Titanic Trong Vũ Trụ - Tess Gerritsen [Trinh thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 11

      MƯỜI

      - Phải khám nghiệm tử thi. - Todd Cutler .

      Gordon Obie, giám đốc điều hành bay, giận dữ nhìn . số người khác trong phòng họp cũng miễn cưỡng gật đầu với Cutler vì điều quá . Tất nhiên là phải tiến hành khám nghiệm tử thi.

      Hơn chục người họp vì vụ rắc rối. Khám nghiệm tử thi là điều họ chẳng mấy quan tâm. Ngay lúc này, Obie phải đương đầu với các vấn đề cấp bách hơn. Vốn là người ít , giờ ông bỗng thấy các micro của phóng viên luôn chĩa về phía mình mỗi khi ông xuất ở chỗ đông người. Quá trình buộc tội bắt đầu.

      Obie phải chấp nhận phần trách nhiệm cho thảm kịch này vì ông phê duyệt việc lựa chọn mỗi thành viên trong phi hành đoàn. Nếu ai đó có vấn đề thuộc đội bay chính ông cũng gặp vấn đề. Việc ông chọn Emma Watson bắt đầu có vẻ là sai lầm lớn.

      Ít nhất đó chính là điều ông nghe thấy trong phòng họp lúc này. Là bác sĩ duy nhất Trạm vũ trụ quốc tế, đáng lẽ Emma Watson phải nhận ra rằng Hirai hấp hối và việc di dời bằng phương tiện cứu hộ khẩn cấp có thể cứu sống . Giờ tàu con thoi được phóng lên và nhiệm vụ cứu trợ tốn kém hàng triệu đô chẳng làm được công cán gì ngoài việc bị biến thành nhà xác di động. Lúc này, chính quyền Washington mong muốn gì hơn ngoài kẻ giơ đầu chịu báng khi báo chí nước ngoài đặt ra những câu hỏi mang tính bất hòa: phi hành gia người Mỹ có đáng bị để cho chết như vậy ?

      Thực rắc rối trong quan hệ công chúng là chủ đề chính của cuộc họp sáng nay.

      Gretchen Liu .

      - Thượng nghị sĩ Parish được ghi vào kỷ lục với câu .

      Giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship gầm lên.

      - Tôi rất sợ phải đưa ra câu hỏi.

      - Đài truyền hình CNN bên Đại Tây Dương chuyển fax qua. Và tôi xin trích dẫn: “Hàng triệu đô tiền thuế được sử dụng để phát minh ra phương tiện cứu trợ khẩn cấp. Nhưng NASA lựa chọn phương án sử dụng nó. Phi hành gia của họ bị bệnh rất nặng đó và mạng sống của đáng lẽ được cứu. Giờ phi hành gia dũng cảm đó chết và ai cũng thấy ràng là có sai lầm nghiêm trọng. mất mát vũ trụ là mất mát của nhiều người. Phải có cuộc điều tra cấp quốc hội”. - Gretchen nhìn lên ủ rũ. - Đó là lời của ngài nghị trưởng đáng mến của chúng ta.

      - Tôi biết có bao nhiêu người nhớ rằng ông ấy cố bóp chết chương trình sản xuất phương tiện cứu hộ khẩn cấp của chúng ta? - Blankenship bực tức. - Giờ tôi chỉ muốn cào vào mặt ông ta.

      - Ông thể làm vậy. - Leroy Cornell . Là người quản lý NASA về mặt hành chính, Cornell chịu trách nhiệm đánh giá mọi nhánh chính trị. Ông là cầu nối giữa Quốc hội và Nhà Trắng, ông bao giờ bỏ qua bất cứ chi tiết nào về những việc diễn ra tại chính trường Washington. - Ông tấn công trực diện vào ngài thượng nghị sỹ. Và những chuyện này thực khiến việc nóng lên.

      - Ông ấy tấn công chúng ta.

      - Công chúng . - Gretchen xen vào. - Ông ấy vào hùa cho những vụ tấn công này.

      - Đó phải là toàn bộ vấn đề… ông thượng nghị sĩ đó muốn có những đề báo. - Cornell nhận định. - Chúng ta bắn trả là món hời cho đám truyền thông. Nghe này, Parish chưa bao giờ là bạn của chúng ta. Ông ấy đấu tranh mỗi khi chúng ta cầu tăng khoản ngân sách. Ông ấy muốn mua những con tàu chiến chứ phải tàu vũ trụ. Và chúng ta bao giờ thay đổi ý kiến của ông ấy được. - Cornell nhìn nhận nghiêm túc lời phê bình của ông ấy và tự hỏi mình xem nó có đúng .

      Cả căn phòng im lặng lát.

      - ràng là chúng ta mắc lỗi. - Blankenship . - Các nhầm lẫn trong việc chẩn đoán y học. Tại sao chúng ta biết bệnh ấy nặng mức nào?

      Obie ném ánh mắt khó chịu về phía hai bác sĩ chuyến bay. Giờ ai cũng tập trung vào năng lực của nhóm bác sĩ, và vào Emma.

      có ở đó để bào chữa cho mình, Obie phải thay .

      Todd Cutler đá quả bóng về phía ông.

      - đó, Emma Watson gặp bất lợi mà chưa bác sĩ nào từng gặp phải. - ông . - máy chụp X-quang, có phòng mổ. ai trong số chúng ta biết vì sao Hirai chết. Đó là lý do tại sao chúng ta cần khám nghiệm tử thi. Chúng ta cần biết chuyện gì xảy ra và liệu môi trường trọng lực siêu có phải là vấn đề .

      - ai thắc mắc gì về việc khám nghiệm tử thi. - Blankenship . - Ai cũng đồng ý với ý kiến đó.

      - , nguyên nhân tôi nhắc đến điều đó là…. - Cutler hạ giọng. - Là vấn đề ngăn chặn.

      Ông dừng lại. Obie thấy những ánh mắt khó chịu khi nhận ra ý trong câu đó.

      - ấy về tình trạng thiếu thiết bị làm lạnh. - Obie hơn. - phải để dành cho thứ gì đó lớn bằng cơ thể người, phải trong môi trường chịu áp lực.

      Giám đốc điều hành bay Trạm vũ trụ quốc tế Woody Ellis .

      - Mười bảy giờ nữa tàu con thoi trở về. Cơ thể ấy bị phân hủy nhiều mức nào trong thời gian đó.

      - Cũng hề có thiết bị làm lạnh tàu con thoi. - Cutler vạch . - ấy chết được bảy tiếng. Cộng thêm thời gian gặp gỡ, chuyển xác chết cũng như các loại hàng hóa khác và việc rời trạm nữa. Chúng ta mất ba ngày để đưa xác ấy về. Và điều đó chỉ xảy ra nếu mọi việc diễn ra chính xác như chiếc đồng hồ. Mà tất cả chúng ta đều biết điều đó rất khó xảy ra.

      Ba ngày. Obie nghĩ về những gì có thể xảy ra với xác chết trong hai ngày, về những miếng thịt gà sống bốc mùi như thế nào khi ném chúng vào trong sọt rác chỉ trong đêm…

      - Ý là tàu Discovery thể hoãn việc trở về, thậm chí là thêm ngày? - Ellis . - Chúng tôi hy vọng là có thêm thời gian cho những công việc khác nữa. Có rất nhiều thí nghiệm Trạm vũ trụ quốc tế sẵn sàng để được đưa về. Các nhà khoa học dưới trái đất đợi chúng.

      - Việc khám nghiệm tử thi có kết quả nếu xác chết bị phân hủy. - Cutler lo lắng.

      - có cách nào khác để bảo quản sao? Ví dụ như ướp xác?

      - được có can thiệp của các chất hóa học. Chúng ta cần cái xác bị ướp. Và chúng ta cần sớm đưa nó về nhà.

      Ellis thở dài.

      - Phải có cách nào đó chứ. Phải có cách để khiến điều gì đó được thực khi họ lên trạm chứ.

      Gretchen cảnh báo.

      - Với quan điểm của nhà quan hệ công chúng, rất tệ nếu các vị cứ tiếp tục làm công việc bình thường với cái xác được chứa trong khoang giữa. Hơn nữa, số nguy hiểm về sức khỏe, và bốc mùi nữa.

      - Cái xác được đóng trong túi nhựa. - Cutler giải thích. - Họ có thể kéo rèm cửa để tránh nhìn thấy nó trong khoang ngủ.

      Chủ đề này chán đến nỗi hầu như khuôn mặt người nào trong phòng cũng tái hết . Họ có thể bàn về vấn đề bê bối chính trị và các trục trặc y học. Nhưng những xác chết, mùi hôi thối và thịt rữa phải là điều họ muốn tập trung.

      Cuối cùng Leroy Cornell phá vỡ im lặng đó.

      - Tôi hiểu tình hình khẩn cấp trong lời của các vị về việc đưa cái xác trở về để khám nghiệm tử thi.
      Và tôi cũng hiểu khía cạnh của việc quan hệ công chúng. Có vẻ như chúng ta có tình cảm nếu tiếp tục bàn về công việc của mình. Nhưng có những việc mà chúng ta cần phải làm, ngay cả khi chúng ta bị thiệt hại hay mất mát thứ gì. - ông nhìn quanh bàn họp. - Đó là mục tiêu tiên quyết của chúng ta, đúng ? Đó là trong những thế mạnh của tổ chức chúng ta phải ? Bất kể có chuyện gì xảy ra, bất kể chúng ta phải chịu đựng điều gì chúng ta luôn cố gắng hết sức để hoàn thành công việc đúng nào?

      Đó là khi Obie cảm thấy khí trong phòng đột nhiên thay đổi. Tính đến nay, họ làm việc và chịu rất nhiều thảm kịch và áp lực của giới truyền thông. Ông chứng kiến những nỗi chán chường và thất vọng những khuôn mặt kia và cả phòng vệ nữa. Giờ ủ rũ tan biến. Ông thấy ánh mắt Cornell và cảm thấy chút thái độ khinh bỉ của ông với người đàn ông đó mất. Ông coi những người điều hành NASA như những kẻ có tội và tha thứ cho họ nếu họ nhúng mũi vào những quyết định liên quan đến hoạt động của hãng.

      Đôi khi, Cornell chệch ra khỏi cầu đó. Tuy nhiên, hôm nay ông làm được việc, đó là khiến họ quay lại và nhìn nhận viễn cảnh lớn hơn. Mọi người đến căn phòng này với những mối quan tâm riêng của mình. Cutler muốn thi thể còn mới được đưa về để khám nghiệm tử thi. Gretchen Liu muốn giới truyền thông nhìn nhận đúng đắn. Đội điều hành tàu con thoi muốn tàu Discovery thực nhiều nhiệm vụ.

      Cornell nhắc nhở cho họ nhớ phải nhìn xa hơn việc Kenichi chết, nhìn xa hơn những mối quan tâm của bản thân và tập trung vào những gì là tốt nhất cho chương trình vũ trụ.

      Obie khẽ gật đầu tán thành và những người khác đều để ý thấy điều đó. Con nhân sư cuối cùng bộc lộ quan điểm của mình.

      - Mỗi chuyến phóng tên lửa thành công đều là món quà của Thượng đế. - ông . - Đừng bỏ phí lần này.

      Ngày mùng 5 tháng 8

      Chết rồi.

      Đôi giày của Emma nện thành nhịp cối xay guồng có hệ thống cách chấn động. Mỗi lần giậm chân lên băng chuyền chuyển động, mỗi chấn động lên các xương, khớp nối và các thớ cơ của đều là lần tự trừng phạt mình.

      Chết rồi.

      Mình mất ấy. Mình khốn nạn khi để mất ấy.

      Đáng lẽ mình nên nhận ra ấy bệnh nặng mức nào. Lẽ ra mình phải thúc giục họ di dời bằng phương tiện cứu hộ khẩn cấp. Nhưng mình cứ chần chừ vì mình nghĩ là mình giải quyết được việc đó. Mình cứ nghĩ là mình giúp ấy sống được.

      Cơ đau buốt, mồ hôi đầm đìa trán, tiếp tục tự hành hạ mình, bực tức với thất bại của chính mình. dùng guồng có hệ thống cách ba ngày nay vì quá bận rộn lo nghĩ đến Kenichi. Giờ bù lại. đóng các dây buộc ở hai bên, bật máy hoạt động và bắt đầu chạy.

      trái đất, rất thích chạy bộ. chạy nhanh lắm nhưng phát triển được khả năng chịu đựng và biết cả trạng thái hôn mê cao độ mà các vận động viên chạy xa trải qua khi hàng chục dặm tan chảy dưới chân họ. Và việc đốt cháy các cơ bắp hoạt động nhường chỗ cho trạng thái thảnh thơi. Dần dần lao động để tạo nên sức chịu đựng đó, và chỉ vì bước bỉnh buộc mình xa hơn và nhanh hơn. luôn đấu tranh để thắng lần chạy trước, bao giờ cho phép mình nghỉ giữa chừng. luôn như vậy kể từ khi còn . bé hơn những người khác, nhưng mạnh mẽ hơn. Suốt đời mình, luôn mạnh mẽ và gan dạ nhưng chưa bao giờ dám đối diện với chính mình.

      Mình sai lầm. Và giờ bệnh nhân của mình chết.

      Áo ướt đẫm mồ hôi, vết ẩm lớn trải khắp ngực . Các bắp chân và đùi quan giai đoạn bị đốt cháy. Các cơ co lại và sắp sụp xuống vì luyện tập căng thẳng cao độ.

      bàn tay thò ra, tắt nút khởi động hệ thống cách . Đường chạy đột nhiên lắc mạnh rồi dừng lại. ngước lên và gặp ánh mắt của Luther.

      - Tôi nghĩ thế là quá đủ rồi, Watson. - khẽ.

      - Chưa đâu.

      - đó hơn ba tiếng rồi.

      - Tôi chỉ vừa mới bắt đầu. - lầm bầm rất khẽ. bật nút khởi động và đôi giày chạy của lại nên dây băng.

      Luther nhìn lúc, cơ thể lơ lửng ngang tầm mắt , cái nhìn của thể né tránh được. thích bị soi mói, và thậm chí lúc đó còn rất ghét nghĩ có thể nhìn xuyên qua nỗi đau và dằn vặt của .

      - Sao nó nhanh hơn để đập đầu vào tường nhỉ? - giọng hơi cao.

      - Nhanh hơn. Nhưng vẫn chưa đủ đau đớn.

      - Tôi hiểu. Để trừng phạt phải đau đớn đúng ?

      - Đúng.

      - Có thay đổi gì nếu tôi cho biết điều này ngớ ngẩn? Vì bản chất của nó đúng là như vậy. Việc này là phí sức. Kenichi chết vì ấy bị bệnh.

      - Đó mới chính là điều tôi cần can thiệp.

      - Và thể cứu sống ấy. Nên bây giờ trong những kẻ tồi tệ của trung tâm phải ?

      - Đúng thế!

      - Ồ, sai rồi. Vì tôi giành danh hiệu đó trước .

      - Đây là kiểu thử nghiệm à?

      lại tắt nút khởi động máy. Chiếc máy chạy lại rung lên và dừng lại. giận dữ nhìn thẳng vào mắt . Ánh mắt ấy cũng mạnh mẽ như ánh mắt .

      - Còn nhớ vụ bê bối của tôi ? tàuColumbia?

      gì, cần lên tiếng. Ở NASA ai cũng biết chuyện đó. Nó xảy ra bốn năm trong khi làm nhiệm vụ bay sửa chữa vệ tinh liên lạc quay quanh quỹ đạo. Luther khi đó là chuyên gia chịu trách nhiệm bố trí lại vệ tinh sau khi công việc sửa chữa hoàn thành. Phi hành đoàn để nó trượt khỏi bệ và chỉ còn biết nhìn nó trôi mất. Tên lửa khởi động đúng theo lịch trình và đưa vệ tinh vào đúng vị trí.

      Đó chính là lúc nó còn tuân theo các mệnh lệnh. Nó hoạt động khi đưa vào quỹ đạo và khối rác trị giá hàng chục tỉ đô la bay quanh trái đất cách vô dụng.

      Gần như ngay lập tức, những lời chỉ trích giáng xuống vai Luther Ames. Trong khi vội vã đưa vệ tinh vào vị trí, quên mở khóa mã số phần mềm quan trọng. - hoặc là đại loại như vậy theo lời của bên ký kết hợp đồng tư nhân. Luther chắc chắn rằng nhập mã số và trở thành người giơ đầu chịu báng cho những lỗi lầm thuộc về các nhà sản xuất vệ tinh. Mặc dù công chúng biết nhiều về vụ cãi vã này nhưng trong nội bộ NASA ai cũng biết chuyện. bị phạt làm cái bóng của phi hành gia, vẫn thuộc trung tâm nhưng được những người chọn phi hành đoàn để mắt đến.

      Điều khiến vấn đề thêm rắc rối là Luther là người da màu.

      Trong ba năm liền, được ai biết đến và tức giận trong ngày càng tăng. Chỉ có giúp đỡ của những người bạn thân thiết trong số các phi hành gia. - trong đó thân nhất là Emma. - mới giữ ở lại trung tâm. biết mình mắc bất cứ sai lần gì nhưng mấy ai trong NASA tin . biết người ta sau lưng . Luther là người bị những kẻ có niềm tin mù quáng chỉ vào như ví dụ về những kẻ thấp kém mà có những “điều cần thiết”. đấu tranh để giữ phẩm giá của mình ngay cả khi cảm thấy tuyệt vọng nhất.

      Rồi được sáng tỏ. Vệ tinh đó có lỗi. Luther Ames chính thức được xóa mọi tội lỗi. Trong tuần, Gordon Obie mời tham gia nhiệm vụ bay: đó là nhiệm vụ kéo dài bốn tuần Trạm vũ trụ quốc tế.

      Nhưng ngay cả lúc này, Luther cảm thấy vẫn còn vết nhơ lờ mờ danh tiếng của . cũng đau đớn khi thấy những gì Emma cảm thấy lúc này.

      áp sát mặt mình gần lại phía , buộc phải nhìn vào .

      - Chúng ta hoàn hảo đúng ? Chúng ta đều là con người. - dừng lại và thêm, giọng khô khốc. - Trừ Diana Estes.

      bất chợt phá lên cười.

      - trừng phạt hết. đến lúc tiếp tục, Watson.

      Nhịp thở của trở lại bình thường mặc dù tim vẫn đập mạnh vì vẫn tự trách mình. Nhưng Luther đúng, phải tiếp tục. đến lúc giải quyết những tai hại do những sai lầm của gây nên. vẫn cần chuyển về Houston bản báo cáo cuối cùng để tổng kết bệnh án, quá trình điều trị, chẩn đoán và nguyên nhân cái chết.

      Vị bác sĩ bỏ .

      - Tàu Discovery hạ cánh trong hai tiếng nữa. - Luther . - cần làm việc.

      lúc sau, gật đầu và tháo dây buộc vào máy. đến lúc trở lại với công việc, xe tang đường đến.

      Ngày mùng 7 tháng 8

      Thi thể được buộc dây, đóng vào túi và từ từ trôi vào trong bóng tối. Chất quanh đó là mớ vô số dụng cụ và các túi li-ti dự trữ, cơ thể của Kenichi như bộ phận cần thiết khác Trạm vũ trụ cần thiết bị chất đống trong thân tàu của tàu Soyuz cũ. Soyuz ngừng hoạt động hơn năm và phi hành đoàn dùng nó làm khoang dịch vụ để chứa rất nhiều đồ vũ trụ. Dường như là khủng khiếp khi để Kenichi ở đây nhưng cả phi hành đoàn đều sợ trước cái chết của . Nếu cứ nhìn thấy thi thể lơ lửng tại trong những khoang họ làm việc hay nằm ngủ bất tiện.

      Emma quay về phía chỉ huy tàu Kittredge và nhân viên y tế O’Leary của tàu con thoi Discovery.

      - Tôi ngay lập tức đóng gói những phần còn lại sau khi ấy chết. - . - Từ lúc đó ai chạm vào nó cả. - dừng lại và quay lại nhìn thi thể Kenichi. Túi đựng xác màu đen, các lớp ni-lông cuộn lên làm lộ hình người bên trong.

      - Các ống vẫn ở nguyên vị trí chứ? - O’Leary hỏi.

      - Đúng vậy. Hai ống trợ thở, ống dẫn nước tiểu và hai ống thông mũi. - chạm vào bất cứ thứ gì, biết các nhà nghiên cứu bệnh học muốn mọi thứ còn ở nguyên vị trí. - Các có toàn bộ các mẫu máu và các mẫu vật chúng tôi gom lại từ ấy. Mọi thứ.

      Kittredge gật đầu buồn bã.

      - Hãy làm !

      Emma cởi nút buộc và chạm vào thi thể Kenichi. Nó cứng đơ và phồng lên như thể bị phân hủy trong môi trường kỵ khí. muốn nghĩ xem Kenichi trông như thế nào dưới lớp nhựa đen bóng kia.

      Quá trình đó diễn ra im lặng và buồn bã như nghi lễ cử hành đám tang. Những người đưa tiễn lơ lửng như những hồn ma khi họ đưa cái xác dọc theo chuỗi đường hầm. Kittredge và O’Leary dẫn đường, nhàng kéo cái xác qua các cánh cửa dẫn. theo họ là Jill Hewitt và Andy Mercer. ai lời. Hôm qua, khi tàu con thoi hạ cánh, Kittredge và phi hành đoàn của mình mang theo những nụ cười và những cái ôm, những quả táo, những quả chanh còn tươi nguyên và các bản sao của tờ Thời báo New Yorkphát hành chủ nhật được chờ đợi từ lâu. Đây là đội cũ của Emma, là những người rèn luyện cùng trong suốt năm. Được gặp lại họ, cảm thấy như trải qua buổi đoàn viên gia đình vừa ngọt ngào, vừa cay đắng. Giờ cuộc sum họp hết và việc cuối cùng cần làm để lên tàuDiscovery là diễu hành như đám tang tới khoang cất cánh.

      Kittredge và O’Leary đưa xác chết qua cánh cửa, vào khoang giữa của tàu Discovery. Đây là nơi cả phi hành đoàn ngủ, ăn uống và cũng là nơi thi thể Kenichi được lưu giữ cho tới khi cất cánh. O’Leary đặt nó vào trong các buồng ngủ được sắp xếp theo chiều ngang. Trước khi phóng tàu, buồng này được tu sửa lại làm khoang y tế cho người bệnh. Giờ nó được dùng làm cỗ quan tài tạm thời cho thi thể được đưa về trái đất.

      - Nó vừa đâu. - O’Leary . - Tôi nghĩ thân thể ấy phồng quá to. Nó có tiếp xúc với hơi nóng ? - nhìn Emma.

      - . Nhiệt độ tàu Soyuz vẫn được duy trì.

      - Vấn đề của ở đây này. - Jill . - Túi đựng xác va vào ống dẫn. - đưa tay và tháo cái túi khỏi chỗ mắc. - Giờ thử !

      Lần này cái xác chui lọt. O’Leary đóng sập tấm chắn để ai nhìn thấy trong đó có xác chết.

      Hai phi hành đoàn tiễn nhau rất long trọng. Kittredge ôm Emma thầm.

      - Lần thực nhiệm vụ tới, là lựa chọn đầu tiên của tôi, Emma ạ. - khi họ rời nhau ra, Emma khóc.

      Việc chia tay kết thúc khi hai chỉ huy Kittredge và Griggs bắt tay nhau. Emma nhìn phi hành đoàn tàu con thoi lần cuối. - đội của . - vẫy tay tạm biệt rồi sau đó các cánh cửa đóng sầm lại. Mặc dù tàu Discovery vẫn được nối với Trạm vũ trụ quốc tế trong hai mươi tư giờ nữa trong khi phi hành đoàn nghỉ ngơi và chuẩn bị cất cánh nhưng việc đóng chặt những cánh cửa thông khí chính thức dừng mọi liên lạc giữa hai bên. lần nữa họ lại ở trong những phương tiện tách biệt nhau, chỉ tạm thời nối với nhau như hai con chuồn chuồn dính vào nhau khi làm tình trong vũ trụ.

      Phi công Jill Hewitt thể ngủ được.

      mới bị chứng bệnh khó ngủ. Ngay cả đêm trước khi phóng tàu, vẫn cố chợp mắt, chìm ngay vào giấc ngủ sâu và tin tưởng vào may mắn theo suốt ngày hôm đó. cảm thấy tự hào là mình chưa bao giờ phải uống thuốc ngủ. Những viên thuốc đó dùng cho chàng Nellis hay lo và sợ hãi về hàng mớ khả năng rắc rối có thể xảy ra. Thuốc đó dành cho những kẻ tâm thần và điên loạn. Là người lái tàu biển, Jill trải qua nhiều mối nguy hiểm chết người. thực nhiệm vụ bay qua Iraq, hạ cánh chiếc máy bay bị gãy cảng hàng di động, xuyên qua cơn bão biển. nghĩ mình đối diện thần chết quá nhiều lần đến mức chắc chắn thần chết phải đầu hàng trước và lui về chịu thất bại. Vì vậy ngủ ngon suốt đêm.

      Nhưng đêm nay ngủ được. Đó là vì xác chết.

      ai muốn ở gần nó. Mặc dù cánh cửa ngăn cách được đóng lại, giấu cái xác nhưng họ vẫn cảm thấy diện của nó. Cái chết ở chung với họ và in bóng đen của nó lên bữa tối, ngấm vào những câu đùa thông thường của họ. Nó là thành viên thứ năm mong đợi trong phi hành đoàn.

      Như thể để trốn thoát xác chết, Kittredge, O’Leary và Mercer bỏ chỗ ngủ mọi khi của họ và chuyển lên khoang điều hành bay. Chỉ có Jill vẫn ở lại khoang giữa như thể muốn chứng minh với những người đàn ông rằng yếu tim như họ, rằng phụ nữ bị những xác chết làm phiền.

      Nhưng phải là lúc này, khi ánh đèn trong buồng ngủ lờ mờ, cảm thấy giấc ngủ lảng tránh . cứ nghĩ về thứ nằm phía sau tấm ván được đóng chặt kia, về Kenichi Hirai khi ấy còn sống.

      nhớ khá , có nước da tái, giọng và mớ tóc đen cứng như những sợi dây. Có lần, trong khi rèn luyện trong môi trường trọng lượng, vô tình chạm vào tóc và rất ngạc nhiên khi phát ra nó cứng như lông gấu. biết giờ trông nó thế nào. bỗng thấy tò mò đến phát điên lên về những gì xảy ra với khuôn mặt và thần chết hủy hoại ra sao. Đó cũng là tính tò mò thúc ép . Khi còn , dùng những cành cây chọc vào xác các con vật chết mà đôi khi bắt gặp trong rừng.

      quyết định tránh cái xác xa hơn.

      mang túi ngủ của mình sang bên phải tàu và buộc nó vào sau thang leo lên phòng điều hành bay. chỉ tránh xa được mức đó nhưng vẫn cùng khoang với cái xác. Ngày mai suy nghĩ lại, làm mới lại mọi tế bào não để làm việc hết sức cho việc hạ cánh xuống trái đất. Chỉ cần sức mạnh ý chí, buộc mình ngủ được.

      ngủ khi cuộn chất lỏng óng ánh nhiều màu bắt đầu rỉ ra qua túi đựng xác Kenichi.

      Đầu tiên, nó chỉ là vài giọt rỉ ra qua các vết rách túi nhựa bị xé toạc khi cái túi bị lôi . Trong nhiều giờ liền, áp lực tăng cao, cái túi từ từ phồng lên khi vật chứa bên trong căng phồng. Giờ chỗ thủng rộng hơn và chuỗi lấp lánh tràn ra. Chuỗi đó thoát qua tấm nâng ở các lỗ thông gió, rồi vỡ tan thành những giọt nước màu xanh dương pha xanh lá cây. Chúng nhanh chóng nhảy múa trong môi trường tự do trọng lực trước khi lại đông lại thành những vệt nước lớn dập dờn trong căn phòng sáng lờ mờ. Chất lỏng màu trắng đục tiếp tục rỉ ra. Các giọt nước lan ra, theo các dòng khí lưu thông . Chúng lơ lửng ngang căn phòng và tìm đường tới chỗ có hình tay chân của Jill Hewitt nằm ngủ. hề hay biết về những đám mây lấp lánh bao phủ lấy mình, biết màn sương mù nhàng hít vào và cũng biết những giọt nước đọng lại thành khối đậm đặc mặt . Khi khẽ cựa mình và lau những giọt nước đọng những giọt nước đục như sữa đó chảy vào mắt .

      Những giọt nước nhảy múa bay lên cùng dòng khí lưu thông, qua cánh cửa mở chỗ thông giữa các khoang và bắt đầu tràn vào khu điều hành bay lờ mờ. Ở đó ba người đàn ông lơ lửng nghỉ ngơi thoải mái trong giấc ngủ trọng lượng.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 12

      MƯỜI HAI

      Ngày mùng 8 tháng 8

      Các đám mây đầy đe dọa hình thành vùng biển phía đông Caribe nhiều ngày trước. Ban đầu, nó chỉ là vùng khí áp suất thấp hình thành cao, cuộn mây hình thành từ những giọt nước bị bốc hơi thuộc vùng biển thuộc xích đạo bị mặt trời thiêu đốt cả ngày. Khi gặp luồng khí nóng ở phía bắc, những đám mây này bắt đầu xoay, cuộn quanh mắt bão yên tĩnh của vùng khí nóng. Giờ nó biến thành vòng xoáy thực và dường như lớn dần lên mỗi khi các hình ảnh được Vệ tinh thời tiết khí tượng truyền về. Dịch vụ báo thời tiết của Trung tâm quản lý khí tượng và biển quốc gia theo dõi cơn bão từ khi nó hình thành. Họ chứng kiến nó ôn hòa, mất hướng và di chuyển ra tận cực đông Cuba. Giờ các dữ liệu mới nhất được chuyển về từ các phao nổi. Chúng cho thấy các nền nhiệt mới, tốc độ và hướng gió cũng khác. Các dữ liệu này càng khẳng định những gì các nhà khí tượng học nhìn thấy màn hình máy tính.

      Đó là cơn bão nhiệt đới. Nó di chuyển về phía tây bắc, về mũi bang Florida.

      Đây là thông tin mà giám đốc điều hành hay Randy Carpenter sợ nhất. Họ có thể khắc phục các trục trặc kỹ thuật. Họ có thể xử lý các cố của các hệ thống đa cấp. Nhưng lần nữa, khi đối diện với sức mạnh của Mẹ trái đất, họ lại cảm thấy tuyệt vọng. Mối quan tâm hàng đầu của cuộc họp đội làm nhiệm vụ sáng nay là quyết định cứ tiếp tục hay hủy việc bay quanh quỹ đạo. Họ chuẩn bị cho tàu con thoi cất cánh và đốt cháy nhiên liệu để hủy bay quanh quỹ đạo trong sáu tiếng. Bản báo cáo thời tiết thay đổi mọi việc.

      Nhóm khí tượng chuyến bay vũ trụ thuộc Trung tâm dự báo khí tượng quốc gia cho biết cơn bão nhiệt đới này di chuyển về phía bắc. - tây bắc, hướng về các khu trọng điểm của Florida. - chuyên gia dự báo . - Sóng ra-đa từ Lực lượng quân Patrick và sóng ra-đa từ Trung tâm dịch vụ thời tiết quốc gia Úc tại Melbourne cho thấy sức gió trong sóng lên tới cấp sáu mươi lăm, kèm theo mưa lớn. Các khinh khí cầu của Rawinsonde và Jimsphere đều xác nhận thông tin đó. Ngoài ra, các mạng hệ thống Field Mill quanh mũi Canaveral cũng như các sóng ra-đa của Trung tâm vũ trụ Johnson cũng cho thấy có sấm chớp tăng cường. Những tình hình có thể kéo dài trong vòng bốn mươi tám giờ tới. Và có thể còn lâu hơn nữa.

      - theo cách khác chúng ta thể hạ cánh ở Kennedy được. - Carpenter .

      - Chắc chắn Kennedy bị loại, ít nhất là trong vòng ba hay bốn ngày tới.

      Carpenter thở dài.

      - Được rồi, chúng ta đoán việc gì xảy ra. Hãy nghe thông tin về Lực lượng quân Edwards.

      Lực lượng quân Edwards nằm lọt thỏm trong thung lũng phía đông của Sierra Nevada tại California phải là lựa chọn đầu tiên của họ. Hạ cánh tại khu vực này trì hoãn toàn bộ quá trình hoạt động của tàu con thoi và việc quay trở lại để thực nhiệm vụ tiếp theo vì tàu phải được chuyển quay trở về Kennedy, và được vận chuyển về khu bệ phóng số 747.

      - may. - nhân viên dự báo thời tiết . - ngay cả trung tâm Edwards cũng có rắc rối.

      Bụng Carpenter đột nhiên co thắt lại. Đây là điềm báo trước cho thấy đó mới chỉ là phần mở đầu cho chuỗi xui xẻo tiếp theo. Là tổng giám đốc điều hành bay, nhận nhiệm vụ riêng là xem xét mọi rủi ro được ghi lại và phân tích xem chuyện gì xảy ra. Dựa những bất lợi trong quá khứ, có thể lật ngược lại vấn đề, theo chuỗi các quyết định tồi tệ mà trông bên ngoài có vẻ vô hại. Đôi khi việc bắt đầu do công ty sản xuất có kỹ sư làm việc tập trung, tấm điện bị cắm dây sai. Ngay cả những ống kính viễn vọng Hubble cũng có thể bị long mấy con ốc ngay từ đầu.

      Giờ thể rũ bỏ cảm giác rằng sau này suy nghĩ lại về cuộc họp này và tự hỏi. Có điều gì mình nên làm khác? Lẽ ra mình nên làm gì để ngăn chặn thảm họa?

      hỏi.

      - Tình hình tại Edwards ra sao?

      - tại họ thấy khối mây ở độ cao hai nghìn trăm ba mươi ba mét.

      - Đó là tình huống bế tắc .

      - Đúng vậy, California nắng quá. Nhưng có khả năng mây quang phần nào trong vòng hai mươi tư đến ba mươi sáu giờ tới. Chúng ta có thể có điều kiện hạ cánh thích hợp nếu chúng ta chờ cho mây tan . Nếu chúng ta phải sang tận New Mexico. Tôi vừa kiểm tra khu hạ cánh bên đó và khu Cát Trắng có vẻ ổn. Trời trong xanh, gió chiều với tốc độ cấp năm đến mười. có dự báo nào cho thấy thời tiết bất lợi.

      - Vậy đó là lựa chọn của chúng ta. - Carpenter . - Hãy chờ cho đến khi khu căn cứ Edwards quang đãng. Nếu chúng ta đến khu Cát Trắng. - Ông nhìn những người còn lại trong phòng thăm dò ý kiến.

      giám đốc quản lý chương trình .

      - đó bây giờ họ đều ổn. Chúng ta có thể để họ hạ cánh tại Trung tâm vũ trụ quốc tế bao nhiêu lâu cũng được cho đến khi thời tiết thuận lợi. Tôi thấy cần thiết phải giục họ về nhà để hạ cánh xuống khu vực tối ưu bằng.

      tối ưu bằng là cách ám chỉ. Khu vực Cát Trắng là dải đất nằm tách biệt được lắp các khối hình trụ xếp thẳng hàng.

      - gặp khó khăn trong việc đưa thi thể xuống càng sớm càng tốt. - Todd Cutler . - Trong khi đó việc khám nghiệm tử khi vẫn rất cần thiết.

      - Tất cả chúng ta đều biết điều đó. - giám đốc chương trình . - Nhưng hãy so sánh nó với những bất lợi. Khu Cát Trắng rất hạn chế. Các dịch vụ y tế còn có nếu chúng ta gặp bất cứ trục trặc gì khi hạ cánh. Thực nếu cân nhắc mọi việc tôi đề nghị chúng ta đợi còn lâu hơn nữa cho đến khi trung tâm Kennedy trong trẻo trở lại. Nếu suy nghĩ cách lô-gíc đó là điều tốt nhất cho chương trình này. Như vậy tàu con thoi trở về nhanh hơn, chúng ta đưa nó về khu bệ phóng sớm hơn để thực nhiệm vụ tiếp theo. Đồng thời, phi hành đoàn có thể sử dụng Trạm vũ trụ quốc tế làm khách sạn trong vài ngày.

      Mấy giám đốc chương trình khác gật đầu. Họ đều lựa chọn phương án bảo thủ nhất. Phi hành đoàn an toàn tại nơi họ ở, việc cần đưa thi thể của Hirai về gấp bị các vấn đề tại khu Cát Trắng làm mờ hết. Carpenter nghĩ về tất cả những cách khiến sau này phải suy nghĩ lại, lạy trời đừng để có thảm họa gì khi hạ cánh tại khu Cát Trắng. Ông nghĩ về những câu hỏi mà ông đưa ra, liệu ông có cân nhắc quyết định của các giám đốc điều hành bay khác ? Sao lại phải chờ cho thời tiết êm ả? Sao ông nhanh chóng đưa họ về?

      Quyết định đúng đắn là quyết định hạn chế tối đa các mối nguy hiểm nhưng vẫn đáp ứng được các nhiệm vụ.

      Ông quyết định đứng giữa.

      - Ba ngày là quá dài.. - ông . - Nên khu Kennedy bị loại. Hãy chọn căn cứ Edwards. Có lẽ ngày mai trời trong xanh.. - Ông nhìn nhân viên dự báo thời tiết. - Hãy làm tan những đám mây đó.

      - Chắc chắn rồi! Tôi chỉ giữ lại mưa thôi.

      Carpenter nhìn đồng hồ tường.

      - Được rồi. Bốn tiếng nữa đánh thức phi hành đoàn. Khi đó chúng ta báo cho họ tin này. Họ vẫn chưa thể về nhà được.

      Ngày mùng 9 tháng 8

      Jill Hewit thở hổn hển khi thức dậy.
      Ý nghĩ đầu tiên của chết đuối và mỗi khi hít vào bị sặc nước.

      mở mắt. sửng sốt khi thấy đàn sứa lơ lửng quanh mình. ho sặc sụa. Cuối cùng, cố hít hơi dài và lại ho. Luồng khí đẩy mạnh khiến tất cả bọn sứa lộn ngược ra.

      chui ra khỏi túi ngủ, bật đèn phòng. kinh ngạc khi thấy khí lấp lánh.

      - Bob! - hét lên.. - Chúng ta bị rò rỉ.

      nghe thấy tiếng O’Leary khoang lái.

      - Cái quái gì thế này?

      - Lấy mặt nạ ra ngay. - Kittredge ra lệnh. - cho đến khi chúng ta chắc chắn thứ này độc hại.

      Jill mở ngăn cấp cứu, lôi ra hộp dụng cụ bảo vệ khi bị nhiễm bẩn rồi ném mặt nạ và kính cho Kittredge, O’Leary và Mercer khi họ lộn xuống lối dẫn vào khoang giữa. có thời quan để mặc quần áo, ai cũng mặc đồ lót và còn ngái ngủ.

      Giờ, khi đeo mặt nạ, họ quan sát kỹ những giọt nước màu xanh dương pha xanh lá cây trôi nổi quanh họ.

      Mercer đưa tay ra, bắt lấy giọt.

      - Lạ .. - và chà xát nó trong lòng bàn tay.. - Nó có vẻ dày đấy, nhớt như loại chất nhầy.

      Lúc này O’Leary, bác sĩ tàu mới bắt giọt, đưa nó lại gần ống kính để nhìn hơn.

      - Nó phải chất lỏng.

      - Tôi thấy nó giống chất lỏng.. - Jill .. - Nó có trạng thái như vậy.

      - Nhưng nó sền sệt, như thể…

      Tất cả bọn họ đều giật mình khi tiếng nhạc rất to đột nhiên bật lên. Đó là giọng hát mượt mà của Elvis Presley hát bài Những đôi giày Thụy Điển màu xanh dương. Đó là bài hát đánh thức họ được truyền từ trung tâm Điều hành nhiệm vụ bay.

      - Xin chào tàu Discovery. - viên điều khiển vui vẻ . - đến lúc thức dậy và tỏa sáng rồi, các bạn!

      Kittredge trả lời.

      - Chỉ huy, chúng tôi dậy hết rồi. này chúng tôi có tượng kỳ lạ.

      - tượng à?

      - Chúng tôi có chất dịch bị đổ trong phòng. Chúng tôi cố nhận dạng nó. Nó là chất nhầy, có màu xanh dương pha xanh lá cây đục. Trông nó gần giống như những viên ngọc mắt mèo bay lượn xunh quanh. Nó lan ra cả hai khoang.

      - Các đeo mặt nạ hết rồi chứ?

      - Rồi!

      - Các biết nó từ đâu ra ?

      - .

      - Được rồi. Chúng tôi tham khảo hệ thống hỗ trợ sống và điều khiển môi trường ngay lập tức. Họ có thể biết đó là cái gì.

      - Dù là gì chăng nữa có vẻ nó độc hại. Chúng tôi hình như ai bị bệnh cả. - Kittredge nhìn lượt mọi người trong phi hành đoàn đeo mặt nạ và tất cả đều lắc đầu.

      - Chất dịch đó có mùi gì ? - Chỉ huy hỏi. - Hệ thống hỗ trợ sống và điều khiển môi trường muốn biết có phải nó rò ra từ hệ thống thu hồi chất thải .

      Bỗng nhiên Jill cảm thấy buồn nôn. Thứ mà họ hít vào và ngập trong đó có phải bị rò ra từ chỗ vệ sinh ?

      - À, tôi nghĩ trong số chúng tôi phải ngửi thử. - Kittredge . nhìn cả đội và họ chỉ nhìn . - Được rồi, các bạn, đừng xung phong ngay lập tức. - lẩm bẩm và cuối cùng tháo mặt nạ ra. ôm giọt trong lòng bàn tay và ngửi. - Tôi nghĩ nó phải là chất thải. Nó cũng có mùi hóa chất. Ít ra là phải sản phẩm từ xăng dầu.

      - Nó có mùi như thế nào? - Chỉ huy hỏi.

      - Có mùi như… cá, như chất nhầy của cá hồi. Có thể nó rò ra từ khoang bếp chăng?

      - Hoặc nó có thể rò ra từ khoang chứa các vật dụng nghiên cứu khoa học. Các bạn mang theo các thí nghiệm từ Trạm vũ trụ quốc tế về trái đất. Có thùng chứa các đồ biển nào tàu ?

      - Thứ này khiến tôi nhớ đến chân ếch. Chúng tôi xem kỹ các thùng thí nghiệm. - Kittredge . nhìn quanh phòng, nhìn những viên lóng lánh gần những bức vách. - Giờ nó bám lên mọi thứ. Chúng ta phải lau dọn những thứ văng ra. Nó chặn cả đường về của chúng ta mất.

      - À, tàu Discovery, tôi muốn báo cho các bạn tin này chút nào. - chỉ huy . - nhưng việc trở lại bị trì hoãn vì số lý do. Các phải ngồi yên đấy.

      - Có chuyện gì?

      - Dưới này có vài vấn đề thời tiết. Trung tâm Kennedy có những trận gió mạnh cấp bốn mươi, có bão lốc mạnh. cơn bão nhiệt đới di chuyển từ phía đông nam. Nó khiến cộng hòa Dominic náo loạn và nó hướng về trung tâm Kennedy.

      - Còn căn cứ Edwards sao?

      - tại họ báo cáo có khối mây ở độ cao hai nghìn trăm ba mươi mét. Vì vậy nếu các bạn quá vội vàng muốn hạ cánh xuống khu Cát Trắng chúng tôi xem xét trì hoãn thêm ít nhất ba mươi sáu giờ nữa. Chúng tôi có thể cho phép các bạn mở các cửa vào lần nữa và gia nhập cùng phi hành đoàn Trạm vũ trụ quốc tế.

      Kittredge nhìn những giọt nước trôi qua.

      - Chúng tôi đồng ý về việc đó, chỉ huy. Chúng tôi làm trạm bị nhiễm bẩn với chất này. Chúng tôi phải lau dọn mọi thứ .

      - ! Bác sĩ đứng ngay cạnh tôi và muốn xác nhận là cả phi hành đoàn có bất cứ ảnh hưởng xấu nào. Điều đó đúng ?

      - Chất rò rỉ có vẻ vô hại. ai có biểu bị bệnh. - xua đám chất lỏng khiến chúng cuộn tròn như những viên ngọc trai. - Chúng rất đẹp. Nhưng tôi muốn nghĩ đến việc chúng bám vào các bảng điện nên chúng tôi nên dọn sạch hết mọi ngóc ngách.

      - Chúng tôi thông báo cho các bạn thông tin mới nhất về tình hình thời tiết, tàu Discovery. Giờ hãy dọn đống rác đó .

      - Được. - Kittredge cười. - Hãy gọi chúng tôi là những nhà làm dịch vụ lau dọn trời. Chúng tôi còn lau cả cửa sổ nữa. - đeo mặt nạ vào. - Tôi nghĩ loại bỏ chúng an toàn thôi.

      Jill tháo mặt nạ và kính, bay về phía ngăn kéo khẩn cấp. vừa tháo các dụng cụ ra thấy Mercer nhìn chằm chằm.

      - Có chuyện gì thế? - hỏi.

      - Mắt … sao thế?

      - Mắt tôi làm sao?

      - nên xem !

      bay về phía phòng vệ sinh. Khi mới thoáng nhìn vào gương, giật mình. Màng cứng của mắt đỏ như máu, chỉ tạo thành vệt mà nó còn đỏ loang hết màng cứng.

      - Chúa ơi! - lẩm bẩm và sợ hãi với hình ảnh của chính mình trong gương. Mình là phi công. Mình cần đôi mắt. Giờ trong hai mắt trông như cục máu.

      O’Leary xoay vai lại và kiểm tra mắt cho .

      - phải lo lắng đâu, được chứ? - trấn an. - Đó chỉ là tượng xuất huyết màng mắt.

      - Chỉ là thôi sao?

      - Đó là giọt máu trong mắt . Nó có vẻ nghiêm trọng hơn đâu. Nó biến mất và ảnh hưởng gì đến mắt cả.

      - Sao tôi lại bị thế nhỉ?

      - Những biến đổi đột ngột trong áp lực tác động lên hộp sọ có thể gây ra điều đó. Đôi khi có thể bị ho nhiều hay nôn mửa và nó khiến các mao mạch bị vỡ ra.

      thở phào nhõm.

      - Chắc là thế rồi. Lúc ngủ dậy tôi có ho khan làm bay những giọt nước đó.

      - Thấy chưa? Chẳng có gì phải lo. - vỗ vai . - Mất năm mươi xu. Bệnh nhân tiếp theo!

      Jill cảm thấy an tâm và quay lại nhìn vào gương. Đó chỉ là bị rỉ ít máu, nghĩ, chẳng có gì phải lo. Nhưng người trong gương nhìn khiến khiếp sợ. mắt bình thường, mắt như ác quỷ và đỏ rực. Nó có vẻ gì đó rất kỳ quái và điên rồ.

      Ngày 10 tháng 8

      - Bọn họ đúng là khách mời. - Luther . - Chúng ta đóng cửa rồi mà họ vẫn chịu .

      Mọi người trong phòng trưng bày, kể cả Emma đều cười ồ. Trong mấy ngày qua, có mấy chuyện vui Trạm vũ trụ quốc tế. Và ai cũng thấy nhõm khi lại nghe thấy những câu tán dóc. Họ chuyển thi thể của Kenichi sang tàu con thoi Discovery nên tâm trạng ai cũng tốt hơn. Cơ thể được liệm của luôn gợi nhớ đến cái chết. Emma thấy thoải mái khi còn phải đối diện với bằng chứng về thất bại của chính mình. lại có thể tập trung vào công việc.

      Thậm chí có thể cười khi Luther đùa mặc dù chủ đề của về thất bại trong việc cất cánh tàu Discovery thực đáng cười lắm. Họ cứ nghĩ sáng sớm nay tàu tách ra. Giờ nó bị chậm hơn ngày. Nó vẫn nối với Trạm vũ trụ và thể rời trong vòng ít nhất hai mươi bốn tiếng nữa. Ngày giờ rời của tàu chính xác cũng khiến cho lịch làm việc của phi hành đoàn ổn định. Việc tách tàu chỉ là vấn đề đơn giản là con tàu chỉ cần tách ra và bay mà đó là vũ điệu tinh tế giữa hai vật thể khổng lồ chuyển động với tốc độ mười bảy nghìn năm trăm dặm mỗi giờ. Việc đó đòi hỏi ăn ý giữa tàu con thoi và phi hành đoàn Trạm vũ trụ quốc tế. Trong suốt quá trình tách tàu, phần mềm điều khiển trạm quốc tế phải tạm thời được định hình lại để hoạt động ở tầm gần. Phi hành đoàn trạm phải tạm thời ngưng mọi hoạt động nghiên cứu. Mọi người phải tập trung vào việc di chuyển của tàu con thoi.

      Và nó phải tránh được thảm họa.

      Giờ ngày nhiều mây tại căn cứ quân ở California làm hỏng mọi việc và đảo lộn toàn bộ lịch làm việc Trạm vũ trụ. Nhưng đây là điều tất yếu khi bay bằng tàu vũ trụ, điều duy nhất có thể đoán trước được chính là những điều đoán trước được.

      giọt nước hoa quả thình lình xuất lơ lửng đầu Emma. Và còn điều nữa bất ngờ hơn, Emma nghĩ và cười khi Luther lém lỉnh cầm ống hút đuổi theo nó. Nếu bạn lơ là tích tắc thôi dụng cụ quan trọng hay đồ uống trôi mất. Khi có trọng lực, vật thể bị buộc chặt trôi nổi khắp nơi.

      Đây là việc phi hành đoàn tàu Discovery đối mặt.

      - Các giọt nước như vậy bám khắp các bảng điều khiển lái tự động của chúng tôi. - Emma nghe thấy Kittredge điện đàm. Chỉ huy tàu Discovery chuyện với Griggs qua hệ thống truyền dẫn trong vũ trụ. - Chúng tôi vẫn cố dọn sạch cả thanh gạt nhưng nó giống hệt chất nhầy khi khô lại. Tôi hy vọng nó xâm nhập vào bất cứ ổ dữ liệu nào.

      - phát chúng từ đâu ra chưa? - Griggs hỏi.

      - Chúng tôi thấy đám trong ngăn để cá cóc. Nhưng nó có vẻ bị rò rỉ. - đủ để tràn ra cả phòng.

      - Nó có thể đến từ đâu khác nữa?

      - Giờ chúng tôi kiểm tra phòng trưng bày và ngăn tủ. Chúng tôi quá bận bịu với việc lau dọn nên chưa có thời gian để xác định nguồn gốc của nó. Tôi thể nhận dạng nó. Nó khiến tôi nhớ về trứng ếch. Những viên tròn màu xanh lá cây và dính. nên nhìn thấy phi hành đoàn của tôi. - như thể họ là những bóng người trong phim Kẻ diệt ma. Rồi mắt Hewitt bị đỏ như quỷ. Lạy trời, chúng tôi dám nhìn nữa.

      Mắt đỏ như quỷ à? Emma quay về phía Griggs.

      - Mắt Hewitt bị sao cơ? - hỏi. - Tôi chưa nghe .

      Griggs đặt lại câu hỏi với tàu Discovery.

      - Đó chỉ là tượng xuất huyết màng cứng. - Kittredge trả lời. - theo O’Leary có gì nghiêm trọng.

      - Để tôi chuyện với Kittredge. - Emma giục.

      - !

      - Bob, Emma đây. Sao Hewitt lại bị đỏ mắt?

      - Hôm qua, khi ngủ dậy ấy bị ho. Chúng tôi nghĩ là do vậy.

      - ấy có bị đau đầu hay đau bụng ?

      - lúc trước ấy có kêu bị đau đầu. Chúng tôi bị mỏi cơ nhưng ở đây chúng tôi làm việc như điên ấy.

      - Có chóng mặt hay buồn nôn ?

      - Mercer bị đau bụng. Có chuyện gì thế?

      - Kenichi cũng bị đỏ màng mắt.

      - Nhưng điều đó quá nghiêm trọng. - Kittredge . - O’Leary vậy.

      - , loạt các triệu chứng khiến tôi lo lắng. - Emma . - Bệnh của Kenichi bắt đầu là nôn mửa, sau đó bị đỏ mắt, đau bụng rồi đau đầu.

      - Theo đây là loại bệnh lây lan? Vậy tại sao bị bệnh? chăm sóc ấy mà.

      câu hỏi rất hay. thể trả lời câu hỏi đó.

      - Chúng ta về căn bệnh gì vậy? - Kittredge hỏi.

      - Tôi biết. Tôi chỉ biết Kenichi suy sụp chỉ trong vòng ngày kể từ khi ấy xuất triệu chứng. Các bạn phải xuất phát và trở về trái đất ngay bây giờ trước khi bất cứ ai tàu Discovery bị bệnh.

      - Chúng tôi thể làm được. Căn cứ Edwards vẫn bị mây bao phủ.

      - Vậy hạ cánh tại khu Cát Trắng.

      - Ngay lúc này đó phải là lựa chọn đúng đắn. Họ có vấn đề với trong số các bộ phận điều khiển hàng quan trọng. Mà này, chúng tôi đều ổn cả. Chúng tôi chỉ chờ cho đến khi thời tiết đẹp trở lại. quá hai mươi tư giờ đâu.

      Emma nhìn Griggs.

      - Tôi muốn chuyện với trung tâm Houston.

      - Họ cho phép về khu Cát Trắng chỉ vì mắt Hewitt bị đỏ.

      - Nó có thể còn hơn bệnh đau mắt đỏ.

      - Làm sao họ bị bệnh của Kenichi được? Họ tiếp xúc với ấy.

      Cái xác, nghĩ. Xác ấy ở tàu con thoi.

      - Bob. - . - Tôi, Emma đây. Tôi muốn kiểm tra túi đựng xác.

      - Gì cơ?

      - Hãy kiểm tra túi đựng xác của Kenichi xem có rách .

      - thấy chúng tôi đóng gói nó rất chặt rồi mà.

      - có chắc nó vẫn kín ?

      - Thôi được. - thở dài. - Tôi phải thừa nhận là chúng tôi vẫn chưa kiểm tra thi thể ấy từ lúc đưa lên tàu. Chúng tôi đóng tấm ván để nhìn thấy ấy.

      - Cái túi trông thế nào?

      - Giờ tôi cố mở tấm ván. Có vẻ như nó bị mắc kẹt chút, nhưng…. - im bặt rồi lẩm bẩm. - Lạy Chúa!

      - Chuyện gì thế Bob?

      - Chất dịch tràn ra từ chiếc túi.

      - Gì cơ? Máu hay huyết thanh?

      - Có vết rách túi nhựa. Tôi thấy nó rỉ ra.

      - Cái gì rỉ ra cơ chứ?

      nghe thấy nhiều giọng phía sau. Đó là những tiếng kêu thất thanh vì ghê tởm và có tiếng ai đó nôn ọe.

      - Đóng nó lại. Đóng nó lại. - Emma nhưng họ trả lời.

      Jill Hewitt .

      - Cơ thể ấy như đám nhầy. Như thể ấy… rữa ra. Chúng tôi thấy chuyện gì xảy ra với nó.

      - . - Emma hét lên. - tàu Discovery, đừng mở cái túi!

      thở phào khi nghe thấy Kittredge trả lời.

      - Roger, Wastson, O’Leary đóng nó lại. Chúng tôi để chất dịch đó… rỉ ra… nữa đâu.

      - Có lẽ chúng ta nên ném cái xác . - Jill .

      - . - Kittredge trả lời. - Họ muốn khám nghiệm nó.

      - Đó là loại dung dịch gì vậy? - Emma hỏi. - Bob, hãy trả lời tôi!

      im lặng rồi .

      - Tôi biết. Nhưng dù nó là gì tôi nghĩ nó lây lan vì tất cả chúng tôi đều tiếp xúc với nó rồi.

      Mười ba cân toàn thịt và lông. Đó là con mèo Humphrey, nó cào như điên như dại ngực Jack. Con mèo cố giết mình, Jack nghĩ và nhìn thẳng vào cặp mắt gian giảo màu xanh lục của con Humphrey. ngủ quên ghế và biết điều tiếp theo là đống lông mèo chui vào lồng ngực và chặn khí tràn vào ngực .

      Con Humphrey gầm gừ rồi ấn ngập móng vuốt vào ngực Jack.

      Jack hét lên rồi gạt mạnh nó ra. Humphrey tiếp đất bằng cả bốn chân với cú nhảy chậm rãi.

      - mà bắt chuột ! - Jack lầm bầm và quay ngủ tiếp nhưng được. Con Humphrey gào lên đòi ăn. Lại thế rồi! Jack ngáp dài, lôi mình dậy khỏi ghế và vào bếp. Khi vừa mở tủ chạn bát, chỗ để đồ ăn cho mèo con Humphrey bắt đầu gào to hơn. Jack đổ món Little Friskies đầy bát và đứng đó căm ghét nhìn kẻ thù của mình nhai ngấu nghiến. thức suốt đêm, điều khiển bảng điều khiển của bác sĩ tại phòng điều hành của Trạm vũ trụ. Sau đó về nhà, ngồi lên ghế dài và xem lại các báo cáo về Hệ thống hỗ trợ sống và điều khiển môi trường của Trạm vũ trụ quốc tế. trở lại cuộc chơi và lại thấy hào hứng như xưa. Thậm chí còn thấy dễ chịu khi được tham gia vào việc huấn luyện đến gầy người ra khi làm giám đốc phòng điều hành. Nhưng cuối cùng kiệt sức. ngủ quên vào tầm trưa và quanh là những đống tài liệu hướng dẫn bay.

      Bát của con Humphrey vơi nửa. khó tin!

      Khi Jack quay định rời khỏi bếp điện thoại reo.

      Đó là Todd Cutler.

      - Chúng tôi tập hợp nhân thuộc bộ phận y tế để tiếp đón tàu Discovery tại khu Cát Trắng. - . - Máy bay rời Ellington trong mười phút nữa.

      - Sao lại là khu Cát Trắng? Tôi cứ nghĩ là tàuDiscovery đợi cho đến khi căn cứ Edwards sáng sủa lại.

      - Chúng tôi gặp cố về sức khỏe tàu nên thể chờ cho đến khi trời đẹp trở lại. Họ tách ra trong giờ nữa. có kế hoạch cho việc phòng lây lan.

      - Lây lan gì?

      - Vẫn chưa xác định được. Chúng tôi xử lý nó an toàn. cùng chúng tôi chứ?

      - Có chứ, tôi cùng các . - Jack chút chần chừ.

      - Vậy ngay nếu muốn lỡ chuyến bay.

      - Chờ ! Nạn nhân là ai thế? Ai bị bệnh?

      - Tất cả đều bị. - Cutler . - Cả phi hành đoàn.

      Chương 13

      MƯỜI BA

      căn bệnh lây lan. Tàu rời trạm khẩn cấp. Chúng ta đối mặt với việc gì đây?

      Gió thổi cuốn tung đám bụi khi Jack qua đường trải đá dăm đến chỗ đợi máy bay trực thăng. nheo mắt vì những bụi đá, bước lên những bậc thang và chui vào máy bay. Đó là chiếc máy bay của hãng Gulfstream IV chứa được mười lăm hành khách. Đây là trong số những phương tiện rất cứng cáp và vững chắc được NASA dùng để đưa đón nhân viên qua lại giữa các trung tâm hoạt động rộng lớn của hãng, có gần chục người máy bay, trong đó có mấy y tá và bác sĩ thuộc Phòng y tế điều hành bay. Vài người trong số họ vẫy tay chào Jack.

      - Chúng ta phải thôi, thưa các vị. - viên phi công . - Đóng khóa an toàn ngay!

      Jack ngồi cạnh cửa sổ, gần đầu trước máy bay.

      Roy Bloomfeld là người cuối cùng lên máy bay. Mái tóc đỏ rực của cứng lại vì gió. Khi Bloomfeld vừa ngồi xuống người đồng lái đóng sập cửa vào.

      - Todd đến à? - Jack hỏi.

      - ấy phụ trách bảng điều khiển lúc hạ cánh. Có vẻ như chúng ta là đội quân cấp tốc.

      Máy bay bắt đầu di chuyển đến đường bay. Họ để phí chút thời gian nào, chuyến bay đến khu Cát Trắng mất tiếng rưỡi.

      - biết có chuyện gì ? - Jack lo lắng hỏi. - Tôi chẳng biết chuyện gì cả.

      - Tôi được thông báo ngắn gọn. có biết chất rò rỉ tàu Discovery hôm qua ? Chất lỏng mà họ cố xác định ấy? Hóa ra đó là những chất lỏng thoát ra từ cái túi đựng xác Kenichi.

      - Túi đó được buộc chặt rồi cơ mà. Sao nó rỉ ra được?

      - Túi nhựa bị rách. Phi hành đoàn dường như phần bên trong bị áp lực. Quá trình phân hóa quá nhanh nào đó xảy ra.

      - Kittredge miêu tả chất lỏng đó có màu xanh lá cây và có mùi như cá. Điều đó nghe giống với mùi xác chết bị phân hủy.

      - Tất cả chúng tôi đều phân vân. Cái túi được đóng chặt lại. Chúng ta phải chờ đến khi họ hạ cánh mới biết có chuyện gì xảy ra trong đó. Đây là lần đầu tiên chúng ta xử lý những gì còn lại của con người trong môi trường trọng lực siêu . Có thể quá trình phân hủy xảy ra điều gì đó khác thường. Có thể các vi khuẩn kỵ khí chết và đó là lý do tại sao nó phát ra mùi khó chịu.

      - Phi hành đoàn sao rồi?

      - Cả Hewitt và Kittredge đều bị đau đầu khủng khiếp. Giờ Mercer bị nôn mửa nhiều và O’Leary bị đau bụng. Chúng tôi chắc việc đó có phải do tâm lý . Chắc chắn có phản ứng về mặt tâm lý khi người ta nuốt phần của đồng nghiệp phân hủy vào trong bụng.

      Các yếu tố tâm lý chắc chắn là vấn đề phức tạp. Bất cứ khi nào có tình trạng ngộ độc thức ăn thực tế nửa trong số các bệnh nhân bị ảnh hưởng gì. Những lời đồn có sức mạnh đến mức nó có thể khiến người ta nôn mửa như bị ngộ độc .

      - Họ phải hoãn việc tách tàu. Khu Cát Trắng cũng có vấn đề. - trong số các khu điều khiển hàng quan trọng của họ phát các tín hiệu sai lệch. Họ cần mấy tiếng nữa mới phục hồi và khiến nó hoạt động bình thường trở lại.

      Khu điều khiển hàng quan trọng là chuỗi các trạm thu phát mặt đất truyền cho tàu vũ trụ các thông tin cập nhật về hàng mới nhất. tín hiệu từ khu điều khiển hàng quan trọng có thể khiến tàu chệch hoàn toàn đường .

      - Giờ họ quyết định thể chờ được nữa. - Bloomfeld . - Trong nửa giờ qua, cả phi hành đoàn bị bệnh nặng hơn. Cả Kittredge và Hewitt đều bị đỏ mắt. Đó chính là điều xảy ra đầu tiên với Hirai.

      Máy bay bắt đầu chuyển bánh để cất cánh. Tai họ ù ù tiếng gầm của động cơ và mặt đất lùi lại phía dưới.

      Jack hét lên át thanh đó.

      - Còn Trạm vũ trụ quốc tế sao? Có ai đó bị ốm ?

      - . Họ vẫn đóng cửa giữa hai tàu để tránh chất lỏng lan ra.

      - Vậy là nó bị chặn lại trong tàu Discovery.

      - Đến giờ là như vậy.

      Emma vẫn ổn, nghĩ và thở phào nhõm. Emma được an toàn. Nhưng nếu loại bệnh lây lan được đưa lên tàu Discovery khi chuyển thi thể của Hirai lên đó tại sao các phi hành gia trạm lại bị lây bệnh?

      - Tàu con thoi thế nào rồi? - Jack hỏi.

      - Giờ họ tách tàu. Đốt cháy mục tiêu mất khoảng bốn mươi lăm phút và việc hạ cánh dự kiến vào lúc năm giờ chiều.

      Điều đó khiến đội dưới mặt đất có nhiều thời gian chuẩn bị. nhìn những đám mây bị họ xuyên qua vào khu vực đầy nắng. Mọi thứ bất lợi cho chúng ta, nghĩ. Hạ cánh khẩn cấp. Hệ thống định vị hàng bị hỏng. phi hành đoàn bị bệnh.

      Và tất cả những điều đó đến đâu cả.

      Đầu Jill Hewitt rất đau, mắt đau đến nỗi hầu như thể tập trung vào danh sách những việc cần làm khi tách tàu. Chỉ trong giờ qua, đau đớn luồn lách vào mọi thớ cơ trong cơ thể và giờ có cảm giác những cục lởm chởm bò khắp lưng và đùi. Cả hai bên mắt biến hết thành màu đỏ và hai mắt của Kittredge cũng vậy. Cả hai mắt trông như những túi máu giống hệt nhau, rực lên và đỏ au. cũng đau đớn, nhận thấy điều đó trong dáng của , quay đầu chậm và từ từ. Cả hai đều đau đớn. Nhưng ai dám tiêm mũi thuốc mê. Việc tách tàu và hạ cánh đòi hỏi phải cảnh giác cao độ và họ thể liều lĩnh để bỏ lỡ bất cứ hình ảnh nhất của việc đó.

      Hãy đưa chúng tôi về. Hãy đưa chúng tôi về! Đó là nỗi ám ảnh cứ bám mãi trong đầu Jill khi cố gắng làm nhiệm vụ, khi mồ hôi thấm đẫm áo và đau đớn khiến mất tập trung.

      Họ làm việc gấp để nhanh chóng duyệt qua toàn bộ danh sách những việc cần làm. cắm chiếc máy tính IBM Think Pad vào cổng dữ liệu bảng điều khiển, khởi động và mở chương trình Gặp gỡ và hoạt động tầm gần.

      - có dòng dữ liệu nào. - .

      - Sao?

      - Cổng nối này chắc chắn bị chất lỏng đó làm hỏng. Tôi thử máy tính tại khoang giữa. - rút dây cáp. Mỗi đốt xương khuôn mặt kêu gào vì đau đớn khi qua khu kết nối các khoang và mang theo chiếc máy tính Think Pad. Mắt đập mạnh đến nỗi dường như chúng sắp nổ tung và nhảy ra khỏi hốc mắt. Khi xuống đến khoang giữa, thấy Mercer mặc bộ quần áo khi cất cánh và buộc mình vào ghế. bất tỉnh. - có lẽ là do liều thuốc mê. O’Leary cũng vào vị trí, vẫn còn tỉnh táo nhưng có vẻ kinh ngạc khi Jill bay ngang qua khoang giữa, đến cổng dữ liệu của khoang giữa và cắm máy tính.

      Vẫn có các dòng dữ liệu.

      - Chết tiệt!

      Giờ cố gắng tập trung và quay trở lại khoang lái.

      - may à? - Kittredge hỏi.

      - Tôi thay cáp nguồn và thử lại cổng này. - Giờ đầu đập mạnh đến nỗi nước mắt chảy ra. nghiến răng, lôi cáp ra, thay cái mới, khởi động lại. Từ chương trình Windows, mở chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần.

      Biểu tượng của chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần màn hình.

      Môi của vã mồ hôi khi bắt đầu đánh máy thời gian cần thiết để thực nhiệm vụ. Ngày, giờ, phút, giây. Những ngón tay của còn tuân theo điều khiển của não. Chúng run rẩy và vụng về. phải cố gắng lắm mới sửa lại đúng các con số. Cuối cùng, chọn mục “Lựa chọn chương trình” rồi ấn “OK”.

      - Chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần được kích hoạt. - thở phào . - Sẵn sàng xử lý dữ liệu.

      Kittredge .

      - Chỉ huy, chúng tôi sẵn sàng tách tàu.

      - Chờ , tàu Discovery!

      Việc chờ đợi kéo dài quá lâu. Jill nhìn xuống những ngón tay mình và thấy chúng bắt đầu co lại, những đám cơ cẳng tay cứ cuộn lên như có hàng nghìn con sâu dưới da, như thể có sinh vật sống nào đó luồn lách trong những thớ thịt. cố giữ cho hai tay bình thường nhưng các ngón tay co thắt lại như bị điện giật. Hãy đưa chúng tôi về trong lúc chúng tôi còn điều khiển được con chim khổng lồ này!

      - Discovery! - Chỉ huy . - Các bạn sẵn sàng tách tàu.

      - ! Bộ phận lái tự động hạ xuống mức Z. Chuẩn bị tách tàu. - Kittredge nhõm nhìn Jill. - Giờ chúng ta đưa thứ quái quỷ này về nhà. - lẩm bẩm và nắm cần điều khiển.

      Giám đốc điều hành bay Randy Carpenter đứng như bức tượng thần Colossus. Mắt dán chặt vào màn hình. Bộ não kỹ sư của bình thản quan sát những dòng dữ liệu chạy màn hình và nghe những cuộc chuyện. Như mọi khi, Carpenter nghĩ trước vài bước. Bệ đỗ tàu được rút dần áp lực. Các khớp nối giữa tàu con thoi và Trạm vũ trụ mở ra. Các lò xo trong hệ thống tách tàu nhàng đẩy hai con tàu ra xa nhau và làm chúng trôi về hai phía khác nhau. Chỉ lúc nào cả hai tàu tách ra hệ thống điều khiển theo phản xạ của tàu Discovery mới được kích hoạt để lái tàu về trái đất. Mọi việc có thể bị rắc rối ở bất cứ công đoạn nào của chuỗi các kiện đó. Nhưng đối với mỗi thất bại có thể xảy ra, Carpenter kế hoạch dự phòng. Nếu các khóa mở ra, họ đốt các đầu điện hoạt động theo cơ chế pháo hoa để đốt cháy các mối hàn giữ các khóa. Nếu điều đó cũng thất bại hai thành viên Trạm vũ trụ quốc tế bộ bên ngoài trạm để tháo các mối hàn theo cách thủ công. Họ có những kế hoạch hỗ trợ cho những kế hoạch dự phòng khác, có chuẩn bị trước cho mọi cố có thể xảy ra.

      Ít nhất họ cũng đoán trước được mọi cố có thể xảy ra. Điều Carpenter lo sợ là trục trặc mà ai nghĩ đến. Và giờ hỏi mình câu hỏi mà luôn đặt ra trước khi bắt đầu khâu mới trong nhiệm vụ bay: Chúng ta tính đến điều gì?

      - Hệ thống ghép tàu tắt. - nghe thấy Kittredge thông báo. - Các khóa mở. Giờ chúng tôi trôi tự do.

      Viên điều hành bay bên cạnh Carpenter giơ nắm đấm thể thành công.

      Carpenter nghĩ tiếp về việc hạ cánh. Thời tiết tại khu Cát Trắng ổn định, gió thổi cấp mười lăm. Hệ thống truyền tín hiệu hàng được phục hồi và hoạt động kịp lúc cho tàu hạ cánh. Đội mặt đất lúc này đường đến đó. thấy có biến cố nào mới nhưng biết rắc rối nào đó lẩn quất đâu đây.

      Trạm vũ trụ quốc tế, Emma và các bạn cùng đoàn quan sát và chờ đợi. Toàn bộ hoạt động nghiên cứu tạm ngưng. Họ đều tập trung hết tại mái vòm ở nút số 1 để nhìn con tàu khổng lồ tách ra. Griggs cũng quan sát việc đó máy tính IBM Think Pad. Nó hiển thị cùng chương trình được chiếu trong phòng điều hành của trung tâm Houston.

      Qua các cửa sổ ở khu mái vòm. Emma thấy tàuDiscovery bắt đầu trôi xa và thở phào nhõm. Giờ con tàu trôi tự do và đường về nhà.

      Nhân viên y tế O’Leary lơ lửng khi còn ngủ vì thuốc mê. tự tiêm năm mươi miligram thuốc mê Demerol vào cánh tay, chỉ vừa đủ để giảm đau, để có thể buộc Mercer lại và chuẩn bị khoang để chui vào. Chỉ liều đó cũng đủ khiến các quá trình hoạt động của não bị ngưng trệ.

      ngồi và buộc mình vào ghế trong khoang giữa. Căn phòng dường như lơ lửng và biến mất như thể quan sát nó dưới nước. Ánh sáng làm đau mắt nên nhắm mắt lại. lúc trước đó, nghĩ nhìn thấy Jill Hewitt bay qua, mang theo chiếc máy tính Think Pad. Giờ ấy rồi nhưng vẫn nghe thấy giọng căng thẳng của bộ đàm, cùng giọng của Kittredge và chỉ huy. Họ tách khỏi bệ.

      Ngay cả khi tâm trí còn rệt, vẫn có cảm giác bất lực và xấu hổ khi bị buộc trong ghế như kẻ tàn tật trong khi các bạn cùng đoàn khoang lái và làm việc vất vả để tất cả đều được trở về. Lòng tự trọng khiến đấu tranh chống lại cơn buồn ngủ dễ chịu và nhìn chằm chằm vào ánh sáng mạnh trong khoang giữa. cảm thấy các dây buộc tháo ra và chúng trôi tự do, trôi ra khỏi chỗ ngồi. Khoang giữa bắt đầu trôi quay tròn và nhắm mắt để ngăn cơn buồn nôn khác. Hãy đấu tranh với nó, nghĩ. Lý trí thắng mọi rắc rối. Mình luôn là người có dạ dày sắt. Nhưng sao mở mắt được để ngăn cho mình trôi nổi trong căn phòng.

      Cho tới khi nghe thấy thanh. Đó là tiếng cót két. Nó gần đến nỗi cứ nghe đó chắc chắn là Mercer quấy rầy giấc ngủ của . O’Leary quay về chỗ có tiếng động. - và thấy phải là đối diện với Mercer. nhìn chiếc túi đựng thi thể của Kenichi Hirai.

      phồng lên, nở to ra.

      Mắt mình, nghĩ. Chúng giỡn mình.

      nháy mắt, cố tập trung. Cái túi đựng xác vẫn phồng lên, phần nhựa căng lên ở chỗ bụng nạn nhân. Mấy giờ trước đó, họ gắn lại chỗ thủng nên bây giờ chắc chắn áp lực bên trong lại tăng lên.

      lại như trong mơ và bay ngang chỗ ngủ. đặt tay vào cái túi đựng xác phồng to.

      rũ hết mọi sợ hãi. Trong giây phút ngắn ngủi chạm vào nó, cảm thấy nó phồng lên, xẹp xuống, rồi lại phồng lên.

      Cái xác co giãn.

      Mồ hôi lấm tấm môi, Jill Hewitt nhìn qua ổ cửa sổ phía khi tàu Discovery được mở khóa và tách khỏi bệ Trạm vũ trụ quốc tế. Khoảng cách giữa họ ngày càng lớn. nhìn nhanh những dòng dữ liệu chạy ngang màn hình. Tách ba mươi centimet, sáu mươi centimet. Mình về nhà. Cơn đau đớn lại đột ngột cuộn lên đầu . Nó tra tấn mạnh đến nỗi bắt đầu cảm thấy mình sắp ngất. cố chống lại nó, cố giữ tỉnh táo với thái độ kiên quyết của con hổ dữ.

      - Hệ thống gắn bệ với tàu tắt. - , răng nghiến chặt.

      Kittredge trả lời.

      - Hãy chuyển sang hệ thống điều khiển theo phản xạ, ở mức thấp nhất Z.

      Khi sử dụng các bộ phận đẩy của hệ thống điều khiển theo phản xạ, giờ Kittredge có thể lái cho tàu ra xa Trạm vũ trụ quốc tế và di chuyển tới điểm cách trạm chín trăm mười lăm mét. Ở điểm đó, các tàu khác nhau của họ tự động kéo chúng ra xa nhau.

      Jill nghe thấy tiếng ầm ầm của các động cơ bị đốt cháy và cảm thấy con tàu rung chuyển mạnh khi Kittredge từ từ chuyển sang thanh gạt R tại bảng điều khiển. Tay run rẩy, mặt căng thẳng vì cố kiểm soát tay lái. , chứ phải chiếc máy tính điều khiển con tàu. Chỉ cần bánh lái lạng chút thôi toàn bộ con tàu bị lật nghiêng sang bên.

      cách phẩy năm mét. Giờ họ qua giai đoạn tách tàu quan trọng và ngày càng xa hơn khỏi Trạm vũ trụ.

      Jill bắt đầu nghỉ ngơi.

      Rồi nghe thấy tiếng thét lớn ở khoang giữa. tiếng thét sợ hãi và kinh hoàng. Đó là O’Leary.

      quay lại vừa lúc núi những mảnh xác người bay vọt vào khoang lái và nổ tung ngay trước mắt .

      Kittredge ngồi cạnh chỗ thông giữa các khoang nên chịu áp lực nổ, bị đánh văng ra khỏi cần điều khiển. Jill lộn lại phía sau, tai nghe của văng ra. Toàn bộ cơ thể dính đầy những mảnh vụn bốc mùi hôi thối toàn ruột, da và các mớ tóc đen vẫn bám vào hộp sọ. Tóc của Kenichi. nghe thấy tiếng phụt của động cơ đẩy, dường như con tàu chao đảo. đống toàn các bộ phận cơ thể người quấn vào nhau trôi nổi khắp buồng lái. đám thiên hà trong cơn ác mộng quay vòng. Lơ lửng trong trung là những đám túi nhựa, lục phủ ngũ tạng bắn tung tóe và những đám nước màu xanh lá cây kỳ dị. đám chất đó trông như chùm nho bay ngang qua rồi bắn tung tóe vào bức tường gần đó.

      Khi những giọt nước đó va chạm và tiếp xúc với bề mặt phẳng trong môi trường trọng lực siêu , chúng hơi run rẩy vì lực va chạm rồi đứng im. Các chất này ngừng di chuyển.

      kinh hãi nhìn những giọt nước xuất ngày càng nhiều như những gợn sóng làm xao động bề mặt. Rồi sau đó mới thấy được bao bọc sâu trông đám chất nhầy đó là lõi màu đen, thứ gì đó chuyển động. Nó oằn lên như ấu trùng muỗi.

      Đột nhiên, hình ảnh khác kinh hoàng hơn đập vào mắt . ngước lên nhìn ô cửa sổ khoang lái và nhìn thấy trạm gian ngày càng to dần lên trước mắt họ. Nó lại gần đến nỗi gần như có thể thấy những chiếc đinh tán giàn năng lượng mặt trời.

      - Sắp va chạm! - Griggs hét lên điện đàm liên lạc trong vũ trụ. - Tàu Discovery, các bạn sắp đâm vào chúng tôi rồi!

      ai trả lời.

      - Tàu Discovery! Hãy chuyển hướng!

      Emma sợ hãi nhìn thảm họa tiến về phía họ. Qua cửa sổ quan sát tại mái vòm của Trạm vũ trụ, thấy tàu con thoi đột ngột tăng tốc và rẽ sang bên trái. thấy cánh tàu hình tam giác của tàu Discovery đâm sầm về phía họ và tốc độ của nó đủ để chém đứt thân tàu bằng nhôm của Trạm vũ trụ. Khi vụ va chạm sắp xảy ra, thấy cái chết cận kề.

      Các cột khói từ động cơ tên lửa bị kích hoạt đột nhiên phụt ra từ bộ phận đẩy của hệ thống điều khiển tự động phía trước tàu con thoi. Tàu Discovery bắt đầu lao vọt xuống dưới, lấy lại đà, cánh trái của tàu đột ngột lao về phía trước nhưng đủ nhanh để làm vỡ hết giàn thu nhiệt mặt trời của Trạm vũ trụ. thấy tim mình ngừng đập.

      nghe thấy Luther thào.

      - Lạy Chúa!

      - Phương tiện di dời khẩn cấp! - Griggs hoảng loạn hét lên. - Tất cả đến phương tiện di dời khẩn cấp!

      Tay chân họ khua loạn lên trong trung, bàn chân bay tứ tung khi phi hành đoàn nháo nhào di chuyển về nút có phương tiện khẩn cấp. Nicolai và Luther là những người qua cửa đầu tiên vào phòng sinh hoạt. Emma vừa nắm được tay cầm của cửa nghe thấy tiếng kim khí va vào nhau, tiếng nhôm bị vặn kêu ken két và nó bị biến dạng khi hai vật thể khổng lồ va vào nhau.

      Trạm vũ trụ rung chuyển dữ dội. Và đúng lúc đó chỉ kịp nhìn thấy các bức vách của nút số 1 bong ra, chiếc máy tính hiệu Think Pad của Griggs lộn nhào trong trung và khuôn mặt sợ hãi của Diana ướt đẫm mồ hôi.

      Những bóng đèn nhấp nháy rồi tắt hẳn. Trong bóng tối, bóng đèn cảnh báo màu đỏ cứ tắt rồi lại bật.

      tiếng còi rợn người rú lên.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 14

      MƯỜI BỐN

      Giám đốc điều hành bay Randy Carpenter nhìn cảnh tượng chết chóc màn hình.

      Khi tàu con thoi va chạm mạnh, ông cảm thấy cú đấm đó như đánh trực tiếp vào thái dương. Và ông phải đưa tay lên ôm ngực.

      Trong vài giây sau đó, phòng điều hành bay im lặng hoàn toàn. Những khuôn mặt thất thần nhìn chăm chăm lên bức tường đối diện. màn hình trung tâm là bản đồ thế giới với đường lệch hẳn của tàu con thoi. Bên phải là màn hình chiếu chương trình điều khiển tàu trở về và hoạt động ở tầm gần chết đứng, tàu Discovery và Trạm vũ trụ quốc tế chỉ còn là những đoạn dây điện loằng ngoằng. Con tàu giờ bị bóp méo thành thứ đồ chơi méo mó dưới bóng của Trạm vũ trụ. Carpenter thấy phổi mình giãn nở ra. Và sợ hãi nhận ra rằng từ nãy đến giờ thở.

      Phòng điều hành bay lập tức hỏi loạn lên.

      - Giám đốc, chúng tôi nhận được đường truyền thanh nữa. - nghe thấy viên chỉ huy điện đàm . - TàuDiscovery trả lời.

      - Giám đốc, chúng tôi vẫn nhận được các tín hiệu thông tin từ tàu…

      - Giám đốc, áp suất trong khoang tàu giảm. có dấu hiệu ô-xi bị rò rỉ.

      - Trạm vũ trụ sao? - Carpenter hỏi. - Chúng ta có nhận được tin tức từ họ ?

      - Phòng điều khiển phương tiện đặc biệt cố gắng liên lạc với họ. Áp lực tàu giảm…

      - Đến mức bao nhiêu?

      - Xuống bảy trăm mười… sáu trăm chín mươi. Tệ ! Họ bị mất áp lực quá nhanh.

      lỗ thủng lớn thân tàu, Carpenter nghĩ. Nhưng đó phải là vấn đề thuộc quyền giải quyết của , nó thuộc về bộ phận điều khiển phương tiện đặc biệt nằm ở cuối đại sảnh.

      Bỗng có giọng của kỹ sư phụ trách các hệ thống đẩy tên lửa trong bộ đàm.

      - Giám đốc, tôi nhận được dấu hiệu khởi động hệ thống hoạt động tự động, F2U, F3U và F1U. Ai đó làm việc tại các bảng điều khiển tàu con thoi.

      Đầu Carpenter nghiêng hẳn về bên có giọng đó. Màn hình của hệ thống trở về trái đất và hoạt động ở tầm gần vẫn bị khóa và hoạt động, có hình ảnh mới nào lên. Nhưng các báo cáo về hệ thống đẩy tên lửa cho thấy các tên lửa định hướng bay cho tàu Discovery vừa được kích hoạt. Việc đó phải do việc tháo nhiên liệu tình cờ, phi hành đoàn tàu cố lái con tàu tránh xa Trạm vũ trụ quốc tế. Nhưng họ có bất cứ đường truyền bằng tín hiệu sóng radio nào nên thể xác nhận tình hình của phi hành đoàn tàu con thoi. Họ thể chắc chắn rằng cả phi hành đoàn còn sống sót.

      Đây là tình huống tồi tệ nhất và cũng là tình huống khiến ông lo sợ nhất. phi hành đoàn chết hết chiếc tàu con thoi bay quanh quỹ đạo. Mặc dù trung tâm điều khiển Houston có thể điều khiển mọi đường bay của tàu con thoi bằng các mệnh lệnh dưới mặt đất nhưng họ thể đưa tàu về nhà nếu trợ giúp của phi hành đoàn. cần người còn sống để chỉnh các cần gạt khi hệ thống di chuyển tàu con thoi đốt cháy để thoát khỏi quỹ đạo. Cần bàn tay con người để thực việc thăm dò các dữ liệu hàng , để hạ tay lái khi tiếp đất. Nếu có bất cứ ai để thực các công việc này tàu Discovery mãi bay quỹ đạo, là con tàu ma lặng lẽ bay quanh trái đất cho đến khi quỹ đạo của nó thu hẹp dần theo từng tháng kể từ giờ phút này. Nó rơi xuống trái đất như vệt lửa. Cơn ác mộng đó vụt qua trong đầu Carpenter khi mỗi giây trôi qua, khi rối loạn ngày càng lớn dần và vây lấy ông cũng như phòng điều hành bay. Giờ ông thể nào nghĩ về Trạm vũ trụ được, phi hành đoàn đó có thể đau đớn cùng cực khi cái chết vì thiếu áp lực đến gần. Ông dồn hết tâm trí vào tàu con thoi Discovery. Cơ hội sống sót của phi hành đoàn của ông ngày càng bị đe dọa khi mỗi giây trôi qua.

      Rồi đột nhiên họ nghe thấy giọng yếu ớt và đứt quãng.

      - Trung tâm, tàu Discovery đây. Houston, Houston!

      - Đó là Hewitt! - chỉ huy liên lạc . - tiếp , Discovery!

      - … trục trặc ở bộ phận chính… thể tránh được cú va chạm. Cấu trúc tàu bị thiệt hại đáng kể…

      - Discovery, chúng tôi cần quan sát Trạm vũ trụ quốc tế.

      - thể sử dụng máy quay Ku được. - dây điện đóng mất…

      - biết mức độ thiệt hại của họ ?

      - Cú va chạm làm gãy mạng lưới thu nhiệt mặt trời của họ. Tôi nghĩ chúng tôi đâm lỗ rất to vào thân tàu…

      Carpenter thấy chóng mặt. Họ vẫn nhận được tin tức gì từ phi hành đoàn Trạm vũ trụ quốc tế, có lời xác nhận nào cho thấy họ còn sống.

      - Phi hành đoàn của ra sao? - chỉ huy liên lạc hỏi.

      - Tôi cố… ôi Chúa ơi… đầu tôi! - có tiếng khóc khe khẽ. Rồi . - Nó sống kìa!

      - nghe !

      - Cái thứ chết tiệt bay xung quanh ấy. - chất lỏng từ cái túi đựng xác. Nó di chuyển quanh tôi. Nó ở bên trong cơ thể tôi. Tôi còn thấy nó di chuyển dưới da nữa. Nósống đấy!

      Carpenter thấy lạnh khắp sống lưng. Ảo giác. vết thương ở đầu. Họ mất ấy, mất cơ hội duy nhất để hạ cánh tàu con thoi còn nguyên vẹn.

      - Giám đốc, chúng ta đến mục tiêu đốt cháy. - nhân viên điều khiển động lực học cảnh báo. - Chúng ta thể để lỡ mất cơ hội này.

      - Hãy ra lệnh cho ấy thoát khỏi quỹ đạo. - Carpenter hạ lệnh.

      - Discovery. - chỉ huy liên lạc . - sắp bỏ lỡ điểm đốt cháy nhiên liệu rồi!

      Khi đó, mỗi giây dài bằng phút và các thớ cơ trong Carpenter đều căng thẳng. Các dây thần kinh căng như dây đàn. Ông thở phào nhõm khi cuối cùng cũng nghe thấy Hewitt đáp lại.

      - Những người còn lại trong phi hành đoàn ở khoang giữa vào vị trí hạ cánh. Cả hai đều bất tỉnh. Tôi vừa buộc họ vào nhưng tôi thể mặc quần áo cho Kittredge được.

      - Hãy buộc ấy vào bộ quần áo khi lên tàu. - Carpenter . - Đừng để lỡ mục tiêu này. Hãy giúp tàu tiếp đất!

      - Discovery, chúng tôi khuyên các bạn nên chuyển ngay sang khởi động bằng năng lượng chính.
      Hãy buộc ấy vào ghế ngồi bên phải và thực việc rời khỏi quỹ đạo.

      Họ nghe thấy tiếng thở dài mệt mỏi và đau đớn. Rồi Hewitt .

      - Đầu tôi. - thể tập trung được…

      - Chúng tôi hiểu, Hewitt ạ! - giọng của Carpenter dịu lại gần như an ủi. - Nghe này, Jill! Chúng tôi đều biết giờ là người ngồi ở chỗ của chỉ huy. Chúng tôi biết đau đớn. Nhưng chúng tôi có thể hướng dẫn thực hạ cánh tự động cho đến khi bánh tàu dừng lại. Chỉ cần ở lại với chúng tôi mà thôi.

      bật lên tiếng khóc thút thít.

      - Khởi động bằng động cơ chính hoàn tất. - thào. - sử dụng bảng điều khiển 3-0-1. Hãy cho tôi biết thời gian chính xác, Houston.

      - Chuẩn bị đốt cháy nhiên liệu để tách khỏi quỹ đạo. - Carpenter .

      Chỉ huy liên lạc nhắc lại mệnh lệnh.

      - Chuẩn bị đốt cháy liên liệu để tách khỏi quỹ đạo, Discovery! - và khẽ. - Giờ chúng ta cùng về nhà.

      Trong bóng tối như địa ngục, Emma ôm chặt mình vì biến đổi đột ngột khi áp suất giảm. biết chính xác việc gì xảy ra và chết như thế nào. có tiếng khí rít lên khi tràn vào thân tàu. Hai bên màng nhĩ của có những thanh lốp bốp. đau đớn ngày càng tăng khi hai lá phổi của giãn nở và hai túi phổi nổ tung. Khi áp suất khí giảm xuống đến mức chân , nhiệt độ sôi của các chất lỏng cũng giảm cho đến khi nó chỉ bằng nhiệt độ đóng băng. Chỉ trong tích tắc, máu sôi lên. Tiếp đó, nó đóng lại thành đá trong các mạch máu.

      Ánh đèn đỏ, tiếng còi rú xác nhận điều lo sợ nhất xảy ra. Đó là tình huống khẩn cấp số . Thân tàu của họ bị đâm thủng và khí tràn ra ngoài gian.

      thấy tai mình có tiếng nổ lốp bốp. Phải di dời ngay!

      và Diana lao vào phòng sinh hoạt, bay qua căn phòng lờ mờ nhờ vào ánh sáng duy nhất của ánh đèn nhấp nháy màu đỏ của các bảng cảnh báo. Tiếng còi to đến mức mọi người phải hét lên mới nghe thấy nhau. Trong lúc hoảng loạn, Emma đâm sầm vào Luther. kịp nắm lấy trước khi nẩy bật ra hướng khác.

      - Nicolai vào trong phương tiện di đời khẩn cấp. Tiếp theo là và Diana! - hét lên.

      - Chờ ! Griggs đâu? - Diana hỏi.

      - Hãy vào !

      Emma quay lại. Trong ánh đèn cảnh báo màu đỏ chập chờn hoa mắt, thấy ai trong phòng sinh hoạt. Griggs theo họ. đám sương mù kỳ lạ và dày đặc dường như lơ lửng khắp phòng nhưng có luồng khí mạnh nào cuốn họ về chỗ thủng thân tàu.

      Và mình bị đau, đột nhiên nhận ra điều đó. thấy tai bị đau nhưng bị tức ngực, có triệu chứng khi áp suất khí bị giảm đột ngột.

      Chúng ta có thể cứu trạm. Chúng ta còn thời gian để cách ly chỗ rò rỉ.

      làm động tác lộn lại rất nhanh của vận động viên bơi lội, đạp chân vào tường và quay trở lại nút số .

      - Này, làm cái quái gì thế, Watson? - Luther hét lên.

      - Đừng bỏ trạm!

      lao nhanh đến nỗi đâm sầm vào mép lối vào, khuỷu tay bị huých mạnh. Giờ mới bị đau nhưng phải vì bị tụt áp suất khí mà do vụng về ngớ ngẩn của . Cánh tay run rẩy khi lại đạp vào bức tường và phi vào nút số .

      Griggs có ở đó nhưng thấy chiếc máy tính ThinkPad của vật vờ, đầu vẫn được cắm điện. Họ chỉ còn mấy phút đề làm việc, mấy phút trước khi não họ còn hoạt động được nữa.

      Chắc chắn ấy tìm chỗ thủng, nghĩ. ấy muốn đóng khoang bị hỏng.

      lướt vào phòng thí nghiệm của Mỹ, qua đám sương mù trắng đặc. Đây là sương mù hay tầm nhìn của bị giảm do tượng thiếu ô-xi, là lời cảnh báo cho thấy sắp ngất? trong bóng tối và thấy mất phương hướng khi những ánh đèn màu đỏ cứ chập chờn như những máy thăm dò. đâm vào cánh cửa. Đầu óc sáng suốt của yếu dần và thấy mình ngày càng lóng ngóng. lao qua cánh cửa mở, vào nút số hai.

      Griggs có ở đó. vật lộn để cắt đứt đám dây cáp treo giữa phòng thí nghiệm NASDA của Nhật và các khoang của Châu Âu.

      - Chỗ thủng ở khoang NASDA của Nhật. - hét, át tiếng còi hú. - Nếu chúng ta có thể cắt các dây cáp khỏi cửa vào này và đóng nó lại chúng ta có thể cách ly khoang này.

      lướt về phía để giúp lôi đứt dây cáp. Nhưng nhận thấy thể cắt đứt trong các dây cáp đó được.

      - Cái quái gì thế này? - toàn bộ các dây cáp dẫn qua các cánh cửa lẽ ra phải dễ dàng bị lôi đứt ra trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng sợi cáp này rất bền. - điều đó trái với quy định an toàn. - Nó có bộ phận tháo gấp. - hét lên.

      - Lấy cho tôi con dao! Tôi cắt đứt nó!

      quay lại, lao vào phòng thí nghiệm của Mỹ. con dao. Con dao ở chỗ quái nào mới được chứ? Dưới ánh đèn đỏ nhấp nháy, nhìn thấy ngăn khóa đựng dụng cụ y học. Dao mổ. giật mạnh ngăn kéo, thò vào khay dụng cụ và bay trở về nút số hai.

      Griggs cầm lấy dao mổ và bắt đầu cưa đoạn dây cáp.

      - Chúng tôi có thể giúp gì ? - Luther hét lên.

      Emma quay lại thấy và cả Nicolai, Diana lở lửng ở lối vào.

      - Cái thứ quái quỷ này là của phòng thi nghiệm NASDA. - . - Chúng ta đóng khoang này lại.

      Các tia lửa điện đột ngột phụt ra như pháo hoa. Griggs lùi lại, tránh xa dây cáp.

      - Tệ ! Sợi này có điện.

      - Chúng ta phải cắt nó. - Emma .

      - Đổ thêm dầu vào lửa à? Tôi nghĩ vậy đâu.

      - Vậy sao chúng ta cách ly khoang này được?

      Luther hét.

      - Quay lại! Quay lại phòng thí nghiệm! Chúng ta đóng toàn bộ nút này. Hãy cách ly phần cuối tàu!

      Griggs nhìn dây điện tóe lửa. muốn đóng hẳn nút số hai vì làm như vậy nghĩa là hy sinh cả phòng thí nghiệm NASDA và của châu Âu. Chúng mất hết áp suất và vào được. Điều đó nghĩa là hy sinh cổng hạ cánh của tàu con thoi dẫn đến nút số hai.

      - Áp suất giảm, các bạn! - Diana hét lên khi nhìn vào chiếc máy đo áp suất cầm tay. - Chỉ còn sáu trăm hai mươi lăm milimet! Hãy kéo cánh cửa lại và đóng toàn bộ nút này!

      Emma thấy mình thở gấp hơn và cố hớp khí. Thiếu khí! Họ ngất hết nếu hành động nhanh.

      kéo tay Griggs.

      - Kéo lại! Đó là cách duy nhất để cứu trạm.

      miễn cưỡng gật đầu và lui lại cùng Emma vào phòng thí nghiệm của Mỹ.

      Luther cố đóng kéo cánh cửa nhưng thể làm nó nhúc nhích. Giờ họ ở bên ngoài nút số hai, họ phải kéo chứ phải đẩy để đóng cửa. Và họ chống lại lực đẩy khí, dòng khí hạ áp suất quá nhanh.

      - Chúng ta phải bỏ nút này! - Luther hét lên. - Lui về nút số và đóng cánh cửa tiếp theo!

      - . - Griggs hét lên. - Tôi để mất nút này!

      - Griggs, chúng ta có lựa chọn nào khác. Chúng ta phải đóng cánh cửa này.

      - Vậy để tôi làm! - Griggs nắm tay cầm, cố hết sức kéo nó nhưng cánh cửa chỉ xê dịch vài phân. bỏ tay ra khi kiệt sức.

      - giết chúng tôi chỉ để giữ cái khoang chết tiệt đó.

      Nicolai đột nhiên hét lên giải pháp.

      - Mir! Hãy thêm khí vào chỗ thủng! - bay vọt ra khỏi phòng thí nghiệm, về đầu cuối trạm thuộc bộ phận của Nga.

      Mir. Mọi người hiểu ngay gì. Năm 1997, con tàu Progress va vào khoang Spektr của tàu Mir. Thân tàu bị thủng và con tàu Mir bắt đầu bị rò rỉ nguồn khí quý giá ra ngoài vũ trụ. Các phi hành gia Nga với nhiều năm kinh nghiệm trong các Trạm vũ trụ, có người sẵn sàng thực biện pháp khẩn cấp: đó là cho thêm khí vào lỗ thủng. Họ cho thêm khí ô-xi vào khoang để tăng thêm áp suất. Điều đó chỉ giúp họ có thêm thời gian hành động mà còn có thể tăng gra--en áp suất để họ có thể đóng cánh cửa.

      Nicolai trở lại khoang, mang theo hai bình ô-xi. nhanh chóng mở van hết cỡ. Trong tiếng còi rú, họ vẫn nghe thấy tiếng khí xì xì phun ra khỏi bình. Nicolai ném cả hai bình vào nút số hai. Cho thêm khí vào lỗ thủng. Họ tăng thêm áp lực ở bên kia cánh cửa.

      Họ cũng đổ thêm khí ô-xi vào khoang có dây tích điện, Emma nghĩ khi nhớ ra các tia lửa điện. Nó có thể gây ra vụ nổ.

      - Nào. - Nicolai hét lên. - Cố đóng cánh cửa lại!

      Cả Luther và Griggs đều nắm tay cầm và kéo hết sức. Họ biết có phải do liều lĩnh tuyệt vọng của họ hay do các thùng ô-xi làm hạ áp suất gra--en ở cánh cửa hay nhưng cánh cửa từ từ đóng lại.

      Griggs khóa chặt nó lại.

      và Luther chỉ đứng yên lơ lửng lúc. Cả hai đều kiệt sức nên được gì. Rồi Griggs quay lại, mặt sáng lên vì mồ hôi óng ánh dưới ánh đèn nhấp nháy.

      - Giờ hãy dẹp chỗ huyên náo đó! - hét lên.

      Chiếc máy tính ThinkPad vẫn lơ lửng ở nút số . nhìn vào màn hình màu xanh, đánh nhanh chuỗi các câu lệnh. Mọi người thấy nhõm hẳn khi tiếng còi rú im bặt. Đèn đỏ nhấp nháy cũng tắt, chỉ còn lại ánh sáng màu vàng các tấm biển cẩn thận và cảnh báo. Cuối cùng họ cũng có thể chuyện với nhau mà cần hét lên.

      - Áp suất trở về mức sáu trăm chín mươi và tăng. - và cười sảng khoái. - Có vẻ như chúng ta lại có chỗ ở miễn phí rồi.

      - Vậy tại sao vẫn báo động cấp ba? - Emma hỏi và chỉ ánh đèn màu vàng màn hình. Báo động cấp ba có nghĩa là có trong ba khả năng: hoặc máy tính hướng dẫn hỗ trợ bị hỏng, hoặc trong các con quay hồi chuyển hoạt động hay họ mất đường truyền bằng sóng radio dải băng S với Trung tâm điều hành nhiệm vụ bay.

      Griggs nhấn mấy phím.

      - Đó là dải băng S. Chúng ta mất nó rồi. TàuDiscovery chắc chắn đâm trúng mạng thu năng lượng mặt trời P-1 và làm gãy cả cần thu sóng đài. Có vẻ như họ cũng đâm gãy các cổng thu nhiệt mặt trời của chúng ta. Chúng ta mất khoang có quang điện thuộc lớp chặn. Đó là lý do mất điện.

      . - Houston chắc chắn loạn lên và biết có chuyện gì xảy ra. - Emma . - Giờ họ thể liên lạc với chúng ta. Còn tàu Discovery sao? Họ sao rồi?

      Diana, người thực liên lạc bằng sóng đài trong vũ trụ .

      - Discovery trả lời. Có thể họ ra khỏi tần số sóng UHF.

      Hoặc họ chết và thể trả lời được.

      - Chúng ta có thể cho những bóng đèn này sáng lại được ? - Luther hỏi. - Năng lượng chính được phân bố ngang.

      Griggs lại gõ máy tính. trong những vẻ đẹp của Trạm vũ trụ quốc tế là tính dự trữ của nó. Mỗi bộ phận cung cấp năng lượng của nó được thiết kế để cung cấp điện cho các hoạt động khác nhau nhưng các nguồn điện đó có thể được chuyển nguồn. - “được nối ngang”. - khi cần thiết. Mặc dù mất khoang có quang điện thuộc lớp chặn nhưng họ có ba khoang khác để kết nối.

      Griggs .

      - Tôi biết đây là câu sáo ngữ nhưng “hãy để ánh sáng thống trị”. - nhấn phím máy tính và các bóng đèn trong khoang hầu như sáng lên lắm. Nhưng nó đủ để soi đường cho họ qua các cánh cửa. - Tôi đổi nguồn điện. Các chức năng làm việc cần thiết bị tách ra khỏi mạng điện. - thở phào nhõm và nhìn Nicolai. - Chúng ta cần liên lạc với trung tâm Houston. đến lúc ra tay đấy, Nicolai.

      Phi hành gia người Nga lập tức hiểu phải làm gì. Trung tâm điều hành nhiệm vụ của Matx-cơ-va vẫn duy trì đường truyền liên lạc riêng với trạm. Vụ đâm tàu chắc chắn ảnh hưởng đến khoang của Nga ở cuối trạm.

      Nicolai gật đầu rất nhanh.

      - Hy vọng là Trung tâm tại Matx-cơ-va vẫn trả hóa đơn tiền điện hàng tháng.

      MÃ SỐ 3. - 7. - NHÁNH

      MÃ SỐ 3. - 8. - NHÁNH

      MÃ SỐ 3. - 0. - 4 CHƯƠNG TRÌNH

      Jill Hewitt rên rỉ vì đau đớn, gần như bật khóc mỗi khi phải nhấn nút mới bảng điều khiển. Đầu như trái dưa chín sắp nổ tung. Tầm nhìn của thu hẹp đến nỗi có cảm giác mình nhìn xuống đường hầm và các bảng điều khiển nằm ngoài tầm tay . phải rất tập trung mới gạt được các thanh và ngón tay mới bấm được các nút. Giờ vật lộn để tìm phương tiện xác định độ cao và hướng. Mắt nhòe dần khi màn hình có tám quả bóng quay như loạn lên. Mình nhìn thấy gì. Mình thể đọc được đường bay…

      - Discovery, các bạn ở điểm vào. - chỉ huy liên lạc . - Thân tàu được tự động.

      Jill nheo mắt nhìn bảng điều khiển, với thanh gạt nhưng dường như nó ngày càng xa dần.

      - Discovery?

      Những ngón tay run run của chạm vào cái gì đó. chuyển sáng nút “tự động”.

      - xong. - thào rồi thõng vai xuống. Giờ các máy tính được kiểm soát và chúng lái tàu. tự tin khi điều khiển thanh gạt. còn biết sao mình có thể tỉnh táo được. Những đường hầm tối tăm che hết tầm nhìn của , nuốt hết ánh sáng. Lần đầu tiên nghe thấy tiếng khí cọ xát mạnh vào thân tàu và cảm thấy toàn thân mình bị đẩy về sau ghế.

      Chỉ huy liên lạc nữa. bị cắt liên lạc. Khi con tàu lao vào trung với lực mạnh như vậy, nó cắt đứt toàn bộ các sóng điện khỏi các phân tử khí. Cơn bão các hạt electron tích điện đó cắt đứt mọi sóng điện đàm và mọi đường dây liên lạc. Trong mười hai phút nữa, chỉ có , con tàu và tiếng khí rít lên.

      Chưa bao giờ thấy đơn như vậy.

      cảm nhận thấy bộ phận lái tự động chuyển sang độ cao mới, con tàu nghiêng sang bên và giảm tốc độ. tưởng tượng ra những tia lửa nhiệt sáng rực cửa sổ ở thân tàu. có thể cảm nhận được sức nóng của nó như những tia bức xạ mặt trời chiếu thẳng vào mặt .

      mở mắt. Và chỉ thấy bóng đêm.

      Ánh sáng đâu? nghĩ. Ánh sáng cửa sổ đâu?

      nháy mắt nhiều lần. dụi mắt để buộc chúng phải căng ra, buộc võng mạc của phải thu lấy ánh sáng. với về phía bảng điều khiểm. Nếu gạt bên phải, điều khiển các bộ phận dò dữ liệu hàng và hạ thấp phanh khi hạ cánh trung tâm Houston thể hạ cánh con tàu. Họ thể đưa sống sót trở về. Các ngón tay bấm như điên loạn tấm bảng có những nút và tay xoay. Rồi rú lên tuyệt vọng.

      bị mù.

      Chương 15

      MƯỜI LĂM
      Ở độ cao nghìn hai trăm bốn mươi bảy mét mực nước biển, khí tại khu bệ phóng tên lửa Cát trắng rất khô và ngột ngạt. Khu vực hạ cánh cắt ngang khu đáy biển cổ xưa tại thung lũng khô cằn được hình thành giữa các dãy núi Sacramento và Guadalupe ở phía đông và dãy núi San Andres về phía tây. Thành phố gần nhất là Alamogordo, bang Mexico. Địa hình ở đây rất cằn cỗi và khắc nghiệt, chỉ loại cây hoang mạc dai sức nhất mới tồn tại được.

      Khu vực này từ lâu được sử dụng làm khu tập huấn cho các phi công chiến đấu. Nó cũng được dùng cho nhiều mục đích khác trong nhều thập kỷ. Trong suốt Đại chiến thế giới lần hai, nó là khu giam giữ từ nhân của Đức trong khu vực quân của chúng. Nó cũng là khu Bộ ba, nơi Mỹ cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên, tiếp theo đó là ở những nơi xa như Los Alamos hay New Mexico. Các hàng rào dây thép gai và các tòa nhà rệt của chính quyền mọc lên trong thung lũng sa mạc này. Các chức năng của nó được giấu kín, thậm chí với cả các dân cư ở khu Alamogordo gần đó.

      Qua ống nhòm, Jack thấy khu vực hạ cánh lấp lánh hơi nóng bốc lên từ xa. Đường chạy số mười sáu ba mươi tư được định hướng hơi lệch theo hướng bắc nam. Nó dài bốn nghìn năm trăm bảy mươi mét và rộng hơn chín mươi mét. - đủ rộng để nhận các máy bay nặng nhất ngay cả trong khí loãng như vậy khiến cho đường hạ cánh và cất cánh phải kéo dài ra.

      Ở phía tây điểm hạ cánh, Jack và đội y tế cùng đoàn hộ tống của NASA và các xe của Khối liên minh Vũ trụ của Mỹ đứng đợi tàu Discovery đến. Họ có cáng, bình ô-xi, máy khử rung tim và bộ dụng cụ y tế khẩn cấp. - đó là toàn bộ những gì người ta có thể tìm thấy xe cứu thương và hơn thế nữa. Để hạ cánh tại Kennedy, có hơn trăm năm mươi người dưới mặt đất để chuẩn bị đón tàu. Ở đây, khu vực hạ cánh này họ có chưa đến ba mươi người và tám người trong số đó là nhân viên y tế. số người trong đội dưới đất mặc bộ quần áo bảo vệ và tự cung cấp dưỡng khí để cách ly họ với bất cứ rò rỉ chất nổ đẩy nào. Họ là những người đầu tiên tiếp xúc với tàu con thoi, mang theo các máy cảm biến khí. Họ nhanh chóng đánh giá khả năng nổ trước khi cho phép các bác sĩ và y tá lại gần.

      tiếng gầm ở đằng xa khiến Jack hạ thấp ống nhòm và nhìn về phía đông. Các máy bay trực thăng đến đông đến nỗi trông chúng như đàn châu chấu ma.

      - Gì vậy? - Bloomfeld hỏi vì cũng nhận ra những chiếc trực thăng. Giờ những người còn lại trong đội đều nhìn lên trời, nhiều người lẩm bẩm kinh ngạc.

      - Có thể là quân viện trợ. - Jack đoán.

      Người dẫn đầu đoàn hộ tống lắng nghe điện đàm lắc đầu.

      - Trung tâm điều hành nhiệm vụ họ phải là quân ta.

      - Khu vực quân ở đây phải được dọn hết. - Bloomfeld khẳng định thêm.

      - Chúng ta cố ngăn các máy bay trực thăng đó nhưng họ trả lời.

      Tiếng gầm ngày càng lớn. Giờ Jack có thể cảm thấy nó trong xương tủy , nó đập mạnh và liên tục vào hai bên thái dương . Chúng sắp xâm nhập khu vực hạ cánh. Mười lăm phút nữa, tàu Discovery xuất trời và thấy đàn máy bay trực thăng ở trong tầm bay của tàu. nghe thấy viên chỉ huy đoàn hộ tống gấp qua bộ đàm và cảm thấy hoảng sợ lan ra ở khắp đoàn.

      - Chúng dừng lại. - Bloomfeld .

      Jack đưa ống nhòm lên. đếm được gần mười hai máy bay trực thăng. Chúng dừng lại khi tới gần và giờ hạ cánh như bầy chim kền kền tại phía đông điểm hạ cánh định sẵn.

      - nghĩ tất cả việc đó là sao? - Bloomfeld hỏi.

      Còn hai phút nữa ngừng liên lạc. Mười lăm phút nữa tiếp đất.

      Randy Carpenter cảm thấy tia hy vọng đầu tiên. biết họ có thể đưa tàu Discovery hạ cánh an toàn. Khi ngăn chặn được cố máy tính trung tâm, họ có thể điều khiển chú chim khổng lồ đó từ mặt đất. Vấn đề then chốt ở đây là Jill Hewitt. phải tỉnh táo để có thể gạt hai thanh đúng lúc. Đó là nhiệm vụ hết sức đơn giản nhưng lại cực kỳ quan trọng. Khi liên lạc qua sóng đài lần cuối cách đây mười phút, Hewitt có vẻ tỉnh táo nhưng rất đau đớn. phi công tài ba, phụ nữ có cột sống thép được rèn bằng lửa của Thủy quân Mỹ. Tất cả những gì cần làm là tỉnh táo.

      - Trung tâm, chúng tôi nhận được tin tốt lành từ NASDA. - Trung tâm điều hành mặt đất . - Trung tâm điều hành nhiệm vụ tại Matx-cơ-va vừa liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế bằng sóng đài tần số sóng Regul.

      Regul là hệ thống dải sóng đài của Nga Trạm vũ trụ quốc tế. Nó hoàn toàn tách biệt và độc lập với hệ thống của Mỹ. Nó được các trạm điều khiển mặt đất ở Nga và hệ thống vệ tinh điều khiển.

      - Liên lạc rất ngắn. Họ ở cuối đường truyền của vệ tinh. - Trung tâm điều hành mặt đất . - Nhưng cả đoàn còn sống và vẫn ổn.

      lạc quan của Carpenter càng lớn hơn. vui sướng nắm chặt các ngón tay to béo của mình.

      - Báo cáo thiệt hại ra sao?

      - Họ bị lỗ thủng tại khoang NASDA, phải đóng nút số 2 và tất cả các phần trước nút đó. Họ cũng mất hai tấm năng lượng mặt trời và vài giàn khung. Nhưng ai bị thương.

      - Trung tâm, chúng ta nên chuẩn bị hỗ trợ. - Chỉ huy liên lạc .

      Ngay lập tức Carpenter lại chuyển chú ý về tàuDiscovery. rất vui khi nghe tin về Trạm vũ trụ quốc tế nhưng nhiệm vụ tiên quyết của là tàu con thoi.

      - Tàu Discovery, các bạn nghe ? - Chỉ huy liên lạc . - Discovery?

      Vài phút trôi qua. Rồi nhiều phút trôi qua. Đột nhiên Carpenter lại thấy hoảng loạn.

      Viên hướng dẫn .

      - Việc quay lại lần hai hoàn tất. Toàn bộ hệ thống có vẻ tốt.

      Vậy tại sao Jill Hewitt trả lời?

      - Discovery. - chỉ huy liên lạc nhắc lại, giọng có vẻ khẩn cấp. - Các bạn nghe thấy ?

      - Chuẩn bị quay đầu lần ba. - Viên hướng dẫn .

      Chúng ta mất ấy rồi, Carpenter nghĩ.

      Rồi họ nghe thấy tiếng , và đứt quãng.

      - Discovery đây.

      Chỉ huy liên lạc thở phào hơi rất mạnh qua bộ đàm.

      - Discovery, chào các bạn trở lại! vui khi nghe thấy giọng ! Giờ cần triển khai các đèn dữ liệu .

      - Tôi… tôi cố tìm các thanh gạt.

      - Các đèn dữ liệu đó. - Chỉ huy liên lạc nhắc lại.

      - Tôi biết! Tôi biết! Tôi thể thấy bảng điều khiển!

      Carpenter cảm thấy như thể máu đông cứng lại trong động mạch. Lạy Chúa, ấy bị mù. Và ấy ngồi trong ghế của chỉ huy chứ phải ghế của ấy.

      - Discovery, các bạn phải triển khai ngay lúc này. - chỉ huy liên lạc . - Bảng C số 3.

      - Tôi biết bảng nào! - hét lên rồi im lặng. Rồi hơi thở của gấp gáp vì đau.

      - Các hệ thống đèn được triển khai. - kỹ sư hệ thống bảo trì và kỹ thuật . - ấy làm được. ấy tìm thấy thanh gạt.

      Carpenter lại cho phép mình được thở và được hy vọng.

      - Quay đầu lại lần thứ tư. - Viên chỉ huy . - Giờ đến giao diện quản lý năng lượng khu vực cuối cùng.

      - Discovery, các bạn sao rồi? - Chỉ huy liên lạc gọi.

      phút ba mươi giây để hạ cánh. Discovery giờ di chuyển với tốc độ sáu trăm dặm giờ, ở độ cao hai nghìn bốn trăm ba mươi tám mét và rơi tự do rất nhanh. Các phi công gọi đó là “viên gạch bay”. - nó nặng, có động cơ và lướt nghiêng về cánh bên trái. có cơ hội thứ hai, thể hủy hạ cánh và bay quanh để thử lần nữa. Nó sắp hạ cánh theo cách riêng của nó.

      - Discovery? - Chỉ huy liên lạc gọi.

      Jack thấy tàu con thoi lóe sáng trời, nhả ra cột khói ở đuôi từ các động cơ phản lực. Trông nó như thanh kim loại bằng bạc lấp lánh khi nó xoay lần cuối cùng để hạ cánh xuống đường bay.

      - Cố lên! Các bạn có vẻ vẫn ổn! - Bloomfeld hét lên.

      có chung háo hức như toàn bộ ba mươi thành viên còn lại trong đội dưới mặt đất. Mỗi lần hạ cánh tàu con thoi là kiện đáng để ăn mừng, chiến thắng cảm động đến nỗi nó có thể khiến những người chứng kiến dưới mặt đất chảy nước mắt. Giờ mỗi cặp mắt đều hướng lên trời, mỗi trái tim đều đập khi họ nhìn mảnh bạc lấp lánh đó, con cưng của họ lướt về phía đường bay.

      - Tuyệt ! Lạy Chúa, nó đẹp quá!

      - Y… a!

      - Tiếp xúc tốt, thưa ngài!

      Người dẫn đầu đoàn hộ tống lắng nghe Houston và đột nhiên đứng thẳng lên, xương sống cứng lại vì hoảng hốt.

      - Tệ ! - kêu lên. - Phanh hạ cánh vẫn chưa hạ xuống.

      Jack quay về phía .

      - Cái gì?

      - Phi hành đoàn vẫn chưa triển khai hạ bánh phanh!

      Jack quay đầu nhìn chằm chằm tàu con thoi lao đến. Nó cách mặt đất chưa đầy ba mươi mét và di chuyển với vận tốc hơn ba trăm dặm giờ. thấy bánh xe đâu.

      Cả đoàn đột nhiên im lặng. vui mừng của họ biến thành nỗi kinh hoàng và sợ hãi.

      Cho bánh xuống! Hãy cho bánh xe xuống! Jack như muốn hét lên.

      Tàu con thoi chỉ cách đường chạy hai mươi ba mét, nó tạo thành đường thẳng hoàn hảo. Còn mười giây nữa tiếp đất.

      Chỉ phi hành đoàn mới có thể hạ bánh phanh xuống. máy tính nào có thể gạt thanh cầm hay thực nhiệm vụ được thiết kế cho con người. máy tính nào có thể cứu họ.

      Còn mười lăm mét nữa, con tàu vẫn di chuyển với vận tốc hai trăm dặm giờ. Jack muốn thấy cảnh tượng cuối cùng nhưng thể làm vậy. thể quay . thấy đuôi tàu Discovery đâm xuống trước, bắn lên chùm tia lửa điện và làm vỡ các tấm chịu nhiệt. nghe thấy tiếng hét và tiếng khóc trong đám đông khi tiếp theo là mũi tàu Discovery đâm xuống. Cả con tàu bắt đầu lướt nghiêng sang hai bên, kéo theo núi các mảnh vụn. cánh tàu bên trái bị vỡ hoàn toàn và bay về sau như lưỡi mái màu đen.

      Cánh tàu còn lại cũng bị vỡ, rời ra và nát vụn.

      Discovery trượt khỏi đường rải đá đen và lao vào khu cát sa mạc. cuộn cát khổng lồ bay lên, che mất tầm nhìn của Jack ở những giây cuối cùng. chỉ còn nghe thấy tiếng thét của đoàn dưới đất nhưng được lời nào. cũng động đậy, cú sốc khiến tê liệt mạnh đến nỗi có cảm giác như cả cơ thể bay lên như thứ ma quái trong gian ba chiều của cơn ác mộng.

      Rồi cả đám bụi tan thấy tàu con thoi nằm như chú chim gãy cánh trong khu vực đầy mảnh vụn vỡ.

      Đột nhiên các đoàn hộ tống bắt đầu di chuyển. Các động cơ bắt đầu gầm lên, Jack và Bloomfeld nhảy lên chiếc xe y tế màu đen và bắt đầu qua vùng hoang mạc đến chỗ tàu đâm. Ngay cả trong tiếng gầm của các động cơ của đoàn cứu hộ, Jack vẫn nghe thấy thanh khác liên hồi và báo điềm gở.

      Các máy bay trực thăng cũng di chuyển vào khu vực đó.

      Xe của họ đột nhiên phanh gấp rồi dừng lại. Jack và Bloomfeld đều chụp lấy dụng cụ y tế, nhảy ra ngoài trong đám bụi lớn. Tàu Discovery vẫn còn cách đó hơn chín mươi mét. Các máy bay trực thăng hạ cánh, tạo thành vòng tròn quanh tàu con thoi và chặn đoàn hộ tống.

      Jack chạy về phía tàu Discovery, sẵn sàng chui đầu dưới những cánh quạt trực thăng xoay phía . bị ngăn lại khi đến vòng tròn trực thăng.

      - Chuyện quái gì vậy? - Bloomfeld hét lên khi đám lính mặc quân phục đột nhiên tuôn ra từ các máy bay trực thăng và tạo thành bức tường được trang bị vũ khí chống lại đoàn của NASA.

      - Khốn kiếp! Tất cả lùi lại mau!

      Các khẩu súng đột nhiên giương lên và nòng súng chĩa vào nhóm người có vũ khí. Những người của NASA bắt đầu lùi lại, những cặp mắt đổ dồn vào các khẩu súng và mối đe dọa sắp có vụ giết người hàng loạt.

      Nhìn lướt qua mấy tên lính, Jack thấy chiếc lều màu trắng bằng ni-lon nhanh chóng được dựng lên tại cửa vào tàu Discovery, tách biệt nó với khí bên ngoài. Khoảng chục người mặc áo chùm đầu được bao bọc hoàn toàn trong các bộ quần áo màu cam xuất từ hai chiếc trực thăng và tiến về phía tàu con thoi.

      - Đó là bộ quần áo vũ trụ sinh học của Racal. - Bloomfeld .

      Cánh cửa tàu con thoi giờ bị chiếc lều nhựa che hết. Họ thể nhìn thấy cánh cửa mở ra. Họ thấy những người mặc trang phục đó vào khoang giữa.

      Phi hành đoàn của chúng ta ở trong đó, Jack nghĩ. Người của chúng ta có thể hấp hối trong con tàu đó. Chúng ta thể đến với họ. Chúng ta có bác sĩ và y tá đứng đây với chiếc xe tải chứa đầy các dụng cụ y tế và họ cho chúng ta thực công việc của mình.

      đẩy hàng lính, bước thẳng về phía nhân viên quân đội có vẻ là người chỉ huy.

      - Đội y tế của chúng tôi vào đó. - .

      Nhân viên đó cười khẩy.

      - Tôi nghĩ vậy đâu, thưa ngài.

      - Chúng tôi là những người làm việc tại NASA. Chúng tôi là bác sĩ chịu trách nhiệm về sức khỏe và an toàn của phi hành đoàn. Các có thể bắn tôi nếu muốn. Nhưng các cũng phải bắn tất cả những người còn lại vì họ là nhân chứng. Và tôi nghĩ các thể làm như vậy.

      khẩu súng giơ lên, nòng súng chĩa thẳng vào ngực Jack. Họng khô rát, tim đập mạnh trong lồng ngực nhưng vẫn bước quanh những tên lính, cúi đầu tránh các cánh quạt và tiếp tục tiến về phía trước. thậm chí thèm nhìn lại khi tên chỉ huy ra lệnh.

      - Dừng lại, tôi bắn!

      tiếp tục bước, mắt nhìn chiếc lều phồng lên trước mặt. thấy những người mặc bộ quần áo vũ trụ màu cam quay lại nhìn sửng sốt. Khi sắp đến lều, nghe thấy Bloomfeld hét lên.

      - Jack, cẩn thận!

      Cú đánh giáng xuống trúng sau gáy. khuỵu xuống, cơn đau khiến đầu choáng váng. cú đánh khác thúc vào sườn khiến ngã sóng xoài về phía trước. lăn vòng, nằm ngửa lên và thấy tên lính ra lờ mờ đầu. Đầu súng của vẫn chĩa vào như thế chuẩn bị đánh thêm cú khác.

      - Đủ rồi. - giọng nghẹt tiếng lạ vang lên. - Để ta yên.

      Tên lính quay . Giờ gương mặt khác lờ mờ ra, cúi xuống nhìn Jack qua mũ trùm đầu của Racal.

      - là ai? - người đàn ông hỏi.

      - Bác sĩ Jack McCallum. - lời thốt ra như tiếng thào. ngồi dậy, mắt đột nhiên nhòa và nhảy múa ở góc nào đó trong bóng tối. ôm chặt đầu, bắt mình phải tỉnh táo, chống lại bóng tối kéo vào. - Đây là các bệnh nhân của tôi trong tàu con thoi. - Jack . - Tôi cầu được nhìn thấy họ.

      - Điều đó thể được.

      - Họ cần chăm sóc y tế…

      - Họ chết rồi, thưa bác sĩ McCallum. Tất cả đều chết.

      Jack cứng người. chầm chậm ngẩng lên và bắt gặp ánh mắt người đàn ông đó qua kính bảo vệ mặt. thấy cảm xúc gì ở đó và thấy biểu gì cho thấy ta đau buồn khi bốn người thiệt mạng.

      - Tôi rất tiếc về các phi hành gia của các vị. - người đàn ông rồi quay .

      Jack cố đứng lên. Mặc dù chóng mặt và khó chịu, cố đứng lên.

      - Rốt cuộc các là ai? - hỏi.

      Người đàn ông dừng bước, quay lại.

      - Tôi là bác sĩ Isaac Roman, đến từ USAMRIID. - ta . - Giờ tàu con thoi là khu vực nóng. Quân đội giành quyền kiểm soát.

      USAMRIID. Bác sĩ Roman cụm từ đó như từ nhưng Jack biết các chữ cái đó được viết tắt từ những chữ gì. Đó là viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm. Tại sao quân đội lại ở đây? Việc này biến thành hoạt động quân từ bao giờ?

      Jack nheo mắt lại vì bụi bay, đầu vẫn ong ong vì cú đánh. cố tiếp nhận thông tin giật mình đó. dường như tan biến hết và chuỗi các cảnh tượng kỳ quái hư ảo chầm chậm diễn ra. Những người mặc bộ quần áo màu cam tiến về phía tàu con thoi. Người lính nhìn bằng con mắt vô cảm. Chiếc lều cách ly phồng lên trong gió như cơ thể sống thở. nhìn vòng tròn những tên lính vẫn chặn đường đội dưới mặt đất. nhìn tàu con thoi và thấy những người mặc áo cam khiêng chiếc cáng đầu tiên ra khỏi lều. Thi thể được đóng trong chiếc túi. Chiếc túi đựng xác được đóng rất nhiều dấu đỏ chồng chéo, dấu hiệu nguy hiểm như những bông hoa chạy ngang thi thể.

      Khi nhìn thấy chiếc cáng, đầu óc Jack đột nhiên minh mẫn trở lại.

      - Các định đưa các thi thể đó đâu?

      Bác sĩ Roman thậm chí quay lại nhìn mà đưa cái cáng về chỗ máy bay trực thăng chờ. Jack về phía tàu con thoi và lại thấy người lính chặn ngay trước mặt , báng súng sẵn sàng giơ lên để nện cho cú.

      - Này! - đội dưới đất hét lên. - dám đánh ấy lần nữa chúng tôi có gần ba mươi nhân chứng đấy.

      Người lính quay lại, tức tối nhìn các nhân viên của NASA và Hiệp hội vũ trụ Mỹ. Giờ họ tiến về phía trước và giọng của họ lộ vẻ tức giận.

      - nghĩ là quân phát xít Đức sao?

      - nghĩ giờ có thể đánh công dân sao?

      - Các là ai vậy?

      Những người lính sợ hãi ôm chặt súng khi cả đoàn tiếp tục về phía trước, la hét và chân họ giậm mạnh khiến bụi bay mù mịt.

      người lính bắn phát chỉ thiên. Cả đám đông bỗng đứng im.

      Có điều gì đó rất tệ ở đây, Jack nghĩ. Có điều gì đó chúng ta hiểu được. Những người lính này sẵn sàng bắn giết.

      Người dẫn đầu đoàn hộ tống hiểu điều này vì thốt lên hoảng hốt.

      - Tôi liên lạc trực tiếp với Houston! Lúc này, hàng trăm đàn ông và phụ nữ tại Phòng điều hành nhiệm vụ nghe đấy!

      Những người lính từ từ hạ súng và nhìn viên chỉ huy. Họ im lặng rất la6uk, chỉ nghe thấy tiếng gió và cát quấn vào máy bay trực thăng

      Bác sĩ Roman xuất cạnh Jack.

      - Các hiểu tình hình ở đây. - ta .

      - Hãy giải thích cho chúng tôi!

      - Chúng tôi giải quyết mối nguy hiểm sinh học nghiêm trọng. Hội đồng An ninh Nhà Trắng cử đội phản ứng sinh học nhanh của quân đội. - đội này được Quốc hội sáng lập thưa bác sĩ McCallum. Chúng tôi thực lệnh của Nhà Trắng.

      - Mối đe dọa sinh học gì?

      Roman ngập ngừng. ta nhìn đội hỗ trợ dưới đất của NASA đứng căng thẳng ngoài hàng rào lính.

      - Đó là loại sinh vật gì? - Jack hỏi.

      Cuối cùng Roman nhìn thẳng vào mắt qua lớp kính bảo vệ.

      - Thông tin đó được xác minh.

      - Chúng tôi là đội y tế chịu trách nhiệm về sức khỏe của phi hành đoàn. Tại sao chúng tôi được thông báo về việc này?

      - NASA nhận thức được họ đối diện với vấn đề gì.

      - Vậy tại sao các làm như vậy? - câu hỏi rất quan trọng đó được trả lời.

      cái cáng khác ra từ trong lều. Thi thể của ai vậy? Jack tự hỏi. Khuôn mặt của bốn thành viên phi hành đoàn lần lượt ra trong đầu . Giờ tất cả chết. thể chấp nhận đó. thể hình dung những con người khỏe mạnh, đầy sức sống đó chỉ còn là những mảnh xương vỡ và nội tạng bị vỡ vụn.

      - Các mang các thi thể đâu? - Jack hỏi.

      - Đến phòng khám nghiệm tử thi cấp độ bốn.

      - Ai khám nghiệm?

      - Tôi.

      - Là bác sĩ của chuyến bay, tôi phải có mặt.

      - Tại sao? có phải là bác sĩ bệnh học ?

      - .

      - Vậy tôi thấy đóng góp được gì có ích.

      - Các kiểm tra bao nhiêu phi công chết? - Jack vặn lại. - Các điều tra bao nhiêu vụ tai nạn máy bay? Các tai nạn hàng là chuyên ngành của tôi. Đó là lĩnh vực chuyên gia của tôi. Các có thể cần tôi.

      - Tôi nghĩ vậy. - Roman rồi bỏ .

      Jack điếng người vì giận dữ. qua đội của NASA và với Bloomfeld.

      - Quân đội kiểm soát khu này. Họ đưa các thi thể .

      - Dưới quyền của ai?

      - lệnh đến trực tiếp từ Nhà Trắng. Họ vừa khởi động mệnh lệnh tên là Đội phản ứng sinh học nhanh.

      - Đó là đội chống khủng bố. - Bloomfeld . - Tôi nghe về họ. Họ được thành lập để chống khủng bố sinh học.

      Họ nhìn máy bay cất cánh, mang theo hai thi thể. Chuyện quái gì thực diễn ra vậy? Jack tự hỏi. Họ giấu chúng ta điều gì?

      quay về phía người dẫn đầu đoàn hộ tống.

      - cho tôi liên lạc với Trung tâm vũ trụ Johnson được ?

      - Chính xác là với ai?

      Jack nghĩ về người có thể tin tưởng và người đủ quyền hành trong ban giám đốc NASA để chiến đấu đến cùng.

      - Cho tôi chuyện với Gordon Obie. - . - Giám đốc điều hành bay.

      KHÁM NGHIỆM TỬ THI

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 16 Phần 1

      MƯỜI SÁU
      Gordon Obie bước vào phòng họp có máy ghi hình được chuẩn bị cho cuộc chiến nảy lửa nhưng nhân viên nào trong phòng họp phát ra ông rất tức giận. Tất nhiên, Obie vẫn mang khuôn mặt tỉnh như , ông lời nào khi ngồi xuống cạnh bàn, cạnh nhân viên quan hệ công chúng Gretchen Liu khóc sưng cả mắt. Thậm chí họ để ý thấy Gordon vào phòng.

      Ở bàn cũng có nhân viên quản lý NASA Leroy Cornell, giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship và năm nhân viên cao cấp khác của NASA. Tất cả bọn họ đều buồn bã nhìn lên hai màn hình lớn. Ở màn hình đầu tiên là Đại tá Lawrence Harrison từ Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm từ căn cứ quân tại Fort Detrick, bang Maryland. màn hình thứ hai là người đàn ông nghiêm trang, tóc đen, mặc thường phục, đó là “Jared Profitt thuộc Hội đồng Bảo an của Nhà Trắng”. Với cặp mắt buồn bã và nét mặt u sầu, thậm chí là khổ hạnh, trông ôn như thầy tu thời trung cổ, chịu chuyển sang thời đại mới của com-lê và ca vát.

      Blankenship thẳng nhằm vào Đại tá Harrison.

      - Lính của các vị chỉ ngăn cản người của chúng tôi làm nhiệm vụ, họ còn đe dọa và chĩa súng vào người của chúng tôi. trong các bác sĩ của chúng tôi bị tấn công… bị đánh gục xuống đất bằng báng súng. Chúng tôi có hơn ba mươi nhân chứng.

      - Bác sĩ McCallum phá vòng bảo vệ của cảnh sát chúng tôi. ta dừng lại theo lệnh. Chúng tôi có khu vực nóng cần bảo vệ.

      - Vậy là bây giờ Quân đội Mỹ sẵn sàng tấn công, thậm chí là bắn thường dân sao?

      - Ken, hãy nhìn nhận vấn đề này từ quan điểm của Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm. - Cornell và bình tĩnh đặt tay lên vai Blankenship. Đó là cái đụng chạm kiểu ngoại giao, Gordon khinh miệt nghĩ. Cornell có thể là người phát ngôn của NASA ở Nhà Trắng và là tài sản quý nhất của họ khi đụng chạm đến vấn đề phỉnh phờ Nhà Trắng tài trợ cho họ. Nhưng nhiều người ở NASA chưa bao giờ thực tin tưởng ông ta. Họ bao giờ tin tưởng người có lối suy nghĩ của chính trị gia hơn kỹ sư. - Bảo vệ khu vực nóng là lý do chính đáng để sử dụng vũ lực. - Cornell tiếp tục. - Bác sĩ McCallum phá vòng an ninh.

      - Và hậu quả có thể rất thảm khốc. - Harrison qua điện đàm. - Tình báo của chúng tôi báo cáo vi rút Marburg có thể bị cố ý đưa lên tàu vũ trụ. Marburg là loại vi rút có liên quan đến vi rút Ebola.

      - Làm cách nào nó lên tàu được? - Blankenship nghi ngờ. - Mỗi mẻ thí nghiệm đều được kiểm tra. Mỗi động vật thí nghiệm đều được xác nhận còn khỏe mạnh. Chúng tôi đưa lên đó nguy cơ sinh học.

      - Đó là thông tin từ tình báo của các vị, tất nhiên rồi. Nhưng các vị nhận được các chuyến hàng chở vật thí nghiệm từ các nhà khoa học ở khắp nước Mỹ. Các vị có thể nhìn thấy các mẫu vật nhưng thể kiểm tra từng vi khuẩn hay từng mẫu tế bào khi nó được mang đến để đưa lên vũ trụ. Để giữ cho các mẻ sinh học đó sống sót, các kiện hàng được đưa ngay lên tàu vũ trụ. Nếu trong các mẫu thí nghiệm đó bị nhiễm bẩn sao? Các vị hãy xem xét dễ dàng khi thay thế mẫu vật có hại gì bằng các cơ thể nguy hiểm như Marburg.

      - Vậy là có kẻ phá hoại ngầm Trạm vũ trụ à? - Blankenship tiếp tục chất vấn. - Đó là hoạt động khủng bố sinh học ư?

      - Đó chính là điều tôi . Hãy để tôi miêu tả chuyện gì xảy ra nếu các vị bị nhiễm loại vi rút này. Đầu tiên, cơ của các vị đau và các vị bị sốt. Cơn đau đó nặng và khó chịu đến nỗi các vị gần như chịu được khi ai đó chạm vào. mũi tiêm vào trong cơ có thể khiến các vị hét lên đau đớn. Rồi mắt các vị biến thành màu đỏ. Bụng các vị bắt đầu đau và các vị nôn mửa liên tục. Các vị bắt đầu ho ra máu. Đầu tiên máu có màu đen do các quá trình tiêu hóa. Sau đó máu ra nhanh hơn và nó chuyển thành màu đỏ tươi, nó nhanh như khi người ta phun bằng máy bơm nước. Lá gan của các vị bắt đầu phình to và rạn nứt. Thận hoạt động.
      Các cơ quan nội tạng bị phá hủy, huyết áp bị phá vỡ. Và các vị chết. - Harrison dừng lại. - Đó là vấn đề có thể chúng ta đối mặt, thưa các vị!

      - Điều này khốn nạn! - Gordon Obie bực dọc.

      Mọi người ở bàn họp nhìn ông ngạc nhiên. Con Nhân sư lên tiếng. Rất hiếm khi Obie phát biểu trong các cuộc họp. Ông thường với giọng đều đều khi về các dữ liệu và thông tin, nó hề có cảm xúc. bùng nổ này khiến tất cả mọi người rất ngạc nhiên.

      - Tôi có thể hỏi ai vừa lên tiếng ? - Đại tá Harrison .

      - Tôi là Gordon Obie, giám đốc điều hành bay.

      - Ồ, bố già của các phi hành gia.

      - Ông có thể gọi tôi bằng cái tên đó.

      - Vậy tại sao điều này lại khốn nạn?

      - Tôi tin đây là vi rút Marburg. Tôi biết nó là gì nhưng tôi biết các vị cho chúng tôi biết .

      Mặt đại tá Harrison lạnh băng như chiếc mặt nạ. Ông ta gì.

      Jared Profitt lên tiếng. Giọng ông ta đúng như Gordon nghĩ, nó rít lên qua kẽ răng. Ông ta hung hăng như Harrison nhưng đó là người có vẻ thích lý và giải thích.

      - Tôi hiểu cơn thịnh nộ của ông, thưa ông Obie. Có quá nhiều điều chúng tôi thể cho các vị biết vì lý do an ninh. Nhưng Marburg phải là thứ chúng tôi có thể khinh suất.

      - Nếu các vị biết đó là vi rút Marburg tại sao các vị cho các bác sĩ của chúng tôi tham gia vào việc khám nghiệm tử thi? Các vị sợ chúng tôi biết chăng?

      - Gordon. - Cornell khẽ. - Tại sao chúng ta thảo luận riêng vấn đề này?

      Gordon phớt lờ ông ta và hướng về màn hình.

      - Thực chúng ta về loại bệnh gì? bệnh truyền nhiễm ư? độc tố ư? Hay thứ gì đó được đưa lên tàu con thoi trong chuyến hàng của quân đội, có thể lắm chứ?

      Tất cả im lặng. Rồi Harrison .

      - Đó chỉ là căn bệnh hoang tưởng của NASA! Tin tức tình báo của các vị phải chịu trách nhiệm về mọi rắc rối.

      - Tại sao các vị chịu để bác sĩ của chúng tôi tham gia vào việc khám nghiệm tử thi?

      - Chúng ta về bác sĩ McCallum chăng? - Profitt hỏi.

      - Đúng thế, bác sĩ McCallum được đào tạo trong các vụ tai hạn hàng và lĩnh vực bệnh học. ấy là bác sĩ chuyến bay và cũng từng là thành viên của phi hành đoàn. Việc các vị từ chối để ấy hay bất kỳnhân viên y tế nào của chúng tôi giám sát việc khám nghiệm tử thi khiến tôi băn khoăn có phải các vị muốn cho NASA thấy ?

      Đại tá Harrison quay như thể nhìn ai khác trong phòng. Khi nhìn lại về phía máy quay, mặt ông ta đỏ lên vì tức giận.

      - Điều này lố bịch! Người của các vị vừa đâm tàu con thoi! Các vị làm hỏng việc hạ cánh, giết chết phi hành đoàn của mình và rồi các vị giơ tay chỉ trích Quân đội Mỹchăng?

      - Toàn bộ các phi hành gia kịch liệt phản đối việc này. - Gordon . - Chúng tôi muốn biết chuyện gì thực xảy ra với các đồng nghiệp của mình. Chúng tôi cầu các vị cho trong các bác sĩ của chúng tôi xem các thi thể.

      Leroy Cornell lại cố can thiệp.

      - Gordon, ông thể đưa ra đòi hỏi vô lý như vậy. - ông ta khẽ. - Họ biết họ làm gì.

      - Tôi cũng vậy!

      - Tôi cầu ông lui lại ngay bây giờ.

      Gordon nhìn Cornell. Cornell là người đại diện cho NASA tại Nhà Trắng, là tiếng của NASA tại Quốc hội. Chống lại ông ta là chấm dứt nghiệp.

      Nhưng Obie vẫn làm.

      - Tôi cho các phi hành gia. - ông . - Cho ngườicủa tôi.

      Ông quay về màn hình và nhìn thẳng vào khuôn mặt lạnh như băng của Đại tá Harrison.

      - Và chúng tôi ngại ngần gì công bố những quan tâm của chúng tôi với báo chí. Chúng tôi coi động thái này là phơi bày các vấn đề tối mật của NASA ra ánh sáng. Thi thể của các phi hành gia luôn là bí mật. Nhưng nếu bị ép buộc, chúng tôi cầu điều tra công khai.

      Gretchen Liu gục đầu xuống.

      - Gordon. - thầm. - Ông làm cái quái gì vậy?

      - Làm điều tôi phải làm.

      Cả bàn im lặng trong phút.

      Rồi trước ngạc nhiên của tất cả mọi người, Blankenship .

      - Tôi đứng về phía các phi hành gia của chúng ta.

      - Tôi cũng vậy. - giọng khác lên tiếng.

      - Tôi cũng thế.

      - Và tôi nữa.

      Gordon nhìn các đồng nghiệp quanh bàn. Hầu hết những người này là các kỹ sư và giám đốc điều hành và tên của họ hiếm khi xuất báo chí. Có nhiều dịp họ xung đột với các phi hành gia, những người họ coi là các cậu bé biết bay với “cái tôi” to tướng. Các phi hành gia nhận hết vinh quang, còn những người đàn ông và phụ nữ này, những người làm công việc được nhìn thấy và ai biết đến để biến chuyến bay thành thực, lại chính là trái tim và linh hồn của NASA. Giờ họ đoàn kết sau Gordon.

      Leroy Cornell nghiêm mặt lại, người lãnh đạo bị chính đội quân của mình bỏ rơi. Ông là người đầy kiêu hãnh và đây là cú đấm công khai nực cười. Ông hắng giọng và từ từ xốc vai. Rồi ông nhìn thẳng vào màn hình của Đại tá Harrison và .

      - Tôi có lựa chọn nào khác ngoài việc cũng ủng hộ các phi hành gia của chúng tôi. Tôi cầu trong các bác sĩ của chúng tôi phải được phép giám sát việc khám nghiệm tử thi.

      Đại tá Harrison gì. Jared Profitt mới là người đưa ra quyết định cuối cùng. - Jared Profitt ràng là người chịu trách nhiệm. Ông ta quay sang với người màn hình. Rồi ông nhìn máy quay và gật đầu.

      Cả hai màn hình tắt phụt. Cuộc họp băng hình kết thúc.

      - Ồ, chắc chắn ông đấm vào mũi quân đội Mỹ. - Gretchen . - Ông có thấy Harrison trông tức giận mức nào ?

      , Gordon nghĩ và nhớ lại nét mặt của Đại tá Harrison ngay trước khi màn hình trống . phải tôi nhìn thấy tức giận khuôn mặt ông ta. Đó là sợ hãi.

      Các thi thể được đưa đến trụ sở của Viện Nghiên cứu y khoa quân đội Mỹ về các bệnh truyền nhiễm ở Fort Detrick, bang Maryland, như Jack nghĩ. Chúng được đưa đến nơi cách khu Cát Trắng chưa đầy sáu mươi dặm, tới tòa nhà xây bằng các khối bê tông có cửa sổ, như hàng chục các ngôi nhà tên khác của chính phủ mọc lên ở thung lũng sa mạc khô cằn này. Nhưng tòa nhà này có đặc điểm nổi bật: đó là chuỗi các ống thông hơi nhô lên từ mái nhà. Các dây thép gai được ghép cẩn thận các hàng rào. Khi họ lái xe qua khu kiểm tra an ninh, Jack nghe thấy tiếng rù rì của các dây điện cao thế.

      Ngay bên cạnh là người hộ tống có vũ trang, Jack đến lối vào phía trước. - nhận ra đó là lối vào duy nhất. cánh cửa có biểu tượng ớn lạnh quen thuộc: bông hoa thể nguy hiểm sinh học màu đỏ tươi. Căn cứ này làm cái quái gì ở nơi ai biết này? tự hỏi. Rồi nhìn đường chân trời có gì nổi bật và câu hỏi của được trả lời. Tòa nhà này chính là chốn ai biết.

      được hộ tống qua cửa, vào dãy hành lang lạnh lẽo dấn sâu hơn vào lõi tòa nhà. thấy đàn ông và phụ nữ mặc quân phục, những người khác mặt quần áo phòng thí nghiệm. Toàn bộ ánh sáng đều là nhân tạo, những khuôn mặt có vẻ hơi xanh xao và ốm yếu.

      Các lính canh đứng chặn ở cửa có dòng chữ “Tủ khóa cho nam”.

      - Vào . - người ta ra lệnh cho . - Hãy theo biển chỉ dẫn đến chữ cái. Rồi qua cánh cửa tiếp theo. Họ chờ .

      Jack qua cửa. Bên trong là tủ khóa, chiếc xe để nhiều quần áo nhiều cỡ màu xanh lá cây kiểu bác sĩ phẫu thuật, cái giá có mũ giấy và chiếc gương. danh sách các chỉ dẫn được dán tường, bắt đầu là “ Cởi TOÀN BỘ quần áo đường, kể cả đồ lót”.

      cởi quần áo, để chúng trong ngăn kéo được bảo vệ và mặc đồ tiệt trùng vào. Rồi đẩy cánh cửa tiếp theo, đó lại có biểu tượng nguy hiểm sinh học và vào phòng chiếu bằng tia cực tím. Ở đó dừng lại, biết làm gì tiếp.

      giọng điện đàm .

      - Có cái giá để tất bên cạnh . Chọn đôi và qua cửa.

      làm theo.

      Người phụ nữ mặc đồ tiệt trùng chờ ở phòng bên cạnh. Trông ta cục cằn, tươi cười khi cầu đeo găng tay tiệt trùng. Rồi ta giận dữ tháo băng dính và đóng kín cổ tay áo và gấu quần . Quân đội Mỹ nhún nhường để Jack đến đây nhưng họ cho chuyến của được thoải mái. ta đeo tai phôn lên đầu rồi đưa cho chiếc mũ như của Snoopy. Nó như chiếc mũ bơi để giữ cho tai phôn cố định.

      - Giờ mặc quần áo vào. - ta nhặng lên.

      đến lúc mặc quần áo gian. Bộ này màu xanh dương với đôi găng tay dính liền. Khi người trợ giúp khó tính chụp mũ trùm đầu lên đầu , Jack cảm thấy e sợ vô cớ về người phụ nữ này. Khi tức giận, ta có thể làm hỏng quá trình này và như vậy có thể được bảo vệ an toàn khỏi nhiễm bẩn.

      ta đóng phần cúc ngực , nối với cái ống tường. cảm thấy luồng khí thổi qua bộ quần áo. quá muộn để lo lắng chuyện gì có thể xảy ra. sẵn sàng vào khu vực nguy hiểm.

      Người phụ nữ tháo ống cho và chỉ vào cánh cửa tiếp theo.

      qua và vào phòng cách ly. Cánh cửa đóng sầm sau lưng . người đàn ông mặc đồ vũ trụ đợi . ta gì nhưng ra hiệu cho Jack theo ta đến cánh cửa ở đằng xa.

      Chương 16 Phần 2

      Họ qua cánh cửa, qua hành lang dài đến phòng khám nghiệm tử thi.

      Trong phòng có cái bàn bằng thép gỉ với thi thể đó vẫn bị khóa trong túi. Hai người đàn ông mặc đồ gian đứng bên cạnh cái xác. trong số họ là bác sĩ Roman. ta quay lại nhìn Jack.

      - Đừng chạm vào bất cứ thứ gì! Đừng can thiệp! chỉ đến đây để giám sát, thưa bác sĩ McCallum, và can dự vào công việc của chúng tôi.

      lời chào rất hay!

      Người hộ tống mặc đồ gian cắm cái ống tường vào bộ đồ của Jack và luồng khí lại thổi xì xì trong mũ của . Nếu có tai nghe nghe ba người kia gì.

      Bác sĩ Roman và hai trợ lý mở cái túi.

      Jack có cảm giác ngừng thở, cổ họng bị bóp nghẹt. Đó là thi thể của Jill Hewitt. Mũ bảo vệ của bị tháo nhưng vẫn mặc bộ đồ màu cam khi phóng tàu đó có thêu tên . Thậm chí nếu có dấu hiệu nhận dạng đó, Jack vẫn biết đó là Jill vì mái tóc . Nó có màu hạt dẻ mềm mượt, được cắt ngắn và có những sợi tóc hoa râm. Khuôn mặt còn nguyên vẹn đáng ngạc nhiên. Mắt hơi mở. Cả hai màng cứng đều đỏ tươi.

      Roman và các đồng nghiệp cởi bộ đồ vũ trụ và cởi đồ cho thi thể . Chất liệu quần áo đó có thể chống lửa nên rất khó cắt. Họ phải cởi chúng . Họ làm việc rất hiệu quả, những lời bình phẩm của họ như điều tất nhiên và có chút biểu tình cảm nào. Khi họ cởi xong quần áo, trông như con búp bê bị vỡ vụn. Cả hai tay biến dạng vì gãy nát và chỉ còn là đống xương vỡ. Chân cũng gãy và ống quyển bị bẻ cong thành những góc kỳ dị. Đầu của hai xương sườn bị gãy đâm xuyên qua ngực . Các vết thâm đen còn để dấu của các dây an toàn ở ghế ngồi.

      Jack lại thấy mình thở gấp, phải nén sợ hãi ngày càng tăng. chứng kiến nhiều cuộc khám nghiệm tử thi, nhìn những cơ thể bị biến dạng khủng khiếp hơn nhiều. thấy những chiếc máy bay bị đốt cháy khác gì thanh củi mục, các hộp sọ bị nổ tung do áp suất của não bị nung nóng. thấy thi thể mà mặt bị đánh bay khi vào chỗ máy quay ở đuôi máy bay trực thăng. thấy xương sống của phi công hàng hải gãy làm đôi và gập ngược về phía sau qua màn kính che ở buồng lái.

      Điều này tệ hơn rất nhiều vì biết người chết. nhớ khi còn là phụ nữ còn sống, còn thở. Nỗi sợ của xen cả tức giận vì ba người kia nhìn thân thể trần truồng của Jill rất lạnh lùng. chỉ là tảng thịt bàn, hơn kém. Họ để ý đến các vết thương của hay chân tay bị gãy nát. Nguyên nhân cái chết chỉ là mối quan tâm thứ yếu của họ. Họ quan tâm hơn đến kẻ tặc sinh học trong cơ thể .

      Roman bắt đầu tạo vết cắt hình chữ Y. tay cầm dao mổ, tay kia đeo găng tay lưới. đường rạch chạy từ vai phải chếch sang ngực đến mẩu ức. vết mổ thăm dò khác chạy từ vai trái và cắt vết mổ đầu tiên ở mẩu ức. Vết mổ tiếp tục xẻ xuống bụng, với vết rách lởm chởm ở phần rốn và nó dừng lại ở phần mu. ta cắt qua sườn, bỏ toàn bộ phần xương ức. Phần khung xương được nâng lên để lộ ổ bụng bên trong.

      Nguyên nhân cái chết rất ràng.

      Khi máy bay bị đâm hay chiếc xe máy đâm vào tường, và kẻ thất tình tự tử nhảy xuống từ tòa nhà mười tầng các quá trình giảm tốc tương tự xảy . Khi cơ thể di chuyển với tốc độ cao và bị dừng lại đột ngột. Riêng tác động của nó có thể làm gãy sườn và các mảnh xương găm sâu vào các cơ quan quan trọng. Nó có thể làm gãy đốt sống, làm đứt dây cột sống và đập hộp sọ vào bảng điều khiển hay các dụng cụ. Ngay cả khi phi công được buộc chặt và đội mũ bảo hiểm, thậm chí bộ phận nào trong cơ thể họ va chạm vào máy bay chỉ riêng lực hãm lại có thể gây chết người bởi vì mặc dù cơ thể có thể bị buộc lại nhưng các cơ quan nội tạng . Tim, phổi và cách mạch lớn bị treo lơ lửng trong ngực bởi các sợi mô. Khi cơ thể dừng lại đột ngột, tim tiếp tục lao về phía trước như quả lắc. Nó di chuyển với lực mạnh đến nỗi nó xé rách các mô và đập vỡ động mạch chủ.
      Máu bị vỡ trong tâm thất và trong khoang màng phổi.

      Ngực của Hewitt biến thành bể máu.

      Roman hút máu rồi cau mày nhìn quả tim và hai lá phổi.

      - Tôi thể thấy ấy bị chảy máu từ đâu. - ta thông báo.

      - Tại sao lấy cả khối ? - trợ lý của ta gợi ý. - Chúng ta nhìn hơn.

      - Vết rách rất có thể ở động mạch chủ phía trước. - Jack thêm vào. - Trong sáu mươi lăm phần trăm các trường hợp nằm ở ngay van tâm thất.

      Roman nhìn vẻ khó chịu. Cho đến lúc này ta cố lờ Jack , giờ ta khó chịu với lời xen vào của . ta gì, đặt dao mổ để tách các mạch máu lớn hơn.

      - Tôi khuyên các vị nên kiểm tra tim trước. - Jack . - Trước khi mổ.

      - ta bị chảy máu sao và ở đâu phải là điều tôi quan tâm nhất. - Roman bắt bẻ lại.

      Họ thực quan tâm chết vì lý do gì. Jack nghĩ. Tất cả những gì họ muốn biết là cái gì có thể phát triển nhân lên trong cơ thể .

      Roman cắt qua khí quản, thực quản và các mạch lớn rồi bỏ hết tim phổi thành khối. Hai lá phổi bị dính máu. Bị tai nạn hay bị nhiễm bệnh? Jack biết. Tiếp theo Roman kiểm t các cơ quan nội tạng trong bụng. Các cơ quan như hai lá phổi đều bị xuất huyết cơ. ta cắt nó , đặt thành cuộn ruột lấp lánh trong cái bát. ta cắt bỏ phần bụng, tuyến tụy và gan. Tất cả bị cắt và kiểm t bằng kính hiển vi. Toàn bộ các mô được cấy để tìm vi khuẩn và vi rút.

      Giờ thi thể của Jill gần như mất hết các cơ quan nội tạng. Jill Hewitt, phi công hàng hải, vận động viên kiêm ba môn, người say mê loại rượu Justerini & Brooks xứ Xcốt-len, các ván bài mạo hiểm và các bộ phim của Jim Carrey giờ chẳng là gì ngoài cái vỏ trống .

      Roman đứng thẳng dậy và trông có vẻ nhõm. Đến nay việc khám nghiệm tử thi cho thấy điều gì kinh ngạc. Nếu có dấu hiệu tổng thể của vi rút Marburg Jack vẫn chưa thấy.

      Roman vòng phía sau cái xác, đến phần đầu.

      Đây là phần Jack lo sợ. phải buộc mình nhìn Roman xẻ dọc thái dương, vết mổ của ta chạy ngang qua phần đỉnh đầu, từ tai này sang tai kia. ta lật ngược thái dương về phía sau và lật nó úp lên mặt, mớ tóc màu hạt dẻ rơi lả tả xuống cằm . Họ dùng con dao nạy vỡ hộp sọ. vết cắt, vụn xương nào được cho phép trong việc khám nghiệm tử thi cấp độ bốn. Họ cạy phần đỉnh hộp sọ.

      khối máu to bằng nắm tay phụt , bắn lên chiếc bàn mổ bằng thép gỉ.

      - Xuất huyết não lớn. - trợ tá của Roman . - Do tai nạn va đập chăng?

      - Tôi nghĩ vậy. - Roman . - thấy động mạch chủ. Cái chết gần như xảy ngay tức khắc khi chấn động xảy . Tôi chắc tim ấy bơm đủ lâu để tạo nhiều máu chảy trông như vậy. - ta nhàng luồn bàn tay đeo găng vào hộp sọ, thăm dò bề mặt màu xám.

      đám chất sền sệt phụt và bắn lên bàn.

      Roman lùi lại kinh hãi.

      - Cái quái gì vậy? - trợ lý của ta hỏi.

      Roman trả lời. ta chỉ nhìn đám mô đó. Nó được bọc lớp màu xanh dương pha xanh lá cây. Qua lớp màng lấp lánh bên ngoài, trông đám đó có vẻ ổn định, đó là đống thịt có hình dạng. ta định xé toang vỏ bên ngoài nhưng ta dừng lại và nhìn về phía Jack.

      - Đó là loại khối u. - ta . - Hay u nang. Điều đó lý giải cơn đau đầu mà ấy .

      - . - Jack lên iếng. - Cơn đau đầu của ấy đến bất ngờ… chỉ trong vài giờ. Khối u phải mất vài tháng mới hình thành.

      - Làm sao biết ấy giấu các triệu chứng của mình trong những tháng qua? - Roman vặn lại. - ấy giữ bí mật để bị loại khỏi phi hành đoàn.

      Jack phải thừa nhận có khả năng đó. Các phi hành gia rất háo hức với các nhiệm vụ bay và họ có thể giấu bất cứ triệu chứng nào có thể khiến họ bị loại ra khỏi đoàn.

      Roman nhìn trợ tá của ta đứng bên kia bàn. Người đó gật đầu, hất đám chất đó vào cái túi đựng mẫu vật và mang khỏi phòng.

      - định mổ xẻ nó chứ? - Jack hỏi.

      - Nó cần được gói lại và nhuộm màu trước. Nếu tôi xẻ nó ra bây giờ, tôi phá vỡ cấu trúc tế bào.

      - Nó có thể là gì khác ?

      ai trả lời Jack. chưa từng nhìn thấy thứ gì như vậy.

      Roman tiếp tục kiểm t hộp sọ của Jill Hewitt. ràng, đám chất đó dù là gì chăng nữa làm tăng áp lực trong não , làm biến dạng các cấu trúc của nó. Nó ở đó bao lâu? Nhiều tháng hay nhiều năm rồi? Tại sao Jill có thể hoạt động bình thường kém gì phi công trong phương tiện phức tạp như tàu con thoi? Tất cả những câu hỏi đó chạy nhanh qua tâm trí Jack khi nhìn Roman cắt bỏ não và để nó vào khay thép.

      - ấy gần bị nổ não. - Roman nhận định.

      ngạc nhiên khi Jill bị mù. ngạc nhiên khi thể hạ phanh hạ cánh xuống được. bị vô thức, não bị ép lại như kem đánh răng khỏi hộp sọ.

      Thi thể của Jill. - những gì còn lại. - được đưa vào túi đựng xác mới và đưa khỏi phòng cùng các đồ chứa chất nguy hiểm sinh học có các cơ quan nội tạng của .

      Thi thể thứ hai được đưa vào. Đó là Andy Mercer.

      đôi găng tay mới được đeo chồng lên đôi găng tay trong bộ quần áo vũ trụ và với con dao mổ mới, Roman bắt đầu tạo vết mổ chữ Y. ta làm việc nhanh hơn như thể Jill Hewitt là bước khởi động và giờ ta mới gặp đúng đối tượng.

      Mercer kêu là bị đau bụng và nôn mửa, Jack nhớ lại điều đó khi nhìn đao mổ của Roman rạch qua da và lớp mỡ dưới da. Mercer kêu bị đau đầu như Jill nhưng bị sốt cao và ho ít máu. Phổi của có biểu của vi rút Marburg ?

      lần nữa, vết cắt thăm dò của Roman lại cắt nhau ở dưới ức, ta rạch đường sâu dưới bụng, đến xương mu. ta lại cắt qua sườn, cắt bỏ phần xương hình tam giác bao phủ tim. ta nâng xương ức lên.

      ta há hốc miệng, lẩy bẩy lùi lại và làm rơi dao mổ. Thứ đó vụt bàn mổ. Các trợ tá của ta đứng nhìn kinh hãi.

      Trong lồng ngực của Mercer có đống u màu xanh dương pha xanh lá cây, giống khối u trong đầu Jill Hewitt. Chúng tạo thành đám quanh tim của như những quả trứng li ti trong suốt.

      Roman đứng bất động, mắt nhìn chằm chằm vào cái xác bị phanh rộng. Rồi ta nhìn sang đống dịch nhầy có màng bao quanh. Nó căng phồng lên, đầy máu và phồng lên qua vết mổ ở bụng.

      Roman lại gần cái xác, nhìn lớp màng bụng phình lên. Khi ta cắt qua thành bụng, dao mổ của ta khía vào mặt lớp màng đó. dòng chất dịch dính máu rỉ . Đầu tiên nó chỉ là vài giọt. Rồi sau đó, khi họ quan sát nó chảy ra như suối. Vết rạch đột ngột vỡ qua đường mổ thành vết rất to và máu xối , mang theo các khối nhầy màu xanh dương và xanh lá cây dính máu.

      Roman hét lên kinh hãi khi các khối đó phụt lên sàn, máu và nước nhầy bắn .

      trong số họ bị trượt chân bê tông và ngã vào đôi ủng cao su của Jack. cúi xuống, định chạm vào nó qua găng tay bảo vệ. nhanh chóng nhảy về phía sau khi các phụ tá của Roman lôi tránh xa cái bàn.

      - Đưa ta khỏi đây! - Roman lệnh. - Đưa ta khỏi phòng mau!

      Hai người đẩy Jack về phía cửa. chống lại, hất những bàn tay đeo găng túm lấy vai . Người đàn ông bị ngã về phía sau, đè lên khay dụng cụ phẫu thuật và bò sàn, trượt đống chất nhầy và máu.

      Người đàn ông thứ hai túm lấy ống thở của Jack ở chỗ nối và giữ chặt đầu nối.

      - Tôi khuyên nên cùng chúng tôi, bác sĩ McCallum. - ta . - Trong khi vẫn còn khí để thở.

      - Bộ quần áo của tôi, lạy Chúa, nó bị rách! - người đàn ông ngã vào khay dụng cụ . Giờ ta mở mắt trừng trừng sợ hãi nhìn vết rách dài năm centimet cánh tay bộ quần áo vũ trụ. - cánh tay áo bị dính đầy chất nhờn từ máu của Mercer.

      - Nó ướt lắm. Tôi cảm thấy điều đó. Cánh tay áo trong của tôi cũng ướt rồi.

      - ! - Roman gầm lên. - ngay bây giờ!

      Người đàn ông đó cởi bộ quần áo vũ trụ và sợ hãi chạy ra khỏi phòng. Jack chạy theo ta đến cánh cửa khóa khí. Cả hai người đều chạy qua cánh cửa vào phòng tắm tiệt trùng. Nước phun từ các vòi nước đầu xối như mưa vai họ. Rồi sau đó đến nước tẩy uế, dòng nước màu xanh lá cây đập ầm ầm vào mũ bảo vệ bằng nhựa của họ.

      Cuối cùng khi nước ngừng chảy, họ bước qua cánh cửa tiếp theo và cởi bộ quần áo vũ trụ. Người đàn ông ngay lập tức tháo bộ quần áo ướt và đập cánh tay dưới cho nước chảy hết để giũ sạch bất cứ chất lỏng nào thấm vào qua cánh tay áo.

      - bị sứt da chỗ nào ? - Jack hỏi. - Các vết cắt hay xước móng có ?

      - Tối qua tôi bị con mèo của con tôi cào.

      Jack nhìn xuống cánh tay ta và thấy các vết cào, ba vết xước cắm sâu vào cánh tay. Đó cũng chính là cánh tay bị rách áo vũ trụ. nhìn vào mắt ta và thấy sợ hãi.

      - Giờ chuyện gì xảy ? - Jack lo lắng.

      - Cách ly. Tôi bị khóa lại. Tệ .

      - Tôi biết đó phải là vi rút Marburg. - Jack .

      Người đàn ông thở dài.

      - Đúng vậy.

      - Vậy nó là gì? Hãy cho tôi biết chúng ta đối mặt với cái gì?

      ta bám cả hai tay vào bồn nước, nhìn nước chảy xuống lỗ thông. ta lẩm bẩm.

      - Tôi biết.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 17

      MƯỜI BẢY
      Sullivan Obie lái chiếc xe Harley của sao Hỏa. Vào nửa đêm, mặt trăng tròn chiếu sáng vùng đất hoang lỗ chỗ trải rộng trước mặt . có thể tưởng tượng gió sao Hỏa thổi bay tóc , bụi sao Hỏa đỏ rực cuộn vào bánh xe của . Đây là thế giới kì ảo từ thời thơ ấu, từ ngày hai em Obie thông minh hơn người bắt đầu tự chế tạo tên lửa và xây dựng các bệ phóng lên mặt trăng bằng giấy bìa và làm bộ quần áo vũ trụ bằng giấy bạc nhăn. Từ những ngày đó và Gordie biết và chỉ biết rằng tương lai của họ là ở cao.

      Và đây là nơi những giấc mơ đó kết thúc, nghĩ. Say rượu tê-ki-la, lăn mất bánh xe sa mạc. thể nào lên sao Hỏa hay mặt trăng. Cũng thể có khả năng rời khỏi bệ phóng chết tiệt liên tục phụt lửa. Đây là cái chết nhanh chóng. Tệ ! Thậm chí nó còn tệ hơn so với việc chết ở tuổi mười lăm vì bệnh ung thư.

      phanh gấp và dừng lại, xe cuộn lên đám bụi lớn. nhìn những dải cát lấp lánh gần con tàu Apogee II lấp lánh như thỏi bạc và mũi nhìn hình chóp của nó hướng lên các vì sao. Hôm qua họ đưa con tàu đến khu bệ phóng. Đó là quá trình chậm chạp và đáng nhớ, hàng chục nhân viên của Apogee huýt còi và đập vào mui xe của họ khi họ theo xe tải có toa phẳng qua sa mạc. Cuối cùng khi con tàu được đưa vào vị trí, mọi người nheo mắt vì ánh nắng và nhìn nó, họ đột nhiên im lặng hoàn toàn. Tất cả bọn họ đều biết đây là vòng lăn cuối cùng của viên xúc xắc. Trong ba tuần kể từ khi tàu Apogee II cất cánh, nó đem theo tất cả những hi vọng và giấc mơ của họ.

      Và cả thi thể của con trai tôi nữa, Sullivan .

      cơn ớn lạnh chạy dọc cơ thể khi nhận ra có thể nhìn vào chính quan tài của mình.

      rồ máy xe Harley và quay trở lại con đường, nảy lên các đụn cát và nhảy qua các rãnh nước. phóng rất ẩu, cẩu thả của còn cộng thêm hơi rượu tê-ki-la và cộng thêm ý nghĩ chắc chắn đột ngột và rất kiên định rằng là người chết rồi. tin là trong ba tuần lái tên lửa đó vào thế giới bị lãng quên. Cho đến khi đó, gì có thể chạm vào , ai có thể khiến đau đớn.

      đảm bảo về cái chết khiến thành người vô hình.

      tăng tốc, bay qua mặt trăng khắc nghiệt của giấc mơ thời thơ ấu. Giờ mình ở đây trong con tàu mặt trăng, tăng tốc qua cùng biển yên tĩnh, phóng lên đồi mặt trăng và hạ cánh êm ái xuống…

      cảm thấy mặt đất biến mất. thấy mình bay lơ lửng suốt đêm và chiếc xe Harley gầm giữa hai đầu gối , mặt trăng chiếu thẳng vào mắt . vẫn lao vút lên . Xa mức nào? Và cao mức nào đây?

      va chạm mặt đất mạnh đến nỗi mất điều khiển và lộn sang bên, chiếc xe Harley đè lên người . hoảng hồn nằm lúc rồi bị mắc kẹt giữa chiếc xe và các tảng đá cứng. Ồ, đây là điểm rơi ngu xuẩn, nghĩ.

      Rồi thấy đau. Cơn đau sâu và co thắt khiến cảm thấy như thể hai bên sườn của mình bị đập vỡ thành nhiều mảnh.

      hét lên và ngã xuống, mặt hướng lên trời. Mặt trăng chiếu xuống, giễu cợt .

      - Khung xương chậu của ấy bị gãy ở ba chỗ. - Bridget . - Các bác sĩ nối nó lại đêm qua. Họ với tôi ấy bị nằm bẹp giường trong sáu tuần tới.

      Casper Mulholland gần như nghe thấy tiếng giấc mơ của nhảy múa, nó to như tiếng quả bóng bay vỡ.

      - Sáu… tuần à?

      - Và sau đó ấy phải vào phòng hồi phục chức năng trong vòng ba đến bốn tháng.

      - Bốn tháng à?

      - Lạy chúa, Casper. Hãy điều gì mới chứ?

      - Chúng ta toi rồi. - vỗ tay lên trán như thể tự trừng phạt mình dám mơ mộng họ có thể thành công. Đó lại là lời nguyền cũ của Apogee, nó cắt họ khỏi đường đua khi họ sắp cán đích. Nó thổi bay các tên lửa của họ, thiêu rụi văn phòng đầu tiên của họ. Và giờ nó cướp mất phi công duy nhất của họ khỏi nhiệm vụ bay. lại trong phòng chờ và suy nghĩ. Chẳng có chuyện gì tốt đẹp đến với chúng ta cả. Họ đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm chung, danh tiếng và mười ba năm qua. Đây là cách riêng của Chúa bảo họ phải từ bỏ và chấm dứt các thiệt hại của họ trước khi chuyện xấu thực sựxảy ra.

      - ấy say rượu. - Bridget .

      Casper dừng lại nhìn . đứng đó khoanh tay buồn bã, mái tóc đỏ của như vầng hào quang lửa của thiên thần Báo thù.

      - Các bác sĩ cho tôi biết. - . - Lượng cồn trong máu là phẩy chín độ, chua như cá trích vậy. Đây phải là xui xẻo chúng ta thường gặp. Đây là do Sully thân mến của chúng ta lại làm loạn. Điều an ủi duy nhất với tôi là trong vòng sáu tuần tới ra bị nhét cái ống to vào chỗ vệ sinh.

      Casper gì và ra khỏi phòng chờ dành cho khách đến thăm. về phía đại sảnh, đẩy cửa bước vào phòng của Sullivan.

      - khờ quá! - .

      Sully ngước lên nhìn với cặp mắt vẫn có vẻ ngấm mooc-phin.

      - Cảm ơn thông cảm cho tôi.

      - Dù sao đáng bị như vậy. Chỉ còn ba tuần nữa là phóng tàu và lại lôi cái xe chết tiệt ra sa mạc à? Tại sao làm xong mọi việc ? Tại sao tỉnh táo trong khi làm việc? Khốn nạn, chúng ta đáng lẽ phải biết khác biệt!

      Sully nhắm mắt.

      - Tôi xin lỗi.

      - Lúc nào cũng vậy.

      - Tôi làm hỏng mọi việc. Tôi biết…

      - hứa với họ điều hành chuyến bay. Đó phải là ý kiến của tôi, mà là của . Lần cuối cùng các nhà đầu tư có hứng thú với chúng ta là khi nào? Lần này đáng lẽ tạo ra khác biệt. Nếu mở các nút chai…

      - Tôi sợ.

      Sully khẽ đến nỗi Casper chắc nghe đúng .

      - Gì cơ? - hỏi.

      - Về lần phóng tàu. Tôi có… cảm giác tồi tệ.

      cảm giác tồi tệ. Casper chầm chậm ngồi xuống cạnh giường. Tất cả bực bội của đột nhiên tan biến. sợ hãi phải là điều người sẵn sàng thú nhận. là Sullivan, người thường xuyên đối diện với hỏng hóc, lại thú nhận là sợ hãi. Và điều đó khiến Casper run rẩy.

      Cuối cùng, Sully .

      - Các cần tôi để phóng tàu nữa.

      - Họ mong nhìn thấy phi công ngồi trong buồng lái đó.

      - hãy đặt con khỉ chết tiệt vào chỗ ngồi của tôi và họ biết khác biệt. Con tàu cần phi công, thưa thuyền trưởng. có thể kết nối để truyền lệnh lên từ mặt đất.

      Casper thở dài. Giờ họ còn lựa chọn nào khác, đó là chuyến bay người lái. ràng họ có lý do chính đáng để đưa Sully lên, nhưng các nhà đầu tư có đồng ý ? Hay thay vào đó họ tin là tàu Apogee đứt dây thần kinh? Và nó đủ tự tin để liều mạng người?

      - Tôi nghĩ tôi mất trí rồi.
      - Sully khẽ. - Đêm qua tôi uống rượu. Tôi thể dừng…

      Casper hiểu nỗi sợ của bạn . - theo cách hiểu thất bại có thể dẫn đến thất bại chắc chắn khác và rồi cái khác nữa cho đến khi chỉ còn điều chắc chắn là mạng sống của người bị cướp mất. ngạc nhiên khi Sully sợ hãi, ấy mất niềm tin vào giấc mơ của mình và vào tàu Apogee.

      Có thể tất cả bọn họ cũng vậy.

      Casper .

      - Chúng ta vẫn có thể tiến hành phóng tàu lần này, thậm chí là có con khỉ nào trong buồng lái.

      - Đúng vậy. có thể đưa Bridget lên thay thế.

      - Vậy ai trả lời điện thoại?

      - Con khỉ.

      Cả hai đều cười. Họ như hai người lính già cười bờ vực thất bại.

      - Vậy chúng ta làm chứ? - Sully hỏi. - Chúng ta phóng tàu chứ?

      - Đó là tất cả lý do của việc chế tạo tên lửa.

      - Đúng vậy. - Sully thở dài và bóng ma đa cảm lại trở về với . - Hãy làm tốt! Hãy bật hết đèn nhấp nháy. bà mẹ với bữa tiệc sâm banh.

      - Tệ ! Hãy mời ông trai thánh thần của tôi và các bạn ở NASA của ấy. Nếu con tàu nổ tung bệ phóng ít ra chúng ta cũng làm được việc hợp phong cách.

      - Đúng vậy. Chúng ta quá thừa phong cách rồi.

      Họ cười lớn.

      Casper đứng dậy bỏ .

      - Mau khỏe nhé, Sully! - với theo. - Chúng tôi cần cho nhiệm vụ tàu Apogee II.

      thấy Bridget vẫn đứng trong phòng chờ dành cho khách đến thăm.

      - Giờ sao? - hỏi.

      - Chúng ta phóng tàu như kế hoạch.

      - có người lái ư?

      gật đầu.

      - Chúng ta lái tàu từ phòng điều hành.

      ngạc nhiên khi thở phào nhõm.

      - Tạ ơn Chúa!

      - vui vì điều gì vậy? chàng của chúng ta nằm bẹp giường bệnh đấy.

      - Đúng thế. - vắt ví lên vai, quay . - Điều đó nghĩa là ấy leo lên thứ chết tiệt đó.

      Ngày 11 tháng 8

      Nicolai Rudenko lơ lửng trong khoang chặn khí và xem Luther lắc hông cho vừa vào phần dưới của bộ quần áo bộ trong gian. So với Nicolai bé, Luther là gã khổng lồ với đôi vai rộng và chân như hai pít-tông. Và nước da của ! Trong khi Nicolai nhợt nhạt sau nhiều tháng Trạm vũ trụ quốc tế Luther vẫn có nước da nâu đậm, nó tương phản đáng ngạc nhiên với những khuôn mặt tái nhợt vì sống trong môi trường có màu sắc. Nicolai mặc xong quần áo và bay đến gần Luther, sẵn sàng giúp bạn mình mặc xong bộ quần áo để bước ra ngoài gian. Họ chuyện rất ít, ai có tâm trạng chuyện phiếm lúc này.

      Hai người đàn ông đó chuyện gì với nhau khi ngủ trong khoang chặn khí để cơ thể họ thích nghi với áp lực khí thấp hơn mức mười phẩy hai pao in-sơ. - chỉ bằng hai phần ba áp suất trong tàu vũ trụ. Áp suất trong bộ quần áo của họ thậm chí còn thấp hơn, ở mức bốn phẩy ba. Những bộ quần áo thể được bơm phồng hơn được, nếu chân tay rất cứng và lóng ngóng, các khớp nối kém linh động. Việc di chuyển trực tiếp từ tàu gian được nén đầy áp suất sang môi trường bên ngoài khí loãng hơn trong bộ quần áo bộ ngoài vũ trụ, giống hệt việc lao lên quá nhanh từ đáy biển. Phi hành gia có thể chịu đựng được bệnh ép khí. Các bóng khí ni-tơ hình thành trong máu, làm tắc nghẽn các mao dẫn và cắt đứt nguồn ô-xi quý giá truyền lên não và dây cột sống. Hậu quả rất khủng khiếp: bị bại liệt và sốc. Như các thợ lăn sâu dưới biển, các phi hành gia cần thêm thời gian để thích nghi với thay đổi áp suất. Đêm trước khi bước ra ngoài gian, nhóm mặc quần áo ra ngoài vũ trụ phải làm sạch phổi bằng trăm phần trăm khí ô-xi và nhốt mình vào phòng chặn khí để “ cắm trại bên ngoài”. Trong nhiều giờ, họ bị nhốt trong căn phòng chất đầy thiết bị. Đó phải là nơi cho căn bệnh sợ giam giữ.

      Tay vươn lên , Luther cố nhét tay vào phần bộ quần áo được treo tường trong phòng khóa khí. Đó là vũ điệu rất mệt mỏi như thể luồn lách vào đường hầm thể vào được. Cuối cùng, đầu thò ra khỏi chỗ chui đầu và Nicolai giúp đóng đai ở phần eo, gắn chặt hai phần của bộ quần áo.

      Họ đội mũ bảo hiểm lên. Khi Nicolai nhìn xuống để đội mũ bảo hiểm, để ý thấy thứ gì đó lấp lánh ở mép vòng cổ bộ quần áo của mình. Chỉ là giọt nước, nghĩ rồi đóng khóa lại. Họ đeo găng tay. Khi mặc xong bộ quần áo, họ mở cánh cửa khóa phòng thiết bị và bay vào phòng bên cạnh, đóng cánh cửa phía sau lại. Giờ họ ở trong khoang thậm chí còn hơn và hầu như đủ để chứa hai người cùng gói đồ lưng rất to của họ.

      Tiếp theo là ba mươi phút “trước khi thở”. Trong khi được hít khí ô-xi nguyên chất và đẩy hết khí ni-tơ ra khỏi máu, Nicolai nhắm mắt và lơ lửng, chuẩn bị tinh thần cho việc bộ ngoài vũ trụ sắp đến. Nếu họ thể lấy khớp các-đăng để mở khóa, nếu họ thể xoay lại các tấm năng lượng về phía mặt trời họ cạn năng lượng và bị tê liệt. Việc mà Nicolai và Luther sắp thực trong vòng sáu giờ tới quyết định sống còn đến số phận của Trạm vũ trụ.

      Mặc dù nhiệm vụ đè nặng lên đôi vai rã rời nhưng Nicolai rất nóng lòng muốn mở cánh cửa và bay ra khỏi phòng khóa khí. Mặc bộ quần áo ngoài vũ trụ như thể được tái sinh, bào thai xuất từ cánh cửa và chật chội, đường dây rốn kéo dài khi họ bơi ra ngoài gian mênh mông. Nếu tình hình quá ảm đạm, mong đợi điều đó, khao khát tự do được bay ra ngoài vũ trụ có những bức tường và trái đất kỳ diệu màu xanh dương xoay bên dưới .

      Nhưng khi nhắm mắt chờ ba mươi phút nữa trôi qua, những hình ảnh xuất trong tâm trí phải là các hình ảnh về việc trong vũ trụ. Thay vào đó, những gì nhìn thấy là khuôn mặt của những người chết. tưởng tượng ra tàu Discovery khi nó lộn trong trung. thấy cả phi hành đoàn bị buộc chặt trong ghế của họ, cơ thể họ bị lắc như những con búp bê, xương cột sống bị gãy gập, tim nổ tung. Mặc dù phòng điều hành bay cho họ biết chi tiết của thảm họa nhưng các hình ảnh ác mộng đầy trong đầu , nó khiến tim đập mạnh và miệng khô rát.

      - Ba mươi phút cho các bạn hết. - Emma qua điện đàm. - đến lúc hạ áp.

      Tay nhớp mồ hôi, Nicolai mở mắt và thấy Luther bắt đầu bơm giảm áp suất. khí bị hút ra ngoài, áp suất trong phòng hạ đột ngột. Nếu có chỗ rách bộ quần áo của họ họ phát ra.

      - Được chứ? - Luther kiểm tra khóa đóng dây nối vào bụng của họ.

      - Tôi sẵn sàng!

      Luther mở khóa phòng thông ra vũ trụ rồi thả tay cầm và mở cánh cửa.

      Luồng khí cuối cùng thoát ra.

      Họ dừng lại lúc, bám chặt lấy mặt của cánh cửa và kinh ngạc nhìn ra ngoài. Rồi Nicolai bay vào màn đêm mênh mông của vũ trụ.

      - Giờ họ ra ngoài. - Emma và nhìn màn hình khép kín khi hai người đàn ông ra khỏi phòng khóa khí, dây buộc bụng lơ lửng ngay sau họ. Họ tháo các dụng cụ khỏi hộp chứa bên ngoài phòng khóa khí. Sau đó họ di chuyển từ tay cầm này sang tay cầm khác và di chuyển về phía mái dàn chính. Khi họ qua máy quay được đặt ngay dưới giàn chính, Luther vẫy tay.

      - Các bạn có xem màn trình diễn ? - hệ thống sóng đài UHF.

      - Chúng tôi thấy các bạn rất ở máy quay phụ. - Griggs . - Nhưng các máy quay bộ quần áo của các bạn truyền về.

      - Của Nicolai cũng vậy à?

      - cái nào cả. Chúng tôi cố tìm cố.

      - Được, chúng tôi tới giàn chính để kiểm tra thiệt hại.

      Hai người ra khỏi phạm vi máy quay đầu tiên. Họ biến mất khỏi màn hình lúc. Rồi Griggs .

      - Họ kia rồi! - chỉ lên màn hình mới, trong đó hai người đàn ông về phía máy quay số hai, họ nắm tay nhau đến đỉnh giàn chính. Họ lại ra khỏi phạm vi máy quay. Giờ họ vào khu vực mù, tức là máy quay bị hỏng và ai nhìn thấy họ nữa.

      - Sắp đến chưa, các bạn? - Emma hỏi.

      - Sắp đến rồi. - Luther . Có vẻ bị hết hơi. Chậm lại, nghĩ. Hãy giữ đúng tốc độ.

      Đó dường như là thời gian chờ đợi vô tận, đội ra ngoài gian hoàn toàn im lặng, Emma thấy mạch đập nhanh hơn, lo lắng tăng lên. Trạm bị tê liệt và thiếu năng lượng. Các việc sửa chữa này được phép sai sót. Giá như Jack có ở đây, nghĩ. thợ hàn tài năng và có thể tái tạo lại bất cứ máy móc nào tàu hay tập hợp lại các sóng đài ngắn từ các mẩu thừa. Khi bay quanh quỹ đạo, các công cụ đáng quý nhất là đôi bàn tay khéo léo.

      - Luther! - Griggs gọi.

      ai trả lời.

      - Nicolai! Luther! Hãy trả lời!

      - Tệ ! - Luther .

      - Có chuyện gì! thấy gì? - Griggs hỏi dồn.

      - Ngay lúc này tôi nhìn thấy chỗ hỏng. Toàn bộ mảng số sáu của giàn chính bị méo. Tàu Discovery chắc chắn va vào tấm số hai và bẻ cong phẩn cuối bên phải. Sau đó nó văng ra và làm gẫy các ăng ten ở dải băng S.

      - nghĩ sao? sửa được chứ?

      - Dải băng S thành vấn đề. Chúng ta có bộ phận thay thế dùng quỹ đạo cho các ăng ten nên chúng ta thay thế chúng. Nhưng các tấm mặt trời ở bên trái phải bỏ . Chúng ta cần giàn mới ở phần cuối.

      - Được rồi. - Griggs xoa mặt khó chịu. - Được rồi, vậy chắc chắn chúng ta mất máy ảo chạy đồng hành. Tôi nghĩ chúng ta có thể xử lý việc đó. Nhưng chúng ta cần chỉnh lại giàn P-4, nếu chúng ta gặp rắc rối to.

      Họ dừng lại khi Luther và Nicolai về cuối tấm bảng năng lượng chính. Rồi họ đột ngột xuất màn hình, Emma thấy họ di chuyển chậm trong bộ quần áo phồng to và ba lô rất nặng. Trông họ như những thợ lặn dưới nước. Họ dừng lại ở dàn P-4. người sang bên dàn chính và xem kỹ cơ chế gắn các tấm mặt trời khổng lồ vào khung chính của giàn mặt trời.

      - Các khớp các-đăng bị bẻ cong hàng loạt. - Nicolai . - Nó xoay được.

      - tháo nó ra được ? - Griggs .

      Họ nghe thấy Luther và Nicolai trao đổi gì đó rất nhanh. Rồi Luther .

      - muốn việc sửa chữa này cẩn thận mức nào?

      - Bằng bất cứ giá nào. Chúng ta cần năng lượng gấp, nếu chúng ta rắc rối to đấy các bạn.

      - Tôi nghĩ chúng ta có thể thử phương án tiếp cận phần thân.

      Emma nhìn Griggs.

      - Đó có đúng là điều tôi nghĩ ?

      Luther trả lời.

      - Chúng ta dùng búa đập cho phần này về hình dạng cũ.

      ấy còn sống.

      Qua ô cửa, bác sĩ Isaac Roman quan sát người đồng nghiệp may của mình. vẫn ngồi giường bệnh xem ti-vi. khó tin đó là ấy xem phim hoạt hình kênh Nickelodeon. chăm chú nhìn màn hình cách vô vọng. còn thèm nhìn y tá mặc đồ vũ trụ vào phòng để thay khăn ăn trưa mà chưa động đến.

      Roman ấn nút điện đàm.

      - Hôm nay thế nào, Nathan?

      Bác sĩ Nathan Helsinger ngạc nhiên quay về phía ô cửa. Lần đầu tiên để ý thấy bác sĩ Roman đứng bên kia ô cửa.

      - Tôi ổn. Tôi thấy hoàn toàn khỏe mạnh.

      - có bất cứ biểu gì sao?

      - Tôi với rồi. Tôi ổn!

      Roman nhìn lúc. Trông ấy vẫn khỏe nhưng mặt tái xanh và căng thẳng, thậm chí có vẻ sợ hãi.

      - Khi nào tôi bị cách ly nữa? - Helsinger hỏi.

      - Mới được ba mươi sáu tiếng.

      - Các phi hành gia có biểu chỉ trong mười tám tiếng.

      - Đó là trong môi trường trọng lực siêu . Chúng ta biết có chuyện gì khi ở đây và chúng ta thể bất cẩn. biết điều đó mà.

      Helsinger lập tức lại quay về phía ti-vi, nhưng trước đó Roman nhìn thấy khóc.

      - Hôm nay là sinh nhật con tôi.

      - Chúng tôi gửi món quà đề tên . Vợ được thông báo là thể về được và chuyến bay đến Kenya.

      Helsinger cười cay đắng.

      - buộc các nút thắt rất tài đúng ? Nếu tôi chết sao? gì với ấy?

      - Rằng việc đó xảy ra ở Kenya.

      - Tôi nghĩ đó là nơi tốt nhất. - thở dài. - Vậy đưa cho nó cái gì?

      - Con à? Tôi tin đó là búp bê Barbie.

      - Đó chính là thứ nó muốn. Sao biết?

      Điện thoại của Roman reo.

      - Tôi quay lại kiểm tra sau. - ta rồi quay về phía cửa trả lời điện thoại.

      - Bác sĩ Roman, Carlos đây. Chúng tôi có kết quả ADN. nên đến xem.

      - Tôi đến ngay.

      thấy bác sĩ Carlos Mixtal ngồi trước máy tính phòng thí nghiệm. Các dữ liệu liên tục chạy dọc màn hình.

      GTGATTAAAGTGGTTAAAGTTGCTCATGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGCTCTCT…

      Các dữ liệu chỉ có bốn chữ cái: G, T, A và C. Đó là chuỗi nucleotit. Mỗi chữ cái tượng trưng cho các đơn vị cấu tạo nên ADN, đó là sơ đồ của mỗi cơ thể sống.

      Carlos quay lại khi nghe thấy bước chân của Roman và khuôn mặt lộ vẻ sợ hãi. Giống hệt Helsinger, Roman nghĩ. Mọi người đều sợ hãi.

      Roman ngồi xuống cạnh .

      - Cái gì vậy? - hỏi và chỉ lên màn hình.

      - Nó được trích từ cơ thể tấn công Kenichi Hirai. Chúng tôi lấy nó từ những gì còn lại mà chúng tôi… cạo được từ các vách ngăn tàu Discovery.

      Những gì còn lại là từ rất phù hợp cho những gì còn sót lại của thi thể Hirai. Các búi cơ rối tung bắn tung tóe khắp các bức vách tàu.

      - Phần lớn các ADN vẫn chưa xác định được. Chúng tôi biết nó biểu loại động vật nào. Nhưng từ chuỗi màn hình có thể xác định được. Đó là mẫu gen của coenzim số F420.

      - Nó là cái gì vậy?

      - Đó là loại enzim đặc trưng từ thời cổ đại.

      Roman ngồi lui về phía sau và thấy hơi chóng mặt.

      - Vậy điều đó được khẳng định. - lẩm bẩm.

      - Đúng vậy. Cơ thể này chắc chắn thuộc loại vi khuẩn thời cổ đại. - Carlos dừng lại. - Tôi e là tôi có tin xấu.

      - gì? “tin xấu” à? Như vậy chưa đủ tồi tệ hay sao?

      Carlos gõ lên bàn phím và chuỗi nucleotit lên thành từng đoạn khác nhau.

      - Đây là chuỗi gen khác mà chúng tôi phát được. Đầu tiên tôi nghĩ có nhầm lẫn nào đó nhưng tôi xác định được điều đó.

      - Gì cơ?

      - Đúng vậy! Chúa mới biết làm cách nào nó lấy được gen của loài ếch đó. Giờ mới đến điểm khiến mọi chuyện thực đáng sợ. - Carlos cuộn xuống đoạn gen khác. - Đây là chuỗi gen khác được xác định.

      Roman thấy lạnh sống lưng.

      - Đó là mẫu gen gì?

      - Mẫu ADN này chỉ có ở giống Mus musculis. Đó là loại chuột phổ biến.

      Roman nhìn chằm chằm.

      - thể có chuyện đó!

      - Tôi xác minh điều đó. Dạng sống này bằng cách nào đó kết hợp mẫu ADN của động vật có vú vào mẫu gen của nó. Nó được bổ sung các khả năng enzim mới. Nó thay đổi và tiến hóa.

      Thành cái gì? Roman tự hỏi.

      - Còn nữa. - Carlos lại gõ bàn phím và chuỗi nucleotit mới lên màn hình.

      - Chuỗi này cũng xuất từ thời cổ đại.

      - Vậy nó là gì? phải là ADN của chuột à?

      - . Đoạn ADN này là của người.

      Roman thấy lạnh toàn thân và dựng tóc gáy. run rẩy nhấc điện thoại.

      - Hãy nối cho tôi số Nhà Trắng. - . - Tôi cần chuyện với ông Jared Profitt.

      Điện thoại của được trả lời ngay khi gọi lần hai.

      - Profitt đây.

      - Chúng tôi phân tích mẫu ADN. - Roman .

      - Và?

      - Tình hình còn tệ hơn chúng ta nghĩ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :