Chương 18 MƯỜI TÁM Nicolai dừng lại nghỉ ngơi, tay run rẩy vì kiệt sức. Sau nhiều tháng sống trong vũ trụ, toàn bộ cơ thể yếu và quen với việc lao động chân tay. Trong môi trường trọng lực siêu , họ phải mang vác nặng và cần sử dụng cơ bắp nhiều. Trong năm tiếng qua, và Luther làm việc liên tục và sửa xong các ăng-ten sóng ở dải S, tháo và lắp lại các khớp các-đăng. Giờ kiệt sức. Chỉ việc đơn giản là co tay để cử động khi mặc bộ quần áo ngoài vũ trụ cũng rất khó khăn với . Làm việc khi mặc bộ quần áo đó là cực hình. Để thông hơi cho toàn bộ cơ thể trong nền nhiệt khắc nghiệt từ trăm hai mươi đến trăm hai mươi độ và để duy trì áp suất khi chịu tác động của chân ngoài vũ trụ, bộ quần áo của họ được may bằng nhiều lớp vải cách ly Mylar bằng nhôm, bên phủ ni lông và lớp vải cân đối, lớp vải phồng lên để chịu áp lực. Dưới bộ quần áo đó, các phi hành gia phải mặc quần áo lót được nhét các ống làm nguội nước. Họ cũng phải đeo ba lô hỗ trợ chứa nước, ô-xi tên lửa đẩy tự túc và thiết bị liên lạc. Thực bộ quần áo bộ ngoài gian là bộ quần áo cá nhân phồng to và khó cử động khi mặc. Chỉ vặn chặt con ốc cũng tốn sức và đòi hỏi tập trung cao độ. Công việc đó khiến Nicolai kiệt sức. Hai tay lóng ngóng trong đôi găng tay vũ trụ, người mướt mồ hôi. cũng đói. uống ngụm từ ống được gắn vào trong áo và thở nhõm. Dù nước có vị lạ như có mùi cá nhưng chẳng bận tâm nghĩ về nó. Mọi thứ đều có vị khác lạ trong môi trường trọng lực siêu . uống ngụm nữa và thấy nước bắn lên cằm. thể cho tay vào mũ bảo vệ để lau nên để ý đến nó và nhìn trái đất. Khi đột nhiên thấy trái đất lộng lẫy bên dưới, thấy hơi chóng mặt, thậm chí là buồn nôn. nhắm mắt, chờ cho cảm giác đó qua. Đó là bệnh say khi chuyển động, hơn kém, nó thường xảy ra khi bạn bất chợt nhìn thấy trái đất. Khi bụng dạ ổn định trở lại, mới cảm thấy cảm giác mới: nước bị đổ ra giờ di chuyển lên má . nhăn mặt, cố lắc cho giọt nước chảy xuống nhưng nó cứ tiếp tục lăn da . Nhưng mình ở trong môi trường trọng lực siêu , ở đây khí có khái niệm lên hay xuống. Nước thể nào chảy được. bắt đầu lắc mạnh đầu, đập bàn tay đeo găng lên mũ bảo vệ. vẫn cảm thấy giọt nước di chuyển lên mặt , để lại vệt ẩm ướt cằm, rồi nó đến tai. Giờ nó đến viền mũ liên lạc qua bộ đàm của . Chắc chắn lớp vải ở đó lau khô chất lỏng đó, ngăn cho nó chảy nữa…. Cơ thể bỗng cứng lại. Chất lỏng xuống dưới viền mũ. Giờ nó lách vào trong tai . Đó phải là giọt nước hay dòng chảy mà là thứ gì đó di chuyển có mục đích. thứ gì đó còn sống. Bên trái, rồi bên phải, cố hất nó ra. đập rất mạnh vào mũ bảo hiểm. Nhưng vẫn thấy nó chuyển động và chui qua bộ đàm của . thấy hình ảnh chóng mặt của trái đất, rồi vũ trụ đen ngòm, rồi lại đến trái đất. Rồi trụ được nữa và điên cuồng lượn xung quanh. Chất lỏng luồn vào tai … - Nicolai? Nicolai, xin hãy trả lời! - Emma gọi khi thấy màn hình. xoay tròn, bàn tay đeo găng đập rất mạnh vào đầu. - Luther, có vẻ như ấy bị tai biến! Luther xuất màn hình và nhanh chóng đến giúp người đồng nghiệp mặc bộ quần áo trong vũ trụ. Nicolai vẫn đập mạnh, lắc đầu lên xuống. Emma nghe thấy tiếng họ sóng UHF. Luther cuống cuồng hỏi. - Có chuyện gì vậy? - Tai tôi. Nó ở trong tai tôi. - đau à? Tai đau à? Hãy nhìn tôi! Nicolai lại đập mạnh vào mũ bảo vệ. - Nó vào sâu hơn! - hét lên. - Lấy nó ra ngay! Lấy nó ra! - Có chuyện gì với ấy thế? - Emma hét lên. - Tôi biết. Lạy Chúa! ấy hoảng loạn. - ấy tiến đến sát hộp dụng cụ. Hãy đưa ấy tránh xa nó ra trước khi ấy làm hỏng bộ quần áo! màn hình, Luther túm lấy tay bạn mình. - Cố lên, Nicolai! Ta quay về khoang chặn khí. Đột nhiên Nicolai giật mạnh chiếc mũ như thể muốn tháo nó ra. - , đừng! - Luther hét lên, tuyệt vọng giữ chặt hai tay bạn mình để giữ chặt . Hai người đâm vào nhau, các dây buộc cuốn vào nhau và rối tung quanh họ. Griggs và Diana đến gần màn hình cùng Emma. Cả ba sợ hãi nhìn cảnh tượng diễn ra ngoài Trạm vũ trụ. - Luther, hộp dụng cụ! - Griggs hét. - Cẩn thận bộ quần áo của các ! Dù vậy nhưng Nicolai đột nhiên vặn mạnh tay Luther. Chiếc mũ của lao vào hộp dụng cụ. dòng nước trong suốt trông như sương mù trắng đột nhiên phụt ra khỏi kính che mặt của . - Luther! - Emma hét lên. - Hãy kiểm tra mũ bảo vệ của ấy! Kiểm tra mũ của ấy! Luther nhìn tấm che mặt của Nicolai. - Tệ ! Kính ấy bị vỡ. - hét lên. - Tôi thấy vết rò! ấy bị tụt áp suất. - Hãy đeo mặt nạ dưỡng khí khẩn cấp và đưa ấy ra khỏi đó ngay bây giờ! Luther với tay và bật nút cấp nguồn khí ô-xi bộ quần áo của Nicolai. Luồng khí bổ sung có thể làm bộ quần áo phồng đủ lâu để Nicolai có thể trở về trạm an toàn. Luther vẫn cố giúp bạn mình tỉnh táo và bắt đầu lôi về khoang chặn khí. - Nhanh lên! - Griggs lẩm bẩm. - Lạy Chúa, nhanh lên! Luther mất vài phút quý giá mới lôi được bạn mình vào khoang chặn khí, đóng cánh cửa và để khí tăng áp lực lại như cũ. Họ chờ để kiểm tra độ tương thích của khoang chặn khí như mọi khi, mà bơm áp suất trực tiếp đến mức 1. Cửa khoang chặn khí mở ra. Emma lao qua khóa chặn. Luther tháo mũ của Nicolai và cố lôi khỏi thân của bộ quần áo. Họ cùng nhau cố kéo Nicolai giãy giụa khỏi bộ quần áo bộ trong vũ trụ của . Emma và Griggs lôi dọc theo Trạm vũ trụ, đến khoang dịch vụ của Nga, ở đó có đầy đủ năng lượng và ánh sáng. Nicolai hét to dọc đường và nghiêng sang bên trái nút điện đàm của . Cả hai mắt phồng to, nhắm chặt, hai cầu mắt như sắp phụt ra ngoài. sờ lên má thấy nó nhớp nháp. - khí bị nén trong các mô dưới da do bị hạ áp suất. Có ít nước bọt lấp lánh hàm . - Nicolai, hãy bình tĩnh! - Emma . - ổn rồi, nghe thấy tôi ? ổn thôi! hét lên và giật tung nút điện đàm. Nó bay . - Giúp tôi đưa ấy lên sàn. - Emma . Tất cả mọi người đều cố gắng chuẩn bị bàn buộc bệnh nhân, tháo những dây nước tiểu dài của Nicolai và buộc lại. Giờ họ cố định hoàn toàn. Ngay cả khi Emma kiểm tra tim, phổi và dạ dày của , vẫn tiếp tục rên rỉ và lắc đầu hết bên này sang bên kia. - Tai của ấy. - Luther . tháo bộ quần áo bộ trong vũ trụ khổng lồ của ấy và trợn mắt nhìn Nicolai bị hành hạ. - ấy có gì trong tai ấy. Emma cúi sát hơn để nhìn mặt Nicolai. vệt nước chạy từ cằm lên đường cong ở hàm trái, đến tai . giọt nước đọng loa tai. bật ống soi tai chạy bằng pin và nhét ống tai nghe vào ống tai của Nicolai. Đầu tiên thấy máu. giọt máu đỏ tươi lấp lánh dưới ánh sáng ống soi tai. Rồi tập trung vào màng tai. Nó bị đục thủng. Thay vì màu lấp lánh của ráy tai, thấy lỗ hổng màu đen. Chấn thương khí áp là điều đầu tiên nghĩ đến. Phải chăng việc áp suất hạ đột ngột làm nổ màng nhĩ của ấy? kiểm tra lại màng nhĩ nhưng nó vẫn nguyên vẹn. bối rối, tắt ống tai và nhìn Luther. - có chuyện gì ngoài đó? - Tôi biết. Cả hai chúng tôi đều dùng máy thở. Chúng tôi nghỉ ngơi trước khi mang hộp dụng cụ về chỗ cũ. phút trước đó ấy vẫn ổn, sau đó ấy hoảng loạn. - Tôi cần xem mũ bảo vệ của ấy. rời khoang dịch vụ của Nga và quay về khoang khóa dụng cụ. giật mạnh cánh cửa, nhìn vào trong, nhìn hai bộ quần áo bộ trong vũ trụ mà Luther treo lên tường. - làm gì thế? Watson? - Griggs hỏi và theo . - Tôi muốn xem vết nứt có lớn và ấy bị mất áp suất nhanh mức nào. tiến về phía bộ quần áo hơn, ghi chữ “Rudenko”, rồi tháo mũ bảo vệ. nhìn vào trong và thấy giọt nước gần tấm kính che mặt. lấy khăn lau bằng vải cốt-tông trong túi và sờ vào mép chết lỏng đó. Nó dày, lấp lánh và có màu xanh lơ pha xanh lá cây. thấy lạnh dọc sống lưng. Kenichi ở đây, đột nhiên nhớ lại. Vào đêm ấy chết, chúng ta tìm thấy ấy ở khoang chặn khí. Bằng cách nào đó, ấy khiến nó bị nhiễm bẩn. Ngay lập tức lùi lại hoảng sợ và va vào Griggs đứng ở cửa. - Ra ngoài! - hét lên. - Ra ngoài ngay! - Có chuyện gì vậy? - Tôi nghĩ chúng ta bị đe dọa sinh học. Đóng cửa lại! Đóng lại! Cả hai đều cuống cuồng ra khỏi khoang chặn khí, vào nút số 2. Họ cùng nhau đóng cánh cửa và khóa chặt nó lại. Họ nhìn nhau căng thẳng. - nghĩ nó có thoát ra ? - Griggs hỏi. Emma nhìn quanh nút số 2 để tìm những giọt nước lấp lánh trong khoang. Đầu tiên thấy gì. Rồi vật gì đó thoáng chuyển động, vật lấp lánh như trong cổ tích dường như nhảy nhót đằng xa. quay lại nhìn nó. Nhưng nó biến mất. Jack ngồi ở khoang dành cho bác sĩ trong phòng Điều hành phương tiện đặc biệt, trở nên ngày càng căng thẳng khi mỗi phút trôi qua và khi nhìn đồng hồ màn hình phía trước. Những giọng điện đàm của giờ có vẻ thúc giục kỳ lạ, những cuộc chuyện rất nhanh và ngắt quãng khi các bản báo cáo tình hình được đưa đưa lại giữa các điều khiển viên và giám đốc điều hành bay Woody Ellis. Được bài trí tương tự Phòng điều hành bay tàu con thoi và được đặt trong cùng tòa nhà, nhưng phòng Điều hành đặc biệt hơn, có các chức năng chuyên biệt hơn và được điều khiển bởi những người tận tụy hơn với mọi hoạt động của Trạm vũ trụ quốc tế. Trong vòng ba mươi sáu tiếng qua, căn phòng ngày càng căng thẳng và liên tục có hoảng loạn. Có quá nhiều người trong phòng và quá nhiều giờ căng thẳng, ngay cả khí cũng có hơi hướng của khủng hoảng, nó còn pha lẫn mùi khó chịu của mồ hôi và cà phê để lâu. Nicolai Rudenko bị thương do bị tụt áp suất khí đột ngột và ràng cần di dời về trái đất khẩn cấp. Do chỉ có thuyền cứu hộ. - đó là phương tiện trở về của đội. - nên toàn phi hành đoàn về trái đất. Đây là chuyến di dời được kiểm soát. được có bước tắt, được phép xảy ra sai sót, được hoảng loạn. NASA thực việc này nhiều lần trước đây nhưng chuyến di dời bằng Phương tiện trở về của đội thực chưa bao giờ được thực trước đây, phải với năm người còn sống, còn thở trạm. Điều này dành cho người tôi đó. Jack đổ mồ hôi và gần như phát ốm vì sợ. cứ nhìn đồng hồ và kiểm tra lại nó bằng đồng hồ đeo tay của . Họ chờ đường của Trạm vũ trụ quốc tế đến điểm thích hợp trước khi thực tách Trạm vũ trụ và tàu. Mục đích của họ là đưa Phương tiện di dời khẩn cấp của đội xuống theo cách trực tiếp nhất có thể xuống khu vực hạ cánh để họ có thể gặp các nhân y tế. Sau nhiều tuần sống trong vũ trụ, họ yếu như mèo, các bó cơ thể nâng đỡ họ nữa. Thời điểm tách tàu sắp đến. Họ mất hai mươi lăm phút để tách khỏi Trạm vũ trụ quốc tế và họ cần được hướng dẫn bằng hệ thống định vị toàn cầu, cộng thêm mười lăm phút để đốt nhiên liệu tách khỏi quỹ đạo. Họ cần giờ để hạ cánh. Trong chưa đầy hai tiếng, Emma trở về trái đất. Dù cách này hay cách khác. Ý nghĩ đó đến với Jack trước khi kịp ngăn nó lại, trước khi cố ngăn mình nhớ lại cảnh tượng khủng khiếp khi cơ thể Jill Hewitt bị phanh ra bàn khám nghiệm tử thi. nắm chặt tay thành cú đấm, buộc mình tập trung vào các báo cáo y sinh của Nicolai Rudenko. Nhịp tim hơi nhanh nhưng ổn định, huyết áp vẫn ổn định. Cố lên! Cố lên! Hãy đưa họ về nhà ngay lúc này! nghe thấy Griggs trạm báo cáo. - Chỉ huy, phi hành đoàn của tôi ở Phương tiện di dời, cánh cửa đóng lại. Ở đây khá ấm áp, nhưng chúng tôi sẵn sàng bất cứ khi nào các bạn xong. - Chuẩn bị khởi động. - Chỉ huy . Tim Jack như nhảy lên khi nghe thấy giọng của Emma trong điện đàm. - Các cơ quan quan trọng của ấy vẫn bình thường nhưng ấy bị rối loạn ba lần. Chất lỏng đó di chuyển lên cổ và thân , khiến ấy khó chịu. Tôi tiêm cho ấy liều mooc-phin nữa. tụt áp đột ngột khiến các bọt khí hình thành trong các mô mềm của ấy. Tình hình có gì nguy hiểm, nhưng ấy rất đau đớn. Điều Jack lo lắng là bọt khí hình thành trong hệ thống thần kinh của ấy. Đó có phải là lý do khiến Nicolai hoảng hốt ? Woody Ellis . - Chuẩn bị khởi động! Tháo các thanh hạn chế Hệ thống điều khiển môi trường và hỗ trợ sống! - Trạm vũ trụ quốc tế. - chỉ huy . - Các bạn chuẩn bị… - Dừng ngay việc đó! - giọng xen vào. Jack sửng sốt nhìn giám đốc điều hành bay Woody Ellis. Ellis trông cũng sửng sốt kém. Ông quay về phía giám đốc Ken Blankenship, người vừa bước vào phòng và cùng là người đàn ông tóc đen cùng sáu nhân viên của Lực lượng quân. - Tôi xin lỗi, Woody. - Blankenship . - Hãy tin tôi, đây phải là quyết định của tôi. - Quyết định gì? - Ellis hỏi. - Việc di dời khẩn cấp bị hủy bỏ. - Chúng ta có người bị ốm đó! Phương tiện di dời khẩn cấp sẵn sàng. - ấy thể về được. - Đó là quyết định của ai? Người đàn ông tóc sẫm màu bước về phía trước. Ông ta mà gần như biểu chút thương tiếc nào. - Đó là quyết định của tôi. Tôi là Jared Profitt, thuộc Ủy ban An ninh Nhà Trắng. Hãy ra lệnh cho phi hành đoàn của các vị mở cửa lại và rời Phương tiện di dời khẩn cấp. - Phi hành đoàn của chúng tôi gặp rắc rối. - Ellis . - Tôi đưa họ về. Nhân viên điều khiển đường của tàu xen vào. - Giám đốc, chúng ta phải chuyển sang bước chuẩn bị ngay bây giờ nếu muốn họ hạ cánh đúng mục tiêu. Ellis gật đầu với Chỉ huy trưởng. - Hãy đưa Phương tiện trở về khẩn cấp đến điểm khởi động. Chúng ta chuẩn bị phóng. Chỉ huy trưởng chưa kịp lời nào tai nghe của bị giật ra, bị lôi ra khỏi ghế và đẩy ra ngoài lối . nhân viên của Lực lượng quân thế chỗ của Chỉ huy trưởng ở bảng điều khiển. - Này! - Ellis hét lên. - Này! Toàn bộ nhân viên điều hành bay cứng đơ khi các nhân viên của Lực lượng quân nhanh chóng bao vây toàn bộ căn phòng. Họ rút vũ khí nhưng thái độ đe dọa rất . - Trạm vũ trụ quốc tế, được khởi động! - chỉ huy liên lạc mới . - Việc di dời khẩn cấp bị hủy bỏ. Hãy mở lại cánh cửa và ra khỏi Phương tiện di dời khẩn cấp! Griggs bối rối trả lời. - Tôi nghĩ tôi nghe , trung tâm Houston! - Việc di dời này bị hủy. Hãy ra khỏi Phương tiện di dời khẩn cấp! Chúng ta gặp khó khăn với các máy tính điều khiển đường của tàu và máy tính hướng dẫn, điều khiển và lái tàu. Giám đốc điều hành bay quyết định tốt nhất là dừng việc trở về khẩn cấp. - Trong bao lâu? - giới hạn. Jack đứng bật dậy, sẵn sàng ném tai nghe của viên Chỉ huy điện đàm mới xuống đất. Jared Profitt đột ngột xuất trước mặt chặn đường. - hiểu tình hình đâu, bạn. - Vợ tôi ở trạm. Chúng tôi đưa ấy về. - Họ thể trở về. Tất cả bọn họ có thể bị nhiễm bệnh. - Bệnh gì? Profitt trả lời. Jack giận dữ lao vào ông ta nhưng bị hai nhân viên Lực lượng quân giữ lại. - Nhiễm cái gì? - Jack hét lên. - loại sinh vật mới. - Profitt . - Chimera. Jack nhìn khuôn mặt nghiêm khắc của Blankenship. nhìn các nhân viên thuộc Lực lượng quân sẵn sàng giành quyền sử dụng bảng điều khiển. Rồi nhận thấy khuôn mặt quen thuộc của Leroy Cornell vừa bước vào phòng. Cornell trông tái xanh và run rẩy. Đó là lúc Jack hiểu quyết định này được đưa từ cấp xuống. Cả Blankenship và Woody Ellis cũng thể làm gì khác. NASA còn giành quyền kiểm soát nữa. Chương 19 Phần 1 CHIMERA MƯỜI CHÍN Ngày 13 tháng 8 Họ tập trung ở nhà Jack khi đó trời sáng. Họ dám họp ở Trung tâm vũ trụ Johnson, ở đó chắc chắn họ bị chú ý nhiều nhất. Tất cả bọn họ đều sửng sốt khi quyền điều hành của NASA bị chiếm đoạt và họ biết phải làm gì tiếp theo. Đây là vụ bê bối mà họ dự tính đến, có kế hoạch dự phòng. Jack chỉ mời số người đến, tất cả bọn họ đều là nhân viên cốt cán của NASA: Todd Cutler, Gordon Obie, giám đốc điều hành bay Woody Ellis, Randy Carpenter và Liz Gianni từ Ban giám đốc các chuyến hàng. Chuông cửa reo, tất cả đều căng thẳng. - ấy đến. - Jack và ra mở cửa. Bác sĩ Eli Petrovitch đến từ Ban giám đốc về Khoa học sống của NASA bước vào, mang theo hộp đựng máy tính xách tay. là người gầy gò và yếu ớt, trong vòng hai năm qua chống chọi với bệnh máu trắng. ràng thua cuộc chiến đó. Tóc rụng gần hết và chỉ còn lại vài sợi lơ thơ. Da trông như giấy da ngả vàng, phủ lên những đốt xương lồi ra mặt. Nhưng trong ánh mắt ánh lên vẻ thích thú và nó sáng lên do tò mò về khoa học. - Chúng ta lấy được nó ? - Jack hỏi. Petrovitch gật đầu và vỗ vào va li. khuôn mặt xương xẩu đó, nụ cười lên trông như ma hình. - Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đồng ý chia sẻ chút dữ liệu. - chút à? - phải tất cả. Phần lớn gen được xác định. Chúng ta chỉ được đưa đoạn gen với các chỗ hổng lớn. Họ cho chúng ta đủ bằng chứng để chứng minh tình hình rất nguy cấp. - đem máy tính đến bàn trong phòng ăn và mở nó ra. Khi mọi người tụ tập đông đủ xung quanh để xem, Petrovitch khởi động máy tính, rồi cho đĩa mềm vào. Các dữ liệu bắt đầu cuộn xuống, từng dòng như các chữ cái ngẫu nhiên chạy xuống màn hình. Đó phải là văn bản, các chữ cái này ra từ, mà là các mật mã. Bốn chữ cái giống nhau cứ xuất lặp lại nhiều lần theo chuỗi thay đổi: A, T, G và C. Chúng tượng trưng cho các nucleotit adenine, timin, guanine và sitonin. Đó là các viên gạch tạo nên ADN. Chuỗi các chữ cái này là bộ gen, là cấu trúc hóa học của mỗi cơ thể sống. - Đây là Chimera của họ. - Petrovitch . - Đó là sinh vật giết chết Kenichi Hirai. - “ky-mir-ra” mà tôi nghe từ nãy đến giờ là cái gì vậy? - Randy Carpenter hỏi. - Vì những kỹ sư ngu dốt như chúng tôi, có thể giải thích nó ? - Được thôi. - Petrovitch . - Các bạn cần phải cảm thấy mình ngu dốt. Đó là thuật ngữ được dùng nhiều bên ngoài giới sinh học phân tử. Từ đó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Chimera là quái vật trong thần thoại, được đồn là bất bại. Đó là sinh vật hít lửa, đầu sư tử, mình dê và đuôi rắn. Cuối cùng nó bị người hùng tên là Bellerophon giết chết. Cuộc chiến đó hẳn công bằng vì ấy ăn gian. ấy cưỡi Pegasus, con ngựa có cánh và bắn tên vào Chimera từ bên . - Câu chuyện thần thoại đó khá thú vị. - Carpenter nôn nóng ngắt lời. - Nhưng điều đó có liên quan gì? - Quái vật Chimera của Hy Lạp là sinh vật kỳ lạ được tạo thành từ ba loài vật khác nhau. Sư tử, dê và rắn, tất cả kết hợp thành con. Và đó chính là điều chúng ta sắp thấy ở đây, trong nhiễm sắc thể này. Đây là con quái vật Chimera sinh học mà ADN của nó được lấy từ ít nhất ba loài vật khác hề liên quan tới nhau. - có thể xác định các sinh vật đó ? - Carpenter sốt ruột hỏi. Petrovitch gật đầu. - Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học khắp thế giới tích lũy được thư viện các chuỗi gen của nhiều động vật khác nhau, từ vi rút đến con voi. Nhưng việc thu thập các dữ liệu này là công việc chậm chạp và vất vả. Phải mất hàng chục năm để phân tích bộ gen của con người. Vậy các bạn có thể tưởng tượng có số loài vẫn chưa được đưa vào chuỗi đó. Phần lớn bộ gen của Chimera này vẫn chưa được xác định, chúng có trong thư viện đó. Nhưng đây là những gì đến nay chúng ta biết. gõ lên biểu tượng “khớp với các loài”. Màn hình lên dòng chữ: Mus musculis ( loại chuột phổ biến) Rana pipiens (loài ếch đốm phía bắc) Homo sapiens - Cơ thể sống này phần là chuột, phần là loài lưỡng cư. Và phần là con người. - dừng lại. - tóm lại. - tiếp. - đây là kẻ thù của chính chúng ta. Cả căn phòng đột nhiên im lặng. - Mẫu gen của chúng ta là cái nào trong chuỗi nhiễm sắc thể đó? - Jack khẽ hỏi. - Phần nào của Chimera là của con người? - Đó là câu hỏi rất hay. - Petrovitch và gật đầu tán thành. - Nó xứng đáng với câu trả lời thú vị. và bác sĩ Cutler nhận ra ý nghĩa của chuỗi gen này. - gõ lên bàn phím. Màn hình lên dòng chữ: Amylase Lipase Phospholipase A Trypsin Chymotrysin Elastase Enterokinase - Lạy Chúa! - Todd Cutler lẩm bẩm. - Đây là các enzim tiêu hóa. Các cơ thể này ưu tiên trước hết cho việc tiêu diệt động vật chủ, Jack nghĩ. Nó sử dụng các enzim này để tiêu hóa chúng ta từ bên trong, làm tiêu hao các cơ bắp, nội tạng và các mô liên kết, khiến chúng khác gì món súp. - Jill Hewitt. - ấy với chúng tôi là cơ thể của Hirai bị phân hủy. - Randy Carpenter . - Tôi nghĩ lúc đó ấy bị ảo giác. Jack đột ngột . - Đây chắc chắn là sinh vật được thiết kế về mặt sinh học! Ai đó tạo ra nó trong phòng thí nghiệm, lấy vi khuẩn hay vi rút, rồi cấy nó vào gen của các động vật khác để tạo nên cỗ máy giết người hiệu quả hơn. - Nhưng vi khuẩn nào? Loại virut nào? - Petrovitch . - Đó là bí mật. Nếu có thêm đoạn gen để kiểm tra, chúng ta thể xác định chúng bắt nguồn từ loài nào. Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm chịu đưa cho chúng ta các phần quan trọng của nhiễm sắc thể này, phần xác định được sinh vật giết người này. - nhìn Jack. - là người duy nhất nhìn thấy việc nghiên cứu căn bệnh này trong lúc khám nghiệm tử thi. - Tôi chỉ được nhìn thoáng qua. Họ lôi tôi ra khỏi phòng nhanh đến mức tôi nhìn thấy gì. Thứ tôi thấy là loại chất nhầy. Nó to bằng các viên ngọc trai, được bọc lớp màu xanh lơ, pha xanh lá cây. Chúng ở trong ngực và bụng của Mercer, trong đầu của Jill Hewitt. Tôi chưa từng thấy thứ nào như vậy. - Đó có thể là bọc sán ? - Petrovitch hỏi. - Đó là cái gì vậy? - Woody cũng nóng lòng muốn biết. - Đó là căn bệnh gây ra ở giai đoạn ấu trùng của loại giun ký sinh tên là echinococcus. Nó gây ra các bọc nước trong gan và phổi, hay bất cứ cơ quan nội tạng nào. - nghĩ đó có thể là sinh vật ký sinh à? Jack lắc đầu. - Các bọc sán cần thời gian rất lâu để phát triển, mất hàng năm, chứ phải mấy ngày. Tôi nghĩ đó phải là sinh vật ký sinh. - Có thể đó phải là bọc trứng. - Todd nhận định. - Có thể chúng là các bào tử, các cục nấm Aspergillus hayCruptococcus. Liz Gianni đến từ ban quản lý các chuyến hàng cắt ngang. - Cả phi hành đoàn báo cáo có vấn đề về nấm bị nhiễm bẩn. trong các mẻ thí nghiệm bị hủy vì chúng phát triển quá nhanh. - Mẻ thí nghiệm nào? - Todd hỏi. - Tôi phải tìm nó. Tôi nhớ đó là trong các mẻ tế bào. - Nhưng việc nhiễm khuẩn nấm đơn giản gây ra những cái chết đó. - Petrovitch phân tích. - Hãy nhớ lại các tế bào nấm lơ lửng trong con tàu Mir và ai chết vì nó. - nhìn màn hình máy tính. - Bộ gen này cho chúng ta thấy ta đối mặt với dạng sống hoàn toàn mới. Tôi đồng ý với Jack. Chắc chắn nó được nhân tạo. - Vậy đây là vụ khủng bố sinh học. - Woody Ellis . - Ai đó ngầm phá hoại trạm của chúng ta. Chắc chắn họ gửi nó lên các chuyến hàng. Liz Gianni giận dữ lắc đầu. Là người mạnh mẽ và luôn căng thẳng, bà luôn diện rệt trong các cuộc họp và giờ bà lên tiếng với thái độ chắc chắn. - Mỗi chuyến hàng được kiểm tra an ninh. Chúng tôi có các báo cáo nguy hiểm và phân tích ba giai đoạn toàn bộ các thiết bị chứa. Hãy tin tôi! Chúng tôi bỏ qua bất cứ thứ gì nguy hiểm như thế này. - Giả sử bà biết nó nguy hiểm sao! - Ellis . - Tất nhiên chúng tôi biết! - Nếu an ninh bị rò rỉ sao? - Jack nhận định. - Nhiều chuyến thí nghiệm đến trực tiếp từ các nhà điều tra - bản thân họ cũng là các nhà khoa học. Chúng ta biết an toàn của họ đạt tiêu chuẩn mức nào. Chúng ta biết liệu họ có khủng bố trong phòng thí nghiệm của họ . Nếu họ thay đổi mẫu thí nghiệm vào phút cuối chúng ta có biết được hay ? Lần đầu tiên Liz trông có vẻ lưỡng lự. - Điều đó… điều đó thể nào. - Nhưng nó có thể xảy ra. Mặc dù thừa nhận khả năng đó nhưng trong mắt bà lộ vẻ băn khoăn. - Chúng tôi điều tra từng nhà khoa học. - Bà . - Từng người gửi thí nghiệm nên Trạm vũ trụ. Nếu họ có sơ suất trong việc đảm bảo an ninh, tôi chắc chắn bỏ qua chuyện này Bà ấy rất có thể làm như vậy, Jack nghĩ. Như những người đàn ông khác trong phòng, sợ Liz Gianni. - Còn câu hỏi nữa chúng ta chưa đề cập đến. - Gordon Obie lên tiếng lần đầu tiên. Như mọi khi, ông là con Nhân sư, chỉ im lặng lắng nghe, lặng lẽ phân tích thông tin. - Câu hỏi là tại sao? Tại sao ai đó lại muốn ngầm phá hoại Trạm vũ trụ quốc tế? Đó có phải là kẻ có mối thâm thù với chúng ta hay ? Hay kẻ điên rồ căm ghét các công nghệ đại? - Đó là thuật ngữ sinh học tương đương với từ “đánh bom công nghệ”. - Todd Cutler . - Vậy tại sao cho sinh vật đó vào Trung tâm vũ trụ Johnson và phá hủy hoàn toàn các cơ sở vật chất của chúng ta? Điều đó dễ dàng hơn và có lý hơn. - Ông thể áp dụng điều đó với kẻ điên. - Cutler phân tích. - có thể áp dụng điều đó với mọi loài người, kể cả những kẻ điên. - Gordon trả lời. - Miễn là biết cơ chế hoạt động của chúng. Đó chính là điều khiến tôi băn khoăn. Đó chính là lý do tôi tự hỏi chúng ta có đối đầu với phá hoại ngầm . - Vậy nó có thể là gì khác. - Jack hỏi. - nếu phải là phá hoại ngầm? - Có khả năng khác. Nó có thể là điều đáng sợ kém. - Gordon và nhìn về phía Jack. - sai sót. Bác sĩ Isaac Roman chạy dọc hành lang. Máy nhắn tin cảnh báo của ở thắt lưng kêu chói tai và cảnh báo trước điều sắp đối diện. tắt nó , mở cửa dẫn vào phòng cách ly cấp độ bốn. vào phòng bệnh nhân và đứng an toàn ở bên ngoài, nhìn vào cảnh tượng hãi hùng mở ra sau cánh cửa phòng bệnh. Máu bắn tung lên tường và đọng thành vũng sàn, chỗ bác sĩ Nathan Helsinger nằm. Hai y tá và bác sĩ mặc bộ quần áo vũ trụ cố ngăn tự làm thương mình. Nhưng cơn co giật của mạnh đến nỗi họ thể giữ chặt được. Chân đá văng ra ngoài, y tá bò và trượt sàn bê tông dính đầy máu. Roman ấn nút bộ đàm. - Áo của ! Có bị rách ? y tá từ từ đứng lên và thấy ta hoảng sợ cực độ. nhìn găng tay, tay áo rồi lỗ luồn ống bơm khí vào trong bộ quần áo. - . - như sắp khóc vì nhõm. - có vết rách nào. Máu bắn lên cửa sổ. Roman nhảy bật về phía sau khi giọt máu tươi chảy mặt kính. Giờ Helsinger đập đầu xuống sàn, đốt sống của thả lỏng, rồi cứng đơ. Mặt sưng lên. Roman mới thấy tư thế kỳ lạ này lần trước đây, khi nạn nhân bị trúng độc stricnin, cơ thể ta gập cong về phía sau như bị đấm rất mạnh. Helsinger lại lên cơn co giật, đầu đập mạnh vào bê tông phía sau. Máu phụt lên kính che mặt của hai y tá. - Lui ra! - Roman ra lệnh qua bộ đàm. - ấy hành hạ mình! - bác sĩ hét lên. - Tôi muốn có thêm người bị bệnh. - Nếu chúng ta có thể kiểm soát cơn co giật đó… - Các bạn thể làm gì cứu ấy. Tôi muốn các bạn ra ngoài ngay lập tức, trước khi các bạn bị thương. Hai y tá lưỡng lự lùi lại. Sau khi do dự chút, vị bác sĩ cũng vậy. Họ đứng im lặng khi cảnh tượng hãi hùng đó tiếp tục ngay dưới chân họ. Cơn co giật mới khiến đầu Helsinger giật mạnh về phía sau. Da đầu rách toạc như mảnh vải. Vũng máu giờ loang rộng ra như vũng nước. - Ôi, lạy Chúa, nhìn mắt ấy kìa! - trong các y tá hét lên. Hai con ngươi lồi ra ngoài như hai hòn bi khổng lồ sắp nhảy ra khỏi hốc. Chứng nổ cầu mắt, Roman nghĩ. Cầu mắt đẩy mạnh ra ngoài do áp lực bên trong, mí mắt bị phanh rộng và trợn trừng mắt. Các cơn co giật vẫn tiếp tục, chúng rất khủng khiếp và đầu đập xuống sàn. Các mảnh xương văng lên và bám vào cửa sổ. Như thể cố đập tung hộp sọ của mình, thả hết những gì bị nhốt bên trong. Lại vết nứt khác. Lại có máu và xương bay vọt ra. Đáng lẽ phải chết rồi. Tại sao vẫn sống? Nhưng ngay cả con gà bị chặt đầu vẫn tiếp tục co giật, giãy giụa và đau đớn quằn quại trước khi chết của Helsinger vẫn chưa hết. Đầu ngóc lên khỏi sàn nhà, xương sống uốn cong về phía trước như chiếc lò xo uốn lại trước lực tác động quá mạnh trước khi bị bật mạnh lên. Cổ gãy gập về phía sau. Có tiếng rắc rồi hộp sọ vỡ đôi như quả trứng. Các mảnh xương vụn bay ra. khối chất màu xám bắn lên cửa sổ. Roman há hốc miệng và lui về phía sau, cơn buồn nôn dâng lên cổ họng . gục đầu xuống, cố kìm nén, vật lộn với bóng tối chực ập lên mắt . vã mồ hôi, run lẩy bẩy và cố nâng đầu lên để nhìn lại về phía cửa sổ. Nathan Helsinger cuối cùng nằm im. Những gì còn lại đầu giờ ngập trong vũng máu. Có quá nhiều máu lúc đó nên Roman tập thể tập trung vào thứ gì khác ngoài vũng máu đỏ tươi. Rồi ánh mắt dừng lại mặt người chết, khối màu xanh lơ pha xanh lá cây bám vào, cựa quậy bò lên trán . Đó là các bọc nước. Chimera. Ngày 14 tháng 8 - Nicolai! Nicolai, xin hãy trả lời! - Tai tôi, nó ở trong tai tôi. - đau à? Tai đau à? Nhìn tôi ! - Nó vào sâu hơn đấy! Lấy nó ra! Lấy…. Cố vấn khoa học thuộc Ủy ban An ninh Nhà Trắng Jared Profitt ấn nút tắt máy thu và nhìn những người đàn ông và phụ nữ ngồi quanh bàn. Tất cả bọn họ đều hoảng sợ. - Chuyện xảy ra với Nicolai Rudenko chỉ là tai nạn do hạ áp suất. - ông . - Điều đó giải thích các hành động của chúng tôi. Đó là lý do tôi đề nghị các vị dừng lại. Có quá nhiều nguy hiểm. Cho đến khi chúng ta hiểu được về sinh vật này. - nó sinh sản thế nào, nó có ảnh hưởng thế nào. - chúng ta thể để các phi hành gia trở về trái đất. Câu trả lời đó khiến tất cả đều im lặng. Ngay cả người quản lý của NASA Leroy Cornell, người chủ trì cuộc họp và giận dữ phản đối việc tiếp quản công ty của mình cũng ngồi im. Chủ tịch là người đặt câu hỏi đầu tiên. - Chúng ta biết gì về sinh vật này? - Bác sĩ Isaac Roman từ Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm có thể trả lời ràng hơn tôi. - Profitt và hất đầu về phía Roman, người lúc này ngồi ở bàn, mà ở bên ngoài. Ở đó hầu như được ai chú ý đến. Giờ đứng lên để mọi người nhìn mình. Đó là người đàn ông cao lớn, nước da bánh mật và ánh mắt có vẻ mệt mỏi. - Tôi e là tin tức được tốt lắm. - . - Chúng tôi tiêm Chimera vào vài loài động vật có vú khác nhau bao gồm chó và khỉ nhện. Trong vòng chín mươi sáu giờ, tất cả đều chết. Tỷ lệ tử vong là trăm phần trăm. - có biện pháp điều trị sao? có cách nào có tác dụng sao? - Thư ký ủy ban an ninh hỏi. - có cách nào. Điều đó đủ đáng sợ. Nhưng còn có tin đáng sợ hơn. Cả căn phòng im phăng phắc và nỗi sợ mặt họ. Điều này có thể tồi tệ hơn thế nào? - Chúng tôi phân tích lại chuỗi ADN của loạt trứng mới nhất được lấy từ con khỉ chết. Chimera vẫn còn tiếp tục nhận thêm gen, đặc biệt là Ateles geoffroy, loài khỉ nhện.
Chương 19 Phần 2 Ngài tổng thống tái mặt. Ông nhìn Profitt. - Điều này có đúng là điều tôi nghĩ ? - Nó có sức tàn phá rất lớn. - Profitt . - Mỗi khi dạng sống này chuyển sang cơ thể khác, mỗi khi nó tạo ra thế hệ mới, dường như nó nhận thêm ADN. Nó có khả năng trước chúng ta mấy bước trong việc nhận thêm ADN và các khả năng mà trước đó nó có. - Tại sao nó có thể làm việc quái quỷ đó? - Tổng thư ký Moral của Hội đồng liên hiệp các thư ký . - sinh vật nhận thêm gen và ngừng làm mới mình ư? Điều đó nghe vô lý! Roman . - Điều đó hề vô lý, thưa ngài! Thực tế, có quá trình tương tự cũng xảy ra trong tự nhiên. Các vi khuẩn thường dùng gen chung với nhau và trao đổi gen bằng cách sử dụng vi rút như những người đưa thư. Đó là cách chúng phát triển khả năng kháng vi khuẩn và bổ sung thêm ADN cho các nhiễm sắc thể. Như mọi vật khác trong tự nhiên, chúng sử dụng mọi vũ khí để tồn tại, để duy trì nòi giống. Đó chính là điều sinh vật này thực . - lại gần đầu bàn, ở đó có bức ảnh phóng to của electron soi bằng kính hiển vi được chiếu lên. - Các vị có thể thấy ở đây, trong bức ảnh chụp tế bào này, trông nó như các hạt . Chúng là các khối vi rút trợ giúp. Đó là những tế bào vận chuyển vào cơ thể động vật chủ và lấy ADN của nó và mang các mảnh, các mẩu gen về cho Chimera. Khi nhận thêm gen mới, các vũ khí mới được chất thêm vào kho đạn dược của nó. - Roman nhìn ngài tổng thống. - Cơ thể này được trang bị các thiết bị mới để tồn tại trong bất cứ điều kiện môi trường nào. Tất cả những gì nó cần là lấy mất ADN của động vật chủ. Ngài Tổng thống có vẻ khỏe. - Vậy nó vẫn thay đổi, tiến hóa. Có những tiếng xì xào ở khắp bàn, những ánh mắt sợ hãi và ghế kêu cót két. - Còn bác sĩ bị nhiễm bệnh sao? - phụ nữ đến từ Lầu Năm Góc hỏi. - Nhân viên của Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm bị cách ly cấp độ 4 đó? ta còn sống chứ? Roman ngừng lại và mắt lộ vẻ đau đớn. - Bác sĩ Helsinger chết đêm qua. Tôi tận mắt thấy những phút cuối cùng và đó là… cái chết đáng sợ. ấy bắt đầu tự hành hạ mình mạnh đến nỗi chúng tôi dám ngăn ấy lại vì sợ áo bảo vệ của ai đó bị rách và bị nhiễm bệnh. Đó là những cơn co giật tôi chưa từng thấy. Như thể mỗi tế bào não của ấy bị đốt cháy cùng lúc trong luồng điện cực mạnh. ấy giật tung thanh chắn giường, giật tung nó khỏi khung giường, cuộn tròn đống nệm lại và bắt đầu đập đầu xuống sàn nhà. ấy đập quá mạnh, chúng tôi…. - Roman nuốt nước bọt. - Chúng tôi còn nghe thấy tiếng hộp sọ ấy vỡ. Khi đó máu bắn tung tóe khắp nơi. ấy liên tục đập đầu xuống sàn, như thể cố đập cho nó nổ tung, cố giải phóng hết áp suất bên trong. Vết thương đó chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn vì ấy bắt đầu bị chảy máu trong não. Cuối cùng, khí áp bên trong quá lớn, nó làm mắt ấy lồi khỏi tròng mắt, như bệnh nhân trong phim hoạt hình, như con vật các vị thấy bị nghiến đường. - hít hơi dài và khẽ. - Đó là việc cuối cùng. - Giờ các vị hiểu dịch bệnh có thể chúng ta đối mặt. - Profitt . - Đây là lý do tại sao chúng ta thể mềm lòng, bất cẩn hay động lòng. Cả phòng im lặng rất lâu: Ai cũng nhìn Tổng thống. Họ chờ, hy vọng quyết định dứt khoát. Nhưng ngài Tổng thống quay ghế về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài. - Tôi từng muốn là nhà du hành vũ trụ. - ông buồn bã . phải tất cả chúng ta đều muốn sao? Profitt nghĩ. Bất kỳ đứa trẻ ở đất nước nào mà mơ được lái tên lửa bay vào vũ trụ? - Tôi có mặt ở đó khi họ đưa John Glenn lên tàu con thoi. - Tổng thống . - Và tôi khóc. Như mọi người khác, nực cười, nhưng tôi khóc như đứa trẻ. Vì tôi tự hào về ấy, về đất nước này, và vì tôi là phần của loài người. - ông dừng lại, hít sâu, rồi lấy tay lau nước mắt. - Làm sao tôi có thể để những người đó chết được? Profitt và Roman nhìn nhau buồn bã. - Chúng ta còn lựa chọn nào khác, thưa ngài. - Profitt . - Đó là năm mạng sống mà Chúa để họ đối chọi với biết bao nhiêu người trái đất. - Họ là những hùng. Với Chúa họ là những hùng thực . Và chúng ta để họ chết đó. - Có nhiều khả năng như vậy, thưa Tổng thống, dù sao chúng ta cũng thể cứu họ. - Roman . - Tất cả bọn họ có lẽ bị nhiễm bệnh, hoặc họ sớm bị nhiễm bệnh. - Vậy vài người trong số họ có thể bị nhiễm bệnh sao? - Chúng ta biết. Chúng ta biết Rudenko chắc chắn bị. Chúng tôi tin ấy tiếp xúc bệnh khi mặc bộ đồ bộ ngoài vũ trụ. Nếu ngài còn nhớ phi hành gia Hirai được tìm thấy khi lên cơn co giật trong khoang đựng thiết bị cách đây mười ngày. Điều đó giải thích tại sao bộ quần áo đó bị ô nhiễm. - Tại sao những người khác bị bệnh? Tại sao chỉ có Rudenko? - Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sinh vật này cần có thời gian ủ bệnh trước khi nó đạt đến giai đoạn phát tác. Chúng tôi nghĩ đó là giai đoạn dễ lây nhất cho đến khi con chủ chết, hoặc sau đó, nó được giải phóng ra khỏi cái xác. Nhưng chúng ta vẫn chưa chắc chắn. Chúng ta thể phạm sai lầm. Chúng ta phải cho rằng tất cả bọn họ đều mang mầm bệnh. - Vậy hãy cách ly họ cấp độ bốn cho tới khi các vị biết. Nhưng ít ra hãy đưa họ trở về trái đất. - Thưa ngài, đó chính là nguồn gốc của mọi hiểm họa. - Profitt . - Nếu chúng ta chỉ cần đưa họ trở về. Phương tiện di dời khẩn cấp giống tàu con thoi mà chúng ta thường điều khiển nó hạ cánh xuống địa điểm nhất định. Họ trở về trong phương tiện mất kiểm soát hơn nhiều lần. - đó chỉ là cái kén được gắn thêm mấy cái dù. Nếu có chuyện rắc rối sao? Nếu phương tiện di dời khẩn cấp nổ tung hay đâm vào đâu đó khi hạ cánh sao? Sinh vật này bị phát tán vào khí. Gió mang nó khắp nơi! Khi đó, nó lấy được quá nhiều gen của con người trong nhiễm sắc thể của nó và chúng ta thể nào tiêu diệt nổi nó nữa. Nó quá giống chúng ta. Ta dùng thuốc nào để chống lại chúng loại thuốc đó giết chính chúng ta. - Profitt dừng lại, để cho những lời của ông ngấm dần. - Chúng ta thể để tình cảm xen vào quyết định lần này, khi có quá nhiều rủi ro. - Thưa tổng thống. - Leroy Cornell lên tiếng. - Với tất cả lòng tôn kính, tôi xin chỉ ra rằng đây là động thái đe dọa to lớn về mặt chính trị. Công chúng cho phép năm người hùng của chúng ta chết trong vũ trụ. - Chính trị là mối quan tâm thứ yếu của chúng ta ny lúc này! - Profitt . - Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là sức khỏe cộng đồng! - Vậy tại sao lại phải bí mật! Tại sao các vị lại cho NASA biết mọi thông tin? Các vị chỉ cho chúng tôi thấy phần trong đoạn gen của sinh vật đó. Các nhà khoa học sinh vật của chúng tôi sẵn sàng và sẵn lòng đóng góp phần hiểu biết của họ. Chúng tôi muốn tìm ra phương pháp điều trị kém gì các vị. Nếu Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm chia sẻ thông tin chúng ta có thể hợp tác. - Lo ngại của chúng tôi là vấn đề an ninh. - Tổng thư ký Moral . - nước thù địch có thể biến thứ này thành vũ khí hủy diệt đáng sợ. Cung cấp mã gen của Chimera là giao cấu trúc của loại vũ khí. - Điều đó nghĩa là ông tin tưởng NASA bảo mật thông tin đó? Tổng thư ký Moray nhìn thẳng vào mắt Cornell. - Tôi e là phương châm mới của NASA về việc chia sẻ công nghệ với hai nước khác cùng chung ánh nắng khiến cơ quan của các vị mang tính an ninh tuyệt đối nữa. Cornell đỏ mặt tức giận nhưng gì. Profitt nhìn tổng thống. - Thưa ngài, là thảm kịch khi phải bỏ năm phi hành gia chết đó. Nhưng chúng ta phải nhìn xa trông rộng, tới khả năng có thảm họa khác lớn hơn. Đó là dịch bệnh toàn cầu do tế bào mà chúng ta chỉ mới biết sơ qua về nó. Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm chạy đua cùng thời gian để tìm ra cách trị nó. Cho đến khi đó, tôi đề nghị mọi người hành động đúng mực. NASA có các thiết bị để xử lý thảm họa sinh học. Họ chỉ có nhân viên bảo vệ hành tinh. Chỉ có . Đội phản ứng sinh học nhanh của Quân đội luôn sẵn sàng cho tình huống này. Về các hoạt động của NASA, hãy để họ nằm dưới tầm kiểm soát của Quyền chỉ huy Vũ trụ của Mỹ, được hỗ trợ bởi Lực lượng quân thứ 14. NASA có quá nhiều mối liên hệ cá nhân và tình cảm với các phi hành gia. Chúng ta phải bao vây chặt chẽ. Chúng ta cần thiết quân luật hoàn hảo. - Profitt chầm chậm lướt qua gương mặt của những người đàn ông và phụ nữ ngồi quanh bàn. Chỉ có vài người trong số này được ông tôn trọng . Vài kẻ chỉ quan tâm đến danh tiếng và quyền lực. Những kẻ khác ngồi ở đây vì các ràng buộc về mặt chính trị. Vẫn có những kẻ dễ bị làn sóng dư luận làm lung lay. Chỉ có mấy người có động cơ đơn giản như ông. Số ít những người này chịu chung cơn ác mộng như ông tỉnh ngộ và đổ mồ hôi, họ run rẩy khi nghĩ đến viễn cảnh đáng sợ của việc họ có thể sắp đối đầu. - Vậy là ông các phi hành gia bao giờ trở về được. - Cornell . Profitt nhìn khuôn mặt tối sầm lại của nhân viên quản lý NASA và cảm thấy cảm thông cách tội lỗi. - Khi chúng tôi tìm ra cách chữa trị nó, khi chúng tôi biết có thể tiêu diệt nó, chúng tôi thông báo cho các vị đưa họ về trái đất. - Nếu họ vẫn còn sống. - ngài Tổng thống lẩm bẩm. Profitt và Roman nhìn nhau nhưng ai trả lời. Họ hiểu ràng đó. Họ thể kịp tìm ra cách chữa trị. Các phi hành gia thể trở về và sống sót. Jared Profitt mặc áo khoác và đeo cà vạt trong khi hôm đó rất nóng, nhưng ông hầu như để ý đến cái nóng. Những người khác có thể phàn nàn về khó chịu của mùa hè ở New York. Ông ngại khi nhiệt độ tăng cao. Ông sợ mùa đông vì ông rất nhạy cảm với cái lạnh, vào những ngày lạnh cóng, môi ông tím tái và ông run rẩy dưới các lớp khăn choàng và áo len. Ny cả trong mùa hè, ông vẫn giữ để chiếc áo len ở văn phòng để chống lại tác động của điều hòa nhiệt độ. Hôm nay nhiệt độ là ba mươi hai độ, mồ hôi lấp lánh khuôn mặt của những người ông gặp đường, nhưng ông cởi áo khoác hay nới lỏng cà vạt. Cuộc họp khiến ông thấy lạnh toát cả thân thể lẫn tâm hồn. Ông mang theo bữa trưa được gói trong túi giấy màu nâu, đó là bữa trưa quen thuộc ông gói mỗi sáng trước khi làm. Đường ông bao giờ thay đổi, về phía tây đến sông Potomac, qua khu Hồ Phản Quang bên tay trái. Ông thấy thoải mái khi làm những việc thường ngày quen thuộc. Có rất ít việc trong cuộc sống hàng ngày mang lại điều chắc chắn như dạo này. Khi ngày càng già , ông thấy mình có xu hướng thích những nghi lễ nhất định, rất giống thầy tu tuân theo trật tự tôn giáo gần giống nhịp làm việc hàng ngày của những người cầu nguyện và ngồi thiền. Xét về nhiều khía cạnh ông rất giống thầy tu khổ hạnh thời cổ, người chỉ ăn để nạp năng lượng cho cơ thể và mặc com lê chỉ vì ông cần làm vậy, người đàn ông mà giàu có hề có ý nghĩa gì. Cái tên Profitt lên điều gì về người đàn ông này. Ông chậm lại khi qua sườn dốc đầy cỏ ở Khu tưởng niệm Chiến tranh ở Việt Nam. Ông nhìn dòng người lặng lẽ qua bức tường được khắc tên của những người chết. Ông biết tất cả bọn họ nghĩ gì khi họ đối diện với các phiến đá granit màu đen đó, khi họ coi đó là điều đáng sợ của chiến tranh: Có quá nhiều tên, quá nhiều người chết. Và ông nghĩ, bọn họ chẳng hiểu gì cả. Ông thấy ghế đá còn trống ở chỗ râm và ngồi xuống ăn. Ông lấy từ chiếc túi nâu quả táo, khoanh pho mát dầy và chai nước. Đó phải là nước uống của hãng Evian hay Perrier, mà là nước ông lấy trực tiếp từ vòi. Ông ăn chậm rãi, nhìn các du khách quanh khu tưởng niệm này sang khu tưởng niệm khác. Vậy là chúng ta tưởng nhớ các vị hùng, ông nghĩ. Xã hội dựng lên các tượng đài, khắc tên vào đá hoa cương, dựng những lá cờ. Nó làm người còn sống rùng mình khi bị lạc trong lò giết người của chiến tranh. Hai triệu lính và dân thường chết trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Năm mươi triệu người chết trong Đại chiến thế giới lần hai. Hai mươi mốt triệu người chết trong Đại chiến thế giới lần . Đó là những con số giật mình. Người ta có thể băn khoăn: Con người có thể có kẻ thù nào đáng sợ hơn chính họ ? Câu trả lời là có. Dù loài người thể nhìn thấy nhưng kẻ thù của họ ở xung quanh họ, ở ny trong họ, trong khí họ thở, trong thức ăn họ nuốt. Trong suốt lịch sử loài người, chúng luôn là kẻ thù đáng sợ nhất của họ, nó tồn tại rất lâu sau khi họ biến mất bề mặt trái đất. Kẻ thù đó là thế giới vi khuẩn, và trong nhiều thế kỷ qua, nó giết chết nhiều người hơn tất cả các cuộc chiến tranh cộng lại. Từ năm 542 đến năm 767 trước công nguyên, bốn mươi triệu người chết do bệnh dịch đậu mùa. Vào thập niên ba mươi của thế kỷ hai mươi, hai mươi lăm triệu người chết khi bệnh đậu mùa quay trở lại. Từ năm 1918 đến năm 1919, ba mươi triệu người chết vì bệnh cúm. Và vào năm 1997, bà Amy Sorensen Profitt, bốn mươi ba tuổi chết vì bệnh viêm phổi. Ông ăn hết quả táo, cho lõi táo vào túi và cẩn thận cuộn rác của mình thành gói chặt. Dù bữa trưa rất đạm bạc nhưng ông tỏ ra hài lòng. Ông vẫn ngồi ghế lúc và uống ngụm nước cuối cùng. du khách qua, đó là phụ nữ tóc màu hạt dẻ. Khi bà ta quay lại và ánh nắng chiếu nghiêng nghiêng mặt, trông bà ta rất giống Amy. Bà ta có cảm giác ông nhìn mình nên nhìn theo ông. Họ nhìn nhau lúc, bà ta cảnh giác, còn ông im lặng cách tội lỗi. Rồi bà ta bỏ và ông thấy bà ta trông hề giống người vợ khuất của mình. ai giống và ai có thể giống vợ ông. Ông đứng lên, ném rác vào thùng và bắt đầu theo lối mà ông đến, qua bức tường, qua các cựu chiến binh mặc đồng phục màu xám nhàu nát để tưởng nhớ những người chết. Nhưng ny cả những kỷ niệm cũng mờ dần, ông nghĩ. Hình ảnh của vợ ông bên bàn bếp, tiếng cười của bà. - tất cả đều lùi dần khi thời gian trôi qua. Chỉ những kỷ niệm đau buồn còn sót lại. Đó là phòng ở khách sạn San Francisco. cú điện thoại vào đêm muộn. Những hình ảnh lộn nhào của sân bay, những chiếc taxi và trạm điện thoại khi ông chạy nhanh hết tốc độ để đến bệnh viện Bethesda kịp lúc. Nhưng các vi khuẩn cầu chuỗi phá hoại lên lịch cho chúng và có thời điểm giết người nhất định. Giống hệt Chimera. Ông hít dài hơi và tự hỏi có bao nhiêu vi rút, bao nhiêu vi khuẩn, bao nhiêu loại nấm luồn lách vào phổi ông. Và tất cả những con vật đó có thể giết chết ông. Chương 20 HAI MƯƠI Ngày 15 tháng 8 - khốn nạn! - Luther tức giận . ném điện đàm xuống và cuộc chuyện của họ bị Phòng điều hành nhiệm vụ theo dõi nữa. - Hãy trở lại phương tiện di dờikhẩn cấp, bật các nút và lên đường! Họ thể khiến chúng ta quay đầu và trở lại trạm. khi rời khỏi trạm, họ thể quay lại. Phương tiện di dời khẩn cấp về cơ bản là chiếc tàu lượn có dù kéo phía sau. Sau khi tách khỏi Trạm vũ trụ, nó có thể bay tối đa bốn vòng quanh trái đất trước khi nó buộc phải tách khỏi quỹ đạo và đáp xuống trái đất. - Chúng ta được ra lệnh phải ngồi yên. - Griggs . - Đó chính là điều ta làm. - Tuân theo những mệnh lệnh ngớ ngẩn đó à? Nicolai chết nếu chúng ta đưa ấy về trái đất! Griggs nhìn Emma. - nghĩ gì, Watson? Hai mươi phút qua, Emma quanh quẩn bên cạnh bệnh nhân của mình và kiểm tra tình hình của Nicolai. Tất cả bọn họ đều tự nhận thấy rất nguy kịch. bị buộc chặt vào giường bệnh nhưng vẫn vặn vẹo và run lẩy bẩy. Chân tay thỉnh thoảng lại giật mạnh khiến Emma sợ là làm vỡ hết xương. Trông như võ sĩ bị đánh túi bụi thương tiếc trong lượt đấu. Khí thũng dưới da khiến tất cả các mô mềm mặt căng lên và cặp mắt nhắm nghiền của cũng sưng phồng. Qua khe hở , màng cứng ở mắt của có màu đỏ rực như con quỷ. biết Nicolai nghe được và hiểu được bao nhiêu nên những gì mình nghĩ. ra hiệu cho các bạn mình ra khỏi khoang dịch vụ của Nga. Họ gặp nhau ở phòng sinh hoạt, ở đó Nicolai thể nghe thấy họ gì và họ có thể yên tâm tháo kính bảo vệ và khẩu trang. - Houston cần cho phương tiện của chúng ta ngay. - . - Nếu chúng ta mất ấy. - Họ hiểu tình trạng của ấy. - Griggs . - Họ thể cho phép phương tiện di dời khẩn cấp khởi động cho tới khi Nhà Trắng phê chuẩn. - Vậy là chúng ta quanh quẩn này và nhìn người khác bị bệnh à? - Luther vẫn chưa hết bực. - Nếu chúng ta chỉ cần lên phương tiện di dời khẩn cấp và lên đường sao? Họ làm gì? Bắn chúng ta chắc? Diana khẽ. - Họ có thể làm vậy. vừa khiến tất cả im bặt. Bất cứ phi hành gia nào lên tàu con thoi và đổ mồ hôi khi đếm ngược đều biết rằng ngồi trong buồng tại Trung tâm vũ trụ Johnson là các nhân viên thuộc Lực lượng quân, nhiệm vụ của họ là làm nổ tung tàu con thoi và thiêu sống các phi hành gia. Trong trường hợp hệ thống điều khiển bị trục trặc khi phóng tàu nhiệm vụ của các nhân viên an ninh này là ấn nút phá hủy tàu. Họ gặp từng thành viên trong phi hành đoàn. Có thể họ thấy ảnh của cả gia đình các phi hành gia. Họ biết đích xác mình sắp giết ai. Đó là nhiệm vụ khủng khiếp nhưng ai nghi ngờ về việc các nhân viên thuộc Lực lượng quân tiến hành điều đó. Việc đó cũng gần chắc chắn như việc họ phá hủy Phương tiện di dời khẩn cấp theo lệnh cấp . Khi đối diện với bóng ma của dịch bệnh giết người mới mạng sống của các phi hành gia dường như còn là chuyện to tát. Luther . - Tôi dám cá là họ để chúng ta hạ cánh an toàn? Tại sao lại chứ? Bốn chúng ta vẫn khỏe mạnh. Chúng tachưa bị mắc triệu chứng gì. - Nhưng chúng ta tiếp xúc với nó. - Diana . - Chúng ta hít chung bầu khí, ở cùng khoang. Luther, và Nicolai ngủ chung trong khoang chặn khí. - Tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. - Tôi cũng vậy. Griggs và Watson cũng vậy. Nhưng nếu đây là căn bệnh lây nhiễm tất cả chúng ta ở giai đoạn ủ bệnh. - Đó là lý do tại sao chúng ta phải tuân lệnh. - Griggs . - Chúng ta đâu hết. Luther quay sang Emma. - có đồng tình với chủ nghĩa quân phiệt này ? - . - Emma . - Tôi tán thành. Griggs sửng sốt nhìn . - Watson? - Tôi nghĩ cho bản thân. Tôi nghĩ về bệnh nhân của tôi. Nicolai được, nên tôi phải làm thay ấy. Tôi muốn ấy được ở trong bệnh viện, Griggs. - nghe Houston gì rồi đấy. - Điều tôi nghe được rất mập mờ. Mệnh lệnh di dời được đưa ra. Đầu tiên họ với chúng ta đó là vi rút Marburg. Rồi họ đó phải là vi rút, mà là sinh vật mới do những tên khủng bố chế tạo. Tôi biết có chuyện quái quỷ gì xảy ra dưới đó. Tất cả những gì tôi biết là, bệnh nhân của tôi…. - đột ngột thấp giọng. - ấy sắp chết. - khẽ. - Nhiệm vụ hết của tôi là làm cho ấy sống. - Và nhiệm vụ của tôi là làm tròn vai trò của chỉ huy trạm. - Griggs . - Tôi buộc phải tin rằng Houston làm những gì tốt nhất có thể. Họ đẩy chúng ta vào nguy hiểm nếu tình hình thực xấu. Emma thể đồng ý với . Trung tâm điều hành nhiệm vụ có những người biết và tin tưởng. Và có Jack ở đó, nghĩ. tin ai hơn . - Có vẻ như chúng ta có đường truyền thông tin mới. - Diana và nhìn màn hình. - Của Watson. Emma bay sang bên kia khoang để đọc tin nhắn màn hình. Đó là của Trung tâm Khoa học đời sống của NASA. Bác sĩ Watson, Chúng tôi nghĩ nên biết chính xác mình đối mặt với cái gì. - đó là thứ tất cả chúng ta đối mặt. Đây là bản phân tích ADN của sinh vật tác động đến Kenichi Hirai. Emma tải tệp tin đính kèm. mất lúc để phân tích chuỗi nucleotit chạy màn hình. mất vài phút nữa mới tin được kết luận. Đó là gen của ba động vật khác nhau trong chuỗi nhiễm sắc thể, loài ếch đốm, chuột và con người. - Sinh vật gì vậy? Diana sốt ruột hỏi. Emma khẽ. - dạng sống mới. Đó là con quái vật trong phim của Frankenstein. Đó là tượng tự nhiên bất thường. bỗng chú ý vào từ chuột, nghĩ. Những con chuột. Chúng là những con đầu tiên bị ốm. Trong vòng tuần rưỡi, chúng chết. Lần cuối khi kiểm tra lồng, chỉ còn con cái còn sống. rời phòng sinh hoạt và hướng về nửa cuối tàu bị đóng lại. Phòng thí nghiệm của Mỹ sáng lờ mờ. lướt trong bóng tối lờ mờ, đến ngăn nhốt động vật. Có phải những con chuột là những sinh vật đầu tiên mang theo các sinh vật này, đó là phương tiện đưa Chimera lên Trạm vũ trụ quốc tế chăng? Hay chúng chỉ là các nạn nhân tình cờ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với sinh vật lạ trạm? Con chuột cuối cùng còn sống ? mở ngăn kéo và nhìn sinh vật cuối cùng còn lại trong lồng. Tim ngừng đập. Con chuột chết. nghĩ con chuột cái này có tai bị gặm nát như chiến binh là kẻ sống sót cuối cùng và dù chịu bị hành hạ nhưng nó sống lâu hơn những con sống cùng lồng. Giờ Emma cảm thấy vô cùng tuyệt vọng khi nhìn cái xác vô hồn lơ lửng ở góc lồng phía xa. Bụng nó trông như bị trương phồng lên. Cái xác phải được bỏ ngay lập tức và cho vào túi cách ly. cho tay vào hộp, đeo găng tay và đưa tay định bắt con chuột. Khi các ngón tay vừa chạm vào nó cái xác đột nhiên trở mình thức dậy. hét lên kinh hãi và thả nó ra. Con chuột lật mình lên, nhìn chằm chằm, ria nó quắc lên tức giận. Emma cười thích thú. - Vậy là mày chưa chết. - lẩm bẩm. - Watson! quay về phía điện đàm, nơi ai đó vừa nhắc đến tên . - Tôi ở phòng thí nghiệm. - Về đây ngay! Phòng dịch vụ Nga. Nicolai lên cơn co giật! lao ra khỏi phòng thí nghiệm và va vào các bức vách trong ánh sáng lờ mờ khi bay nhanh về phía khoang dịch vụ Nga. Điều đầu tiên nhìn thấy khi vào khoang là khuôn mặt của các bạn mình, hoảng hốt mặc dù họ đều đeo kính bảo vệ. Rồi họ dạt sang hai bên để trông thấy Nicolai. Tay trái của giật mạnh như lên cơn co giật và lực của nó mạnh đến mức nó khiến cả tấm ván cố định bệnh nhân rung lên. Những cơn co giật bắt đầu di chuyển xuống phần thân trái của và chân cũng bắt đầu đập mạnh. Giờ hai hông của lắc lư, đập mạnh vào tấm ván khi những cơn co giật ngừng lan khắp cơ thể. Chúng ngày càng mạnh, cổ tay ấn chặt vào thân khiến máu . Emma nghe thấy tiếng xương bị gãy khi tay trái tiếp tục đập mạnh. Tay phải bị buộc chặt vung lên và đập loạn xạ, phần mu bàn tay đập vào mép bàn, làm thương cả da và thịt. - Giữ chắc ấy! Tôi tiêm cho ấy liều Valium! - Emma hét lên, rồi cuống cuồng lục ngăn tủ y tế. Griggs và Luther mỗi người cầm chắc cánh tay nhưng ngay cả Luther cũng đủ sức giữ được bàn tay mất khả năng kiểm soát. Tay phải của Nicolai vung lên như chiếc roi, hất Luther sang bên. Luther mất đà và chân đá vào má của Diana, làm lệch kính bảo vệ của . Đầu của Nicolai đột nhiên đập mạnh về phía sau bàn. thở dốc, ngực phồng lên do nén đầy khí. ho hơi dài. Nước đờm của phun ra, bắn vào mặt Diana. hét lên kinh hãi, buông tay và bị trôi về phía sau khi dụi đôi mắt tiếp xúc với bệnh. giọt nước màu xanh dương pha xanh lá cây bay ngang qua mặt . Bọc trong chất dịch trong suốt đó là cái nhân trông như viên ngọc. Chỉ khi nó trôi qua khu vực được chiếu điện, Emma mới nhận ra nhìn thấy gì. Khi soi quả trứng gà ngay trước ánh nến, ta có thể nhìn xuyên qua vỏ vào phần nhân bên trong. Giờ ánh sáng điện như ánh nến, tia sáng của nó xuyên qua lớp màng mờ đục của phần nhân. Bên trong có thứ gì đó chuyển động và nó là sinh vật sống. Màn hình điện tim kêu rất to. Emma quay lại nhìn Nicolai, thấy tim ngừng đập. đường kẻ thẳng tắp chạy ngang màn hình. Ngày 16 tháng 8 Jack đeo tai nghe lên. ở mình trong phòng phía sau của Phòng điều hành nhiệm vụ. Lẽ ra đây là cuộc chuyện riêng nhưng biết điều và Emma sắp hôm nay còn riêng tư nữa. nghĩ là bất cứ cuộc chuyện nào Trạm vũ trụ quốc tế lúc này bị Lực lượng quân Mỹ và Ban chỉ huy Vũ trụ Mỹ theo dõi. . - Chỉ huy liên lạc, tôi là bác sĩ. Tôi sẵn sàng chuyện riêng trong năm phút. - , bác sĩ. - chỉ huy liên lạc . - Phòng điều khiển dưới đất, liên lạc an toàn từ trái đất lên vũ trụ. - dừng lại chút. - Bác sĩ, hãy tiếp tục kết nối với phòng chuyện riêng. Tim Jack đập mạnh. hít sâu và . - Emma, đây. - ấy sống nếu chúng ta đưa được ấy về. - . - Đáng lẽ ấy có cơ hội. - Chúng ta phải là người ra lệnh dừng việc di dời khẩn cấp! lần nữa, NASA lại bị chiếm quyền. Bọn cố đưa em về càng sớm càng tốt. Em chỉ cần chờ đợi. - kịp đâu, Jack. - khẽ. Và những lời của khiến Jack lạnh sống lưng. - Diana cũng bị nhiễm bệnh. - Em chắc ? - Em kiểm tra mức độ amilaza của ấy. Nó tăng. Giờ bọn em theo dõi ấy và chờ triệu chứng đầu tiên xuất . Thứ đó bay khắp khoang. Bọn em vừa dọn xong nhưng chắc có ai bị nhiễm bệnh . - dừng lại, nghe thấy hít mạnh hơi. - biết về những gì thấy trong cơ thể của Andy và Jill ? Những thứ mà nghĩ là các u nang ấy? Em chia tách nó dưới kính hiển vi. Em tải hình ảnh từ Trung tâm Khoa học đời sống. Đó phải là các u nang, Jack. Và chúng cũng phải là các bào tử. - Vậy chúng là gì? - Chúng là những quả trứng. Có thứ gì đó bên trong chúng. Thứ gì đó phát triển. - Phát triển ư? Theo em đó là đa bào? - Đúng. Đó chính là điều em định . sững sờ. nghĩ họ đối mặt với loại vi khuẩn, thứ lớn hơn vi khuẩn đơn bào là mấy. Kẻ thù giết con người nhiều nhất luôn là những sinh vật cực . - như vi khuẩn và vi rút, động vật nguyên sinh, chúng quá nên ta nhìn thấy bằng mắt thường. Nếu Chimera là động vật đa bào, nó phức tạp hơn nhiều so với vi khuẩn đơn giản. - Thứ em thấy vẫn chưa hình thành. - . - Nó giống nhóm các tế bào, nhưng lại có mạch máu. Và chúng có thể chuyển động co thắt. Chúng co giãn như khối các tế bào cơ tim. - Có thể chúng là mẻ tế bào, nhóm đơn bào bám vào nhau. - , em nghĩ đó chỉ là cơ thể. Nó vẫn còn non và tiếp tục phát triển. - Thành cái gì? - Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm biết. - . - Những thứ này sinh sôi trong cơ thể của Kenichi Hirai và ăn hết nội tạng ấy. Khi cơ thể ấy phân hủy, chắc chắn chúng bắn ra khắp tàu. Đó là con tàu mà lực lượng quân đội lập tức cách ly, Jack nghĩ và nhớ lại những chiếc trực thăng và những người mặc bộ quần áo vũ trụ. - Chúng cũng phát triển trong cơ thể của Nicolai. . - Hãy ném xác đó ra khỏi tàu, Emma. Đừng chần chừ! - Giờ bọn em làm việc đó. Luther chuẩn bị đưa xác ra khỏi khoang chặn khí. Chúng ta buộc phải tin vũ trụ giết chết thứ này. Đây là kiện lịch sử, Jack. Vụ chôn con người đầu tiên trong gian. - cười cách kỳ lạ nhưng nó nhanh chóng im bặt. - Hãy nghe . đưa em về. Nếu có tên lửa cho riêng mình, lên đó đón em về. - Họ cho bọn em trở về. Giờ em hiểu điều đó. chưa bao giờ nghe thấy lời bỏ cuộc bao giờ, nó khiến tức giận và tuyệt vọng. - Đừng làm thất vọng, Emma! - Em chỉ thực tế thôi. Em nhìn thấy kẻ thù, Jack. Chimera là dạng sống đa bào phức tạp. Nó di chuyển. Nó sinh sôi. Nó sử dụng ADN của chúng ta, và chống lại chúng ta. Nếu đây là sinh vật được tạo trong phòng thí nghiệm kẻ khủng bố nào đó tạo nên thứ vũ khí hoàn hảo. - Vậy cũng phải tạo nên bức tường bảo vệ. ai chế tạo ra loại vũ khí mới mà biết cách bảo vệ mình trước nó. - Đó là kẻ bệnh hoạn, kẻ khủng bố mà niềm vui duy nhất của là giết chết nhiều người. Và thứ này có thể làm điều đó. Nó chỉ giết người, mà còn tự nhân lên. Nó lan tràn. - dừng lại. Và giọng lộ mệt mỏi. - Khi xem xét các yếu tố đó, em thấy ràng bọn em thể trở về. Jack tháo tai nghe, hai tay ôm đầu. ngồi mình rất lâu trong phòng, giọng của Emma vẫn sống động trong tâm trí . biết cứu em bằng cách nào, nghĩ. còn biết bắt đầu từ đâu. nghe thấy cửa mở. Chỉ khi Liz Gianni thuộc bộ phận kiểm tra các chuyến hàng gọi tên mới ngẩng đầu lên. - Chúng ta có cái tên. - Bà . lắc đầu ngạc nhiên. - Gì cơ? - Tôi với là tôi tìm mẻ nghiên cứu bị hủy do nấm phát triển quá nhanh. Hóa ra đó là nhóm tế bào… Và nhà nghiên cứu chính là bác sĩ Helen Koenig, nhà sinh vật học hàng hải ở bang California. - ta sao rồi? - ta biến mất. Hai tuần trước, ta từ chức khỏi phòng thí nghiệm Khoa học biển nơi ta làm việc. ai biết tin gì về ta kể từ đó. Jack, đây mới là tin giật gân. Tôi vừa chuyện với nhân viên ở Phòng thí nghiệm khoa học biển. ấy cho tôi biết đội điều tra liên bang thu dọn toàn bộ phòng thí nghiệm của Koenig vào ngày mùng 9 tháng 8. Họ lấy toàn bộ hồ sơ của ta. Jack ngồi thẳng lên. - Vậy thí nghiệm của Koenig là gì? ta gửi lên mẻ tế bào gì? - sinh vật biển đơn bào. Họ gọi nó là Archaeon.
Chương 21 HAI MƯƠI MỐT - Lẽ ra đó là bản dự thảo kéo dài trong ba tháng. - Liz . - Đó là nghiên cứu về cách thức nhân lên của Archaeon trong môi trường trọng lực siêu . Mẻ tế bào cho kết quả nguy hiểm. Nó phát triển quá nhanh và đóng lại thành từng khối. Nó nhân lên với tốc độ đáng sợ. Họ dọc con đường uốn quanh khuôn viên của Trung tâm vũ trụ Johnson, qua bồn nước có vòi phun nước vào khí ảm đạm. Ngày hôm đó khó chịu, nóng và oi bức nhưng họ thấy an toàn hơn khi chuyện bên ngoài. Ít ra họ có thể chuyện riêng. - Các tế bào phản ứng khác lạ trong vũ trụ. - Jack . Đó thực là lý do tại sao các mẻ tế bào lại được nuôi trong trạm vũ trụ bay quanh quỹ đạo. Ở trái đất, các mô phát triển theo chiều ngang của tờ giấy và bao phủ bề mặt đĩa cấy tế bào. Trong vũ trụ, trọng lực cho phép các tế bào phát triển theo gian ba chiều và giúp chúng có được các hình dạng mà chúng thể có trái đất. - Khi suy nghĩ về việc các sinh vật này thú vị mức nào. - Liz . - ngạc nhiên là chúng lại bị hủy trong vòng sáu tuần rưỡi. - Ai hủy thí nghiệm? - Jack hỏi. - Đó là lệnh trực tiếp của Helen Koenig. ràng ta phân tích các mẫu Archaeon được đưa trở về trái đất từ tàu Atlantis và phát thấy chúng bị nhiễm nấm. ấy ra lệnh hủy mẻ tế bào đó trạm vũ trụ quốc tế. - vậy sao? - Đúng vậy. Nhưng điều kỳ lạ là nó bị hủy như thế nào? Phi hành đoàn đóng gói, mà ném nó như rác thải ướt, đó là điều họ thường làm với sinh vật vô hại. Koenig cầu họ cho nó vào nồi nấu kim loại và thiêu chúng, rồi ném tro ra ngoài vũ trụ. Jack ngừng lại lối , nhìn bà chằm chằm. - Nếu bác sĩ Helen Koenig là tên khủng bố sinh học tại sao ta lại phải hủy vũ khí của mình? - Suy luận của rất giống tôi. nghĩ về điều đó lúc, cố hiểu nó nhưng thể tìm ra câu trả lời. - Hãy cho tôi biết thêm về các thí nghiệm của ta. - . - Archaeon chính xác là cái gì? - Petrovitch và tôi đọc kỹ phần kiến thức nền tảng Archaeon là nhóm kỳ lạ bao gồm các sinh vật đơn bào có tên extremphile. - tức là “các sinh vật thích các điều kiện khắc nghiệt cực điểm”. Chúng được phát cách đây hai mươi năm, còn sống và sinh sôi gần các miệng phun núi lửa ở đáy biển. Chúng cũng được tìm thấy trong các mỏm băng ở vùng cực và trong lớp đá nằm sâu trong lớp vỏ trái đất, nơi mà chúng ta luôn cho là sống tồn tại. - Vậy chúng là loại vi khuẩn cứng đầu? - , chúng là nhánh sinh vật tách biệt hoàn toàn. Về nghĩa đen, tên của chúng nghĩa là “các sinh vật cổ”. Chúng cổ xưa đến mức chúng là thủy tổ của mọi dạng sống, vào thời mà ngay cả vi khuẩn cũng chưa xuất . Archaeon là dạng sống xuất đầu tiên hành tinh của chúng ta, và dù chịu tác động của chiến tranh hạt nhân hay va chạm với hành tinh khác chúng tồn tại rất lâu sau khi chúng ta tuyệt chủng hết. - Bà dừng lại. - tóm lại chúng là sinh vật bất bại cuối cùng trái đất. - Và chúng có thể lây lan? - . Chúng vô hại với con người. - Vậy nó phải là sinh vật đe dọa chúng ta? - Nhưng có thứ gì đó trong mẻ tế bào đó sao? Nếu ta lỡ cho vào sinh vật khác trước khi chuyển chuyến hàng đến chỗ chúng ta sao? Tôi thấy thú vị là Helen Koenig biến mất ngay khi vụ bê bối này bắt đầu nóng lên. Jack gì, đầu óc mải nghĩ về việc Helen Koenig lập tức cho thiêu hủy toàn bộ mẻ nghiên cứu của mình. nhớ lại điều Gordon Obie ở cuộc họp. Có lẽ đây phải là hoạt động phá hoại ngầm, mà là điều khác đáng sợ kém. Đây là sai sót. - Còn nữa. - Liz . - Thí nghiệm này có điều gì đó khiến tôi quan tâm. - Là gì vậy? - Nó được tài trợ thế nào. Các thí nghiệm bên ngoài NASA phải cạnh tranh để được đưa lên trạm vũ trụ. Các nhà khoa học phải điền vào đơn đăng ký và giải thích các lý do về mặc kinh tế để đưa thí nghiệm của họ lên. Nó được chúng tôi xem qua trước khi chúng tôi phê duyệt xem thí nghiệm nào được đưa lên. Quá trình đó mất rất lâu, ít nhất là năm. - Việc ứng dụng Archaeons mất bao lâu? - Sáu tháng. chau mày. - Nó được đẩy lên quá nhanh phải ? Liz gật đầu. - Quá nhanh. Nó cần cạnh tranh để có được tiền hỗ trợ từ phía NASA như hầu hết các thí nghiệm khác. Nó được bồi hoàn về mặt kinh tế. Ai đó trả tiền để gửi thí nghiệm đó lên Trạm vũ trụ quốc tế. - Vậy tại sao công ty lại trả nhiều tiền như vậy. - ý tôi là trả số tiền quá lớn cho các sinh vật vô giá trị? Vì khao khát hiểu khoa học chăng? Bà khịt mũi nghi ngờ. - Tôi nghĩ vậy. - Công ty nào trả tiền cho nó? - Chính là công ty của bác sĩ Koenig, phòng thí nghiệm Khoa học biển tại La Jolla, bang California. Họ tạo ra các sản phẩm mới từ biển. Nỗi thất vọng ban đầu của Jack giờ tan biến. Giờ có thông tin để làm việc, có kế hoạch hành động. Cuối cùng có thể làm gì đó. . - Tôi cần địa chỉ và số điện thoại của phòng thí nghiệm Khoa học biển, và cả tên nhân viên chuyện với bà. Liz gật đầu ngay. - có ngay, Jack. Ngày 17 tháng 8 Diana tỉnh dậy sau giấc ngủ sâu, đầu đau như búa bổ và những giấc mơ vẫn chập chờn. Giấc mơ về nước , về ngôi nhà thời thơ ấu ở Cornwall, về con đường lát gạch đỏ xinh xắn dẫn đến cửa trước, cửa có cây hồng leo. Trong giấc mơ của mình, đẩy cánh cổng và nghe thấy nó kêu kẽo kẹt như mọi khi do mép cửa khô dầu. bắt đầu bước đến chỗ lối dẫn đến ngôi nhà xây bằng đá. Chỉ cần dăm bước là đến bậc cửa và mở cánh cửa đó. hét to vì cuối cùng về nhà. muốn mẹ ôm ấp và tha thứ cho . Nhưng dăm ba bước đó lại biến thành mười bước, hai mươi bước. Và vẫn thể đến ngôi nhà đó. Con đường trải dài xa mãi, xa mãi cho tới khi ngôi nhà lùi lại chỉ còn bằng con búp bê. Diana tỉnh dậy, cả hai tay dang rộng và thét lên tuyệt vọng. mở mắt và thấy Michael Griggs nhìn mình. Mặt bị che kỹ bởi khẩu trang sợi hoạt tính và kính bảo vệ nhưng vẫn thấy vẻ sợ hãi đó. mở khóa túi ngủ, bay ngang khoang dịch vụ Nga. Ngay cả trước khi soi gương, biết mình thấy gì. vệt màu đỏ tươi xâm lấn lòng trắng ở mắt bên trái của . Emma và Luther thào khi họ bay cạnh nhau trong phòng sinh hoạt sáng lờ mờ. Phần lớn trạm vũ trụ vẫn trong tình trạng mất điện, trừ khoang của Nga có nguồn điện riêng và hoạt động hết công suất. Đầu kia của trạm thuộc về Mỹ biến thành mê cung các đường hầm tối tăm ma quái. Nguồn sáng lớn nhất là màn hình máy tính đó có các sơ đồ của Hệ thống điều khiển môi trường và Hỗ trợ sống. Emma và Luther quen với hệ thống Điều khiển môi trường, ghi nhớ từng bộ phận của nó và các hệ thống phụ trong suốt quá trình họ được rèn luyện trái đất. Giờ họ có lý do khẩn cấp cần xem xét lại hệ thống đó. Có dịch bệnh tàu và họ chắc toàn bộ tàu bị nhiễm bệnh chưa. Lúc Nicolai ho, những quả trứng bắn ra khắp khoang dịch vụ của Nga và khi đó cánh cửa để mở. Trong vòng vài giây, hệ thống lưu thông khí trạm được thiết kế để ngăn cho các túi khí ngày càng tích tụ, cuốn các cụm khí đó đến các điểm khác tàu. Hệ thống điều khiển trong khí như môi trường có lọc và nhốt lại các phân tử mới được sinh ra trong khí như chức năng vốn có của nó ? Hay dịch bệnh có ở khắp nơi và ở mọi khoang. Màn hình máy tính lên sơ đồ dòng khí vào và ra khí của trạm. Oxi được cung cấp bởi vài nguồn tách biệt. Và nguồn cung cấp chính là máy electron của Nga, nó điện phân nước thành các phân tử hy-drô và ô-xi. Máy phát sử dụng dung dịch chất lỏng dùng các đĩa hóa chất làm trong các nguồn cung cấp chính như các thùng chứa oxi và nó được tàu con thoi nạp nhiên liệu. hệ thống bơm đẩy oxi lên, trộn với ni-tơ ở khắp trạm. Các cánh quạt liên tục giữ cho khí được lưu thông giữa các khoang. Các cánh quạt cùng hút khí vào các máy lọc hơi đốt và máy lọc khí, loại bỏ khí CO2, nước và các chất cặn bã trong khí. - Các máy lọc khí đặc biệt hiệu quả cao này giữ lại bất cứ quả trứng hay ấu trùng nào trong phòng mười lăm phút. - Luther và chỉ vào các máy lọc khí đặc biệt hiệu quả cao sơ đồ. - Hệ thống này đạt hiệu quả chín chín phẩy chín phần trăm. Bất cứ thứ gì lớn hơn phần ba micromet bị lọc ra. - Giả sử những quả trứng đó có trong khí. - Emma . - Vấn đề là chúng bám chặt lên bề mặt. Tôi thấy chúng chuyển động. Chúng có thể bò vào các khe hở, trốn sau các tấm vách mà chúng ta nhìn thấy. - Chúng ta mất mấy tháng mở tung mọi tấm vách để tìm chúng. Ngay cả khi đó, chúng ta vẫn bỏ sót vài chỗ. - Đừng nghĩ đến việc dỡ các tấm vách! Vô ích thôi. Tôi thay đổi các bộ lọc khí đặc biệt hiệu quả cao còn lại. Ngày mai chúng ta kiểm tra lại các mẫu vi khuẩn trong khí. Chúng ta phải tin việc đó có tác dụng. Nhưng nếu các ấu trùng đó chui vào các dây dẫn điện chúng ta bao giờ tìm thấy chúng. - thở dài. mệt mỏi đến nỗi phải cố gắng lắm mới suy nghĩ được. - Dù chúng ta làm gì cũng chẳng có gì thay đổi. Có lẽ quá muộn. - ràng quá muộn với Diana. - Luther khẽ . Hôm nay, mắt của Diana bắt đầu bị xuất huyết màng trắng. Giờ bị cách ly ở khoang dịch vụ Nga. Cửa ra vào bị dính tấm nhựa và ai được phép vào đó nếu đeo khẩu trang và kính bảo vệ. việc làm vô nghĩa, Emma nghĩ. Họ hít thở chung bầu khí, họ đều tiếp xúc với Nicolai. Có lẽ họ đều nhiễm bệnh. - Chúng ta phải nghĩ rằng khoang dịch vụ Nga giờ bị nhiễm bệnh và cứu vãn được. - Emma . - Đó là khoang duy nhất còn đầy đủ năng lượng sống. Chúng ta thể đóng hết khoang đó. - Vậy tôi nghĩ biết chúng ta cần làm gì. Luther mệt mỏi gật đầu. - Ra ngoài vũ trụ lần nữa. - Chúng ta cần khôi phục lại năng lượng cho phần đuôi tàu này. - . - phải sửa xong chuỗi các giàn nhiệt, nếu ta lại đối mặt với thảm họa khác. Nếu có thêm trục trặc gì nữa với nguồn điện chính, ta có thể mất hệ thống điều khiển môi trường, tiếp đó là các máy tính điều khiển và chỉ đường. - Người Nga từng gọi đó là tình huống quan tài. có năng lượng để tự điều chỉnh, cả trạm lần lượt bị mất hết kiểm soát. - Thậm chí nếu chúng ta khôi phục lại năng lượng nó giải quyết được vấn đề thực . Đó là ô nhiễm sinh học. - Nếu chúng ta có thể giới hạn nó ở cuối khoang dịch vụ của Nga. - Nhưng ngay lúc này ấy ủ bệnh! ấy như quả bom sắp nổ! - Chúng ta ném xác của ấy ra ngoài vũ trụ ngay khi ấy chết. - Emma . - Trước khi ấy làm văng ra bất cứ quả trứng hay ấu trùng nào. - Điều đó có thể còn kịp nữa. Nicolai ho ra những quả trứng đó khi ấy còn sống. Nếu chúng ta đợi cho đến khi Diana chết… - nghĩ đến việc gì vậy, Luther? - Giọng của Griggs khiến cả hai đều giật mình. Họ quay lại nhìn . đứng ở cánh cửa nhìn họ, mặt sáng lên trong bóng tối. - Có phải định là chúng ta ném ấy ra ngoài trong khi ấy vẫn còn sống ? Luther bay sâu hơn vào chỗ tối như thể lui quân khi bị tấn công. - Lạy Chúa, đó phải là điều tôi định . - Vậy định gì? - Lạy Chúa, đó là các ấu trùng. - chúng ta biết nó ở bên trong ấy. Chúng ta biết đó chỉ là vấn đề thời gian. - Có thể nó ở trong tất cả chúng ta. Có thể nó ở trong , lớn lên và phát triển ngay lúc này. Chúng tôi có nên ném ra ngoài ? - Nếu điều đó ngăn cho nó lan ra. Nghe này, tất cả chúng ta đều biết ấy sắp chết. Chúng ta thể làm gì để cứu vãn điều đó. Chúng ta phải nghĩ xa hơn. - Câm ! - Griggs lao qua khoang sinh hoạt, túm lấy áo Luther. Cả hai đâm sầm vào bức vách đằng xa và lại bật ra. Họ xoay xoay lại trong khí, Luther cố gạt tay Griggs ra, còn Griggs chịu buông. - Thôi ! - Emma hét lên. - Griggs, bỏ ấy ra! Griggs buôn tay. Hai người trôi dạt sang hai bên và thở dốc. Emma đứng giữa hai người như trọng tài. - Luther đúng. - với Griggs. - Chúng ta phải nghĩ cho tương lai. Có thể chúng ta muốn chuyện này, nhưng chúng ta phải làm. - Vậy nếu đó là sao, Watson? - Griggs cự lại. - muốn chúng tôi bàn bạc thế nào với cái xác của ? muốn chúng tôi đóng gói và ném nhanh mức nào? - Tôi mong các nghĩ đến kế hoạch đó! Có ba người ở đây bị nguy hiểm và Diana biết điều đó. Tôi cố hết sức để giữ lại mạng sống cho ấy, nhưng ngay lúc này, tôi biết cách nào có tác dụng. Tất cả những gì tôi có thể làm là tiêm kháng sinh cho ấy và chờ Houston cho chúng ta câu trả lời. Theo tôi biết, chúng ta hoàn toàn độc này. Chúng ta phải tính đến những điều tồi tệ nhất! Griggs lắc đầu. Mắt đỏ lên, mặt trông vô cùng sầu não. khẽ. - Việc này có thể tệ hơn mức nào nữa? trả lời. nhìn Luther và đọc được suy nghĩ của chính mình trong mắt . Điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến. - Trạm vũ trụ quốc tế, chúng tôi có bác sĩ ở đây. - Chỉ huy liên lạc . - Hãy tiếp tục! - Jack phải ? - Emma vội hỏi. thất vọng khi nghe thấy tiếng của Todd Cutler - Tôi đây, Emma. Tôi xin lỗi, Jack rời trung tâm Johnson cả ngày nay. ấy và Gordon đến California. Khốn kiếp, Jack. nghĩ. Em cần lúc này. - Chúng tôi đều nhất trí về việc ra ngoài vũ trụ. - Todd . - Việc đó cần thực ngay. Tôi muốn hỏi câu. Luther Ames thế nào, cả về mặt sức khỏe và tinh thần? ấy sẵn sàng làm việc này chưa? - ấy mệt mỏi. Tất cả chúng tôi đều mệt mỏi. Hai tư giờ qua, chúng tôi hầu như ngủ được. Chúng tôi bận lau dọn. - Nếu chúng ta cho ấy nghỉ ngơi ngày, ấy có ra ngoài vũ trụ được ? - Ngay lúc này, chỉ ngày có vẻ như giấc mơ hão huyền. - đủ thời gian sao? suy nghĩ về chuyện đó lát. - Tôi nghĩ vậy. ấy chỉ cần ngủ đủ. - Được rồi. Câu hỏi thứ hai của tôi là có muốn ra ngoài gian ? Emma ngạc nhiên dừng lại. - muốn tôi là bạn đồng hành của ấy à? - Chúng tôi nghĩ Griggs có tâm trí làm việc đó. ấy cắt đứt toàn bộ liên lạc với mặt đất. Nhà phân tích tâm lý của chúng ta cho biết giờ ấy ổn định. - ấy rất buồn, Todd ạ. Và còn cay đắng hơn khi các bạn thể đưa chúng tôi về. có thể biết chuyện này nhưng Griggs và Diana…. - dừng lại. - Chúng tôi biết. Tình cảm khiến ấy làm việc còn hiệu quả. Nó khiến việc ra ngoài vũ trụ quá nguy hiểm. Đó là lý do phải cùng Luther. - Quần áo sao? Các bộ quần áo bộ ngoài gian quá rộng với tôi. - Có bộ Orlan cỡ M để trong tàu Soyuz cũ. Nó được thiết kế cho Elena Savitskaya, và được để lại trạm sau khi ấy làm xong nhiệm vụ cách đây vài tháng. Elena có chiều cao và cân nặng tương đương . Nó vừa thôi. - Đây là chuyến ra ngoài vũ trụ đầu tiên của tôi. - được huấn luyện bằng thiết bị tập luyện trong môi trường trọng lượng. có thể làm được. Luther chỉ cần ngoài đó để trợ giúp. - Còn bệnh nhân của tôi sao? Nếu tôi ra ngoài gian ai chăm sóc ấy? - Griggs có thể thay điện tim và đáp ứng các cầu của ấy. - Nếu có cố sao? Nếu ấy bắt đầu lên cơn co giật sao? Todd khẽ . - ấy sắp chết, Emma ạ. Chúng tôi nghĩ thể thay đổi đó được nữa. - Đó là vì các chẳng cho tôi thông tin bổ ích nào để tôi làm việc cả! Các chỉ muốn giữ lại trạm vũ trụ này thôi! Có vẻ các quan tâm đến các tấm năng lượng mặt trời, hơn là lo cho phi hành đoàn. Chúng tôi cần cách chữa trị, Todd ạ, nếu chúng tôi chết hết này. - Chúng tôi chưa tìm ra cách điều trị, vẫn chưa… - Vậy , khốn nạn! Hãy đưa chúng tôi về! - Vậy nghĩ chúng tôi muốn mọi người trôi dạt đó sao? nghĩ chúng tôi còn lựa chọn sao? Ở đây như thể có mệnh lệnh tối cao của chế độ Đức quốc xã! Các nhân viên thuộc Lực lượng quân chiếm hết Phòng điều hành nhiệm vụ. Đột nhiên im bặt. - Bác sĩ? - Emma gọi. - Todd! Vẫn ai trả lời. - Chỉ huy liên lạc, tôi mất liên lạc với bác sĩ. - . - tôi cần nối lại đường dây. Mọi liên lạc dừng lại. Rồi sau đó. - Hãy chờ, Trạm vũ trụ quốc tế! chờ như thể vô vọng. Cuối cùng, khi giọng của Todd xuất trở lại, thấy nó bé hẳn. ấy bị đe dọa, Emma nghĩ. - Họ nghe lén, đúng ? - hỏi. - Đúng! - Đáng lẽ đây là cuộc chuyện riêng của gia đình! Đây là đường dây riêng mà! - còn gì riêng tư nữa. Hãy nhớ điều đó. nuốt khan, cố nén cơn tức giận. - Được rồi, tôi lại phải tha thứ cho cái trò này. Những hãy cho tôi biết là hiểu về sinh vật này. Hãy cho tôi biết tôi có thể dùng thuốc gì để chống lại nó? - Tôi e là chưa có nhiều điều để cho biết. Tôi vừa chuyện với Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm, với bác sĩ Roman, người chịu trách nhiệm về dự án Chimera. Tin tức của ta được tốt lắm. Toàn bộ các thử nghiệm với thuốc kháng sinh và kháng giun sán của họ thất bại. ta Chimera có quá nhiều ADN lạ, và lúc này nó giống nhiễm sắc thể của động vật có vú hơn bất cứ thứ khác. Điều đó nghĩa là, nếu chúng ta dùng loại thuốc gì nó cũng giết chết chính chúng ta. - Họ thử thuốc chống ung thư chưa? Sinh vật này nhân lên quá nhanh, nó như khối u vậy. Ta có thể chống lại nó bằng cách đó ? - Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm thử thuốc ức chế gián phân và hy vọng có thể tiêu diệt nó trong quá trình giảm phân. Nhưng may, liều thuốc họ cần mạnh đến nỗi nó giết chết cả con vật chủ. Toàn bộ chất nhầy trong ruột bị ăn hết. Con vật chủ chảy máu đến chết. Đó là cái chết khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Emma nghĩ. Ruột và dạ dày bị xuất huyết. Máu trào ra từ miệng và trực tràng. chứng kiến cái chết như vậy khi còn ở trái đất. Thậm chí nó còn đáng sợ hơn nhiều, các cục máu lớn bay đầy phòng như các quả bóng khổng lồ màu đỏ tươi, nó bắn tung tóe khắp nơi và bắn vào cả phi hành đoàn. - Vậy chưa có cách nào. - buồn rầu. Todd gì. - có cách nào sao? có cách nào để giết chết con chủ à? - Họ chỉ nhắc đến thứ. Nhưng Roman tin đó chỉ là tác động tạm thời, chứ phải là cách chữa trị. - Cách gì vậy? - Đó là cách điều trị trong phòng bội áp suất. Nó đòi hỏi áp suất nhất là mười at-mốt-phe, tương đương với áp suất khi lặn xuống độ sâu hơn ba trăm mét, Những con vật bị nhiễm bệnh được giữ dưới áp suất cao như vậy vẫn còn sống sáu ngày sau khi bị nhiễm bệnh. - Phải ít nhất là mười at-mốt-phe à? - Chỉ cần thấp hơn, quá trình nhiễm bệnh tiếp tục như bình thường. Và sinh vật chủ chết. kêu lên bực tức. - Ngay cả khi chúng ta bơm được áp suất khí cao mức đó mười at-mốt-phe cao hơn mức trạm vũ trụ có thể chịu được. - Mức hai at-mốt-phe gây áp lực lên thân tàu rồi. - Todd . - Thêm vào đó, cần máy áp suất bơm khí heli và ô-xi. thể tạo ra thứ đó trạm vũ trụ. Đó là lý do tôi muốn nhắc đến nó. Trong tình huống của thông tin đó vô ích thôi. Chúng tôi xem xét khả năng đưa phòng bội áp suất lên trạm vũ trụ. Nhưng việc đưa thiết bị cồng kềnh như vậy. - thứ tạo áp suất cao mức đó. - cần đến khu chở hàng của tàu Endeavour. Vấn đề là con tàu đó được đưa vào giai đoạn sửa chữa. mất ít nhất hai tuần để đưa phòng bội áp suất lên tàu và phóng tàu. Điều đó nghĩa là chúng ta phải gắn tàu con thoi vào trạm vũ trụ, khiến toàn bộ tàu Endeavour và phi hành đoàn có nguy cơ bị lây bệnh. - dừng lại. - Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm lựa chọn đó được chấp thuận. im lặng, tức giận của lên cao trào. Hy vọng duy nhất của họ, phòng bội áp suất đòi hỏi họ phải trở về trái đất. Điều đó cũng khả thi. - Ta phải lợi dụng được thông tin này chứ. - . - Hãy giải thích cho tôi! Tại sao biện pháp dùng bội áp suất của họ lại có tác dụng? Tại sao Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm nghĩ đến việc thử nó? - Tôi hỏi bác sĩ Roman câu hỏi đó. - ta gì? - Đó là sinh vật mới lạ. Nó đòi hỏi chúng ta sử dụng biện pháp mới. - ta trả lời câu hỏi của . - Đó là tất cả những gì ta với tôi. Áp suất mười at-mốt-phe vượt mức chịu đựng của con người. Emma từng là thợ lặn rất lành nghề nhưng chưa bao giờ dám lặn sâu quá chín mươi mét, độ sâu chín mươi mét chỉ dành cho những kẻ điên. Tại sao Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bện lây nhiễm lại muốn thử nghiệm mức áp suất cực đại như vậy? Chắc chắn họ có lý do, nghĩ. Họ biết điều gì đó về sinh vật này nên họ nghĩ cách đó có tác dụng. Họ giấu NASA chuyện gì đó.
Chương 22 HAI MƯƠI HAI Lý do Gordon Obie có biệt danh Nhân sư chưa bao giờ được thể như chuyến bay đến San Diego. Họ đăng ký trong các máy bay phản lực T-38 ở sân bay Ellington, Obie ngồi ở khoang điều khiển, còn Jack ngồi thu mình trong ghế hành khách. Họ hầu như với nhau lời nào, điều đó hề lạ. Máy bay T-38 thuận tiện để chuyện vì hành khách và phi công ngồi thẳng hàng với nhau như hai hạt đậu đặt trong vỏ. Nhưng ngay cả khi họ ngồi duỗi chân sau hơn tiếng rưỡi bay trong gian chật chội, Obie vẫn bị cuốn vào cuộc chuyện nào. Duy nhất lần, khi họ đứng mép đường nhựa, uống trà, Bác sĩ Peppers lấy từ máy bán đồ uống tự động, ông mới chợt thốt ra lời bình phẩm. - Nếu ấy là vợ tôi tôi cũng sợ lắm. Rồi ông ném chai nước vào thùng rác, bước trở về máy bay. Sau khi hạ cánh ở sân bay Lindbergh, Jack nhận lái chiếc xe họ thuê được. Họ về phía bắc đến Interstate 5, đến La Jolla. Gordon hầu như gì mà chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ. Jack luôn nghĩ Gordon giống cỗ máy hơn con người. tưởng tượng ra bộ não như máy tính ghi nhận các khung cảnh lướt qua như các chuỗi dữ liệu: ĐỒI, ĐƯỜNG XÁ, XÂY DỰNG NHÀ CỬA. Mặc dù Gordon từng là phi hành gia nhưng ai ở NASA thực hiểu ông. Ông mẫn cán xuất trong toàn bộ các kiện xã hội của họ, nhưng đứng mình, im lặng và làm cái bóng đơn nhấm nháp gì khác ngoài đồ uống thích là trà Bác sĩ Peppers. Dường như ông hoàn toàn thấy thoải mái với im lặng của chính mình, coi đó là phần cá tính của mình, giống như việc ông chấp nhận cặp tai nhô ra cách hài hước và mái tóc cắt cẩu thả của mình. Nếu ai thực hiểu Gordon Obie đó là vì ông thấy cần thiết phải thể bản thân. Đó là lý do Jack ngạc nhiên khi nghe thấy câu bình luận của ông ở El Paso. Nếu ấy là vợ tôi tôi cũng sợ lắm. Jack thể tưởng tượng Nhân biết sợ hãi, cũng thể tưởng tượng ông kết hôn. Theo như biết Gordon từ trước đến giờ là người độc thân. Sương chiều cuộn vào từ phía biển khi họ lái xe vào chỗ đường vòng dẫn đến bờ biển La Jolla. Họ suýt nữa vào được Trung tâm Khoa học biển. Người ta treo tấm biển ghi đóng cửa, con đường phía sau dường như dẫn đến rừng cây bạch đàn. Chỉ khi lái xe cách tấm biển nửa dặm họ mới nhìn thấy tòa nhà kỳ quái, trông gần như khu pháo đài với các khối bê tông màu trắng nhìn ra biển. phụ nữ mặc áo khoác trắng của phòng thí nghiệm tiếp họ ở khu vực an ninh. - Rebecca Gould. - và bắt tay họ. - Tôi làm ở phòng ngay cạnh Helen, tôi chuyện với các vụ sáng nay. - Với mái tóc ngắn, thân hình chắc nịch, Rebecca trông ra nam, cũng chẳng ra nữ. Ngay cả giọng ồm ồm của cũng khó nhận biết. Họ thang máy xuống tầng hầm. Tôi biết tại sao các vị lại nằng nặc đòi xuống đây. - Rebecca . - Như tôi qua điện thoại, Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm dọn sạch văn phòng của Helen. - chỉ vào cánh cửa. - Các vị có thể tự xem xem họ để lại những gì. Jack và Gordon vào phòng thí nghiệm, kinh ngạc nhìn quanh. Các ngăn kéo đựng tài liệu đều trống trơn. Các kệ và mặt tủ bị lấy hết thiết bị và còn nhìn thấy ống nghiệm nào. Chỉ các bức ảnh trang trí tường còn được giữ lại, hầu hết là các bức ảnh khi du lịch. Đó là các bức ảnh lôi cuốn, có cảnh các bãi biển nhiệt đới, cọ và những nước da bánh mật lấp lóa dưới ánh nắng. - Tôi dọc hành lang để về phòng hôm đó đột nhiên họ xuất . Tôi nghe thấy nhiều giọng vui và cả tiếng kính vỡ. Tôi nhìn qua cánh cửa và thấy bọn họ lục tung hồ sơ, máy tính. Họ lấy mọi thứ. Lò ấp trứng với các mẻ thí nghiệm của ấy, các ngăn đựng mẫu thí nghiệm sinh vật biển, cả những con ếch ấy nuôi ở khu đất đằng kia. Các trợ lý của tôi la hét đòi họ dừng lại, họ tuôn ra biết bao nhiêu câu hỏi. Tôi tự động chạy lên phòng tiến sỹ Gabriel ở lầu. - Gabriel à? - Ông Palmer Gabriel, chủ tịch công ty của chúng tôi. Ông ấy cũng xuống, cùng viên thụ ủy của Trung tâm Khoa học biển. Họ cũng thể ngăn hành động cướp phá đó. Quân đội vào, mang theo các hộp giấy lớn và họ khuân hết mọi thứ. Họ còn lấy bữa trưa của các nhân viên! - mở tủ lạnh và chỉ vào các ngăn tủ trống . - Tôi cũng tại sao các vị đến đây. - Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều tìm Helen Koenig. - Tôi rồi. ấy từ chức. - biết tại sao ? Rebecca nhún vai. - Đó là điều mà Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm hỏi tôi mãi. ấy có bực tức gì khi ở Trung tâm Khoa học biển ? Tôi đảm bảo có điều đó. Tôi nghĩ ấy chỉ mệt mỏi vì bị vắt kiệt sức khi làm việc bảy ngày tuần. Chỉ có Chúa mới biết ấy làm như vậy bao lâu. - Và ai tìm thấy ấy. Rebecca hất cằm lên giận dữ. - Rời thị trấn phải là tội. Điều đó có nghĩa ấy là tên khủng bố. Nhưng Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm coi Trung tâm thí nghiệm này như trường gây án, như thể ấy gây mầm vi rút Bola hay thứ gì đại loại như vậy. Helen nghiên cứu Archaeons, các vi khuẩn vô hại. - có chắc đó là dự án duy nhất được thực trong phòng thí nghiệm này ? - Ông hỏi tôi có theo dõi Helen à? Tất nhiên là . Tôi còn bận rộn với công việc của mình. Nhưng Helen có thể làm gì khác nữa? ấy mất hàng năm trời nghiên cứu Archaeon. Mẫu thí nghiệm mà ấy gửi lên Trạm vũ trụ quốc tế là phát của ấy. ấy coi đó là niềm vui riêng - Có ứng dụng kinh tế nào của Archaeon ? Rebecca ngập ngừng - Tôi… biết. - Vậy tại sao họ lại nghiên cứu chúng vũ trụ? - Các vị chưa từng nghe từ “khoa học thuần túy” sao, bác sĩ McCallum? Vì chính hiểu biết đó? Đây là các sinh vật và hấp dẫn, Helen tìm thấy loại này ở khe nứt Galapagos, gần miệng núi lửa ở hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Ở áp suất sáu trăm at-mốt-phe và nhiệt độ sôi, các sinh vật này vẫn sinh sôi. Nó cho chúng ta thấy sống có thể thích nghi mức nào. rất tự nhiên nếu chúng ta thắc mắc biết điều gì xảy ra nếu chúng ta đưa dạng sống đó ra khỏi môi trường quá khắc nghiệt của nó và đưa lên môi trường thân thiện hơn, nơi còn hàng nghìn pao sức mạnh đè lên nó, và còn trọng lực hạn chế phát triển của nó. - Xin lỗi. - Gordon ngắt lời, cả hai quay lại nhìn ông. Ông khắp phòng thí nghiệm, nhìn mọi ngăn tủ và từng thùng rác. Giờ ông đứng trước trong các tấm ảnh du lịch treo tường. Ông chỉ tấm ảnh được gắn vào góc của bức tranh. Trong đó có chiếc máy bay đậu đường nhựa. Dưới hai cánh máy bay là hai phi công. - Bức ảnh này lấy ở đâu vậy? Rebecca nhún vai. - Sao tôi biết được. Đây là phòng thí nghiệm của Helen mà. - Đó là chiếc KC-135. - Gordon . Giờ Jack hiểu tại sao Gordon lại tập trung vào bức ảnh. KC-135 là loại máy bay tương tự mà NASA dùng để giới thiệu môi trường trọng lượng siêu cho các phi hành gia. Khi bay trong các đường vòng parabol khổng lồ, nó như vòng quay tạo ra khí và tạo ra ba mươi giây trọng lượng trong mỗi lần lao xuống. - Koenig có sử dụng chiếc KC-135 nào trong thí nghiệm của ấy ? - Jack hỏi. - Tôi biết ấy ở bốn tuần tại sân bay ở bang New Mexico. Tôi biết họ dùng loại máy bay gì. Jack và Gordon nhìn nhau hiểu ý. Bốn tuần nghiên cứu với chiếc KC-135 ngốn rất nhiều tiền. - Ai chi trả cho khoản tiền lớn như vậy? - Jack hỏi. - Đó chính là tiến sỹ Gabriel. - Chúng tôi chuyện với ông ấy được ? Rebecca lắc đầu. - Các vị thể đường đột đến thăm ông Palmer Gabriel được. Ngay cả các nhà khoa học làm việc ở đây cũng hiếm khi thấy ông ấy. Ông ấy có các trang thiết bị nghiên cứu khắp nước Mỹ nên bây giờ có lẽ ông ấy có trong thành phố. - câu hỏi khác. - Gordon xen ngang. Ông đến chỗ nuôi động vật, nhìn vào đám rêu và sỏi xếp ở đáy. - Cái lồng này dành cho con gì vậy? - Những con ếch. Tôi về chúng, ông nhớ ? Chúng là những con vật cưng của Helen. Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm lấy chúng cùng những thứ khác. Gordon đột nhiên đứng thẳng lên nhìn . - Loại ếch gì? cười kinh ngạc. - Tại sao những người ở NASA luôn đặt ra những câu hỏi quái dị như vậy? - Tôi chỉ tò mò loại ếch nào được coi như thú cưng tôi. - Tôi nghĩ đó là loài ếch đốm. Nếu là tôi, tôi thích chó xù hơn. Chúng quá gầy gò như vậy. - nhìn đồng hồ. - Được rồi, các quý ông, còn câu hỏi nào nữa ? - Tôi nghĩ tôi hỏi hết. Cảm ơn! - Gordon . Ông gì và ra ngoài. Họ ngồi trong chiếc xe thuê, sương từ biển thổi vào cuộn quanh cửa sổ của họ, làm mờ tấm kính. Rana pipien, Jack nghĩ, loài ếch đốm phương bắc, trong ba động vật có trong nhiễm sắc thể của Chimera. - Đây chính là nguồn gốc của nó. - Jack . - Phòng thí nghiệm này. Gordon gật đầu. - Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm biết nơi này cách đây tuần. - Jack tiếp. - Sao họ biết điều đó? Sao họ biết Chimera bắt nguồn từ Trung tâm Khoa học biển? Phải có cách gì đó buộc họ chia sẻ thông tin với chúng ta. - Nếu đó phải là vấn đề an ninh. - NASA phải là kẻ thù. - Có thể họ nghĩ chúng ta là kẻ thù. Có thể họ tin mối đe dọa đến từ NASA. - Gordon nhận định. Jack nhìn ông. - trong số chúng ta à? - Đó là trong hai lý do tại sao Ủy ban An ninh loại chúng ta ra. - Còn lý do khác? - Vì họ là những kẻ khốn. Jack cười to và bật về sau ghế. Cả hai gì lúc. Ngày hôm nay khiến họ ngạc nhiên và họ còn phải bắt chuyến bay về Houston. - Tôi thấy mình đấm vào khí. - Jack và ấn tay vào mắt. - Tôi biết tôi chống lại ai, chống lại cái gì. Nhưng tôi thể dừng lại đấu tranh được. - ấy cũng là người phụ nữ khiến tôi thể bỏ cuộc. - Gordon . ai trong số họ nhắc đến tên nhưng họ đều hiểu họ về Emma. - Tôi nhớ ngày đầu tiên ấy đến Johnson. - Gordon . Trong ánh sáng lờ mờ lẫn trong sương mù, khuôn mặt chất phác của Gordon như bức vẽ phác họa trong bóng màu xám. Ông ngồi im, mắt nhìn thẳng về phía trước, đó là người đàn ông ủ rũ và vô vị. - Tôi nhìn ấy khi bước vào lớp đào tạo các phi hành gia. Tôi nhìn lượt những gương mặt mới. Và ấy ở đó, hàng ghế đầu, chính giữa, sợ bị gọi, sợ ai trêu chọc, sợ gì hết. - Ông dừng lại, khẽ lắc đầu. - Tôi cho ấy bay lên. Mỗi khi ấy được chọn vào phi hành đoàn mới tôi lại muốn xóa tên ra khỏi danh sách. phải vì ấy đủ khả năng. tệ là phải vậy. Tôi chỉ muốn nhìn ấy bay khỏi bệ phóng đó và biết rằng mọi việc có thể trục trặc. - Ông đột nhiên ngừng lại. Jack chưa bao giờ hy vọng ông lại nhiều như vậy, Gordon chưa bao giờ bộc lộ cảm xúc của mình nhiều đến thế. Những điều ông khiến Jack ngạc nhiên. có thể nghĩ ra vô số lý do luôn Emma. Người đàn ông nào cơ chứ? tự hỏi. Ngay cả Gordon Obie cũng ngoại lệ. bắt đầu nổ máy, kính chắn lau sạch hơi ẩm do sương. năm giờ chiều, họ bay trở về Houston khi trời tối. lái xe ra khỏi khu đậu xe và rẽ tới lối ra. Khi mới được nửa đường, Gordon . - Cái quái gì vậy? Jack ấn mạnh phanh khi chiếc ô tô mũi kín màu đen ép họ sang bên đường, tiến về phía họ trong sương mù. Giờ chiếc xe khác lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và phanh gấp lại. Bộ phận hãm xung phía trước của nó chạm vào xe của họ. Bốn người đàn ông xuất . Jack cứng người khi cửa xe của bị giật mạnh, ai đó ra lệnh. - Thưa các ông, hãy ra khỏi xe! Cả hai! - Để làm gì! - Các vị ra khỏi xe ngay. Gordon khẽ. - Tôi có cảm giác việc này thương lượng được. Họ miễn cưỡng ra khỏi xe, bị vỗ nhanh mấy phát và ví của họ rơi ra. - Ông ấy muốn chuyện với cả hai. Vào ghế sau! Người đàn ông chỉ vào trong những chiếc xe màu đen. Jack nhìn lượt những người nhìn họ. Kháng cự là vô ích, đó chính là những từ tóm gọn lại tình thế của họ. và Gordon bước về phía chiếc xe màu đen và chui vào ghế sau. người đàn ông ngồi ở ghế trước. Họ chỉ nhìn thấy phía sau đầu và vai của ông ta. Ông ta có mái tóc bạch kim dầy, chải ngược về phía sau và mặc bộ com lê màu xám. Cửa sổ chỗ ông ta ngồi được kéo kính lên, hai cái ví của họ được đưa cho ông ta. Ông ta đóng cửa sổ lại, đó là tấm kính được tráng màu để tránh những cặp mắt tò mò. Ông ta xem những vật bên trong hai chiếc ví. Ông ta quay về hai vị khách ngồi ở ghế sau. Ông ta có cặp mắt sẫm màu, trông gần giống đá vỏ chai và dường như chúng trống rỗng, phản chiếu hình ảnh của vật. Hai hố mắt đó chỉ thu ánh sáng. Ông ta ném hai chiếc ví lên đùi Jack. - Các vị đoạn đường rất xa từ Trung tâm Houston. - Chắc chắn chúng tôi rẽ nhầm vào El Paso. - Jack . - NASA muốn gì ở đây? - Chúng tôi muốn biết mẻ tế bào các vị gửi lên thực ra là gì. - Việc nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đến đây. Họ dọn sạch nơi đó. Họ lấy mọi thứ, các hồ sơ nghiên cứu của bác sĩ Helen Koenig, cả máy tính của ấy nữa. Nếu các vị có thắc mắc gì tôi khuyên các vị nên hỏi họ. - Việc nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm cho chúng tôi biết gì cả. - Đó là vấn đề của các vị, phải của tôi. - Helen Koenig làm việc cho ông, tiến sỹ Gabriel ạ. Ông biết trong phòng thí nghiệm của ông có việc gì sao? Căn cứ vào biểu của ông ta, Jack nghĩ đoán đúng. Đây chính là người sáng lập Trung tâm Khoa học biển, Palmer Gabriel. Đó là cái tên quá lý tưởng cho người đàn ông có cặp mắt sáng sủa chút nào. - Tôi có hàng trăm nhà khoa học làm việc cho tôi. - Gabriel . - Tôi có các cơ sở ở Massachusetts và Florida. Tôi thể biết hết những chuyện diễn ra trong phòng thí nghiệm đó. Và tôi cũng chịu trách nhiệm về bất cứ phạm pháp nào của nhân viên. - Đây phải là phạm pháp. Đây là quái vật được người ta chế tạo ra. - sinh vật có thể giết chết toàn bộ phi hành đoàn. Và nó bắt nguồn từ phòng thí nghiệm của ông. - Các chuyên gia nghiên cứu của tôi tự quản lý mọi dự án của họ. Tôi can thiệp. Tôi cũng là nhà khoa học, bác sĩ McCallum ạ. Và tôi hiểu khoa học làm việc hết mình khi nó có tự do tuyệt đó. Đó là tự do chìm trong tò mò của họ. Cho dù Helen làm gì đó là việc của riêng ấy. - Tại sao lại nghiên cứu Archaeon? ấy muốn tìm cái gì? Ông ta cúi mặt, họ chỉ thấy phần sau đầu ông ta có các mớ tóc bạch kim. - Kiến thức luôn bổ ích. Đầu tiên chúng ta thể nhận ra lợi ích của nó. Ví dụ như có thể có ích lợi gì khi biết các thói quen sinh sản của sên biển? Rồi sau đó, chúng ta biết được các hooc-môn hữu ích mà chúng ta chiết xuất từ những con sên biển chậm chạp. Rồi đột nhiên, chúng trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống. - Vậy Archaeon có tác dụng gì? - Đó là câu hỏi hay phải ? Đó chính là điều chúng tôi làm ở đây, nghiên cứu sinh vật cho đến khi chúng tôi tìm ra công dụng của nó. - Ông ta chỉ về viện nghiên cứu, giờ mờ trong sương. - Các vị thấy nó hướng ra biển. Toàn bộ các tòa nhà của tôi đều gần biển. Đó là giếng dầu của tôi. Đó là nơi tôi tìm ra thuốc chữa bệnh ung thư mới, nơi có phương thuốc điều trị kỳ diệu. Vị trí đó rất có ý nghĩa, vì đó là nơi khởi nguồn của chúng ta, là nơi chúng ta sinh ra. Toàn bộ các dạng sống đều bắt nguồn từ biển. - Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của chúng tôi. Archaeon có giá trị kinh tế gì? - Điều đó còn phải xem. - Vậy tại sao phải đưa nó lên vũ trụ? ta phát điều gì chuyến bay bằng chiếc KC-135? Trọng lượng có vai trò gì? Gabriel kéo cửa xuống, ra hiệu cho hai người đàn ông. Cửa sau bật mở. - Giờ hãy ra ngoài! - Chờ ! - Jack . - Helen Koenig đâu? - Tôi gặp ấy kể từ khi ấy từ chức. - Tại sao ấy lại cho hủy toàn bộ mẻ tế bào? Jack và Gordon bị lùa ra khỏi ghế sau và áp giải về xe của họ. - ta lo sợ gì? - Jack hét lên. Gabriel trả lời. Cửa xe của ông ta đóng lại, mặt ông ta biến mất sau tấm kính màu. Chương 23 HAI MƯƠI BA Ngày 18 tháng 8 Luther tháo lượng khí cuối cùng còn sót lại trong phòng chặn khí ra ngoài gian và mở cánh cửa ra gian. - Tôi trước. - . - làm chậm thôi. luôn thấy sợ khi lần đầu ra ngoài. Khi mới thoáng thấy trống trải của gian bên ngoài, Emma hơi hoảng và phải bám vào mép cửa. biết cảm giác chỉ là nhất thời, rồi nó qua , rằng bất cứ ai lần đầu tiên ra ngoài gian cũng bị choáng ngợp khi còn khái niệm dưới. Hàng triệu năm tiến hóa hằn sâu vào não bộ của con người nỗi sợ bị rơi, đây là điều Emma cố vượt qua. Mỗi bản năng đều cho biết rằng nếu buông tay ra, nếu ra khỏi cánh cửa, phóng vọt lên, la hét trong lúc rơi vô tận. Nhưng nếu suy nghĩ logic, biết điều đó xảy ra. được nối với khoang chặn khí bằng sợi dây. Nếu sợi dây đó bị đứt, dùng bộ quần áo cứu hộ đơn giản hóa khi ra ngoài gian để bay trở về trạm. Nhiều rủi ro gây ra thảm họa lớn. Đúng, đó chính là việc xảy ra trạm vũ trụ quốc tế, nghĩ. Hết rủi ro này đến rủi ro khác. Đây chính là con tàu Titanic của chính họ trong vũ trụ. thể nào rũ bỏ cảm giác tai họa nữa lại sắp giáng xuống đầu họ. Họ làm theo qui định. Thay vì ở suốt đêm trong khoang giảm áp suất như bình thường, họ chỉ ngủ bốn tiếng trong khoang chặn khí. Về mặt lý thuyết, họ phải ở trong đó đủ thời gian để phòng bệnh bị ép khí, nhưng nếu thêm vào bất cứ thủ tục thông thường nào họ gặp nguy hiểm. hít sâu và cảm thấy nỗi sợ bắt đầu tan . - sao rồi? - nghe thấy Luther trong điện đàm. - Tôi… chỉ tận dụng mấy phút để chiêm ngưỡng cảnh này. - . - Có vấn đề gì ? - . Tôi rất ổn. - buông tay và bay ra ngoài cánh cửa. Diana sắp chết. Griggs cay đắng nhìn màn hình cho thấy Emma và Luther làm việc bên ngoài trạm. Những con ong mật, nghĩ. Những con rô-bốt biết tuân lệnh và nhảy cẫng lên khi có mệnh lệnh từ Houston. Trong nhiều năm qua, cũng là con ong chăm chỉ. Chỉ lúc này mới hiểu vị trí của mình trong hệ thống khổng lồ. và mọi người khác đều có thể bị loại bỏ khi tham gia vào các bộ phận nhân thay thế người trạm. Họ chỉ có chức năng cơ bản là duy trì phần cứng hoành tráng của NASA. Chúng ta có thể chết hết này, đúng vậy, thưa quý ông, nhưng chúng ta phải giữ cho nơi này có trật tự. Họ có thể loại bỏ , NASA lừa dối , lừa dối tất cả bọn họ. Hãy cứ để Emma và Luther làm tốt vai trò của mấy tay lính quèn, còn thiết tha với nó nữa. chỉ nghĩ về Diana. rời phòng sinh hoạt, về khoang dịch vũ Nga ở cuối trạm. Chui qua tấm nhựa bọc bên ngoài cánh cửa, vào khoang. đeo khẩu trang hay kính bảo vệ, làm thế có gì khác đâu? Họ đều sắp chết. Diana bị buộc vào bàn điều trị. Mắt sưng phồng lên, hai mí mắt sưng húp. Bụng trước kia lúc nào cũng dẹt phẳng lì, nhưng giờ nó cũng trương lên. Trong đó đầy trứng, nghĩ. hình dung ra chúng sinh sôi nảy nở bên trong , phát triển dưới lớp da xanh xao của . chạm lên má . Cặp mắt hằn những vệt máu của mở to, cố tập trung vào khuôn mặt . - đây. - Griggs thầm. thấy cố dứt tay ra khỏi dây buộc. nắm chặt lấy tay . - Em phải giữ yên tay, Diana. Để gắn điện tâm đồ. - Em thấy . - khóc thút thít. - Em chẳng thấy gì cả. - ở đây. ở ngay cạnh em. - Em muốn chết thế này. nhắm chặt mắt để nước mắt trào ra. muốn câu gì đó để an ủi giả tạo rằng chết, rằng để chết. Nhưng những lời đó thốt ra được. Họ luôn lòng với nhau, lúc này dối . Vì vậy gì. . - Em chưa bao giờ nghĩ… - Gì vậy em? - nhàng gợi ý - Rằng… nó xảy ra thế nào. có cơ hội thể mình là hùng. Em ốm yếu và vô dụng. - cười lớn, rồi nhăn nhó vì đau. - Đây giống điều em nghĩ về vầng hào quang. vầng hào quang. Đó chính là điều mỗi phi hành gia tưởng tượng khi chết trong vũ trụ. Chỉ sợ hãi chốc lát, và chết trong vinh quang, bị hạ áp suất đột ngột hay bị hỏa hoạn. Họ chưa bao giờ tưởng tượng họ chết như thế này, cái chết chậm rãi, đau đớn, bị đuối sức dần và bị dạng sống khác ăn mòn, bị cách ly với trái đất, lặng lẽ hy sinh vì những điều tốt đẹp, vĩ đại hơn của loài người. Họ có thể hy sinh. có thể chấp nhận điều đó cho chính mình, nhưng thể chấp nhận hy sinh của Diana. thể chấp nhận là sắp mất . khó tin ngày đầu tiên họ gặp nhau, trong kỳ huấn luyện tại Trung tâm vũ trụ Johnson. nghĩ lạnh lùng và khó gần, tóc vàng hoe quá tự tin. Chất giọng của cũng khiến thấy khó chịu vì nó khiến có vẻ kẻ cả bề . Nó giòn tan và thượng lưu so với giọng lè nhè xứ Texas của . Trong tuần đầu tiên, họ ưa gì nhau đến nỗi bao giờ chuyện với nhau. Đến tuần thứ ba, theo cầu của Gordon Obie, họ phải miễn cưỡng ngừng chiến. Đến tuần thứ tám, Griggs xuất trước cửa nhà . Đầu tiên chỉ là để uống nước, hai chuyên gia bàn về các nhiệm vụ sắp tới của họ. Rồi cuộc chuyện về công việc lại dẫn đến những vấn đề riêng tư, đó là cuộc hôn nhân hạnh phúc của Griggs, và nghìn lẻ trong những mối quan tâm mà cả và Diana đều có. Tất nhiên, nó dẫn đến điều tránh khỏi. Họ che giấu cuộc tình vụng trộm của mình với mọi người ở Trung tâm vũ trụ Johnson. Chỉ ở đây, trạm vũ trụ mối quan hệ của họ mới công khai trước các đồng nghiệp. Nếu có chút nghi ngờ gì về việc này trươc đó Blankenship loại họ ra khỏi nhiệm vụ bay này. Ngay cả trong thời đại, vụ ly hôn của phi hành gia cũng là vết nhơ trong nghiệp của , nhất là khi vụ ly hôn đó lại do mối quan hệ bất chính với thành viên khác trong phi hành đoàn các nhiệm vụ bay trong tương lai của kết thúc. Griggs chỉ còn là kẻ vô hình trong công ty, ai nhìn thấy hay nghe thấy về nữa. suốt hai năm qua. Trong hai năm đó, cứ khi nào nằm cạnh vợ giường lại khao khát Diana, cố tìm ra cách nào đó để họ có thể gần nhau. ngày nào đó, họ được gần bên nhau, cho dù họ có phải nghỉ việc ở NASA. Đó là giấc mơ nâng đỡ trong suốt những đêm buồn bã. Ngay khi sống cùng hai tháng trong gian chật hẹp, vẫn . từ bỏ giấc mơ đó cho đến lúc này. - Hôm nay thứ mấy? - lẩm bẩm. - Thứ sáu. - lại luồn tay vào tóc . - Ở Houston lúc này là năm giờ rưỡi chiều. giờ vui vẻ. cười. - Giờ tan tầm. - Giờ họ ngồi ở quán rượu, nhấm nháp khoai tây chiên và thịt bò hầm. Lạy Chúa, có thể làm việc đó bằng ngụm rượu. Hoàng hôn rất đẹp. Em và ở hồ… Những giọt nước mắt lấp lánh quanh khóe mắt khiến tim tan nát. còn nghĩ gì về ô nhiễm sinh học hay về mối đe dọa bị lây nhiễm nữa. dùng tay lau nước mắt cho . - Em đau ? - hỏi. - Em cần thêm thuốc giảm đau ? - . Hãy để dành nó! - Sớm muộn có người cần nó thôi, đó là điều ra. - nghe em muốn gì. có thể làm gì cho em? - Em khát quá. - . - Tại về rượu đó. cười. - pha cốc cho em. Kiểu có cồn nhé. - Hay lắm! bay đến khoang dịch vụ, mở ngăn đựng đồ ăn. Ở đó đầy các đồ của Nga, khác với khoang của Mỹ. thấy cá muối tiệt trùng, xúc xích, khay các món ăn của Nga. Và vodka. - chỉ có chai được người Nga gửi lên dùng cho các nhu cầu về y tế. Đây có thể là lần cuối cùng chúng mình uống cùng nhau. rót ít vodka vào hai cái túi uống nước, để chai vào chỗ cũ. Rồi cho thêm nước vào hai túi, đặc biệt là túi của để nó còn mùi cồn nữa. nghĩ chỉ nhấm ngụm để nhớ lại những kỷ niệm xưa, để nhớ lại những buổi tối họ ở cùng nhau, ngắm hoàng hôn từ sân trong nhà . lắc túi đều để vodka và nước tan vào nhau. Rồi quay lại với . giọt máu đỏ tươi rỉ ra từ miệng . co giật. Mắt trợn ngược, răng cắn chặt lấy lưỡi. sợi cơ lưỡi vẫn còn bám lơ lửng ở đầu lưỡi. - Diana! - hét lên. Giọt máu đó vỡ ra, giọt bóng như vải sa tanh trôi mất. Ngay lập tức, lại có giọt khác hình thành do máu lại tiếp tục rỉ ra từ chỗ thịt bị cắn đứt. chụp lấy tấm nhựa dùng để cắn được gắn vào bàn cố định bệnh nhân. cố nhét nó vào miệng , để bảo vệ các mô mềm của bị tốn thương. Nhưng thể tách răng ra được. Hàm của con người là trong các bó cơ khỏe nhất cơ thể, và hàm cắn chặt. lấy ống Valium, tính toán số lượng, chuẩn bị tiêm và nhét vào van điện tâm đồ. Khi ấn pit-tông xong, cơn co giật của bắt đầu giảm. tiêm cho hết liều. - Diana? - gọi. trả lời. giọt máu khác chuẩn bị hình thành và phun ra từ miệng . phải dùng áp suất để ngăn nó lại. mở hộp dụng cụ y tế và tìm thấy gạc tiệt trùng. mở gói đó, làm mấy gói hình vuông bay lung tung. đứng gần đầu , nhàng mở miệng để lộ ra chiếc lưỡi bị cắn rách. ho mạnh, cố quay mặt . cố nuốt máu vào trong, cố hít nó vào bên trong. - Đừng cử động, Diana. - ấn khuỷu tay vào hàm dưới của , cố giữ cho hàm mở ra. cầm mớ gạc bên tay trái và bắt đầu lau hết máu. Cổ đột ngột giật mạnh về sau do cơn co giật mới và hàm kẹp chặt lại. hét lên, phần thịt ở tay bị hàm răng giữ chặt, đau đến mức mắt bắt đầu nhòe . thấy máu nóng phụt lên mặt và thấy giọt sáng màu bắt đầu hình thành. Máu trộn với máu của . cố lôi tay ra nhưng răng găm quá chặt. Máu chảy, chất lỏng kia phồng lên bằng quả bóng rổ. Động mạch chính! thể tách hàm , cơn co giật khiến cơ của rút lại bằng lực mạnh nhất của con người. Mắt sắp tối sầm lại. tuyệt vọng cố dứt tay khỏi răng của . Nhưng hàm lỏng ra. đánh . Khối chất lỏng to bằng quả bóng rổ tách ra và chia thành hàng chục quả bóng hơn, bắn vào mặt và mắt . vẫn thể mở hàm . Giờ máu nhiều đến nỗi có cảm giác bơi trong hồ máu và thể hít được khí trong lành. điên cuồng đấm vào mặt và nghe thấy tiếng xương vỡ nhưng vẫn thể tách hàm ra. Nỗi đau rất khủng khiếp và thể chịu đựng được. hoảng loạn, cố đánh bất cứ thứ gì để đau nữa. nhận ra mình đánh liên tiếp. hét lên, cuối cùng cũng giật được tay ra và bay bật trở lại. ôm chặt khuỷu tay. Vài giọt máu bay vòng như những dải băng màu đỏ xung quanh . đập vào tường nhiều lần, cố cho mắt mình sáng trở lại. cố nhìn vào khuôn mặt biến dạng của và hàm răng dính đầy máu của . Điều đó chính là do làm. Tiếng rú tuyệt vọng của vang vào các bức tường, tai chỉ còn nghe thấy thanh đau khổ của chính mình. Mình vừa làm gì? Mình vừa làm gì thế này? bay đến bên cạnh , ôm khuôn mặt biến dạng của trong tay. còn cảm thấy đau đớn do vết thương nữa, nó còn và bị nỗi sợ về hành động của chính át hết . rú lên tiếng nữa, lần này là do tức giận. đấm vào bức tường, xé toang tấm chắn che cánh cửa. Dù sao tất cả chúng ta chết! Rồi nhìn chăm chăm vào hộp dụng cụ y tế. thò tay vào, lấy ra con dao mổ. Bác sĩ điều hành bay Todd Cutler nhìn bảng điều khiển và cảm thấy hoảng loạn. màn hình của có các số liệu y sinh của Diana Estes. Đường điện tâm đồ của đột biến thành các đường lên xuống rất mạnh. thở phào nhõm khi nó kéo dài. Nhưng ngay khi đó, các đường điện tâm đồ lại quay lại nhịp nhanh như trước. - Giám đốc điều hành bay. - . - Tôi phát có vấn đề với nhịp tim của bệnh nhân. Các đường điện tâm đồ của ấy cho thấy tâm thất đập quá nhanh ở mức 5-2. - Nguy hiểm ? - Woody Ellis hỏi ngắn gọn. - Nhịp tim như vậy dễ gây chết người nếu kéo dài. Giờ ấy bị hạ huyết áp chỉ còn ba mươi. ấy chưa bao giờ tụt huyết áp nhanh như vậy. Nó nguy hiểm nhưng nó khiến tôi lo lắng. - khuyên gì, bác sĩ? - Tôi nghĩ nên tiêm cho ấy thuốc chống loạn nhịp tim. ấy cần tiêm thêm lidocain hay amiodarone. Họ có cả hai loại thuốc đó trong gói đồ thuốc y tế. - Ames và Watson vẫn ngoài vũ trụ. Griggs phải tiêm cho ấy. - Tôi báo cho ấy. - Được rồi, chỉ huy liên lạc. Hãy liên lạc với Griggs. Trong khi họ chờ Griggs trả lời, Todd rời mắt khỏi màn hình. Điều nhìn thấy khiến lo sợ. Mạch của Diana tăng qua nhanh: trăm ba mươi lăm, trăm bốn mươi. Giờ nó tăng vọt lên trăm sáu mươi, các đường tim có lúc bị mất hẳn do bệnh nhân cử động quá mạnh hay do có điện tác động. Chuyện gì xảy ra đó vậy? Chỉ huy liên lạc . - Chỉ huy Griggs trả lời. - ấy cần được tiêm lidocain. - Todd . - Chúng tôi thể liên lạc với ấy. ấy thể nghe thấy chúng ta hay ấy chịu trả lời. Todd nghĩ. Họ lo lắng về tình hình tâm lý của Girggs. Có phải ấy hoàn toàn cắt đứt liên lạc rồi ? Ánh mắt của Todd đột nhiên dán chặt vào màn hình. Diana Estes sắp mất hết nhịp tim. Tâm thất của đập quá nhanh, chúng thể bơm máu hiệu quả nữa. Chúng thể duy trì huyết áp của . - ấy cần thuốc ngay bây giờ! - hét lên. - Griggs chịu trả lời. - Chỉ huy liên lạc . - Vậy hãy đưa đội ở ngoài gian vào trong! - ! Giám đốc điều hành bay xen ngang. - Họ ở thời điểm sửa chữa nhạy cảm. Chúng ta thể làm họ bị gián đoạn. - Tình hình của ấy ngày càng nguy kịch. - Nếu chúng ta gọi đội ngoài gian về, điều đó chấm dứt toàn bộ việc cửa chữa trong vòng hai tư giờ tới. - Nhóm đó thể vào trong và trở lại ngay được. Họ cần thời gian hồi sức, và thêm khoảng thời gian nữa để lặp lại quá trình hạ áp suất, Mặc dù Wooly Ellis điều đó nhưng có thể ông nghĩ điều tương tự những người khác trong phòng: nếu họ có gọi đội ngoài gian về trợ giúp họ cũng thể làm gì để cứu Dianna Estes. ấy thể tránh khỏi cái chết. Todd sợ hãi khi đường điện tim của lúc này dừng hẳn màn hình. Nó tăng trở lại nữa. - ấy xuống dốc! - . - Hãy gọi trong số họ vào trong ngay! Gọi Watson về! Họ lại lưỡng lự lần thứ hai. Rồi Giám đốc điều hành bay . - Hãy làm vậy! Tại sao Griggs trả lời? Emma điên vội vàng di chuyển từ tay cầm này sang tay cầm khác, di chuyển nhanh hết mức dọc theo tấm năng lượng mặt trời. thấy mình chậm chạp và vụng về trong bộ quần áo bộ ngoài gian. Tay bị đau do cố cử động trong đôi găng tay cứng đơ. kiệt sức sau khi sửa chữa. Giờ mồ hôi thấm đẫm bộ quần áo trong và các cơ của run rẩy vì mệt. - Griggs, trả lời ! Khốn kiếp! Trả lời ! - hét lên điện đàm. Trạm vũ trụ quốc tế vẫn im lặng. - Diana thế nào rồi? - hỏi trong khi thở hổn hển. Giọng của Todd xen vào. - Vẫn được nối điện tâm đồ. - Tệ ! - Đừng vội, Watson! Đừng bất cẩn! - ấy trụ được mất. Griggs ở chỗ quái nào rồi? hít thở khó nhọc đến nỗi thể chuyện được. bắt mình tập trung vào tay cầm tiếp theo, để sợi dây buộc bị rối tung lên. leo lên giàn năng lượng, nhảy về phía thang nhưng bỗng dừng lại. Tay áo bị vướng vào góc giàn năng lượng. Chậm lại! Mày tự giết mình đấy! thận trọng gỡ tay áo và thấy nó bị rách. Tim vẫn đập mạnh, tiếp tục leo xuống thang, đu mình vào khoang chặn khí. nhanh chóng đóng cánh cửa lại và mở van điều áp. - Hãy cho tôi biết, Todd! - hét lên khi khoang chặn khí bắt đầu điều áp. - Nhịp tim thế nào? - Mạch ấy rất yếu. Chúng tôi vẫn thể liên lạc với Griggs. - Chúng ta sắp mất ấy. - Tôi biết, tôi biết! - Được, áp suất lên mức năm at-mốt-phe. - Còn phải kiểm tra tương thích của khoang chặn khí. Đừng bỏ qua bước đó! - Tôi còn thời gian. - Watson, được làm tắt bước khốn kiếp nào hết! dừng lại, hít sâu. Todd đúng. Trong môi trường gian khắc nghiệt, người ta bao giờ được làm tắt. qua bước kiểm tra độ tương thích của khoang chặn khí, xong khâu hạ áp. mở cánh cửa tiếp theo, dẫn đến khoang đựng thiết bị. nhanh chóng thao đôi găng tay. Bộ quần áo cỡ M của Nga dễ cởi hơn bộ bộ ngoài gian của Mỹ nhưng vẫn mất nhiều thời gian cởi hệ thống hỗ trợ sống và chui ra ngoài. Mình chẳng bao giờ kịp, nghĩ và tức giận đá để chân tuột ra khỏi phần thân dưới. - Tình hình thế nào, bác sĩ? - hét lên trong điện đàm. - Giờ ấy còn đường tâm đồ. Tình hình rất xấu, Emma nghĩ. Đây là cơ hội cứu Diana cuối cùng của họ. Giờ chỉ còn lớp vải làm nguội nước, mở cánh cửa dẫn vào trạm. điên cuồng lao về phía bệnh nhân của mình. đâm vào các bức tường và lao đầu về phía cánh cửa mở. chất lỏng gì đó bắn vào mặt khiến mờ mắt. trượt tay cầm và đâm vào bức tường đằng xa. bị trôi lơ lửng mấy giây, nháy mắt cho chất lỏng đó ra hết. Mắt mình có gì vậy? nghĩ. phải là trứng, làm ơn, đó phải là những quả trứng… dần nhìn lại nhưng thể hiểu nổi mình nhìn thấy gì. Xung quanh , trong nút số 1 hơi tối là các quả cầu lồ. cảm thấy ngày càng có nhiều chất lỏng bám vào tay. cúi nhìn vết bẩn hơi đen làm ướt tay áo mình. nhìn những vết bẩn sẫm màu vỡ xung quanh mình và bắn lên lớp vải làm nguội nước của . đưa tay áo ra chỗ sáng hơn trong nút số 1. Vết bẩn đó là máu. hoảng hốt nhìn những quả cầu lơ lửng trong bóng tối. Chúng nhiều đến nỗi… lập tức đóng cảnh cửa để ngăn cho ô nhiễm lan vào khoang chặn khí. quá muộn để bảo về phần còn lại của trạm, các quả cầu đó lan ra khắp nơi. lao vào khoang sinh hoạt, mở hộp dụng cụ bảo vệ phi hành đoàn bị ô nhiễm và đeo khẩu trang, kính bảo vệ. Có thể máu lây nhiễm. có thể tự bảo vệ mình. - Watson? - Cutler hét lên. - Máu… máu ở khắp nơi. - Nhịp tim của Diana đột biến. - còn nhiều thời gian để ép tim nữa. - Tôi đến đó! - đẩy cánh cửa ở nút số 1 và vào khu Zarya như đường hầm. Khoang của Nga dường như sáng lờ mờ ở cuối khu của Mỹ. Các quả cầu máu như những quả bóng sặc sỡ lơ lửng trong khí. Vài quả lao vào tường, khiến khu Zarya biến thành màu đỏ tươi. lao về đầu kia của khoang và tránh được quả cầu máu khổng lồ lao thẳng về phía mình. Theo phản xạ nhắm mắt lại khi nó vỡ kính bảo vệ, che mất tầm nhìn của . trôi tự do, lấy tay áo lau kính để làm sạch vết máu. thấy mình nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng bệch như phấn của Michael Griggs. thét lên. hoảng hốt vùng vẫy vô vọng trong khí nhưng đến đâu cả. - Watson? nhìn các bong bóng máu vẫn bám quanh vết thương ở cổ . Máu bay ra từ chính chỗ này. - động mạch cổ bị cắt đứt. cố sờ vào phần cổ còn nguyên của để tìm mạch. thể bắt mạch được. - Điện tâm đồ của Diana thành đường thẳng rồi! - Todd . Emma kinh hoàng nhìn về phía khoang dịch vụ Nga, Diana bị cách ly ở đó. Tấm nhựa cách ly biến mất, cả khoang được thông với trạm vũ trụ. Diana vẫn bị buộc vào giường cố định bệnh nhân. Mặt bị đập đến biến dạng. Răng bị đập vụn. quả cầu máu rỉ ra từ miệng . Cuối cùng tiếng báo động của màn hình điện tâm đồ khiến tỉnh lại. đường thẳng chạy ngang màn hình. với tay tắt báo động và tay cứng lại giữa trung. Ở nút khởi động có khối chất lỏng màu xanh lơ pha xanh lá cây lấp lánh. Những quả trứng. Diana ấp những quả trứng đó. ấy thả Chimera ra ngoài. Báo động màn hình dường như là tiếng kêu thể chịu đựng nổi nhưng Emma vẫn bất động, nhìn đám trứng. Dường như chúng lung linh và lui lại để bị phát . chớp mắt, mắt trở lại. nhớ chất lỏng bắn vào mặt, làm đau mắt khi lao qua cánh cửa ở khoang chặn khí. Khi đó đeo kính bảo vệ. vẫn cảm thấy má mình ướt, lạnh và ngứa. đưa tay lên sờ mặt mình và nhìn chằm chằm những quả trứng như những viên ngọc trai uốn éo những đầu ngón tay mình. Tiếng báo động lúc này thể chịu đựng nổi. tắt màn hình, tiếng rú dừng lại. im lặng sau đó cũng đáng sợ kém. còn nghe thấy tiếng xì xì của các cánh quạt thông khí. Đáng lẽ chúng phải hút khí vào và lọc nó qua hệ thống điều khiển môi trường và hỗ trợ sống. Có quá nhiều máu trong khí. Nó khiến các máy lọc bị tắc. Áp lực tăng quá mạnh các máy lọc phá hỏng các bộ phận cảm ứng và tự động tắt các cánh quạt quá nóng. - Watson, hãy trả lời tôi! - Todd . - Họ chết rồi. - Giọng nghe như tiếng khóc. - Cả hai chết rồi! Giờ giọng Luther xen vào điện đàm. - Tôi vào. - . - . - . - Hãy chờ ở đó, Emma! Tôi đến đó ngay. - Luther, thể vào được! Máu và những quả trứng bay khắp nơi. Trạm còn sống được nữa. phải ở khoang chặn khí. - Đó phải là giải pháp lâu dài. - Chẳng có cái quái gì tên là giải pháp lâu dài! - Nghe này, tôi vào khoang của đội. Tôi đến gần cửa ngoài. Tôi bắt đầu điều áp. - Các cánh quạt bị tắt. có cách nào làm sạch chỗ khí này. - Tôi lên mức năm at-mốt-phe. Tôi dừng lại chuẩn bị kiểm tra độ tương thích. - Nếu vào, khiến mình bị lây! - Tôi điều áp xong. - Luther, tôi bị nhiễm rồi! Tôi bị nó bắn vào mắt! - hít sâu và như khóc. - là người duy nhất còn lại, người duy nhất có cơ hội sống sót. im lặng rất lâu. - Lạy Chúa, Emma! - lẩm bẩm. - Được rồi, nghe tôi này! - dừng lại để lấy bình tĩnh và suy nghĩ logic. - Luther, tôi muốn vào khoang để thiết bị. Chắc chắn ở đó vẫn sạch và có thể bỏ mũ ra. Sau đó hãy tắt bộ đàm. - Gì? - Hãy làm ! Tôi đến nút số 1. Tôi ở ngay bên kia cánh cửa để chuyện với . Todd xen vào. - Emma? Emma, đừng tắt liên lạc ở đó với mặt đất! - Xin lỗi, bác sĩ. - lẩm bẩm và tắt liên lạc. lúc sau, nghe Luther qua hệ thống liên lạc bằng phần cứng của trạm gian. - Tôi ở khoang thiết bị. Giờ họ chuyện riêng với nhau, cuộc chuyện của họ còn bị Trung tâm điều hành kiểm soát nữa. - còn lựa chọn. - Emma . - Đó là việc mà nấn ná quá lâu. Tôi thể, nhưng làm được. vẫn nhiễm bệnh. đưa dịch bệnh về trái đất. - Chúng ta thỏa thuận về việc này. có ai bị bỏ lại. - khí trong bộ quần áo ra ngoài gian của còn đủ dùng trong ba tiếng. Nếu vẫn đội mũ khi ngồi trong phương tiện di dời khẩn cấp và tiến thẳng đến chỗ tách khỏi quỹ đạo có thể hạ cánh kịp thời. - bị kẹt lại ở đây. - Dù sao tôi cũng bị kẹt rồi! hít sâu hơi nữa và bình tĩnh . - Nghe này, cả hai chúng ta đều biết điều này trái với mọi mệnh lệnh. Nó có thể là ý kiến rất tồi tệ. Họ phản ứng thế nào tùy kẻ khác phỏng đoán… đó là trò may rủi. Nhưng Luther, có quyền lựa chọn. - có cách nào di dời khỏi đây. - Hãy đưa tôi ra khỏi đầu ! Đừng nghĩ về tôi nữa! - nhàng thêm. - Tôi chết rồi! - Emma, ! - Vậy muốn làm gì? Trả lời câu hỏi đó ! Hãy nghĩ cho mình thôi. thấy hít sâu. - Tôi muốn về nhà. Tôi cũng vậy, nghĩ và chớp mắt cho nước mắt chảy . Lạy Chúa, tôi cũng vậy. - Hãy đội mũ của lên! - dịu dàng . - Tôi mở cánh cửa.
Chương 24 Phần 1 HAI MƯƠI TƯ Jack chạy lên cầu thang tới tòa nhà số ba mươi, quét huy hiệu ở cổng kiểm tra an ninh và thẳng đến Phòng điều hành đặc biệt. Gordon Obie chặn ở ngay ngoài phòng điều hành. - Jack, chờ ! có thể vào đó làm loạn mọi chuyện, họ tống ra ngoài. Hãy dành phút mà bình tĩnh lại. Nếu giúp được vợ . - Tôi muốn vợ tôi trở về ngay bây giờ. - Mọi người đều muốn họ trở về! Chúng ta cố hết sức nhưng tình hình thay đổi. Cả trạm bị ô nhiễm. Hệ thống lọc khí hỏng. Nhóm ra ngoài gian còn cơ hội sửa giàn năng lượng nữa, vì vậy họ vẫn trong tình trạng mất điện. Và giờ họ còn chuyện với chúng ta. - Gì cơ? - Emma và Luther cắt đứt liên lạc. Chúng ta biết đó có chuyện gì. Đó là lý do tại sao họ gọi về. - để giúp chúng tôi liên lạc với họ. Jack nhìn lối mở rộng dẫn vào phòng Điều hành bay đặc biệt. thấy những người đàn ông và phụ nữ ở các bảng điều khiển, thực công việc của họ như thường lệ. bỗng cảm thấy tức giận khi những người điều hành bay đó lại có thể bình tĩnh và làm việc hiệu quả như vậy. tức giận vì cái chết của hai phi hành gia nữa dường như thể thay đổi vẻ chuyên nghiệp lạnh lùng của họ. Cách hành xử lạnh lùng của tất cả mọi người trong phòng chỉ khiến cho nỗi buồn của , nỗi sợ hãi trong chính nhân lên. vào phòng điều hành. Hai nhân viên mặc quân phục của Lực lượng quân đứng cạnh giám đốc điều hành bay Woody Ellis, người điều khiển hệ thống điện đàm. Họ là những kẻ nhắc nhở khó chịu rằng căn phòng này còn chịu điều khiển của NASA. Khi Jack theo men hàng ghế cuối cùng để về phía bảng điều khiển của bác sĩ, vài nhân viên điều hành bay nhìn thông cảm. gì, và ngồi ngay xuống ghế bên cạnh Todd Cutler. lập tức nhận ra sau là phòng quan sát. Ở đó các nhân viên khác của Lực lượng quân theo dõi cả phòng. - nghe tin mới nhất chưa? - Todd khẽ hỏi. Jack gật đầu. còn đường điện tâm đồ màn hình nữa. Diana chết. Griggs cũng vậy. - Nửa trạm bị mất điện. Và giờ những quả trứng lơ lửng trong khí. Và cả máu nữa. Jack có thể tưởng tượng Trạm vũ trụ lúc này như thế nào. Ánh sáng lờ mờ. Những bức tường tung tóe máu. Các bộ lọc khí thuộc hệ thống điều khiển môi trường bị tắc nghẽn. Đó là những giờ bay quỹ đạo đầy hãi hùng. - Chúng ta cần chuyện với ấy, Jack. Hãy làm cho ấy cho chúng ta biết có chuyện gì đó. - Tại sao họ liên lạc? - Chúng tôi biết. Có thể họ mất niềm tin với chúng ta. Họ có quyền như vậy. Có lẽ họ quá tuyệt vọng. - , chắc chắn họ phải có lý do. - Jack nhìn màn hình phía trước chiếu đường của Trạm vũ trụ trái đất. Em nghĩ gì vậy, Emma? đeo tai nghe lên và . - Chỉ huy liên lạc, tôi là Jack McCallum đây. Tôi sẵn sàng. - , thưa bác sĩ. Hãy chờ! Chúng tôi cố liên lạc lại. Họ chờ đợi. Nhưng Trạm vũ trụ quốc tế trả lời. Ở dãy bảng điều khiển số ba, hai trong số các điều khiển viên đột nhiên ngoái về sau nhìn Giám đốc điều hành bay Ellis. Jack nghe thấy gì trong điện đàm, nhưng thấy điều khiển viên Odin, người chịu trách nhiệm về các mạng dữ liệu Trạm vũ trụ rời khỏi ghế, cúi về phía trước và thầm với nhân viên điều khiển ở dãy bảng điều khiển số hai. Lúc này nhân viên điều khiển ở hàng thứ ba tháo tai nghe ra, đứng lên vươn vai. bắt đầu bộ lên phía hành lang rất thoải mái như thể chuẩn bị thư giãn trong nhà tắm. Khi qua bảng điều khiển của bác sĩ, ném mẩu giấy lên đùi Todd Cutler, rồi tiếp tục ra khỏi phòng. Todd mở tờ giấy ra và sửng sốt nhìn Jack. - Trạm vũ trụ chuyển toàn bộ máy tính của họ sang chế độ Đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn. - thầm. - Phi hành đoàn kịp kích hoạt các bước chuẩn bị di dời bằng phương tiện khẩn cấp. Jack quay lại như tin vào tai mình. Chế độ đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn là cấu hình máy tính dùng để hỗ trợ việc di dời của phi hành đoàn. lướt nhanh lượt quanh phòng. Toàn bộ điều khiển viên lời nào điện đàm. Tất cả những gì Jack thấy chỉ là các hàng vai vuông vức và ai cũng tập trung cao độ vào bảng điều khiển của họ. liếc sang nhìn Woody Ellis. Ellis đứng im như tượng. Ngôn ngữ cử chỉ lên tất cả. Ông ấy biết chuyện gì xảy ra. Và ông cũng lời nào. Jack vã mồ hôi. Đây là lý do tại sao phi hành đoàn cắt đứt liên lạc với họ. Họ đưa ra quyết định của riêng mình và họ tiến hành nó. Lực lượng quân nhanh chóng phát ra. Bằng mạng lưới giám sát hàng bao gồm các ra-đa và các máy cảm ứng hình ảnh, họ có thể theo dõi các vật thể bằng quả bóng chày bay gần trái đất. Ngay khi phương tiện di dời khẩn cấp tách ra, khi nó bắt đầu tách khỏi quỹ đạo, nó bị trung tâm điều khiển thuộc Bộ tư lệnh hàng Trạm quân ở núi Cheyenne phát . Câu hỏi trị giá hàng triệu đô lúc này là: họ có phản ứng ? cầu Chúa là em biết mình làm gì, Emma. Sau khi chuẩn bị phương tiện di dời khẩn cấp, nó mất hai mươi lăm phút để được hướng dẫn và xác định các mục tiêu hạ cánh. Nó cần thêm mười lăm phút để chuẩn bị đốt nhiên liệu và tách khỏi quỹ đạo. Nó cần thêm tiếng để hạ cánh. Bộ tư lệnh quân Mỹ phát ra và lần theo dấu vết của họ trước khi phương tiện di dời khẩn cấp có thể chạm đất. Ở dãy số hai, nhân viên điều hành bay phụ trách kỹ thuật, bảo trì và các van khoá Trạm vũ trụ quốc tế giơ ngón tay cái lên. Bằng cử chỉ đó, ngầm thông báo: Phương tiện di dời khẩn cấp được tách ra. Dù thế nào phi hành đoàn đường về. Giờ cuộc chơi bắt đầu. căng thẳng ngày càng cao trong phòng. Jack lo lắng nhìn hai nhân viên lực lượng hàng nhưng có vẻ họ biết gì về việc này, trong số họ cứ nhìn đồng hồ treo tường như thể nôn nóng muốn chỗ khác. Từng phút trôi qua, căn phòng im ắng lạ thường. Jack cúi về phía trước, tim đập mạnh, áo sơ mi của ướt đẫm mồ hôi, lúc này phương tiện di dời khẩn cấp trôi dạt ra ngoài tầm Trạm vũ trụ quốc tế. Mục tiêu hạ cánh của họ xác định được. Hệ thống hướng dẫn của họ bị khoá các vệ tinh định vị toàn cầu. Cố lên, cố lên, Jack nghĩ. Hãy đến khâu tách khỏi quỹ đạo ngay bây giờ ! Tiếng chuông điện thoại phá tan khí im lặng. Jack nhìn sang hai bên và thấy nhân viên giám sát của Lực lượng quân nhận điện. Đột nhiên ta bất động và quay sang phía Woody Ellis. - Chuyện quái gì xảy ra ở đây thế? Ellis gì. Nhân viên đó lập tức gõ lên bàn phím bảng điều khiển của ông và ngạc nhiên nhìn màn hình. chộp lấy điện thoại. - Vâng, thưa ngài, tôi e là việc đó có . Phương tiện di dời khẩn cấp được tách ra. , thưa ngài, tôi biết làm thế nào việc đó… vâng, thưa ngài, chúng tôi giám sát mọi điện đàm, nhưng…. - nhân viên đó đỏ mặt tía tai và vã mồ hôi khi nghe thấy tràng chỉ trích điện thoại. - Đưa nó về! - ta ra lệnh. Woody Ellis trả lời cần giấu giếm. - Đó phải là tàu con thoi Soyuz. thể ra lệnh cho nó quay về như chiếc xe máy được. - Vậy hãy ngăn cho nó hạ cánh! - Chúng tôi làm được. Đó là chuyến chiều về trái đất. Ba nhân viên khác thuộc Lực lượng quân bước nhanh vào phòng. Jack nhận ra tổng tư lệnh Gregorian thuộc bộ tư lệnh quân Hoa Kỳ. - người bây giờ điều khiển toàn bộ hoạt động của NASA. - Tình hình thế nào? - Gregorian hét lên. - Phương tiện di dời khẩn cấp tách khỏi trạm nhưng vẫn chưa tách khỏi quỹ đạo. - nhân viên đỏ mặt lúc nãy trả lời. - Họ chạm khí quyển trong bao lâu? - À, tôi biết, thưa ngài. Gregorian quay về phía giám đốc điều hành bay. - Bao lâu nữa thưa ngài Ellis? - Còn tùy. Có vài khả năng. - Đừng có lên mặt giảng giải về kỹ thuật ở đây với tôi! Tôi muốn câu trả lời. Tôi muốn con số. - Được rồi. - Ellis đứng thẳng, nhìn chằm chằm vào mắt ông ta. - Trong bất cứ khoảng nào từ đến tám tiếng. Điều đó phụ thuộc vào họ. Họ có thể ở lại tối đa quỹ đạo bốn tiếng. Hay họ có thể tách khỏi quỹ đạo ngay lúc này và tiếp đất trong vòng giờ nữa. Gregorian nhấc điện thoại. - Thưa tổng thống, tôi e là còn nhiều thời gian quyết định. Giờ họ có thể tách quỹ đạo bất cứ lúc nào. Vâng, thưa ngài, tôi biết đó là quyết định khó khăn. Nhưng lời khuyên của tôi cũng tương tự như ngài Profitt. Khuyên gì? Jack nghĩ và thấy hoảng loạn. nhân viên Lực lượng quân hét lên từ trong các bảng điều khiển. - Họ bắt đầu đốt nhiên liệu. - Chúng ta còn thời gian nữa, thưa ngài. - Gregorian . - Chúng tôi cần câu trả lời của ngài ngay bây giờ. - ông ta dừng lại rất lâu rồi gật đầu nhõm. - Ngài có quyết định sáng suốt. Cảm ơn ngài. - ông ta gác máy và quay về phía các nhân viên thuộc Lực lượng quân. - Hãy thực phương án! - Phương án gì? - Ellis . - Các người định làm gì? Câu hỏi của ông bị lờ . nhân viên thuộc Lực lượng quân nhấc chiếc máy và bình tĩnh ra lệnh. - Hãy chuẩn bị EKV! EKV là cái quái gì? Jack nghĩ. nhìn thấy Todd và thấy ấy cũng chẳng hiểu gì về cụm từ viết tắt đó. Điều khiển viên phụ trách đường bay Topo bước về trước bảng điều khiển của họ và nhanh chóng trả lời thắc mắc đó. - Đó là phương tiện tiêu diệt vật thể ở tầm gần trái đất. - thầm. - Họ sắp tiêu diệt tàu. - Mục tiêu được bình thường hóa trước khi nó rơi vào khí quyển trái đất. - Gregorian . Jack hốt hoảng đứng dậy. - ! Gần như ngay lập tức, toàn bộ điều khiển viên khác rời ghế phản đối. Tiếng thét của họ át cả tiếng của Chỉ huy liên lạc, người hét đến mức có thể để người khác nghe thấy. - Tôi liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế! Trạm trả lời! Trạm vũ trụ quốc tế à? Họ vẫn ở trạm sao? Ai đó bị bỏ lại. Jack ấn vào tai nghe và nghe giọng truyền về. Đó là Emma. - Houston, tôi là Watson Trạm vũ trụ quốc tế. Chuyên viên Ames bị nhiễm bệnh. Tôi xin nhắc lại, ấy bị nhiễm bệnh. ấy là người duy nhất lên phương tiện di dời khẩn cấp. Tôi khẩn cấp cầu các bạn cho phép ấy được hạ cánh an toàn. - , Trạm vũ trụ quốc tế. - Chỉ huy liên lạc . - Các vị thấy ? Chẳng có lý do gì để bắn hạ nó cả. - Ellis với Gregorian. - Hãy dừng việc bắn tên lửa tiêu diệt của các vị! - Làm sao chúng tôi biết được Emma đó có ? - Gregorian phản đối. - Chắc chắn ấy . Tại sao ấy phải ở lại? ấy quên bản thân mình để kẹt lại ở đó. Phương tiện di dời khẩn cấp là chiếc thuyền cứu hộ duy nhất ấy có! Những lời đó có tác động rất mạnh khiến Jack bất động. Cuộc tranh luận gay gắt giữa Ellis và Gregorian dường như bỗng biến mất. Jack còn quan tâm đến số phận của phương tiện di dời khẩn cấp nữa. chỉ nghĩ về Emma giờ độc, bị nhốt trạm và có cách nào rời đó được. ấy biết mình bị nhiễm bệnh. ấy ở lại chịu chết. Phương tiện di dời khẩn cấp đốt cháy xong nhiên liệu. Nó hạ xuống. Đường bay của nó màn hình. Chạy ngang bản đồ thế giới ở căn phòng phía trước là đốm sáng ra-đa . Đó chính là phương tiện di dời khẩn cấp và người hành khách duy nhất đó. Giờ họ nghe thấy giọng của điện đàm. - Đây là chuyên gia đặc vụ Luther Ames. Tôi tiến gần đến độ cao chuẩn bị vào trái đất, toàn bộ hệ thống hoạt động bình thường. Nhân viên Lực lượng quân nhìn Gregorian. - Chúng tôi vẫn sẵn sàng phóng tên lửa tiêu diệt tầm xa. - Các vị cần làm vậy. - Woody Ellis . - ấy bị bệnh. Chúng tôi có thể đưa ấy về trái đất! - Bản thân con tàu có thể bị nhiễm vi rút. - Gregorian . - Ông biết điều đó! - Tôi thể bỏ qua khả năng đó. Tôi thể mạo hiểm với những sinh mạng trái đất. - Khốn nạn, đây là vụ giết người. - ta tuân lệnh. ta biết chúng ta phản ứng ra sao. - Gregorian gật đầu với nhân viên thuộc Lực lượng quân. - Các tên lửa tiêu diệt tầm xa được phóng, thưa ngài. Cả phòng đột nhiên im lặng. Woody Ellis mặt tái xanh và run rẩy. Ông nhìn chằm chằm màn hình phía trước, nhìn đường bay nhiều tầng của tàu và nó chuẩn bị đến điểm vào khí quyển của trái đất. Mỗi phút trôi qua đều im lặng đến rợn người. Ở căn phòng phía trước, trong các nữ điều khiển viên bắt đầu sụt sịt khóc. - Houston, tôi đến điểm chuyển giao. - Tất cả đều hoảng sợ khi nghe thấy giọng vui vẻ của Luther đột nhiên bị ngắt điện đàm. - Tôi rất vui nếu các bạn cử ai đó đến gặp tôi khi tôi tiếp đất, vì tôi cần ai đó giúp tôi ra khỏi bộ áo quần mặc khi phóng tên lửa này. Chương 24 Phần 2 ai trả lời. ai dám trả lời. - Houston? - Luther sau phút im lặng. - Này, các bạn vẫn ở đó chứ? Cuối cùng Chỉ huy liên lạc cố trả lời nhưng thể ràng được. - , phương tiện di dời khẩn cấp. Chúng tôi chuẩn bị sẵn két bia chờ đây, Luther thân mến. Có cả mấy vũ công và cả nhóm làm việc… - Tuyệt! Các bạn được thả lỏng kể từ lần cuối chúng ta được chuyện với nhau. Được rồi, có vẻ như tôi sắp mất tín hiệu rồi. Hãy giữ cho bia lạnh vào nhé, tôi… Có tiếng điện nổ lớn. Rồi đường truyền bị cắt đứt hoàn toàn. Tín hiệu ra-đa màn hình nổ tung thành các mảnh vụn sáng chói như ánh mặt trời, rồi tan vào các ảnh điểm bụi bé. Woody Ellis bám vào ghế, lấy tay ôm đầu. Ngày 19 tháng 8 - Hãy duy trì liên lạc giữa vũ trụ và trái đất. - Chỉ huy liên lạc . - Hãy chờ, Trạm vũ trụ quốc tế. Hãy chuyện với tôi, hãy chuyện với tôi!Emma thầm cầu xin khi bay trong bóng tối chập chờn ở khoang sinh hoạt. Các cánh quạt thông khí hỏng, giờ khoang này im lặng đến nỗi chỉ có thể nghe thấy tiếng mạch đập của chính mình và các chuyển động của khí ra vào phổi . giật mình khi đột nhiên nghe thấy giọng của Chỉ huy liên lạc. - Hãy giữ liên lạc giữa vũ trụ và mặt đất! có thể chuyển tới phòng chuyện riêng của gia đình. - Jack à? - hỏi. - ở đây, ở ngay đây, em . - ấy bị bệnh! Em với họ là ấy hoàn toàn khoẻ mạnh… - Bọn cố ngăn việc đó lại! Đó là mệnh lệnh trực tiếp từ Nhà Trắng. Họ cho chúng ta cơ hội. - Đó là lỗi của em! - mệt mỏi của đột nhiên biến thành nước mắt. đơn độc, sợ hãi và bị ám ảnh bởi quyết định gây ra thảm họa lớn của mình. - Em nghĩ họ để ấy trở về. Em nghĩ đó là cơ hội tốt nhất để ấy sống sót trở về. - Tại sao em ở lại, Emma? - Em phải làm vậy. - hít hơi sâu rồi . - Em bị nhiễm bệnh. - Em tiếp xúc. Điều đó có nghĩa là em bị bệnh. - Em thử đo huyết áp, Jack. Nồng độ men amilaza của em tăng lên. gì. - Giờ em tiếp xúc với bệnh hơn tám tiếng. Em còn hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng nữa trước khi… em còn hoạt động được nữa. - giọng của bình tĩnh lại. Giờ nó có vẻ bình tĩnh lạ lùng, như thể vế cái chết của bệnh nhân khác chứ phải của chính mình. - Thời gian đó đủ để sắp xếp lại số việc. Ném các thi thể ra ngoài. Thay đổi vài bộ lọc khí và khiến mấy chiếc quạt hoạt động trở lại. Như vậy giúp phi hành đoàn tiếp theo dễ dọn dẹp hơn. Nếu có phi hành đoàn khác… Jack vẫn gì. - Về những gì còn lại của em…. - giọng bình tĩnh đến mức nghe có vẻ lạnh nhạt, toàn bộ tình cảm bị nén xuống. - Khi thời cơ đến, em nghĩ điều tốt nhất em có thể làm vì Trạm vũ trụ quốc tế là bộ ra ngoài vũ trụ. Ở đó em còn làm ô nhiễm bất cứ thứ gì khi em chết . Sau khi xác của em …. - dừng lại. - Em còn thuốc Valium và Narcotic trong tay, đủ để em chịu đựng thêm vài giờ. Em ngủ cho đến khi em hết khí thở. biết Jack, đó là cái chết đến nỗi nào, lơ lửng bên ngoài, ngắm trái đất và những vì sao, và chỉ trôi dạt trong giấc ngủ… Rồi nghe thấy tiếng . khóc. - Jack. - lại khẽ. - Em . Em hiểu tại sao chúng ta lại tan vỡ. Em biết chắc đó là lỗi của em. hít sâu. - Emma, đừng như vậy! - ngu xuẩn khi em lại chờ đến lúc này mới với . Có lẽ nghĩ em bậy chỉ vì em sắp chết. Nhưng, Jack à, điều em thành tâm nhất với Chúa là… - Em chết. - giận dữ nhắc lại điều đó. - Em chết. - nghe về kết quả của bác sĩ Roman rồi đấy. có cách nào hết. - Phòng điều áp có tác dụng. - Chắc chắn phải có cách nào đó, em phải tìm cách nào đó để tạo ra ảnh hưởng giống như phòng điều áp. Nó có tác dụng với những con chuột bị nhiễm bệnh. Nó giúp chúng sống sót, vì vậy nó có tác dụng gì đó. Chúng là những con duy nhất sống sót. . bỗng nhớ ra. Chúng phải là những con duy nhất. từ từ quay lại, nhìn cánh cửa dẫn đến nút số 1. Con chuột, nghĩ. Con chuột đó vẫn sống phải ? - Emma? - Chờ chút! Em kiểm tra thứ trong phòng thí nghiệm. bay qua nút số và vào phòng thí nghiệm của Mỹ. Mùi máu khô vẫn còn khá nặng ở trong này. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, vẫn thấy những vết máu bắn tung tóe tường. bay đến khu dành cho động vật, kéo lồng chuột ra và bật đèn pin bên trong. Ánh sáng đó chiếu cảnh tượng đáng thương. Con chuột bị phồng lên lên cơn quằn quại đau đớn. Chân nó duỗi thẳng, miệng ngáp ngáp hớp khí. Mày thể chết được, nghĩ. Mày là kẻ sống sót, là trường hợp ngoại lệ chống lại quy luật đó. Mày là bằng chứng cho thấy tao vẫn còn hy vọng. Con chuột co lại, cơ thể nó bật lên trong đau đớn. dòng máu cuốn quanh hai chân sau của nó và vỡ thành nhiều giọt máu cuộn tròn. Emma biết chuyện gì xảy ra sau đó: đó là lần giãy chết cuối cùng khi não bị biến dạng thành hỗn hợp như bát canh dạm bị nghiền nát. thấy vệt máu mới ở phần lông trắng phía sau. Rồi thấy thứ gì đó màu hồng thò ra giữa hai chân. Nó cử động. Con chuột giãy giụa. Vật màu hồng đó tìm đường ra, uốn éo và có lông. Nó được nối ở phần bụng bằng sợi dây lấp lánh duy nhất. Đó là dây rốn. - Jack. - thầm. - Jack. - đây. - Con chuột? Con cái… - Có chuyện gì với nó? - Trong ba tuần qua, nó tiếp xúc bệnh nhiều lần với Chimera mà vẫn bị bệnh. Nó là con duy nhất còn sống. - Nó còn sống à? - Đúng vậy. Em nghĩ em biết lý do. Nó có chửa. Con chuột bắt đầu quằn quại. con chuột khác lại chui ra và bọc trong màng máu và nước nhầy. - Chắc chắn chuyện này xảy ra vào đêm Kenichi cho nó vào lồng của những con chuột đực. - . - Em làm gì với nó. Em nhận ra là… - Tại sao có chửa lại tạo ra khác biệt ở đây? Tại sao nó lại miễn dịch? Emma lơ lửng trong ánh sáng lờ mờ, cố tìm ra câu trả lời. Việc ra ngoài vũ trụ mới đây và cái chết của Luther khiến sức khỏe của kiệt quệ. biết Jack cũng kiệt sức như mình. Hai bộ não mệt mỏi chống lại quả bom hẹn giờ chính là căn bệnh truyền nhiễm của . - Được rồi. Hãy nghĩ về việc có chửa! - . - Đó là tình hình sinh lý phức tạp. Nó chỉ là lớn lên của bào thai. Đó là tình trạng quá trình trao đổi chất bị biến đổi. - Các hooc-môn. Các con vật có chửa có lượng hooc-môn rất cao. Nếu chúng ta tái tạo tượng đó, chúng ta có thể tái tạo việc diễn ra trong con chuột đó. Liệu pháp hooc-môn. nghĩ về tất cả các loại hooc-môn vận động trong cơ thể người phụ nữ mang thai. Đó là estrogen, hooc-môn giới tính duy trì thai, prolactin, chất kích dục màng đệm ở người. - Các viên thuốc ngừa thai. - Jack . - Em có thể tái tình trạng có thai bằng hooc-môn ngừa thai. - Chúng ta có thứ gì như vậy trạm. Nó có trong bộ dụng cụ y tế. - Em kiểm tra ngăn tủ cá nhân của Diana chưa? - ấy thể có thuốc tránh thai mà em lại biết. Em là nhân viên y tế. Em phải biết chứ. - Dù sao cứ kiểm tra . Làm , Emma! lao ra ngoài phòng thí nghiệm. Trong khoang dịch vụ Nga, nhanh chóng mở các ngăn kéo tủ của Diana. thấy hơi tội lỗi khi lục lọi ngăn đồ của người khác, dù người phụ nữ đó chết. Trong đống quần áo được gấp gọn gàng, tìm thấy chỗ cất giấu kẹo an toàn. biết Diana lại thích kẹo, có nhiều điều về Diana mà biết. Trong ngăn kéo khác, thấy dầu gội đầu, kem đánh răng và băng vệ sinh. có thuốc ngừa thai. đóng sầm ngăn kéo lại. - trạm chẳng có gì em dùng được! - Nếu bọn phóng tàu con thoi ngày mai, nếu bọn mang được hooc-môn đó cho em… - Họ phóng tàu! Dù có gửi lên cả đống thuốc ít nhất ba ngày mới đến chỗ em. Trong ba ngày, gần chết rồi. bám vào ngăn tủ dính máu. Hơi thở nhanh và gấp gáp, mỗi thớ cơ của đều rã rời. hoàn toàn tuyệt vọng. - Vậy chúng ta giải quyết việc này theo cách khác. - Jack . - Emma, hãy ở bên trong lúc này! cần em giúp suy nghĩ. thở mạnh. - Em chẳng đâu đâu. - Tại sao các chất hooc-môn lại có tác dụng? Cơ chế hoạt động của nó là gì? Chúng ta biết chúng là các tín hiệu hoá học. - đó là hệ thống giao tiếp bên trong ở mức độ tế bào. Chúng hoạt động bằng cách kích thích hay hạn chế các biểu của gen…. - Giờ suy nghĩ rất mạch lạc và để cho dòng suy luận của mình dẫn dắt tìm ra giải pháp. - Để hooc-môn hoạt động, nó phải được kết nối với cơ quan cảm nhận nhất định ở tế bào nó hướng đến. Nó như chiếc chìa khoá, tìm ổ khoá đúng để cắm vừa. Có thể nếu chúng ta nghiên cứu các dữ liệu của Ttrung tâm Khoa học biển, chúng ta có thể tìm ra các ADN khác mà bác sĩ Koenig ghép vào nhiễm sắc thể của sinh vật gốc chúng ta có thể tìm ra cách ngăn chặn sinh sản của Chimera. - biết gì về bác sĩ Helen Koenig? ấy làm thí nghiệm về những vật gì khác? Đó có thể là chìa khoá cho vấn đề này. - Bọn có sơ yếu lí lịch của ta. Bọn xem các bài báo được xuất bản của ta về Archaeon. Ngoài những điều đó ta vẫn là bí lớn với chúng ta. Và Ttrung tâm Khoa học biển cũng vậy. Bọn cố moi thêm thông tin. Việc đó mất nhiều thời gian quý báu, nghĩ. Em còn nhiều thời gian nữa. Tay đau vì bám quá lâu vào ngăn tủ của Diana. thả lỏng tay, trôi như thể bị cuốn trong đợt sóng biển vô vọng. Các vật thể trong ngăn kéo của Diana thoát ra, lơ lửng vây quanh trong trung. Chúng là bằng chứng cho thấy Diana rất thích đồ ngọt. Đó là các thanh sô--la hiệu M & M’s. gói giấy bóng kính kẹo gừng bọc đường. Đó là thứ cuối cùng Emma bỗng tập trung vào. Gừng bọc đường. Các chất kết tinh. - Jack. - . - Em có cách. Tim đập nhanh khi bay khỏi khoang dịch vụ của Nga, về phía phòng thí nghiệm của Mỹ. Ở đó bật máy tính cho thấy các chuyến hàng được chuyển lên. Màn hình sáng màu hổ phách kỳ quái trong khoang tối tăm. tìm tập dữ liệu hoạt động và nhấp vào biểu tượng có chữ ESA. Đó là Trung tâm vũ trụ châu Âu. Đây là các quá trình và nguyên liệu cần thiết để thực các thí nghiệm được chuyển lên của Trung tâm vũ trụ châu Âu. - Em nghĩ gì, Emma? - Jack điện đàm. - Diana nghiên cứu về phát triển của các chất protein kết tinh, nhớ ? Đó là các nghiên cứu về y khoa. - Loại protein nào? - hỏi và biết chính xác nghĩ điều nghĩ. - Em tra danh sách đó. Có hàng chục… Tên của các chất protein chạy dọc màn hình lờ mờ. Con trỏ dừng lại ở mục tìm: “chất kính dục màng đệm ở người”. - Jack. - khẽ. - Em nghĩ em mua thêm cho mình được chút thời gian. - Em tìm được gì? - Chất kích dục màng đệm ở người. Diana phát triển các chất kết tinh. Em phải vào phòng hạ áp suất để kiểm nghiệm nó. Chúng ở trong khoang của Trung tâm vũ trụ châu Âu, đó là khoang chân . Nhưng nếu em bắt đầu hạ áp bây giờ, em có thể có được các chất kết tinh đó trong vòng bốn đến năm tiếng. - Có bao nhiêu chất kích dục màng đệm ở người trạm? - Em kiểm tra. - mở tập thí nghiệm và nhanh chóng xem qua các dữ liệu. - Emma? - Chờ ! Chờ ! Em có các khối chất thí nghiệm gần đây nhất. Em tìm chất kích dục màng đệm ở ngườibình thường khi có thai nghén. - có thể lấy thứ đó cho em. - , em tìm ra. Được rồi, nếu em pha loãng khối chất kết tinh này vào muối thường… nhúng cả cơ thể nặng bốn mươn lăm cân của em vào đó…. - gõ các con số vào. thực phép tính xấp xỉ. biết chất kích dục màng đệm ở người chuyển hoá nhanh đến mức nào hay chu kỳ nửa phân rã của nó ra sao. Câu trả lời cuối cùng xuất màn hình. - Còn bao nhiêu liều? - Jack hỏi. nhắm mắt. Nó kéo dài bao lâu. Nó cứu được em. - Emma? thở nhõm. như khóc. - Ba ngày. Chương 25 Phần 1 HAI MƯƠI LĂM giờ bốn mươi lăm phút sáng. Mắt của Jack mờ vì mệt mỏi. Các dòng chữ lên màn hình cứ rồi mờ . - Chắc chắn phải có gì đó. - Jack như ra lệnh. - Cứ tìm ! Gretchen Liu ngồi ở bàn phím giận dữ ngước lên nhìn Jack và Gordon. ngủ say khi họ gọi đến. đến mà kịp trang điểm và đeo kính áp tròng để chuẩn bị lên hình như mọi khi. Họ chưa bao chưa giờ thấy nhân viên quan hệ công chúng của mình lại thiếu rạng rỡ như vậy. Họ cũng chưa bao giờ thấy đeo kính vì gọng kính to càng cho thấy cặp mắt thiếu ngủ của . - Tôi với các vị rồi, đây là tất cả những gì tôi có thể tìm thấy về nghiên cứu Lexis. - Nexis. Hầu như chẳng có gì liên quan đến Helen Koenig. Về Trung tâm Khoa học biển, chỉ có tin tức bình thường về tập đoàn này được công bố. Đối với cái tên Palmer Gabriel, các vị có thể tự nhận thấy là ông ta thích báo chí. Trong vòng năm năm qua, tên ông ta chỉ xuất tờ tạp chí tài chính Thời báo phố Wall trong các bài báo kinh tế về Trung tâm Khoa học biển và các sản phẩm của nó. có dữ liệu nào liên quan đến sinh học. Thậm chí còn có ảnh của ông ta. Jack ngả về sau ghế, dụi mắt. Ba người bọn họ ở trong phòng quan hệ công chúng suốt hai giờ đồng hồ qua, lục tìm mọi bài báo về Helen Koenig và Trung tâm Khoa học biển mà họ có thể tìm thấy phần mềm Lexis. - Nexis. Họ tìm được nhiều bài báo về Trung tâm Khoa học biển, hàng chục bài báo nhắc đến các sản phẩm của nó, từ dầu gội, thuốc đến phân bón. Nhưng hầu như có gì về Koenig hay Gabriel. - Hãy thử tên Koenig lần nữa xem! - Jack . - Chúng ta nhập vào mọi khả năng đánh vần tên ấy. - Gretchen . - Chẳng có gì hết! - Vậy hãy đánh chữ Archaeon. Gretchen Liu thở dài, gõ chữ Archaeon và nhấp chữtìm kiếm. chuỗi rất dài các bài báo xuất màn hình. “Các sinh vật lạ trái đất. Các nhà khoa học phát dạng sống mới ” (Thư tín Washington). “Archaeon trở thành chủ đề của hội thảo quốc tế”(Thời báo Miami). “Các sinh vậy dưới biển sâu cho thấy căn cứ về nguồn gốc sống” (Điều tra Philadelphia). - Các bạn ạ, việc này vô ích thôi. - Gretchen bắt đầu nản. - Chúng ta mất cả đêm để đọc hết các bài báo trong danh sách này. Tại sao chúng ta tận dụng buổi tối để ngủ? - Chờ . - Gordon . - Cuộn xuống bài này ! - ông chỉ vào đề báo ở gần cuối màn hình. “ nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”. Gretchen nhấp vào bài báo và cả đoạn văn xuất . Việc này xảy ra cách đây hai năm. BẢN QUYỀN: Thời báo New York. CHUYÊN MỤC: Thời quốc tế. TIÊU ĐỀ: “ nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”. TÁC GIẢ: Julio Perez, phóng viên tờ Thời báo New York. NỘI DUNG: nhà khoa học Mỹ nghiên cứu về sinh vật biển Archaeon thiệt mạng ngày hôm qua khi tàu ngầm người ngồi của bị mắc kẹt dưới khe biển Galapagos. Thi thể của bác sĩ Stephen D. Ahearn sáng nay mới được tìm thấy, khi đó các dây cáp của tàu nghiên cứu Gabriella lôi tàu ngầm lên mặt nước. “Chúng tôi biết ấy vẫn ở dưới đó, nhưng chúng tôi thể làm gì được”. bạn đồng nghiệp của ông tàu Gabriella . “ ấy bị mắc kẹt dưới độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Chúng tôi mất nhiều giờ đồng hồ mới lôi được tàu ngầm của ấy ra và kéo nó lên mặt nước”. Bác sĩ Ahearn là giáo sư địa chất tại đại họcCalifornia, ở San Diego. sống ở La Jolla, bangCalifornia. Jack . - Tên con tàu là Gabriella. và Gordon nhìn nhau, cả hai đều giật mình vì ý nghĩ khiến họ ngạc nhiên : Gabriella, Palmer Gabriel. - Tôi cá đây là tàu của Trung tâm Khoa học biển. - Jack . - Và Helen Koenig có mặt ở tàu. Gordon nhìn màn hình. - Giờ chuyện này trở nên thú vị. nghĩ gì về việc Ahearn là nhà địa chất học? - Vậy sao? - Gretchen ngáp dài. - nhà địa chất học làm gì con tàu nghiên cứu về biển? - Để kiểm tra đá ở đáy đại dương chăng? - Hãy tìm kiếm tên ta. Gretchen lại thở dài. - Các vị nợ tôi đêm ngủ ngon giấc đấy. - gõ tênStephen D. Ahearn và nhấp chữ tìm kiếm. danh sách lên, tổng cộng có bảy bài báo. Sáu trong số đó viết về cái chết của ở khe vực Galapagos dưới đáy biển. Có bài báo được viết cách đó năm trước khi chết: “Thông báo của bộ quốc phòng dân Mỹ : Giáo sư Ahearn trình bày các phát mới nhất về nghiên cứu thiên thạch. là nhân vật chủ chốt trong Hội nghị Địa chất học thế giới tại Madrid”(Công đoàn San Diego) Cả hai người nhìn màn hình và khi đó họ quá kinh ngạc nên được lời nào. Rồi Gordon từ tốn . - Chính nó đấy, Jack. Đó chính là điều họ cố giấu chúng ta. Jack thấy tay mình tê cứng, họng khô rát. chỉ tập trung nhìn từ, từ đó lên tất cả. Thiên thạch. Nhà của giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship nằm trong dãy các ngôi nhà tên ở ngoại ô Clear Lake, có rất nhiều nhân viên làm việc tại Trung tâm vũ trụ Johnson cũng sống ở đó. là ngôi nhà quá lớn với người độc thân. Dưới ánh sáng của những bóng đèn, Jack thấy sân trước hoàn toàn trống trải, hàng rào được tỉa rất gọn. Khoảng sân được chiếu quá sáng vào lúc ba giờ sáng, đó chính là điều người ta nghĩ Ken Blankenship làm. Ông nổi tiếng về tính cầu toàn, cũng như nổi ám ảnh thái quá về an ninh. Có lẽ có cả máy quay theo dõi chúng ta lúc này, Jack nghĩ khi và Obie chờ Blankenship ra mở cửa. Họ phải bấm chuông mấy lần mới thấy bật đèn bên trong. Rồi Blankenship xuất , thân hình thấp béo như Napoleon và mặc áo choàng tắm. - Mới ba giờ sáng. - Blankenship ngạc nhiên. - Các làm gì ở đây? - Chúng ta cần chuyện. - Gordon vào đề ngay. - Có vấn đề gì với điện thoại của tôi à? Các thể gọi trước sao? - Chúng tôi thể dùng điện thoại, nhất là với việc này. Họ bước vào nhà. Chỉ khi cánh cửa đóng lại, Jack mới . - Chúng tôi biết Nhà Trắng cố giấu điều gì. Chúng tôi biết Chimera đến từ đâu. Blankenship nhìn . bực bội khi bị đánh thức lúc nửa đêm tiêu tan ngay. Rồi ông nhìn Gordon để xác nhận thông tin đó của Jack. - Điều đó giải thích mọi việc. - Gordon . - Đây là bí mật của Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm, tính đa nghi của Nhà Trắng. Và là sinh vật này biến đổi theo cách mà các bác sĩ của chúng ta chưa từng thấy bao giờ. - Các phát điều gì? Jack ngay. - Chúng tôi biết Chimera là kết hợp giữa con người, chuột và động vật bò sát. Nhưng Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm cho chúng ta biết các ADN khác trong nhiễm sắc thể của Chimera. Họ cho chúng ta biết Chimera thực là gì và nó đến từ đâu. - Đêm qua các với tôi là nó được gửi từ chuyến hàng của Trung tâm Khoa học biển, từ mẻ tế bào Archaeon. - Đó là điều chúng tôi nghĩ. Nhưng Archaeon là các tế bào vô hại. Chúng có khả năng lây bệnh cho người. - đó là lý do tại sao thí nghiệm đó lại được NASA phê chuẩn. Có điều gì đó về sinh vật Archaeon này rất khác biệt, điều mà Trung tâm Khoa học biển cho chúng ta biết. - Ý muốn gì? Thứ gì khác à? - Về nơi nó đến. Từ khe nứt Galapagos. Blankenship lắc đầu. - Tôi thấy nó chẳng có ý nghĩa gì ở đây. - Mẻ tế bào này được các nhà khoa học tàuGabriella phát , đó là con tàu của Trung tâm Khoa học biển. trong các nhà nghiên cứu đó là tiến sĩ Stephen Ahearn. Ông ấy rời tàu Gabriella, ràng với tư cách là nhà cố vấn hàng đầu. Trong tuần, ông ấy chết. Con tàu ngầm siêu của ông ấy mắc kẹt giữa khe nứt và ông ấy chết ngạt. Blankenship gì, chỉ đứng nhìn Jack. - Tiến sĩ Ahearn nổi tiếng về nghiên cứu thiên thạch. - Jack . - Các mảnh vụn như thủy tinh đó được tạo ra bất cứ khi nào sao băng va chạm với trái đất. Đó là lĩnh vực chuyên sâu của tiến sĩ Ahearn, địa chất học về sao băng và thiên thạch. Blankenship vẫn gì. Tại sao ông ấy phản ứng gì? Jack băn khoăn. Ông ấy hiểu điều này có ý nghĩa gì sao? - Trung tâm Khoa học biển cử Ahearn đến khe nứt Galapagos bởi vì họ cần ý kiến của nhà địa chất học. - Jack . - Họ cần xác nhận thứ họ tìm thấy dưới đáy đại dương, đó là mảnh sao băng. Mặt của Blankenship cứng đơ. Ông quay và vào bếp. - Đó là lý do tại sao Nhà Trắng quá lo lắng về Chimera! - Jack tiếp tục. - Họ biết nó từ đâu đến. Họ biết nó là gì. Blankenship nhấc điện thoại và quay số. lúc sau, ông . - Đây là giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson, Blankenship. Tôi cần chuyện với ông Jared Profitt. Vâng, tôi biết bây giờ là mấy giờ. Đây là trường hợp khẩn cấp nên nếu có thể kết nối tới nhà ông ấy…. - ông im lặng lát. Rồi ông điện thoại. - Họ biết. Tôi với họ. Họ tự tìm ra. - ông dừng lại. - Jack McCallum và Gordon Obie. Vâng, thưa ngài, họ đứng ngay đây, tại bếp của tôi. - ông đưa điện thoại cho Jack. - Ông ấy muốn chuyện với . Jack cầm điện thoại. - Tôi, Jack McCallum đây. - Có bao nhiêu người biết? - đó là câu đầu tiên Jared Profitt hỏi . Câu hỏi đó khiến Jack hiểu vấn đề này nhạy cảm mức nào. . - Chỉ các bác sĩ của chúng tôi biết. Và vài người ở Trung tâm Khoa học biển. - chỉ vậy, biết đáng lẽ mình nên kể ra vài cái tên. - Các có thể im lặng ? - Profitt hỏi. - Còn tùy! - Vào cái gì? - Vào việc ông có hợp tác với chúng tôi , và chia sẻ thông tin với chúng tôi. - muốn gì, bác sĩ McCallum? - Toàn bộ , mọi thứ các vị biết về Chimera, kết quả khám nghiệm tử thi, dữ liệu từ các thí nghiệm y khoa của các vị. - Nếu chúng tôi chia sẻ các thông tin đó sao? Chuyện gì xảy ra? - Đồng nghiệp của tôi ở NASA gửi fax đến mọi hãng thông tấn ở Mỹ. - Và với họ chính xác là cái gì? - , rằng sinh vật này bắt nguồn từ trái đất. Ông ta im lặng rất lâu. Jack nghe thấy cả tiếng tim ông ta đập mạnh qua điện thoại. Chúng ta đoán đúng phải ? Chúng ta phát ra đúng ? Profitt . - Tôi cầu bác sĩ Roman với mọi chuyện. ấy gặp tại khu Cát Trắng. - rồi ông ta dập máy. Jack gác máy, nhìn Blankenship. - Ông biết mọi chuyện này bao lâu rồi? im lặng của ông ta chỉ khiến Jack thêm tức giận. tiến về phía trước vẻ đe doạ và Blankenship lùi lại về phía bức tường trong bếp. - Ông biết chuyện này được bao lâu rồi? - Chỉ… chỉ mấy ngày thôi. Tôi thề là giữ bí mật. - Còn người của chúng ta chết đó sao? - Tôi còn lựa chọn! Điều này khiến mọi người hoảng sợ. - Blankenship hít sâu hơi và nhìn thẳng vào mắt Jack. - hiểu tôi định về việc gì nếu đến khu Cát Trắng. Ngày 20 tháng 8 Emma cắn chặt răng, cố buộc ga-rô chặt. Các mạnh máu ở tay trái nổi lên như những con giun dưới làn da xanh xao. lấy cồn lau phần cánh tay dưới khủyu và nhăn mặt khi kim tiêm đâm vào. Như con nghiện khao khát cai bệnh, tiêm hết những gì còn lại trong xi-lanh, nới lỏng ga-rô. Khi xong, nhắm mắt để mình trôi tự do. tưởng tượng ra các phân tử chất kích dục màng đệm ở người như những ngôi sao hy vọng bé di chuyển trong mạch máu mình, cuộn lên đầu và hai lá phổi. Nó di chuyển dần lên các động mạch và mao mạch. thấy dường như mình cảm thấy tác động tức thời của nó, cơn đau đầu dần biến mất. Cơn sốt bốc hoả của cũng tan biến thành thứ gì đó hư vô. Chỉ còn ba liều, nghĩ. Còn ba ngày nữa. tưởng tượng hồn mình lìa khỏi xác. thấy mình như thể ở đằng xa, cuộn tròn lại như bào thai trong quan tài. bong bóng bọc màng bay ra từ miệng rồi vỡ tung, thành các sợi chỉ ngoằn ngoèo như những con giòi. mở mắt ngay và thấy mình ngủ, mơ. Áo ướt đẫm mồ hôi. Đó là tính hiệu tốt. Điều đó có nghĩa là cơn sốt của hạ. xoa hai bên thái dương, cố quên hình ảnh trong giấc mơ nhưng được. và giấc mơ cứ quện vào nhau. cởi áo ngoài, lấy chiếc áo sạch trong ngăn tủ của Diana. Dù gặp ác mộng, giấc ngủ ngắn đó giúp sảng khoái chút. Giờ lại tỉnh táo và sẵn sàng tìm kiếm các giải pháp mới. bay đến phòng thí nghiệm Mỹ và mở tập tin về Chimera máy tính. Đây là sinh vật ngoài trái đất, Todd Cutler thông báo với như vậy. Mọi thứ NASA biết về sinh vật này được truyền tới các máy tính tàu cho . xem lại các tệp thông tin đó, hy vọng tìm ra được điều gì đó mới, phương pháp mà chưa ai nghĩ ra. Mọi thứ đọc đều quen thuộc và lối thoát. mở tệp thông tin về nhiễm sắc thể. chuỗi nucleotit chạy dọc màn hình. Nó trải ra thành chuỗi bất tận các chữ cái A, C, T và G. Đây là mã quy định của Chimera. - dù sao cũng chỉ là phần của nó. Đó là những phần mà Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm chọn lọc để chia sẻ với NASA. nhìn chằm chằm vào nó như bị thôi miên khi các mã gen chạy dọc màn hình. Đây là phần cơ bản nhất của dạng sống ngoài trái đất phát triển bên trong . Đây là chìa khóa của kẻ thù. Giá như biết cách sử dụng nó. Chìa khóa. bỗng nhớ lại những điều Jack với trước đây về các hooc-môn. Để hooc-môn hoạt động, nó phải bám chặt vào cơ thể gốc, vào tế bào cụ thể nào đó. Nó như chiếc chìa khóa tìm kiếm để khớp vào ổ khóa. Tại sao hooc-môn như chất kích dục màng tế bào dành cho động vật có vú lại có thể hạn chế sinh sản của dạng sống ngoài trái đất này? tự hỏi. Tại sao sinh vật ngoài trái đất, thứ quá xa lạ với sống trái đất lại có các ổ khóa khớp với chìa khóa của chúng ta? máy tính các chuỗi nucleotit cuộn đến phần cuối. nhìn con trỏ nhấp nháy và nghĩ về các sinh vật được sinh ra trái đất và bị Chimera lấy mất ADN. Bằng cách lấy các gen mới đó, dạng sống ngoài trái đất phần nào giống con người, phần giống chuột, và phần là bò sát. liên lạc với Houston. - Tôi cần chuyện với ai đó ở Trung tâm Khoa học biển. - . - Cụ thể là ai? - chỉ huy liên lạc . - chuyên gia về bò sát. - Chờ nhé, Watson! Mười phút sau, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học biển được nối với điện đàm. - thắc mắc về loài bò sát à? - ông hỏi. - Đúng, về Rana pipiens, loài ếch đốm phía bắc. - cần biết thông tin gì? - Chuyện gì xảy ra nếu ông cho ếch đốm tiếp xúc với các hooc-môn của con người? - Cụ thể là hooc-môn nào? - Ví dụ như Estrogen. Hay hooc-môn kích dục màng đệm ở người. Bác sĩ Wang trả lời ngay. - Các loài bò sát nhìn chung đều bị ảnh hưởng tiêu cực trong môi trường có hooc-môn nam tính. Thực ra việc đó được vài người nghiên cứu. số nhà khoa học nghĩ số lượng ếch nhái suy giảm thế giới là do chất hooc-môn nam tính làm ô nhiễm các nguồn nước và ao hồ. - Các hooc-môn nam tính nào? - Ví dụ như vài loại thuốc trừ sâu có thể gần giống hooc-môn nam tính. Chúng phá hủy hệ thống nội tiết của các loài ếch, khiến chúng thể sinh sản hay phát triển. - Vậy là thuốc đó thực giết chúng? - Đúng, nó chỉ ngăn cản quá trình sinh sản thôi. - Vậy loài ếch đặc biệt nhạy cảm với chất này? - Đúng vậy, nhạy cảm hơn nhiều so với động vật có vú. Hơn nữa, da ếch có khả năng thẩm thấu. Vì vậy nhìn chung chúng nhạy cảm với chất độc hơn. Đó là kiểu mà chúng ta gọi là “gót chân Achilles”. Gót chân Achilles. im lặng lúc để nghĩ về điều đó. - Bác sĩ Watson. - tiến sĩ Wang . - có hỏi gì nữa ? - Có. Loại bệnh hay chất độc nào có thể giết chết ếch nhưng làm hại gì động vật có vú? - Đó là câu hỏi rất hay. về thuốc độc nó tùy thuộc vào liều dùng. Nếu cho ếch ăn ít thạch tín, nó chết. Nhưng thạch tín cũng giết chết con người nếu liều dùng quá cao. Và tương tự, các bệnh do vi khuẩn gây ra chỉ có số vi khuẩn và vi rút giết chết ếch. Tôi phải là bác sĩ chuyên khoa nên tôi chắc nó có giết chết con người hay , nhưng… . - Các loại vi rút à? Đó là những loại nào? - Ồ, ví dụ như vi rút Rana. - Tôi chưa từng nghe cái tên đó. - Chỉ có những chuyên gia về bò sát mới biết chúng. Chúng là các vi rút ADN, thuộc họ vi rút Irdo. Chúng tôi nghĩ chúng là nguyên nhân gây ra hội chứng phù ở những con nòng nọc. Những con nòng nọc bị phù lên và xuất huyết. - Chúng có chết ? - Phần lớn là chết. - Loại vi rút đó có giết người ? - Tôi biết. Tôi nghĩ người ta cũng chưa biết điều này. Các loại vi rút Nara giết lượng lớn các loài ếch khắp thế giới. Gót chân Achilles, nghĩ. Mình tìm ra nó. Bằng cách lấy thêm ADN của loài ếch vào nhiễm sắc thể, Chimera phần là loài bò sát. Nó cũng bị số loại vi rút ảnh hưởng như bò sát. . - Có cách nào lấy được mẫu của trong các vi rútNara ? Để thử nghiệm nó Chimera? Ông im lặng rất lâu. - Tôi hiểu rồi. - tiến sĩ Wang . - Chưa ai thử điều đó. Chưa ai nghĩ đến việc… - Ông có thể lấy các loại vi rút đó ? - Có, tôi biết hai phòng thí nghiệm nghiên cứu về bò sát ở California. Họ nghiên cứu về vi rút Nara. - Vậy hãy làm ngay. Và hãy báo cho Jack McCallum. ấy cần biết chuyện này. . - ấy và Gordon Obie đến khu Cát Trắng. Tôi tìm họ ở đó.