặng, to, xám xịt sau nhiều thế kỷ bị bỏ quên và hoen gỉ. ta có thể vung gươm suốt nhiều giờ liền. Gần nơi trú đổ nát này có thân cây thối rữa, và ta đốn nó thành nhiều mẩu vụn.

      Ngay cả khi ta ra ngoài rồi, bọn họ vẫn nghe thấy ta rống “HODOR!” ầm lên khi vung gươm đập vào cây. may là rừng sói này rất rộng lớn, nên có thể ai nghe thấy tiếng ta.

      “Jojen, ý cậu về thầy giáo khác là sao?” Bran hỏi. “Cậu là thầy giáo của ta. Ta biết ta chưa bao giờ đánh dấu cây như cậu bảo, nhưng lần sau ta làm. Con mắt thứ ba của ta mở ra như cậu muốn...”

      “Nó mở to đến nỗi tôi sợ ngài ngã nhào vào đó, và giống những năm tháng còn lại của đời ngài như con sói trong rừng.”

      đâu, ta hứa.”

      “Đứa trẻ nào cũng hứa. Con sói liệu có nhớ ? Ngài chạy với Mùa Hè, ngài săn mồi với nó, ngài giết con mồi với nó... nhưng ngài phục tùng nó hơn là nó phục tùng ngài.”

      “Chỉ là ta quên thôi mà,” Bran càu nhàu. “Ta mới có chín tuổi. Lớn lên ta giỏi hơn chứ. Ngay cả Florian Ngốc Nghếch và Aemon Hiệp Sĩ Rồng cũng đâu giỏi giang gì khi họ mới có chín tuổi.”

      “Đúng thế,” Jojen , “ngài hay lắm, ấy là nếu như ngày tháng cứ dài mãi... nhưng đâu phải vậy. Tôi biết, ngài mới chỉ là cậu bé. cho tôi biết gia ngôn của Nhà Stark.”

      “Mùa đông đến,” mới chỉ vậy thôi Bran thấy lạnh tê người.

      Jojen trịnh trọng gật đầu. “Tôi mơ thấy con sói có cánh bị các tảng đá ghì chặt xuống đất, và tôi đến Winterfell để giải phóng cho nó. Giờ các tảng đá ấy còn trói buộc ngài nữa, nhưng ngài vẫn thể bay được.”

      “Vậy cậu dạy ta .” Bran vẫn sợ con quạ ba mắt thi thoảng vẫn ám ảnh giấc mơ của cậu, nó mổ liên hồi vào trán cậu và dạy cậu bay. “Cậu là nhà chiêm mộng.”

      phải,” Jojen , “tôi chỉ là thằng nhóc có những giấc mơ thôi. Nhà chiêm mộng biết nhiều hơn thế. Họ cũng là người biến hình như cậu, và những người giỏi nhất trong số họ còn có thể khoác mọi bộ lông hay bộ da của mọi con thú biết bay, biết bơi, hay biết bò, và họ có thể nhìn thấu mắt của cây đước, để thấy mọi được giấu đời này. Bran, các vị thần trao tặng cho chúng ta nhiều thứ lắm. Chị Meera là người săn mồi. Các vị thần cho chị ấy khả năng chạy nhanh, và đứng lặng lâu đến mức chị ấy như biến mất. Tai chị thính, mắt chị tinh, tay luôn sẵn sàng với vợt và giáo. Chị có thể thở khi ngụp lặn dưới bùn và chạy nhanh như bay giữa các thân cây. Tôi làm được những việc như thế, và ngài cũng vậy. Với tôi, các vị thần cho tôi những giấc mơ về rừng xanh, và với ngài... Bran, ngài có thể hơn tôi nhiều. Ngài là con sói có cánh, và ai hay biết ngài có thể bay xa, và bay cao đến đâu... nếu có người chỉ bảo cho ngài. Làm sao tôi có thể dạy ngài nắm lấy món quà mà tôi hiểu? Chúng ta nhớ đến Tiền Nhân ở vùng Neck, và những đứa con của rừng rậm vốn là bạn bè của họ... nhưng người ta quên nhiều chi tiết lắm rồi, và còn nhiều chuyện chúng ta chẳng bao giờ được biết.”

      Meera cầm tay Bran. “Nếu chúng ta cứ ở đây, gây phiền nhiễu cho ai, ngài được an toàn cho đến khi chiến tranh kết thúc. Dù vậy, ngài học hỏi được gì, trừ những gì em trai tôi dạy ngài, và ngài vừa nghe em ấy rồi đấy. Nếu chúng ta rời bỏ nơi này để trú ngụ tại Last Hearth hay bên ngoài Tường Thành, chúng ta phải chấp nhận rủi ro là bị bắt. Tôi biết, ngài mới chỉ là cậu bé, nhưng ngài cũng là hoàng tử của chúng tôi nữa, là con trai lãnh chúa của chúng tôi, và là người thừa kế đích thực. Chúng tôi thề trung thành với ngài, dù non rời bể cạn, dầu sôi lửa bỏng cũng vẫn lòng với ngài. Bran à, rủi ro này là của ngài. Lựa chọn cũng là của ngài. Chúng tôi là đầy tớ sẵn sàng nghe lệnh ngài.” Chị cười khì. “Ít nhất là trong việc này.”

      “Ý chị là,” Bran , “hai người làm theo điều ta sao? ?”

      chứ, thưa hoàng tử,” chị trả lời, “vì vậy, hoàng tử nên cân nhắc kỹ lưỡng.”

      Bran cố nghĩ cho thấu đáo, theo đúng lối suy nghĩ của cha cậu. Bác Hother Whoresbane và Mors Crowfood Nhà Greatjon là những người hung dữ, nhưng cậu nghĩ họ cũng trung thành. Karstark cũng vậy thôi. Karhold là tòa lâu đài kiên cố, cha vẫn luôn vậy. Có Umber hoặc Karstark chúng ta được an toàn.

      Hoặc họ có thể đến phương nam với lãnh chúa béo Manderly. Ở Winterfell, lão ta cười suốt ngày, và có vẻ như bao giờ liếc nhìn Bran với nhiều trắc như những lãnh chúa khác. Tòa lâu đài Cerwyn gần hơn Cảng White, nhưng Maester Luwin từng Cley Cerwyn chết rồi. Gia đình Umbers, Karrstarks và Manderlys có thể đều chết hết rồi, cậu nhận thấy như vậy. Cũng như cậu, nếu cậu bị người Đảo Iron hay gã Bolton bắt được.

      Nếu bọn họ cứ ở đây, nấp bên dưới Tháp Ngã Nhào, ai tìm thấy bọn họ. Cậu được sống. Và què chân.

      Bran thấy mình khóc. thằng nhóc ngu ngốc, cậu thầm nghĩ. Dù cậu đến đâu, đến Karhold, Cảng White hay Greywater, đến đó cậu vẫn cứ bị què. Cậu nắm chặt tay thành nắm đấm.

      “Ta muốn bay,” cậu với hai người bọn họ. “Làm ơn. Hãy đưa ta đến chỗ con quạ ba mắt.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      DAVOS


      Khi ông lên tới boong tàu, đỉnh mũi dài của Driftmark lại phía sau lưng họ trong khi Dragonstone nhô lên từ mặt biển phía trước. làn khói xám nhạt tỏa ra từ đỉnh núi đánh dấu nơi tọa lạc của hòn đảo. Dragonmont sớm nay nghỉ, Davos thầm nghĩ, hoặc Melisandre thiêu đốt ai đó.

      Melisandre miên man trong suy nghĩ của ông khi con thuyền Vũ Điệu Shayala lướt qua Vịnh Xoáy Nước Đen và vào Gullet, chạy theo hình chữ chi trước những cơn gió ngang bướng. Ngọn lửa lớn cháy bên hải đăng Mũi Nhọn ở cuối Massey’s Hook khiến ông nhớ đến viên hồng ngọc mà ta đeo cổ, và khi cả thế giới chìm trong ngọn lửa đỏ từ sớm bình minh lên và khi mặt trời lặn, những đám mây lơ lửng bay cũng chuyển sang màu đỏ, như màu lụa và sa-tanh đỏ chiếc áo khoác của ta.

      Có thể ở Dragonstone, ta chờ đợi, chờ đợi trong vẻ xinh đẹp và quyền năng của ta, với vị thần lửa, bóng tối và vị vua của ta. Ả nữ tu đỏ ấy cho đến giờ phút này có vẻ vẫn luôn luôn trung thành với Stannis. ta hủy hoại ông ta, như con người hủy hoại con ngựa. Nếu muốn, ả có thể dùng quyền năng để chế ngự ông ta, và vì lý do đó, mà ả đưa các con trai ta vào vòng vây lửa. Ta cắt phăng quả tim sống khỏi ngực ả và xem quả tim ấy cháy thế nào. Ông chạm vào chuôi con dao găm Lyseni dài mà thuyền trưởng đưa cho.

      Vị thuyền trưởng ấy rất tử tế với ông. Tên ông ta là Khorane Sathmantes, người Lyseni như Sallashor Saan, người sở hữu con tàu này. Mắt ông ta màu xanh nhạt, giống y hệt mắt của những người Lys khác, khuôn mặt khắc khổ, xương xẩu vì dãi gió dầm sương, nhưng ông ta giao thương ở Bảy Phụ Quốc suốt nhiều năm ròng. Khi ông ta biết người đàn ông được cứu dưới biển kia là vị hiệp sĩ nổi tiếng, ông ta để vị hiệp sĩ ấy được sử dụng buồng riêng và mặc quần áo của ông ta, và đưa đôi giày mới vừa khít cho vị hiệp sĩ. Ông ta khăng khăng đòi Davos cho ông ta mặc chung đồ, mặc dù đồ của Davos bị rách tả tơi. Davos sao tiêu hóa nổi ốc sên, cá mút đá và đồ ăn mà thuyền trưởng Khorane thích thú, vì vậy, sau bữa ăn đầu tiên tại bàn ăn của thuyền trưởng, ông dành thời gian còn lại trong ngày đứng ngoài tay vịn tàu.

      Dragonstone ra mỗi lúc lớn theo từng nhịp chèo. Giờ Davos nhìn thấy hình hài của ngọn núi, và phía bên kia sườn núi, thành lũy màu đen, to lớn, lên với những miệng máng xối và tháp rồng. Hình chạm màu đồng thiếc ở mũi tàu Vũ Điệu Shayala làm bắn tung từng bụi nước mặn khi nó cắt ngang các con sóng. Ông dựa người vào lan can, lòng thầm cảm ơn giúp đỡ kịp thời của con tàu. Thử thách của chính ông khiến ông suy kiệt. Nếu đứng quá lâu, chân ông run lẩy bẩy, và đôi lúc, ông là nạn nhân của những cơn ho thể kiểm soát và khạc ra đờm có máu. sao hết, ông tự nhủ. Chắc chắn các vị thần để ta vượt lửa và biển an toàn chỉ để giết ta bằng những cục đờm máu kia.

      Khi ông lắng nghe tiếng thình thịch phát ra từ trống của các tay chèo, tiếng vỗ của cánh buồm, tiếng rít và tiếng cọt kẹt nhịp nhàng của các mái chèo, ông nhớ lại những ngày còn trẻ, khi cũng những thanh này đánh thức nỗi khiếp sợ mơ hồ trong lòng ông. Họ nhìn thấy trước tiến đến của đội tuần biển đêm của Ser Tristimun, và đội tuần biển đêm tức là tử thần đối với các tàu buôn lậu thời Aerys Targaryen còn ngự trị ngai vàng.

      Nhưng đó là cuộc đời khác, ông thầm nghĩ. Đó là thời kỳ trước khi có những chuyến tàu buôn hành, trước trận Storm’s End, trước khi Stannis chặt các đốt tay đầu của ta. Đó là thời kỳ trước khi diễn ra chiến tranh, hay sao chổi đỏ ấy, trước khi ta là Seaworth hay trở thành hiệp sĩ. Hồi đó, ta là con người hoàn toàn khác, trước khi được Lãnh chúa Stannis trọng dụng.

      Thuyền trưởng Khorane kể cho ông nghe về việc kết thúc những hy vọng của Stannis, vào cái đêm trước khi con thuyền cháy rụi. Người Nhà Lannisters tấn công ngài từ bên hông, và người mang cờ hiệu của ngài lũ lượt bỏ rơi ngài vào đúng thời khắc mà ngài cần họ nhất. “Người ta cũng thấy vong hồn vua Renly nữa,” thuyền trưởng , “ông bị tấn công cả hai bên tả hữu trong khi ông dẫn đầu đội quân tiên phong. Bọn họ chiếc áo giáp xanh của ông sáng rực đầy vẻ ma quái trong đám lửa, và đôi gạc của ông ta cũng tan biến trong những ngọn lửa vàng rực.”

      Vong hồn của Renly. Davos tự hỏi liệu vong hồn các con trai ông có trở lại hay . Ông nhìn thấy quá nhiều thứ kỳ quái biển, đến mức ông thể rằng đời này có ma. “Có kẻ nào giữ lòng trung thành ?” ông hỏi.

      “Có, ít thôi,” vị thuyền trưởng . “Người thân của hoàng hậu, chủ yếu là vậy. Chúng tôi đưa lên thuyền rất nhiều người đeo huy hiệu cáo-và-hoa, mặc dù vẫn còn nhiều người hơn thế bị bỏ lại bờ, với vô số những huy hiệu khác. giờ, ở Dragonstone, Lãnh chúa Florent là quân sư của nhà vua.”

      Ngọn núi lên mỗi lúc cao hơn, đỉnh núi phủ sâu lớp khói nhạt. Cánh buồm ngân nga, trống vang dồn, mái chèo nhịp nhàng, và trước mặt họ, cửa cảng mở toang đón chào. Trống trải quá, Davos thầm nghĩ, và ông nhớ trước đây nơi này nhộn nhịp như thế nào, với tàu thuyền neo đậu kín các bến cảng và lắc lư trước mỏ neo của đê chắn sóng. Ông vẫn hình dung thấy tàu chỉ huy Valyrian của Salladhor Saan được cột ở bến cảng, nơi mà con tàu Thịnh Nộ và các con tàu cùng chủng loại từng được cột. Thân các con tàu neo đậu hai bên con tàu này cũng được sơn sọc Lyseni. Ông tìm kiếm dấu hiệu của Phu nhân Marya, Hồn Ma trong vô vọng.

      Họ kéo buồm xuống khi cập cảng, để đưa tàu vào bến bằng chèo thôi. Vị thuyền trưởng đến bên Davos khi bọn họ buộc tàu. “Hoàng tử của tôi mong được gặp ngài ngay lập tức.”

      Cơn ho bấu chặt lấy Davos khi ông định đáp lời. Ông túm chặt lấy tay vịn và khạc sang bên. “Bệ hạ,” ông khò khè . “Tôi phải gặp bệ hạ.” Vì nơi nhà vua ở là nơi ta tìm thấy Melisandre.

      ai gặp vua cả,” Khorance Sathmantes kiên quyết . “Salldhor Saan chuyện với ngài trước.”

      Davos quá yếu thể chống lại ông ta. Ông chỉ có thể gật đầu.

      Salladhor Saan con tàu Valyrian của ông ta. Họ tìm thấy ông ta ở bến cảng cách đó khoảng dặm, tít bên dưới khoang của con tàu bụng-to tên là Vụ Mùa Bội Thu, và ông ta đếm hàng hóa với hai thái giám. người cầm đèn lồng, người cầm hộp sáp và bút. “Ba mươi bảy, ba mươi tám, ba mươi chín,” lão già xảo quyệt đếm khi Davos và vị thuyền trưởng xuống đến cửa khoang chứa hàng. Hôm nay lão ta mặc áo dài màu rượu vang, ủng cao làm bằng da trắng có trang trí các đường cuộn màu bạc. Mở nút của cái lọ ra, lão hít ngửi, hắt hơi và , “món nghiền thối, chất lượng này chỉ hạng hai thôi. Hóa đơn hàng viết là có bốn mươi ba lọ. Thế đám lọ còn lại thối rữa đến mức nào rồi? Đám người Pentos này, bọn chúng tưởng tôi đếm chác gì sao?” Khi nhìn thấy Davos, lão ta ngừng ngay lập tức. “Hạt tiêu làm mắt tôi cay quá, hay tại nước mắt nhỉ? Có phải vị hiệp sĩ buôn hành đứng trước mặt tôi nhỉ? , làm sao mà như thế được, vì ông bạn Davos thân mến của tôi bỏ mạng dòng sông lửa rồi cơ mà, ai cũng vậy đấy. Thế tại sao ông ấy lại đến ám tôi thế này?”

      “Salla, tôi phải ma đâu.”

      “Thế còn là gì được nữa? Vị hiệp sĩ buôn hành của tôi gầy guộc và xanh xao như ông bạn đâu.” Salladhor Saan lách giữa các lọ gia vị và các kiện vải chất đầy khoang chứa hàng và bước đến ôm ghì lấy Davos, rồi hôn lên hai má ông, kế đến là hôn lên trán. “Ser, da thịt ông vẫn còn ấm nóng lắm, và tôi thấy tim ông đập thình thịch. Có lẽ nào là sao? Biển khơi nuốt chửng ông rồi nhả ông trở lại rồi.”

      Davos chợt nhớ đến Mặt Sẹo, tên đần độn của công chúa Shireen. ta cũng bị nhấn chìm dưới lòng biển sâu, và khi được cứu sống, hóa điên. Liệu ta có điên ? Ông ho vào bàn tay găng và , “Tôi bơi bên dưới hàng dây xích và bị dạt vào bờ mỏm đá. Chắc hẳn tôi bỏ mạng ở đó, nếu con tàu Vũ Điệu Shayala đến cứu tôi.”

      Salladhor Saan quàng tay lên vai thuyền trưởng. “Khorane, ông làm giỏi lắm. Thế nào ông cũng được trọng thưởng. Meizo Mahr, cư xử như gã thái giám tử tế và đưa ông bạn Davos của ta lên buồng thuyền trưởng. Đem cho ông ấy rượu nóng có thêm đinh hương, vì ta thích tiếng ho của ông ấy chút nào. Vắt thêm vài giọt chanh vào rượu nữa nhé. Nhớ mang cả pho mát trắng và bát quả ô-liu xanh nứt mà chúng ta đếm lúc nãy nhé! Davos, tôi lên với ông ngay, sau khi tôi hầu chuyện vị thuyền trưởng tốt bụng này xong. Tôi biết ông thứ lỗi cho tôi. Nhớ đừng ăn hết ô-liu nhé, nếu tôi giận ông lắm đấy.”

      Davos để người nhiều tuổi hơn trong số hai thái giám hộ tống ông lên buồng tàu rộng và được trang bị đồ đạc cách thừa thãi ở mũi tàu. Thảm màu thẫm, cửa làm bằng kính màu, và những chiếc ghế da lớn đến mức ba người như Davos cũng có thể ngồi thoải mái. Pho mát và ô-liu được mang vào ngay lập tức, cùng với ly rượu đỏ nóng bốc hơi. Ông lấy hai tay cầm ly rượu và nhấm nháp với vẻ biết ơn. Hơi ấm dễ chịu khi nó tỏa khắp lồng ngực ông.

      lâu sau Salladhor Saan xuất . “Ông bạn, ông phải thứ lỗi cho tôi vì món rượu này. Đám người Pentos này uống nước tiểu của chúng luôn nếu nước tiểu màu tím.”

      “Nó hữu ích cho ngực của tôi,” Davos . “Rượu nóng tốt hơn cả gạc bông, mẹ tôi vẫn thường vậy.”

      “Rồi ông cần cả gạc bông nữa. Trời ơi, ông phải ngồi mỏm đá nhọn lâu đến vậy đấy. Ông thấy chiếc ghế tuyệt vời đó thế nào? Má lão bự lắm đúng ?”

      “Ai cơ?” Davos hỏi khi nhấm nháp rượu nóng.

      “Illyrio Mopatis ấy. con cá voi có ria, thành thực với ông là vậy. Những chiếc ghế này được làm theo tiêu chuẩn của lão ta, mặc dù hiếm khi nào lão tự tỉnh giấc từ Pentos để ngồi lên mấy chiếc ghế. gã đàn ông béo múp luôn luôn ngồi trong tư thế thoải mái, vì đâu lão ta cũng mang theo gối.”

      “Làm sao ông có được con tàu của người Pentos vậy?” Davos hỏi. “Hay ông lại cướp biển?” Ông đặt chiếc ly rượu trống sang bên cạnh.

      “Vu khống rẻ tiền quá. Ai là người phải chịu đựng nhiều tàu cướp biển hơn Salladhor Saan nào? Tôi chỉ đòi hỏi cái xứng đáng với mình thôi. Nhiều vàng lắm, nhưng tôi làm mà có lý do đâu, vì vậy, thay vì tiền xu, tôi có mảnh giấy da đẹp, cứng lắm. Mảnh giấy ấy có tên và con dấu của Lãnh chúa Alester Florent, quân sư của nhà vua. Tôi được phong lãnh chúa của Vịnh Xoáy Nước Đen đấy, và con tàu nào được phép vượt hải lưu của tôi mà được tôi cho phép, đâu nhé. Và khi những con tàu tuân thủ luật pháp này cố qua mắt tôi trong đêm để trốn thuế hải quan và các nghĩa vụ theo luật pháp, chúng cũng chỉ là tàu buôn lậu thôi, vì vậy tôi có đủ thẩm quyền để bắt giữ chúng.” Gã cướp biển già cười khà khà. “Dù vậy, tôi chặt ngón tay ai hết. Mấy mẩu xương tay có ích gì đâu? Tôi có thuyền, có hàng, có đôi chút tiền chuộc, cái gì cũng hợp lý hết.” Ông ta quắc mắt nhìn Davos. “Ông bạn ơi, ông được khỏe rồi. Cơn ho ấy… ông lại gầy nhom nữa, toàn da bọc xương thôi. Nhưng tôi nhìn thấy cái bao đựng mấy mẩu xương tay của ông đâu…”

      Thói quen cũ khiến Davos đưa tay lên tìm chiếc bao da còn ở cổ nữa. “Tôi làm mất ngoài sông rồi.” Thần may mắn của tôi.

      “Con sông khủng khiếp,” Salladhor Saan nghiêm nghị . “Ngay cả khi ở trong vịnh tôi vẫn nhìn thấy, khủng khiếp đến rùng mình.”

      Davos vừa vỗ ngực vừa ho. “Tôi thấy tàu Betha Đen và Thịnh Nộ cũng cháy,” ông cố bằng giọng khàn khàn. “Có con tàu nào thoát lửa ?” phần trong ông vẫn còn hy vọng.

      “Lãnh chúa Steffon, tàu Jenna Rách Rưới, Tốc Kiếm, Lãnh chúa Cười và số con tàu khác ngược dòng lửa. cháy, nhưng khi dây xích được nâng lên, tàu đâu được nữa. số đầu hàng. Số khác chèo lên tận vịnh Xoáy Nước Đen, tránh xa khỏi trận chiến, nhưng rồi các thủy thủ cho tàu chìm để bị lọt vào tay của bọn Lannister. Tàu Jenna Rách Rưới và Lãnh chúa Cười vẫn cướp hàng sông, tôi nghe vậy, nhưng ai dám vậy nếu quả là có ?”

      “Phu nhân Marya?” Davos hỏi. “Hồn Ma nữa?”

      Salladhor Saan đặt tay lên cẳng tay của Davos và xiết chặt. “. Họ sao. tiếc, ông bạn ạ. Dale và Allard là những thanh niên tốt. Nhưng hy vọng điều này an ủi ông phần nào – Devan là trong số những người được chúng tôi đưa lên tàu lúc cuối cùng. Cậu bé dũng cảm ấy chưa từng rời phe nhà vua, hoặc là bọn họ vậy đấy.”

      Trong giây, ông cảm thấy choáng váng, nhõm của ông gần như sờ thấy được. Ông rất sợ dám hỏi gì về Devan. “Đức Mẹ khoan dung. Salla, tôi phải gặp ngài. Tôi phải gặp ngài thôi.”

      “Đúng,” Salladhor Saan . “Và ông cũng muốn giương buồm Cape Wrath, để gặp vợ và các con ông. Chắc hẳn ông phải có con tàu mới.”

      “Nhà vua cho tôi con tàu,” Davos .

      Gã Lyseni lắc đầu. “ về tàu, nhà vua có con tàu nào hết, còn Salladhor Saan có vô khối. Tàu của nhà vua đều cháy rụi sông, còn tàu của tôi . Ông bạn cũ, ông con tàu. Và ông giương buồm vì tôi, phải ? Ông nhảy tót lên con tàu Braavos, Myr và Volantis trong đêm tối, khi ai nhìn thấy, và lại nhảy múa với nào lụa là, nào gia vị. Rồi chúng ta rủng rỉnh tiền tiêu.”

      “Salla, ông tử tế lắm, nhưng bổn phận của tôi là phục vụ vua, phải phục vụ túi tiền của ông. Chiến tranh tiếp diễn. Stannis vẫn là người thừa kế hợp pháp thể theo mọi luật định của Bảy Phụ Quốc.”

      “Luật định ích gì khi thuyền tàu bị thiêu rụi hết, tôi cho là vậy. Và vị vua của ông, ừm, ông thấy ngài ấy thay đổi lắm. Kể từ khi diễn ra trận chiến, ngài ấy gặp ai, chỉ ngồi rịt trong Trống Đá thôi. Hoàng hậu Selyse cùng với ông cậu của người là Lãnh chúa Alester nhiếp chính thay ngài ấy, và ngài lãnh chúa này tự phong cho mình là quân sư. Hoàng hậu cũng giao con dấu cho ông cậu, để đóng vào những bức thư mà ông ấy viết, và đóng cả vào tờ giấy da xinh đẹp của tôi nữa. Nhưng họ trị vì vương quốc bé , nghèo nàn và vững bền. Ở đó đâu có vàng, thậm chí mẩu vàng để trả ơn cho Salladhor Saan cũng có, với vài hiệp sĩ mà chúng tôi cứu lúc cuối cùng, tàu thuyền, trừ mấy con tàu dũng cảm của tôi.”

      cơn ho đau buốt bất ngờ khiến Davos co gập người lại. Salladhor Saan bước đến giúp, nhưng ông xua tay cần, và lấy lại sức sau giây. “ ai sao?” ông khò khè hỏi. “Ý ông là sao, ngài ấy gặp ai sao?” Giọng ông khản đặc, và trong thoáng, buồng thuyền trưởng lại chao đảo trước mắt ông.

      ai, trừ ta,” Salladhor Saan , và Davos cần hỏi xem ta là ai. “Ông bạn ơi, ông tự làm khổ mình kìa. Ông cần chiếc giường, chứ phải Salladhor Saan đâu. chiếc giường và nhiều chăn đệm, với miếng gạc nóng để làm ấm ngực, thêm rượu và thêm đinh hương nữa.”

      Davos lắc đầu. “Tôi ổn thôi. Salla, cho tôi biết , tôi cần phải biết. ai trừ Melisandre sao?”

      Gã Lyseni nhìn ông hồi lâu, vẻ hoài nghi, và miễn cưỡng tiếp. “Cận vệ cho ai vào, kể cả hoàng hậu và công chúa. Đầy tớ dọn bữa mà ai ăn.” Ông nhướn người ra trước và hạ thấp giọng. “Tôi nghe được nhiều chuyện kỳ quái lắm, về những ngọn lửa đói bên trong ngọn núi, về chuyện Stannis và mụ đàn bà mặc đồ đỏ ấy cùng nhau xuống núi để quan sát lửa như thế nào. Nhiều giáo mác lắm, họ vậy, và những cầu thang bí mật theo suốt trung tâm ngọn núi, ở trong những vị trí nóng bỏng mà chỉ có ta mới bước qua mà bị thiêu rụi. Quả là quá nhiều nỗi kinh hoàng đối với người đàn ông già như vậy, đến mức đôi lúc ngài ấy còn có đủ sức lực để ăn.”

      Melisandre. Davos rùng mình. “Ả nữ tu đỏ làm như vậy với ngài,” ông . “ ta cho lửa đến phá hủy chúng ta, để trừng phạt Stannis vì gạt ta sang bên, để cho ngài biết rằng ngài đừng mong thắng trận nếu có trò ma thuật của ta.”

      Gã Lyseni chọn quả ô-liu mập mạp trong bát. “Ông phải là người đầu tiên như vậy, ông bạn ạ. Nhưng nếu tôi là ông, tôi lớn tiếng vậy đâu. Dragonstone giờ nhung nhúc người của ta, đúng vậy đấy, tai bọn họ thính lắm, nhưng dao của bọn họ còn bén hơn nhiều.” Gã thả tọp quả ô-liu vào miệng.

      “Tôi cũng có dao. Thuyền trưởng Khorane tặng cho tôi.” Ông lôi con dao găm ra và đặt bàn giữa hai người. “ con dao để cắt ngang lồng ngực của Melisandre. Nếu ta thực có tim.”

      Salladhor Saan bóc hột ô-liu ra. “Davos ơi, ông Davos thông thái ơi, ông nên những điều như thế, dù chỉ là đùa.”

      “Tôi đùa. Tôi giết ta.” Nếu ta có thể bị giết bởi những vũ khí có thể giết chết con người bình thường. Davos biết liệu có thể như thế . Ông thấy Maester Cressen bỏ chất độc vào rượu của ta, ông tận mắt nhìn thấy, nhưng khi cả hai người cùng uống rượu bị tẩm độc, chỉ có vị học sĩ chết, còn ả nữ tu đỏ . Nhưng, con dao cắm phập vào tim… ngay cả quỹ dữ cũng có thể bị giết bởi thép lạnh, các nhà thơ như vậy.

      “Ông bạn ạ, những lời như thế nguy hiểm lắm,” Salladhor Saan cảnh báo ông. “Tôi nghĩ ông vẫn còn say sóng. Cơn sốt cuốn phăng trí khôn của ông rồi. Tốt nhất là ông nên nằm giường nghỉ ngơi lâu lâu chút, cho đến khi ông khỏe hơn.”

      Cho đến khi quyết tâm của tôi yếu , ý ông là vậy đấy. Davos đứng lên. Ông thấy cơ thể mình nóng ran, và hơi chóng mặt, nhưng điều đó quan trọng. “Ông là gã xỏ lá bội bạc, Salladhor Saan ạ, nhưng ông cũng là người bạn tốt lắm.”

      Gã Lyseni vuốt bộ ria bạc. “Vậy là, vì người bạn già này, ông ở lại chứ?”

      , tôi .” Ông lại ho sù sụ.

      ư? Ông nhìn mình xem! Ông ho sù sụ, chân tay run lẩy bẩy, người còm nhom và yếu xìu. Ông đâu nào?”

      “Đến lâu đài. Giường của tôi ở đó, và cả con trai tôi nữa.”

      “Và cả ả nữ tu đỏ nữa,” Salladhor Saan đầy châm chọc. “Ả ta cũng ở trong lâu đài mà.”

      ta cũng ở trong đó.” Davos nhét dao găm vào bao.

      “Lão buôn hành ơi, ông biết gì về chuyện chém giết nào? Ông lại bệnh, đến cầm dao cũng nổi. Ông có biết chuyện gì xảy ra nếu ông bị bắt ? Trong khi chúng ta bị cháy rụi sông, hoàng hậu thiêu rụi những kẻ phản bội. Tôi tớ của bóng đêm, hoàng hậu gọi bọn họ là vậy, ôi, những con người tội nghiệp, và ả đàn bà đỏ hát vang trong khi ngọn lửa được đốt lên.”

      Davos hề ngạc nhiên. Ta biết, ông thầm nghĩ, ta biết trước khi ông với ta. “ ta lôi Lãnh chúa Sunglass từ căn ngục lên,” ông đoán, “và cả các con trai của Hubard Rambton nữa.”

      “Đúng vậy, và hỏa thiêu bọn họ, y như ta hỏa thiêu ông thôi. Nếu ông giết ả nữ tu đỏ ấy, bọn họ hỏa thiêu ông để trả thù, và nếu ông giết ả thành, bọn họ thiêu ông vì dám làm vậy. Ả hát vang, còn ông gào thét, và chết ngắc. Mà ông vừa mới sống trở lại với đời!”

      “Và đó là lý do,” Davos . “Để làm việc này. Để kết liễu Melisandre vùng Asshai và kết thúc những việc mà ta làm. Biển cả đưa tôi trở lại vì lý do nào khác nữa? Salla, ông nắm Vịnh Xoáy Nước Đen y như tôi. vị thuyền trưởng nhạy bén nào lại đưa tàu ngang qua các mỏm đá và chấp nhận rủi ro để đáy tàu bị thủng. Vũ Điệu Shayala đáng ra bao giờ đến gần tôi được.”

      cơn gió thôi,” Salladhor Saan khăng khăng , “ cơn gió ngu muội, chỉ vậy thôi. cơn gió thổi tàu quá xa đến phía nam.”

      “Và ai gửi đến cơn gió ấy? Salla, Đức Mẹ chuyện với tôi.”

      Gã Lyseni luống tuổi chớp mắt nhìn ông. “Mẹ ông mất rồi…”

      “Mẹ biển cả ấy. Người ban cho tôi bảy đứa con trai, thế mà tôi lại để bọn chúng thiêu đốt người. Người chuyện với tôi. Chúng tôi gọi lửa lên, người vậy. Chúng tôi cũng gọi bóng tối lên. Tôi chèo thuyền đưa Melisandre vào giữa dòng của Storm’s End và nhìn ta gây tai họa.” Trong những cơn ác mộng, ông vẫn thấy cảnh ấy, hai bàn tay đen, gầy hốc hác với lấy đùi ta khi nó vặn vẹo chui ra khỏi cái bụng căng phồng của ta. “ ta giết Cressen, Lãnh chúa Renly và người đàn ông dũng cảm tên là Cormay Penrose, và ta cũng giết các con trai tôi nữa. Giờ đến lúc phải có người giết ta .”

      “Phải có ai đó,” Salladhor Saan . “Đúng thế, đúng thế, phải có ai đó. Nhưng phải ông. Ông yếu ớt như đứa bé con, và ông phải chiến binh. Ở lại , xin ông đấy, chúng ta trò chuyện nhiều hơn, và ông ăn thêm, và có lẽ, chúng ta giương buồm đến Braavos và thuê Kẻ Giấu Mặt làm việc này, được ? Còn ông, được, ông phải ngồi xuống và ăn thêm.”

      Ông ta khiến việc này thêm khó khăn đây, Davos mệt mỏi nghĩ, và khó để tranh cãi. “Salla, lòng dạ tôi chỉ nghĩ đến việc trả thù. còn chỗ để chứa thức ăn đâu. Để tôi . Vì tình bạn của chúng ta, hãy chúc tôi may mắn và để tôi .”

      Salladhor Saan ngồi xuống. “Ông phải người bạn đích thực. Khi ông chết, ai là người đem tro và xương của ông về cho vợ ông và với bà ấy rằng bà ấy mất chồng và bốn đứa con trai? Chỉ là lão già Salladhor Saan sầu muộn này thôi. Nhưng này, lão hiệp sĩ liều mạng kia, ông lao xuống mồ của ông . Tôi nhét xương của ông vào túi và đưa lại cho mấy đứa con trai còn lại của ông, để tụi nó cho vào bao mà đeo lủng lẳng quanh cổ.” Ông ta vung vẩy bàn tay đầy nhẫn nóng giận. “ , , .”

      Davos muốn như thế này. “Salla…”

      . Nếu hãy ở lại, tốt hơn là như vậy, nhưng nếu ông định , ngay .”

      Ông quay người bước .

      Đoạn đường từ Vụ Mùa Bội Thu đến cổng Dragonstone rất dài, và độc. Những con đường ở khu vực bến cảng, nơi trước đây binh lính, thủy thủ và đám đông xúm xít giờ trống và hoang tàn. Nơi mà ông từng bước trong tiếng lợn kêu eng éc và gà kêu ríu rít quanh chân, giờ chỉ có chuột chạy nhốn nháo. Đôi bàn chân ông mệt mỏi muốn nhấc lên, và cơn ho hành hạ tệ đến mức ông phải dừng lại nghỉ. ai đến giúp ông, cũng ai ngó ra khỏi cửa sổ để xem xảy ra chuyện gì. Các cửa sổ đóng chặt, cửa ra vào cài then, và hơn nửa các ngôi nhà treo đồ tang. Hàng ngàn người giương thuyền lên Xoáy Nước Đen, nhưng chỉ có vài trăm người trở lại. Các con trai ta chết đơn độc. Cầu xin Đức Mẹ ban phước lành cho tất cả những người xấu số.

      Khi đến cổng lâu đài, ông thấy cổng cũng bị đóng chặt. Davos nắm tay đập thình thịch lên núm cửa. ai trả lời, ông lại đá liên tục vào cửa. Mãi sau mới có người cầm nỏ xuất bên thành và ngó xuống dưới giữa hai miệng máng xối tháp. “Ai?”

      Ông ngửa cổ ra sau và chụm hai bàn tay quanh miệng. “Ser Davos Seaworth đến gặp nhà vua.”

      “Ông say hả? Cút và đừng có đập cửa nữa.”

      Salladhor Saan cảnh báo ông rồi. Davos thử cách khác. “Đến gặp con trai tôi. Devan, cận vệ của nhà vua.”

      Gã lính gác cau mày. “Ông ông tên gì?”

      “Davos,” ông hét lên. “Hiệp Sĩ Củ Hành.”

      Đầu gã lính gác biến mất và lúc sau lại nhô ra. “Cút . Hiệp Sĩ Củ Hành chết sông rồi. Tàu của ngài ấy cháy rụi rồi.”

      “Tàu của ngài ấy cháy rồi,” Davos đồng tình, “nhưng ngài ấy còn sống, và ngài ấy đứng ở đây. Jate có còn làm chỉ huy cổng ?”

      “Ai cơ?”

      “Jate Blackberry. Ông ta biết về tôi.”

      “Tôi chưa từng nghe đến ông ta. Chắc chết rồi.”

      “Lãnh chúa Chyttering vậy.”

      “Tôi biết ông ta. Ông ta chết cháy Vịnh Xoáy Nước Đen rồi.”

      “Hookface Will sao? Hay Hal Lợn Thiến?”

      “Chết cả rồi,” gã cầm nỏ , nhưng nét mặt gã thể ngoài nghi bất chợt. “Ông đợi đấy.” Ông ta lại biến mất.

      Davos đợi. Chết, chết hết rồi, ông chán nản nghĩ thầm và nhớ cái bụng trắng của Hal luôn thò ra bên dưới chiếc áo chẽn dính mỡ của ông ta, cùng với vết sẹo dài mà lưỡi câu cá để lại ngang mặt Will, và cả cung cách mà Jate luôn hạ mũ khi gặp đàn bà con , bất kể họ năm hay năm mươi tuổi, thuộc tầng lớp thượng lưu hay hạ lưu. Họ bị chết chìm hoặc chết cháy, cùng với các con trai của ta và hàng ngàn người khác, đều chết hết dưới suối vàng.

      Gã lính cầm nỏ đột ngột trở lại. “ quanh lỗ phá vòng vây và bọn họ cho ông vào.”

      Davos làm như được bảo. Lính canh dẫn đường cho ông vào trong đều là người lạ. Họ mang giáo, và áo ngực họ có con dấu hình cáo-và-hoa của Nhà Florent. Họ hộ tống ông đến Trống Đá như ông mong muốn, mà đến dưới mái vòm của Đuôi Rồng và xuống Vườn Aegon. “Đợi ở đây,” trưởng nhóm lính canh bảo ông.

      “Nhà vua có biết ta trở về ?” Davos hỏi.

      “Chẳng có gì hết. Đợi, ta bảo đợi.” Gã rời , đưa theo cả mấy lính canh cầm giáo.

      Vườn Aegon tỏa mùi thông dễ chịu, và những thân cây to cao, đen sì mọc lên tứ phía. Trong vườn cũng có hoa hồng dại, những bụi cây nhiều gai cao chót vót, và khoảng trũng để việt quất mọc lên.

      Tại sao bọn họ lại đưa ta đến đây? Davos băn khoăn.

      Sau đó ông nghe tiếng chuông kêu khẽ, cùng với tiếng cười khúc khích của trẻ , và bỗng nhiên, gã Mặt Sẹo đần độn thò đầu ra khỏi bụi cây, lóng ngóng chạy nhanh hết sức, còn công chúa Shireen chạy theo gót lão. “Ngươi quay lại đây ngay,” công chúa hét to sau lưng gã. “Sẹo, trở lại đây.”

      Khi tên ngốc nhìn thấy Daovs, giật mình dừng phắt lại, những quả chuông chiếc mũ thiếc có gạc của gã kêu ting ting. Nhảy lò cò từ chân nọ sang chân kia, gã hát, “Máu của thằng ngốc, máu của nhà vua, máu bắp đùi trinh nữ, nhưng dây xích cho khách và chuỗi vòng cho chú rể, phải phải phải.” Lúc đó Shireen gần như bắt được gã, nhưng vào đúng phút chót, gã lại nhảy lò cò qua bãi dương xỉ và biến mất giữa các thân cây. Công chúa chạy theo gót gã. Nhìn thấy họ khiến Davos mỉm cười.

      Ông lại bụm miệng ho khi hình dáng bé khác chui ra khỏi bờ giậu và lăn tròn vào đúng người ông, khiến ông ngã dúi dụi.

      Cậu bé cũng ngã, nhưng rồi đứng vọt dậy. “Ngươi làm gì thế?” cậu bé vừa hỏi vừa phủi phủi áo. Mái tóc đen nhánh xõa xuống cổ áo cậu, và cậu có đôi mắt xanh. “Ngươi nên chặn đường ta khi ta chạy.”

      “Phải,” Davos đồng ý. “Tôi nên.” cơn ho khác lại ập đến khi ông cố đứng lên.

      “Ngươi bệnh à?” Cậu bé cầm cánh tay ông và kéo ông lên. “Ta gọi ngài học sĩ nhé?”

      Davos lắc đầu. “ cơn ho. Rồi hết thôi.”

      “Chúng ta chơi trò và ác quỷ,” cậu bé giải thích. “Ta là ác quỷ. Trò trẻ con thôi, nhưng em họ lại thích. Ngươi có tên ?”

      “Ser Davos Seaworth.”

      Cậu bé nhìn ông từ đầu đến chân vẻ ngờ vực. “Ngươi có chắc đấy? Trông ngươi có vẻ gì là hiệp sĩ lắm.”

      “Thưa ngài, tôi là Hiệp Sĩ Củ Hành.”

      Đôi mắt xanh chớp chớp. “Vị hiệp sĩ với con tàu đen sao?”

      “Ngài biết chuyện đó sao?”

      “Trước khi ta chào đời, ngươi đưa bác Stannis của ta câu cá, khi Lãnh chúa Tyrell vây hãm bác.” Cậu bé đứng thẳng người lên. “Ta là Edric Storm,” cậu tuyên bố. “Con trai của vua Robert.”

      “Hiển nhiên rồi.” Davos biết như vậy ngay từ lúc đầu. Cậu bé có đôi tai lồi lên của người Nhà Florent, nhưng mái tóc, đôi mắt, quai hàm, xương má đều của Nhà Baratheon.

      “Ngươi biết cha ta ?” Edric Storm hỏi.

      “Thần nhìn thấy ngài rất nhiều lần khi yết kiến ông bác của người, nhưng tôi và ngài chưa bao giờ trò chuyện.”

      “Cha dạy ta chiến đấu,” cậu giọng đầy tự hào. “Hầu như năm nào cha cũng đến gặp ta, và thi thoảng cha và ta còn tập luyện cùng nhau nữa. Vào ngày đặt tên họ cho ta, cha gửi cho ta búa chiến giống y của người, nhưng hơn chút. Nhưng bọn họ bắt ta để nó lại ở Storm’s End rồi. Có là bác Stannis ta chặt ngón tay của ngươi ?”

      “Chỉ chặt đốt đầu tiên thôi. Thần vẫn còn các ngón tay, nhưng ngắn hơn thôi.”

      “Cho ta xem .”

      Davos cởi găng tay ra. Cậu xem xét bàn tay kĩ lưỡng. “Bác chặt ngón cái của ngươi à?”

      .” Davos ho. “, ngài chặt ngón cái.”

      “Bác nên chặt bất cứ ngón tay nào của người,” cậu bé . “Đó là hành động xấu.”

      “Thần là kẻ buôn lậu.”

      “Phải, nhưng ngươi buôn lậu cá và hành cho bác ấy mà.”

      “Lãnh chúa Stannis phong hiệp sĩ cho thần vì hành, và chặt ngón tay thần vì thần buôn lậu.” Ông lại găng tay vào.

      “Cha ta bao giờ chặt ngón tay của ngươi.”

      “Đúng vậy, thưa ngài.” Robert hoàn toàn khác Stannis, đúng là vậy. Cậu bé rất giống ngài. Ừ, và giống Renly nữa. Ý nghĩ ấy khiến ông lo lắng.

      Cậu nhóc định gì đó thêm khi họ nghe thấy tiếng bước chân. Davos quay người lại. Ser Axell Florent xuống đường vào vườn cùng với mười hai quân lính mặc áo choàng. áo ngực họ có hình trái tim rực lửa của Thần Ánh Sáng. Quân của thái hậu, Davos thầm nghĩ. Cơn ho lại bất chợt ập đến.

      Ser Axell thấp và vạm vỡ, ngực nở, tay chắc, chân cong, và tai đầy lông. Cậu của thái hậu, ông ta là người cai quản thành trì Dragonstone thập kỷ nay, và luôn luôn cư xử nhã nhặn với Davos, vì biết ông được Lãnh chúa Stannis trọng dụng. Nhưng lần này, trong giọng của ông ta còn nhã nhặn nhàng nữa, “Ser Davos, và chưa bị chết chìm. Làm sao lại như thế được?”

      “Ser, hành vốn nổi mà. Ngài đến đưa tôi đến gặp nhà vua sao?”

      “Ta đến đưa ngươi xuống nhà ngục.” Ser Axell ra hiệu cho lính lên trước. “Bắt , và lấy dao của . có ý định giết phu nhân của chúng ta.”

      JAIME


      Jaime là người đầu tiên chú ý đến quán trọ. Tòa nhà chính đổ ập bờ biển phía nam, nơi con sông uốn khúc, chái nhà thấp, dàn trải dưới nước như thể nó muốn ôm chầm lấy những lữ khách giương buồm xuôi dòng. Tầng dưới là đá xám, tầng cao là gỗ quét vôi trắng, mái nhà lợp ngói đen. thấy cả chuồng ngựa, và khoảng râm mát toàn cây leo. “Ống khói có khói,” chỉ tay khi bọn họ đến gần. “Cửa sổ có đèn.”

      “Lần cuối cùng tôi ngang đây quán trọ vẫn mở cửa,” Ser Cleos Frey . “Họ ủ rượu ngon lắm. Biết đâu trong hầm rượu vẫn còn chút ít.”

      “Có thể có cả người nữa,” Brienne . “Họ nấp. Hoặc chết rồi.”

      “Sợ mấy xác chết sao em nhà quê?” Jaime .

      ta trừng mắt nhìn . “Ta tên là…”

      “Brienne, biết rồi. thích ngủ giường đêm sao, Brienne? Chúng ta an toàn hơn là ở con sông mênh mông thế này, và cũng khôn ngoan khi tìm hiểu xem ở đây xảy ra chuyện gì.”

      ta trả lời, nhưng lát sau, ta đẩy bánh lái để xoay thuyền về vũng tàu đậu bằng gỗ bạc màu vì thời tiết. Ser Cleos nhoài người hạ buồm. Khi thuyền khẽ va vào cầu tàu, Jaime leo theo ta, hết sức lóng ngóng vì dây xích.

      Cuối chỗ tàu neo đậu, mảnh ván ốp rơi khỏi trụ sắt, và mảnh ván được khắc chân dung vị vua quỳ, hai tay ông ta đan vào nhau. Jaime liếc nhìn và cười lớn. “Chúng ta thể tìm được quán trọ nào tốt hơn đâu.”

      “Đây là quán trọ đặc biệt sao?” ngờ vực hỏi.

      Ser Cleos trả lời. “Đây là quán trọ Vua Quỳ. Nó được dựng lên đúng nơi mà vị vua cuối cùng của phương bắc quỳ xuống trước Aegon Nhà Chinh Phục để chịu khuất phục. Chính là hình ông ta trong mảnh ván đấy.”

      “Torrhen đem quyền lực của mình đến phương nam sau khi hai vị vua thất bại ở trận Cánh Đồng Cháy,” Jaime , “nhưng khi ông ta nhìn thấy rồng của Aegon và lực lượng quân của ngài ấy, ông ta chọn con đường khôn ngoan và quỳ xuống quy phục.” dừng lại khi nghe tiếng ngựa hí. “Trong chuồng có ngựa. Ít nhất con.” Và chỉ con là đủ để ta bỏ lại mụ nhà quê này sau lưng. “Cùng xem trong nhà có ai nhé?” cần đợi câu trả lời, Jaime bước lanh canh bến đậu tàu, ghé vai lên cửa và đẩy… và thấy mình mặt đối mặt với cái nỏ nặng trịch. Phía sau cây nỏ là chú lùn và chắc mập, khoảng mười lăm tuổi.

      “Sư tử, cá hay sói?” cậu ta hỏi.

      “Chúng tôi đợi gà trống thiến.” Jaime nghe thấy người đồng hành cùng mình bước tới ngay phía sau. “Nỏ là thứ vũ khí của kẻ nhát gan.”

      “Nó dư sức khiến cái then đâm thủng tim ông.”

      “Có thể lắm. Nhưng trước khi cậu bắn nó ông ta đây moi hết ruột gan cậu mà trải xuống đất.”

      “Nào, đừng làm cậu bé sợ chứ,” Ser Cleos .

      “Chúng ta hại gì cậu đâu,” . “Và chúng ta có tiền để mua đồ ăn thức uống.” lục lọi lấy đồng bạc trong bao ra.

      Cậu ta nhìn đồng xu ngờ vực, sau đó đưa mắt nhìn dây xích của Jaime. “Sao người này bị cùm?”

      “Vì giết vài gã cầm nỏ,” Jaime . “Ngươi có rượu ?”

      “Có.” Cậu ta hạ nỏ xuống chút. “Cởi đai đeo gươm và hạ gươm xuống, rồi chúng tôi mang thức ăn cho mấy người.” Cậu ta men xung quanh để ngó nghiêng ô cửa sổ hình thoi xem bên ngoài còn ai . “Đó là buồm của Nhà Tully.”

      “Chúng tôi đến từ Riverrun.” Brienne cởi khóa đeo gươm và để gươm rơi xuống sàn nhà. Ser Cleos cũng làm theo.

      người đàn ông với nước da vàng bủng, mặt mũi lỗ chỗ bước qua cửa hầm rượu, tay cầm con dao nặng thái thịt. “Ba người hả? Chúng tôi có đủ thịt ngựa cho ba người. Con ngựa già và hung hăng lắm, nhưng thịt nó vẫn còn tươi.”

      “Có bánh mỳ ?” Brienne hỏi.

      “Có bánh mỳ cứng và bánh yến mạch.”

      Jaime cười khì. “Vậy là có ông chủ quán trọ trung thực. Quán trọ thường phục vụ bánh mỳ cũ và thịt dai nhách, nhưng hầu hết chẳng mấy người thừa nhận điều đó cả.”

      “Tôi phải chủ quán trọ. Tôi chôn ông ta phía sau rồi, cùng với vợ ông ấy nữa.”

      “Ông giết họ à?”

      “Nếu tôi có giết chẳng lẽ tôi lại cho các người biết sao?” người đàn ông đó đập tay vào nhau. “Có thể là họ bị sói, hoặc sư tử giết, nhưng như thế có gì khác đâu? Tôi và mụ vợ tôi thấy họ chết. Theo cách chúng tôi nhìn nhận bây giờ nơi này thuộc về chúng tôi.”

      “Thế vợ ông đâu?” Ser Cleos hỏi.

      Người đàn ông đó liếc nhìn vẻ ngờ vực. “Tại sao muốn biết điều đó? Bà ấy có ở đây… và ba người cũng như vậy, trừ khi tôi thích mùi vị đồng xu bạc của các người.”

      Brienne ném đồng bạc cho ông ta. Ông ta bắt lấy, cắn và cất nó . “ ta được thêm món,” cậu cầm nỏ .

      “Đúng thế. Nhóc, xuống tìm cho ta vài củ hành.”

      Cậu nhóc giơ nỏ lên bằng vai, liếc nhìn họ với vẻ mặt sưng sỉa rồi biến mất trong hầm rượu.

      “Con trai ông à?” Ser Cleos hỏi.

      “Chỉ là đứa bé mà vợ chồng tôi đưa vào đây thôi. Chúng tôi có hai con trai, nhưng đám sư tử giết đứa và đứa kia chết vì bệnh lỵ. Thằng mất mẹ vì lũ Dị Nhân Khát Máu. Những ngày này, người ta luôn cần có người canh gác trong khi ngủ.” Ông ta vẩy dao về phía bàn. “Mời ngồi.”

      Bếp lò lạnh tanh, nhưng Jaime chọn ghế ngồi gần đám tro nhất và duỗi đôi chân dài dưới gầm bàn. Tiếng kêu lanh canh từ dây xích vang lên theo từng cử động của . Thứ thanh gây bực mình. Rồi mình siết đám xích này quanh cổ mụ nhà quê, để xem ta khoái đám xích này đến đâu.

      Người đàn ông phải chủ quán trọ làm cháy đen ba miếng thịt ngựa to tổ chảng và nướng hành bằng mỡ thịt lợn xông khói, làm thành món bánh yến mạch nhạt nhẽo. Jaime và Cleos uống rượu, còn Brienne uống rượu táo. Cậu nhóc đứng ở xa, ngồi tít thùng đựng rượu, nỏ vắt ngang đùi. Người đầu bếp lôi ra cốc rượu và ngồi uống với ba người họ. “Ở Riverrun có tin gì ?” ông ta hỏi Ser Cleos và coi ta là trưởng nhóm.

      Ser Cleos liếc nhìn Brienne trước khi trả lời. “Lãnh chúa Hoster bệnh nặng, nhưng con trai ông ta chiến đấu sông Red Fork với quân Lannisters. Nhiều trận chiến lắm.”

      “Đâu đâu cũng đánh nhau. Ông định đâu?”

      “Vương Đô.” Ser Cleos chùi mỡ dính môi.

      Người chủ quán trọ khịt mũi. “Thế mấy người điên rồi. Lần cuối cùng tôi nghe được rằng vua Stannis ở bên ngoài tường bao thành phố. Họ ông ta có trăm ngàn quân và thanh gươm có phép thuật.”

      Hai bàn tay Jaime quấn quanh sợi xích buộc cổ tay, xoắn dây cho căng ra, mong muốn có đủ sức để giựt phăng xích làm đôi. Lúc đó ta cho Stannis biết nên cất thanh gươm phép thuật của vào đâu.

      “Nếu là mấy người tôi tránh xa vương lộ,” người đàn ông đó tiếp. “Tôi nghe ở đó tệ lắm. Có cả sói lẫn sư tử, và vô số người đào ngũ sẵn sàng bóc lột bất cứ ai bọn chúng bắt được.”

      “Lũ sâu mọt,” Ser Cleos với vẻ khinh bỉ. “Bọn chúng bao giờ dám làm phiền nhiễu đến những người có vũ trang.”

      “Xin lỗi ông, nhưng tôi thấy có người đàn ông có vũ trang cùng người phụ nữ và tù nhân bị xích chặt.”

      Brienne kín đáo liếc nhìn người đầu bếp. ta ghét bị nhắc cho nhớ rằng ta chỉ là ả nhà quê, Jaime nhận thấy nhiều đó, và lại xoắn dây xích. Sợi xích buộc mang lại cảm giác lành lạnh và cưng cứng da thịt , sắt thép êm ái gì cho cam. Sợi xích làm cổ tay phồng giộp lên.

      “Tôi định theo dòng Trident ra biển,” với người đầu bếp. “Chúng tôi tìm thấy ngựa ở Maidenpool và cưỡi ngựa theo đường Duskendale và Rosby. theo đường đó chúng tôi tránh xa được nguy cơ phải

      đánh nhau.”

      Người đầu bếp lắc đầu. “ bao giờ đến Maidenpool bằng đường sông được. Cách đây chưa tới ba mươi dặm, hai con thuyền bị cháy và chìm nghỉm, và con kênh bị nghẽn bùn rồi. Có hàng ổ kẻ sống ngoài vòng pháp luật ở đó, và chúng sẵn sàng trấn lột bất cứ ai dám qua đó, xuôi theo dòng sông đến Skipping Stones và Đảo Red Deer cũng vậy. Và mấy chỗ đó còn có lão Lãnh chúa Tia Chớp nữa. Lão chớp giật ấy băng sông bất cứ khi nào lão muốn, bao giờ chịu ngồi yên chỗ.”

      “Thế lão Lãnh chúa Tia Chớp ấy là ai vậy?” Ser Cleos Frey gặng hỏi.

      “Lãnh chúa Beric. Người ta gọi ông ấy như vậy vì ông ta đánh đột ngột lắm, y như chớp trời quang vậy. Người ta đồn ông ta thể chết.”

      Cứ thọc gươm xuyên người ai cũng chết hết, Jaime thầm nghĩ. “Thế Thoros vùng Myr còn với ông ta ?”

      “Có. Lão phù thủy mặc đồ đỏ. Tôi nghe lão ta có quyền năng lạ lắm.”

      Ừm, lão có quyền năng là đối thủ bàn rượu với Robert Baratheon, và có rất ít người có thể như thế. Có lần Jaime nghe Thoros với nhà vua rằng ông ta trở thành thầy tu đỏ vì áo choàng đỏ rất tiện che giấu các vết rượu bám. Robert cười to đến mức lão làm đổ đầy rượu ra áo khoác lụa của Cersei. “Tôi phản đối gì,” , “nhưng có lẽ Trident phải là lối an toàn nhất của chúng ta.”

      “Tôi rồi mà,” người đầu bếp nhất trí. “Ngay cả khi mấy người qua được đảo Red Deer và chạm trán phải Lãnh chúa Beric và lão phù thủy kia, vẫn còn con sông đầy bùn lầy trước mắt. Theo như tôi được biết, đám chó sói của Lãnh chúa Leech canh chừng chỗ ấy, nhưng đấy là ngày trước thôi. Lúc này có thể là sư tử, là Lãnh chúa Beric, hoặc bất cứ ai khác canh chừng.”

      “Hoặc chẳng có ai,” Brienne gợi ý.

      “Nếu cá cược da thịt mình về điều đó, tôi cản … nhưng nếu tôi là , tôi rời sông, bằng đường bộ. Nếu tránh xa các khung đường chính và nấp bên dưới cây ban đêm… ừm, tôi vẫn muốn với đâu, vì có thể đối đầu với toán lính câm.”

      có vẻ hồ nghi. “Chúng tôi cần ngựa.”

      “Ở đây có ngựa,” Jaime chỉ tay ra ngoài. “Tôi nghe tiếng ngựa hí trong chuồng.”

      “Ờ, có chứ,” chủ quán trọ , mặc dù ông ta thực là chủ quán. “Có ba con, nhưng tôi bán đâu.”

      Jaime cười ồ lên. “Đương nhiên là rồi. Nhưng thế nào ông cũng cho chúng tôi ngó qua cái.”

      Brienne quắc mắt, nhưng người đàn ông phải chủ quán trọ kia bắt gặp ánh mắt của ta trong chớp mắt, và sau giây, dù miễn cưỡng, ta cũng , “Cho tôi xem ngựa,” và bọn họ cùng đứng lên khỏi bàn.

      Chuồng ngựa được dọn khá lâu rồi, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Hàng trăm con ruồi đen bóng béo tròn bâu xúm xít quanh đống rơm, chúng đập cánh vo vo từ chuồng này sang chuồng kia và đậu các đống phân ngựa dày đặc trong chuồng, nhưng ở đó có đúng ba con ngựa. Chúng tạo thành bộ ba hợp lắm; con ngựa cày chậm chạp, màu nâu; con ngựa trắng với mắt bị đui, và con ngựa vằn dành cho hiệp sĩ, rất khỏe mạnh.

      “Tôi bán, dù bất cứ giá nào,” người chủ quán tuyên bố.

      “Làm cách nào ông có được mấy con ngựa này?” Brienne muốn biết.

      “Khi tôi và vợ đến đây, xe bò được cột trong chuồng ngựa,” người đàn ông đó , “cùng với con ngựa mà mấy người vừa ăn. tối nọ, con ngựa thiến lang thang và thằng kia bắt được con ngựa con chạy rông, lưng vẫn còn yên và dây cương. Đây, để tôi chỉ cho mấy người xem.”

      Chiếc yên ngựa mà ông ta cho họ xem được khảm bạc. Vải lót yên vốn màu hồng và đen ca-rô, nhưng giờ gần như chuyển thành màu nâu. Jaime nhận thấy màu sắc ban đầu của nó, nhưng dễ dàng nhận thấy vết máu vải. “Ừm, chủ con ngựa này đến lấy lại ngựa sớm đâu.” kiểm tra từ chân đến răng của con ngựa thiến. “Trả cho ông ta đồng vàng cho con ngựa xám, nếu có thêm yên ngựa,” khuyên Brienne. “ đồng bạc cho con ngựa cày. Ông ta nên trả tiền cho chúng ta vì đem con ngựa trắng khuất mắt ông ta.”

      “Ser, đừng khiếm nhã như vậy.” mở chiếc ví mà phu nhân Catelyn đưa cho và lấy ra ba đồng vàng. “Tôi trả cho ông mỗi con ngựa đồng vàng.”

      Ông ta chớp mắt và với tay lấy vàng, nhưng rồi ông ta ngập ngừng và rụt tay lại. “Tôi đắn đo. Tôi thể tiêu tiền vàng nếu tôi muốn chạy trốn. Và tôi cũng thể ăn đồng vàng nếu tôi đói.”

      “Ông lấy cả thuyền của chúng tôi cũng được,” . “Cứ giương buồm xuôi hoặc ngược sông như ông muốn.”

      “Để tôi cắn thử đồng vàng .” Người đàn ông đó lấy đồng vàng trong lòng bàn tay và cắn thử. “Ừm. Vàng . Ba đồng vàng và cả con thuyền sao?”

      em nhà quê ơi, bị cướp giữa ban ngày kìa,” Jaime vẻ hòa nhã.

      “Tôi muốn thức ăn dự phòng,” Brienne với ông ta, phớt lờ Jaime. “Tôi mua hết những thức ăn ông cất giữ.”

      “Còn nhiều bánh yến mạch nữa.” Người đàn ông đó nhón nốt hai đồng vàng trong tay ta và xóc xủng xoảng trong nắm tay, cười hì hì trước tiếng lanh canh của ba đồng vàng. “À, có cả cá xông khói nữa, nhưng phải trả thêm đồng bạc cho món đó. Ngủ ở giường của tôi cũng mất tiền. Các người muốn ngủ đêm ở đây.”

      ,” Brienne ngay.

      Người đàn ông đó cau mày với . “ này, chắc chắn muốn cưỡi ngựa vào ban đêm mảnh đất xa lạ hay những con ngựa mà chưa quen. Rất có thể lao xuống đầm lầy hoặc làm gãy chân ngựa đấy.”

      “Đêm nay trăng sáng,” Brienne . “Chúng tôi dễ dàng tìm được đường .”

      Người chủ ngẫm nghĩ. “Nếu có bạc, mấy xu tiền đồng cũng đủ mua giường, và hoặc hai cái khăn phủ giường giữ ấm nữa. giống như tôi đuổi khách đâu, nếu hiểu ý tôi.”

      “Nghe có vẻ hay đấy,” Ser Cleos .

      “Khăn phủ giường được giặt sạch rồi. Bà vợ tôi giặt đâu ra đấy trước khi ra ngoài. có con bọ chét nào đâu, tôi chắc chắn đấy.” Ông ta lại xóc xóc mấy đồng vàng và tủm tỉm cười.

      Ser Cleos có vẻ thích thú. “ này, chiếc giường thích hợp cũng tốt cho chúng ta,” ta với Brienne. “Sáng mai, sau khi nghỉ ngơi lấy sức, chúng ta lên đường nhanh hơn.” liếc nhìn gã em họ để mong được ủng hộ.

      , ông ạ, em nhà quê đúng. Chúng ta phải giữ lời hứa và nhiều dặm đường dài chờ phía trước. Chúng ta phải ngay.”

      “Nhưng,” Cleos , “ …”

      “Lúc đó thôi.” Lúc tôi tưởng quán trọ này bị bỏ hoang. “Giờ tôi no bụng rồi, và cưỡi ngựa dưới ánh trăng vui lắm.” mỉm cười với quê. “Nhưng trừ khi định ném tôi lên lưng con ngựa kéo cày kia như ném bao bột mỳ, phải có ai làm gì đó với đám dây xích này. Cưỡi ngựa mà hai chân bị xích vào nhau khó lắm.”

      Brienne cau mày nhìn sợi xích. Người đàn ông phải chủ quán trọ xoa xoa quai hàm. “Phía sau chuồng ngựa có lò rèn đấy.”

      “Chỉ đường cho tôi,” Brienne .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Phải,” Jaime , “càng sớm càng tốt. Trong này nhiều phân ngựa thối quá. Tôi ghét phải giẫm lên phân.” nhìn quê bằng ánh mắt sắc nhọn, tự hỏi liệu ta có đủ thông minh để hiểu hàm ý của .

      những mong ta cũng chặt đứt dây xích ở hai cổ tay nữa, nhưng Brienne vẫn hoài nghi. ta chặt đứt đúng đoạn giữa sợi xích chân bằng sáu nhát chặt mạnh từ chiếc búa của thợ rèn được gắn vào chuôi cái đục sắt. Khi gợi ý nên chặt luôn cả sợi xích tay, ta phớt lờ .

      xuôi dòng thêm sáu dặm nữa các người thấy ngôi làng bị thiêu rụi,” người chủ quán khi ông ta giúp họ đặt yên ngựa và chất đồ ăn. Lần này ông ta khuyên Brienne. “Đoạn rẽ đằng kia. Nếu rẽ hướng nam, đến tháp đá của Ser Warren. Ser Warren chết rồi, nên tôi biết giờ ai làm chủ, nhưng tốt nhất là nên tránh xa chỗ đó . Tốt hơn là nên theo đường rừng.”

      “Chúng tôi đường rừng,” trả lời. “Cám ơn ông nhiều lắm.”

      đúng hơn, là ông ta có vàng của . Jaime giữ kín suy nghĩ đó. phát chán khi bị người phụ nữ thô kệch đó phớt lờ.

      ta chọn con ngựa kéo và chỉ định con ngựa cho Ser Cleos. Như được cảnh cáo, Jaime kéo con ngựa thiến mù mắt về phía mình, và điều đó đặt dấu chấm hết cho mọi ý nghĩ của về việc đá mạnh vào hông ngựa và phi nước kiệu, để ả nhà quê tha hồ hít bụi.

      Người đàn ông kia và thằng ra ngoài nhìn họ rời . Người đàn ông chúc họ may mắn và với họ nên trở lại vào thời điểm tốt hơn, còn cậu nhóc đứng im, cái nỏ đặt dưới cánh tay. “Cầm giáo hoặc vồ ấy,” Jaime , “ tốt hơn cho cậu.” Cậu ta nhìn mấy tin tưởng. Quá nhiều cho lời khuyên thân thiện. nhún vai, quay đầu ngựa và hề nhìn lại.

      Ser Cleos phàn nàn ngớt khi họ cưỡi ngựa , và vẫn rên rỉ vì chiếc giường đệm lông hụt. Họ cưỡi ngựa theo hướng đông, dọc bờ sông sáng trăng. Ở đoạn này sông Red Fork rộng lắm, nhưng nông, bờ sông toàn bùn và lau sậy. Con ngựa của Jaime nặng nhọc bước theo, vẻ bình thản, mặc dù con ngựa già những muốn lệch sang phía mắt sáng của nó. Được cưỡi ngựa lại sung sướng. được cưỡi ngựa từ khi các cung thủ của Robb Stark bắn chết con chiến mã của ở rừng Whispering.

      Khi họ đến ngôi làng bị cháy, họ phải đối mặt với lựa chọn về những con đường mấy hy vọng y như nhau; những con đường hẹp, bị lún sâu bởi xe bò chở thóc của nông dân. con đường chạy về hướng đông nam và nhanh chóng biến mất giữa rừng cây mà họ nhìn thấy phía xa xa, trong khi con đường khác, trông thẳng hơn và nhiều đá hơn, chạy về hướng nam. Brienne cân nhắc nhanh và quay ngựa về hướng nam. Jaime ngạc nhiên đầy vẻ thích thú; nếu là , cũng chọn hướng đó.

      “Nhưng đây là con đường mà lão chủ quán cảnh báo chúng ta,” Ser Cleos phản đối.

      phải chủ quán.” cúi xuống yên ngựa vẻ khiếm nhã, nhưng dường như chỗ ngồi rất chắc chắn. “ ta có vẻ quá quan tâm đến việc lựa chọn đường của chúng ta, và những khu rừng đó… đầy rẫy những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Có thể thúc giục chúng ta lọt vào chiếc bẫy nào đó.”

      em nhà quê thông minh đấy.” Jaime cười với ông họ. “Ta dám cá là lão ta có bạn bè ở đường đó. Những kẻ là chủ của mấy con ngựa khiến cho chuồng ngựa có mùi hôi đáng nhớ.”

      “Có thể cũng bốc phét về con sông nữa, khiến chúng ta phải mua mấy con ngựa này,” ta , “nhưng ta thể chấp nhận rủi ro được. Ở khúc sông cạn và giao lộ có thể có lính canh.”

      Ừm, trông xấu xí nhưng ta cũng ngu lắm. Jaime dành cho ta nụ cười miễn cưỡng.

      Tít xa phía dưới có ánh sáng đỏ hắt ra từ các ô cửa sổ cao của ngôi nhà đá, và Brienne dẫn họ đường đồng. Chỉ khi ngôi nhà đó bị bỏ lại khuất phía sau, họ mới chui ra khỏi cánh đồng và tìm lại đường .

      Nửa đêm trôi qua trước khi đồng ý là đến lúc an toàn để nghỉ. Đến lúc đó, cả ba người bọn họ đều mệt rũ yên ngựa. Họ dừng tạm bên dưới lùm cây sồi và cây tần bì bên cạnh con suối chảy chậm. Đêm bình yên đến lạ. Vầng trăng khuyết treo lủng lẳng bầu trời đen với vô số các vì sao. Phía xa xa đâu đó, vài con sói hú gọi. trong ba con ngựa bồn chồn hí lên. còn thanh gì khác. Chiến tranh vẫn chưa tới được nơi này, Jaime thầm nghĩ. vui khi được ở đây, vui khi được sống, và vui khi được trở về bên Cersei.

      “Ta trực phiên gác đầu tiên,” Brienne với Ser Cleos và chàng Frey nhanh chóng ngáy khò khò.

      Jaime ngồi dựa người vào thân cây sồi và tự hỏi Cersei và Tyrion làm gì. “Này, chị em gì ?” hỏi.

      Brienne ngờ vực liếc sang . “. Ta là con độc nhất của cha tôi.”

      Jaime cười thầm. “Là con trai độc nhất của cha , ý là vậy. Ông ấy có nghĩ là con trai ? giống con chút nào.”

      rằng, quay lưng về phía , các khớp ngón tay nắm chặt lấy chuôi gươm. Đúng là thân hình quê mùa xấu xí. Kể cũng lạ, ta khiến nhớ đến Tyrion, mặc dù nếu chỉ liếc qua ai nghĩ hai người này lại có điểm tương đồng. Có lẽ chính ý nghĩ về cậu em trai khiến , “Tôi định có ý khiếm nhã gì đâu, Brienne. Thứ lỗi cho tôi nhé.”

      “Sát Vương, tội ác của ngươi thể tha thứ được.”

      “Lại là tên đó rồi.” Jaime vơ vẩn vân vê sợi xích. “Sao lại giận ta đến thế? Ta làm gì hại đến đâu.”

      “Ngươi làm hại những người khác. Làm hại những người mà ngươi thề bảo vệ họ. Những người yếu đuối, những người vô tội…”

      “… nhà vua sao?” Lại là Aerys. “ đừng có đánh giá điều mà hiểu, quê mùa ạ.”

      “Tên ta là…”

      “Brienne, phải rồi. có ai với vừa tẻ nhạt vừa xấu xí chưa?’

      “Ngươi thể kích động cho ta giận lần nữa đâu, Sát Vương.”

      “Ồ, có chứ, nếu ta cứ thích cố.”

      “Tại sao ngươi lại tuyên thệ?” hỏi. “Tại sao ngươi lại khoác áo trắng khi ngươi định phản bội lại mọi điều trong lời thề?”

      Tại sao ư? biết sao cho ta hiểu đây? “Lúc đó ta chỉ là thằng nhóc con. Mới mười lăm tuổi. Đó là vinh hạnh lớn cho đứa trẻ ít tuổi đến vậy.”

      “Đó phải câu trả lời,” ta đầy vẻ khinh bỉ.

      thích nghe rồi. gia nhập Ngự Lâm Quân vì tình , hiển nhiên là vậy.

      Cha triệu Cersei đến cung điện khi nàng mới mười hai tuổi, với hy vọng chọn được cho nàng đám cưới hoàng gia. Cha từ chối mọi lời dạm hỏi, vì cha thích giữ nàng ở Tháp Quân Sư khi nàng lớn hơn, trưởng thành hơn và xinh đẹp hơn. Chắc chắn vì cha đợi hoàng tử Viserys trưởng thành, hoặc đợi vợ của Rhaegar chết giường đẻ. Elia ở xứ Dorne phải là người phụ nữ khỏe mạnh.

      Trong khi đó, Jaime làm cận vệ được bốn năm cho Ser Sumner Crakehall và rất nổi tiếng sau cuộc chiến với Em Rừng Vương. Nhưng khi ghé qua Vương Đô đường đến Casterly Rock, chủ yếu để gặp em , Cersei đến gặp riêng và khẽ nhủ rằng Lãnh chúa Tywin có ý định gả cho Lysa Tully, và thậm chí cha mời Lãnh chúa Hoster đến thành phố để thảo luận về của hồi môn. Nhưng nếu Jaime chấp thuận khoác chiếc áo trắng, luôn luôn được ở gần nàng. Ser Harlan Grandison già chết trong lúc ngủ, và việc đó quả là thích hợp cho người có con dấu là con sư tử ngủ. Aerys cần lính trẻ thay thế vị trí của ông ta, vậy tại sao chọn con sư tử gầm thay thế cho con sư tử ngủ?

      “Cha bao giờ đồng ý,” Jaime phản đối.

      “Nhà vua hỏi . Và khi việc xong xuôi rồi, cha thể ra mặt phản đối. Aerys sai Ser Ilyn Payne tung tin đồn rằng quân sư mới thực là người cai trị Bảy Phụ Quốc. Chỉ huy của đội lính bảo vệ quân sư, vậy mà cha vẫn dám thử và ngừng ngay việc đó lại! Người ngừng việc này lại đâu.”

      “Nhưng,” Jaime , “còn Casterly Rock…”

      “Chàng muốn tòa lâu đài ấy? Hay là em?”

      vẫn nhớ như in buổi tối hôm đó, cứ như mới vừa hôm qua thôi. Họ ở bên nhau trong quán trọ cũ ở Eel Alley, tránh xa những cặp mắt soi mói. Cersei đến bên trong bộ đồ của quê phục vụ đơn giản, và hình hài mới này của nàng còn khiến phấn khích hơn nữa. Jaime chưa bao giờ thấy nàng nồng nàn hơn thế. Mỗi khi ngủ, nàng lại khiến tỉnh giấc. Đến sáng hôm sau, Casterly Rock dường như chỉ là cái giá quá thấp phải trả để được ở bên nàng mãi mãi. đồng ý, và Cersei hứa làm phần còn lại.

      mùa trăng sau, con quạ đưa tin của hoàng gia đến Casterly Rock thông báo được chọn vào Ngự Lâm Quân. được cầu đến diện kiến vua trong cuộc đua ngựa lớn tại Harrenhal để tuyên thệ và mặc

      áo khoác.

      Lễ phong chức của Jaime giải phóng khỏi Lysa Tully. Nhưng, ngoài việc đó ra, có việc gì diễn ra như dự kiến. Cha chưa bao giờ giận hơn thế. Cha thể công khai phản đối – Cersei dự đoán đúng – nhưng cha viện cớ từ bỏ vị trí quân sư và trở về Casterly Rock, đưa theo con về cùng. Thay vì được ở bên nhau, Cersei và Jaime chỉ hoán đổi chỗ ở, và thấy mình đơn độc tại cung điện, khi phải bảo vệ ông vua điên trong khi bốn người đàn ông kém cỏi hơn lần lượt thay nhau đảm nhiệm vị trí của cha trong khó nhọc. Vị trí quân sư thay đổi đến chóng mặt, khiến Jaime nhớ huy hiệu của họ hơn là nhớ khuôn mặt họ. Quân sư có huy hiệu tù và và quân sư quái-vật-sư-tử-đầu-chim đều bị lưu đày, còn quân sư có huy hiệu cây-gậy-và-dao-găm bị thiêu sống. Lãnh chúa Rossart là vị quân sư cuối cùng. Huy hiệu của ông ta là ngọn đuốc rực cháy; lựa chọn đen đủi, dựa theo số phận của người tiền nhiệm, nhưng nhà giả kim được trọng dụng bởi vì ông ta có cùng đam mê về lửa với nhà vua. Đáng ra ta phải cho Rossart chết chìm thay vì đâm thủng bụng ông ta.

      Brienne vẫn đợi câu trả lời của . Jaime , “ chưa đủ lớn để biết Aerys Targaryen…”

      ta nghe . “Aerys điên cuồng và tàn nhẫn, ai phủ nhận điều đó. Nhưng ông ta vẫn là vị vua được tôn vinh và được phong chức. Và ngươi thề bảo vệ ông ấy.”

      “Ta biết ta thề những gì.”

      “Và biết những việc ngươi làm.” Bóng ta ra lù lù trước mặt , khuôn mặt đầy tàn nhang, cao đến hai mét, mày mặt cau có, hàm răng ngựa nhe ra biểu thị phản đối.

      “Phải, và ta cũng biết những việc làm nữa. Ở đây, ta và đều là kẻ giết vua, nếu như những chuyện ta nghe được là có .”

      “Ta chưa bao giờ làm hại đến vua Renly. Ta giết gã ta giết vua thôi.”

      “Thế tốt nhất là nên hỏi Cleos. Và sau khi hỏi ta và nghe ta kể lại chuyện xong, phải giết khối người.”

      “Dối trá. Phu nhân Catelyn có mặt ở đó khi nhà vua bị giết, phu nhân nhìn thấy hết. Có cái bóng. Nến cháy hết và khí lạnh hơn, và có máu…”

      “Ồ, hay lắm.” Jaime cười. “Trí khôn của hơn cả ta đấy, ta phải thừa nhận thế. Khi họ thấy ta đứng bên ông vua chết, ta chưa bao giờ nghĩ mình , ‘, phải ta đâu, là cái bóng đấy, cái bóng lạnh khủng khiếp.’” lại cười ồ. “ cho ta biết , với tư cách là kẻ giết vua với kẻ giết vua ấy, Nhà Stark trả bao nhiêu để rạch họng ông ta, hay đó là Stannis? Hay Renly hắt hủi ? Hay lúc đó máu kinh của dính lên người ? Đừng bao giờ đưa cho ả quê thanh gươm khi ta đến tháng.”

      Trong giây, Jaime nghĩ Brienne có thể đánh . Chỉ cần bước bước lại gần đây, ta vồ lấy con dao găm trong bao của ả và đâm vào bụng ả. co chân lại, sẵn sàng đạp mạnh, nhưng kia động đậy. “Được phong hiệp sĩ là món quà hiếm và vô cùng quý giá,” , “và được phong hiệp sĩ của Ngự Lâm Quân còn quý giá hơn nhiều. Món quà ấy được trao cho rất ít người, và là món quà mà ngươi chối bỏ và làm vấy bẩn.”

      món quà mà ngươi thèm khát đến vô vọng, ả nhà quê ạ, và bao giờ ngươi có được. “Ta phấn đấu để được phong hiệp sĩ. gì được trao cho ta cả. Mười ba tuổi ta chiến thắng trong cuộc đấu ngựa, khi ta chưa là cận vệ. Mười lăm tuổi, ta cưỡi ngựa với Ser Arthur Dayne chống lại Em Rừng Vương, và ngài ấy phong hiệp sĩ cho ta tại chiến trường. Chính chiếc áo khoác trắng ấy mới làm vấy bẩn ta, chứ phải ta làm vấy bẩn nó. Vì vậy, đừng có ghen tỵ với ta. Chính các vị thần mới là người cho có chim, chứ phải ta đâu.”

      Brienne nhìn với vẻ mặt đầy ghê tởm. Có thể ta sẵn sàng băm ta thành trăm mảnh, nhưng vì lời thề quý báu của mình, ta dám đâu. Tốt lắm. Ta cũng phát ớn vì lòng trung thành yếu ớt và mấy lời chỉ trích của đám đàn bà con rồi. nhà quê tuần xung quanh đầy vẻ hiên ngang mà thêm câu nào. Jaime cuộn tròn người bên dưới áo khoác, những mong được mơ thấy Cersei.

      Nhưng khi nhắm mắt ngủ, lại nhìn thấy Aerys Targaryen, ông ta mình tới lui trong phòng đặt ngai vàng, vừa vừa càu nhàu với bàn tay chảy máu và đóng vảy vì bị thương. Lão đần này lúc nào cũng bị đứt tay vì lưỡi dao và ngạnh của Ngai Sắt. Jaime bước vào qua lối dành cho nhà vua, mặc chiếc áo giáp màu vàng, tay cầm gươm. Đó là chiếc áo giáp vàng, phải áo trắng, nhưng ai nhớ đến điều đó. Giá mà ta cũng cởi bỏ được cái áo khoác khốn kiếp đó.

      Khi Aerys nhìn thấy máu lưỡi gươm, ông ta nhất quyết hỏi có phải đó là máu của Lãnh chúa Tywin . “Ta muốn phải chết, tên phản tặc. Ta muốn chặt đầu , ngươi mang đầu về cho ta, nếu ngươi bị chết như lũ người còn lại. Tất cả lũ phản tặc. Rossart bọn chúng ở bên trong thành! Ông ta dành cho chúng chào đón nồng nhiệt rồi. Máu của ai đây? Máu ai đây?”

      “Rossart,” Jaime trả lời.

      Đôi mắt tím đó mở to trừng trừng, và cái miệng của gã quý tộc há hốc vì sốc. Lão mất kiểm soát, quay lưng và chạy về phía ngai vàng. Bên dưới những đôi mắt trống rỗng của những chiếc đầu lâu tường, Jaime đẩy lão vua rồng cuối cùng xuống, lão kêu eng éc như con lợn và hôi thối như mùi nhà xí. nhát chém cắt ngang họng lão là tất cả để kết thúc lão. Dễ như bỡn, nhớ mình nghĩ như vậy. ông vua nên chết đau đớn hơn thế này. Ít nhất lúc chết Rossart cũng cố đấu tranh lại, mặc dù đúng ra, đánh đấm chẳng khác gì nhà giả kim. lạ là bọn họ chưa bao giờ hỏi ai giết Rossart… nhưng hiển nhiên là vậy rồi, chẳng là gì cả, sinh ra thấp kém, mới là quân sư trong nửa tháng, và là sở thích điên cuồng khác của lão vua điên thôi.

      Ser Elys Westerling, Lãnh chúa Crakehall và các hiệp sĩ khác của cha chạy vội vào hành lang kịp lúc nhìn thấy đoạn cuối của việc, vì vậy Jaime có cách nào tẩu thoát và tạo cơ hội cho kẻ khoác lác nào đó chớp lấy lời tán dương hoặc bị đổ lỗi. là bị đổ lỗi thôi, biết điều đó ngay khi nhìn cách bọn họ nhìn mình… mặc dù có thể, cách nhìn ấy thể nỗi sợ hãi. Dù là người mang họ Lannister hay vẫn là trong bảy lính Ngự Lâm Quân của Aery.

      “Ser, lâu đài và thành phố là của chúng ta,” Roland Crakehall với , và điều đó chẳng đúng lắm. Những kẻ trung thành với Targaryen chết các bậc thang quanh co và kho vũ khí, Gregor Clegane và Amory Lorch leo lên tường bao quanh công Maegor, và Ned Stark dẫn đầu đoàn quân phương bắc qua Cổng Thành, nhưng Crakehall chắc chắn biết điều đó. ta có vẻ bất ngờ khi thấy Aerys chết; Jaime là con trai của Lãnh chúa Tywin rất lâu trước khi đứng trong hàng ngũ Ngự Lâm Quân.

      với bọn họ rằng ông Vua Điên chết,” ra lệnh. “Giam giữ hết những người đầu hàng.”

      “Tôi có nên tuyên bố vị vua mới ?” Crakehall hỏi, và Jaime hiểu câu hỏi đó đơn giản là: Vua mới là cha ngươi, hay Robert Baratheon, hay ngươi muốn làm ông Vua Rồng mới? ngẫm nghĩ lát về Viserys, kẻ bỏ trốn khỏi Dragonstone, và cậu con trai sơ sinh Aegon của Rhaegar, cậu bé vẫn ở Maegor với mẹ. ông vua Targaryen mới, và cha ta là quân sư. Rồi sói hú, bão tố giận đùng đùng. Trong giây, cũng bị cám dỗ, nhưng đó là trước khi ngó xuống nhìn xác chết trong vũng máu sàn. “Cứ tuyên bố vua mới là bất cứ ai mà ngươi thích,” với Crakehall. Sau đó leo lên ngai vàng ngồi, kiếm đặt gọn ngang đùi, để xem ai dám đến xưng vương ở vương quốc này. Và đó là Eddard Stark.

      Ngươi có quyền xét đoán ta, Stark.

      Trong giấc mơ của , người chết kia bị thiêu cháy, ông ta mặc áo choàng trong ngọn lửa xanh xoáy tít. Jaime nhảy múa xung quanh với thanh gươm vàng, nhưng cứ đâm thêm nhát gươm là có thêm hai ngọn lửa thế chỗ .

      Brienne đánh thức bằng cú đá vào sườn. Trời vẫn còn tối, và chuẩn bị mưa. Họ ăn sáng với bánh yến mạch, cá muối và vài quả mâm xôi mà Ser Cleos tìm được, và họ trở lại yên ngựa trước khi mặt trời lên.

      TYRION


      Tên thái giám ngâm nga đầy vẻ khó chịu khi bước vào cửa, mặc áo choàng mềm bằng lụa màu hoa đào và bốc mùi chanh chua chua. Khi thấy Tyrion ngồi cạnh lò sưởi, gã dừng lại và đứng bất động.

      “Chào Lãnh chúa Tyrion,” cố nở nụ cười gượng gạo.

      “Vậy là ngươi còn nhớ ta? Thế mà ta lại cứ lo là đấy.”

      tuyệt khi được gặp ngài vẫn còn mạnh khỏe như vậy.” Varys nở nụ cười yếu ớt nhất của gã. “Mặc dù tôi phải thừa nhận, tôi dám nghĩ lại được nhìn thấy ngài trong căn phòng xoàng xĩnh này của mình.”

      “Xoàng xĩnh . Quá xoàng xĩnh là đằng khác.” Tyrion ngồi đợi cho đến khi cha triệu Varys đến, trước khi gã chịu chui vào phòng thăm . Căn nhà của tên thái giám thưa người và bé, gồm ba căn phòng kín gió, cửa sổ bên dưới tường thành phía bắc. “Ta những mong phát ra bí mật hấp dẫn nào đó để giết thời gian lúc ngồi đợi, nhưng lại tìm được mẩu giấy nào.” cũng tìm kiếm các lối bí mật, vì nghĩ chắc hẳn gã Nhện phải có lối ra vào như thế, nhưng tìm thấy gì. “Ơn trời là bình còn nước để uống,” tiếp, “phòng ngủ của ngươi chỉ to bằng cái quan tài, và chiếc giường kia… như làm bằng đá, hay nó khiến ta cảm giác vậy?”

      Varys khép và cài then cửa. “Tôi bị bệnh đau lưng, thưa ngài, vì vậy tôi thích được ngủ bề mặt cứng.”

      “Vậy mà ta cứ nghĩ ngươi thích giường đệm lông đấy.”

      “Tôi ngạc nhiên quá. Ngài có giận vì tôi rời bỏ ngài sau trận chiến ?”

      “Việc đó khiến ta nghĩ về ngươi như là thành viên trong gia đình ta.”

      “Thưa ngài, việc đó phải vì khao khát tình đâu. Tính tôi dễ xúc động lắm, và nhìn vết sẹo của ngài quả là đáng sợ…” rùng mình cách quá mức. “Chiếc mũi tội nghiệp của ngài…”

      Tyrion giận dữ xoa vết sẹo. “Có lẽ ta nên có vết sẹo mới bằng vàng. Varys này, ngươi nghĩ ta nên làm kiểu mũi nào? Hay làm mũi giống ngươi nhé, để ngửi thấy bí mật ấy? Hay ta nên với mấy gã thợ kim hoàn rằng ta muốn có chiếc mũi giống mũi cha ta?” mỉm cười. “Ông cha cao quý của ta làm việc chăm chỉ đến mức ta sợ dám gặp ông ta nữa. cho ta biết, có là ông ấy phục hồi chức của Grand Maester Pycelle trong hội đồng ?”

      , thưa ngài.”

      “Có phải nhờ bà chị ngọt ngào của ta ?” Pycelle là người của chị ; Tyrion tước chức vị của ông ta, cạo cả râu và ấn lão vào ngục.

      , thưa ngài. Đó là nhờ các thầy dậy bắn cung tại Oldtown – họ khăng khăng mong muốn Pycelle được phục chức, dựa những lý do mà chỉ có Hội Kín mới có thể tạo hoặc tạo ra Grand Maester.”

      Lũ ngu si khốn kiếp, Tyrion thầm nghĩ. “Hình như ta nhớ rằng Maegor, gã đao phủ tàn nhẫn giết được ba người bằng cây rìu của gã.”

      “Đúng vậy,” Varys . “Và Aegon đệ nhị cho rồng của ăn thịt Grand Maester Gerardys.”

      “Ala, ta đâu phải rồng rắn gì đâu. Ta cho rằng lẽ ra ta nên dìm Pycelle vào lửa và cho cháy thui người. Citadel liệu có thích như thế hơn ?”

      “Ừm, Citadel chắc hẳn thích lưu giữ truyền thống hơn.” Tên thái giám khúc khích cười. “ may mắn, những cái đầu thông thái hơn lại chiếm ưu thế, và Hội Kín chấp thuận thực tế là Pycelle bị thải hồi và chuẩn bị lựa chọn người kế nhiệm. Sau khi cân nhắc hồi lâu về Maester Turquin, con trai của thợ đóng giày và Maester Erreck, gã con hoang của tên hiệp sĩ vụng trộm, và chứng minh bằng hài lòng của chính bọn họ rằng năng lực quan trọng hơn là nguồn gốc dòng dõi, Hội Kín chuẩn bị cử Maester Gormon đến cho chúng ta, gã Tyrell ở Highgarden. Khi tôi điều này với cha ngài, ngài ấy hành động ngay lập tức.”

      Hội Kín bí mật họp tại Oldtown, Tyrion biết điều đó; cuộc thảo luận này được coi là tuyệt mật. Chính vì vậy Varys chỉ biết chút ít về việc ở Citadel. “Ta biết rồi. Cha ta quyết định bứt đứt hoa trước khi nó kịp nở.” phải cười thầm. “Pycelle là con cóc. Nhưng thà là cóc của Nhà Lannister còn hơn là cóc Nhà Tyrell, đúng ?”

      “Grand Maester Pycelle vẫn luôn là bạn tốt của gia tộc ngài,” Varys ngon ngọt . “Có lẽ an ủi ngài phần nào nếu ngài biết rằng Ser Boros Blount cũng được phục chức.”

      Cersei sa thải Ser Boros khỏi chiếc áo khoác trắng vì chết trong khi bảo vệ hoàng tử Tommen khi Bronn túm được đường Rosby. phải bạn của gia tộc, nhưng sau vụ đó, rất căm ghét Cersei. Ta cho rằng việc này lên điều gì đó. “Blount là thằng hèn thích khoe khoang,” giọng tử tế.

      sao? Ôi trời. Nhưng, theo truyền thống, hiệp sĩ Ngự Lâm Quân phải phụng suốt đời. Có lẽ trong tương lai Ser Boros chứng tỏ mình dũng cảm hơn. Chắc chắn ngài ấy vẫn rất tận trung.”

      “Với cha ta,” Tyrion mỉa mai.

      “Nhân về Ngự Lâm Quân… tôi băn khoăn, liệu cuộc viếng thăm bất ngờ đầy vui vẻ này của ngài có liên quan đến người em chết của ser Boros, tức là Ser Mandon Moore hào hiệp ?” Gã thái giám vuốt bên má trát phấn. “Gã Bronn của ngài có vẻ hào hứng nhất với gã kia lúc về sau này.”

      Bronn gắng hết sức lật tẩy mọi điều về Ser Mandon, nhưng chắc chắn Varys biết nhiều hơn thế… nếu chịu chia sẻ thông tin. “Có vẻ như hai gã này ưa nhau,” Tyrion cẩn trọng .

      đáng buồn,” Varys , “Ôi, đáng buồn. Ngài có thể tìm thấy vài người thân thích nếu ngài lật hết được các tảng đá ở Thung Lũng, nhưng ở đây… Lãnh chúa Arryn đưa đến Vương Đô và Robert ban cho áo trắng, nhưng tôi e rằng cả hai người ấy đều ưa gì . cũng được đám đông cổ vũ trong các cuộc đấu ngựa, mặc dù vô cùng dũng cảm. Ngay cả các em trong đội Ngự Lâm Quân cũng cư xử lạnh nhạt với . Có lần Ser Barristan còn nghe rằng có bạn bè nào, ngoài thanh gươm, và có cuộc sống riêng, trừ bổn phận… nhưng ngài biết đấy, tôi nghĩ rằng Selmy lại coi đó như lời tán dương. Điều này kỳ quái, ngài thấy vậy ? Lính Ngự Lâm Quân là những người có phẩm chất cực cao, họ sống vì bản thân, mà sống vì nhà vua. Theo lẽ đó, Ser Mandon là vị hiệp sĩ hoàn hảo. Và chết đúng như hiệp sĩ Ngự Lâm Quân, tay vẫn cầm gươm để bảo vệ máu mủ của vị vua của .” Gã thái giám nở nụ cười gian xảo và quan sát kĩ lưỡng.

      Ý ngươi là cố giết trong những người là máu mủ của nhà vua. Tyrion tự hỏi liệu Varys có biết nhiều hơn những gì . Những điều vừa nghe được phải tin tức gì mới với ; Bronn cũng báo cáo y như vậy. cần mối liên hệ đến Cersei, dấu hiệu cho thấy Ser Mandon là tay sai của chị ta. phải lúc nào chúng ta cũng nhận được điều mình muốn, cay đắng nghĩ, và điều đó khiến nhớ đến…

      “Ser Mandon phải là người đưa ta đến đây.”

      “Chắc chắn rồi.” Tên thái giám ngang phòng và đến bình nước. “Thưa ngài, tôi phục vụ ngài được ?” hỏi khi rót đầy nước.

      “Được. Nhưng phải phục vụ nước.” khoanh hai tay vào nhau. “Ta muốn ngươi đưa Shae đến với ta.”

      Varys uống hớp nước. “Thưa ngài, như thế có khôn ngoan ? Đó là ngọt ngào dễ thương. tủi hổ lắm nếu cha ngài treo cổ ấy.”

      ngạc nhiên khi Varys biết điều đó. “, khôn ngoan, mà cực kỳ điên rồ. Ta muốn nhìn thấy nàng lần cuối, trước khi ta đưa nàng khỏi đây. Ta thể chịu được việc để nàng ở gần mình đến vậy.”

      “Tôi hiểu.”

      Ngươi làm sao hiểu nổi? Mới hôm qua Tyrion nhìn thấy , lúc ấy leo lên cầu thang, tay xách thùng nước. đứng nhìn khi hiệp sĩ trẻ đề nghị được xách giúp thùng nước nặng ấy. Cách chạm vào cánh tay gã và mỉm cười với gã khiến ruột gan Tyrion lộn tùng phèo. Họ ngang qua nhau, chỉ cách nhau vài centimet, xuống còn lên, sát nhau đến mức ngửi thấy mùi thơm mát tỏa ra từ mái tóc . “Lãnh chúa của em,” nhún gối chào và với , và chỉ muốn đưa hai tay ra ôm chầm lấy , hôn tới tấp ngay tại đó, nhưng chỉ có thể gật đầu cứng ngắc và tiếp tục xuống. “Ta gặp ấy vài lần rồi,” với Varys, “nhưng ta dám chuyện với ấy. Ta ngờ rằng mọi cử động của ta đều bị theo dõi.”

      “Thưa ngài, khôn ngoan khi nghi ngờ điều đó.”

      “Kẻ nào?” ngẩng đầu lên đầy vẻ thách thức.

      “Mấy gã Nhà Kettleblack thường xuyên báo cáo lại với bà chị đáng của ngài.”

      “Khi ta nghĩ đến việc phải mất bao nhiêu vàng để trả cho lũ người đáng ghét đó… ngươi có nghĩ là nhiều vàng hơn giúp ta kéo bọn chúng khỏi Cersei để về phe mình ?”

      “Cơ hội lúc nào cũng có, thưa ngài, nhưng tôi dám đánh cá về khả năng có thể xảy ra đâu. Giờ cả ba người đó đều là hiệp sĩ, và chị ngài hứa hẹn cho họ cơ hội được tiến xa hơn nữa.” tiếng cười quỷ quái phát ra từ môi gã thái giám. “Và gã lớn tuổi nhất ấy, Ser Osmund của Ngự Lâm Quân, lại mơ đến… đến ân huệ khác nữa. Ngài có thể đối chọi vàng với vàng của thái hậu, tôi chắc chắn là thế, nhưng bà ấy còn có khoản vốn khác bao giờ hết.”

      Khốn nạn, Tyrion thầm nghĩ. “Có phải ý ngươi là Cersei ăn nằm với Osmund Kettleblack?”

      “Ôi, cái thân tôi, đâu, như thế cực kỳ nguy hiểm, ngài thấy vậy sao? , thái hậu chỉ gợi ý thôi… có thể vào sớm mai, hoặc khi đám cưới kết thúc… kế đến là nụ cười, lời thầm, câu đùa hài hước… hay ngực bà ấy khẽ chạm vào tay áo của gã khi họ ngang qua nhau… ấy vậy mà cũng hiệu quả lắm. Nhưng tên thái giám biết những điều đó để làm gì?” Đầu lưỡi liếm môi dưới giống như con vật nhút nhát.

      Giá như ta có thể đẩy chúng vượt quá hành vi mơn trớn, và sắp xếp để cha bắt gặp chúng ăn nằm với nhau… Tyrion đưa ngón tay lên sờ vảy của vết sẹo mũi. vẫn chưa biết sắp xếp tình huống như thế nào, nhưng có thể kế hoạch sớm xuất trong đầu . “Có phải chỉ có mấy gã Nhà Kettleblack ?”

      “Thưa ngài, giá như là thế. Tôi e rằng còn rất nhiều cặp mắt dồn lên ngài. Ngài… tôi nên sao nhỉ? Dễ bị người ta chú ý? Và được mến, tôi buồn khi vậy với ngài. Các con trai của Janos Slynt rất sẵn lòng tố cáo ngài để trả thù cho cha bọn họ, và Lãnh chúa Petyr đáng mến có bạn bè tại nửa số nhà thổ ở Vương Đô này. Nếu ngài dại dột gặp bất cứ ai trong số bọn họ, ông ta biết ngay, và cha ngài cũng biết ngay lập tức.”

      Tệ hơn cả ta lo sợ. “Cha ta nữa sao? Cha ta cử ai theo dõi ta?”

      Lần này gã thái giám cười lớn. “Ô hô, thưa ngài, là tôi đây.”

      Tyrion cũng bật cười. cũng khờ dại đến mức tin tưởng Varys – nhưng gã thái giám này lại biết đủ về Shae để báo cáo này nọ khiến nàng bị treo cổ. “Ngươi đưa Shae đến gặp ta, tránh xa khỏi những cặp mắt đó. Như trước đây ngươi làm.”

      Varys vặn vẹo tay. “Ôi, thưa ngài, gì khiến tôi vui hơn, nhưng… vua Maegor muốn lâu đài của ông ấy có chuột, nếu ngài hiểu ý tôi. Ông ta ra lệnh làm nhiều lối ra vào bí mật, đề phòng trường hợp ông ta bị kẻ thù gài bẫy, nhưng cánh cửa đó dính líu gì đến các lối khác. Tôi có thể mượn Shae khỏi phu nhân Lollys trong khoảng thời gian, chắc chắn thế, nhưng tôi có cách nào đưa ấy đến buồng ngủ của ngài mà bị nhìn thấy.”

      “Thế đưa ấy đến chỗ nào đó khác.”

      “Nhưng chỗ nào cơ? có chỗ nào an toàn cả.”

      “Có chứ.” Tyrion cười khì. “Ở đây này. đến lúc tận dụng chiếc giường cứng như đá của ngươi vào việc hữu ích hơn.”

      Miệng viên thái giám há ra. Rồi cười rúc rích. “Dạo này phu nhân Lollys chóng mệt lắm. Bà ấy rất tử tế với con trẻ. Tôi cho rằng đến lúc trăng mọc bà ấy ngủ khì rồi.”

      Tyrion ngồi tót xuống ghế. “Vậy vào lúc trăng lên nhé. Cho ta chút rượu. Và hai cái ly sạch.”

      Varys cúi đầu. “Theo lệnh ngài.”

      Thời gian còn lại trong ngày trôi qua chậm chạp như rùa. Tyrion leo lên thư viện của lâu đài và cố gắng xao nhãng tâm trí bằng cuốn Lịch Sử Các Cuộc Chiến Tranh ở Rhoynish của Beldecar, nhưng gần như thể nhìn thấy mấy con voi vì mải hình dung đến nụ cười của Shae. Đến chiều, đặt sách xuống và ra lệnh được tắm. kì cọ mãi cho đến khi nước nguội và sai Pod cạo râu cho . Râu là thử thách với ; mớ rối gồm các sợi vàng, trắng, đen, loang lổ và xấu xí, nhưng nó cũng giúp che đậy phần nào khuôn mặt , và như thế là tốt lắm rồi.

      Khi sạch , hồng hào và râu ria được cắt tỉa gọn ghẽ như mong đợi, Tyrion mở tủ quần áo và chọn chiếc quần ống túm bó bằng sa-tanh, có màu đỏ tượng trưng của Nhà Lannister và chiếc áo chẽn đẹp nhất làm bằng nhung tím than thêu hình đầu sư tử. Lẽ ra còn đeo cả đôi chuỗi trang sức vàng vào tay, nếu cha lấy trộm mất khi nằm chờ chết. Nhưng phải đến khi mặc quần áo xong xuôi mới nhận ra điên rồ của bộ cánh này. Quỷ tha ma bắt, thằng lùn kia, mày mất trí rồi sao? Ai nhìn thấy mày rồi cũng hỏi tại sao mày lại mặc trang phục diện kiến cung điện để gặp gã thái giám. Vừa chửi thề Tyrion vừa cởi phăng quần áo và mặc lại, trong trang phục đơn giản hơn; quần ống túm bằng len, màu đen, áo dài thắt lưng trắng cũ kĩ và chiếc áo choàng bằng da nâu bạc màu. vấn đề gì, tự nhủ khi đợi trăng lên. Dù mặc gì mày vẫn là thằng lùn. Mày chẳng bao giờ được cao vổng lên như thằng hiệp sĩ bậc thang kia đâu, chân nó thẳng, dài, bụng săn chắc và đôi vai rộng đầy nam tính.

      Mặt trăng lấp ló tòa lâu đài khi với Podrick Payne rằng chuẩn bị đến gặp Varys. “Thưa ngài, ngài có lâu ?” cậu ta hỏi.

      “Ờ, chắc lâu.”

      Tháp Đỏ đông đúc là thế, Tyrion khó lòng mong bị nhìn thấy. Ser Balon Swann đứng canh gác ngoài cửa, Ser Loras Tyrell gác ở cầu rút. dừng lại pha trò đôi lời với hai người đó. lạ khi thấy Hiệp Sĩ Hoa mặc đồ trắng khi trước đây ta luôn mặc đồ sặc sỡ như bảy sắc cầu vồng.

      “Ser Loras, cậu bao nhiêu tuổi?” hỏi.

      “Thưa ngài, mười bảy tuổi.”

      Mười bảy tuổi, đẹp trai, và huyền thoại. nửa đám đàn bà con ở Bảy Phụ Quốc mong được ngủ với cậu ta, và tất cả đám thanh niên đều muốn được gần cậu ta. “Ser, nếu cậu thứ lỗi cho câu hỏi của ta – tại sao cậu lại chọn tham gia Ngự Lâm Quân khi cậu mới mười bảy tuổi?”

      “Hoàng tử Hiệp Sĩ Rồng Aemon lời tuyên thệ khi ngài ấy mười bảy tuổi,” Ser Loras , “và trai Jaime của ngài còn tuyên thệ lúc trẻ hơn thế.”

      “Ta biết lý do của họ. Thế lý do của cậu là gì? Vinh dự được phục vụ bên cạnh những người hoàn hảo như Meryn Trant và Boros Blount sao?” nở nụ cười giả tạo. “Để bảo vệ cuộc đời của vua, cậu từ bỏ cuộc đời của chính mình. Cậu từ bỏ đất đai và chức vị, từ bỏ hy vọng được lấy vợ, sinh con đẻ cái…”

      “Gia tộc Tyrell được tiếp nối thông qua các em trai của tôi,” Ser Loras . “Đứa con trai thứ ba nhất thiết phải lấy vợ hay sinh con.”

      nhất thiết, nhưng có vợ có con cũng thú vị lắm. Tình sao nhỉ?”

      “Khi mặt trời lên, ngọn nến nào có thể thay thế.”

      “Câu này có trong bài hát đúng ?” Tyrion nghển cổ và mỉm cười. “Phải rồi, cậu mười bảy tuổi, tôi thấy rồi.”

      Ser Loras căng thẳng. “Ngài chế nhạo tôi sao?”

      thằng dễ nổi cáu. “Ồ . Thứ lỗi nhé nếu ta mạo phạm. Ta cũng từng có tình , và chúng ta cũng có bài hát tình riêng.” Ta trẻ xinh đẹp như nắng hè, tóc nàng sáng lấp lánh. chúc Ser Loras buổi tối tốt lành và tiếp tục bước .

      Gần cũi chó có nhóm lính chiến đấu với hai con chó. Tyrion dừng lại đủ lâu để xem con chó hơn cào rách nửa mặt con chó to hơn, và cười thô lỗ khi nhận thấy rằng con chó thua cuộc rất giống với Sandor Clegane. Sau đó, với hy vọng xóa bỏ hết mọi nghi ngờ, về phía tường hướng bắc và phi nhanh xuống các bậc thang ngắn đến nơi ở của tay thái giám. Cửa mở ra khi vặn núm cửa.

      “Varys?” Tyrion bước vào trong. “Ngươi có đây ?” ngọn nến thắp sáng căn phòng, khiến khí đượm mùi hoa lài.

      “Lãnh chúa của em.” người phụ nữ khép nép vào vùng sáng; tròn trịa, nghiêm trang, với khuôn mặt tròn bầu bĩnh và các lọn tóc đen nặng trịch. Tyrion giật nảy người. “Có điều gì ổn sao?” ta hỏi.

      Varys, bực mình nhận ra. “Trong giây kinh hoàng, ta cứ tưởng ngươi mang nhầm mụ Lollys thay vì Shae đến đây. ấy đâu rồi?”

      “Đây, ngài ơi.” Từ phía sau, đặt hai bàn tay lên mắt . “Ngài đoán xem em mặc đồ gì nào?”

      mặc gì sao?”

      “Ôi, ngài thông minh ,” bĩu môi và rụt tay lại. “Làm sao ngài biết?”

      “Lúc mặc gì nàng đẹp lắm.”

      ?” .

      “Ừ, .”

      “Thế sao ngài làm tình với em thay vì chuyện ?”

      “Chúng ta phải tống cổ phu nhân Varys . Ta phải gã lùn thích có khán giả ngồi cổ vũ đâu.”

      “Ông ta rồi mà.” Shae .

      Tyrion quay người nhìn. Đúng vậy. Gã thái giám biến mất, cùng với cả bộ cánh của gã nữa. Cánh cửa bí mật chắc chắn ở đâu đó quanh đây. chỉ có thể nghĩ được đến vậy trước khi Shae kéo đầu vào hôn hít. Miệng ướt át và đầy khao khát, và dường như còn nhìn thấy vết sẹo, hay lớp vảy vốn là cái mũi của . Làn da ấm, mềm như lụa bên dưới các ngón tay . Khi ngón tay cái của cọ cọ vào đầu vú trái của , đầu vú cương lên ngay lập tức. “Nhanh lên,” vừa thúc giục vừa hôn tha thiết, khi các ngón tay cởi dây thắt lưng, “ôi, nhanh lên, nhanh lên, em muốn ngài ở bên trong em ngay, bên trong, bên trong ấy.”

      có thời gian để cởi quần áo. Shae kéo dương vật của ra khỏi quần, rồi hẩy xuống sàn nhà và trèo lên người . kêu lên và điên cuồng cưỡi người , ngừng rên rỉ “người hùng của em, người hùng của em, người hùng của em.” Tyrion phấn khích đến mức đạt cực khoái khi mới nhún lần thứ năm, nhưng dường như Shae phiền vì điều đó. nở nụ cười tinh quái khi cảm thấy phóng tinh, và nhoài người ra trước để hôn mồ hôi toát ra từ lông mày .

      “Người hùng Lannister của em,” thầm . “Ngài cứ ở yên bên trong em nhé. Em muốn cảm thấy ngài ở bên trong em.”

      Vì vậy Tyrion cử động gì ngoài việc vòng tay quanh người . Được ôm , và được ôm tuyệt vời, thầm nghĩ. Tại sao điều ngọt ngào như thế này lại bị coi là phạm tội khiến bị treo cổ chứ? “Shae à,” , “đây là lần cuối cùng chúng ta ở bên nhau. Quá nguy hiểm. Nếu cha ta phát ra nàng…”

      “Em thích vết sẹo của ngài.” lần lần ngón tay theo vết sẹo. “Vết sẹo khiến ngài trông rất hung dữ và mạnh mẽ.”

      cười. “Ý nàng là rất xấu trai.”

      “Trong mắt em, ngài bao giờ xấu cả.” hôn hít lớp vảy thế chỗ đầu mũi của .

      phải khuôn mặt ta cần lo lắng của nàng, mà là cha ta…”

      “Ngài ấy làm em sợ đâu. Lãnh chúa của em có đưa lại trang sức và lụa là của em cho em ngay bây giờ ? Em hỏi Varys xem liệu em lấy lại chúng có được , khi ngài bị thương lúc đánh nhau ấy, nhưng ông ta chịu đưa cho em. Những thứ đó còn ý nghĩa gì đâu nếu ngài chết?”

      “Ta chết. Ta vẫn ở đây.”

      “Em biết chứ.” Shae uốn éo người và mỉm cười. “Ở đúng nơi ngài thuộc về.” bĩu môi. “Nhưng em phải ở với bà Lollys đến chừng nào, khi giờ đây ngài khỏe rồi?”

      “Nàng có nghe ta vậy?” Tyrion . “Nếu muốn, nàng cứ ở bên Lollys, nhưng tốt nhất là nàng nên rời khỏi thành phố.”

      “Em muốn . Ngài hứa là đưa em tới ngôi nhà lớn sau khi ngài chiến đấu trở về.” bé của khẽ xiết vào dương vật của , và nó lại cương cứng bên trong . “Ngài là người Nhà Lannister luôn luôn trả mọi món nợ.”

      “Shae à, đừng vậy nữa. Nghe ta này. Nàng phải . Bây giờ thành phố toàn là người Nhà Tyrell, còn ta bị theo dõi nhất cử nhất động. Nàng hiểu hết các mối nguy hiểm.”

      “Em đến tham dự tiệc cưới của nhà vua được ? Lollys dự đâu. Em với bà ấy là ai muốn cưỡng hiếp bà ta trong cung điện của nhà vua đâu, nhưng bà ta đần lắm.” Khi Shae trườn người sang bên, dương vật của chui ra khỏi người cùng với thanh ươn ướt rất . “Symon trong cuộc đấu ngựa còn có cả ca sĩ, cả người làm xiếc nữa.”

      Tyrion gần như quên gã ca sĩ khốn kiếp gấp ba lần ấy. “Nàng chuyện với Symon lúc nào?”

      “Em kể về ta với phu nhân Tanda, và phu nhân thuê ta đến hát cho Lollys nghe. Tiếng nhạc khiến bà ấy bình tĩnh lại khi đứa bé bắt đầu đạp. Symon trong tiệc cưới còn có cả con gấu biết nhảy nữa, và rượu của vùng Arbor nữa. Em chưa bao giờ được nhìn thấy con gấu nhảy nhót.”

      “Bọn họ làm còn tệ hơn ta.” phải con gấu, mà là gã ca sĩ khiến lo lắng. Chỉ cần lời bất cẩn đến tai người đáng tin, Shae bị treo cổ.

      “Symon tiệc cưới có bảy mươi bảy món và trăm con chim bồ câu bên trong chiếc bánh khổng lồ,” Shae kể. “Khi mở vỏ bánh, đàn chim bay túa lua ra.”

      “Sau đó chúng bâu kín xà nhà và ị phân vào đám khách khứa.” Trước đây Tyrion từng phải chịu đựng những chiếc bánh cưới như thế. Đám chim bồ câu rất thích ị lên người , hoặc là vẫn luôn ngờ như thế.

      “Em mặc nhung lụa đến dự tiệc với tư cách là phu nhân thay vì là hầu được ? ai biết em phải là phu nhân đâu.”

      Ai cũng biết thôi, Tyrion thầm nghĩ. “Phu nhân Tanda băn khoăn biết hầu trải giường cho Lollys sao lại có nhiều nữ trang đến thế.”

      “Symon có cả nghìn khách mời. Có khi phu nhân còn nhìn thấy em ấy. Em tìm chỗ ngồi trong góc tối, nhưng bất cứ khi nào ngài đứng lên về phòng, em lẻn ra gặp ngài.” khum tay cầm cậu bé của và khẽ vuốt ve mơn trớn. “Em mặc đồ lót bên dưới áo choàng đâu, như thế ngài mất công cởi đồ của em.” Các ngón tay của cọ lên cọ xuống dương vật của . “Hay nếu ngài thích, em làm thế này cho chàng.” liếm láp dương vật của .

      Tyrion nhanh chóng sẵn sàng trở lại. Lần này cuộc chơi được kéo dài hơn. Khi đạt cực khoái, Shae bò xuống nằm gọn trong tay . “Ngài cho em nhé?”

      “Shae à,” than vãn, “ an toàn đâu.”

      lúc. Tyrion cố đến chuyện khác, nhưng gặp phải bức tường ảm đạm như băng và kiên quyết y như Tường Thành ở phương bắc mà từng bước đó. Các thánh thần ơi, mệt mỏi nghĩ khi nhìn cây nến cháy và bắt đầu chảy xuống, làm sao ta để việc này xảy ra thêm lần nữa đây, sau việc của Tysha? Có phải ta đúng là thằng đại ngu như cha ta ? sung sướng nếu giữ được lời hứa là tặng cho những thứ muốn, sung sướng nếu được tay trong tay đưa về phòng ngủ của mình để được mặc những chiếc váy lụa và nhung mà thích. Nếu được lựa chọn, được ngồi bên cạnh trong bữa tiệc cưới của Joffrey, và được nhảy nhót với tất cả những con gấu mà thích. Nhưng thể đứng nhìn bị treo cổ.

      Khi nến cháy hết, Tyrion tự đứng lên thắp cây nến khác. Sau đó vòng quanh các bức tường, lần lượt vỗ lên tường để tìm cánh cửa bí mật. Shae ngồi bó gối và quan sát . Cuối cùng, , “Bên dưới giường ấy. Những bậc thang bí mật.”

      nhìn ngờ vực. “Giường ư? Giường là đá cứng thôi mà. Nặng tới cả tấn ấy.”

      “Đó là nơi Varys đẩy tay, và nó mở ra ngay. Em hỏi ông ta đẩy thế nào, nhưng ông ta đó là phép thuật.”

      “Ừ.” Tyrion cười khì. “ lời nguyền đối trọng.”

      Shae đứng lên. “Em phải về rồi. Đôi lúc đứa bé đạp khiến Lollys tỉnh dậy và gọi em.”

      “Varys sớm trở lại thôi. Có thể ông ta nghe lóm mọi lời của chúng ta.” Tyrion đặt nến xuống. quần vệt ướt nhưng trong bóng tối khó bị nhận ra. bảo Shae mặc quần áo và đợi gã thái giám.

      “Vâng,” nàng hứa. “Ngài là sư tử dung mãnh của em, phải ? Người hùng Lannister của em?”

      “Phải,” . “Và nàng là…”

      “… là con điếm của ngài.” đặt tay lên môi . “Em biết. Em muốn là phu nhân của ngài, nhưng em bao giờ có thể. Ngài đưa em đến tiệc cưới cũng được. sao hết đâu. Tyrion, em muốn được là con điếm của ngài. Chỉ cần ngài ở bên em, và đảm bảo an toàn cho em.”

      “Ta hứa,” . Ngu ngốc, ngu ngốc, tiếng bên trong hét lên. Sao ngươi lại vậy chứ? Ngươi đến đây để đưa ấy nơi khác! Ấy vậy mà ngươi lại hôn ấy thêm lần nữa.

      Đường bộ trở lại có vẻ dài và độc. Podrick Payne ngủ trong giường gầm dưới chân giường của Tyrion, nhưng đánh thức cậu ta dậy.

      “Bronn,” .

      “Ser Bronn ạ?” Pob dụi đôi mắt trĩu xuống. “Ồ. Tôi với ta ạ? Thưa ngài?”

      “Chứ sao, ta đánh thức ngươi dậy để chúng ta trò chuyện đôi lời về phong cách ăn mặc của ta,” nhưng mỉa mai của bị lãng phí. Pod chỉ biết lúng túng há hốc miệng nhìn cho đến khi hất tay ra trước và , “Phải rồi, gọi . Đưa đến đây. Ngay bây giờ.”

      Cậu ta vội vã mặc quần áo và chạy vọt ra khỏi phòng. Ta đáng sợ vậy sao? Tyrion tự hỏi, khi thay quần áo ngủ và rót cho mình chút rượu.

      uống ly rượu thứ ba và gần nửa đêm trôi vụt qua khi Pod quay trở về cùng với tay hiệp lính đánh thuê. “Tôi hy vọng thằng nhóc này có lý do chính đáng để kéo tôi ra khỏi Chataya vào cái giờ quỷ quái này,” Bronn khi gã ngồi xuống.

      “Chataya ư?” Tyrion đầy vẻ khó chịu.

      “Là hiệp sĩ cũng hay lắm đấy. thể nào tìm được nhà thổ rẻ hơn phố đâu.” Bronn cười khì. “Bây giờ là nàng Alayaya và Marei cùng nằm giường, và Ser Bronn nằm giữa hai em nhé.”

      Tyrion phải cắn răng nuốt cơn giận. Bronn, cũng như những gã đàn ông khác, có dư quyền để được ngủ chung giường với Alayaya, nhưng… Ta chưa bao giờ chạm vào ấy, mặc dù ta rất muốn, nhưng Bronn thể biết điều đó được. dám tự mình đến Chataya. Nếu dám đến, Cersei biết, và cha cũng biết, và ‘Yaya phải hứng chịu nhiều hơn là trận đòn roi. gửi cho chuỗi hạt bằng bạc và ngọc bích và bộ vòng xuyến đồng màu như lời xin lỗi, nhưng ngoài ra…

      Việc này vô ích thôi. “Có ca sĩ tự đặt tên cho mình là Symon Giọng Ca Bạc,” Tyrion mệt mỏi và gạt tội lỗi của mình sang bên. “ đôi lần biểu diễn cho con phu nhân Tanda xem.”

      sao?”

      Giết , lẽ ra phải vậy, nhưng làm gì phải quấy ngoài việc hát vài bài ca. Và trám đầy đầu óc của Shae bằng viễn cảnh về những con chim bồ câu và những con gấu biết nhảy. “Tìm ,” . “Tìm ra trước khi có người khác tìm được .”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :