1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

To Catch A Bride - Anne Gracie ( 21c )

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      9



      ấy phái Higgins đến Alexandria để đặt vé tàu rồi, còn là bọn em rời khỏi đây trong hai ngày nữa. Hai ngày, chị Laila. Em phải làm gì đây?”

      Laila ôm . “Em theo số mệnh của mình, bé con, như chị theo mệnh số của chị vậy.” Họ ngồi khoanh chân, đối mặt nhau chiếc giường rộng, thấp trong khu nhà của người đầu bếp tiền nhiệm. So với căn nhà của Laila, đây là xa xỉ.

      “Chị lấy ông Baxter ư?” Ayisha hỏi chị. Căn phòng có mùi xà phòng và mùi nắng; Laila cọ rửa nơi này từ xuống dưới, giặt sạch tất cả chăn mền, và hong khô chúng dưới ánh mặt trời.

      “Tất nhiên.” Laila mỉm cười. “Chỉ là chưa thôi.”

      “Bởi vì ông ấy giàu có?”

      Laila lắc đầu. “Giàu là điều tốt, nhưng người phụ nữ giàu có thể được hạnh phúc cũng như hạnh phúc như người phụ nữ nghèo thôi. Tiền bạc đem lại thoải mái, thế thôi.” Chị nhìn quanh căn phòng và vỗ vào tấm trải giường đắt tiền. “Chị thấy thoải mái ở đây. Và nếu chàng người của em cho chị ngôi nhà-”

      ấy cho,” Ayisha với chắc chắn.

      Laila mỉm cười. “Vậy chị còn là người phụ nữ nghèo nữa, và chị có thể chọn lựa.”

      “Vậy tại sao phải lấy Baxter chứ? Chị thậm chí còn biết ông ấy.”

      Laila nhún vai. “Chị kết hôn với chồng chị thậm chí còn cần gặp ông ấy.”

      “Thế nên chị mới chờ đợi? Để biết Baxter hơn?”

      Laila lắc đầu và nở nụ cười buồn buồn. “Hôn nhân luôn là canh bạc. Em biết cho đến khi em ở trong đó với những gì nó đem lại. Em chỉ phải nhắm mắt lại, cầu nguyện và nhảy qua – sau đó cố hết sức để làm cho mình được hạnh phúc.”

      Ayisha thở dài. Cú nhảy của niềm tin. Đó chính xác là cảm giác của với việc với người xa lạ cao ráo, ngăm đen với đôi mắt xanh xanh, buồn buồn. Nếu cẩn thận, bị… lạc lối.

      “Nếu đó là , vậy sao phải chờ đợi?”

      nụ cười nữ tính, chậm rãi nở ra gương mặt Laila. “ chờ đợi là dành cho Baxter, chứ phải cho chị,” chị nhàng .

      “Em hiểu. Chị biết ông ấy muốn chị mà. Ông ấy cầu chị đấy thôi.”

      “Phải, và ông ấy về ‘những thỏa thuận thiết thực’ và ‘tiện lợi.’ ” Laila khịt mũi.

      đúng sao?”

      “Ồ đúng chứ, nhưng đó phải là tất cả.” Chị mỉm cười vu vơ. “ người đàn bà biết khi nào người đàn ông muốn ta.”

      “Làm thế nào ta biết?” Ayisha thốt lên. “Bằng cách nào?”

      Khuôn mặt Laila dịu dàng. “À, em nghĩ tới chàng trai người của em, từng chút . Chị thể cho em biết làm thế nào; đó là điều mà mỗi người phụ nữ đều phải từ mình biết lấy.”

      “Vậy ạ?” Ayisha yểu xìu .

      Laila bật cười. “A, đó là điều em sợ sao? Em sợ em trao cho cậu ta trái tim của em, rồi cậu ta làm nó tan vỡ?”

      Chị nắm lấy tay Ayisha.”Đó là số mệnh của chúng ta, vì là phụ nữ. Chúng ta thể làm được gì trừ thương, và đôi lúc nó gây đau đớn… đau rất nhiều.” Đôi mắt chị trông xa xôi, và Ayisha biết Laila nghĩ tới người chồng cũ của chị. Hẳn nó làm Laila đau đớn, vì phải chia tay người chồng mà chị , vì điều mà chị thể tránh. Như rắc muối vào vết thương thể có con.

      “Nhưng,” Laila vui vẻ nhanh, “ngay khi em tưởng rằng mình sống như là bà lão già nua nhăn nheo, xuất người đàn ông với cái nhìn từ đôi mắt xanh tinh quái của ông ấy khiến trái tim em bị lạc nhịp.”

      Ayisha thể mỉm cười với say mê bộc trực trong giọng của Laila. “Vậy khi nào chị lấy ông ấy?”

      Laila nở nụ cười bí , rất đàn bà. “Ngay khi Ngài Johnny Baxter hiểu tại sao ông ấy cầu chị như thế.”

      Ayisha nhíu mày. “Thế nếu chị nhầm sao? Nếu đó chỉ là thỏa thuận thiết thực?”

      Laila cho cái nhìn giữa đàn bà với nhau. “ người đàn ông giàu có có thể có bất kỳ người phụ nữ nào ông ta muốn. Hoặc bất kỳ người đầu bếp nào, nếu cần. Và Johnny biết xuất thân của chị. Chị rất ràng với ông ấy vào ngày đầu tiên rằng chị là phụ nữ đứng đắn và chấp nhận những chuyện lố lăng.”

      Laila nhăn mặt. “Thế nên giải pháp duy nhất của ông ấy là đưa thư ký đến nhà trai chị? Cho Omar món tiền lớn và lừa ta ký vào hợp đồng hôn nhân? Chị nghĩ như vậy.” Đôi mắt chị ánh lên với sức mạnh nữ tính.

      “Vào cái hôm đầu tiên ấy, ngay từ khoảnh khắc mắt bọn chị gặp nhau, chị cảm thấy điều gì đó. Ông ấy cũng thế, chị chắc chắn. Và khi ông ấy chạm vào tay chị… ồ!” Chị phẩy phẩy tay như cái quạt để làm mát mặt mình.

      “Cho nên, khi nào ngài Johnny Baxter hiểu lý do tại sao ông ấy làm những việc làm, chị lấy ông ấy. Cho đến khi đó, chẳng tổn hại gì cho ông ấy để chờ đợi. Chờ đợi làm cho người đàn ông biết… thưởng thức nhiều hơn.” Và chị mỉm cười theo cái kiểu làm Ayisha nhớ tới những điều nghĩ khi nghe câu chuyện về “ngựa giống.”

      Những lời của Laila ngày hôm đó và những hình ảnh mà chúng gợi lên khắc sâu vào tiềm thức của Ayisha.

      thể xua hình ảnh của Rafe Ramsey, đè mạnh giữa hai đùi có thể cảm thấy cơ thế nằm người , hông căng lên giữa hai đùi rắn chắc của , ngửi thấy mùi nam tính, sạch của .

      Và sau đó lúc cưỡi ngựa trở về từ bờ sông với , nóng bức và đầy mồ hôi, cùng với máu hai bàn tay , hai cánh tay quanh eo , lắng nghe nhịp đập trái tim qua làn áo.

      Ayisha rùng mình, khi nghĩ về nó.

      Laila mỉm cười và vỗ lên tay . “Chị biết, có điều gì đó về những người đàn ông mắt xanh này.” Chị im lặng trong lúc, sau đó , “Em nghĩ ông ấy của chị trong chiếc quần chẽn ôm sát và đôi ủng cao trông có giống chàng trai của em ? Chị rất muốn nhìn thấy Johnny của chị trong bộ đồ như thế.”

      ***

      Đêm trước chuyến khởi hành của họ, Rafe tìm Laila ở chỗ ở mới của chị và thấy chị bận rộn chuẩn bị cho bữa ăn chia tay Ayisha. nhóm những người sai vặt ngoan ngoãn băm băm, thái thái và nhặt rau dưới giám sát của chị.

      Sau vài câu chào hỏi lịch kèm với cà phê và mấy món ăn gì đó, quyết định mở rộng chủ đề.

      “Chị muốn kết hôn với Baxter, tôi tin thế. Xin chúc mừng chị.”

      “Có lẽ tôi lấy ông ấy.” Chị mím môi vẻ tinh nghịch. “Nhưng tôi vẫn chưa quyết định.”

      vô tư của chị làm ngạc nhiên. Baxter là mẻ cá ngon. Tuy nhiên, đó phải là chuyện của . , “Chị đơn, tôi nghĩ, nếu có Ayisha.”

      “Con bé như là con tôi vậy,” Laila thừa nhận, “và tôi rất nhớ nó. Nhưng để nó về với bà của nó là chuyện tốt. đó cần gia đình.” Chị nhìn với vẻ sắc sảo. “Bà của con bé có thể tìm cho nó người đàn ông tốt để kết hôn chăng?”

      “Rất có thể,” Rafe với vẻ kiềm chế. “Tôi đến để cho chị biết ngôi nhà ở Alexandria bây giờ là của chị.” đưa cho chị giấy tờ chuyển nhượng. “Mang tên chị và Ali.”

      Chị lau tay cẩn thận và cầm lấy tờ văn bản được cuộn lại như thể nó là thứ gì đó mong manh và . Đôi mắt chị ẩm ướt. “Cám ơn cậu, Rameses; cậu là người đáng trọng và tôi cầu nguyện cho cậu mỗi ngày trong cuộc đời tôi.” Chị chớp mắt và thêm vào, “Và cho vợ cậu nữa.”

      Đôi môi Rafe co giật. Chị chưa bao giờ quên.

      cũng với Baxter họ rời vào sáng sớm mai. dừng lại, sau đó , “Tôi cho là lễ cưới trong lời đề nghị đó, đúng ?”

      Miệng Baxter xoắn lại trong nụ cười châm biếm. “Đó là hợp đồng hôn nhân thôi. Laila đâu có chịu tôi… vẫn chưa.”

      “Tôi thấy ngạc nhiên đấy,” Rafe thẳng thừng . “Tôi những tưởng chị ta nhảy cẩng lên với điều đó chứ. Hầu hết phụ nữ đều thế.”

      “Thế nên điều đó mới thú vị,” Baxter . “ ấy . Tôi nghĩ ấy cố giành được nhiều hơn nữa.”

      “Còn hơn nữa? Chúa tôi.”

      “Kỳ quặc là tôi hiểu,” Baxter khô khan . “Nhưng đó phải là về tiền bạc. Tôi nghĩ ấy muốn có thời gian tìm hiểu.”

      Đối với người đàn ông đưa ra lời đề nghị tuyệt vời, và rồi khác gì bị từ chối, Baxter xử lý điều kinh ngạc đó rất tốt, Rafe nghĩ. Ông ấy dường như còn tự hào đối với miễn cưỡng của Laila trong việc nhận lời ông.

      Và vì thế ông được, Rafe đột nhiên nhận ra; nếu chị ấy rốt cuộc cũng lấy Baxter, ông ấy biết đó phải là vì tiền hoặc địa vị.

      Và cho dù Baxter thẳng thắn rằng đó chỉ là thỏa thuận thiết thực, nhưng, dễ chịu hơn khi cảm nhận được người được khát khao vì chính bản thân họ, chứ phải vì tiền của họ.

      Hoặc mối quan hệ của người đó với bá tước. Và người đó được cho là có khả năng sinh người thừa kế, nghĩ.

      thu hồi những suy nghĩ của mình trở lại Baxter. “ phải ông là người thích quyết định nhanh chóng sao?”

      Baxter nhún vai. “Tôi thực hầu hết những lựa chọn quan trọng trong cuộc đời mình cách nhanh chóng và theo bản năng. Chưa bao giờ làm tôi thất vọng – hầu hết thời gian.” Ông cười toe với Rafe. “Phải là, Ramsey, tôi nghĩ cậu gã gây phiền phức chết tiệt khi lần đầu tiên cậu đến đây đấy.”

      Rafe nhướng bên mày vẻ châm biếm. “Hầy, còn tôi nghĩ là mình cố hết sức để làm cho cuộc sống của ông đảo lộn cơ đấy. Cho tôi biết, tôi làm gì nên tội thế?”

      Baxter cười khùng khục. “Ừm, cậu đem đến đống phiền phức, nhưng tôi thích nó. Khi cậu đến đây lần đầu, nơi này như là lăng mộ ấy. Khi người đầu bếp của tôi bỏ việc, tất cả gia đình ông ta cũng theo, hai người vợ và đàn con và những người bà con khác. Tôi thấy là mình nhớ họ. Còn giờ, với Laila và Ali – mà tôi nghi ngờ là Laila đưa về nhiều hơn trẻ con mồ côi bụi đời – chỗ này có hơi hướm cuộc sống trở lại.”

      Rafe nở nụ cười bị biến dạng. “Ông là người tốt, Baxter, và tôi rất vui vì gặp ông. Nếu ông có bao giờ trở lại thăm nước , hãy tới ở chỗ tôi nhé. Ông được chào đón nồng nhiệt.” đưa tay ra và hai người đàn ông bắt tay nhau.

      ***

      Ngay khi bình minh ló dạng, Rafe cưỡi ngựa đến nhà Baxter, dắt theo con ngựa cái cho Ayisha cưỡi. Phía sau là hai người đàn ông địa phương cũng cưỡi ngựa và con la chất đầy hành lý.

      “Ngựa ư?” Ayisha ngạc nhiên khi ra khỏi ngôi nhà.

      “Chúng ta ngựa tới Boulac,” bảo . “ xa lắm, và từ đó chúng ta xuồng xuống sông Nile.”

      Những người khác theo ra ngoài để lời chào tạm biệt lần cuối: Laila, Ali, Baxter, và những người giúp việc. Còn có con mèo.

      Mắt ai cũng có chút sưng từ bữa tiệc đêm qua; Laila cho Ayisha bữa tiệc tiễn đưa tuyệt vời, với đống đồ ăn ngon. Sau đó họ ngồi quanh ngọn lửa trong sân, dưới những vì sao, nhớ lại những ngày qua và kể những câu chuyện, rồi đàn, hát và đến phiên Laila, là khiêu vũ. Đó là đêm đầy tiếng cười và nước mắt.

      Sáng nay Ayisha trông rất vui vẻ, quyết tâm vui vẻ. Hãy vờ mình cũng thấy thế, Rafe nghĩ, chú ý tới đôi mắt đỏ hoe.

      vẫn ăn mặc như con trai, nhưng là quần áo đặc biệt dành cho chuyến hành trình: chiếc áo thụng của người Beduoin và cái khăn đầu, được buộc chặt với sợi dây thừng xoắn quanh phần đỉnh đầu thay vì là chiếc khăn xếp. Hoàn hảo cho cưỡi ngựa, như nó thế.

      có đồ đạc của mình chứ?” Rafe hỏi Ayisha. tương phản giữa vẻ vui tươi của ấy với đôi mắt hơi sưng gặm nhấm vào .

      đưa ra cái gói cầm lấy nó để dưa cho những người dẫn đường, họ thêm nó vào đống hành lý.

      “Ừm,” trong giọng chỉ run rẩy chút. “Tôi cho rằng đây là lời tạm biệt.”

      ôm và hôn Baxter trước, sau đó tới Ali người buông đâu mất vẻ gan góc trẻ con của mình, và cố nén tiếng nức nở.

      “Ngoan nào, em trai, khi nào em lớn em tới với chị mà,” trong giọng khàn khàn. “Hãy luyện viết chữ và viết thư cho chị thường xuyên nhé, vì chị nhớ em lắm đấy.”

      “Em viết,” cậu nhóc hứa.

      Laila là người cuối cùng; hai người phụ nữ ôm nhau trong cái ôm ghì, kéo dài. Laila bật khóc.

      Ayisha là người đầu tiên kéo mình ra. “Đừng lo cho em nhé, chị Laila. Em tìm kiếm số mệnh của mình, nhớ chứ? Em vắt cạn trái cam ngọt ngào của cuộc đời. Và em cám ơn chị, cám ơn chị vì mọi thứ.” Giọng vỡ ra, và mím chặt môi lại, thể tiếp tục.

      Laila lau nước mắt với góc áo choàng của mình. “Hãy luôn nhớ em là con trong trái tim chị, và chị em rất nhiều – rất nhiều.”

      Ayisha gật đầu, thể . cúi xuống và bồng lên con mèo, vùi mặt vào lông nó, và sau đó trượt nó vào trong chiếc áo thụng của mình. Khép chặt chiếc áo quanh nó, bước về phía con ngựa.

      làm gì thế?” Rafe . “ thể đem theo con mèo đó.”

      nhìn chằm chằm vào trong ánh nhìn mờ mịt. “Tại sao ?” Hai cánh tay siết chặt cách bảo vệ quanh chú mèo. “Nó là mèo của tôi.”

      Rafe liếc những người khác. “Đó là chuyến hành trình dài và vất vả.”

      “Tom khỏe lắm. Nó có thể sống lâu hơn bất cứ gì.”

      “Nó có thể du lịch trong chiếc lồng chứ?” hỏi. “Nó có chịu được việc bị nhốt ?” Con vật trông khá giống mèo rừng với .

      Im lặng. Đầu cúi xuống con mèo.

      “Bởi vì tàu cầu nó được nhốt trong chiếc lồng hầu hết thời gian. Và cũng có khi chúng ta di chuyển bằng xe ngựa.” liếc vào bầy ngựa. “Chúng ta trải qua hàng giờ những con ngựa này hôm nay và sau đó chúng ta ở trong chiếc xuồng qua sông. Liệu nó ở trong áo thụng của vào tất cả những lúc ấy?”

      Ai cũng biết câu trả lời. Môi dưới của run rẩy. cắn nó xuống, đủ mạnh làm Rafe nhăn mặt. Con mèo trèo ra khỏi chiếc áo thụng của và bấu chân của nó lên vai , húc đầu nó vào cằm . Rafe có thể nghe thấy những tiếng kêu ư ử của nó.

      “Nó là con mèo già, Ayisha,” Rafe nhàng . “Những con mèo già thích thay đổi.”

      vùi mặt vào trong bộ lông của con mèo vì thế thể nhìn thấy vẻ mặt . Con mèo nhào nặn vai , nhìn chằm chằm vào Rafe với biểu dữ tợn, như thể nó biết bắt mất chủ của nó. Cái đuôi của nó, với chóp đuôi bị thiếu mất, co rúm lại.

      “Cậu ấy đúng, con ,” Laila dịu dàng . “Con mèo quá già để thay đổi môi trường sống của nó.”

      “Hãy đưa nó cho Ali,” Rafe với . gật đầu với Ali.

      Ali chạy ra phía trước và đưa hai tay lên lấy con mèo. “Em chăm sóc tốt nó, chị Ayisha, em hứa.”

      Ayisha ngẩng đầu lên. “Tất nhiên tôi biết nó thể cùng tôi,” trong nỗ lực vui vẻ nhưng thành. “Tôi chỉ… muốn chào tạm biệt nó. Nó là – nó là người bạn lâu năm nhất của tôi.” Với đôi môi mím chặt với nhau trong nụ cười run run, Ayisha chuyền con mèo qua, và thêm lời nào, quay người và lên ngựa của mình cách uyển chuyển, cần ai đỡ lên.

      Rafe cũng lên ngựa của mình. “Sẵn sàng” hỏi .

      gật, thể ra lời.

      “Tạm biệt, tạm biệt,” những người khác .

      vẫy tay chào lại, mỉm cười, đôi mắt nhòe vì lệ. Ali chạy theo những con ngựa, con mèo nhảy khỏi tay cậu để lên bờ tường. Nó ngồi, khi chủ của nó biến mất, dõi theo với đôi mắt nâu vàng nheo lại.

      được hai phút, ngay khi Ayisha cố kiểm soát nước mắt của mình, họ ngang qua người đàn ông bận đồ đen trông bụi bặm, khuôn mặt ông ta bị bầm tím từ trận đánh nhau gần đây. Ông ta nhìn đăm đăm vào Ayisha, há hốc kinh ngạc, và đôi mắt nhíu lại vẻ điên tiết.

      “Hay lắm, kẻ đê tiện ở bến sông kìa.” Rafe bắt đầu tiến lên phía trước.

      giơ bàn tay lên ngăn . “, để tôi. Tôi xử .” Bằng tiếng Ả Rập, Ayisha gọi ông ta. “Chú của Gadi, chào. Tôi hy vọng ông đau đớn khủng khiếp lắm. Ờ mà còn có thể tệ hơn nữa cơ! Như ông thấy đấy, tôi khỏi đây với người này. ta có nhiều vàng. Ông chẳng có xu nào. Bởi vì mẹ tôi nguyền rủa ông trong hơi thở hấp hối của bà ấy. Đó là tất cả những gì ông xứng đáng được hưởng.”

      Ông ta rủa và giơ nắm đấm lên, sau đó liếc cái nhìn sợ hãi về phía người .

      cười phá lên. “Vẫn hèn thế cơ à? Ông từng hỏi tôi làm thế nào tôi thoát được đêm đó.” dừng lại cho đến khi họ gần như vượt qua ông ta. “Tôi ở dưới gầm giường suốt lúc ấy, ngay dưới mũi ông, ngay chân ông.” nắm hai bàn tay cách nhau sáu inch. “Và ông biết , chú của Gadi? Chân ông thối um!”

      Nước mắt của biến mất. đá vào con ngựa của mình giục nó phi nước đại, hét ra sau với Rafe, “Đua tới Boulac nào, người !”

      ***

      Gió và họ tới Roseta nhanh hơn nghĩ. Họ lên bờ ở đó, như nhiều người thường làm, để làm chuyến ngắn tới Alexandria bằng đường bộ, qua các hồ, mà chọn chuyến dài hơn bằng đường biển. Rafe chuyện với thuyền trưởng, ông ta bảo rằng giờ phải là lúc để ghé qua Alexandria, mà tốt hơn là thẳng tới cảng. Khi họ vẫn còn rất nhiều thời gian để lên tàu, Rafe đồng ý.

      Ayisha thể vẻ láu lỉnh gương mặt mình khi với kế hoạch thay đổi. “Giờ phải là lúc, gì chứ,” . “ chỉ đồng ý sau khi nghe có ngựa để thuê, và phải cưỡi con lừa từ Rosetta đến Etka rồi và lại phải lần nữa từ hồ Akoubir đến Alexandria. Biết ngay mà!”

      cười toe. “Ừm, tại chân tôi quá dài để cười con lừa. Trông kỳ cục. Với nữa nó làm tôi cảm thấy mình như quái vật.”

      Trong những ngày kể từ khi họ rời Cairo, vui lên rất nhiều. có vẻ như thích thú chuyến , về những thứ thú vị và những cảnh vật lạ lùng, thể mình vui vẻ và tích cực, nhưng Rafe biết nhiều khi chỉ là vẻ bề ngoài.

      Bất cứ khi nào nghĩ ai để ý tới mình, biểu tươi vui của biến dần , và nhiều lần bắt gặp dõi theo đất liền trôi xa trong ánh nhìn vô định. Có điều gì đó làm lo lắng, và đó chỉ là việc tới vùng đất xa lạ – dù Chúa biết, bấy nhiêu thôi cũng đủ đe dọa.

      “Bà của rất vui mừng khi gặp ,” lại lần nữa thế.

      “Vâng, tôi chắc vậy,” cách lịch , nhưng thanh có chút chắc chắn nào. “Và tôi cũng thế.”

      “Higgins cố gắng để mua cho cabin riêng,” bảo vào lúc khác, nghĩ có lẽ sợ hãi về chuyến hải trình này. “Điều đó tùy thuộc vào những hành khách khác,” giải thích. “ có thể phải dùng chung cabin.”

      nhìn với biểu kỳ lạ.

      “Với phụ nữ khác, có lẽ có nhiều phụ nữ,” vội vã thêm vào, và bật cười.

      Cuối cùng, họ cũng đến gần thành phố cổ Alexandria từ biển và thuyền quanh cảng phía tây, nơi con tàu của họ chờ. Rafe, từng tới đây thời gian ngắn trước đó, về những địa danh thú vị nơi đây: là hòn đảo Pharos, nơi mà ngọn hải đăng Pharos cổ xưa, trong bảy kỳ quan thế giới, từng ngự trị và giờ nơi đó là pháo đài đồ sộ từ thế kỷ 15. Vẫn còn số phế tích La Mã, gồm cột trụ Pompey, và giữa những tòa nhà họ nhìn thấy đỉnh của cột tháp Cleopatra hướng lên trời.

      “Và Higgins kia kìa, chờ chúng ta,” Rafe quan sát, nhìn thấy bóng dáng người hầu của điên cuồng vẫy tay, cùng với nhóm phu khuân vác.

      “Tính toán thời gian tuyệt lắm, thưa ngài,” Higgins , chỉ đạo cho nhóm khuân vác hành lý. Ông quay sang Ayisha khi dẫn họ tiến về phía con tàu. “Tiểu thư Cleeve, thích chuyến chứ?”

      “Thú vị lắm, cám ơn ông, Higgins,” . “Nhưng vui lòng gọi tôi Ayisha thôi.”

      “Tiểu thư Ayisha,” Higgins đồng ý, với cái liếc nhanh về phía Rafe. Rafe gật đầu. Higgins là người tốt nhất để dạy Ayisha cách chuyện với những người hầu. tin chịu nghe ông ấy cũng gần chắc như thế.

      “Tôi thể tìm cho cabin riêng, tôi e là thế, tiểu thư,” ông khi hướng dẫn họ lên ván xuống tàu. “Chỉ còn ba giường ngủ: hai cái cho đàn ông và cho phụ nữ. Tôi lẽ ra có thể lấy trong số giường của cabin dành cho Ngài Rafe nhưng vì-”

      “Tiểu thư Ayisha lấy cabin đó,” Rafe với ông. “Tôi lấy giường của ấy.”

      “Bà Ferris thích thế, thưa ngài,” Higgins .

      “Bà Ferris là cái bà phiền phức nào vậy?”

      “Quý bà ở cabin mà tiểu thư Ayisha ở chung. Đó là giường duy nhất còn trống.”

      “Rất vui nếu có người phụ nữ để trò chuyện,” Ayisha lặng lẽ . “Ông Higgins, vui lòng chỉ đường tôi đến đó nhé?”

      “Tất nhiên rồi, thưa , tất cả chúng ta ở cùng boong. Chỉ có hai mươi hành khách.” Ông hướng dẫn Ayisha về phía cầu thang.

      “Higgins, khi nào tàu khởi hành?” Rafe , cử động.

      “Hai giờ nữa, thưa ngài,” Higgins trả lời. “Thủy triều lên lúc đó, và tàu khởi hành.”

      “Tuyệt,” Rafe . “Hai giờ là nhiều rồi, tôi chắc thế.”

      “Nhiều cho cái gì-” Higgins quay lại, nhưng Rafe ở giữa đường xuống ván tàu. Ông hét gì đó đằng sau Rafe, nhưng gió dạt nó và Rafe nghe được. Những bước chân sải dài đưa về phía thành phố. biết chính xác điều muốn, và thậm chí còn biết tiếng Ả Rập gọi nó là gì.

      “Cậu chủ, cậu chủ, thuyền trưởng bảo tùy thuộc vào gió và thủy triều,” Higgins kêu toáng lên. “Lỡ như ông ta rời sớm hơn sao?” Ông bắt đầu chạy theo, nhưng cậu chủ của ông gần tới lối vào thành phố mất rồi.

      “Cậu ấy luôn thế này.” Higgin quay khuôn mặt ảm đạm sang Ayisha. “Vài ý tưởng vào phút chót. Lỡ như cậu ấy lỡ tàu sao đây? Khi đó chúng ta đâu đây?”

      “Tung đồng xu xem ai lấy cabin đó nhé?” Ayisha đề nghị với nụ cười.

      Higgins trông kinh hoàng. “Ồ , thưa , cứ lấy nó. Tôi nào được phép chứ.”

      Ông đưa mắt nhìn quần áo của và sau đó rụt rè . “Dù vậy, thưa , vì cậu chủ Ramsey ra ngoài trong lúc, tôi có thể đề nghị dùng cabin của cậu ấy để thay vào bộ đồ phụ nữ của ? Có lẽ tốt nhất là đừng để bà Ferris nhìn thấy co ăn bận như cậu bé Ả Rập.”

      Ayisha liếc xuống trang phục của mình. “Tôi cũng cho là thế.” đặc biệt trông mong gì với việc trở thành tiểu thư.

      “Tuyệt, đây là chìa khóa đến cabin của cậu chủ Ramsey. Số phòng thẻ. Đó là trong những cabin tốt nhất – khu vực riêng của chủ nhân, và những người có cùng địa vị như . Tôi lấy hành lý của và gặp ở đó, thưa . Ồ – và tôi cũng đem vật dụng tắm lên đấy.”

    2. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      10



      Ayisha muốn di chuyển. Khi Higgins đến tắm, nghĩ đến xô nước – đó là cách tắm trong sáu năm qua, trừ những ngày họ ra sông để giặt giũ rồi xuống đấy tắm với nguyên quần áo.

      Đây là bồn tắm bằng thiếc, đủ rộng để ngồi xuống trong đó – điều thú vị mong đợi. Và nước ấm, thậm chí còn tuyệt hơn. Nhưng xà phòng ngửi lần nữa. Ali rằng nó có mùi đủ ngon để ăn, nhưng đây phải là cái thứ mùi tương tự. Đây là mùi của… hoa nhài? Và mùi gì đó khác nữa. phải hỏi Higgins mới được.

      Nhưng các đầu ngón tay bị nhăn nheo, bằng chứng của việc ở trong nước quá lâu. lấy bình nước sạch, đứng lên, và dội sạch xà phòng ra khỏi người, tóc và tất cả. bước ra khỏi bồn với cảm giác sạch và – ngửi da mình – thơm tho.

      Higgins lo tất cả; thậm chí cả những chiếc khăn. quấn tóc trong cái khăn và lau người với cái khác.

      Cabin này là cabin cao cấp và được thiết kế rất khéo léo, với chiếc giường đủ lớn cho hai người được đặt thụt vào trong góc, với những chiếc ngăn kéo bên dưới nó. Phía bên mở ra của chiếc giường có các chấn song bao quanh, như chiếc giường cũi của trẻ con, để đề phòng người nằm giường bị rơi ra lúc thời tiết tốt, nghĩ.

      Mọi thứ đều được lắp cố định để ngăn ngừa nó dịch chuyển trong trường hợp có bão; cái bàn viết kiêm bàn ăn được đóng ở phía thấp bức tường và vài cái ghế treo móc, được lấy xuống khi cần.

      Cabin khá sang trọng và thậm chí còn có chỗ riêng biệt , dù dành cho tắm rửa, và kế đó là bồn cầu Bramah với thùng nước biển để dội.

      “Hầu hết đều đại và tiện nghi nhất,” Higgins tự hào , ràng có chút thất vọng vì cậu chủ của ông có ở đó để cũng bị ấn tượng thế này.

      Đây là cabin tốt nhất của tàu, Higgins giải thích. Nó được đóng cho người chủ sở hữu con tàu này và vợ ông ấy khi họ du lịch và thường được dành cho khách, Higgins với , với cái nhìn vẻ tự mãn. Ông rất vất vả mới có được nó.

      Lớp gỗ lót cabin được sơn màu trắng, bản lề và các tay cầm bằng đồng, với đèn dầu treo, và các đồ trang trí khác đều sáng bóng do mới được đánh bóng gần đây. Hai cửa sổ đầu giường, nhìn ra đuôi tàu, và ô cửa lớn phía bức tường bên cạnh để lấy ánh sáng.

      Con tàu này nguyên là tàu chiến nhưng được chuyển sang chủ sở hữu mới, và mặc dù có vài lỗ châu mai dành cho những họng súng trong trường hợp có cướp biển, nhiều cái bây giờ được lắp vào khung cửa sổ – những ô cửa sổ – để lấy ánh sáng và khí trong lành vào các cabin hành khách.

      giũ các bộ váy mà mua ra. Rafe rất ràng rằng cần phải lo lắng quá nhiều – chỉ cần có vài bộ trong chuyến là được. được mặc những bộ đồ thời trang mới nhất khi họ tới London. “Khoảng sáu bộ hoặc hơn và vài món nữ trang thông thường,” thế với .

      Vấn đề là có ý tưởng cái gì là “nữ trang thông thường”. Và sáu bộ váy có vẻ là con số khổng lồ đối với . Tuy vậy, rất rất lâu rồi kể từ khi có bất cứ đồ mới nào, cho nên vui vẻ mà nhận ví tiền của và xài tiền của . mặc trong những chiếc áo choàng phủ kín mít của chị Laila, che mặt, và có được thời khắc thú vị, chọn lựa vải vóc và mặc cả giá cả tùy thích.

      chưa bao giờ làm những việc thế này trước đây, và chợt loáng thoáng nhớ hình như mình từng xỏ vào những bộ đồ phụ nữ nào đó trước đây, nhưng tập trung của lúc ấy quá hoàn toàn vào dáng vẻ phụ nữ khiến nghĩ mình chưa bao giờ làm việc đấy.

      Người thợ may rất ngạc nhiên khi cởi chiếc áo choàng bên ngoài ra và cho thấy mình là cậu con trai, và sau đó cởi lớp quần áo con trai bên ngoài ra lại là . bảo người phụ nữ đó là đừng để lộ việc này ra, nhưng biết lời đồn thổi cuối cùng cũng lây lan.

      Điều đó còn quan trọng nữa; đến nước .

      nhìn vào những bộ váy áo trải chiếc giường của cabin. Trong đoạn đường ngắn đến cabin của Rafe, qua vài phụ nữ người , người Pháp, và vài người thể biết quốc tịch của họ là gì. ai trong số họ mặc những bộ váy giống những cái này. Áo của , quyết định, đẹp hơn của họ.

      Các chợ ở Cairo rất tuyệt, và mua giày, khăn choàng vai và cổ, nhưng có trang phục theo phong cách Châu Âu ở bất kỳ đâu, vì thế Ayisha chọn vải và đem chúng đến chỗ thợ may. ta chưa bao giờ may váy áo của người Tây Âu trước đây, người phụ nữ đó thế với , nhưng ta chắc chắn là mình có thể may được.

      Vì thế Ayisha vẽ ra vài kiểu và miêu tả những gì muốn – từ những ký ức mơ hồ của sáu năm trước và những cái nhìn thoáng qua những người phụ nữ quốc đường phố – và người thợ may làm hết sức có thể.

      Chúng rất đơn giản. Hai ngày đủ để làm bất cứ gì phức tạp, vì thế tất cả chúng đều là những kiểu đơn giản tương tự nhau: đường cắt đơn giản, với những chân váy đủ rộng để dễ dàng di chuyển, cổ tròn đơn giản, các ống tay dài đến khuỷu tay, và cột bên dưới ngực với chiếc ruy-băng hoặc sợi dây . Nhưng người thợ may cũng thêm vào kha khá chi tiết làm cho mỗi bộ váy đều có nét đặc biệt: dải vải màu sắc tương phản, đường viền, vài chuỗi hạt. Ayisha thích mê với mọi thứ, thậm chí với cả trang phục lót.

      biết liệu các phụ nữ mặc gì bên dưới các bộ váy của họ. Khi còn là , chỉ mặc chiếc áo lót, nhưng chắc chắn phụ nữ phải mặc nhiều hơn chiếc áo lót. Nhưng có thời gian, vì vậy chỉ mua những chiếc quần vải bó kiểu Thổ Nhĩ Kỳ ngắn đến đầu gối, và vài chiếc áo vải đơn giản xem như là áo lót.

      Trời về chiều, vì thế mặc chiếc váy màu lúa mì với hoa văn xinh xắn của những chiếc lá xanh và những quả mâm xôi, và xỏ vào chân đôi giày mềm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ mà mua. rất thích đôi giày này với thiết kế màu đen tương phản và các tua rua đỏ ở phần mũi chân.

      mở cánh cửa phòng vệ sinh ra và nhìn săm soi vào hình ảnh phản chiếu trong chiếc gương tròn, , nhưng nó bị bắt vít vào trong bức tường ở độ cao ngang đầu nên thể nhìn thấy nhiều.

      chải mái tóc xơ xác và nhăn mặt với cái bóng của mình. trông như cậu bé. lẽ ra nên mua vài chiếc mũ phụ nữ, để giấu mái tóc ngắn ngủn của . Liệu nó có kịp dài ra trước khi gặp bà của mình nhỉ? hy vọng thế. Có lẽ chiếc khăn choàng… phải Rafe phụ nữ đều quấn khăn đầu sao?

      nhìn qua khoảng nửa tá khăn choàng mà mua có tiếng gõ cửa. “Là Higgins, thưa .”

      lao ra để mở nó. “Ông nghĩ bộ đồ mới của tôi thế nào, Higgins?” xoay người để ông có thể nhìn.

      Higgins nhìn bằng ánh mắt nghiêm túc, sau đó gật đầu. “Rất đẹp, thưa .” Ánh mắt ông lang thang qua tóc cái nhăn hình thành giữa các chân mày ông. “Tiểu thư, liệu tôi có thể -”

      “Tôi biết, là tóc tôi, phải ? Tôi nghĩ đến việc mua chiếc mũ, nhưng Ra – Ramsey rằng ở nước vài phụ nữ cũng đội khăn đầu, vì thế tôi nghĩ có lẽ…”

      “Chỉ những người phụ nữ luống tuổi mới đội khăn đầu, thưa ,” Higgins . “Còn dạo này những người trẻ hơn thường để những kiểu tóc ngắn thời trang hơn.”

      “Kiểu ngắn? Nghĩa là… ?” ngập ngừng sờ vào mái tóc mình. “ giống thế này, đúng ?”

      hoàn toàn, thưa , nhưng…” Trông ông có chút ngượng ngùng. “Tôi chưa bao giờ cắt tóc phụ nữ, thưa , nhưng tôi cắt tóc cho cậu chủ, và tất cả bạn bè của cậu khi họ đến chơi.”

      “Ý ông phải là làm cho nó ngắn hơn… đấy chứ?” đặt bàn tay bảo vệ qua phần tóc chừa lại.

      ngắn hơn quá nhiều, thưa , nhưng tạo cho nó kiểu gì đó. Tôi mạo muội cho là với chút kiểu cọ, nó có thể trông khá đẹp đấy. Đẹp và dày với chút lọn xoăn dễ thương.”

      Ayisha nhìn vào vóc người gọn gàng của Higgins và quyết định. “Làm ,” . Nó thể nào trông tệ hơn nữa, và nếu Higgins cắt tóc cho Rafe, ừm, Rafe luôn trông rất thanh lịch.

      “Ngay lập tức, thưa , vui lòng ngồi lên chiếc ghế này nhé?” Higgins để ngồi lên chiếc ghế và quấn tấm vải quanh . Từ chiếc túi đồ nghề cạo râu của Rafe, ông lấy ra cái kéo và chiếc lược. Ông chải tóc theo vài kiểu, rồi có vẻ như quyết định, và bắt đầu cắt.

      chút tóc ướt rớt xuống quanh . Càng nhiều tóc hơn rơi xuống, Ayisha càng căng thẳng. Ông ấy là người hầu nam. Ông ấy tạo cho kiểu tóc nam mất thôi. Điều tốt nhất có thể hy vọng là trông như cậu con trai thanh lịch.

      Xoẹt, xoẹt.

      buộc mình phải bình tĩnh. Nếu nó có tệ như dự tính, buồn bã nghĩ, chỉ đơn giản là đội lên chiếc khăn xếp. Như bà già. Nó làm thêm vẻ trưởng thành.

      Xoẹt, xoẹt.

      thiếu nữ ăn vận như đứa con trai. Còn giờ giống như đứa con trai ăn vận như thiếu nữ. biết cái dạng này trông còn lố bịch hơn.

      “Xong rồi, thưa .” Higgins cẩn thận rút tấm vải ra khỏi người để tóc rơi xuống bộ đồ mới của . Có lượng tóc đáng báo động sàn. “Nhìn vào gương xem, tiểu thư.”

      Cố để lo lắng của mình lộ ra, Ayisha nhìn vào tấm gương. Và nhìn.

      “Higgins…” xoay đầu tới lui.

      “Higgins…” nhìn chằm chằm vào hình bóng phản chiếu của mình trong gương, sau đó xoay vòng. “Tôi cứ tưởng ông làm tôi trông như cậu bé!”

      Higgins cười toe. “Nó thậm chí còn thành công hơn là tôi tưởng, thưa . trông rất xinh đẹp.”

      lại nhìn mình trong gương. “Tôi cũng nghĩ vậy. .. tuyệt vời.” quay sang ông, đôi mắt đầy sương. “Cám ơn, Higgins, cám ơn ông!”

      Ông nhíu mày. “Nhưng mà, thưa , là-”

      chớp nhanh để xua sương mù trong mắt. “Ồ, đừng bận tâm. ngớ ngẩn, tôi biết, nhưng rất lâu rồi kể từ khi tôi cảm thấy mình xinh đẹp. Ồ, Higgins, ông có thể ghét điều này, nhưng mà-” ôm ông, chặt.

      Ông thẳng người lên từ cái ôm nhanh đó, trông lúng túng nhưng cũng đồng thời hài lòng. “ có gì, thưa ,” ông cộc lốc . “Dù vậy đừng tạo thói quen với việc này. Tôi giúp gì được giúp. Tôi biết quả thực rất khó khăn với , vì hầu .”

      “Hầu ?” bật cười. “Tôi hầu nào kể từ khi tôi còn là bé con. Tôi biết phải làm gì với người như thế.”

      học, thưa ,” Higgins trấn an . “Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, nếu cần gì, hãy với tôi. Giờ , thưa , trong khi tôi dọn dẹp ở đây và chuyển đồ đạc của đến cabin của , lên boong và xem thử cậu chủ Rafe có phải về nhé? Có lẽ sắp trễ mất rồi.”

      “Tôi thu dọn đồ đạc của mình.” Ayisha bắt đầu bỏ chúng trở lại gói đồ của mình.

      “Đó là việc của tôi, thưa -” Higgins bắt đầu.

      , đó là việc của người hầu của tôi,” Ayisha vui vẻ . “ ta lười biếng! Nào, để tôi làm – Tôi vẫn chưa là tiểu thư cao quý gì đâu.”

      Higgins ngập ngừng. “ là tiểu thư, biết điều đó, thưa . quan trọng sống ở đâu, hay như thế nào, quý bẩm sinh – theo nghĩa cao quý nhất của từ này.”

      Những lời của ông làm Ayisha ngạc nhiên. “Cám ơn ông, Higgins,” . “Đôi khi tôi tự hỏi mình xoay sở ra sao ở đây.”

      Ông bắt đầu gom lại thành đống món tóc bị cắt của . “ ổn thôi, tiểu thư. Đất nước tốt nhất thế giới đấy. Chỉ cần học hỏi các quy tắc, chỉ vậy thôi. Mỗi nơi đều có những quy tắc kỳ lạ của nó, đúng ?”

      “Đúng vậy,” trầm ngâm , gập lại gói đồ của mình. chỉ là mỗi nơi, mà còn ở mỗi nhóm người khác nhau trong cùng nơi. Khi còn bé, đó là những người bạn của Mama – những quý bà, ai là người – và sau đó là các bạn bè người của Papa và khách khứa đến từ khắp nơi thế giới – là những thương nhân, đa phần. Và sau đó là các gia nhân. Và với mỗi nhóm, các quy tắc đều khác nhau.

      đường phố, là bộ quy tắc mới hoàn toàn. Ở đó, học hỏi là vấn đề sống còn. Việc này hẳn dễ dàng hơn nhiều. Higgins có lý; đó chỉ là vấn đề của việc thực các nguyên tắc.

      Higgins xong việc dọn dẹp và bắt đầu mở hành lý của Rafe ra. “Bản thân tôi cũng phải học cách xoay sở trong ngôi nhà lớn, thưa . Khác biệt rất nhiều với cách tôi trưởng thành, và cũng rất khác so với trong quân đội. Gia nhân trong ngôi nhà lớn, ừm, họ cũng có thể trưởng giả học làm sang như những người giàu có – vài người còn hơn cả thế.” Ông nháy mắt. “Nhưng tôi là người linh hoạt, vì từng phục vụ cho cậu chủ khi cậu ấy ra trận.”

      “Tôi cũng là người linh hoạt,” .

      “Đúng vậy, tiểu thư. Tôi mong cũng là người nhanh học hỏi. là người có phẩm chất, thưa , hoàn toàn. Nào, đây là chìa khóa cabin của . Bà Ferris có ở đấy lúc nãy. Có lẽ bà ấy ở boong. Hầu hết họ ở đó, chờ tàu nhổ neo. “Ông kéo chiếc đồng hồ ra và lắc đầu. “Tính vừa sát nút, cậu chủ ấy, lần này.”

      ***

      Hoàn toàn có phẩm chất? tiểu thư bẩm sinh? Ayisha nghĩ khi chuyển đồ đạc của mình qua cabin của . Giá như ông ấy biết. Tuy nhiên chúng là những từ rất có tính khích lệ. gỡ cửa, nhưng có ai trả lời vì thế bước vào. Nó hơn cabin của Rafe, với ô cửa sổ thay vì là hai. Hai chiếc giường được gắn cố định ở thành tàu, chiếc này chồng chiếc kia. Chiếc giường thấp hơn có cái khăn choàng và cuốn sách nằm đó. Của bà Ferris, nghi ngờ.

      nhìn tiêu đề cuốn sách. Những bí của Udolpho, tác giả Mrs. Radcliffe. liếc vào bên trong và nhìn thấy đó là cuốn tiểu thuyết và tự hỏi liệu bà Ferris có cho mượn sau khi bà ấy đọc xong . rất lâu rồi kể từ khi đọc bất cứ gì.

      Ayisha thấy hài lòng. khá thích với cái ý tưởng ngủ chiếc giường tầng . có thể nhìn ra ngoài khung cửa sổ kia. liếc ra ngoài và nhìn thấy hàu hết các hoạt động cầu tàu dừng lại. Chỉ có vài người đứng quanh đó, vẻ chờ đợi. Con tàu sớm rời . Và Rafe ở nơi nào?

      nhanh chóng sắp xếp gọn ghẽ đồ đạc của mình và vội vã lên boong, tóm lấy chiếc khăn choàng ở phút cuối cùng. Khoảng chục người tụ tập dọc theo lan can ở cuối tàu – là các hành khách, đoán thế từ quần áo của họ. cảm thấy chút e dè để sẵn sàng tham gia cùng họ. Bên cạnh đó, có dấu hiệu gì của Rafe.

      Gió mạnh hơn, thổi phần phật những cánh buồm và quần áo của Ayisha. Mái tóc ngắn của bay trong gió và sau nhiều năm phải đội khăn đầu, cảm giác thoải mái và dễ chịu, nhưng chiếc váy cứ quấn quanh chân làm có cảm giác bị phô bày ra. Váy áo của phụ nữ quốc rất mỏng. thấy mừng vì có chiếc khăn choàng và chỉ vì những làn gió.

      hầu như để ý mình có ngực trong khi là con trai – vì chúng là mối đe dọa và phải được làm cho thấy được. Việc bó ép làm cho nó phẳng . Còn giờ cần phải làm cho nó phẳng nữa và cảm giác … kỳ lạ.

      nhìn xuống khi dọc qua boong tàu, tránh các hành khách khác. bị nảy lên nhiều lắm, nhưng dù vậy… thử bật nhanh người, nhằm kiểm tra thử. Chiếc khăn nảy lên với .

      phải kiếm chiếc cooc-xê. thậm chí còn nghĩ tới việc mua cái. phải cái gì cũng có bán trong chợ.

      dựa người vào lan can và nhìn ra thành phố. Mặt trời xuống thấp thấy . ta gần hai tiếng rồi. ta ở chỗ khỉ nào vậy?

      ***

      Thuyền trưởng bắt đầu đưa ra những mệnh lệnh, các thủy thủ tất bật tới lui làm việc với những cánh buồm, với các dây thừng cuộn lại, và thanh chói tai vang lên cho biết họ nhổ neo, và vẫn thấy bóng dáng người cao to trong đôi ủng cao đen.

      Ayisha sốt ruột tới lui boong. Đôi giày da mềm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ bắt đầu làm đau .

      Chuyện quan trọng quái quỷ gì khiến ta phải vội vàng như thế và mạo hiểm việc bị trễ tàu chứ?

      Và sau đó phát ra , sải bước như thể có tất cả thời gian thế giới này, vác cái bao lớn trông có vẻ nặng vai.

      sải bước lên cầu tàu vừa đúng lúc các thủy thủ nâng nó lên, những câu đùa gì đó khiến họ bật cười. sĩ quan chào , hoan nghênh lên tàu.

      chờ giải thích, nhưng gần như sượt qua , sau đó dừng lại và nhìn chằm chằm.

      “Ái chà, nhìn kìa,” nhàng . “ phụ nữ. Và phải trông dễ thương sao. Ai làm tóc cho thế?”

      niềm vui ấm áp dâng lên với lời khen kia cướp mất lời chua cay định . “Higgins cắt cho tôi,” thầm.

      “Đẹp lắm.” Ánh mắt lướt qua , bắt lấy mọi thứ. đủ ngượng ngùng trước khi nhìn . Còn giờ cảm thấy bị phô trần ra. nửa trần trụi.

      kéo chiếc khăn choàng quấn chặt hơn quanh mình. “ lạnh?” .

      ,” nhanh. “Nhưng Higgins và tôi rất lo lắng.”

      “Về cái gì?”

      há hốc. “Về cái gì ư? mém bị lỡ tàu đấy!”

      “Higgins biết tôi chưa bao giờ bị lỡ tàu,” . “ nhớ tôi à?” trông có vẻ hài lòng với bản thân.

      khoanh hai tay. “. Nhưng chuyện gì khiến bỏ như thế? Còn cả báo trước và giải thích?”

      cười toe. “ nhớ tôi.”

      “Thậm chí, Higgins và tôi quyết định tung đồng xu giành cabin của rồi đấy.”

      bật cười. “Vớ vẩn, Higgins bao giờ đồng ý chuyện đó. Nào, quan tâm tôi mang về gì cho à?” giơ chiếc túi lên. “ ngờ cái gì trong này đâu.”

      “Tôi quan tâm nó là cái gì -”

      “Cát,” .

      “Cát?” “ phải là tất cả…”

      xém tí nữa là trễ tàu vì cát ư?” trừng trừng nhìn . “Sao dám lôi tôi qua Ai Cập, sau đó xém tí nữa là bỏ rơi tôi chiếc tàu xa lạ với đống người xa lạ, vì lý do thế này,” gắt gỏng . khó mà vẫn giận dữ với khi cứ tiếp tục giữ nụ cười với như thế. Cái thói quen này khó chịu.

      “Tôi nào có bỏ rơi hoàn toàn,” , đôi mắt xanh của nhấp nháy. “ có Higgins mà.”

      thụi vào cánh tay . Ngay lúc ấy chiếc áo gi-lê của phát ra tiếng ngao ngao nho .

      “Tiếng gì thế?” nhìn đăm đăm khi chỗ phình trong áo gi-lê của chuyển động.

      “Quà thượng lộ bình an của ,” với vẻ hoan hỉ và lôi ra con mèo con nhắn, màu trắng bạc đốm đen. Đôi tai lớn của nó có nhúm lông đen ở chóp. Nó trông như con báo tuyết màu bạc và đen thu . Nó nhìn chăm chăm vào Ayisha với đôi mắt lớn màu hổ phách và buồn bã kêu meo meo.

      con mèo con,” . Báo tuyết là biểu tượng của quê hương mẹ .

      “Tôi biết. Tôi nghĩ thích có bạn đồng hành chuyến hành trình dài này.” Giọng trầm trầm, có chút thích thú, và cho thấy hiểu nỗi buồn của khi phải để Tom lại.

      nhìn đăm đăm thốt nên lời, miệng méo mó.

      “Này,” trong giọng dỗ dành. “Tôi nghĩ thích mèo.”

      bật ra tiếng cười rách rưới và chớp những giọt nước mắt vừa mới bắt đầu. “ biết tôi đồng ý mà, và nó đẹp, cám ơn .”

      “Thế tốt rồi.” trao con mèo cho , và Ayisha ôm nó vào ngực, vuốt ve và thầm với nó. Cùng thời điểm đó, boong tàu thình lình giật mạnh bên dưới chân họ và con tàu của họ rời khỏi bờ biển Ai Cập.

      Ayisha đứng, nhìn ra ngoài, vuốt ve con mèo của mình, cho đến khi Ai Cập chỉ còn là đốm ở đường chân trời.

      “Chúng ta xuống dưới, kiếm chỗ cho quý này nhé?” Rafe cuối cùng cũng lên tiếng, và gật đầu. Cổ họng như có gì đó mắc kẹt bên trong và thể cất nên lời.

      ***

      “Đó là con thú!” giọng phát ra khi Ayisha bước vào cabin. người đàn bà luống tuổi, gầy, thanh lịch ngồi chiếc giường bên dưới, hai chân duỗi ra, đọc sách. Bà ta nâng cái kính cầm tay lên và nhìn săm soi vào con mèo.

      “Dạ phải, con mèo.”

      “Ta có thể thấy, nhưng nó làm gì trong cabin của ta?”

      “Đây cũng là cabin của cháu,” Ayisha cách vui vẻ. “Cháu là Ayisha… Cleeve,” miễn cưỡng thêm vào, đưa tay ra. Đây là lần đầu tiên dùng tên Cleeve. muốn, nhưng phải có cái họ và đó là họ của cha , ngay cả khi được quyền dùng nó.

      Bà Ferris nhìn khắp người qua chiếc kính cầm tay. “Ta đồng ý dùng chung phòng với Cleeve, chứ phải với con vật.”

      “Cháu cũng biết về con mèo con này; nó là món quà vào phút cuối,” Ayisha giải thích, vuốt ve con mèo. “Nó thậm chí còn chưa có cái tên. Bà thấy nó xinh xắn ư?”

      Bà Ferris khịt mũi. “Ừm, mấy cái đốm của nó lạ. Ta chưa bao giờ nhìn thấy con mèo đốm trước đây. Nó có bọ chét ?”

      “Cháu biết,” Ayisha , “Nhưng cháu gọi ít nước ấm rồi. Cháu tắm cho nó, để đảm bảo.”

      Bà Ferris đứng dậy. “Tắm cho con mèo á? Ta tưởng chúng ghét nước chứ.”

      Ayisha mỉm cười. “ phải con mèo nào cũng thế đâu ạ. Mèo của cháu, Tom, thích nước lắm. Chúng ta xem thử con này có thế .” Khi , tiếng gõ cửa vang lên.

      Là Higgins, mang tới xô nước ấm, cái chậu sâu, cái ca thiếc, ít xà phòng, và cái khăn. Ông liếc ra đằng sau nhìn bà Ferris quan sát từ chiếc giường của bà, cái kính nâng lên. “Của đây, tiểu thư. Tôi trở lại trong chốc nữa để đem mấy thứ này . Tôi vừa mới chuẩn bị hộp cát, và thứ gì đó để ăn.”

      “Cám ơn ông, Higgins.” Ayisha cho ông nụ cười ấm áp và nhận nước.

      “Người đàn ông đó là ai vậy?” Bà Ferris hỏi khi cánh cửa đóng lại.

      “Higgins? Ông ấy là người hầu của Ramsey.”

      “Thế ai là Ramsey?”

      Ayisha bận rộn tự mình rót nước vào trong cái bát và tự hỏi làm thế nào để giải thích ngắn gọn thôi. “ ấy là người bạn của bà cháu,” cuối cùng . “ ấy hộ tống cháu trở về nhà bà ấy ở Hampshire.”

      “Ta hiểu. Ta thích cái người tên Higgins ấy vào trong cabin của ta. Người hầu của đâu?”

      Ayisha ngồi sàn, quấn chiếc khăn qua phía trước , và bế con mèo lên. “Cháu có người hầu .”

      người hầu á?”

      .” Ayisha đưa con mèo vào trong nước.

      “Tại sao?”

      Ayisha vờ nghe thấy. Có gì khó khăn đâu. Con mèo ầm ĩ phản đối, kêu toáng lên, ngọ nguậy và cố leo lên cánh tay để ra khỏi nước. Nó có những cái móng rất sắc.

      Ayisha xoa dịu nó bằng lời và hai tay, và cuối cùng, cách vui vẻ gì, nó ngồi yên, cái cằm ngập trong nước, ngước nhìn với đôi mắt to, trách móc.

      “Thấy , đâu có khó chịu gì đâu, đúng ?” Ayisha với nó.

      Con mèo có vẻ như xem xét lời của , sau đó cắn lên ngón tay .

      “Ối, đồ tiểu ,” Ayisha cười khúc khích, phải là lời mắng mỏ gì. xoa ít xà phòng trong bàn tay – lần này ngửi thấy mùi thuốc nhàn nhạt, Higgins hẳn có nhà máy sản xuất xà phòng, quyết định – và nhàng xoa nó qua lông con mèo. nhàng dội sạch nó, đặt cái khăn lên đùi, sau đó nhấc cục lông ướt khốn khổ kia ra và bắt đầu dịu dàng lau khô nó.

      Con mèo hắt hơi hai lần, và phẫn nộ lắc lắc người nó, nhưng rồi ngay sau đó bắt đầu thích thú với chiếc khăn. Nó rên ư ử và bắt đầu nhào nặn chiếc khăn, vồ lấy miếng vải trong các móng vuốt của mình, sau đó quyết định góc khăn là kẻ thù của nó và bắt đầu chiến đấu với các móng vuốt của mình và cắn nó.

      Ayisha đặt con mèo lên sàn và dọn dẹp sạch mọi thứ. Con mèo tò mò nhìn xung quanh, sau đó, như thể nó phải vừa mới tắm xong, tiến hành liếm láp khắp người.

      Bà Ferris quan sát toàn bộ quá trình với vẻ tò mò. “Tôi luôn nghe mèo rất sạch và con này có vẻ như cũng thế,” cuối cùng bà . “Sinh vật bé ngộ nghĩnh.”

      “Nó đáng ,” Ayisha đồng ý, mặc dù đó phải hoàn toàn là những gì bà Ferris có ý muốn đến. “Cháu phải nghĩ ra cái tên cho nó.”

      Con mèo bắt đầu khám phá cabin, đánh hơi và dòm ngó mọi thứ cách cẩn thận. Ayisha cố nghĩ ra những cái tên. Con mèo vồ kẻ thù tưởng tượng. Vồ? Vì lý do gì đó, điều đó gợi lên con mèo to béo hơn trong đầu, còn con này gầy hơn và rất dễ thương. Ayisha nhìn vào những vết xước cánh tay . Những cái vuốt sắc bén. Claudette?

      “Nó đánh hơi gì thế nhỉ?” Bà Ferris hỏi. Con mèo khịt mũi trong góc phòng.

      Ayisha đột nhiên cảm thấy nó có thể tìm cái gì đó cụ thể. Ayisha xốc nó lên trong bàn tay. mở cánh cửa cabin ra và cầm lên xô nước dơ với tay kia.

      “Cháu đưa nó theo trong khi tống khứ thứ này,” giải thích với bà Ferris cách vội vàng. “Cháu trở lại ngay thôi.”

      May mắn là Higgins ở bên ngoài và chuẩn bị xong. xuống vài cánh cửa phòng là nhà kho và với chút hối lộ hợp lý, ông thu xếp được khay cát, cát dự phòng, và các nhu cầu khác mà con mèo cần cũng được lưu kho ở đó. Cũng có cái giỏ, với cái nắp có gắn chốt, vì thế con mèo có thể được nhốt an toàn trong đó khi cần thiết.

      Ayisha đặt con mèo vào trong khay cát, và với chút cổ vũ, con mèo đánh hơi vào cát, cào ra cái lỗ, và thải vào đó. Nó lấp lại cái lỗ, bước ra khỏi khay, giũ cát ra khỏi các móng vuốt của mình cách khó chịu, và ngước lên nhìn Ayisha trong biểu ràng là muốn được bế lên. Đuôi nó ngoe nguẩy và hai cái tai có chóp màu đen của nó giật giật. Meo?

      “Tôi đặt tên cho nó là Cleo,” Ayisha , nhấc con mèo lên.

      “Nó hống hách, vương giả, xinh đẹp và Ai Cập. Và,” thêm vào khi con mèo kêu lên tiếng meo buồn bã, “đói.”

      “Vâng, thưa ,” Higgins đồng ý. “Tôi kiếm cho nó ít cá dưới nhà bếp rồi.”

      ***

      du lịch tới Ai Cập với cái Ramsey ấy à?” Bà Ferris hỏi vào sáng hôm sau.

      ạ, cháu gặp ấy lần đầu tiên ở Cairo.”

      “Làm thế nào mà ở đó, lúc ấy – đến Ai Cập, ý tôi là thế?”

      “Cháu sinh ở Ai Cập.”

      trông phải người Ai Cập. Và mặc dù cái họ của có hơi lạ, nhưng Cleeve phải là cái họ của người Ai Cập.” Bà Ferris quyết tâm tìm hiểu xem chính xác Ayisha là ai, để phân loại , và tính toán cách chính xác cần được cho bao nhiêu tôn trọng – hay được cho.

      .” Ayisha trượt chân vào đôi giày mềm và bế Cleo lên. “Cha cháu được sinh ra ở Ấn Độ.” Điều đó làm cái bà già tò mò này bối rối. cũng trông giống người Ấn Độ.

      Nhưng Bà Ferris dễ bị lừa. “Công ty John? Ông ấy làm việc cho Công ty John?” Bà muốn đến Công ty Đông Ấn của ; đó là cái tên mà những người ở đó dùng.

      , nhưng bố của ông ấy làm ở đấy. Xin thứ lỗi,” Ayisha khi lẻn ra khỏi cabin. “Con mèo cần ị.”

      Nhưng bà Ferris vẫn còn chờ đấy với nhiều câu hỏi hơn khi họ quay trở lại.

      có biết ai ở Ai Cập – là Cairo, ở đó, đúng ?”

      “Vâng, Cairo, nhưng ở đó có quá nhiều người để mà biết tên.” Ayisha đặt Cleo lên giường của cũng trèo lên đó, hy vọng bà Ferris biết nó ngụ ý gì.

      Nhưng cuộc điều tra vẫn tiếp tục. “Có người nào quan trọng mà biết ?”

      Ayisha đảo mắt. “Ừm, có ngài Salt, tất nhiên,” bắt đầu, ra tên ngài tổng lãnh . “Papa biết ông ấy khá .” nghĩ thế. Ông Salt từng đến nhà họ lần khi còn , với du khách người , Viscount gì đó, người gọi nhân viên của mình đơn giản là Salt. Salt khi ấy là họa sĩ trẻ và có cho Papa xem vài bức tranh của mình. nhìn họ giữa những chấn song cầu thang, nhưng chỉ nhớ ông ta bởi vì tên của ông ta. Nó có vẻ buồn cười với khi gọi ai đó là Salt.(*)

      (*: Salt nghĩa là muối – ND)

      Những năm sau đó, Salt có quay lại Cario, bấy giờ là người rất quan trọng, như là Ông Salt, tổng lãnh quốc. từng nhìn thấy ông ta rất gần vài lần, nhưng lúc ấy sống như là đứa con trai. Và cho dù có ăn bận như bây giờ, ông ấy vẫn biết trừ khi giải thích cha là ai.

      Nhưng mọi người bảo ông Salt có nhiều nô lệ, vì thế gì với ông ta.

      “Xùy, ai cũng biết ông Salt,” bà Ferris . “ thăm ai ? Thế còn-” Bà liệt kê ra loạt các tên, với mỗi cái tên đó, Ayisha đều , “, , ,” và chơi với con mèo của mình.

      “Cha sống ở đâu?”

      “Trong ngôi nhà cũ kỹ ở Cairo, nhìn ra sông.”

      “Hãy miêu tả nơi ấy.”

      Ayisha đưa ra lời tả mơ hồ.

      Còn đủ gọi là mơ hồ. “Ta tin ý là ngôi nhà cũ đó có những người làm công di cư đến,” bà Ferris khịt mũi. “Ừm, nếu đó là nơi sống…” ràng Ayisah là người tiền.

      “Tôi biết ai sống ở đấy bây giờ,” Ayisha , khó chịu. “Kể từ khi cha mẹ tôi qua đời, tôi sống với phụ nữ Ai Cập.”

      người Ai Cập?” Bà Ferris , khinh miệt ràng trong cái từ đó.

      “Vâng, người phụ nữ rất tử tế và đáng kính trọng vừa mới kết hôn với người .”

      “Ai?”

      “Ông Johny Baxter,” Ayisha , nghĩ người đàn bà này im lặng. Ông Baxter là người tử tế, đẹp trai, và giàu có, cũng như là người quốc; ai có thể gièm pha gì ông.

      sai. Bà Ferris có thể gièm pha bất cứ ai. “Cái người biến thành người bản địa phải ?” Bà phát nó thành ‘bẩn địa.’ “ sỉ nhục cho đất nước của ông ta.”

      phải! Ông ấy là hùng chiến tranh,” Ayisha nóng nảy tuyên bố. “Ông ấy bị thương nặng trong trận chiến sông Nile.”

      “Vậy đó quả là điều đáng tiếc khi ông ta thành người bản xứ, nhỉ?”

      Ayisha nhảy ra khỏi giường và bế Cleo lên. “Con mèo phải ị,” tuyên bố và ào ra khỏi phòng.

      “Nữa à?” Giọng bà Ferris trôi ra ngoài khi Ayisha đóng cửa lại. “Ta hy vọng cái con vật đó bị bệnh gì đó. Ta dùng chung cabin với con mèo bệnh hoạn đâu đấy.”

    3. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      11



      “Trông tôi ổn chứ ạ?” Ayisha hỏi bà Ferris tối đó. “Tôi dùng bữa ở bàn của thuyền trưởng tối nay.” Flavia là chiếc tàu buôn thường xuyên chạy theo các tuyến đường thương mại Địa Trung Hải, chuyên chở hàng hóa và vài hành khách giữa và Phương Đông. Nó thuộc sở hữu của người sống ở Ý, và thuyền trưởng của nó là người mang hai dòng máu Ý và Ái Nhĩ Lan.

      Bà Ferris tạm dừng việc sửa soạn của mình để , “Thuyền trưởng Gallagher nổi danh là người hòa đồng, tiếc là có những… quan điểm dân chủ.” Bà cái từ đó như thể nó để lại dư vị khó chịu trong miệng. “Vì thỉnh thoảng ông ta mời người khách – thuộc bất kỳ thành phần nào; tất nhiên là với những người hầu – cùng dùng bữa ở bàn ăn với ông ta. Nhưng ta khá nghi ngờ được nhập hội cùng ông ta tối nay.”

      Bà chỉnh lại chuỗi ngọc trai ở cổ và tiếp, “Được mời dùng bữa tối với ông ấy ngay tối đầu tiên ra khơi là tín hiệu của danh dự. Tôi ăn tối ở bàn ăn của thuyền trưởng. Tôi khởi hành từ với ông ta, và chúng ta là những người bạn khá lâu rồi. Vì thế cần phải lo lắng về trang phục.” Bà ném tới bộ váy của Ayisha cái nhìn vẻ chê bai.

      “Tôi thích bộ váy này,” Ayisha với bà. thực thích bộ váy này. Màu của nó hợp với màu mắt , và người thợ may thêm dải viền khác màu quanh gấu váy. Dải viền đó là thiết kế hình học màu đen nền màu xanh lá nhạt, và được xen kẽ với những đóa sen màu kem và hồng, và những con cá sấu . Mặc nó như mang theo cả mẫu sông với . mặc nó với chiếc khăn choàng lụa có tua rua, màu kem.

      khá chắc chắn mình được mời đến bàn của thuyền trưởng; Higgins đem đến cho lời nhắn của Rafe trước đó, rằng đến đón lúc sáu giờ và thêm rằng đó là lời mời danh dự cho bữa tối đầu tiên, và hãy mặc đồ đẹp nhất của . Nhưng ích gì để tranh cãi với bà Ferris.

      liếc nhìn người hầu của bà Ferris. “Tóc tôi ổn chứ?” quấn chiếc khăn màu lục nhạt lấp lánh ánh kim và thắt gút nó ở quanh đầu.

      “Vâng, tiểu thư,” hầu . “Chiếc khăn đó trông khá hợp thời trang đấy ạ.”

      “Woods,” bà Ferris theo cái kiểu đàn áp.

      “Vâng, thưa bà,” người hầu và, với nụ cười mỉm nhanh với Ayisha, quay trở lại bà chủ của mình.

      tiếng gõ cửa và Ayisha đứng dậy, nhưng bà Ferris , “Cửa, Woods,” và người hầu của bà vội ra mở cửa.

      “Là ông Ramsey tới tháp tùng tiểu thư Cleeve,” giọng trầm trầm lên tiếng.

      cơn hồi hộp chạy qua Ayisha khi nhìn . chỉ từng nhìn thấy trong chiếc quần chẽn màu nâu và mang ủng, nhưng ăn bận cách trang trọng, trong chiếc áo khóac đen thanh lịch, sơ mi trắng nổi bật, và chiếc áo ghi-lê mà xám nhạt, mùi râu cạo còn mới và với nụ cười nhàn nhạt hướng vào , lấy mất hơi thở của .

      trông dễ thương,” . “Chiếc váy khá hợp với mắt . gì có thể hợp, tất nhiên – vì chúng rất khác thường – nhưng rất rất hợp.” Ánh mắt thả xuống gấu váy. “Tôi thấy mang dòng sông thân theo mình rồi đấy. chi tiết độc đáo khác. Nào, sẵn sàng cho bữa tối rồi chứ?”

      Ayisha gật đầu và bước về phía trước. Nụ cười trong mắt làm cảm thấy hơi ngượng ngùng. Và bộ đồ này ổn, thế. Và hiểu về con sông.

      Đằng sau , bà Ferris hắng giọng đầy ngụ ý, và Rafe nhìn ra sau Ayisha.

      “Bà Ferris, tôi đoán,” với nụ cười. “Rafe Ramsey hân hạnh phục vụ bà.”

      Bà Ferris đưa tay ra và Rafe cúi xuống nó.

      ở đây để hộ tống này?” bà trong giọng hoài nghi nhàn nhạt.

      Ayisha bắt mình nín lặng.

      “Đúng vậy,” Rafe xác nhận, đưa cánh tay mình ra cho Ayisha nắm. bước lên và đặt bàn tay lên cánh tay . phủ lên nó với bàn tay .

      Đôi môi bà Ferris mỏng dính. “ ta là bạn của bà ta.”

      “Đúng vậy.”

      “Nhưng tôi cứ tưởng đấy phải là người đàn ông nhiều tuổi hơn.”

      nhướng bên mày đen. “Tôi sao, thưa bà?” trong phong thái chừng mực, lịch hơn bao giờ hết, cho thấy đó phải là chuyện của bà ta. “Cuộc đời đầy rẫy những thất vọng, phải sao?” Và đưa Ayisha .

      giữ nguyên phong thái bước nghiêm trang cho đến khi họ tới cuối hành lang, sau đó khẽ nhún nhảy cái với vẻ hân hoan. “Tôi rất vui vì thô lỗ với cái bà ấy. Bà ta là- là-”

      “Tôi chẳng thô lỗ chút nào,” . “Tôi là người cực kỳ lịch .”

      “Vâng, thô lỗ cách lịch .” cố tìm từ miêu tả những gì làm. “Như quý tộc lịch thiệp.”

      “Bà ta thô lỗ với ?” nghiêm túc hỏi. “ có muốn tôi cầu chuyển bà ta ?”

      thể nào,” . “Tất cả các cabin đều hết chỗ rồi.”

      “Nếu bà ấy tử tế với , tôi cầu chuyển bà ấy ,” trong giọng thuyết phục rằng có thể làm, lẫn làm như thế.

      quan tâm của làm cảm động. Chưa ai từng lo lắng về chuyện mọi người tử tế với trước đây. phải đối mặt với quá nhiều điều tồi tệ hơn là khiếm nhã hoặc dễ chịu; có thể chịu đựng được những sở thích của bà Ferris.

      , đừng lo. Tôi dù sao cũng đâu gặp bà ấy nhiều. Bà ấy du lịch với hai phụ nữ khác – tất cả họ đều là quả phụ, và bà ấy dành nhiều thời gian của mình với họ. Với cả biết , tất cả họ đều có những hầu , nhưng những người hầu đều phải dùng cabin dành cho người hầu ở boong dưới. Woods kể với tôi là có sáu trong cabin lớn hơn cabin của tôi, và tất cả đều phải ngủ trong những chiếc võng. ấy thích điều đó, nhưng tôi thích ngủ trong võng. Tôi chưa bao giờ làm điều như vậy.”

      ngủ trong chiếc võng!”

      cho cái nhìn kỳ lạ. “Chỉ mới cách đây lâu, tôi vẫn phải ngủ ngoài trời đất đó thôi.”

      “Đúng, nhưng tôi hứa với , bao giờ lần nữa.”

      thể biết được.”

      “Tôi có thể. Tôi đảm bảo.”

      câu kỳ lạ khi mà chỉ là người đưa về với bà nội của . làm thế nào đảm bảo cho điều như thế? Nhưng quanh khuôn miệng thể cáu kỉnh, tức giận, vì thế quyết định thôi vặn hỏi nữa.

      trở lại chủ đề về bà Ferris. “ thấy lạ lùng vì bà Ferris để người hầu của mình trong cabin của bà ấy sao? phải thích chia sẻ phòng với người hầu của mình hơn là người xa lạ sao? Nếu như tôi là người xấu sao? Hoặc ngáy to?”

      “Phải, nhưng bà ấy muốn trả giá vé cho người hầu bằng giá vé của mình. Giá tiền của cái cabin ấy bảo đảm rằng ít nhất là người thuộc tầng lớp có tiền, cũng quan trọng kém với người phụ nữ thuộc cùng tầng lớp với mình.”

      bật cười. “Tội nghiệp bà Ferris. Bà ấy bị lừa rồi, đúng ?”

      nhìn vẻ kỳ quặc. “Tại sao?”

      “Ai đó thuộc tầng lớp lắm tiền nhiều của ấy?” bật cười cái nữa. “Tôi xu dính túi. Dù vậy tôi có con mèo quý phái, vì thế có nhiều việc để làm. Bà Ferris thích mèo, nhưng bà ấy vẫn để tôi giữ Cleo trong cabin.”

      “Và Cleo – tên hay lắm, nhân tiện – có phiền nếu có bà Ferris trong cabin ? Nó làm tôi ấn tượng vì con mèo mà được đánh giá cao như thế.”

      “Ai cơ, bà Ferris hay Cleo?” Ayisha đùa. “ đúng, nó là con mèo giàu cảm xúc. nên nhìn thấy nó nhặng xị thế nào khi bị bắt tắm.” kể cho nghe tất cả về nó.

      “Thế tiểu thư Cleo bây giờ ở đâu?” hỏi. Họ đến phòng ăn và mở cửa cho .

      “Trong cái giỏ của nó giường tôi,” khi bước qua. “Trừng trừng nhìn mấy chấn song và kêu meo meo lên để cho thấy nó hài lòng thế nào. Nhưng nó phải quen điều đó. Nó còn . Bạn có thể quen với bất cứ gì khi bạn còn .”

      ***

      Rafe nhiều trong bữa ăn. nhìn Ayisha bỏ bùa thuyền trưởng Gallagher và hai sĩ quan trẻ khác, trung úy Green và Dickinson. Còn có bảy người khác ở bàn của thuyền trưởng: bà Ferris và hai bà bạn, bà Wiggs và bà Grenville; mục sư trẻ, Mục sư Payne, và vợ – vừa mới cưới và thăm Jerusalems trong tuần trăng mật của họ.

      quyến rũ của với hai sĩ quan kia phải là điều bất ngờ; ngoài việc xinh đẹp ra, còn là người phụ nữ duy nhất chưa lập gia đình dưới năm mươi tuổi tại bàn ăn này.

      Nhưng thuyền trưởng cũng ở trong độ tuổi năm mươi, người đàn ông kết hôn hạnh phúc và người ông đáng tự hào. Rafe khám phá ra tất cả những điều này kể từ khi ngồi xuống. Ayisha hỏi thuyền trưởng tất cả về gia đình ông và sớm suy luận ra thông tin rằng sau khi sinh ra bảy người con trai, niềm vui và niềm tự hào của ông là ba đứa cháu nội, là cháu đầu tiên trong gia đình ba thế hệ của ông, công chúa của ông.

      Rafe nhấm nháp ly vang của mình, ngồi tựa lưng, và nhìn Ayisha, như bị thôi miên. Hẳn rất nhiều năm kể từ khi ngồi ở bàn ăn theo phong cách của người , nhưng ai đoán được điều đó. ăn với với phong thái tự nhiên và có vẻ như hoàn toàn thoải mái. Và những câu chuyện của đều vui vẻ, phải do tập trước hay giới hạn ở những thú vui trần thế tầm thường.

      “Điều khiến thấy thú vị nhất về Jerusalem khi tới đó?” hỏi mục sư Payne và vợ ta. Chính họ cũng thấy ngạc nhiên với các câu trả lời của mình, và cuộc chuyện trò về du lịch và những điều mong đợi, cũng như những điều ngạc nhiên thú vị lẫn thú vị nổ ra trong tham gia của bất kỳ ai có thể tham gia.

      có khả năng giao tiếp với mọi người. Bao nhiêu phần trong khả năng đó phát triển từ đường phố? Đó có phải là dạng của phòng thủ? Tước hết vũ khí của mọi người vì thế họ tấn công bạn. Hoặc cung cấp cho bạn những công việc linh tinh.

      Bà Ferris kém ấn tượng hơn, nhận thấy. Bà ta tự xem mình như là “khách mời danh dự nhất,” bà rất hài lòng khi cuộc chuyện trò càng lúc càng sôi nổi, mà phải xoay quanh bà. Cuối cùng phát cáu đó thắng bà. Bà nghiêng người ra phía trước và bằng giọng lạnh lùng cắt ngang cuộc trò chuyện, “ Cleeve, những người bạn của tôi và tôi tự hỏi có bộ váy kỳ lạ đó ở đâu thế? Màu cũng xem là bình thường , nhưng còn kiểu cắt may, và cái đường viền đó, với những con cá sấu – là… kỳ dị!”

      Ayisha nhìn lên, và từ cái nhìn trong mắt , sẵn sàng để trả đũa, tại bàn của thuyền trưởng, hoặc . “Tôi thích chiếc váy này,” tuyên bố.

      Rafe quyết định đến lúc tham gia vào cuộc chuyện trò này. “Với tôi, nó đẹp và thanh lịch. Và bà Ferris này, tôi nghĩ màu của nó đặc biệt. Để tìm ra loại vải hợp với mắt rất đẹp của tiểu thư Cleeve – là điều kỳ lạ, bà nghĩ thế sao?”

      Lúc này, mọi người đều hẹn mà cùng nhìn vào mắt Ayisha. Hai người lính cũng tham gia, nhiệt liệt đồng ý rằng đôi mắt của tiểu thư Cleeve là đẹp.

      Bà Ferris càng khó chịu hơn.

      Tiểu thư Cleeve nhấp ngụm vang và từ miệng chiếc ly của mình, đôi mắt xinh đẹp cho Rafe cái nhìn lém lỉnh khiến khó giữ cho khuôn mặt mình ra vẻ nghiêm túc.

      “Vớ vẩn,” bạn của bà Ferris tham gia vào ‘trận chiến’. “Vải áo có màu hoàn toàn bình thường của eau de Nil.”

      “Eau de Nil,” Ayisha lặp lại, ràng rất vui. “Nước sông Nile – mắt tôi có màu areeau de Nil. Cám ơn bà, bà Grenville. lời khen đáng .”

      Bà Grenville cười dở mếu dở, sau đó liếc nhìn bà bạn vẻ tội lỗi.

      Rafe lại . “Hành lý của tiểu thư Cleeve bị mất trong tai nạn, vì thế ấy phải mua mọi thứ tại nước sở tại trong thời gian ngắn. Tôi nghĩ ấy làm rất tốt rồi, phải ạ? Tôi ngạc nhiên nếu cái điểm nhấn khéo léo như đường viền kia bắt đầu trào lưu thời trang mới ở London.” tựa lưng ghế, biết rằng diện mạo hợp thời trang của chính đánh giá đáng tính nhiệm.

      ấy cũng mất người hầu của mình trong vụ tai nạn ấy, chắc vậy,” bà Ferris châm biếm.

      , tất nhiên là ,” Ayisha với bà ta. “Người hầu của tôi nhận nhiệm vụ mới với vợ của thương gia giàu có.” Đôi mắt thách thức Rafe sửa lại lời dối kia.

      Như thể nhận lời thách đố. Rafe trong giọng lè nhè mát mẻ, “ làm khá tốt công việc của mình, nhưng tất nhiên đó là trước ngày chúng tôi lên đường, và ta đúng là bỏ rơi tiểu thư Cleeve lúc gặp hoạn nạn.” xoay xoay ly vang và tiếp, như thể giải thích, “Tôi hiểu mỗi người trong số các quý bà đây dều có những người giúp việc riêng cùng…” mỉm cười nhàng với các bà bạn của bà Ferris, ngay lập tức các bà đều đề nghị với tiểu thư Cleeve tội nghiệp sử dụng hầu của mình bất cứ khi nào cần.

      Bà Ferris còn lựa chọn trừ việc a dua theo hoặc bị cho là keo kiệt. “ hầu của tôi, Woods, hỗ trợ khi nào ta rảnh rỗi,” bà ta , qua đôi môi gần như biến mất.

      ***

      Sau bữa tối, Ayisha và Rafe dạo ở boong . Trời tối, gió ấm áp, hiu hiu thổi, và họ tản bộ trong im lặng. thanh duy nhất, ngoài tiếng sóng vỗ liên tục, là tiếng cót két của ván tàu, tiếng phần phật của các cánh buồm trong gió, và tiếng kèn kẹt của các sợi dây thừng.

      Ayisha dang rộng hai tay, nghiêng người về phía cơn gió, và hít lấy hít để. “ khí trong lành. Tôi nghĩ là mình từng ngửi được thứ gì sạch tuyệt vời đến vậy.”

      Rafe mỉm cười nhưng gì. Với hai bàn tay nắm chặt hai đầu chiếc khăn, trông như có cánh và chuẩn bị bay biển. Gió làm chiếc váy dính sát vào cơ thể , và ánh sáng mờ ảo của vầng trăng lưỡi liềm ve vuốt lên mỗi hõm đường cong.

      Mềm mại, mảnh mai, nữ tính được giải phóng.

      Miệng khô khốc.

      Bộ ngực , nhưng ràng, hai đỉnh nhọn nhô lên trong khí mát lạnh. Bị ép xuống trong quá nhiều năm, giờ được trả tự do.

      bước ra và nhìn vào màn đêm, với những cơn sóng đen, lấp lánh, với những vì sao và vầng trăng lưỡi liềm.

      Trong suốt chuyến hành trình này, ấy là – ấy phải – như mặt trăng bàng bạc kia, ngoài tầm với của . bị danh dự trói buộc để chạm vào . Lady Cleeve giao phó an toàn và phúc lợi của cháu bà cho . Làm tổn hại chuyến hành trình về nhà này nằm trong thỏa thuận của họ.

      Cũng phải là mong muốn của ; dù là tất cả khát khao của .

      Gây ra những suy đoán về chuyện họ cùng nhau chỉ làm tổn hại đến .

      muốn có được vì chính bản thân , muốn tự nguyện chọn , chỉ vì bản thân , phải bị buộc kết hôn với vì lợi ích đúng đắn nào đó.

      biết gì về xuất thân của ; địa vị bá tước có ý nghĩa gì với . Có lẽ nghĩ giàu có. khi tới , thấy trong khi thuộc loại sống sung túc, có nhiều người đàn ông giàu có hơn rất nhiều.

      nghĩ quan tâm; ít nhất là hy vọng . Nhưng cần phải có lựa chọn đó.

      “Tôi lẽ ra nên chọc tức bà Ferris,” . “Bà ta là loại người truyền bá những tin đồn độc địa.”

      nhún vai. “ thể ngăn những người phụ nữ thích những chuyện đó. Và nếu họ biết gì để , họ dựng chuyện lên. Hơn nữa, bà ta cũng bắt đầu chuyện đấy rồi – hay cách khác là ngài thuyền trưởng làm. Bà ta gần như với tôi rằng tôi quá tồi tàn và vô danh tiểu tốt để mà xứng đáng với lời mời đến bàn của thuyền trưởng vào buổi tối đầu tiên, và vì thế bà ta bực bội ngay từ lúc bắt đầu.”

      ngáp. “Đừng hủy buổi tối đẹp thế này bằng cách về bà ấy. Kể cho tôi nghe về lần đầu tiên được tàu – tàu đúng nghĩa, chứ phải là con sông hay cái hồ – mà phải như thế này, biển, đến đất nước khác.”

      “Đấy là khi chúng tôi được gửi đến Bồ Đào Nha.”

      “Chúng tôi?” hỏi, nhích lại gần hơn.

      “Tất cả bọn tôi: Gabe, Harry, Luke, Michael, và tôi. Những người bạn của tôi,” giải thích. “Những người bạn thân nhất của tôi. Những người bạn tốt nhất mà người đàn ông có thể có.”

      “Tôi gặp họ ở quốc chứ?” Gió thổi vạt váy của vào chân . Nó vờn quanh đùi , cách dịu dàng.

      gặp Harry và Luke. có Gabe. Gabe kết hôn với Công chúa Zindaria, vì thế cậu ấy sống ở đó.” đưa đến Zindaria ngày nào đó, nghĩ. Và sau đó bắt mình dừng lại với cái ý niệm đó. Trong chao đảo khi nhận ra những suy nghĩ, những khát khao của dẫn đến đâu.

      đến Ai Cập để giải cứu dâu, chứ phải để bắt dâu. nhìn và nuốt khan.

      khoảng dừng ngắn. “Còn Michael?” nhắc.

      “Michal bị giết. Hồi còn trong chiến tranh. Những người tốt bụng chết cách vô cớ…”

      trượt bàn tay qua cánh tay và ấn vào nhàng, phải có ý tán tỉnh, chắc chắn, chỉ là trong cách an ủi. Dù vậy, cơ thể dấy lên phản ứng.

      “Lúc đấy bao nhiêu tuổi? chuyến tàu đến Bồ Đào Nha ấy?”

      “Mười tám.”

      thở dài. “Chỉ là cậu bé.”

      với vẻ buồn buồn, “Chúng tôi nghĩ vậy lúc đó. Chúng tôi nghĩ rằng mình là những người đàn ông, sẵn sàng cho chuyến phiêu lưu đầy vinh quang.”

      Đó cũng phải là hoàn toàn . cuộn dây lo lắng xoắn sâu lại trong ruột khiến phải cố hết sức để giấu nó , tự hỏi liệu mình có ” phẩm chất tốt,” cho dù có hóa ra là người dũng cảm hay kẻ hèn nhát. hy vọng mình người dũng cảm, nhưng cho đến khi bạn đối mặt với tra tấn bằng lửa, tất cả họ đều đồng ý, bạn thể biết chắc chắn bạn bị biến thành gì.

      Chúa ơi, lúc đó còn rất trẻ. Như thể điều đó cũng đơn giản như bất cứ gì. luồng khói xì gà và những giọng thầm trầm bổng trôi giạt tới cho biết họ có bạn boong. rút cánh tay mình ra và bước lùi lại. lạ lùng nhìn .

      “Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta dành quá nhiều thời gian với nhau chuyến này,” thấy mình .

      “Tại sao?”

      “Bởi vì có người kèm và tôi muốn mọi người xầm xì.”

      im lặng trong lúc. “Có gì quan trọng nếu họ xầm xì sao?”

      nhớ lại quan điểm của về chuyện những lời đồn đãi: rằng chúng vẫn xảy ra dù thế nào chăng nữa.

      hắng giọng, tìm từ ngữ thích hợp để giải thích. “Ở quốc, nếu người đàn ông – quý ông, có nghĩa là, quý ông chưa lập gia đình – nếu bị cho là làm tổn hại phụ nữ trẻ, ta phải có nghĩa vụ kết hôn với ấy.”

      “Vậy nếu ấy muốn lấy ta thế nào?” hỏi sau lúc.

      ấy chịu cùng áp lực kia.”

      “Và nếu họ lấy nhau?”

      ấy mất danh tiếng của mình như là phụ nữ tiết hạnh, và ta còn được xem là người đàn ông có danh dự.”

      “Thế rất công bằng, phải ?”

      “Phải.”

      “Tôi đồ rằng là đó là luật lệ ở .”

      “Phải.” Và sau đó, vì thấy câu trả lời có vẻ yếu ớt, thêm, “Đúng vậy.”

      khoảng im lặng ngắn khác, chỉ bị phá vỡ bởi thanh của biển và các cánh buồm. “Vậy khác mấy với Ai Cập. Tôi những tưởng nó khác. Được rồi,” nhanh. “Chúng ta gặp nhau càng ít càng tốt. Thỉnh thoảng có những cuộc chuyện trò lịch , nhưng chỉ khi có ai đó khác diện – đó là điều muốn , đúng ? phải có diện của người đàn ông hoặc người phụ nữ?”

      “Tốt nhất là phụ nữ,” Rafe . nắm bắt rất tốt. là, có hơi chưng hửng khi đón nhận việc đó nhanh đến thế. Gần như là… nhiệt tình. “ sao chứ?”

      “Tất nhiên,” , thanh nghe như ngạc nhiên vì có thể hỏi điều như vậy. “Tôi vẫn có mọi thứ tôi cần mà.”

      thấy đơn độc sao?”

      “Tất nhiên là . Có rất nhiều người thú vị con tàu này để trò chuyện với họ. Và tôi có Cleo, nó luôn là bạn của tôi. Đừng lo, tôi tuân theo quy tắc đó. Thực rất khủng khiếp nếu chúng ta bị buộc phải lấy nhau.”

      Những giọng rầm rì nam tính trở nên lớn hơn và liếc ra phía sau mình. “Mấy người quân nhân kia đến gần, vì vậy tôi tốt hơn nên rời khỏi chỗ này. Chúng ta muốn họ nhìn thấy chúng ta với nhau, mình này ở trong bóng tối với nhau, đúng ? Họ có thể buộc chúng ta phải kết hôn, và chuyện đấy thể tưởng tượng được. Chúc ngủ ngon.” Và biến mất.


      Rafe chớp mắt. Câu nghe rất cộc lốc. Gần giống như thể nổi giận.

      ngẫm nghĩ về chuyện đó, xem xét kỹ lưỡng lời giải thích với . có gì là xúc phạm với những gì , quyết định. Nó rất ràng và hợp lý, và cũng rất ràng rằng chỉ bảo vệ từ những hậu quả mong muốn do chút thân mật khinh suất. lớn lên trong nền văn hóa khác, nền văn hóa nơi mà đàn ông và đàn bà dễ dàng giao thiệp với nhau. ấy cần được cho lời gợi ý.

      Bất luận thế nào, cũng nhìn thấy tính khí của ấy trong hành động; nó nóng nảy, thẳng thắn và đôi lúc bạo lực. có những vết sẹo để chứng minh điều đó, nghĩ, chạm vào cổ nơi những vết cào để lại mờ theo thời gian.

      , nếu Ayisha hài lòng, làm ngay. có hơi giống con mèo của mình theo cách đó.

      Hẳn phải có lý do cho việc tại sao cảm thấy khó chịu về cách bỏ quá đột ngột như vậy.

      bị dụ dỗ nhập hội với nhóm sĩ quan trẻ kia, làm vài điếu thuốc lá với họ, và tận hưởng chút gian hoàn toàn giữa đàn ông với nhau để thay đổi khí. Nhưng có tâm trạng, quyết định. Có lẽ ngày mai vậy.

      ***

      Trong ba ngày tiếp theo hầu như gặp được Ayisha. khả năng như thế lại xảy ra con tàu thế này – cứ như thể tránh . chắc chắn thực các quy tắc cách nghiêm túc. đồ rằng ai cũng thế, nếu được cho các luật lệ mà lớn lên cùng với chúng. Các luật lệ của tổng trấn thực nghiêm túc.

      Cũng như những luật lệ ở nước , ngẫm nghĩ. Có lẽ chúng chặt tay người dân, nhưng chúng treo cổ họ, hoặc đưa họ sang thế giới bên kia. chỉ là nhầm lẫn khác biệt giữa những phép lịch xã hội và những luật lệ của đất nước, chỉ thế. Và giải thích điều đó với , nếu có bao giờ để đến đủ gần.

      dường như dán mắt vào vị mục sư trẻ và vợ ta. Và khi nhìn họ, nhìn ba người đàn bà lắm chiêu kia. Họ khá thân thiện với , thừa nhận thế khi nhìn thấy trong số họ ngồi với boong tàu, dạy đan móc.

      Ngay cả các thủy thủ cũng bắt đầu thích . Thường họ giao thiệp gì với các hành khách, nhưng con mèo kia phá vỡ các rào chắn.

      Ayisha dẫn theo Cleo lên boong mỗi sáng và chiều để cho con mèo chút khí trong lành, và chẳng mấy chốc thủy thủ và các hành khách tìm thấy các lý do để ở quanh đó khi sinh vật bé kia khám phá và nghịch ngợm mọi thứ.

      Ban đầu nó chỉ đơn giản là đánh hơi theo cách của mình với xung quanh, vẫn ở quanh quẩn với Ayisha, nấp dưới váy khi bất cứ ai lại gần… chỉ để vụt vồ ra và tấn công vào giày dép và mắt cá chân họ. Nhưng dần dần, khi Cleo trở nên quen thuộc với nơi đó, nó bạo dạn hơn.

      ngày nọ nó cố leo lên cột buồm và bị mắc kẹt với độ cao gần 2 mét đó, và gào lên um trời để được giải cứu. Lần khác, nó trận chiến mất còn với đầu cuối của cuộn dây thừng.

      Lúc đầu còn thấy nó buồn cười, nhưng khi con mèo ngày càng bạo dạn hơn và thích mạo hiểm nhiều hơn, Ayisha thấy lo lắng. Con mèo biến mất tăm vào bất cứ cái lỗ nào mà nó tìm thấy, lẻn vào bất cứ góc tối nào, vồ lên bất cứ bề mặt ra lờ mờ nào.

      Ngày nọ, Ayishay quay người lại và thấy Cleo, với cái đầu thò ra qua trong các lỗ thoát nước trong mép tàu, nhìn chăm chú xuống biển, là ngày nó ngừng vĩnh viễn các chuyến ngao du boong tàu. “Nó ý thức được,” giải thích vào ngày hôm sau khi mọi người hỏi con mèo đâu. “Tôi nghi nó cố vồ lên con sóng hay con cá heo ngang qua.”

      Ngày kế tiếp, thủy thủ tặng bộ dây cột gắn liền với miếng chì mỏng dài kích cỡ vừa với con mèo con. “Cái đó ngăn con mèo rơi xuống biển, thưa ,” người thủy thủ .

      Thế là thú tiêu khiển còn lại của ngày hôm đó là xem Cleo chiến đấu với sợi dây của mình. Nó lao vào, lăn kềnh ra rồi gầm gừ và xoắn mòng mòng với sợi dây. Nó cố bỏ chạy khỏi sợi dây rồi xoay ngược lại, meo lên giận dữ khi sợi dây theo sau. Nó ì ra, bám chặt móng và mông lên sàn tàu và nhất quyết chịu di chuyển khi Ayisha cố dẫn nó . “Giống y như dẫn ổ bánh mì dạo.” Ayisha bật cười.

      Cứ thế, trò chuyện với mọi người, và mọi người chuyện với . Trừ Rafe. Mỗi khi nhìn thấy đến, liền bồng con mèo lên và vội chỗ khác.

      Khi con mèo lần đầu tiên xuất với sợi dây bảo hộ, lấy cớ đó để chuyện với cho từng ấy ngày qua – nhưng nó như mong đợi, dưới đôi mắt của hàng tá chứng nhân vô tình – và thế là ấy bế con mèo lên và biến trở lại vào cabin của .

      hiểu sai hoàn toàn, như nghĩ; phải là họ cho phép gì, mà chỉ cần… kín đáo. Chết tiệt, nhớ .

      Nhưng trơn trượt như con lươn, dùng tất cả các hành khách khác để ngăn lại gần.

      Hai sĩ quan trẻ, Green và Dickinson, lịch thiệp tháp tùng quanh boong vài lần ngày, và thậm chí còn hộ tống và bà Ferris ăn. Nhiều lần Rafe gõ cửa cabin của , chỉ có tiếng trả lời của Woods rằng Trung úy Green và Dickinson đến và đưa các quý bà rồi.

      Tối nay là tối thứ ba liên tiếp chuyện này diễn ra.

      ngạc nhiên tại sao bà Ferris lại tử tế với , Rafe chua chát nghĩ. Hẳn phải là hàng năm trời rồi bà ta mới có sĩ quan trẻ trung đẹp trai hộ tống bà ăn – nếu từng có bao giờ. quyết định ăn, cảm thấy chút khó chịu trong người, như thể ăn phải thứ gì đó tiêu.

      Rafe ngủ tới sáng muộn ngày hôm sau, và khi Higgins đến với nước nóng cho lau rửa, ông nhìn chằm chằm vào Rafe với biểu lo lắng. “Cậu chủ, tôi nghĩ cậu nên thức dậy. Cậu trông rất tệ, với cả cậu vẫn còn bị ốm mà.”

      “Vớ vẩn, Higgins, chỉ là bị chút kiết lỵ thôi. Những người lính thể dừng lại chỉ vì bị chút lỵ.” Rafe cố gắng ra khỏi giường và vã nước lạnh lên mặt. súc miệng và khạc nhổ. nôn vài lần tối qua, mặc dù chắc chắn là ăn bất cứ gì. Ngay khi nó ra hết khỏi người , ổn.

      “Cậu còn trong quân đội nữa, cậu chủ,” Higgins phản đối. “Và cậu tốt hơn là nên nghỉ ngơi giường trong hai ngày nữa. Mấy cơn sốt nhiệt đới này, cậu chủ à, cậu phải rất cẩn thận mới được.”

      “Vớ vẩn. Chỉ cần cạo râu cho tôi thôi, được chứ? Cái bàn tay chết tiệt này biết sao lại run lên nữa.”

      ngồi giường và, chỉ lần này, để Higgins cạo râu cho . cảm thấy đầu mình đau buốt và nặng trình trịch. cảm thấy mình có chút sốt và khỏe lắm, thừa nhận với bản thân, nhưng nằm trong cabin ngột ngạt thế này làm khỏe lên chút nào. Tốt hơn hết là lên boong và kiếm chút khí trong lành.

      Bên cạnh đó, chết tiệt nếu để tránh thêm ngày nữa. dùng hết sức lực mà kéo ấy lại nếu cần và giải thích rằng hiểu sai cái quy tắc ấy rồi. được phép chuyện với – chết tiệt, cần chuyện với .

      Với giúp đỡ của Higgins, thay quần áo và bước loạng choạng ra cửa.

      “Cậu nên lên , cậu chủ à,” Higgins .

      “Vớ vẩn, tàu tròng trành, vậy thôi.” bắt đầu ra hành lang và nhìn thấy chủ thể khao khát đứng trong lối vào cầu thang, chuẩn bị bước lên. “Ayisha!” kêu lên.

      dừng bước và quay lại.

      “Tôi cần chuyện với ,” , vội vã tiến về phía , nhưng con tàu tròng trành làm mất thăng bằng và phải vịn vào tường.

      chạy về phía . “ sao vậy? Có chuyện gì vậy?” tóm lấy quanh eo và đặt vai mình bên dưới vai .

      “Cậu chủ bị ốm, tiểu thư,” Higgins bảo , “Cậu ấy bị ốm tối qua, và tôi bảo cậu ấy nên thức dậy, nhưng cậu ấy nào có chịu nghe đâu?”

      áp bàn tay lên trán . Rafe nhắm mắt lại khi cảm nhận nó. Bàn tay mềm mại, mát lạnh cách dễ chịu. mát.

      ấy sốt,” .

      “a!” tiếng thét đến từ phía sau .

      Rafe vỗ hai tay qua tai mình. “Ồn quá,” , liếc nhìn bà ta. “Bà…” thể nhớ tên. Người phụ nữ có môi. “Bắn chết bà ta , làm ồn thế này…” Và bắt đầu trượt xuống bức tường.

      “Cậu ta bị dịch hạch!” người phụ nữ rít lên. “Cậu ta mang nó lên tàu với cậu ta! Ôi Chúa ơi, tất cả chúng ta chết hết nếu chúng ta tống khứ cậu ta !” Rồi bà ta vừa chạy lên hành lang vừa hét, “Dịch hạch! Dịch hạch! Dịch hạch!”

    4. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      12



      Ayisha cố làm cho Rafe đứng trở lại. Higgins tới giúp. “Bà ta gì vậy, thưa ? Đó thể là bệnh dịch hạch được, đúng ?”

      “Tất nhiên là có thể. Ở Ai Cập, dịch hạch luôn diện cùng chúng tôi.” hướng Rafe về phía cabin của . “Thôi nào, hãy giúp tôi – bước ,” giục . loạng choạng vài bước, lầm bầm gì đó. nóng lên và run rẩy cùng lúc.

      Higgins nhìn chằm chằm vào . “Ý là dịch hạch á? Bệnh dịch hạch. Bệnh truyền nhiễm?”

      “Phải, hầu như lúc nào cũng có, nhưng tệ nhất là trong mùa hè. Giúp tôi đưa ấy qua cánh cửa này. Ông trước , tôi cố đỡ ấy.”

      “Nhưng dịch hạch là kẻ giết người, tiểu thư. kẻ giết người khủng khiếp.”

      “Ồ, tôi biết, Higgins,” nghiêm túc . “Cả cha mẹ tôi đều bị chết vì nó. Chúng ta hãy hy vọng và cầu nguyện đây chỉ là cơn sốt gì đó thôi.”

      Rafe đứng thẳng dậy và đẩy ra. lảo đảo ở ngưỡng cửa, vịn khung cửa để giữ mình đứng thẳng. “Dịch hạch?” líu nhíu , nhìn vào mà mắt như hoa lên. “Tôi bị dịch hạch?”

      “Chúng tôi biết chắc chắn,” dịu dàng với . thái độ tích cực giúp ích được, nghe bác sĩ người Ý khi Mama hấp hối. Nhưng Papa chết, và Mama còn ai để mà gắng gượng. Chỉ có Ayisha. có Papa, Mama bỏ cuộc.

      Ayisha nhìn Rafe, run rẩy, da căng, nóng và tái nhợt. bỏ cuộc. cho phép!

      cố nắm lấy cánh tay , nhưng giật lại. “ ,” ra lệnh. “Đừng tới gần tôi. bị bệnh, với . với .” giơ hai tay ra để ngăn lại. “Ông, cũng vậy, Higgins, ra.”

      “Nào, xem nào, cậu chủ-”

      “Cút!” Rafe gầm lên. Những năm tháng phục vụ trong quân đội giải quyết được vấn đề. Higgins bước ra khỏi cabin. Rafe, trông kiệt sức bởi nỗ lực muốn làm theo ý mình, bắt đầu đóng lại cánh cửa, bám vào nó nhằm làm cho nó đóng chặt lại càng nhiều càng tốt.

      “Chăm sóc ấy, Higgins,” ra lệnh. “Đặt mạng sống ông vào nó.”

      “Vâng, thưa cậu chủ,” Higgins , muốn khóc.

      nghĩ làm gì vậy?” Ayisha hỏi. “ phải chết, đồ ngốc. Tôi cho phép điều đó.”

      mỉm cười. “Hống hách,” . “Con mèo hống hách.” Sau đó quay người, tóm lấy cái bát, và ném nó. “Bát đĩa gì mà khắp nơi,” lẩm bẩm. “Giỏi lắm, Higgins.”

      “Đấy là dịch hạch, tôi rồi mà!” giọng rít lên từ hành lang. “ ta phải bị tống khứ ngay!”

      Ayisha quay ngoắt lại và nhìn bà Ferris hối thúc thuyền trưởng, vài sĩ quan của con tàu ở phía trước bà ta. nhóm khách hiếu kỳ trông có vẻ sợ hãi chăm chú nhìn từ đàng xa.

      “Là dịch hạch! Ông phải tống ta ra khỏi tàu, thuyền trưởng,” bà Ferris nhắc lại.

      “Bà nghĩ bà làm gì vậy?” Ayisha hỏi.

      “Là bệnh dịch hạch phải , thưa ?” thuyền trưởng hỏi, khuôn mặt cứng rắn.

      “Là sốt, nhưng tôi chắc đấy có phải dịch hạch .”

      Thuyền trưởng nghiêm trọng lắc đầu. “Tôi đủ khả năng chấp nhận rủi ro ấy. Tôi rất tiếc, thưa .”

      “Ý ngài là sao, xin lỗi? Ngài muốn làm gì?”

      “Cậu ấy phải được đưa vào bờ. Nếu lây lan-”

      “Và tất cả chúng ta chết!” bà Ferris rít lên từ đầu kia của hành lang. Những hành khách khác thầm lo lắng.

      ấy đâu cả,” Ayisha nhanh. “ ấy vẫn ở đây. Tôi chăm sóc ấy.”

      Thuyền trưởng lắc đầu. “Tôi thể cho phép điều đó, tôi xin lỗi. Tôi phải quan tâm đến sức khỏe tất cả các hành khách của mình. Cậu ấy được đưa lên chiếc xuồng và được kéo đến bờ biển gần nhất.”

      “Để chết, hoặc bị đẩy xuống biển bởi những kẻ sợ bị lây nhiễm, tôi đồ là thế,” Ayisha .

      , có thể cùng cậu ấy nếu muốn và sắp đặt cho người dân địa phương chăm sóc cậu ấy.”

      “Làm thế nào ông biết có bất cứ dân địa phương nào sẵn sàng – hoặc có thể cho việc đó?” tranh luận. để họ đưa . Ai biết điều gì chờ đợi họ đất liền? Có thể có những kẻ cướp bóc, cướp biển, hay thậm chí là những người dân địa phương thù địch.

      Thuyền trưởng bẻ bẻ các ngón tay và những người làm của ông quấn những miếng giẻ quanh miệng và mũi họ. Họ đeo găng tay và di chuyển cách có chủ đích về phía cabin.

      “Ngăn họ lại, Higgins!” Ayisha ra lệnh.

      Higgins bất lực nhìn . “Họ có tới sáu người, thưa , và ngài thuyền trưởng nữa.”

      “Ông ấy để cho những kẻ kỳ quặc này bắt ấy!” gần như khóc lên với cơn thịnh nộ.

      “Được rồi, bé à,” Rafe lầm bầm. “Thuyền trưởng có lý. Đấy là điều tốt nhất. Bỏ người, nhưng cứu được những người còn lại.” loạng choạng bước về phía thuyền trưởng.

      “Đứng lại đó, đồ ngốc,” hét lên và đẩy mạnh ra sau. lảo đảo và loạng choạng lùi vào bên trong cabin. Trước khi bất cứ ai có thể thốt ra từ nào, theo vào trong, đóng sầm cửa lại, và chốt khóa.

      Cleeve, mở cửa ra. Đừng có vô lý thế,” thuyền trưởng hét lên, đập vào cánh cửa.

      “Tôi nhốt mình trong này với ấy và chăm sóc ấy. Tôi biết phải làm gì. ấy chết,” hét trả lại.

      “Người của tôi có thể đá sập cánh cửa này trong vài giây đấy,” thuyền trưởng cảnh cáo.

      Ayisha tuyệt vọng liếc nhìn xung quanh, và ánh mắt sáng lên với cái hộp chứa hai khẩu súng lục. lật mở nắp hộp và lấy những khẩu súng ra. “Tôi có cặp súng lục nạp đạn trong này,” hét qua cánh cửa.” biết liệu chúng được nạp đạn hay chưa. “Người đầu tiên bước qua cánh cửa này chắc chắn chết. Người thứ hai, cũng thế.”

      ta gạt người thôi,” nghe thuyền trưởng .

      ấy , thưa ngài,” Higgins . “Tôi biết những khẩu súng này và chúng được nạp đạn, chính xác. Thiếu tá Ramsey luôn lưu tâm và nạp đạn chúng.”

      “Có thể, nhưng đứa trẻ dễ thương kia làm đau con ruồi,” thuyền trưởng châm biếm.

      ấy dứt khoát có, thưa ngài. Đằng sau dễ thương kia, là chiến binh bẩm sinh đấy,” Higgins bảo đảm với ông ấy. “ ấy sống cuộc sống nguy hiểm, tiểu thư Ayisha. Lúc nào cũng mang theo con dao và biết cách dùng những khẩu súng.” Ông dừng lại. Ayisha lắng nghe. chưa bao giờ chạm vào khẩu súng trong đời.

      ràng thuyền trưởng bị thuyết phục, bởi vì Higgins tiếp tục , “ ấy làm thế với vài tên đàn ông mà tôi biết là – là những kẻ côn đồ, tất nhiên, và xứng đáng bị thế – nhưng nếu ấy muốn ở trong đó với Cậu Ramsey, Thuyền trưởng, tôi nghĩ ông còn lựa chọn.”

      Cám ơn ông, Higgins, Ayisha thầm, và tha thứ cho phút yếu lòng của ông. Liệu thuyền trưởng có tin? tự hỏi.

      khoảng im lặng và áp tai lên cánh cửa, tự hỏi họ gì.

      “Tôi hứa với ông, bệnh lây lan ra ngoài cabin này,” hét lên. “Higgins đem cho tôi bất cứ thứ gì tôi cần và để nó ở ngoài cửa. Tôi lo liệu mọi thứ.”

      là điên rồ, con ,” thuyền trưởng . “ ở đó cho đến khi cả hai người khỏe – hoặc cùng chết đấy!”

      “Đấy phải là điên rồ,” đảm bảo với ông. “Nếu đó phải là bệnh dịch hạch, có lý do gì để đưa bất kỳ ai vào bờ. Nhưng nếu đó là dịch hạch, tôi có thể giúp đỡ. Cả cha mẹ tôi đều chết vì nó, nhưng tôi , thuyền trưởng – tôi . Hẳn phải có lý do cho điều đó, và tôi tin vào điều đó. Tôi sống ở Cairo suốt cả đời mình và tôi chưa bao giờ ngã bệnh.”

      nghe nhiều tiếng xì xầm.

      “Tôi hứa với các người,” nhắc lại, “nếu các người phá cửa vào cabin này, hai người đầu tiên vào đây chết.”

      “Được rồi, cứ làm theo ý ,” thuyền trưởng nặng nề . “ cũng là ngu ngốc nhất mà tôi từng gặp… hoặc dũng cảm nhất.”

      khoảng lặng, sau đó nghe tiếng bước chân rút dần xuống hành lang. loáng thoáng nghe tiếng bà Ferris càm ràm và vài vị hành khách khác tham gia vào. thanh đó lùi xa dần.

      Với đôi bàn tay run rẩy, Ayisha đặt mấy khẩu súng xuống. Chúng được nạp đạn rồi ư?

      quay lại và thấy Rafe nhìn . run rẩy dữ dội, nhưng da trông căng và nóng. “ nghĩ làm cái quái gì thế?” nghiến răng trong giọng khàn khàn. “Ra khỏi đây.” Đôi mắt xanh của sáng rực vì sốt và giận dữ.

      “Đừng có ngớ ngẩn, cần được chăm sóc,” bảo .

      “Tôi cầu rời khỏi đây!”

      “Tiết kiệm hơi , tôi phải là quân nhân, và tôi chấp hành những mệnh lệnh,” . “Higgins, ông vẫn ở đó chứ?” gọi qua cửa.

      “Vâng, thưa tiểu thư.”

      “Mang cho tôi các tấm trải, khăn, thêm chăn đắp, nước nóng, và trà gừng nóng, chanh vàng hoặc xanh, mật ong. Quan trọng nhất là, xem thử có bất kỳ ai tàu có vỏ cây liễu hoặc vỏ canh-ki-na . Hoặc bất cứ gì hữu ích cho cơn sốt – nếu họ cho chúng ta, thế nhé.”

      “Vỏ canh-ki-na chặn được cơn sốt sao?”

      “Tôi biết, nhưng nó có thể gây tổn hại gì. ai biết cái gì chữa được bệnh dịch hạch hoặc nguyên nhân gây ra bệnh đó. Có người nó có trong khí, người khác bảo đó là phán xét của Chúa, kẻ khác lại do chúng ta tiếp xúc với ai đó hoặc ăn phải thứ gì đó. Mọi người đều đoán mò, thế mới phiền. Nhưng tôi biết vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu tốt cho bệnh sốt, vì thế…”

      “Có hộp sơ cứu – cái hộp màu đen ở dưới đáy rương. Nó có vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu. Tôi thể nhớ ra còn thứ gì khác . Tôi có nó từ người bào chế thuốc trước khi chúng tôi rời London. Những thứ còn lại, tôi cố hết sức, tiểu thư.”

      “Tốt.” nghe tiếng bước chân ông xa dần và quay lại với Rafe. “Giờ chúng ta phải đưa lên cái giường đó. thể nằm sàn.” kéo cánh tay , nhưng nhúc nhích. “ phải giúp tôi, Rafe – tôi thể tự mình nhấc lên được.”

      “Tôi… muốn… … ra ngoài,” cố .

      . Giờ tôi chỉ có thể làm việc này với hỗ trợ của hoặc là có, nhưng khó khăn hơn với tôi nếu giúp.”

      chỉ ra cửa, bàn tay run lên với cơn sốt. “Cút! Cút ra!”

      Cái người cứng đầu này. “Tôi cứ ở đây đấy và có thể làm tôi bỏ được đâu,” . “Vì thế nếu có thể giúp tôi đưa lên cái giường kia …”

      cố tự mình đứng, né tránh và dùng đồ nội thất để làm cho mình đứng thẳng chỉ lúc trước khi ngã sóng soài chiếc giường chưa được thu dọn. cố kéo chăn qua người.

      “Chưa, chưa được.” tóm lấy cái chăn. “Trước tiên chúng ta phải cởi bộ đồ này ra .”

      cố đẩy ra, nhưng nỗ lực để tới cái giường làm kiệt sức. run rẩy dừng được. sờ trán . Da nóng, khô và sốt cao.

      kéo đôi ủng ra, sau đó tới tất. mở cúc và tháo dây mọi thứ có thể, sau đó lật sang mé bên kia, rồi mé khác, để kéo áo khoác và áo ghi-lê ra. quyết định để lại chiếc áo sơ mi, trong lúc này. có thể dễ dàng kéo nó lên để kiểm tra nách .

      Nếu là bệnh dịch hạch, có những nốt sưng dưới nách hoặc trong vùng bẹn. nhắm mắt lại và cầu nguyện, sau đó kéo áo sơ mi và cánh tay lên.

      làm gì đó?”

      “Kiểm tra nách .” cảm thấy nhõm. có dấu hiệu bị sưng ở đó. Chưa thôi. Cảm tạ Chúa.

      Giờ tới bẹn.

      tháo cúc mặt trước chiếc quần ống chẽn và bắt đầu kéo chúng xuống dưới chân , cùng với chiếc quần cộc mặc bên dưới. “Dừng lại. Làm gì?” lẩm bẩm.

      “Tôi phải kiểm tra vùng bẹn của ,” . “Xem thử có bất kỳ bị sưng gì .”

      lục khục như thể cười phá ra. “ phải bây giờ. Có lẽ ngày mai.”

      nhún vai và kéo chiếc quần ống chẽn và quần cộc xuống đôi chân dài, săn chắc của . kéo chăn qua người.

      có thời gian để mà vờ mắc cỡ đâu,” co bảo . “Tôi phải xem qua.”

      cho cái lừ mắt, bướng bỉnh, lờ đờ vì sốt và giữ tấm chăn đúng vị trí.

      “Tôi nhìn thấy hình thể nam giới trước đây rồi,” trấn an . nhìn thấy Ali trần truồng vài lần khi nó còn . “Và tôi cần kiểm tra vùng bẹn của !”

      giật mạnh tấm chăn ra và chết trân. tương đồng giữa những gì thấy bây giờ và cái thấy trong khi tắm cho Ali là… rất rất ít.

      Đây là … người đàn ông. cảm thấy hơi khó thở.

      Môt người đàn ông bị bệnh nặng; khiển trách mình vì bị phân tâm. thận trọng chạm vào , và trượt bàn tay vào mặt trong chân – nơi kết nối giữa cơ thể , tránh những bộ phận nam tính hết sức có thể và thận trọng cảm nhận.

      có gì,” thở ra.

      “Cái gì?”

      có sưng,” đảm bảo với .

      mở mắt ra. “Tất nhiên là . Mệt chết được,” lẩm bẩm, bất thình lình co giật, và bắt đầu run rẩy lần nữa. nhanh chóng thăm dò phía bên kia, và lần nữa, cảm ơn Chúa, có nốt sưng.

      “Tôi kiểm tra lại trong giờ nữa,” bảo .

      “Lạnh,” , rùng mình dữ dội. kéo chăn lên và nhét vào trong. vẫn run. lấy thêm quần áo và nhét chúng quanh . rúc vào chúng, hai mắt nhắm lại.

      tìm thấy hòm thuốc và kiểm tra những thứ bên trong. Có ít nhất chục lọ có nút đậy chứa các chất khác nhau, nhưng mặc dù chúng có nhãn mác ràng, cũng chắc hầu hết trong số này dùng cho bệnh gì. Có hai lọ biết và tạ ơn Chúa vì điều đó: vỏ canh-ki-na và vỏ cây liễu.

      tiếng gõ cửa làm giật mình. đứng phắt dậy và vồ lấy những khẩu súng. “Ai?”

      “Higgins. có ai khác, tôi hứa, thưa .”

      chắc liệu có tin ông . Nếu thuyền trưởng chỉa khẩu súng vào ông… “Đặt mọi thứ ngoài cửa, sau đó lùi lại,” ra lệnh.

      chờ cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân của ông lùi lại, sau đó thận trọng mở cánh cửa, chỉ hé ra chút. quan sát kỹ nhưng thấy ai, vì thế thò đầu ra quanh cánh cửa, khẩu súng chuẩn bị sẵn sàng, chỉ để đề phòng – ôi Chúa ơi, hy vọng mình phải bắn. Nhưng có ai ở đó, chỉ mình Higgins, chờ cách mười bước chân.

      “Cám ơn ông, Higgins,” . “Tôi kiểm tra ấy và có nốt sưng nào cả. Có nghĩa là có dấu hiệu của bệnh dịch hạch. Hãy với thuyền trưởng thế.” Nó vẫn có thể là bệnh dịch hạch – và dối với họ nếu đúng là thế – nhưng giúp ích nếu thuyền trưởng và các hành khách được trấn an.


      nhanh chóng chuyển mọi thứ vào bên trong cabin. Khóa chốt chắc chắn xong, mới kiểm tra xem ông ấy mang đến những gì. Mấy cái khăn lau, chăn đắp, mấy cái bát, ấm lớn trà gừng nóng – ơn Chúa. Và cái tách có vòi – ơn trời. Với cơn sốt, nên uống nhiều nước, và cái này làm việc đó dễ dàng hơn rất nhiều.

      rót ít trà vào cái tách và rắc bột vỏ canh-ki-na vào. chắc liệu hai vỏ cây này có phải là hiệu nghiệm nhất , nhưng chúng nổi tiếng là tốt cho các cơn sốt, vì thế luân phiên hai thứ với nhau.

      chờ năm phút, khuấy đều để vỏ cây tan đều, sau đó cẩn thận nâng đầu Rafe và để cái vòi lên môi .

      phải uống cái này,” dịu dàng bảo khi rên rỉ và cáu kỉnh cục cựa đầu vì mùi trà. “Là trà gừng với mật ong và vỏ canh-ki-na. Nó giúp hạ sốt.” có vẻ như hiểu và ngoan ngoãn uống vào, nuốt xuống từng miếng như thể nó gây đau đớn lắm.

      cố được nửa tách, sau đó nằm xuống trở lại, kiệt sức.

      nhét chăn quanh và trở lại việc kiểm tra các vật dụng Higgins mang đến. Có quyển sách y – của thuyền trưởng, nghi ngờ.

      tìm kiếm lời khuyên. Rải quanh phòng bệnh với giấm, đọc, vì thế rải giấm khắp nơi.

      giống như nhiều bác sĩ khuyên, cuốn này đưa ra lời đề nghị khí trong lành, Ayisha đồng ý; mở hai ô cửa ở mạn tàu ra. khí ấm áp, có vị mằn mặn, và sạch ; hẳn là rất tốt.

      Bác sĩ đề nghị việc trích máu trong những giai đoạn đầu của những cơn sốt chắc chắn, nhưng chỉ trong những điều kiện nhất định. nhăn mặt. ghét việc lấy máu – bác sĩ lấy máu Papa rất nhiều, và có những ký ức tồi tệ về việc đó.

      Nhưng nếu phải làm, nếu điều đó cứu được , làm… May mắn vì đấy phải là những điều kiện tiên quyết. Chưa thôi.

      đọc thấy , trong vài trường hợp của bệnh dịch hạch, củ hành nướng ngâm trong dầu ô liu được dùng để làm mềm những bạch hạch – đó là thuật ngữ y khoa cho những nốt sưng trong bẹn, cổ và nách – sau đó rạch vào nó để phóng thích mủ. Cuốn sách liệu nó có tác dụng, mà chỉ có những người khác làm như thế. Vậy họ có còn sống hay ? Tuy nhiên, nếu nó được đề cập đến trong cuốn sách y khoa hẳn được nghĩ là đáng để

      nuốt khan. Vậy tốt, nếu các hạch hình thành, làm điều đó. Con dao cạo của Rafe đủ bén để rạch bất cứ gì.

      Họ thử làm điều đó với Mama và Papa – có lẽ nếu họ thử…

      Tích cực lên nào, nhắc nhở bản thân. Vẫn chưa có cái hạch nào. Trong khi chờ đợi, cố làm hạ sốt.

      thôi run rẩy sau giờ đầu tiên và ném hết chăn mền ra, trở mình trằn trọc cách yếu ớt. “Nóng… nóng…” thở hổn hển. “Nước…”

      cách dịu dàng, lau cơ thể với nước và giấm, nhàng lướt chất làm se ẩm, mát lạnh qua vùng ngực phẳng rộng, bụng rồi xuống cánh tay và chân .

      cố nhìn chằm chằm vào cơ thể , nhưng thể ngăn mình. Ngực rộng và rắn chắc, nhấp nhô lên xuống trong hơi thở giần giật, đều. vuốt ve làn da ẩm của , quyết tâm đem sức khỏe của trở về. Các thớ cơ dày, buông lỏng trong trạng thái vô thức của , co giật dưới lòng bàn tay khi vuốt miếng bọt biển qua .

      người giàu có, nhưng chút mỡ người. người đàn ông của xương và cơ bắp. Thế có phải là tốt? tự hỏi. bỗng dưng nghĩ người đàn ông mập mạp hơn có thể chống lại tàn phá của cơn sốt tốt hơn.

      nhấc hai cánh tay lên và lau cho với giấm và nước, thử sờ tìm nốt sưng, nhưng có.

      lau xuống cơ thể , theo đường lông hình chữ V hẹp lại ở phần rốn, chia đôi phần bụng , và hợp nhất với phần rậm rạp ở bẹn. Các bộ phận nam tính của mềm, và phun nước lạnh qua chúng, và thận trọng thăm dò cả hai bên nhằm tìm những nốt hạch. có gì.

      liếc nhìn khuôn mặt và nhìn thấy mắt mở, nhìn . cảm thấy hy vọng dâng trào.

      có gì ở đó, có sưng,” bảo . “ có gì phải lo lắng nữa. khỏe sớm thôi. Chỉ cần ngủ.”

      phát ra thanh nào, dấu hiệu cho thấy hiểu và nhận ra nhìn chằm chằm với đôi mắt lờ đờ vì sốt, trống rỗng, mơ hồ.

      lau xuống đôi chân dài, cơ bắp săn chắc, phủ lông. cựa nguậy chúng ngừng dưới hai tay , và bắt đầu trở đầu yên. Các nắm tay to lớn của siết lại rồi mở ra.

      cho uống chút trà vỏ cây liễu và dịu trở lại.

      Nếu chưa bao giờ gặp người đàn ông này trước đây, vẫn biết chiến binh, nghĩ khi lau cơ thể to lớn, nóng hổi, bồn chồn. Người đầy sẹo và sẹo.

      có những vết thương nguy hiểm, đe dọa tính mạng. vết thương dài sâu bàng bạc màu với các mép sẹo dúm dó chạy dài từ ngay dưới cánh tay đến sát bên sườn; vết chém từ thanh kiếm, đoán. phép màu vì sống sót với nhát chém đó.

      lỗ tròn, trong vai và cái đối xứng lưng : viên đạn có vẻ như xuyên qua người . phép màu khác.

      Có những vết sẹo quai hàm và cái phía bên gần thái dương, phát ra khi vuốt mái tóc ẩm ướt của ra sau. vài vết sẹo gần đây: của chú Gadi và bè lũ của ông ta, nghĩ với vẻ tội lỗi.

      hoàn thành việc lau người cho và đứng lùi lại. Với nhiều vết sẹo thế này lẽ ra phải trông rất xấu xí; thay vào đó lại trông đẹp lạ.

      Thế nhưng tại lúc này đây, còn yếu hơn con mèo con của .

      Đôi mắt ngập đầy nước. chớp để xua chúng . Suy nghĩ lạc quan lên nào, kiên quyết tự nhủ. Hãy suy nghĩ lạc quan!

      nhìn chăm chăm lần nữa, đôi mắt xanh, rất xanh của như thiêu đốt .

      quỳ xuống cạnh giường và vuốt tóc ra sau, thầm những lời dịu dàng an ủi.

      Suốt ngày hôm đó lau rửa cho nhiều lần, làm dịu với những lời lẽ lạc quan và tăng thêm cho sức mạnh với mỗi cái vuốt ve. cho uống trà vỏ liễu với trà vỏ canh-ki-na và nước lúa mạnh có chứa kali nitrat – thứ được cuốn sách đề cập tới và có trong hộp thuốc.

      trở người và lẩm bẩm lầm bầm, và càng lúc càng sốt cao hơn. lau người với giấm và nước, hoặc đắp cho những chiếc khăn ướt lạnh, và chúng dường như làm cho dễ chịu, nhưng sau đó đột nhiên run rẩy, cơ thể rung lên với những cơn co giật và giữ những tấm chăn lại và nhét vào trong.

      Và suốt lúc ấy đều cầu nguyện.

      Higgins trở lại nhiều lần ngày hôm đó, hỏi thăm người bệnh, đem tới nước nóng và kiểm tra xem Ayisha có cần bất cứ gì .

      Ông đem đến cho các bữa ăn, là điều muốn, nhưng ông đứng bên ngoài, khăng khăng rằng phải ăn để giữ sức khỏe – và ông đúng, biết, vì thế ăn. mùi vị gì.

      Vào buổi chiều muộn, Higgin mang lại tất cả đồ đạc của Ayisha. Bà Ferris sợ bị lây nhiễm, ông kể cho nghe, và từ chối để chúng – hoặc con mèo con của – ở trong cabin lâu thêm nữa.

      Mục sư và bà Payne trông nom con mèo. Và cầu nguyện cho Ramsey. Và cho Ayisha.

      Đêm xuống, nhưng cơn sốt vẫn hạ. Thay vào đó càng nóng hơn, mặc dù mọi việc có thể làm đều làm.

      Qua ô cửa sổ, có thể nhìn thấy đường cong của mặt trăng treo thâm thấp bầu trời. Nó cũng chiếu sáng bầu trời Cairo, nhắc nhở mình. Họ sống thế nào ở đó nhỉ? nhớ chị Laila, nhớ khôn ngoan và trải nghiệm của chị. Laila biết liệu Ayisha có làm đúng hay .

      Ayisha . Cả ngày cho uống thuốc, nhưng dường như tồi tệ hơn. cảm thấy bất lực, hoang mang. Điều gì xảy ra nếu thể duy trì sống cho ?

      làm sao chịu nổi nếu chết? chỉ mới tìm thấy

      run lẩy bẩy. “Lạnh… lạnh…” lẩm bẩm.

      đắp cho mọi thứ có thể. Các ô cửa sổ đều mở, nhưng khí bên ngoài ấm áp và dìu dịu. thể nghĩ ra thứ gì có thể làm cho ấm hơn nữa. Trừ thứ.

      cởi áo sơ mi lót ra và trèo lên giường, trượt vào bên dưới các tấm chăn cho đến khi chạm vào . Chúa tôi, nóng hổi, người như lò lửa, vậy mà vẫn run rẩy và lẩm bẩm, “Lạnh, lạnh.”

      co người qua , ôm cách bảo vệ, muốn truyền sức khỏe của , sức mạnh của cho . đặt lòng bàn tay của mình lên khuôn ngực trần của , lên trái tim . cần nó ở đó để cảm thấy bất kỳ thay đổi nào trong đêm nay.

      cuộn người bên , cảm thấy tiếng thình thịch thình thịch của nhịp tim , mong sao nó vẫn đập mạnh mẽ và đều đặn. để chết, . lặp lặp lại câu đó trong đầu mình. chắc mình có cầu nguyện hay .

      Kiệt sức, sợ hãi, tỉnh giấc bởi bất cứ động đậy hay thay đổi nào ở , chập chờn như thế suốt đêm.

      ***

      Ngày thứ hai còn nghiêm trọng hơn. nóng hơn, yếu hơn, đau hơn, bồn chồn nhiều hơn. Ba lần ngày cho uống nước đun sôi với vỏ cây liễu, và vỏ canh-ki-na xen kẽ nhau. Vào những lúc khác, cho uống nước lúa mạch với mật ong và lau người hoặc cuốn người với đống chăn mền, tùy thuộc vào việc kêu nóng hay lạnh.

      ngày chục lần dò tìm các hạch và mỗi lần đều thở phào nhõm. Bất kể là bệnh gì, ít nhất nó cũng phải là bị dịch hạch. Chưa thôi.

      Suốt ngày đều lắng nghe tiếng .

      Nó gần như là liên tục: la hét, hoặc liên tục lẩm bẩm trong cơn mê sảng. Nó chỉ dừng trong những khoảng thời gian ngắn ngủi khi chìm vào giấc ngủ. Hoặc bất tỉnh.

      Nhưng sợ những khoảng yên lặng này. Chúng làm sợ chết khiếp.

      Ít ra khi lên tiếng có nghĩa là còn sống, cho dù biết gì.

      Trong tĩnh lặng này, nhìn xuống , xem mỗi hơi thở, sẵn sàng vồ chộp lên nếu chết. có ý tưởng làm gì nếu phải làm sống, bằng cách nào đó – nhưng biết bằng cách nào.

      tốt hơn là chỉ ngủ thôi,” với trong tĩnh lặng. “Chết phải là lựa chọn.”

      Hoặc, “ hứa với bà tôi là đưa tôi về với bà ấy: chưa bao giờ thất hứa, chết tiệt, vì thế đừng có mà thất hứa lần này!”

      Nhưng hầu hết thời gian đều lặng lẽ , “Thở … thở … thở .” Và thở mỗi hơi thở với , cho .

      Thỉnh thoảng, khi , biết được đôi điều về . Nhiều câu vô nghĩa. Nhiều câu có nghĩa.

      nhớ lại những quãng đời qua. có thể thế khi nghĩ là mình trở lại thời chiến tranh, có thể nghe lẩm bẩm ra những mệnh lệnh rời rạc, xen kẽ với những suy nghĩ, đứt khúc với những tiếng la hét cảnh báo. Đôi lúc hai cánh tay vụt lên, hoặc nắm tay siết lại, như thể đánh nhau.

      cuộn người bên cạnh giường, vuốt trán thầm những thanh dịu dàng, nhàng. Và lần nữa, co người ngủ người bên đêm đó, lòng bàn tay áp lên trái tim .

      ***

      Ngày thứ ba vẫn trầm trọng.

      Khi thay các tấm trải, nhìn chăm chăm vào cơ thể trần trụi nằm xoãi ra giường của . Các cơ bắp mà vuốt ve vào ngày đầu tiên giờ nhìn thế nào đó… như nhão hơn. Chúng rút lại? biết, nhưng nghĩ chắc là thế.

      Lẽ nào cơ thể to lớn, săn chắc trở nên hao gầy như thế? Chỉ trong có hai ngày? Hay là tưởng tượng?

      sờ tìm những nốt hạch; vẫn có.

      nằm yên tĩnh, nhưng vẫn nóng, hơi thở khọt khẹt đều, ra vào như ống thổi bị gỉ.

      nữa. Giờ nhớ những câu mê sảng mạch lạc làm lo lắng yên trước đó.

      chuyện với , ra lệnh cho phải sống, đảm bảo với khỏe lên, nhiếc móc chịu cố gắng nhiều hơn.

      chết, Rafe, có nghe thấy tôi ? Tôi cấm!”

      khỏe lên.” giọt nước mắt bất thần trong cơn giận dữ rơi xuống má . “Phải tích cực lên chứ!”

      gởi trả lại đồ ăn chưa được đụng đến, lờ những lời khiển trách của Higgins. thể ăn khi vẫn còn nằm và yếu ớt như thế. thấy muốn bệnh.

      cho uống trà thuốc, với nước lúa mạch để lấy sức, và nuốt nó xuống, chỉ chút xíu. Vẻ yếu ớt của làm thấy sợ.

      Khi cho uống liều thuốc vỏ cây liễu vào đêm đó và trượt vào bên cạnh , cầu nguyện cách thành khẩn cho mạng sống của được giữ lại. ôm vào bên , tay đặt lên tim , cảm thấy mỗi hơi thở khòn khẹt, vào ra, vào ra. quá sợ để ngủ.

      Nhưng vào khoảng rạng sáng, nhịp tim và nhịp thở đều đặn của ru ngủ giấc ngắn mặc cho muốn.

      Và trong ánh sáng nhàn nhạt của buổi bình minh, tỉnh giấc trong cái lạnh.

      ngồi bật dậy và hét lên, “Khônnnng.”

      Và bên cạnh , cục cựa người.

      nhấp nháy mắt. Áo mặc trong của bị ướt.

      thấy lạnh bởi vì áo trong của bị ướt và gió từ cửa sổ thổi vào làm lạnh.

      Áo bị ướt bởi vì người ướt. ra mồ hôi. sờ trán . Nó mát lạnh dưới những ngón tay .

      Ôi Chúa ơi, ngủ cách bình thường, hơi thở sâu và đều. áp lòng bàn tay vào tim và cảm thấy nhịp đập mạnh và đều đặn.

      Cơn sốt qua. Nước mắt thi nhau rớt xuống má thể kiềm chế. ấy sống. hết sốt rồi.

    5. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      13



      ngủ hầu như suốt ngày hôm đó, và vào xế chiều khi ngước lên nhìn và thấy nhìn . Đôi mắt xanh của trong như bầu trời lúc bấy giờ, có dấu hiệu của bị sốt. Và còn có chút… khó chịu?

      làm gì ở đây?” hỏi.

      “Tất cả ổn rồi, bị ốm.” vội đến bên giường và sờ trán . Mát và bình thường đến đáng mừng.

      ngước nhìn và nắm lấy tay trong tay , chau mày. “ làm gì vậy?”

      “Thử xem còn sốt . còn chút nào. khỏe trở lại thôi.”

      cố ngồi dậy và ngã xuống đống gối. “Chúa tôi, tôi yếu như con mèo con.”

      “Vâng, cần phải nghỉ ngơi thêm chút nữa để lấy lại sức. ốm rất nặng. Tôi… tôi nghĩ là chết,” như mơ hồ .

      “Vớ vẩn, tôi dai như đôi giày cũ ấy,” và lại cố ngồi lên, lần này thành công, dù với gắng sức có thể thấy .

      phải, cứng đầu như đôi giày cũ có,” chỉnh lại . “Giờ vui lòng ở yên đấy. Tôi cần lau mình cho .”

      “Lau người tôi?” Đôi mày đen chụm lại với nhau. “ cần làm cái loại việc đó!”

      “Đừng có ngớ ngẩn, cần phải lau người. Trong trường hợp nhận ra, có mùi rất khó chịu đấy. Khi cơn sốt rút , đổ mồ hôi như con heo, và bây giờ tôi cần giúp làm sạch người vì thế mới có thể phục hồi trong thoải mái.”

      Đôi mày đen giãn ra khi săm soi bên dưới tấm chăn. Cặp mắt vụt mở to khi thấy mình trần truồng. liếc nhìn , sau đó thận trọng ngửi ngửi người mình. Đầu giật ra sau. “Khiếp!”

      bật cười. “ bảo rồi mà. Tất cả những dịch thể xấu bị bài tiết ra khỏi người theo đường mồ hôi. Vì thế bây giờ có chịu để cho tôi tắm cho ?”

      kéo chăn đến cằm. “Tôi từng nhìn thấy còn tệ hơn thế này – quỷ tha ma bắt, Ayisha, thậm chí còn nên ở đây, với tôi trong tình trạng thế này.” nhét tấm chăn quanh người. “Higgins đâu?”

      “Bên ngoài.”

      “Vậy nhắn ông ấy vào. Ông ấy có thể giúp đỡ tôi.”

      , ông ấy thể,” điềm tĩnh . “ trong mười ngày nữa.”

      “Ý là sao cơ, mười ngày nữa? Tôi tưởng ông ấy ở bên ngoài chứ? Ông ấy đâu đó sao?”

      , ông ấy vẫn ở tàu,” bảo . “Nhưng tôi có thể gây lây nhiễm, vì thế thuyền trưởng cầu tôi cách ly trong khoảng mười ngày nữa, chỉ để đảm bảo.”

      “Nếu phải cách ly, vậy làm gì trong cabin của tôi vậy?”

      “Đây là cách ly,” . “Tôi với rồi mà, bị ốm. Chúng tôi nghĩ đó có thể là bệnh dịch hạch.”

      “Dịch hạch?”

      “Nhưng phải, và hồi phục từ bệnh gì đó. Nhưng có thể tôi bị lây nó từ , và vì thế chúng ta phải ở trong này trong ít lâu nữa.”

      “Ít-” thả người xuống đống gối. “Tôi thể hiểu nổi gì với tôi nữa. -” giơ tay lên. “ giải thích thêm nữa. Tôi nghĩ mình trước tiên ngủ cái và hy vọng tất cả có thể hiểu được khi tôi thức dậy.”

      “Tốt, đừng ngủ lâu quá,” bảo . “Tôi cần phải tắm cho và thay những tấm ga này trước khi trời tối.”

      lắc đầu. “, được chạm vào tôi, chết tiệt. Tôi có thể ngủ được với nó.”

      “Tốt, nhưng tôi ,” . “Nếu nghĩ tôi ngủ trong những tấm chăn bẩn với người đàn ông đầy mùi hôi hám, vậy nhầm rồi đấy.”

      ai buộc phải ngủ trong những tấm chăn bẩn với bất kỳ loại đàn ông nào cả!” vặt lại. “ . ngủ trong giường của ấy.”

      gì.

      Chân mày nhíu lại khi hiểu được hàm ý của những gì , và ánh mắt lướt qua căn phòng. có chiếc giường nào khác.

      “Ý là cái ông thuyền trưởng chết tiệt kia nhốt trong này mà có nhiều hơn chiếc giường?” với cơn thịnh nộ bị dồn ép.

      phải,” mệt mỏi . “Tôi tự nhốt mình trong này với , và tôi ngủ ở đây-” chỉ vào giường . “Trong ba đêm qua.”

      “Với tôi?”

      nhún vai. “ bị bệnh và vô thức. Và phòng rộng; giường to.”

      nhìn chằm chằm vào trong lúc lâu, sau đó rên rỉ. “Đầu tôi đau quá. Tôi thể nghĩ gì thêm. Hãy để tôi nằm đây lúc trong khi tôi thông suốt nó.” nằm xuống và nhắm mắt.

      ngay tức khắc lấy cái tách và đưa nó lên miệng .

      “Cái – cái quái-” thổi phì phì, đẩy nó ra. “Cái gì vậy? Tôi cần chăm bẵm tôi.”

      “Là trà vỏ cây liễu,” cáu kỉnh với . Đúng thực là chăm bẵm ta mà. bị cám dỗ rót cái tách trà này vào cái đầu bự xự, dày cui của ta! “Nó làm bớt đau đầu. Mùi vị của nó khó chịu, tôi biết – nếu tôi nhầm. Còn cái vụ nhặng xị này, uống nó ba lần ngày trong ba ngày qua, và nó rất giúp ích cho đấy.”

      rên rỉ và kéo tấm chăn qua đầu. Nó phát ra tiếng vài giây sau đó. “Tôi bốc mùi, hử?”

      gật đầu. “Như heo. Và cần đại tiện nhiều như việc tắm rửa.”

      “Đại tiện? Chẳng còn gì bên trong để mà . Tôi cần tiện tiếc gì hết!” gầm gừ. Sau đó nhìn lên . “Tại sao phải đại tiện chứ?”

      “Nếu dịch thể xấu có thể đổ mồ hôi ra khỏi , tôi hy vọng việc đại tiện giải thoát cho khỏi chất độc hại khi tỉnh,” ngọt với . “Tôi cũng áp đặt điều đó vào mười ngày sau!” Đó là kiểu bạn trước khi bạn kiêu ngạo ào ra khỏi cánh cửa kia, ngẫm nghĩ, nhưng bị nhốt trong này, vì thế tất cả những gì có thể làm là quay lưng lại với .

      run lên với cơn giận – và có thể là chút nhõm vì thực ổn. Và có lẽ suýt rơi nước mắt cho cùng lý do – nhưng khóc trước mặt . Cái tên quái vật hôi hám kia.

      Làm thế nào bạn có thể ngày đêm chiến đấu giành giật lại mạng sống cho người đàn ông, để rồi khi bạn làm được, bạn lại muốn bóp chết ta ?

      muốn nghỉ ngơi, chỉ vậy thôi. hầu như ngủ chút nào trong mấy đêm qua. giậm mạnh chân tới chiếc giường, nhìn , và lấy lên hai tấm chăn mà đá văng ra lúc nào đó.

      gấp chiếc làm ba theo chiều dọc, sau đó gấp đôi lại, và đặt nó lên sàn chỗ xa chiếc giường nhất. Đó chiếc nệm ngủ tàm tạm. lấy chiếc gối ở giường, và đặt nó ở đầu cuối của hình chữ nhật.

      làm gì vậy?” hỏi.

      lờ . quấn mình trong chiếc chăn khác và nằm xuống tấm đệm.

      thể ngủ sàn. Đây, lấy cái giường , tôi ngủ sàn.”

      “Cái giường đầy mùi mồ hôi, mùi bệnh tật và đủ thứ mùi của . Tôi ngủ sỏi đá ngoài trời trong sáu năm qua. Tôi có thể ngủ ở bất cứ đâu.” nhắm mắt lại.

      “Vẫn còn quá sớm để ngủ.”

      bật dậy và trừng mắt nhìn . “Này, tôi ngủ rất ít trong mấy đêm qua, vì thế tôi ngủ bù lại bây giờ đây. Nếu may mắn, tôi ngủ suốt mười ngày và khi đó tôi phải gì với . Và phải chịu đựng gì cái nhặng xị của tôi nữa.” nằm xuống lại.

      khoảng lặng, sau đó . “Tôi xin lỗi. Tôi thô lỗ và tôi làm buồn. Tôi chỉ quen – tôi hơi bối rối chút, chỉ có thế. Tôi dường như thấy mình mất mát gì đó, và tôi hiểu tại sao lại thế.”

      bị bệnh và giờ khỏe hơn, và tỉnh dậy với cái tính khí xấu xa và bốc mùi,” mệt mỏi , thêm vào, “Và tôi cũng xấu tính như thế, nhưng ít nhất tôi cũng tắm rửa và thay đồ, vì thế tôi cảm thấy khá hơn. Tôi giải thích tất cả sau, còn giờ , tôi cần ngủ chút.” Rồi nhắm mắt lại và ngủ.

      Rafe ngồi dựa vào đống gối và nhìn . thực ngủ ngay, ngay tại chỗ đó. nghĩ ngợi trong lúc, chỉ cố làm số vấn đề. số vấn đề mà thể lý giải.

      Nhưng giờ trí óc bắt đầu làm việc, nhận ra xanh xao, bơ phờ và có vẻ, mỏng manh. bị kiệt sức.

      nhắm mắt lại và cố gắng suy nghĩ. Điều cuối cùng có thể nhớ là… người phụ nữ la hét? người phụ nữ… nhưng phải Ayisha. Nhưng lý do lảng tránh . Bất kể ký ức đó là gì, nó cũng trôi trượt như thường thấy ở những giấc mơ. Hoặc những cơn ác mộng.

      Nhưng có mùi khó chịu.

      Nếu những gì là đúng và họ bị nhốt trong này, tốt hơn là lau rửa mình mẩy sạch trong khi ngủ. lần nữa xoay sở để ngồi dậy.

      hẳn là bệnh rất nặng. Chỉ có vài lần trong đời là thấy mình ốm yếu thế này. ghét điều đó. Ghét bị lệ thuộc vào người khác.

      thích tự bắn mình hơn là để tắm cho trong khi bất lực như đứa trẻ.

      cố ngồi lên và vung chân xuống giường. ngồi ở mép giường, thở nặng nề, và nhìn bao quát cabin. Bên dưới ô cửa sổ phía xa là hàng những chiếc xô đậy nắp, đống khăn được gấp lại, vài cái bát chậu tiểu. đầu tủ ngăn kéo được bắt vít tường là hòm thuốc của , ấm trà, và cái tách chết tiệt kia. Bên cạnh chúng là dao cạo của . Tuyệt. rà tay qua quai hàm; có thể cạo râu.

      liển xiển đứng dậy và, trần truồng, lảo đảo bước và thấy mình vịn chặt vào ô cửa sổ để giữ thăng bằng. Đầu quay mòng. đứng lúc, dựa người và hít vào khí của biển cả. Điều đó dường như cũng giúp ích được .

      Kế đó kiểm tra nhanh mấy cái xô. Hai cái , hai cái có nước. nhúng ngón tay vào và nếm thử. cái là nước ngọt, cái kia là nước biển.

      lấy cái khăn mặt, chà vào nó ít xà phòng có mùi thuốc mà tìm thấy, sau đó cọ qua người, dùng nước biển. cọ người mình từng xen-ti-mét từ đầu tới chân, xoay người để với tới lưng, chà mạnh vào nó. thận trọng bước vào cái xô rỗng và dùng cái ca thiếc cạo râu của mình để múc nước biển dội xuống người.

      Thay vì vào xô, cái thứ nước xam xám có bọt kia chảy tràn qua sàn tàu. nhìn chằm chằm vào nó, rụng rời.

      liếc tới Ayisha, ngủ ngay phía bên kia căn phòng. Hơi thở của sâu và đều đặn. Hàng mi đen khép lại thành hình lưỡi liềm tinh tế khuôn má nhợt nhạt của . Tóc lòa xòa cách duyên dáng quanh thái dương và tai, xoăn xoăn trong cái cách mới vừa tắm rửa xong.

      tắm. Và bằng cách nào đó để lại mọi thứ gọn gàng, sạch và khô ráo, như con mèo con.

      nhìn chằm chằm xuống vũng nước biển xam xám bòn bọt lan rộng ra, loạng choạng bước trở về giường, bóc toạt ra tấm chăn cùng, và ném nó lên vũng nước bẩn.

      Chúa tôi, kiệt sức – lần nữa. ghét mình quá yếu thế này. nắm chặt cạnh của ô cửa sổ và tắm cho đến khi cảm thấy lạnh thân thể trần truồng, ướt rượt, làm hồi sinh .

      tự cạo râu cho mình và sốc nặng khi nhìn thấy mình trong chiếc gương soi. Bên dưới hàm râu lởm chởm, trông … gầy nhẳng, đôi mắt thâm đen và trũng sâu xuống. Được rồi, trông khá hơn khi cạo râu.

      Con dao cạo của được lấy và mở ra. Cái túi với những vật dụng vệ sinh còn lại ở phía sau hành lý của . ấy muốn làm gì với con dao cạo của vậy?

      cạo râu với nước lạnh. làm nhiều lần trước đây, nhưng hiểu sao lần này lại làm xước mình, và vào lúc làm xong, có những vết máu lốm đốm tấm trải ở dưới chân.

      cọ rửa người lần nữa với xà phòng riêng của mình, và lần này dội sạch lại bằng nước ngọt. liếc nhìn mình trong gương. sinh vật trông đến tội nghiệp, nhưng cảm thấy tốt hơn triệu lần.

      Nhưng mà trời ạ, tạo ra mớ hỗn độn.

      Tấm trải sũng nước. Phải làm gì với nó đây? Đáp án ràng. kéo nó quanh sàn bằng đôi chân của mình, cho nó ngấm hết nước vào, sau đó dồn cục nó lại và liệng qua cửa sổ. Vấn đề được giải quyết.

      lấy khăn lau khô tóc và mình mẩy, và ném cái khăn dùng ra cửa sổ. Những thứ chết tiệt, cửa sổ.

      Ayisha lầm bầm gì đó trong giấc ngủ, và liếc qua. Tốt hơn là quấn người mình lại trước khi ấy tỉnh dậy.

      tóm lấy cái quần cộc từ cái túi du lịch của mình và cố mặc chúng vào. Chết tiệt. cần ngồi xuống. ngồi lên giường, kéo cái quần lên, sau đó mệt lử, ngã xuống giường. Khiếp. Vẫn còn hôi.

      kéo tấm trải dưới cùng ra, ngửi ngửi, và kéo lớp phủ bên dưới nó ra, cuộn hết lại rồi ném qua cửa sổ. Mấy cái gối cũng theo cùng cách. ngửi cái nệm. Vẫn còn mùi chua chua, khó chịu.

      Nó được nhồi với len. Len lan truyền bệnh truyền nhiễm, nghe thế. cố cuộn tấm nệm lên, nhưng mặc dù nó mỏng, nhưng cũng đủ mỏng để chuyển nó qua cả sổ.

      Khỉ . ngồi xuống để nghĩ cách giải quyết. Và nhìn thấy cái hòm đồ của mình dựng ở đó. có mua thanh kiếm thép Damascus của Ả Rập khi còn ở Cairo. Thép Damascus rất nổi tiếng. Kiếm của Damascus có thể cắt qua bất cứ gì – chúng làm gẫy vỡ kiếm của những kẻ thập tự chinh ngày xưa, vì thế tấm nệm làm bằng len và vải thành vấn đề.

      Với quyết tâm mới, kéo thanh kiếm từ hòm đồ ra và bắt đầu cẩn thận cắt tấm nệm ra thành những mẩu , ném mỗi mẫu qua cửa sổ. Nó bén bằng – thậm chí còn có thể hơn – con dao cạo của , và nó cắt qua lớp vải len tiếng động.

      vẫn ngủ ngon lành bị nó đánh thức.

      Vũ khí tuyệt vời, nghĩ khi tra nó vào vỏ. ước gì mình thanh kiếm thế này hồi còn trong quân ngũ. chỉ mua bốn cây, mỗi người cây. Phải năm chứ – cho Ethan. Có lẽ viết thư cho Baxter.

      ngồi giường. thoải mái chút nào với chỉ tấm trải bằng vải bạt những sợi dây thừng bện lại. Dù vậy, vẫn còn tốt chán so với việc nằm tấm nệm tiềm lây nhiễm. liếc qua ngủ. Vì cớ gì mà ngủ cùng giường với gã bị bệnh chứ? Nếu bị bệnh bởi vì gã…

      Họ có thể có tấm nệm mới ở cảng kế tiếp. biết chúng là nơi nào nhỉ? chăm chú nhìn ra ô cửa sổ, nhưng thể nhìn thấy gì, chỉ là vệt mờ mờ của dải đất liền xa xa.

      xỏ vào chiếc quần ống chẽn cùng với áo sơ mi, và cảm thấy trở lại với thế giới văn minh. Có tiếng gõ cửa.

      “Thưa ? Ổn cả chứ, thưa ?” Là Higgins.

      Rafe ra cửa. Cái quái gì thế này? Nó bị chốt lại – từ bên trong. Nhưng là họ bị nhốt bên trong. kéo chốt và mở vung cánh cửa.

      Khuôn mặt Higgins sáng lên. “Cảm tạ Chúa, cậu chủ, cảm tạ Chúa – cậu khỏe lại rồi.” Khuôn mặt người đàn ông lớn tuổi dúm dó và ông cố gắng kiểm soát cảm xúc của mình. “Tôi nghĩ – tôi chắc là -” Ông hắng giọng. “ Ayisha là cậu khỏe hơn, nhưng tôi… tôi chắc… Và nhìn thấy cậu-” Ông vội quay nhanh đầu ra sau, rút ra chiếc khăn tay, hỉ cái rột vào nó, sau đó, sau lúc, quay trở lại với Rafe, cung cách cứng nhắc thường thấy trở về nguyên trạng.

      “Thứ lỗi cho tôi, cậu chủ, nhưng tôi nghĩ ngài chắc là xong rồi. Dịch hạch là kẻ giết người.”

      “Dịch hạch?” Rafe lặp lại. Và đột nhiên nhớ là những gì mà người đàn bà nọ la hét. Dịch hạch. cau mày. “Nhưng đó phải là dịch hạch, đúng ?”

      “Đúng vậy, cậu chủ, nhưng mọi người đều nghĩ đó là dịch hạch. số người còn hoảng loạn.”

      Rafe gật đầu. “Vậy ra đó là lý do họ nhốt tôi trong này. Nhưng tôi hiểu lý do họ đưa tiểu thư Ayisha vào trong này với tôi. ấy đâu có bị bệnh, phải ?”

      Higgins nhíu mày. “, thưa cậu, ấy tự nhốt mình với cậu. Để ngăn họ vứt cậu .” Trước biểu bối rối của Rafe, ông thêm, “ ấy giải thích với cậu sao, cậu chủ?”

      Rafe lắc đầu. “, có. ấy ngủ. Thấy ?” đứng lùi lại và ra hiệu cho Higgins bước vào, nhưng người đàn ông di chuyển.

      “Xin tha thứ cho tôi, cậu chủ, nhưng thuyền trưởng ra lệnh ai được bước vào hay bước ra khỏi cabin này trong mười ngày nữa.” Ông cho Rafe cái nhìn tội lỗi rồi , “Đó là mệnh lệnh trực tiếp, thưa cậu, nhưng nếu cậu muốn-”

      Rafe phẩy tay với lời giải thích của ông. “, trong trường hợp này ông ấy là sĩ quan cấp . Ông làm đúng. Nhưng hãy cho tôi biết thêm các chi tiết.”

      Higgins kể và vào đoạn cuối câu chuyện của ông, Rafe cau mày. “Các người đều tin là tôi bị dịch hạch? Và ai cố cản ấy lại hết?”

      “Mọi người có làm, cậu chủ, gồm cả cậu. Ai cũng muốn thoát khỏi cậu; dự định kéo cậu tới bờ biển Châu Phi hoang vắng nào đó và để cậu ở đấy, sống chết tùy vào Chúa. Và cậu, cậu chủ, cậu cũng sẵn sàng làm thế – nhất quyết làm hùng cao thượng.”

      Ông cười toe, mà như muốn khóc. “Nhưng tiểu thư Ayisha cương quyết chống lại. Cậu nên nhìn thấy ấy lúc đó, cậu chủ! Như cọp cái, ra sức bảo vệ con của mình. ấy đẩy cậu vào trong cabin, theo cậu vào, rồi chốt cửa lại. ấy thậm chí còn dọa bắn hai người đàn ông đầu tiên bước vào – bởi họ muốn phá cửa và lôi cậu ra. Nhưng ấy ngăn họ lại.”

      Rafe nhìn chăm chăm vào cái người trẻ măng mỏng manh cuộn người sàn và nuốt khan. “Chuyện này cách đây bao lâu?”

      “Bốn ngày – ba đêm, thưa cậu. ấy chăm sóc cậu ngày đêm trong suốt thời gian đấy, lau người cho cậu, cho cậu uống vỏ canh-ki-na và có Chúa biết còn những gì khác. ấy quả thực là nữ hùng bé .”

      ngốc nghếch,” Rafe lẩm bẩm. Những gì nghe làm run rẩy từ trong tận sâu thẳm của cơ thể. Mạo hiểm mạng sống của bạn vì người bạn trong trận chiến ác liệt là chuyện; nhốt mình với người đàn ông mà bạn nghĩ bị dịch hạch là chuyện khác. mạo hiểm chắc chắn dẫn đến cái chết. Vì người đàn ông mà hầu như biết gì.

      thở dài. “Tôi chết đói đây, Higgins. Ông có thể lấy cho tôi ít thức ăn ?”

      “Tất nhiên rồi, thưa cậu, và cả cho Ayisha, tôi nghĩ thế; ấy ăn thứ gì kể từ hôm qua.”

      “Ừ, cả tiểu thư Ayisha. Ồ, và ông xem thử có thể kiếm nhanh tấm nệm mới, vài cái gối, và vài tấm chăn. Tôi có khá nhiều tấm trải rồi.”

      Higgins trông có vẻ bối rối. “Vâng, tiểu thư Ayisha thay ga giường mỗi ngày mà, nhưng chuyện gì xảy ra với mấy thứ kia-”

      “Chúng chu du ngoài cửa sổ rồi, Higgins,” Rafe bảo ông. “Chúng hôi rình.”

      “Ngoài-” Khuôn mặt Higgins thoảng ngây ra. Ông thẳng người lại. “Tất nhiên rồi, cậu chủ. Tôi xem liệu mình có thể làm gì, thưa cậu.”

      Khi cánh cửa đóng lại đằng sau Higgins, Ayisha cựa nguậy người.

      “Higgins lấy cho chúng ta ít thức ăn,” với . “ ngủ ngon chứ?”

      “Vâng, cám ơn a- chuyện gì xảy ra với mặt vậy?” đứng lên, lắc người khỏi tấm chăn, và săm soi cách lo lắng vào quai hàm của . “Nó đầy vết xước.”

      “Tôi cạo râu,” với vẻ đường hoàng. “Bằng nước lạnh.”

      “Ồ.” cắn môi nén cười. “Tôi thấy. có thể gọi Higgins lấy cho ít nước nóng mà. Ban ngày ông ấy cứ cách tiếng là lại đến xem chừng.”

      lấy tấm chăn từ và thô bạo túm nó lại.

      “Này, tôi gấp nó cho,” bắt đầu và cúi xuống nhặt lên tấm chăn khác. nhíu mày. “Sao mấy thứ này trôi dạt khắp sàn thế? Trông nó như-” cúi xuống và nhặt lên thứ gì đó. “Đó là len.”

      “Từ tấm nệm, tôi nghĩ thế.” khom người và lấy lên cái gối của , lấy tấm chăn thứ hai từ , bước tới cửa sổ, và ném chúng ra ngoài.

      “Này, làm-”

      “Chúng cũng rất bẩn,”

      nhìn vào cái giường và há hốc mồm. “Chuyện gì xảy ra với cái giường thế? có tấm nệm.”

      “Nó biến rồi. Tốt hơn là thế. Len chứa chấp mầm móng lây nhiễm.” lấy mảnh len vụn từ tay và ném nó ra cửa sổ. “Higgins kiếm cho chúng ta cái mới. Lại đây và ngồi xuống. Tôi mệt lả rồi.”

      tiếng gõ cửa. “A, đồ ăn tới.”

      Nhưng là Higgins, với tấm nệm, mấy cái gối, và những tấm chăn. “Họ có nệm lớn, cậu chủ, nhưng trong những thủy thủ may hai cái nệm bình thường lại với nhau. Họ như những phù thủy phù phép với cây kim ấy. Kết quả của việc vá lại các cánh buồm, tôi đoán.” Ông đẩy tấm nệm qua cửa.

      “Ông Higgins này, ông có thể kiếm giúp cho tôi cái võng ?” Ayisha hỏi ông. “Và sợi dây dài để chúng tôi có thể dựng lên góc riêng tư.”

      “Chắc chắn rồi, thưa-” ông ngừng ngang, khi Rafe nhìn ông.

      có võng, Rafe nhếp môi thầm ở sau lưng .

      “Chắc chắn, thưa ,” Higgins kết thúc, vẻ mặt thay đổi. “Tôi xem xem có thể .”

      Rafe gật đầu. Tốt lắm.

      Họ tốn vài phút tiếp theo để lắp lại cái giường. Lúc xong việc Rafe gần như hết hơi. ngã sụp xuống giường.

      Năm phút sau, tiếng gõ cửa làm như hồi sinh lại. “Đồ ăn, cuối cùng cũng tới,” và loạng choạng ra cửa.

      Nhưng là ngài thuyền trưởng. Ông nhìn Rafe tới lui cách cẩn thận. “Lời chúc mừng của tôi, bạn, vì hồi phục.”

      “Cám ơn ông, thuyền trưởng,” Rafe .

      Thuyền trưởng liếc nhìn Ayisha đứng gần khuỷu tay Rafe, giúp đứng vững. “Tiểu thư Cleeve, làm việc dũng cảm – và cũng ngu ngốc.”

      mỉm cười. “Tôi với ngài rồi mà, thuyền trưởng, nó có quá nguy hiểm-”

      Rafe ngắt lời . “Chúng ta thảo luận chuyện này sau!” Bỗng dưng thấy tưng tức khi nghe dễ dàng cho qua chuyện này. “Thuyền trưởng, giờ ông thấy tôi phải bị dịch hạch, ông có thể bãi bỏ chuyện cách ly-”

      “Xin lỗi, nhưng được, tôi có những nguyên tắc và chúng phải được tuân giữ. Tuy nhiên, tôi ghét phải bị giam hãm trong cabin quá lâu, và tôi thấy hại gì với việc cho phép cậu lên boong thời gian ngắn để có chút khí trong lành, ánh nắng mặt trời, và tập luyện chút – miễn là cậu tiếp xúc với các hành khách hoặc thủy thủ đoàn của tôi, là được.”

      Ông nhìn như hỏi ý Rafe, gật đầu. “Đồng ý.”

      “Tốt. Tôi đề nghị cậu lên boong vào giờ ăn, khi những hành khách khác dùng bữa. Tôi thông báo cho thủy thủ đoàn. Cậu ăn sau, trong cabin của cậu, sau khi những người khác ăn xong.”

      Rafe gật. “ thỏa hiệp tốt. Cám ơn ông.”

      Thuyền trưởng nhổm bước, sau đó ông quay lại tiếp. “Cậu có muốn tôi tổ chức buổi lễ , bạn?” Ông liếc Ayisha.

      ,” Rafe với ông. “Tôi tổ chức nó khi đưa tiểu thư Cleeve về tới nhà bà ấy.”

      “Buổi lễ?” Ayisha hỏi. “Các ngài gì vậy?”

      lễ cưới, thưa ,” thuyền trưởng .

      “Nhưng-” Ayisha bắt đầu.

      “Cám ơn ông, thuyền trưởng, nhưng ngay lúc này cần,” Rafe đóng cửa lại.

      “Ông ấy gì thế?” Ayisha hỏi với vẻ nghi ngờ.

      trang trọng chút nào, đám cưới con tàu,” Rafe với . “Chúng ta làm việc đấy ở nhà bà của em.”

      “Làm cái gì cơ?”

      “Kết hôn, tất nhiên.” thấy cái nhìn kinh ngạc của . “Ừm, chuyện đấy gây ngạc nhiên vậy chứ. Tôi giải thích điều đó với em chỉ mới cách đây vài hôm – hoặc có thể là cách đây tuần, tôi biết. Nhưng tôi thấy là em rất hiểu ý tôi lúc ấy rồi mà. Bởi vì sao, bởi vì em đến gần tôi trong mấy ngày đó.”

      nhìn chằm chằm, như thể thốt nên lời.

      “Thôi nào, Ayisha, chắc chắn em có thể thấy là sau việc trải qua ba đêm mình với tôi, trong phòng tôi – giường tôi – chúng ta phải kết hôn.” Tất cả thời gian mình đó với vô thức, và làm gì , hẳn xem xét tới những hậu quả, nghĩ, cố gắng cắt đứt cuộn dây tội lỗi bên trong mình.

      **

      nhận ra nó ở khoảnh khắc biết ngủ giường . Nhận ra và thấy rất sung sướng. Với Rafe, nó giải quyết mọi việc. cách đúng đắn ở nơi muốn – trong vòng tay của , trong cuộc đời , và giường . Với tất cả mà cần phải dùng những lời hoa mỹ hay phải bối rối thú nhận điều đó.

      Và có nguy cơ ném lại chúng vào mặt .

      Bây giờ phải làm gì – trừ phải làm điều đúng đắn và cưới Ayisha. thể nào tốt hơn nữa.

      “Nhưng bị bệnh, tỉnh táo,” lập luận. “ thậm chí còn biết tôi ở đó.”

      “Phải, nhưng những người khác con tàu này đều nghĩ thế. Thôi nào, bé, cần phải trông khó chịu thế; tổn hại xảy ra, hãy lấy thế làm niềm vui.” Tại sao thể thấy những lợi thế của việc này nhỉ? Hôn nhân giải quyết những vấn đề của và của . Nó thậm chí giải quyết vấn đề thừa kế – dù quan tâm tới chuyện đó.

      nhìn . “Tổn hại xảy ra?” lặp lại, giọng có vẻ kỳ lạ. “Tổn hại?”

      cho nụ cười trấn an. “Chuyện đó cũng quá tệ. Chúng ta cùng tìm cách xoay sở được thôi mà, tôi nghĩ thế.” Và như là vợ , có thể thực bảo vệ và chăm sóc .

      “Ồ, sao?”

      nhíu mày. nghe như có chút… khó chịu? “Phải, cả hai chúng ta thể làm gì về chuyện này trừ việc chấp nhận .”

      gì mới được chứ?” hỏi. “Là bởi vì tôi cứu mạng sống của nhúm những người xa lạ biết về chuyện đó, mà chúng ta phải dành cả đời còn lại để mà ràng buộc hôn nhân với nhau sao?”

      nhún vai. “Đó là cách thế giới này làm.”

      “Đó phải là cách trong thế giới của tôi.”

      “Có lẽ , nhưng ở quốc-” bắt đầu, sau đó đổi ý. “Phải, là thế. Em thể phủ nhận chuyện hôn nhân sắp đặt suốt ở Ai Cập.”

      “Đúng vậy, nhưng như , đây là nước .” liếc ra mặt nước xanh của Địa Trung Hải. “Chưa, có lẽ, nhưng nó rồi được.”

      “Và những cuộc hôn nhân sắp đặt ở cũng diễn ra suốt. Cả hai người bạn của tôi cũng thực những cuộc hôn nhân sắp đặt – ra Harry làm cho nó giống thế. Và trai của tôi cũng sắp xếp cho tôi với Lavinia Fettiplace trước khi tôi rời-” dừng lại. Có lẽ đây phải là thừa nhận khôn ngoan nhất mà làm.

      “Ồ, tuyệt.” giơ hai tay lên. “Và tôi cho là ấy giàu và xinh đẹp.”

      “Ừm, đúng vậy, nhưng-”

      “Tất nhiên,” thịnh nộ. “Thế cho nên ấy rất cảm động khi ném ta sang bên vì nào đó mà tìm thấy ở chốn cặn bã của Cairo.”

      phải, ấy – và em phải ở chốn cặn bã, mà chính xác là – đó phải là vấn đề. tôi chỉ phải chịu đựng với thay đổi kế hoạch này.”

      Cái thay đổi kế hoạch này đối với thể nào phù hợp hơn. mong muốn kết hôn với Lady Lavinia. chạy trốn khỏi đất nước để tránh việc đó, là thế.

      “Chịu đựng, có phải chúng ta rồi cũng vậy?” Giọng rung lên với giận dữ. “Nhưng, với tôi , Ngài Ramsey. Bởi vì tôi từ chối lời đề nghị rất lịch thiệp của để làm tôi thành người phụ nữ đứng đắn. Tôi hoàn toàn đứng đắn như tôi thế, cám ơn ngài!”

      “Tất nhiên là vậy – ai điều ngược lại cả,” Rafe xoa dịu. “ cần phải khó chịu thế.” đặt bàn tay lên , nhưng cho ánh nhìn khiến phải đổi ý. có quyền khó chịu, biết. Phụ nữ muốn những lời hoa mỹ, những lời tán tỉnh, đại loại thế. Nhưng quá muộn để làm điều đó – họ hoàn toàn bị tổn hại, và còn lựa chọn nào khác trừ việc kết hôn.

      “Có bà Ferris và những người như bà ta, tôi nghĩ thế. Họ rằng tôi tạo ra tình huống để có được cho mình người chồng giàu có và đẹp trai.” trừng mắt nhìn . “Và cũng nghĩ thế, đúng ?”

      “Giờ đó phải là . Tôi chẳng nghĩ gì cả. Tôi biết rất rằng tôi ốm rất nặng. Em có ý tốt, tôi chắc chắn thế – tôi biết,” vội , nhìn biểu của .

      hít hơi sâu và bằng giọng dịu dàng, “Tất nhiên tôi biết em có ý gì trừ việc làm điều tốt nhất. Nhưng cuộc đời luôn như chúng ta mong đợi, và mặc dù đây có thể phải là điều cả hai chúng ta… mong muốn, nhưng nó hẳn là tệ lắm, đúng ?” cho nụ cười khích lệ.

      tệ lắm?” siết chặt hai nắm tay của mình, trợn mắt lên, và phát ra tiếng ồn ào giận dữ.

      Rafe nhíu mày. ràng món bở đáng khao khát kém hơn là tưởng, mặc dù ít nhất cũng nghĩ đẹp trai. tính với về chuyện thừa kế. Nhiều phụ nữ có thể thích cái ý tưởng con trai họ ngày nào đó trở thành bá tước. Nhưng chết tiệt, , hối lộ bằng nó. Thế là đường hoàng.

      quay trở lại cái vấn đề cứ trở trở lại mà tranh luận. “Nếu đó là bà Ferris mà em lo lắng, vậy , đừng lo nữa. Bà ta đáng quan tâm. Cứ lờ bà ta ,” Rafe đạo mạo khuyên.

      “Lờ bà ấy ?” gần như hét lên. “Làm thế nào tôi lờ bà ta khi mà tôi được cho là phải kết hôn với bởi vì những gì mà bà ta và những người khác nghĩ như bà ta?”

      “Đó là chuyện mà toàn thế giới này nghĩ,” Rafe cáu kỉnh . Đó là chuyện có thể hiểu được với . Hà cớ gì lại nổi nóng vì chuyện đẩu vào đâu như thế? Họ tiến triển rất tốt cho tới bây giờ, và khi bình tĩnh lại, họ lại hòa hợp lần nữa, chắc chắn.

      , điều mà cả thế giới này nghĩ – nếu tôi lấy , nhưng tôi – là những chuyện giống thế này” – khoác vào cái giọng quý phái thái quá – ” ‘Ồ, nhìn kìa, kia là Ayisha Ramsey. ta là ai cả cho đến khi ta ngụy tạo chuyện Rafe Ramsey bị bệnh dịch hạch. Tất nhiên là ta bị, mà chỉ bị sốt , nhưng ta tự nhốt mình cùng với ta trong toàn bộ ba đêm – ôi thôi là thống thiết, bà biết ! Và khi ta hồi phục, người đàn ông tội nghiệp đấy bị buộc phải cưới ta. thảm thương.’ ” ào ra cửa, mở toang nó ra, và thấy Higgin đứng đó với khay thức ăn.

      “Lùi lại, Higgins,” cáu kỉnh. “Tôi lên boong, và tôi ghét phải ngẫu nhiên mà đụng trúng ông-”

      “Thưa ?” Higgins lui lại.

      “Bởi vì sau đó tôi có thể phải lấy ông-” kết thúc.

      “Ồ, giờ em vớ vẩn đấy,” Rafe bắt đầu.

      “Thế mới hợp với tôi – rất rất hợp!” kết thúc bằng giọng nhoi nhói và chạy .

      bỏ để lại thinh lặng ngỡ ngàng do mình khơi ra.

      “Xin lỗi vì xen ngang, cậu chủ,” Higgins rầu rĩ sau lúc. “Tôi đến chỉ để mang cho cậu ít đồ ăn và cho cậu biết mọi người ăn tối xong, nếu cậu muốn lên boong .”

      “Tạ ơn Chúa, tôi đói muốn chết đây,” Rafe tuyên bố. nhấc miếng vải từ cái khay lên và nhìn chăm chăm vào cái bên trong. “Súp loãng? Trứng chần? Tôi tôi đói muốn chết kia mà. Tôi yếu như con mèo con ấy. Tôi cần thịt. Và ít vang đỏ ngon.”

      “Xin lỗi, cậu chủ, nhưng thể tạng của cậu cần hồi phục từ từ. Nó thể chịu nổi với thịt và vang đỏ – cậu biết vậy mà, cậu chủ. Còn nhớ khi cậu bị vết thương đó và cơn sốt sau cuộc phẫu thuật khâu nó lại chứ? Tôi phải xoay sở đủ kiểu mới kiếm được cho cậu đĩa thịt kha khá khi cậu muốn ăn.”

      “Và tôi cho ra hết phút sau khi ăn nó, tôi biết. lãng phí. Nhưng súp và trứng chần á?” nhìn vào cái thứ nước vàng vàng, sền sệt miếng bánh mì nướng.

      “Súp gà rất ngon,” Higgins dụ dỗ. “Nếu tiểu thư Ayisha mà làm theo ý mình, đó là cháo suông mà thôi.”

      Rafe liếc hướng chạy . “Ông chắc là ông phải tới độc cần đấy chứ?”

      Higgins mỉm cưới. “Cổ tức giận là điều chắc chắn, nhưng cổ bình tĩnh lại thôi. Cậu biết cổ nghĩ cho cậu mà.”

      ? Nhìn giống lắm.” Rafe cầm lấy cái khay và ngồi xuống. nhìn săm soi dưới nắp đậy của cái đĩa thứ hai. Lại trứng.

      “Phụ nữ luôn những gì họ nghĩ, cậu chủ, cậu biết điều đấy.”

      Rafe khịt mũi. “Tôi biết. Họ rất mẫn cảm với những thứ hoàn toàn có gì phức tạp.”

      “Đúng vậy, cậu chủ.”

      húp miếng súp. tệ lắm. húp thêm. “Ý tôi là, ấy biết các hệ quả. Cái đêm đầu tiên khi rời cảng, tôi cảnh báo ấy về việc chúng tôi có thể bị nhìn thấy quá thường xuyên, mà có người kèm; nguy cơ bị tổn hại.” lắc đầu. “Tôi lẽ ra kiếm cho ấy người hầu .”

      “Điều đó có gì khác biệt, cậu chủ.”

      “Phải, tôi cũng cho là thế.”

      ấy cứ liều bằng được để cứu cậu, cậu chủ, nghĩ gì tới việc bị tổn hại.”

      “Tôi biết điều đó, Higgins,” Rafe sốt ruột . “Cái cứng đầu ngốc nghếch ấy cứ tự ném mình vào nguy hiểm suốt. thèm nghĩ tới hậu quả ra sao. Bởi thế nên chuyện này rồi ổn, cuộc hôn nhân này. ấy cần được kiềm lại bởi người có cái đầu lạnh hơn, lý trí hơn.” xong món súp và ngấu nghiến trứng với bánh mì.

      “Đúng vậy, thưa cậu.”

      “Phải thừa nhận là, thuyền trưởng có chút hấp tấp, nhưng ai mà biết được ấy lại có vẻ như phản ứng quá sốc với chuyện ấy chứ? ấy hành động như thể đó là xúc phạm.” liếc Higgins. “Ý tôi là, tôi là chàng khá được, phải ?”

      “Rất được, cậu chủ.”

      , phải rất được,” Rafe với vẻ nghiêm túc. “Xuất thân của tôi tốt, nhưng tài sản chỉ ở mức trung bình.” cắn miếng nữa.

      “Tôi nghĩ Ayisha quan tâm tới tài sản của cậu, cậu chủ.”

      “Phải, tôi cũng nghĩ vậy, nhưng ràng ấy để mắt vào thứ gì đó – hay ai đó – tốt hơn.”

      Higgins ngập ngừng. “Làm thế nào – chính xác – cậu cầu hôn rồi ư, cậu chủ?”

      “Cầu hôn? có. cần phải làm thế. Thuyền trưởng đề cập tới chủ đề đấy trước, và tôi cứ thế tiếp tục.” đẩy cái đĩa sang bên. Vẫn còn dở miếng bánh mì nướng và quả trứng, nhưng no.

      “Phụ nữ thích được cầu hôn, cậu chủ,” Higgins rụt rè đề nghị. “Muốn biết họ có thể đồng ý hay đồng ý.”

      “Ờ, ông nghe rồi đấy thôi, ấy đồng ý. To và ràng. Tôi tưởng cả con tàu này đều nghe rồi chứ.”

      “Mọi người đều ở chỗ ăn tối, cậu chủ,” Higgins trấn an . “Họ nghe thứ gì đâu.”

      “Được rồi, ông ra ngoài và ăn tối .” Rafe xua ông . “Và nếu ông quan tâm tới mình, đừng có bảo với tôi đó là món thịt bò nướng nhé.”

      Rafe nằm xuống giường. Tại sao phụ nữ lại làm phức tạp mọi thứ vậy chứ nhỉ? ràng đó là giải pháp hoàn hảo, đó là những gì mong muốn từ bấy lâu nay, gần như là ngay từ khoảnh khắc nhìn thấy .

      ấy dường như rất đơn. cũng đơn. người bà con gần, là bà nội , nhưng bà ấy có vẻ như có thể chết bất cứ lúc nào, sớm thôi. Những người bà là thế, theo kinh nghiệm của . Và Rafe chỉ có trai và ấy chút quan tâm đến bất kỳ điều gì khác hơn là khả năng Rafe tạo ra được người thừa kế.

      Chuyện này có vẻ giống như cộng tác. ấy đơn độc trong đất nước xa lạ, cần được bảo vệ, cần được quan tâm chăm sóc. Và phù hợp với điều đó. Đó là trong vài những kỹ năng của .

      Họ bắt đầu mối quan hệ của mình với việc choảng nhau, nhưng tưởng rằng mọi chuyện ổn thỏa giữa họ kể từ đó. Chuyến đến Alexandria khá thú vị; họ rất thích thú với các thắng cảnh và chuyện trò về đủ thứ chuyện đời.

      để bạn bè của nơi an toàn. thích món quà của hy vọng nó bù đắp cho việc khăng khăng phải bỏ lại con mèo già của mình. Và cuộc chuyện trò ngăn ngắn boong tàu ở đêm đầu tiên, khi đứng bên cạnh về những điều mà nghĩ tới trong nhiều năm qua… với bàn tay ngoắc vào cánh tay .

      Cũng như việc cứu mạng . thể bác bỏ điều đó. Lôi khẩu súng của ra và ngăn họ đưa vào bờ.

      Và những gì tiếp theo sau đó. Cơn sốt quái quỷ kia dễ dàng xử lý, biết. Nhưng làm được, chăm sóc như chiến sĩ thành Troa bé . vẫn chưa thống nhất được mình cảm thấy thế nào về chuyện đó. Chắc chắn là biết ơn, nhưng…

      thể giải thích được nó, thậm chí cho chính mình.

      Vì thế đề nghị hôn nhân với ấy là điều phải làm hoàn toàn đứng đắn.

      từ chối kịch liệt của làm ngỡ ngàng.

      Nhưng chịu thua. vây hãm , chế ngự , cho biết nghĩ gì theo cách của . Nó hiệu quả trong chiến tranh, nó cũng hiệu quả trong… đời thường.

      đưa về nhà bà nội của , giải thích tình hình, và xin phép bà cho cưới . Quý bà già cả ấy ủng hộ , biết. Để cho cháu quý báu mới vừa tìm thấy của mình bị khinh rẻ ư? Đừng có mơ .

      Vậy nên muốn sắp xếp mọi thứ ở Cleeveden, và sau đó thẳng tiến đến chỗ George và Lady Lavinia để giải quyết mọi chuyện. phải vì có bao giờ hứa gì với ta, tạ ơn Chúa. Mà là ta biết ý định đó, và muốn gây rắc rối cho ta.

      giải thích tình hình. ta hiểu. phải là loại người xấu. Chỉ là hợp với .

      George cuối cùng rồi cũng đồng ý thôi. Dòng dõi mới là điều George quan tâm nhất. Dòng họ Cleeves có thể phải là tầng lớp quý tộc, nhưng đó là dòng dõi lâu đời và đáng kính, còn về phía mẹ của , bà có họ hàng với nửa các gia đình quý tộc ở lục địa. George quan tâm đến người thừa kế hơn là bất cứ gì; cuối cùng ấy còn thấy nhõm vì Rafe muốn kết hôn.

      Và mặc dù có tài sản, thừa kế thứ gì đó từ bà nội của mình, nghĩ, và bất luận thế nào, hoàn toàn hài lòng với những gì có.

      Nhưng còn ? Phản ứng của làm thấy buồn, cho thấy chẳng hiểu chút nào.

      Kể từ khi bà nội qua đời, thân thiết với nhiều phụ nữ lắm. Ngoài những người dì của Gabe và Harry cùng mẹ và các chị em của Luke, các liên hệ mà có với phụ nữ cho tới bây giờ đều giữ khoảng cách, lịch thiệp, và trang trọng – rất tuyệt vời ở các vũ hội và dạ tiệc, chẳng hạn thế – hoặc dễ chịu, hoạt bát, và bị ràng buộc gì. Những mói quan hệ này bắt đầu và kết thúc ở cửa phòng ngủ.

      Kiểu quan hệ mà Gabe và Harry có với vợ của họ – thậm chí trai George của dường như cũng có nó với người vợ Lucy của ấy – thuộc phạm trù xa lạ với Rafe. ngoại lệ với kiểu ấy.

      Nhưng tất cả họ đều thực những cuộc hôn nhân thuận tiện – ngay cả George cũng vậy – đặc biệt là George. Cha của họ chọn dâu cho George với cùng quam tâm đến tiểu tiết và dòng dõi như George chọn Lady Lavinia.

      Vì vậy Rafe chắc chắn đúng hướng. Tất cả những gì phải làm là đưa được ấy đến bàn thờ, và sau đó là vào giường của . Cuối cùng là, ấy đến để quan tâm . ấy phải thế.

      thấy dễ dàng. phân nửa Cairo, mà có vẻ như toàn là: những tên trộm đường phố bé rách rưới, những người thợ làm bánh, những con mèo bị tai nạn, bị đánh đập, những chú mèo con bé đẹp mã. rồi học được cách , chắc chắn điều đó.

      Làm sao để bạn làm cho ai đó thương bạn đây?

      Người duy nhất thế giới này quan tâm tới Rafe là bà của , nhưng đó là những gì mà những người bà thường làm, có vẻ thế. Hãy nhìn Lady Cleeve xem. Bà ấy thậm chí còn chưa gặp Ayisha, nhưng bà .

      Nhưng đó là Ayisha, thiu thiu ngủ nghĩ. Ai cũng . Hãy nhìn cách những chàng sĩ quan trẻ trung theo đuôi khắp nơi. Rồi là vị mục sư và vợ trong tuần trăng mật, ngài thuyền trưởng của con tàu, hai trong số ba mụ nhiều chuyện – thậm chí mấy người thủy thủ còn làm dây cột mèo cho . ấy là như thế. chỉ là trong nhiều người.

      Nhưng có thể bảo vệ .

      Và chết tiệt, cần được bảo vệ khỏi cái cách lao vào mọi thứ, thiên thần lao vào những nơi mà những kẻ ngu ngốc dám…

      Phải, mơ màng nghĩ, đó là những gì làm; cưới , tử tế với , và bảo vệ . Và khi giường mình, cho đến khi nhũn người ra với khoái cảm. Đó là điều khác nữa mà có thể làm tốt.

      phải thích sau đó, nghĩ. nhắm mắt lại, nửa ngủ, nửa đẩy ra khỏi đầu những suy nghĩ về những người phụ nữ khác mà từng thích và chia tay, mà chút dằn vặt đau khổ.

      Ayisha khác. làm cho ấy muốn … và muốn ở lại. Bằng cách nào đó.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :