Titanic Trong Vũ Trụ - Tess Gerritsen [Trinh thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 25 Phần 2

      Cỏ lăn cuộn ngang mặt đường và chạy dọc theo những cồn cát. Họ lái xe qua gác canh, hàng rào điện và khu quân lạnh lẽo. Jack và Gordon ra khỏi xe, nheo mắt nhìn lên mặt trời. Mặt trời như quả cam đỏ rực bị cát bụi che mờ. Đó là màu hoàng hôn, phải vào giữa trưa. Họ cố chợp mắt vài giờ trước khi cất cánh ở Ellington. Jack thấy đau mắt khi nhìn thấy ánh sáng ban ngày.

      - Lối này, thưa các vị. - người lái xe .

      Họ theo người lình vào tòa nhà.

      Việc đón tiếp lần này khác với lần trước Jack đến đây. Lần này người họ tống họ tỏ vẻ tôn trọng và lịch hơn. Bác sĩ Isaac Roman đứng chờ ở bàn tiếp đón mặc dù trông ta được vui mừng vì chuyến đến thăm của họ.

      - Chỉ được phép cùng tôi, bác sĩ McCallum. - ta . - Ngài Obie chờ ở đây. Đây là thỏa thuận.

      - Tôi chưa bao giờ thỏa thuận như vậy. - Jack .

      - Còn ngài Profitt có, thay mặt cho đấy. là người duy nhất có lý do vào tòa nhà này. Tôi có nhiều thời gian nên quyết định nhanh cho. - ta quay , bước về phía thang máy.

      - Giờ đó là bạn đồng hành chết tiệt của . - Gordon . - , tôi chờ.

      Jack theo Roman vào thang máy.

      - Điểm dừng đầu tiên là tầng hầm số hai. - Roman giải thích. - Ở đó có các thí nghiệm động vật của chúng tôi. - cửa thang máy mở, trước mặt họ là bức tường bằng kính. Đó là cửa sổ quan sát.

      Jack lại gần cửa sổ và nhìn vào phòng thí nghiệm bên trong. Trong lồng nhốt những con khỉ nhện và chó. Ngay bên phải ô cửa là những chiếc lồng bằng kính nhốt chuột. Roman chỉ vào những con chuột.

      - thấy mỗi lồng đều dán ngày giờ chúng bị nhiễm bệnh. Tôi nghĩ ra cách nào tốt hơn để thể bản chất chết người của Chimera.

      Ở lồng ghi ngày thứ nhất, sáu con chuột có vẻ khỏe mạnh. Chúng đạp các bánh xe rất khỏe.

      Ở lồng ghi ngày thứ hai, những dấu hiệu đầu tiên của bệnh xuất . Hai trong sáu con co giật, mắt chúng như những giọt máu màu đỏ tươi. Còn bốn con khác túm tụm lại với nhau trong trạng thái ngủ lim dim.

      - Hai ngày đầu là giai đoạn sinh sản của Chimera. - bác sĩ Roman . - biết đấy, quá trình này trái ngược hẳn với những gì chúng ta thấy trái đất. Thường dạng sống phải đạt đến thời kỳ trưởng thành rồi mới sinh sản. Chimera sinh sản trước, sau đó mới lớn lên. Nó phân chia rất nhanh và tạo ra tới hàng trăm phiên bản của chính nó trong vòng bốn mươi tám tiếng. Chúng bắt đầu từ kích thước siêu . - mà chúng ta thể thấy bằng mắt thường. Chúng đủ để chúng ta hít vào trong khí hay chui vào qua màng nhầy của chúng ta. Thậm chí chúng ta hề biết mình bị nhiễm bệnh.

      - Vậy là chúng lây lan trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống?

      - Chúng lây lan trong bất cứ giai đoạn nào. Chúng chỉ cần được tự do trong khí. Thường việc này xảy ra khi nạn nhân chết hoặc khi xác chết bị nổ tung vài ngày sau khi chết. khi Chimera gây bệnh cho chúng ta, khi nó nhân lên trong cơ thể mỗi bản sao lại bắt đầu phát triển, và bắt đầu tiến hoá thành…. - ta dừng lại. - Chúng tôi biết phải gọi nó là gì. Tôi nghĩ là các túi trứng. Vì chúng chứa các dạng sống bên trong.

      Jack chuyển sang lồng ghi ngày thứ ba. Tất cả những con chuột co giật, chân chúng duỗi ra như thể chúng bị sốc điện liên tục.

      - Đến ngày thứ ba. - Bác sĩ Roman . - Ấu trùng phát triển rất nhanh, thay thế các chất trong não nạn nhân bằng các chất nhầy. Chúng phá hủy các chức năng thần kinh của động vật chủ. Và đến ngày thứ tư…

      Họ nhìn lồng ghi ngày thứ tư. Tất cả lũ chuột, trừ con đều chết. Các xác chết chưa được bỏ ra, chúng nằm cứng đơ, miệng há to. Vẫn còn lồng để xem, quá trình phân hủy vẫn tiếp tục.

      Đến ngày thứ năm, các xác chết bắt đầu phình to.

      Ngày thứ sáu, những cái bụng to hơn và da của chúng căng như mặt trống. Chất nhầy rỉ ra từ những cặp mắt mở to và lấp lánh hai lỗ mũi.

      Đến ngày thứ bảy…

      Jack dừng lại bên cạnh ô cửa và nhìn lồng ghi ngày thứ bảy. Các xác chết bị nổ tung rải rác dưới đáy lồng như những quả bóng bay bị nổ.

      Da của chúng bị xé rách, để lộ ra những đống nội tạng phân hủy màu đen. Ngay cạnh mặt của con chuột chết là khối chất sền sệt mờ đục. Chúng cựa quậy.

      - Các túi trứng. - Roman . - Đến giai đoạn này, các khung rỗng trong cơ thể động vật chủ chứa đầy túi trứng. Chúng phát triển với tốc độ chóng mặt và ăn hết mô của sinh vật chủ. Chúng ăn hết các bó cơ và nội tạng. - ta nhìn Jack. - biết vòng đời của các côn trùng ký sinh ?

      Jack lắc đầu.

      - Những con côn trùng trưởng thành tiêm trứng vào con sâu còn sống. Các ấu trùng phát triển, ăn hết dung dịch trong cơ thể con chủ. Trong suốt thời gian đó, con sâu vẫnsống. Nó nuôi dạng sống ăn thịt nó từ bên trong cho đến khi ấu trùng khiến con sâu nổ tung từ bên trong. - Roman nhìn những con chuột chết. - Các ấu trùng này cũng nhân lên, sinh sôi trong cơ thể nạn nhân còn sống. Cuối cùng đó cũng chính là thứ giết chết con chủ.
      Toàn bộ ấu trùng này được bọc trong hộp sọ, gặm nhấm bề mặt của các chất màu xám. Chúng phá hủy con sâu, khiến nó bị chảy máu trong sọ. Áp suất trong đó tăng. Các mạch máu trong mắt bị ép mạnh, rồi nổ tung. Con vật chủ chịu những cơn đau đầu khủng khiếp và rối loạn. Nó vật lộn lên xuống như người say. Trong vòng ba đến bốn ngày, nó chết. Và dạng sống đó vẫn tiếp tục ăn xác chết, lấy ADN của nó, sử dụng ADN đó để đẩy nhanh quá trình tiến hóa của nó.

      - Thành cái gì?

      Roman nhìn Jack.

      - Chúng ta vẫn chưa biết điểm kết thúc. Trong mỗi thế hệ, Chimera lấy ADN từ sinh vật chủ. Chimera mà chúng tôi thí nghiệm giống với con ban đầu. ADN của nó phức tạp hơn nhiều. Dạng sống này tiến hoá hơn.

      Và ngày càng giống người, Jack nghĩ.

      - Đây là lý do tại sao việc này là bí mật tuyệt đối. - Roman . - Bất cứ tên khủng bố hay nước thù địch nào cũng có thể đào khe Galapagos để lấy chúng. Sinh vật này nếu rơi vào tay những kẻ độc ác…. - giọng của ta bé dần.

      - Vậy là sinh vật này phải do con người tạo ra?

      Roman lắc đầu.

      - Nó vô tình được tìm thấy ở khe nứt và được tàuGabriella mang lên mặt đất. Đầu tiên, tiến sĩ Koenig nghĩ ấy tìm ra loại Archaeon mới. Nhưng thứ ấy tìm thấy chính là thứ này. - ta nhìn khối trứng chuyển động. - Cách đây nghìn năm, chúng bị nhốt trong phần còn lại của thiên thạch ở độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Điều đó kiểm soát nó trong suốt thời gian. Đó chính là lý do nó nằm ở dưới đáy biển, chứ phải mặt đất.

      - Giờ tôi hiểu tại sao các lại thử nghiệm nó trong phòng điều áp.

      - Trong suốt thời gian trước đó, Chimera phản ứng vô hại khi ở dưới khe nứt. Chúng tôi nghĩ nếu có thể tái tạo áp suất đó, chúng tôi có thể khiến nó ôn hòa như trước.

      - Và các làm được ?

      Roman lắc đầu.

      - Chỉ tạm thời thôi. Dạng sống này thay đổi quá nhanh trong môi trường trọng lực siêu . Bằng cách nào đó, nó được đem lên Trạm vũ trụ quốc tế. Công tắc sinh sản của nó được bật lên, như thể nó được lập trình để giết người. Nhưng cần mất trọng lực để quá trình đó hoạt động trở lại.

      - Liệu pháp dùng bội áp suất này có tác dụng tạm thời trong bao lâu?

      - Những con chuột bị bệnh vẫn khỏe mạnh nếu được nhốt trong lồng. Cho đến giờ chúng tôi khiến chúng sống được mười ngày. Nhưng ngay khi chúng tôi cho chúng ra ngoài bệnh lại tiếp tục.

      - Còn vi rút Rana sao? - giờ trước, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học đời sống của NASA chuyện ngắn gọn qua điện thoại với Jack. Ngay khi đó, nguồn vi rút tiêu diệt loài bò sát được chuyển đến bằng máy bay của Lực lượng quân tới phòng thí nghiệm của bác sĩ Roman.

      - Các nhà khoa học của chúng tôi tin là nó có tác dụng.

      - Về mặt lý thuyết là vậy. Nhưng còn quá sớm để phóng tàu con thoi lên cứu họ. Trước hết, chúng ta phảichứng minh vi rút Nara có tác dụng, nếu gây nguy hiểm cho tính mạng của các phi hành gia tàu con thoi. Chúng ta cần thời gian thử nghiệm vi rút đó. Ít ra cũng mất mấy tuần.

      Emma còn vài tuần, Jack nghĩ. ấy chỉ còn ba ngày đủ dùng thuốc kích dục màng nhầy ở người. im lặng nhìn lồng chứa xác những con chuột, nhìn những quả trứng trong chiếc tổ nhầy của chúng. Giá như mình có thể mua thêm thời gian.

      Thời gian, Jack bỗng nhận ra điều. nhớ lại điều gì đó Roman với mình.

      - là phòng bội áp suất giúp những con chuột sống sót mười ngày.

      - Đúng vậy!

      - Nhưng tàu Discovery mới đâm xuống cách đây mười ngày.

      Roman tránh ánh mắt .

      - chuẩn bị phòng bội áp suất ngay từ đầu. Điều đó nghĩa là biết mình đối mặt với cái gì. Thậm chí trước khi thực mổ tử thi.

      Roman quay , trở về thang máy. ta há hốc mồm kinh hãi khi Jack túm lấy cổ áo ta và xoay ta sang bên.

      - Đây có phải là chuyến hàng vị mục đích thương mại ? - Jack hỏi. - Phải ?

      Roman hất tay ra và lộn về phía sau, ngã về phía tường.

      - Bộ quốc phòng sử dụng Trung tâm Khoa học biển là mặt nạ. - Jack . - trả tiền để họ gửi thí nghiệm đó lên cho mình, để che giấu là dạng sống đó dùng để phục vụ mục đích quân .

      Roman lao về phía thang máy, định chạy trốn.

      Jack chụp được áo của ta, túm chặt lấy cổ áo.

      - Đây phải là vụ khủng bố sinh học. Đây chính làsai lầm khốn nạn của chính !

      Mặt Roman tím tái.

      - Tôi thở được!

      Jack thả ta ra. Roman trượt dài bức tường, chân khuỵu xuống. ta lúc lâu, chỉ ngồi lì sàn, cố lấy lại hơi thở. Cuối cùng, khi ta , ta chỉ còn thều thào.

      - Chúng tôi có cách nào khác để xem nó phản ứng ra sao. Nó thay đổi thế nào nếu có trọng lực…

      - Nhưng biết nó từ hành tinh khác đến.

      - Đúng vậy.

      - Và biết đó là con quái vật, và nó có ADN của loài bò sát.

      - , . Chúng tôi hề biết điều đó.

      - Đừng có lừa tôi!

      - Chúng tôi thực biết làm cách nào lại có ADN của con ếch trong nhiễm sắc thể của nó! Chắc chắn việc này xảy ra trong phòng thí nghiệm của Koenig. Có thể ta nhầm lẫn. ta chính là người tìm thấy sinh vật này ở khe nứt và là người duy nhất nhận ra nó là gì. Trung tâm Khoa học biển biết chúng tôi quan tâm tới nó, sinh vật ngoài trái đất. Và tất nhiên chúng tôi quan tâm tới nó. Bộ quốc phòng trả tiền cho thí nghiệm bằng máy bay KC-135 của họ. Còn chúng tôi tài trợ để thí nghiệm đó được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế. Nó thể được đưa lên đó với tư cách là chuyến hàng của quân đội. Có quá nhiều câu hỏi được đặt ra, quá nhiều phòng ban chất vấn. NASA nghi ngờ tại sao quân đội lại quan tâm đến sinh vật vô hại dưới đáy biển. Nhưng ai thắc mắc nếu đó là nghiên cứu của cá nhân. Vì vậy, nó được đưa lên như chuyến hàng vì mục đích thương mai, và Trung tâm Khoa học biển là người tài trợ. Bác sĩ Koenig là nhà nghiên cứu chính.

      - Bác sĩ Koenig giờ ở đâu?

      Roman từ từ đứng lên.

      - ấy chết rồi.

      Thông tin đó khiến Jack ngạc nhiên.

      - Tại sao? - khẽ hỏi.

      - Đó là tai nạn.

      - nghĩ tôi tin điều đó sao?

      - Đó là !

      Jack nhìn kỹ ta lúc và tin Roman dối.

      - việc này xảy ra hai tuần trước ở Mexico. - Roman . - Ngay sau khi ấy từ chức ở Trung tâm Khoa học biển. Chiếc taxi chở ấy bị phá hủy hoàn toàn. Và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm lấy mọi thứ trong phòng thí nghiệm của ấy.

      - có ở đó kiểm tra ? ở đó và chứng kiến toàn bộ hồ sơ của ấy bị tiêu hủy ?

      - Chúng ta về dạng sống ngoài hành tinh. Đó là sinh vật nguy hiểm hơn nhiều so với chúng ta tưởng tượng. Đúng, thí nghiệm đó là sai lầm, thảm hoạ. Nhưng bây giờ hãy tưởng tượng chuyện gì xảy ra nếu thông tin đó bị giới khủng bố biết được?

      Đây là lý do tại sao NASA được biết gì, tại sao lại được phơi bày.

      - Và vẫn chưa thấy điều tệ hại nhất của nó sao, bác sĩ McCallum?

      - muốn gì?

      - Tôi muốn cho thấy điều nữa.

      Họ thang máy xuống tầng hầm tiếp theo, tầng hầm số ba. Sâu hơn xuống phủ, Jack nghĩ. Họ lại bước ra và nhìn thấy tấm kính. Phía sau là phòng thí nghiệm khác có nhiều công nhân mặc đồ gian.

      Roman ấn nút điện đàm và .

      - Ai đó đem mẫu vật đến đây được ?

      trong các nhân viên phòng thí nghiệm gật đầu. ta về phía cánh cửa, xoay ổ khóa khổng lồ và biến mất ở trong. Khi trở ra, ta đẩy cái bàn đó là chiếc khay và hộp chứa bên . ta đẩy nó về phía cửa quan sát.

      Roman gật đầu.

      ta mở hộp thép, nhấc ra chiếc xi-lanh Plexiglas, đặt nó lên khay. Chất bên trong chuyển động nhàng lên xuống trong dung dịch sát trùng sạch.

      - Chúng tôi tìm thấy thứ này ăn sâu vào xương cốt của Kenichi Hirai. - Roman . - Xương sống của ấy bảo vệ nó khỏi chấn động khi tàu Discovery lao xuống. Khi chúng tôi lấy nó ra, nó vẫn sống nhưng rất yếu.

      Jack lắp bắp nhưng lên lời. chỉ nghe thấy tiếng quạt thông gió và tiếng mạch đập dồn dập khi sợ hãi nhìn chất bên trong xi-lanh.

      - Ấu trùng phát triển thành vật này. - Roman . - Đây chính là bước tiếp theo.

      Giờ hiểu tại sao đây là bí mật. Thứ nhìn thấy được bảo vệ trong dung dịch sát trùng. Nó cuộn lên trong xi-lanh và nó giải thích tất cả. Mặc dù bị phân rã do quá trình bị chích ra nhưng tính năng cơ bản của nó vẫn ràng. Nó có lớp da bóng của loài bò sát, ấu trùng có đuôi và bào thai của nó có xương sống uốn cong. Nó chỉ là bò sát, mà là thứ gì đó đáng sợ hơn vì gen gốc của nó ràng nữa. Động vật có vú, nghĩ, thậm chí còn có thể là con người. Nó bắt đầu trông giống động vật chủ.

      Nếu có thể gây bệnh ở loài khác nó vẫn có thể biến đổi hình dáng. Nó có thể lấy ADN của bất cứ sinh vật nào trái đất, nó có thể lấy bất cứ hình dạng nào. Cuối cùng nó tiến hóa đến điểm mà nó cần động vật chủ để phát triển và sinh sản nữa. Nó độc lập và tự túc. Có lẽ nó còn có trí khôn nữa.

      Và lúc này Emma là cơ thể sống cho những thứ này. Có thể ấy là cái kén đầy chất dinh dưỡng cho chúng phát triển.

      Jack run rẩy khi đứng đường nhựa và nhìn khu đất trống để đỗ máy bay. Chiếc xe jeep chở và Gordon trở về khu căn cứ Cát Trắng của Lực lượng quân giờ đây chỉ còn là chấm , để lại vệt bụi dài ở đường chân trời. Ánh nắng gay gắt khiến chảy nước mắt. Và trong thoáng dường như khu hoang mạc bốc hơi, biến mất trong mắt , như thể nó chìm dưới nước.

      quay sang nhìn Gordon Obie.

      - còn cách nào khác. Chúng ta phải làm việc đó.

      - Luôn là vậy mà. Điều đó đúng với mỗi lần phóng tàu cũng như mỗi nhiệm vụ. Tại sao lần này lại khác?

      - có kế hoạch đề phòng bất trắc hay hỗ trợ an toàn. Tôi biết chúng ta đối mặt với việc gì, và đó là phương án liều lĩnh.

      - Nhưng nó có thể giải quyết việc này. Khẩu hiệu của họ là gì? hơn, nhanh hơn, rẻ hơn.

      - Thôi được. - Gordon . - Giả sử bị nổ tung bộ phóng, giả sử lực lượng quân bắn tơi bời . Khi lên đó, vẫn đối mặt với trò cá cược nguy hiểm nhất là vi rút có tác dụng ?

      - Gordon, ngay từ đầu tôi xác định điều: Tại sao lại có ADN của loài lưỡng cư trong nhiễm sắc thể. Làm thế nào mà Chimera được cấy gen của loài ếch. Roman nghĩ đó là việc ngẫu nhiên, tai nạn trong phòng thí nghiệm của Koenig. - Jack lắc đầu. - Tôi nghĩ đó là tai nạn. Tôi nghĩ chính Koenig cho gen loài ếch vào đó, đó là phép thử sai an toàn.

      - Tôi hiểu.

      - Có thể ấy dự đoán trước được những mối nguy hiểm tiềm tàng, về việc sinh vật này có thể biến đổi như thế nào trong môi trường trọng lực siêu . Nếu Chimera vượt khỏi tầm kiểm soát, ấy muốn có cách tiêu diệt nó. Đó chính là cánh cửa thoát hiểm khi nó phòng thủ. Và đây chính là cánh cửa đó.

      - Vi rút tiêu diệt loài ếch.

      - Nó thành công, Gordon. Nó phải thành công. Tôi đặt cược cả mạng sống của mình vì nó.

      đợt bụi xung quanh họ, cuốn tung cát và những mẩu giấy vương vãi. Gordon quay lại và thấy bên kia đường là chiếc máy bay T-38 đưa họ từ Houson đến đây. Ông thở dài.

      - Tôi nghĩ là vậy.

      Chương 26

      HAI MƯƠI SÁU

      Ngày 22 tháng 8
      Casper Mulholland nuốt gói thuốc giảm a-xít nhãn hiệu Tums thứ ba. cảm giác bụng mình như vạc a-xít sôi, ở đằng xa, tàu Apogee II lấp lánh như viên đạn, đáy được chôn dưới cát sa mạc. Con tàu thực gây ấn tượng đặc biệt, nhất là với đám khán giả này. Phần lớn trong số họ nghe thấy tiếng gầm reng mặt đất khi phóng tàu của NASA. Họ sửng sốt khi thấy những cột lửa khổng lồ của tàu con thoi quệt ngang bầu trời. Tàu Apogee IItrông giống tàu con thoi. Trông nó giống tên lửa đồ chơi của đứa bé hơn. Casper nhận thấy thất vọng trong mắt của mấy chục người xem khi họ leo lên bục quan sát mới được dựng lên. Họ nhìn qua khu đất trống trải, cằn cỗi, về phía khu bệ phóng. Ai cũng muốn nhiều thứ đồ sộ. Ai cũng thích kích cỡ và sức mạnh. Những thứ bé và giản đơn khiến họ quan tâm.

      chiếc xe tải khác xuất ở khu bệ phóng. nhóm khách mới chui ra. Họ giơ tay che mắt vì ánh mặt trời buổi sáng. nhận ra Mark Lucas và Hashemi Rashad. Hai thương nhân đến xem Apogee ba tuần trước. lại thấy thất vọng mặt khi họ nheo mắt nhìn về phía bệ phóng.

      - Đây là chỗ gần bệ phóng nhất mà chúng ta có thể đến à? - Lucas hỏi.

      - Tôi e là vậy. - Casper . - Đó là vì an toàn của các ông. Ngoài đó có các động cơ nổ đấy.

      - Nhưng tôi nghĩ chúng tôi nhìn kĩ các hoạt động ở bệ phóng của các vị.

      - Các vị được xem đầy đủ hệ thống điều khiển từ mặt đất của chúng tôi. - nó tương đương với Phòng điều hành nhiệm vụ của Houston. Khi tàu rời bệ phóng, chúng ta lái xe đến tòa nhà đó và chúng tôi cho các vị thấy chúng tôi điều khiển tàu bay theo quỹ đạo trái đất như thế nào. Đó mới là bài thử nghiệm của chúng tôi, thưa ông Lucas. Bất cứ sinh viên cơ khí tốt nghiệp nào cũng phóng được tên lửa. Nhưng để đưa tên lửa đó lên quỹ đạo an toàn, rồi hướng dẫn nó lại gần Trạm vũ trụ là vấn đề phức tạp hơn nhiều. Đó là lý do tại sao chúng tôi đẩy lần minh họa này lên sớm bốn ngày. - chỉ để tàu hạ cánh đúng chỗ Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi cho các vị thấy hệ thống của chúng tôi có khả năng hạ cánh trạm. Tàu Apogee II chính là con chim mà NASA săn lùng để mua.

      - hạ cánh chứ? - Rashad nghi ngờ. - Tôi nghe Trạm vũ trụ bị cách ly.

      - Chúng tôi hạ cánh. Tàu Apogee II chỉ là hình mẫu. Nó thể kết nối trực tiếp với Trạm vũ trụ quốc tế do thiếu hệ thống hạ cánh khi bay. Nhưng chúng tôi lái tàu đủ gần trạm để chứng tỏ chúng tôi có thể làm điều đó. Ông thấy đấy, chỉ cần xem xét việc chúng tôi có thể thay đổi lịch phóng tàu trong thời gian ngắn như vậy là điểm ăn khách rồi. Khi tới các chuyến bay vào vũ trụ, linh hoạt chính là vấn đề mấu chốt. Mặc dù ông Obie nằm viện và bị vỡ xương chậu, nhưng các vị thấy chúng tôi hủy lần phóng tàu này. Chúng tôi điều khiển toàn bộ nhiệm vụ này từ mặt đất. Thưa các vị, đó chính là tính linh hoạt.

      - Tôi có thể hiểu tại sao các vị hoãn phóng tàu. - Lucas . - Ví dụ như do thời tiết xấu. Nhưng tại sao các vị lại đẩy lên sớm bốn ngày? Vài người cộng tác của chúng tôi kịp đến đây.

      Casper thấy liều Tums cuối cùng tan ra vì nước bọt chứa đầy a-xít.

      - Thực ra lý do rất đơn giản. - dừng lại, lấy khăn tay lau mồ hôi trán. - Đó là do cửa sổ bệ phóng mà tôi . Quỹ đạo của Trạm vũ trụ quốc tế nghiêng năm mốt phẩy sáu độ. Nếu ông nhìn đường bay của nó bản đồ, nó tạo ra sóng hình sin dao động trong khoảng từ năm mốt phẩy sáu độ bắc đến năm mốt phẩy sáu độ nam. Do trái đất quay, trạm qua các điểm khác nhau bản đồ trong mỗi lần quay quanh quỹ đạo. Hơn nữa, trái đất hẳn là hình cầu, điều đó khiến vấn đề phức tạp hơn. Khi đường quay quanh quỹ đạo đó qua khu bệ phóng, nó là thời điểm thích hợp nhất để phóng tàu. Khi kết hợp các yếu tố đó, chúng ta có các lựa chọn phóng tàu khác nhau. Rồi người ta lại thắc mắc về thời gian phóng tàu vào ban ngày và ban đêm, các góc độ phóng tàu thích hợp và các dự báo thời tiết gần nhất…

      Mắt họ bắt đầu đảo loạn lên. khiến họ bối rối.

      - Dù sao . - Casper kết thúc với vẻ nhõm. - Hôm nay, lúc 7 giờ 10 phút sáng nay là thời điểm tốt nhất. Các vị hiểu điều đó đúng ?

      Lucas dường như muốn lắc đầu như con chó giật mình khi tỉnh giấc ngủ trưa.

      - Có chứ, tất nhiên rồi.

      - Tôi vẫn muốn đến gần hơn. - Rashad vẻ tiếc nuối. ta nhìn tên lửa như đốm sáng, mũi hếch lên trời. - Ở xa thế này chẳng có gì đáng xem cả đúng ? Nó quá!

      Casper cười trừ và thấy bụng mình tiêu hóa hết hồi hộp của .

      - Ồ, ông biết người ta , ông Rashad? Kích thước thành vấn đề. Quan trọng là ông làm được gì với nó.

      Đây là lựa chọn cuối cùng, Jack nghĩ khi giọt mồ hôi chảy xuống thái dương, làm ướt đường viền mũ bảo vệ của . cố cho mạch mình đập quá nhanh nhưng tim như con vật điên cuồng tìm cách nhảy ra khỏi lồng ngực. nhiều năm rồi, đây là giây phút mơ ước: buộc cố định trong ghế ngồi của cơ trưởng, mũ bảo vệ đóng lại, ô-xi lưu thông. Đồng hồ đếm ngược chạy về số 0. Trong những giấc mơ đó, nỗi sợ chưa bao giờ xâm chiếm , chỉ có háo hức, mong đợi. nghĩ mình sợ hãi.

      - còn năm phút nữa cất cánh. Đây là lúc có thể rút lui. - đó là giọng của Gordon Obie qua đường liên lạc. Gordon cho Jack cơ hội thay đổi ý kiến trong suốt chuyến bay từ khu Cát Trắng về Nevada, và cả đầu giờ sáng nay, khi Jack mặc quần áo ở phòng chứa máy bay của công tyApogee, và cuối cùng là khi họ xe qua khu sa mạc được rải nhựa đường đến khu bệ phóng. Đây là cơ hội cuối cùng của Jack.

      - Chúng ta có thể dừng việc đếm ngược ngay bây giờ. - Gordon . - Hủy toàn bộ nhiệm vụ này!

      - Tôi sẵn sàng.

      - Vậy đây là lần liên lạc cuối cùng của chúng ta. Tôi thể liên lạc với nữa. có đường truyền từ mặt đất, liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế, nếu tất cả nổ tung. Khi chúng tôi nghe thấy giọng của , chúng tôi hủy toàn bộ nhiệm vụ này và đưa trở về. -Nếu chúng tôi vẫn có thể làm được, đó là điều ông ra.

      - .

      Ông im lặng.

      - phải làm việc này. ai bắt ép .

      - Hãy thống nhất về việc này ! Hãy đốt cây nến khốn kiếp này ngay , được chứ?

      Tiếng thở dài đáp lại của Gordon rất to và .

      - Được rồi, chuẩn bị. Chúng ta còn ba phút nữa đếm ngược.

      - Cảm ơn Gordon vì mọi việc.

      - Chúc may mắn, mong Chúa phù hộ , Jack McCallum.

      Đường truyền liên lạc bị ngắt.

      Đây có thể là giọng cuối cùng mình được nghe, Jack nghĩ. Từ lúc này trở , đường truyền duy nhất từ trung tâm điều hành Apogee là các dữ liệu hướng dẫn tàu và các máy tính hướng dẫn đường bay. Con tàu tự lái, Jack chẳng hơn gì con khỉ câm điếc ngồi ghế phi công.

      nhắm mắt, chỉ tập trung vào nhịp tim của chính mình. Giờ thấy bình tĩnh cách kỳ lạ và chuẩn bị cho điều thể tránh khỏi, cho dù đó là việc gì chăng nữa. nghe thấy tiếng kêu vù vù và tiếng lách cách của các máy móc tàu sắp chuẩn bị phóng lên. tưởng tượng bầu trời gợn mây, khí đó đặc như nước, như biển nước mà phải vượt qua để vào vũ trụ chân .

      Ở đó Emma hấp hối.

      Đám đông đài quan sát bỗng im lặng. Đồng hồ đếm ngược được chiếu màn hình nhích sang nấc chỉ còn sáu mươi giây và kêu tích tắc liên tục. Họ sắp cho tàu cất cánh, Casper nghĩ. giọt mồ hôi chảy trán . chưa bao giờ tin có giây phút này. nghĩ nó bị hoãn lại, bỏ dở hay hủy hoàn toàn. trải qua quá nhiều thất bại, quá nhiều điều rủi ro với con chim khổng lồ đó. Bông hồng chết đó như mật đắng trong cổ . quan sát những người đứng đài và thấy nhiều người trong số họ lẩm bẩm tính thời gian khi mỗi giây trôi qua. Đầu tiên đó chỉ là tiếng thầm, rồi nó biến thành hợp , làm xao động khí.

      - Hai chín, hai tám, hai bảy…

      Tiếng thầm biến thành hợp có nhạc điệu. Nó to dần lên khi mỗi giây trôi qua.

      - Mười hai, mười , mười…

      Tay Casper run đến nỗi thể nắm vững tay vịn. Mạch đập mạnh trong mỗi ngón tay.

      - Bảy, sáu, năm…

      nhắm mắt. Ôi, lạy Chúa, họ làm gì thế này?

      - Ba, hai, .

      Đám đông đều đồng loạt há hốc miệng kinh ngạc. Rồi tiếng gầm của động cơ bao trùm lấy , mắt mở to. nhìn lên trời. vệt sáng bay lên. Giờ việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đầu tiên là ánh sáng chói lòa, rồi tiếng nổ dữ dội, tiếng nổ xé rách màng nhĩ của họ. Chuyện đó xảy ra với tàu Apogee I.

      Nhưng vệt sáng đó vẫn tiếp tục bay lên cho tới khi nó chỉ còn là chấm bầu trời trong xanh.

      Ai đó vỗ mạnh vào lưng . giật mình quay lại, thấy Mark Lucas cười với mình.

      - Nó bay rồi, ông Mulholland! Lần phóng tàu này tuyệt vời!

      Casper lại cố nhìn lên trời lần nữa. Vẫn có tiếng nổ nào.

      - Tôi nghĩ ông chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, đúng ? - Lucas cười hỏi.

      Casper nuốt nước bọt.

      - hề!

      Liều cuối cùng.

      Emma xoay ống tiêm, từ từ tiêm hết chất trong xi-lanh vào mạch máu. rút mũi tiêm, ấn ga-rô vào chỗ tiêm, rồi gập cánh tay lại để giữ nó cố định khi ném kim tiêm . có cảm giác đây là nghi lễ thiêng liêng, hành động được thực với thái độ sùng kính và thiêng liêng. biết đây là lần cuối cùng tận hưởng cảm giác này, từ nhói đau của mũi tiêm đến chỗ sưng do buộc ga-rô quá chặt cánh tay. Liều thuốc cuối cùng này giúp cầm cự được bao lâu?

      quay lại nhìn lồng nhốt chuột mà chuyển vào khoang dịch vụ Nga. Ở đó sáng hơn. Con chuột cái duy nhất giờ cuộn tròn như quả bóng và run rẩy, nó sắp chết. Ảnh hưởng của hooc-môn đó được lâu dài. Những con chuột con chết ngay sáng hôm đó. Sáng mai, Emma nghĩ, mình là sinh vật duy nhất sống sót trạm.

      , phải là người duy nhất. Có sinh vật khác bên trong . Các ấu trùng nhanh chóng qua giai đoạn ngủ đông để bắt đầu tiêu hóa và phát triển.

      đặt tay lên bụng như phụ nữ mang thai kiểm tra bào thai bên trong. nó rất giống bào thai, sinh vật mang trong mình lấy các đoạn ADN của . Theo cách nào đó, nó là con cháu có quan hệ máu mủ với . Nó có đoạn gen của động vật chủ mà nó ký sinh đó. Đó là Kenichi Hirai, Nicolai Rudenko, Diana Estes, và giờ là Emma.

      là người cuối cùng. có con vật chủ nào nữa, có thêm nạn nhân nào nữa vì có ai đến cứu . Trạm vũ trụ bây giờ chỉ còn là nấm mồ chôn bệnh tật, bị cấm đoán, ai được phép đến gần. Nó như lãnh địa của người hủi trong thế giới cổ xưa.

      bay ra ngoài khoang dịch vụ Nga, về khu vực bị mất điện của trạm. Hầu như còn đủ ánh sáng để nhìn thấy đường qua các nút chuyển giao tối tăm. Trừ tiếng thở đều đều của tất cả đều im lặng ở phần cuối trạm. di chuyển trong các phân tử khí từng cuộn trong lá phổi của những người giờ chết. Thậm chí lúc này lại cảm nhận thấy diện của năm người chết. còn tưởng tượng thấy giọng của họ còn vang vọng đâu đó. Tiếng mạch đập của yếu dần và là thanh cuối cùng còn sót lại trong im lặng đó. Đây là gian họ sống cùng nhau, tất cả đều bị ám ảnh bởi những bước chân họ qua.

      Và chẳng mấy chốc, nghĩ, mình cũng thành hồn ma trạm này.

      Ngày 24 tháng 8

      Jared Profitt thức giấc lúc nửa đêm. Chỉ cần nghe chuông điện thoại reo hai lần là ông tỉnh sau giấc ngủ sâu và hoàn toàn tỉnh táo. Ông nhấc máy.

      Giọng ở đầu bên kia rất thô lỗ.

      - Tổng tư lệnh Gregorian đây. Tôi vừa chuyện với Trung tâm điều khiển của chúng tôi đặt tại núi Cheyenne. Có vụ phóng tàu thử nghiệm từ Nevada, nó đường tiến gần đến Trạm vũ trụ quốc tế.

      - Vụ phóng tàu nào?

      - Của Công ty cơ khí Apogee.

      Profitt cau mày, cố nhớ cái tên đó. Mỗi tuần có hàng trăm vụ phóng tàu từ các nơi khác nhau khắp thế giới. số công ty hàng thương mại luôn thử nghiệm hệ thống nổ đẩy hay bắn vệ tinh lên quỹ đạo trái đất, thậm chí họ còn thiêu chết mấy người. Bộ tư lệnh quân phát chín nghìn vật thể nhân tạo bay vào quỹ đạo.

      - Hãy nhắc lại cho tôi nhớ về vụ phóng tàu ở Nevada này ! - ông cầu.

      - Apogee thử nghiệm phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng mới. Họ phóng nó lên lúc 7 giờ sáng qua. Họ thông báo với Trung tâm vũ trụ liên bang theo quy định nhưng mãi đến khi phóng tàu họ mới thông báo cho chúng tôi. Chuyến bay này được đối tác mới của họ tài trợ. Họ phóng tàu đến quỹ đạo trái đất ở tầm thấp, qua Trạm vũ trụ quốc tế, sau đó trở về trái đất. Giờ chúng tôi theo dõi nó được ngày rưỡi. Căn cứ vào lần đốt cháy nhiên liệu cuối cùng của tàu, tôi nghĩ họ đưa tàu đến trạm gần hơn họ .

      - Gần mức nào?

      - Còn tùy vào lần đốt nhiên liệu tiếp theo.

      - Có đủ gần để hạ cánh xuống trạm ?

      - Đó là điều tưởng với loại tàu như vậy. Chúng tôi có máy do thám quỹ đạo của họ. Nó chỉ là con tàu mô phỏng, có hệ thống hạ cánh. Quá lắm con tàu đó chỉ có thể bay gần và tạo ra sóng dao động.

      - Sóng dao động à? - Profitt ngồi bật dậy giường. - phải ông với tôi là con tàu này có người lái đấy chứ?

      - thưa ngài, đó chỉ là cách văn vẻ. Công tyApogee tàu đó có người. Có vài con vật tàu, bao gồm con khỉ nhện nhưng có phi công. Chúng tôi thấy bất cứ liên lạc nào giữa tàu và mặt đất.

      con khỉ nhện, Profitt nghĩ. diện của nó tàu có nghĩa là họ thể loại trừ khả năng có người tàu. Các bảng điều khiển môi trường, nồng độ cacbon -ô-xít có gì khác giữa động vật hay con người. Ông cảm thấy an tâm khi thiếu thông tin. Thậm chí ông thấy bất an khi nghĩ đến thời gian phóng tàu.

      - Tôi chắc có báo động gì . - Gregorian tiếp. - Nhưng ông phải chú ý nếu tàu đó có ý định lại gần trạm.

      - Hãy cho tôi thêm thông tin về hãng Apogee! - Profitt ngắt lời.

      Gregorian khịt mũi.

      - công ty với mười hai kỹ sư ở Nevada. Họ được may mắn cho lắm. Cách đây năm rưỡi, mẫu tên lửa của họ bị nổ tung hai mươi giây sau khi cất cánh. Và toàn bộ các nhà đầu tư của họ bốc hơi hết. Tôi hơi ngạc nhiên khi họ vẫn trụ lại ở đó. Các động cơ đẩy tên lửa của họ dựa công nghệ của Nga. Con tàu đó rất đơn giản, chỉ là hệ thống khung thô sơ và có dù trở về trái đất. Trọng tải tối đa chỉ là ba trăm pao, cộng thêm phi công.

      - Tôi bay đến Nevada ngay. Chúng ta nên can thiệp ngay vào vụ này.

      - Thưa ngài, chúng ta có thể kiểm soát mọi động thái của con tàu. Ngay lúc này chúng ta có lý do nào để hành động. Họ chỉ là công ty , cố gây ấn tượng với các nhà đầu tư. Nếu con tàu có bất cứ dấu hiệu đáng nghi nào, chúng ta có thể dùng hệ thống tên lửa tiêu diệt tầm xa để bắn hạ con chim đó.

      Tổng tư lệnh Gregorin có lẽ đúng. Việc công ty cố đưa con khỉ vào vũ trụ thể là báo động toàn quốc. Ông phải hành động cẩn trọng trong việc này. Cái chết của Luther Ames gây nên làn sóng phản đối toàn nước Mỹ. Đây phải là lúc thích hợp để bắn hạ con tàu vũ trụ nữa được chế tạo bởi công ty ở Mỹ.

      Nhưng có quá nhiều điều về việc phóng tàu của hãngApogee lần này khiến ông quan tâm. Đó là thời gian, là khả năng tự lái và gặp tàu khác, và cả việc công ty đó xác nhận hay phủ nhận diện của con người đó.

      Nó có thể là gì khác nếu phải để cứu người?

      Ông .

      - Tôi Nevada.

      Bốn mươi lăm phút sau, Profitt lên xe và ra đường chính. Đêm đó trời rất quang, những ngôi sao sáng như những chiếc đinh ghim bầu trời trong như nhung. Có lẽ có hàng trăm tỉ thiên hà trong vũ trụ, mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỉ ngôi sao. Bao nhiêu vì sao có hành tinh và bao nhiêu hành tinh có sống? Thuyết tha sinh, thuyết về sống tồn tại và diện ở mọi nơi trong vũ trụ giờ còn là suy đoán. Học thuyết tin rằng chỉ có sống dấu chấm màu xanh nhạt, trong hệ mặt trời này giờ trở nên lố bịch như niềm tin ngây thơ của người xưa khi họ cho rằng mặt trời và các vì sao quay quanh trái đất. Yếu tố tiên quyết duy nhất để có sống là có các hợp chất được hình thành từ cacbon, cộng thêm chút nước. Cả hai thứ đó đều có rất nhiều trong vũ trụ. Điều đó nghĩa là sống, dù nguyên thủy đến đâu cũng rất phong phú. Trong đám bụi giữa các vì sao có thể gieo mầm cho các vi khuẩn và các bào tử. Từ các sinh vật nguyên thủy đó mà toàn bộ sống khác sinh sôi.

      Và chuyện gì xảy ra nếu những dạng sống đó đến như những mảnh bụi thiên hà khác, rồi nảy nở ở hành tinh sống đó?

      Đó là ác mộng với Jared Profitt.

      Trước kia ông từng nghĩ các vì sao đẹp. có thời ông tận hưởng vũ trụ cách ngạc nhiên và băn khoăn. Giờ khi nhìn bầu trời đêm, ông thấy mối đe dọa bất tận. Ông thấy trận chiến bất phân thắng bại giữa cái thiện và cái ác.

      Kẻ thù của chúng ta từ trời rơi xuống.

      đến lúc từ biệt.

      Tay Emma run lẩy bẩy. đấm vào đầu mạnh đến nỗi phải nghiến răng để kêu gào. Liều mooc-phin cuối cùng thể giảm đau cho . chóng mặt do liều thuốc đó và hầu như thể tập trung vào màn hình hay bàn phím nằm ngay dưới tay mình. dừng lại để tay run nữa. Rồi bắt đầu đánh máy.

      Thư riêng gửi: Jack McCallum.

      Nếu em có điều ước, em ước được nghe thấy giọng của lần nữa. Em biết ở đâu hay tại sao em thể chuyện với . Em chỉ biết thứ trong cơ thể em sắp chiến thắng. Ngay cả khi viết những dòng này, em có thể cảm nhận thấy chúng sắp thắng thế. Em có thể thấy sức lực của em cạn dần. Em phải chống lại nó đến khi nào có thể. Em muốn ngủ rồi.

      Khi viết những dòng này, đây là điều em muốn nhất. Em . Em chưa bao giờ thôi . Người ta ai đứng trước cánh cửa dẫn tới thiên đàng mà còn mang theo lời dối. Họ rằng lời thú nhận lúc sắp chết luôn đáng tin. Và đây là lời thú nhận của em.

      Tay run đến nỗi còn đánh máy được nữa. ghi tên và nhấn nút “gửi”.

      Trong hộp dụng cụ y tế, thấy liều Valium. Còn hai viên nữa. uống ngụm nước và nuốt cả hai viên. Khóe mắt bắt đầu nhòe . Chân tê dại như thể chúng còn thuộc về nữa, mà thuộc về người xa lạ.

      còn nhiều thời gian.

      còn sức mặc bộ đồ ngoài gian nữa. Hơn nữa bây giờ chết ở đâu cũng còn quan trọng. Trạm vũ trụ bị nhiễm bệnh. Xác chỉ là vật thể khác cần được dọn .

      lại trong trạm lần cuối.

      muốn đến mái vòm để tận hưởng những giây phút cuối cùng, lơ lửng trong bóng tối và ngắm nhìn vẻ đẹp của trái đất bên dưới. Từ những ô cửa đó, thấy màu xanh của biển Caspia. Những đám mây cuộn Kazakhstan và tuyết đỉnh Himalayas. Dưới đó hàng tỉ người tiếp tục sống, nghĩ. Còn mình ở đây, chết giữa vũ trụ bao la.

      - Emma? - đó là Todd Cutler, điện đàm. - sao rồi?

      - khỏe lắm. - lẩm bẩm. - Tôi đau lắm. Mắt mờ dần. Tôi uống liều Valium cuối cùng.

      - phải chờ ở đó, Emma. Hãy nghe tôi! Đừng bỏ cuộc. Chưa đến lúc đâu.

      - Tôi thua rồi, Cutler.

      - ! thua. phải có niềm tin.

      - Vào phép màu ư? - cười. - Phép màu thực là tôi ở đây và ngắm trái đất từ nơi mà ít ai được đến…. - chạm vào cửa sổ mái vòm và cảm nhận thấy hơi ấm mặt trời qua tấm kính. - Tôi chỉ ước tôi có thể chuyện với Jack.

      - Chúng tôi cố để điều đó xảy ra.

      - ấy ở đâu? Tại sao các liên lạc được với ấy?

      - ấy làm việc như điên để đưa về. phải tin điều đó.

      khóc. Tôi tin chứ.

      - Tôi làm gì được cho ? - Todd dịu dàng hỏi. - muốn chuyện với ai ?

      - . - thở dài. - Chỉ Jack thôi.

      im lặng.

      - Tôi nghĩ điều tôi muốn nhất lúc này là…

      - Là gì? - Todd hỏi.

      - Tôi muốn ngủ. Thế thôi. Tôi chỉ muốn ngủ.

      hắng giọng.

      - Tất nhiên rồi. nên nghỉ ngơi. Tôi luôn ở đây khi cần. - kết thúc cuộc chuyện rất nhàng. - Chúc ngủ ngon. Trạm vũ trụ quốc tế!

      Chúc ngủ ngon, Houston, nghĩ. tháo tai nghe, để mặc nó trôi trong bóng tối.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 27 Phần 1

      HAI MƯƠI BẢY
      đoàn xe mui kín hộ tống dừng lại trước HãngApogee. Bánh xe cuộn lên những đợt khói lớn. Jared Profitt bước ra khỏi chiếc xe dẫn đầu, nhìn tòa nhà. Trông nó như xưởng máy bay, có cửa sổ, chỉ là nhà máy. mái có đầy thiết bị vệ tinh.

      Ông gật đầu với Tổng tư lệnh Gregorian.

      - Bao vây tòa nhà!

      Chưa đầy phút sau, quân của Gregorian ra tín hiệu an toàn và Profitt vào tòa nhà.

      Bên trong ông thấy nhóm đàn ông và phụ nữ làm việc tập trung và căng thẳng. Ông nhận ra ngay hai người: Giám đốc phi hành đoàn tàu con thoi Gordon Obie và giám đốc điều hành bay Randy Carpenter. Vậy là NASA đến đây đúng như ông nghi ngờ. Tòa nhà đáng chú ý nằm giữa sa mạc Nevada này bị biến thành Trung tâm điều hành nhiệm vụ phiến loạn.

      Khác với Phòng điều hành nhiệm vụ của NASA, đây ràng là hệ thống điều hành lẻ và rẻ tiền. Sàn nhà chỉ làm bằng bê tông. Các cuộn dây điện và dây cáp treo khắp nơi. con mèo rất to tìm đường trong đống thiết bị điện.

      Profitt đến bảng điều khiển và thấy các dữ liệu được truyền đến.

      - Tình hình tàu thế nào rồi? - ông hỏi.

      trong những người của Gregorian làm nhiệm vụ điều hành bay ở Bộ tư lệnh quân Mỹ .

      - Nó đốt gần hết nhiên liệu, thưa ngài. Giờ nó đến điểm gốc. Nó có thể hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế trong vòng bốn mươi lăm phút nữa.

      - Dừng ngay việc đó lại!

      - ! - Gordon Obie . Ông đứng tách ra và bước về phía trước. - được làm vậy! Ông hiểu đâu…

      - được cứu phi hành đoàn trạm. - Profitt .

      - Đó phải là nhiệm vụ cứu người!

      - Vậy con tàu lên đó làm gì? ràng nó định hạ cánh xuống Trạm vũ trụ quốc tế.

      - , nó làm vậy. Nó thể làm được. Nó có hệ thống hạ cánh, có cách nào để nối với trạm. thể có việc nhiễm bệnh từ trạm sang con tàu.

      - Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, ông Obie. TàuApogee II làm gì đó?

      Gordon ngập ngừng.

      - Nó chỉ tiến lại gần trạm. Thế thôi! Đây là cuộc thử nghiệm khả năng tiến lại gần của tàu Apogee.

      - Thưa ngài. - nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh quân . - Tôi thấy điều bất thường ở đây.

      Profitt quay phắt lại phía bảng điều khiển.

      - Chuyện bất thường gì?

      - Áp suất trong buồng lái. Nó chỉ ở mức tám at-mốt-phe. Lẽ ra phải là mười bốn phẩy bảy. Hoặc là con tàu bị rò rỉ ở đâu đó, hoặc là họ cố tình hạ áp cho nó.

      - Áp suất thấp như vậy bao lâu rồi?

      Nhân viên đó nhanh chóng gõ dòng lệnh bàn phím, văn bản ra, cho thấy áp suất liên tục trong buồng lái.

      - Theo như máy tính của họ, buồng lái được duy trì áp suất ở mức mười bốn phẩy bảy trong mười hai giờ đầu sau khi phóng tàu. Sau đó, ba mươi sáu tiếng trước, áp suất được hạ xuống mười phẩy hai và được giữ cho đến tiếng trước. - đột nhiên ta hếch cằm lên. - Thưa ngài, tôi biết họ định làm gì! ràng đây là loại tàu chưa từng có!

      - Tại sao?

      - Nó có thể giúp con người bộ trong vũ trụ. - ta nhìn Profitt. - Tôi nghĩ có ai đó tàu.

      Profitt quay về phía Gordon Obie.

      - Ai ở tàu? Ông đưa ai lên đó?

      Gordon thấy thể giấu được nữa. Ông thú nhận.

      - Đó là Jack McCallum. - chồng của Emma Watson.

      - Vậy đây là nhiệm vụ cứu người. - Profitt . - Các ông định làm gì? ta ra ngoài vũ trụ, sau đó sao?

      - Sau đó ấy sử dụng thiết bị hỗ trợ trở lại tàu. Bộ quần áo cỡ M ấy mặc có thiết bị đó. ấy dùng nó để từ tàu Apogee II sang Trạm vũ trụ quốc tế. ấy vào trạm qua phòng chặn khí.

      - ta tìm và đưa vợ mình về.

      - . Đó phải là kế hoạch của chúng tôi. Nghe này, ấy hiểu. - tất cả chúng tôi đều hiểu. - tại sao ấy được trở về. Jack lên đó chỉ để mang vi rút Rana cho ấy.

      - Nếu vi rút đó có tác dụng sao?

      - Đây là trò cá cược.

      - ta tiếp xúc với Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi bao giờ cho ta trở về.

      - ấy định trở về! Con tàu quay về và ấy. - Gordon dừng lại, nhìn thẳng vào Profitt. - Đó là chuyến chiều và Jack biết điều đó. ấy chấp nhận thỏa thuận đó. Vợ ấy chết dần đó! ấy thể để ấy chết mình.

      Profitt sửng sốt lời nào. Ông nhìn bảng điều khiển, màn hình đầy các dữ liệu. Khi mỗi giây trôi qua, ông lại nghĩ về vợ mình, Amy hấp hối ở bệnh viện Bethedas. Ông nhớ mình lái xe như điên đến sân bay Denver để bắt chuyến bay tiếp theo về nhà. Ông nhớ mình tuyệt vọng thế nào khi ông đến cổng, hết hơi và nhìn máy bay cất cánh. Ông nghĩ chắc chắn tuyệt vọng đó thúc đẩy McCallum. Ông tưởng tượng ra đau đớn khi phải vất vả lắm mới tiến đến gần mục tiêu được, rồi lại thấy nó tuột khỏi tầm tay.
      Ông nghĩ. Việc này gây bất lợi cho bất cứ ai trái đất, ai khác ngoài McCallum. ta quyết định và hoàn toàn hiểu hậu quả. Mình có quyền gì mà ngăn cản ta?

      Ông với nhân viên điều hành bay của Bộ tư lệnh quân.

      - Hãy trao lại quyền điều hành cho Apogee! Hãy để họ thực nhiệm vụ này!

      - Thưa ngài?

      - Tôi rồi, hãy để con tàu tiếp tục lại gần trạm!

      Mọi người đều sửng sốt và im lặng. Rồi các nhân viên điều hành của Apogee trở về chỗ ngồi.

      - Ông Obie. - Profitt quay về phía Gordon. - Ông biết là chúng tôi theo dõi mọi động thái của McCallum. Tôi phải là kẻ thù của các vị. Nhưng tôi chịu trách nhiệm về những lợi ích lớn hơn và tôi làm những việc cần làm. Nếu tôi phát thấy các vị có ý định đưa trong hai người đó về, tôi ra lệnh bắn hạ tàu Apogee II.

      Gordon Obie gật đầu.

      - Tôi cũng mong ông làm vậy!

      - Vậy là cả hai ta đều hiểu mình đứng ở đâu. - Profitt hít sâu, quay về phía bảng điều khiển. - Giờ, hãy tiếp tục đưa ta đến chỗ vợ !

      Jack lơ lửng ở rìa gian vô tận.

      Dù tập luyện bộ trong thiết bị rèn luyện môi trường trọng lượng bao lâu cũng thể xóa hết bản năng sợ hãi của mình. Người cứng đơ khi nhìn vào gian bất tận. mở cánh cửa dẫn đến trạm đỗ để chuyển các chuyến hàng. Thứ đầu tiên nhìn thấy qua cánh cửa là trái đất, như giọt nước xanh dương bên dưới. thấy Trạm vũ trụ quốc tế. Nó bay đầu , khuất tầm nhìn. Để đến trạm, phải qua các cánh cửa của trạm đỗ và bay sang bên kia tàu Apogee II. Nhưng đầu tiên, phải cố quên bản năng la hét đòi trở về khoang chặn khí.

      - Emma. - . Tên vang lên như lời cầu nguyện lầm bầm. hít sâu, chuẩn bị thả tay khỏi cửa và lao mình vào gian.

      - Apogee II, tôi là Chỉ huy liên lạc của Houston đây. Apogee… Jack… xin hãy trả lời!

      Đường truyền qua điện đàm khiến Jack giật mình. nghĩ có liên lạc từ mặt đất. Khi Houston gọi tên mình nghĩ là bí mật bị lộ.

      - Apogee, chúng tôi cần trả lời gấp.

      vẫn im lặng và biết có nên xác nhận mình có mặt ở quỹ đạo .

      - Jack, chúng tôi được lệnh Nhà Trắng can thiệp vào nhiệm vụ của . Miễn là nhớ điều quan trọng. Đây là chuyến chiều. - chỉ huy liên lạc dừng lại rồi khẽ. - khi lên Trạm vũ trụ quốc tế, được quay về. thể về trái đất.

      - Đây là tàu Apogee II. - cuối cùng Jack trả lời. - Tôi nhận và hiểu lời nhắn.

      - vẫn định tiếp tục sao? Hãy nghĩ lại.

      - nghĩ tôi lên đây để làm cái quái gì? Chỉ để ngắm cảnh à?

      - Được, chúng tôi hiểu rồi. Nhưng trước khi lên trạm, nên biết việc này. Chúng tôi mất liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế sáu tiếng trước.

      - Ý là sao? “Mất liên lạc à”?

      - Emma trả lời nữa.

      Sáu tiếng, nghĩ. có chuyện gì trong sáu tiếng qua? Họ phóng tàu cách đây hai ngày. Apogee II mất rất lâu mới bắt kịp Trạm vũ trụ và hoàn tất việc lại gần trạm. Trong suốt thời gian đó, mất liên lạc và biết có chuyện gì trạm.

      - Có thể đến quá muộn. muốn nghĩ lại

      - Sức khỏe của ấy thế nào? - ngắt lời. - Nhịp tim ra sao?

      - ấy nối máy điện tâm đồ. ấy ngắt mọi thiết bị.

      - Vậy là cũng biết. cũng thể cho tôi biết có chuyện gì đó.

      - Trước khi ngắt liên lạc, ấy gửi cho bức thư điện tử. - chỉ huy liên lạc khẽ . - Jack, ấy tạm biệt .

      . lập tức buông tay khỏi cánh cửa, đẩy mình khỏi khoang chặn khí và lao đầu về phía trạm đỗ. . bắt được tay cầm, đấm mạnh vào cánh cửa và leo sang bên kia tàu Apogee II. Trạm vũ trụ bỗng xuất ngay trước mặt , ở ngay đó, thấp thoáng ngay trước mặt. Nó đồ sộ và loằng ngoằng đến nỗi bị choáng ngợp. Rồi trong lúc vẫn còn hoảng loạn, nghĩ. Khoang chặn khí ở đâu? Mình thấy khoang chặn khí! Có quá nhiều khoang, quá nhiều tấm năng lượng mặt trời trải khắp khu vực gian rộng bằng hai sân bóng đá. thể định hướng được. mất hướng và sửng sốt bởi diện tích của nó.

      Rồi nhận ra thân tàu Soyuz thò ra. ở dưới khoang dịch vụ Nga. Lập tức mọi thứ được sắp xếp theo trật tự. nhìn khoang của Mỹ ở gần cuối trạm và xác định được khoang sinh hoạt của Mỹ. Ở gần cuối khoang là nút số 1 dẫn đến khoang chặn khí.

      biết đường .

      đến lúc thực cú nhảy. Chỉ có bộ quần áo và dụng cụ bộ trong vũ trụ, vượt qua khoảng vô tận đó mà có dây buộc, có thứ gì cố định lại. khởi động ba lô có động cơ đẩy, nhảy khỏi tàuApogee và phóng về phía Trạm vũ trụ quốc tế.

      Đây là lần đầu tiên bộ trong vũ trụ. lóng ngóng, thiếu kinh nghiệm nên thể tính chính xác mình gần mục tiêu mức nào. đâm sầm vào thân tàu mạnh đến nỗi bật ra rồi lại đập vào liên tiếp. hầu như thể bám vào chỗ tay cầm.

      Nhanh lên! ấy sắp chết!

      Sợ hãi đến cuống cuồng, leo dọc theo thân tàu. Hơi thở nặng nhọc và gấp gáp.

      - Houston. - hổn hển. - Tôi cần chuyện với bác sĩ. - ấy có ở đó ?

      - !

      - Gần đến… tôi gần đến nút số 1.

      - Jack, bác sĩ đây. - giọng của Todd Cutler rất khẩn trương. - mất liên lạc trong hai ngày qua. cần biết vài chuyện. Lần cuối cùng Emma tiêm liều thuốc hooc-môn kích dục màng ngoài ở người cách đây năm mươi lăm tiếng. Kể từ đó tình hình của ấy xấu rất nhanh. Nồng độ chất amilaza và nhịp tim tăng đột biến. Trong lần chuyện cuối cùng, ấy kêu bị đau đầu và mắt mờ. Việc đó xảy ra sáu giờ trước. Chúng tôi tình trạng nay của ấy.

      - Tôi đến cửa khoang chặn khí!

      - Phần mềm điều khiển trạm chuyển sang chế độ dành cho người bộ trong vũ trụ. sắp vào phòng điều áp.

      Jack giật tung cánh cửa, lao vào phòng chặn khí. Khi xoay vòng bên ngoài cánh cửa, thoáng thấy tàu Apogee II. Nó bay mất. Con tàu cứu hộ duy nhất để đưa về giờ quay về mà . vượt qua điểm còn đường quay về.

      đóng và khóa cánh cửa.

      - Van điều áp mở ra. - . - Bắt đầu điều áp!

      - Tôi cố dự báo trước cho điều xấu nhất. - Todd . - Phòng khi ấy…

      - với tôi điều gì thiết thực hơn !

      - Được, được, đây là tin tức mới nhất từ Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm. Vi rút Nara dường như có tác dụng với những con vật trong phòng thí nghiệm. Nhưng nó chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu, nếu nó được tiêm trong vòng ba mươi sáu tiếng đầu sau khi bị bệnh.

      - Nếu tiêm sau đó sao?

      Cutler trả lời. im lặng của khẳng định điều tồi tệ nhất.

      Áp suất trong phòng chặn khí tăng lên mười bốn at-mốt-phe. Jack mở cánh cửa ở giữa và lao vào phòng chứa thiết bị. cuống cuồng tháo găng tay, cởi bộ quần áo Orlan cỡ M, lắc mình cho nó tuột ra. lấy các gói chứa đồ y tế và những ống tiêm được bơm đầy vi rút Nara từ túi có khóa của bộ quần áo Orlan. Lúc này run vì sợ hãi. sợ điều mình sắp thấy trạm. mở cánh cửa trong cùng.

      đối diện với cơn ác mộng khủng khiếp nhất.

      Emma trôi trong nút số 1 như vận động viên bơi lội trôi trong biển đen. Chỉ có điều vận động viên này chết đuối. Chân tay co giật liên tục và đều đặn. Cơn co giật khiến xương sống của như gãy gập, đầu giật lên xuống liên tục. Tóc quất mạnh như chiếc roi. Đây là cơn co giật của người sắp chết.

      , nghĩ. để em chết. Khốn kiếp , Emma. Em thể bỏ .

      ôm chặt lấy eo , kéo về khoang dịch vụ Nga ở cuối trạm, nơi vẫn còn năng lượng và ánh sáng. Toàn thân co giật như đoạn dây sống bị điền truyền liên tục. Nó co giật tay . bé và yếu ớt nhưng lúc này sức mạnh truyền khắp cơ thể sắp kiệt sức của dường như còn mạnh hơn lực siết của . chưa quen với môi trường trọng lực. va vào tường như người say khi cố đưa cả hai đến khoang dịch vụ Nga.

      - Jack, hãy cho tôi biết. - Todd . - Có chuyện gì vậy?

      - Tôi đưa ấy đến khoang dịch vụ Nga, đặt ấy lên tấm ván cố định bệnh nhân.

      - tiêm vi rút cho ấy chưa?

      - Phải buộc ấy . ấy co giật. - buộc chặt các khóa dán lên ngực và hông , cố định toàn thân lên tấm ván. Đầu giật lên xuống liên tiếp, mắt lộn ngược như xoay tròn. Màng mắt đỏ rực trông rất sợ. Tiêm vi rút cho ấy! Phải làm ngay!

      tấm ga-rô được móc ở mép tấm ván cố định. rút nó ra, buộc quanh cánh tay co giật của . phải dùng hết sức mới khiến khuỷu tay duỗi ra, để lộ ra mạch trước khuỷu. Răng ngậm chặt ống tiêm chứa vi rút Nara. ấn mạnh mũi tiêm vào tay và ấn xi-lanh.

      - vào! - . - Toàn bộ xi-lanh tiêm hết!

      - ấy thế nào?

      - ấy vẫn co giật!

      - Có hộp chất dilantin làm giãn cơ trong hộp dụng cụ y tế.

      - Thấy rồi! Tôi tiêm! - tấm ga-rô bay lơ lửng gần đó như nhắc nhở về tình trạng trọng lượng. Và cái gì được buộc chặt nhanh chóng tuột khỏi tầm tay. chộp lấy nó trong trung và lại buộc vào tay Emma.

      lúc sau, báo cáo.

      - Dilantin được tiêm! Cơ của ấy giãn ra!

      - Có thay đổi gì ?

      nhìn vợ mình và thầm cầu nguyện. Cố lên, Emma. Đừng bỏ .

      Đốt sống của từ từ thả lỏng. Cổ mềm ra và đầu đập vào tấm ván cố định nữa. Mắt đảo quanh. Giờ mới thấy con ngươi của . Chúng như hai hốc màu đen, chung quanh viền đầy máu. Khi thoáng thấy con ngươi của , bất chợt kêu lên.

      Con ngươi bên trái của giờ phồng to hết cỡ. Nó đen sì và còn sức sống.

      đến chậm. sắp chết.

      lấy tay ôm mặt như thể có thể buộc sống lại. Nhưng ngay cả khi cầu xin đừng bỏ , vẫn biết rằng chỉ ôm ấp và cầu nguyện thể cứu được. Cái chết là quá trình hữu cơ. Các chức năng sinh hóa, các chuyển động của ion màng tế bào từ từ dừng lại. Não dần dần xẹp xuống. Các cơn co thắt đều đều của các tế bào tim yếu dần. Chỉ cầu nguyện thể cứu sống .

      Nhưng vẫn chưa chết.

      - Todd. - .

      - Tôi đây.

      - Triệu chứng cuối cùng là gì? Chuyện gì xảy ra với những con vật trong phòng thí nghiệm?

      - Tôi theo dõi.

      - vi rút Nara có tác dụng nếu tiêm cho con vật ở giai đoạn đầu. Điều đó nghĩa là chắc chắn nó tiêu diệt được Chimera. Vậy tại sao nó có tác dụng ở giai đoạn sau?

      - Có quá nhiều tế bào bị phá hủy và chảy máu trong.

      - Chảy máu ở đâu? Các khám nghiệm tử thi cho thấy điều gì?

      - Bảy mươi lăm phần trăm các ca ở chó việc xuất huyết gây tử vong xảy ra ở não. Các enzim của Chimera phá hủy các mao mạch mặt vỏ não. Các mạch máu bị vỡ. Chứng xuất huyết khiến áp suất trong não tăng đột ngột rất nguy hiểm. Nó như vết thương rất mạnh ở đầu, Jack. Não bị lòi ra.

      - Nếu chúng ta ngăn được chứng xuất huyết, khiến não bị tổn thương sao? Nếu chúng ta có thể giúp bệnh nhân vượt qua giai đoạn cấp tính và họ có thể sống đủ lâu để vi rút Nara hoạt động sao?

      - Có thể có tác dụng.

      Chương 27 Phần 2

      Jack nhìn con người phồng to của Emma. ký ức vụt qua đầu : Debbie Haning bất tỉnh trong phòng cấp cứu bệnh viện. thất bại với Debbie. chờ quá lâu mới hành động. Do thiếu quyết đoán mà mất ấy.

      mất em.

      .

      - Todd, con ngươi bên trái của ấy phình to. ấy cần được khoan lỗ.

      - Gì? có điên ? có máy chụp X-quang à?

      - Đây là cơ hội duy nhất của ấy! Tôi cần cái khoan. Cho tôi biết hộp dụng cụ ở đâu?

      - Chờ chút! - vài giây sau, Todd điện đàm. - Chúng tôi chắc khoang dịch vụ Nga để đồ ở đâu. Nhưng có hộp của NASA ở nút số 1, trong ngăn dự trữ. Hãy kiểm tra túi có chữ Nomex. Các dụng cụ trong đó rất chuyên biệt.

      Jack lao ra ngoài khoang dịch vụ Nga. lại đâm vào các bức tường và cánh cửa khi lóng ngóng tìm đường đến nút số 1. Tay run rẩy khi mở khay đựng dụng cụ. lấy ra ba túi có chữ Nomex và thấy túi ghi “khoan điện/ mũi khoan/ máy xạc”. chộp lấy túi thứ hai có máy khoan ốc vít và cái búa rồi lao ra khỏi nút số 1. xa lúc nhưng nỗi sợ rằng thấy chết cứ bám riết lấy khi bay qua đường hầm trở lại khoang dịch vụ Nga.

      vẫn thở và vẫn sống.

      buộc túi Nomex vào bàn, đỡ các dụng cụ. Chúng được dùng để sửa chữa và lắp đặt Trạm vũ trụ chứ phải để phẫu thuật não. Giờ khi cầm chắc chiếc khoan trong tay và nghĩ xem mình phải làm gì hoảng sợ. làm việc mà được khử trùng và dùng dụng cụ để khoan các tấm thép chứ phải cho xương và thịt người. nhìn Emma nằm bất động tấm ván và nghĩ về thứ ở trong não . nghĩ về chất xám của , nơi lưu trữ toàn bộ ký ức, giấc mơ và tình cảm cả đời . Tất cả những thứ đó khiến Emma độc nhất. Giờ tất cả sắp sang bên kia thế giới.

      lấy hộp dụng cụ y tế, lấy kéo và dao cạo. túm lấy mớ tóc của và bắt đầu cắt, rồi cạo phần tóc lởm chởm còn lại. làm lộ ra đường để rạch ở xương thái dương bên trái. Mái tóc đẹp của em. lúc nào cũng thích mái tóc em. luôn em.

      búi gọn phần tóc còn lại của và vắt sang bên để nó vướng khi phẫu thuật. lấy đoạn băng dính gần đó buộc chặt đầu vào ván cố định. Giờ hành động rất nhanh, chuẩn bị dụng cụ: ống hút nước tiểu, dao mổ, băng gạc. nhúng các mũi khoan vào dung dịch tẩy vết bẩn, rồi lấy cồn lau sạch.

      đeo găng tay tiệt trùng, cầm dao mổ lên.

      Da nhớp nháp dưới lớp găng tay bằng nhựa cao su khi tạo vết rạch. Máu rỉ dao mổ, rồi to dần thành giọt lớn. lấy gạc lau sạch rồi ấn sâu hơn cho tới khi mũi dao chạm đến xương.

      Khi khoan hộp sọ, não bị hàng triệu vi trùng xâm nhập. Nhưng cơ thể người rất linh hoạt và mau phục hồi, nó có thể tồn tại sau khi bị ảnh hưởng nặng nề. buộc mình phải luôn nhớ điều này khi tiếp tục ấn sâu vào xương thái dương và xác định vị trí của mũi khoan. Những người Ai Cập và Inca cổ đại thực thành công thủ thuật khoan sọ bằng trê-phin. Họ tạo lỗ hổng trong não chỉ bằng những dụng cụ thô sơ nhất và hề có các thiết bị tiệt trùng. Việc này có thể thực được.

      Tay bây giờ run, ngày càng tập trung khi khoan vào xương. Chỉ cần khoan sâu quá vài milimet, có thể chạm vào phần chất xám. Hàng nghìn trí nhớ quý giá bị phá hủy trong giây. Và nếu chạm vào động mạch chủ, khiến máu phun thành cột và cầm được. dừng lại chút để thở và dò độ sâu của mũi khoan. Từ từ thôi! Chậm thôi!

      Đột nhiên cảm thấy mảnh xương long ra và mũi khoan xuyên vào. Tim đập mạnh, nhàng rút mũi khoan.

      Máu lập tức tạo thành bong bóng, từ từ rỉ ra ở chỗ khoan. Nó đỏ đậm. Đó là máu tĩnh mạch. thở phào nhõm. phải động mạch. Lúc này áp suất trong não Emma bắt đầu giảm, máu chảy trong não thoát qua lỗ hổng mới. hút hết chỗ máu, dùng gạc thấm hết chỗ máu rỉ ra. Rồi khoan mũi nữa, rồi thêm mũi khác. khoan vòng đường kính gần in-sơ trong não. Khi lỗ cuối cùng khoan xong, vòng tròn hoàn thành tay bị chuột rút. Mặt lấm tấm mồ hôi. thể dừng lại nghỉ ngơi, mỗi giây đều quý giá.

      lấy đinh vít và búa nện.

      Cầu mong cách này có tác dụng và cứu được em!

      dùng ốc vít như cái đục rồi nhàng ấn sâu mũi nó vào hộp sọ. nghiến chặt răng, tạo vòng tròn não.

      Máu trào ra. Cuối cùng, vết khoan lớn hơn giúp máu thoát ra, nó từ từ chảy ra khỏi não.

      thứ khác cũng vậy. Những quả trứng. bọc trứng phụt ra, bay lơ lửng, uốn éo trong khí. lấy túi chụp chúng lại, cho vào bình chân . Trong suốt tiến trình lịch sử, kẻ thù nguy hiểm nhất của con người là các sinh vật siêu như vi rút, vi khuẩn, động vật ký sinh. Và giờ là chúng mày, Jack nghĩ khi nhìn vào chiếc bình. Nhưng chúng tao đánh bại mày.

      Máu ngừng chảy ở não. Khi đợt máu đầu tiên phun ra, áp suất ở não hạ xuống.

      nhìn mắt trái Emma. Đồng tử vẫn mở rộng nhưng khi chiếu ánh sáng vào, nghĩ có lẽ mình bị hoang tưởng chăng? Phần viền quanh đồng tử còn đỏ và đồng tử như khối nước màu đen trượt vào giữa.

      Em sống, nghĩ.

      lấy gạc quấn vết thương, và bắt đầu truyền dung dịch chứa xteoit và ít thuốc mê để tạm thời làm hôn mê sâu hơn, bảo vệ não bị tổn thương nhiều hơn. nối điện tâm đồ vào ngực . Sau khi toàn bộ việc đó hoàn tất, mới lấy ga-rô buộc quanh tay mình, tiêm liều vi rút Nara. Nó giết hoặc cứu cả hai người. sớm biết điều đó.

      màn hình điện tâm đồ, đường tim của Emma rất đều. cầm lấy tay và chờ dấu hiệu đầu tiên.

      Ngày 27 tháng 8

      Gordon Obie bước vào phòng điều hành đặc biệt, nhìn lượt những người đàn ông và phụ nữ làm việc ở bảng điều khiển. màn hình trước mặt, Trạm vũ trụ tạo thành vệt uốn lượn bản đồ thế giới. Lúc này, ở sa mạc Algeria, những người dân trong làng tình cờ nhìn bầu trời đêm kinh ngạc khi thấy ngôi sao lạ, sáng như sao Kim lao vụt ngang trời. Đó là vì sao duy nhất trời vì nó được Chúa trời tạo ra, phải do lực lượng siêu nhiên mà bởi bàn tay yếu ớt của con người.

      Trong căn phòng này, cách hoang mạc Algeria nửa vòng trái đất, có những người bảo vệ ngôi sao đó.

      Giám đốc điều hành bay Woody Ellis ngạc nhiên, gật đầu buồn bã chào Gordon.

      - lời nào. đó hoàn toàn im lặng.

      - Đường truyền cuối cùng cách đây bao lâu?

      - Jack cắt liên lạc cách đây năm tiếng để chợp mắt lúc. gần ba ngày nay ấy nghỉ ngơi. Chúng tôi làm phiền ấy.

      Ba ngày, và tình hình Emma vẫn biến chuyển. Gordon thở dài, về phía bảng điều khiển của bác sĩ điều hành bay. Todd Cutler chưa cạo râu, hốc hác theo dõi các tín hiệu hóa sinh của Emma màn hình. Lần cuối cùng Todd ngủ là khi nào? Gordon tự hỏi. Mọi người trông kiệt sức nhưng ai muốn bỏ cuộc.

      - ấy vẫn hôn mê đó. - Todd khẽ . - Chúng ta hết thuốc ngủ.

      - Nhưng ấy vẫn chưa hết hôn mê à?

      - Vẫn chưa. - Todd thở dài, ngả người về sau, kẹp chặt sống mũi. - Tôi biết phải làm gì nữa. Tôi chưa từng gặp chuyện này, phẫu thuật não trong vũ trụ.

      Trong suốt thời gian gần đây, nhiều người trong số họ luôn câu này. Tôi chưa từng gặp chuyện này. Nó mới mẻ. Đây là thứ chúng ta chưa từng thấy. Nhưng đó chẳng phải là bản chất của việc khám phá hay sao? Người ta thể dự đoán trước các rắc rối, mỗi vấn đề mới phát sinh đều có cách giải quyết riêng. Mỗi niềm vui đều được xây đắp hy sinh.

      có niềm vui trong những thảm kịch này. TàuApogee II hạ cánh an toàn xuống sa mạc Arizona, Casper Mulholland giờ thương lượng hợp đồng với lực lượng quân Mỹ. Jack vẫn khỏe mạnh dù ở Trạm vũ trụ quốc tế ba ngày. - điều đó cho thấy vi rút Nara vừa có thể chữa trị và phòng ngừa Chimera. Và là Emma vẫn còn sống cũng rất đáng mừng.

      Mặc dù có thể đó chỉ là việc tạm thời.

      Gordon cảm thấy rất buồn khi ông nhìn các tín hiệu điện tâm đồ của màn hình. Tim ấy có thể đập được bao lâu nữa khi não còn hoạt động? Ông băn khoăn. Cơ thể ấy có thể sống được bao lâu sau trận hôn mê? Khi nhìn người phụ nữ trước kia đầy sức sống từ từ yếu dần còn đau đớn hơn khi chứng kiến cái chết đột ngột và thảm khốc của .

      Ông bỗng ngồi thẳng lên, nhìn chằm chằm vào màn hình.

      - Todd. Có chuyện gì với ấy vậy?

      - Gì cơ?

      - Có vấn đề gì đó với tim ấy.

      Todd ngẩng đầu lên nhìn đường điện tâm đồ lao vọt lên màn hình.

      - . - và bấm nút liên lạc. - Đó phải là tim ấy.

      Tiếng báo động lớn màn hình khiến Jack choàng tỉnh. giật mình thức giấc. Nhiều năm rèn luyện ở bệnh viện và những đêm thức trắng trong phòng trực dạy phải luôn sẵn sàng tỉnh táo khi ngủ say. Khi mở mắt, biết mình ở đâu. biết có chuyện gì đó.

      quay về phía thanh báo động và bị mất hướng vì tầm nhìn của bị đảo ngược. Emma xuất trước mặt và lộn ngược từ trần nhà xuống. trong các tấm gắn điện tâm đồ của trôi tự do như sợi cỏ biển trôi dạt dưới nước. xoay trăm tám mươi độ và mọi thứ trở về trật tự cũ.

      nối lại điện tâm đồ cho . Tim đập mạnh khi nhìn màn hình và lo sợ vì điều sắp nhìn thấy. người khi thấy nhịp tim bình thường màn hình.

      Rồi… có thứ gì đó. chuyển động gì đó. Cử động.

      nhìn Emma và thấy mắt mở to.

      - Trạm vũ trụ quốc tế trả lời. - chỉ huy liên lạc .

      - Hãy thử ! Chúng ta cần ấy chuyện ngay lúc này! - Todd hét lên. Gordon nhìn đường sinh hóa và hiểu có chuyện gì. lo sợ điều xấu nhất xảy ra. Các đường điện tâm đồ lao vọt lên xuống, rồi đột ngột thẳng băng. , nghĩ. Chúng ta mất ấy!

      - Nó bị tháo ra. - Todd . - Tấm điện bị rơi. Có lẽ ấy lên cơn co giật.

      - Vẫn có tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. - chỉ huy liên lạc thông báo.

      - Có chuyện quái gì đó vậy?

      - Nghe này! - Gordon gọi.

      Hai người đều ngồi im khi đường thẳng màn hình. Tiếp theo lại có đường khác, rồi đường khác nữa.

      - Bác sĩ, tôi nhận được tín hiệu từ Trạm vũ trụ quốc tế. - chỉ huy liên lạc thông báo. - cầu cho ý kiến ngay!

      Todd chồm về phía trước ghế.

      - Trung tâm điều khiển mặt đất, đóng đường truyền lại. Tiếp tục , Jack!

      Đó là cuộc chuyện riêng nhưng Todd nghe Jack gì. Đột nhiên tất cả đều im lặng, mọi người trong phòng quay về bảng điều khiển của bác sĩ. Ngay cả Gordon ngồi ngay cạnh bác sĩ cũng thể hiểu tâm trạng của Todd. Todd gập người về phía trước, hai tay ôm tai nghe như thể muốn chặn bất cứ tạp nào.

      Rồi .

      - Tiếp tục , Jack! Có rất nhiều người dưới đây chờ nghe tin này. Hãy báo cho họ ! - Todd quay về phía giám đốc điều hành bay Ellis và giơ ngón tay cái lên vui sướng. - Watson tỉnh lại! ấy chuyện!

      Chuyện xảy ra tiếp theo mãi hằn sâu trong tâm trí của Gordon Obie. Ông nghe thấy những tiếng bập bõm, rồi to dần thành niềm hạnh phúc. Ông thấy Todd vỗ vào lưng mình. Liz Gianni nhảy lên. Và Woody Ellis ngồi phịch xuống ghế vì quá bất ngờ và quá vui.

      Nhưng điều ông nhớ nhất là phản ứng của chính mình. Ông nhìn quanh phòng, đột nhiên thấy cổ họng đau rát và nước mắt khiến mắt ông nhòe . Trong suốt những năm ở NASA, chưa ai thấy Gordon Obie khóc. Và giờ họ lại để ý điều đó.

      Họ vẫn reo hò vui mừng khi ông đứng lên, im lặng ra khỏi phòng.

      5 tháng sau

      Thành phố Panama, bang Florida

      Tiếng bản lề kêu ken két và tiếng kim loại va chạm trong xưởng khổng lồ của Hải quân khi cánh cửa phòng điều áp cuối cùng mở ra. Jared Profitt nhìn hai bác sĩ Hải quân bước ra ngoài đầu tiên, cả hai đều hít sâu khi bước ra. Họ bị nhốt cả tháng trong gian gò bó. Dường như họ rất hụt hẫng khi được trở về môi trường tự do. Họ quay lại giúp hai người khác ra khỏi phòng.

      Emma Watson và Jack McCallum bước ra. Cả hai đều nhìn Jared Profitt tiến về phía họ.

      - Chào mừng trở về, bác sĩ Watson. - ông và đưa tay chúc mừng .

      lưỡng lự rồi bắt tay ông. gầy hơn nhiều so với trong ảnh. Sau bốn tháng bị cách ly vũ trụ, tiếp theo là năm tháng trong phòng bội áp suất khiến bị ảnh hưởng rệt. Cơ bắp rã rời, mắt dường như to hơn và lấp lánh khuôn mặt xanh xao. Phần tóc mọc lại hộp sọ bị cạo trọc bây giờ có màu bạc, nổi bật hẳn mớ tóc màu hạt dẻ cũ.

      Profitt nhìn hai bác sĩ.

      - Các vị để chúng tôi chuyện riêng được ? - ông chờ cho đến khi những bước chân xa dần.

      Rồi ông hỏi Emma.

      - khỏe chứ?

      - Tôi ổn. - Emma . - Họ tôi hết bệnh.

      - Người ta phát bệnh cơ thể nữa. - ông chỉnh lại.

      Đây là khác biệt quan trọng. Mặc dù họ xác nhận là vi rút Nara thực triệt tiêu Chimera trong phòng thí nghiệm nhưng họ chắc về việc tiên lượng bệnh cho Emma. Điều chính xác nhất họ có thể còn dấu vết của Chimera trong cơ thể . Từ khi trở về trái đất tàu Endeavour, bị thử máu, chụp X-quang và thử nghiệm sinh hóa liên tục. Dù tất cả đều cho kết quả tính nhưng Viện nghiên cứu y tế quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm vẫn cầu thử nghiệm phòng bội áp trong khi các thí nghiệm tiếp tục. Hai tuần trước, phòng bội áp giảm xuống mức at-mốt-phe. vẫn khỏe mạnh.

      Thậm chí lúc này vẫn chưa hoàn toàn tự do. Từ nay đến cuối đời, là sinh vật để họ nghiên cứu.

      Ông nhìn Jack và thấy thân thiện trong mắt . Jack gì, tay ôm eo Emma, cử chỉ như muốn rằng: ông thể lấy mất ấy khỏi tay tôi.

      - Bác sĩ McCallum, tôi mong hiểu mọi quyết định của tôi đều có lý do riêng.

      - Tôi hiểu lý do của ông. Điều đó có nghĩa là tôi đồng ý với những quyết định của ông.

      - Vậy ít ra chúng ta cũng có điểm chung. - ông đưa tay ra, ông có cảm giác Jack từ chối bắt tay mình. Ông chỉ . - Có mấy người chờ các bạn bên ngoài. Tôi giữ các bạn thêm nữa. - ông quay mặt bước .

      - Chờ . - Jack . - Giờ sao?

      - Hai vị được phép , miễn là cả hai phải quay lại kiểm tra theo định kỳ.

      - , ý tôi là những người có liên quan sao? Những người gửi Chimera lên Trạm vũ trụ?

      - Họ có quyền quyết định gì.

      - Thế thôi à? - Jack cao giọng tức giận. - trừng phạt, chịu hậu quả gì?

      - Việc này được giải quyết như bình thường, cách được thực ở bất cứ bộ phận nào của chính phủ, kể cả NASA. Họ kín đáo bị loại ra, rồi kín đáo nghỉ việc. thể có chuyện điều tra hay tiết lộ bất cứ việc gì. Chimera quá nguy hiểm nên thể tiết lộ với những người khác thế giới.

      - Nhưng có người chết.

      - Chúng tôi đó là do vi rút Marburg. Nó vô tình được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế qua con khỉ bị nhiễm bệnh. Cái chết của Luther Ames là do trục trặc kỹ thuật của phương tiện di dời khẩn cấp.

      - Ai đó phải chịu liên đới chứ?

      - Vì tội gì? Vì đưa ra quyết định sai lầm ư? - Profitt lắc đầu. Ông quay lại nhìn cánh cửa phòng chứa đóng chặt. tia nắng chiếu qua. - có tội phạm bị trừng phạt trong việc này. Chỉ có những người mắc sai lầm, những người hiểu bản chất của thứ họ nghiên cứu. Tôi biết rất tức giận về việc này. Tôi hiểu muốn buộc tội ai đó. Nhưng có tội phạm trong việc này, bác sĩ McCallum. Chỉ có… những hùng. - ông quay lại, nhìn thẳng vào Jack.

      Hai người đàn ông nhìn nhau lúc. Profitt thấy chút ấm áp hay lòng tin trong mắt Jack. Nhưng ông thấy thái độ tôn trọng.

      - Các bạn đợi. - cuối cùng Profitt .

      Jack gật đầu. và Emma bước qua cánh cửa nhà xưởng. Khi họ ra ngoài, Jared Profitt nheo mắt vì ánh sáng. Ông thấy Jack và Emma chỉ còn là hai chấm , tay khoác vai , dáng tựa vào . Trong tiếng reo hò vui mừng, họ bước ra và biến mất trong ánh sáng rực rỡ buổi trưa.

      Chương 28 (Hết)

      ĐẠI DƯƠNG

      HAI MƯƠI TÁM

      ngôi sao chổi vệt vòng cung lên trời và tan thành nhiều mảng sáng lấp lánh. Emma hít sâu kinh ngạc, cảm nhận mùi gió vịnh Galveston. Mọi việc khi trở về dường như đều mới mẻ và lạ lẫm với . Đây là bức tranh toàn cảnh trọn vẹn của bầu trời. Sàn thuyền lắc lư dưới lưng . Tiếng nước ì oạp vỗ vào mạn thuyền Sanneke. lâu lắm rồi được tận hưởng điều đơn giản trái đất, vì vậy khi gió mơn man mặt, cảm thấy đó là điều quý giá. Trong suốt những tháng bị cách ly Trạm vũ trụ, nhìn xuống trái đất, thấy nhớ nhà, thèm được ngửi mùi cỏ, vị mặn của biển trong khí, hơi ấm của đất dưới chân. nghĩ khi mình trở về nhà, nếu được trở về lần nữa, mình bỏ nó nữa.

      Giờ ở đây, tận hưởng cảnh đẹp và mùi vị của trái đất. Nhưng vẫn thể ngăn mình tiếc nuối nhìn những vì sao.

      - Em có bao giờ ước được quay lại đó ? - Jack khẽ đến nỗi những lời của như tan trong gió. nằm cạnh boong tàu Sanneke, tay nắm chặt tay . cũng nhìn lên bầu trời.

      - Em có bao giờ nghĩ “nếu họ cho mình cơ hội lên đó lần nữa, mình nắm lấy nó” ?

      - Ngày nào em cũng nghĩ vậy. - lẩm bẩm. - thấy có lạ ? Khi lên đó, chúng ta chỉ về việc trở về. Và giờ khi trở về, chúng ta luôn nghĩ về việc được lên đó lần nữa. - lướt các ngón tay trái dương, ở đó những sợi tóc ngắn hơn mọc trở lại và có màu bạc kỳ lạ. vẫn cảm thấy vết sẹo ở chỗ dao mổ của Jack cắt qua da và cân bọc sọ. Nó mãi nhắc nhở về việc được cứu sống trạm như thế nào. Đó cũng là nỗi sợ lâu dài ăn sâu vào da thịt . Nhưng vẫn nhìn lên trời, lại thấy thèm được bay lên đó.

      - Em nghĩ em luôn hy vọng có cơ hội nữa. - . - Như những người thủy thủ vẫn muốn trở lại biển, cho dù chuyến khủng khiếp đến mức nào. Hay thậm chí họ còn âu yếm hôn đất khi cập bến. Họ vẫn nhớ biển và muốn quay lại.

      Nhưng bao giờ quay trở lại vũ trụ. như thủy thủ bị giữ chặt chân đất liền, xung quanh là biển cả, đày đọa và cấm đoán . Nó mãi tuột khỏi tầm tay vì Chimera.

      Mặc dù các bác sĩ ở Houston và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm phát thấy bất cứ dấu hiệu nhiễm bệnh nào trong cơ thể nhưng họ chắc Chimera bị tiêu diệt hoàn toàn chưa. Có thể nó ngủ đông và sống ký sinh trong cơ thể . ai ở NASA đoán được có chuyện gì khi được bay lên vũ trụ.

      [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www. gacsach. com. - gác cho người sách]

      Vì vậy bao giờ được quay lại. Giờ là cái bóng của phi hành gia, hy vọng được thêm nhiệm vụ bay nào. để mặc những người khác theo đuổi giấc mơ của họ. phi hành đoàn mới được đưa lên trạm để hoàn tất việc sửa chữa và tiếp tục dọn dẹp ô nhiễm sinh học mà và Jack làm. Tháng sau, các mảnh cuối cùng của tấm năng lượng mặt trời bị vỡ được đưa lên tàu Columbia. Trạm vũ trụ quốc tế chết. có quá nhiều người chết để biến Trạm vũ trụ thành , việc bỏ trạm lúc này nghĩa là có những người hy sinh vô ích.

      ngôi sao chổi khác vụt qua, rồi lao xuống như hòn than trước khi vụt tắt. Cả hai đều chờ và hy vọng có ngôi sao chổi khác. Những người khác nhìn thấy sao chổi có thể nghĩ chúng là điềm gở, hay các thiên thần từ trời rơi xuống, hay coi đó là cơ hội ước điều gì đó. Emma nhìn nhận chúng theo đúng bản chất của chúng: đó là các mảnh vụn trong vũ trụ, những người thích ngao du bất trị muốn trốn khỏi vòng tay lạnh lẽo và tối tăm của vũ trụ. Dù chỉ là đá và băng nhưng chúng vẫn kém phần kỳ diệu.

      Khi nghiêng đầu nhìn bầu trời, chiếc thuyền Sanneke chòng chành vì cơn sóng lớn. có ảo giác những ngôi sao lao về phía mình và lao vút qua gian và thời gian. nhắm mắt. Đột nhiên tim đập mạnh vì sợ hãi. thấy mồ hôi lạnh má.

      Jack nắm lấy bàn tay run rẩy của .

      - Có chuyện gì vậy? Em lạnh à?

      - , phải lạnh. - nuốt khan. - Em bỗng thấy việc khủng khiếp.

      - Gì vậy?

      - Nếu Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đúng rằng Chimera đến trái đất mảnh thiên thạch điều đó chứng tỏ có sống ở đó.

      - Đúng vậy. Nó chứng minh điều đó.

      - Nếu có sinh vật thông minh sao?

      - Chimera quá , quá nguyên thủy. Nó có trí khôn.

      - Nhưng nếu có ai đó đưa nó đến đấy có trí khôn sao? - thầm.

      Jack nằm im bên .

      - cuộc xâm chiếm thuộc địa. - khẽ .

      Như những hạt cát bay theo gió. Chimera hạ cánh ở bất cứ đâu, bất cứ hành tinh nào, trong bất kỳ hệ mặt trời nào gây bệnh cho các sinh vật gốc và lấy ADN vào nhiễm sắc thể của nó. Nó cần hàng triệu năm để thích nghi với nơi ở mới của nó. Nó có thể lấy các mã gen mới từ các động vật sống ở đó để thành công cụ tồn tại.

      khi ổn định, khi trở thành sinh vật thống trị hành tinh mới sao? Bước tiếp theo của nó là gì. biết. nghĩ câu trả lời chắc chắn nằm trong các đoạn trong nhiễm sắc thể của Chimera mà họ vẫn chưa xác định được. Chức năng của các đoạn ADN tiếp theo vẫn còn là bí với họ.

      ngôi sao băng khác lại vụt qua bầu trời. Nó cho thấy vũ trụ luôn vận động và biến đổi thất thường. Và trái đất là người du lịch duy nhất qua vũ trụ bao la.

      - Chúng ta phải sẵn sàng. - . - Trước khi sinh vật Chimera tiếp theo đến.

      Jack ngồi dậy nhìn đồng hồ.

      - Trời sắp lạnh, ta về nhà thôi! Gordon nổi điên nếu chúng ta vắng mặt tại cuộc họp báo ngày mai.

      - Em chưa bao giờ thấy ông ấy nổi giận.

      - Em hiểu ông ấy bằng . - Jack bắt đầu kéo mạnh dây neo. Buồm chính căng lên, thổi phồng trong gió. - Ông ấy em đấy, em biết ?

      - Gordie á? - cười. - Em thể tưởng tượng nổi.

      - Và em biết thể tưởng tượng nổi việc gì ? - khẽ rồi kéo lại gần trong buồng lái. - Rằng lại có người đàn ông nào mà em.

      Gió bỗng nổi lên, buồm căng, thuyền Sanneke lao về trước, xẻ dọc làn nước vịnh Galveston.

      - Sẵn sàng lên đường! - Jack hét. lái tàu trong gió, quay mũi về phía tây. Họ chỉ được các vì sao dẫn đường mà còn có ánh sáng bờ.

      Ánh sáng từ ngôi nhà của họ.

      TỪ VIẾT TẮT

      NASA có tên chính thức là “Hãng chuyên tắt quốc gia”. Việc đó có nguyên nhân của nó. Những cuộc chuyện giữa các nhân viên ở NASA thường pha trộn những từ tắt, chữ viết tắt đó được sử dụng nhiều đến nỗi có thể bạn nghĩ họ thứ tiếng lạ. Dưới đây, tôi xin giải nghĩa vài từ viết tắt và thuật ngữ được sử dụng nhiều lần trong truyện Gravity.

      AFB: Lực lượng quân.

      ALSP: Bộ dụng cụ hỗ trợ cấp cứu, đây là hộp dụng cụ y tế tàu để cung cấp các phương tiện cấp cứu trợ tim cao cấp.

      APU: Bộ nguồn chính.

      ASCR: Đảm bảo đưa phi hành đoàn trở về an toàn, đây là chế độ sử dụng phần mềm điều khiển Trạm vũ trụ quốc tế giúp hỗ trợ việc tách và phóng phương tiện di dời khẩn cấp.

      ATO: Đốt nhiên liệu để vào quỹ đạo, đây là chế độ cho phép tàu đạt được tốc độ nhất định nào đó trước khi quay trở về trái đất.

      CAPCOM: Chỉ huy liên lạc với tàu.

      CCPK: Bộ dụng cụ bảo vệ chống ô nhiễm cho phi hành đoàn.

      CCTV: Truyền hình khép kín.

      CRT: Ống tia cac-tốt.

      CRV: Phương tiện di dời khẩn cấp, đây là thuyền cứu hộ của tàu.

      C/W: Chú ý và cảnh báo.

      DAP: Phi công lái tự động kỹ thuật số.

      ECLSS: Hệ thống hỗ trợ sống và kiểm soát môi trường

      ECS: Hệ thống kiểm soát môi trường.

      EKG: Điện tâm đồ.

      EKV: Vũ khí hủy diệt tầm xa, loại tên lửa được thiết kế để phá hủy các vật thể trước khi chúng xâm nhập khí quyển trái đất.

      EMU: Phương tiện di chuyển phụ, loại quần áo bộ ngoài vũ trụ của Mỹ.

      EPS: Hệ thống điện.

      ESA: Hãng hàng vũ trụ Châu Âu.

      EVA: Hoạt động bộ ngoài gian.

      FAA: Cơ quan hàng liên bang.

      Falcon: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về việc quản lý hệ thống điện và tấm năng lượng mặt trời Trạm vũ trụ quốc tế.

      FCR: Phòng điều hành bay.

      FDO: Nhân viên phụ trách động lực học chuyến bay.

      FGB: (Các chữ viết tắt của tiếng Nga). Gian hàng chức năng, trong các khoang Trạm vũ trụ quốc tế, nó cũng được gọi là Zarya.

      Flight: Giám đốc điều hành chuyến bay.

      GC: Trung tâm điều khiển mặt đất.

      GDO: Nhân viên hướng dẫn.

      GNC: Hướng dẫn, Chỉ đường và Điều khiển.

      GOES: Vệ tinh môi trường hoạt động toàn quốc, đây là vệ tinh dự báo thời tiết.

      GPC: Máy tính dành cho các mục đích sử dụng thông thường.

      Hab: Khoang sinh hoạt.

      HCG: Hooc-môn kích dục ở người, loại hooc-môn được sản sinh trong quá trình thai nghén.

      HEPA filter: Bộ lọc khí đặc biệt hiệu quả cao.

      ISS: Trạm vũ trụ quốc tế.

      IVA: Hoạt động lại bên trong, đây là việc lại trong phương tiện hay con tàu được nén khí.

      JPL: Phòng thí nghiệm lực đẩy máy bay.

      JSC: Trung tâm vũ trụ Johnson.

      KSC: Trung tâm vũ trụ Kennedy.

      Ku-band: Hệ thống liên lạc phụ sử dụng tần số sóng thấp.

      LCC: Trung tâm điều khiển việc phóng tàu.

      LEO: Quỹ đạo trái đất tầm thấp, đây là quỹ đạo cách trái đất vài trăm dặm.

      LES: Bộ quần áo mặc khi phóng tàu và về trái đất, đây là bộ quần áo màu da cam sáng được các phi hành gia mặc để cất cánh hay khi sắp về trái đất. Đây là bộ quần áo được nén khí, có thể cách nhiệt và chống lại lực hút trái đất.

      LOS: Mất tín hiệu.

      MCC: Trung tâm điều hành nhiệm vụ bay.

      ME: Các động cơ chính.

      MECO: Tắt động cơ chính.

      MMACS: Kỹ sư bảo trì, bộ phận cơ khí và hệ thống của phi hành đoàn.

      MMT: Đội quản lý nhiệm vụ.

      MMU: Bộ phận dữ liệu tổng hợp.

      MOD: Giám đốc điều hành nhiệm vụ.

      MSFC: Trung tâm vũ trụ Marshall.

      NASA: Hãng hàng vũ trụ quốc gia.

      NASDA: Hãng hàng vũ trụ Nhật Bản.

      NOAA: Trung tâm khí tượng và đại dương quốc tế.

      NORAD: Bộ tư lệnh phòng Bắc Mỹ.

      NSTS: Hệ thống vận chuyển hàng quốc gia.

      Odin: Giám đốc điều hành bay, chịu trách nhiệm về các dữ liệu và mạng máy tính Trạm vũ trụ quốc tế.

      ODS: Hệ thống sát nhập tàu khi bay.

      OMS: Hệ thống điều khiển tàu.

      Orlan-M: Bộ quần áo bộ ngoài gian của Nga.

      ORU: Bộ phận thay thế khi bay quanh quỹ đạo.

      Oso: Giám đốc điều hành bay chịu trách nhiệm về kỹ thuật, bảo trì và các khóa Trạm vũ trụ quốc tế.

      PAO: Nhân viên quan hệ công chúng.

      PFC: Phòng chuyện riêng của gia đình.

      PI: Trưởng ban điều tra, đây là nhà khoa học làm việc mặt đất và chịu trách nhiệm về các thí nghiệm được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế.

      PMC: Phòng họp y khoa riêng.

      POCC: Trung tâm kiểm tra các chuyến hàng.

      Psi: Pao in-sơ.

      PVM: Khoang điện có lớp chặn.

      RCS: Hệ thống điều khiển phản xạ, trong các hệ thống máy móc tàu con thoi được dùng khi bay quỹ đạo để điều khiển đường bay.

      RLV: Phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng.

      RPOP: Chương trình hoạt động lắp ghép ở tầm gần (đây là loại phần mềm).

      RSM: Khoang dịch vụ Nga.

      RTLS: Trở về khu bệ phóng, kiểu hủy phóng tàu. Nó cầu tàu con thoi bay hạ thấp độ cao để xả nhiên liệu, rồi trở về khu hạ cánh gần khu phóng tàu.

      SAFER: Cứu hộ phương tiện di dời khẩn cấp đơn giản hóa, bộ dụng cụ tàu cho phép các phi hành gia có thể bay an toàn khi dây nối bị đứt.

      Sim: Tình huống diễn tập.

      SRB: Động cơ đẩy tên lửa.

      STS: Hệ thống vận chuyển tàu con thoi.

      Surgeon: Bác sĩ phụ trách suốt chuyến bay.

      SVOR: Phòng điều hành đặc biệt, đây là phòng điều hành bay cho Trạm vũ trụ quốc tế.

      TACAN: Định vị hàng chiến lược.

      TAEM: Quản lý năng lượng ở khu vực cuối.

      TAL: Khu hạ cánh bên kia bờ Đại Tây Dương, đây là kiểu hủy phóng tàu và khi đó tàu con thoi hạ cánh ở khu bên kia bờ Đại Tây Dương.

      TDRS: Vệ tinh truyền và dẫn dữ liệu.

      Topo: Giám đốc điều hành bay điều khiển đường bay của Trạm vũ trụ.

      TVIS: Hệ thống tách rung động.

      UHF: Tần số sóng cao.

      United Space Alliance (USA): Đây là cam kết duy trì và thực các hoạt động của NASA.

      USAMRIID: Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm.

      U. S. Space Command: Đây là bộ phận của Tổng tư lệnh thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ phận này kiểm soát các vật thể nhân tạo bay quanh trái đất, hỗ trợ quân cũng như các hoạt động dân liên quan đến vũ trụ.

      WET-F: Phương tiện huấn luyện trong môi trường trọng lực.

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :