Chương 05 NĂM Ngày 16 tháng 7 Chúng ta có cách nào liên lạc với nhau. Jack nhìn theo vệt khói vạch nền trời. Nỗi sợ ăn sâu vào tâm trí . Ánh nắng gay gắt chiếu thẳng vào mặt nhưng thấy mồ hôi lạnh như băng. nhìn lên trời. Tàu con thoi đâu rồi? Chỉ vài giây trước đó, thấy nó vệt thành hình vòng cung bầu trời. cảm thấy sức rung của tàu khi nó cất cánh. Khi nó lao vút lên, thấy tim mình cũng bay lên theo con tàu, và lơ lửng cùng tiếng gầm của động cơ. nhìn con tàu bay lên trời cho đến khi nó chỉ còn là chiếc đinh ghim lấp lánh trong nắng. thấy nó nữa. Cột khói trắng khổng lồ giờ chỉ còn là vệt khói đen. lùng sục tìm kiếm trời và chỉ thấy chuỗi những hình ảnh kỳ quái. Có quầng lửa trời, cái chạc bằng khói ma quái. Những mảnh vụn nổ tung lao ầm ầm xuống biển. Chúng ta có cách nào liên lạc với nhau. tỉnh giấc, thở dốc. Toàn thân đẫm mồ hôi. Bây giờ là ban ngày, ánh nắng chiếu qua cửa sổ phòng ngủ của . ngái ngủ, ngồi dậy ở mép giường, lấy tay ôm đầu. Đêm qua tắt điều hòa nên bây giờ căn phòng nóng như lò thiêu. nhoài người sang bên kia giường để gạt nút, rồi lại nằm vật ra giường và thở khoan khoái khi luồng khí lạnh bắt đầu tỏa ra từ điều hòa. cơn ác mộng cũ. xoa mặt, cố quên cơn ác mộng đó nhưng chúng hằn sâu vào tâm trí . Khi còn là sinh viên năm thứ nhất thuyền Challenger bị nổ tung. Hôm đó, dọc hành lang ký túc xá đoạn phim đầu tiên về thảm họa đó được chiếu ti-vi. xem đoạn băng đáng sợ đó nhiều lần và nó ăn sâu vào tiềm thức . Ngày hôm sau, và nhiều ngày sau đó nữa, cảm thấy nó đến mức như thể chính đứng khán đài ở Mũi Canaveral sáng hôm đó. Giờ ký ức đó lại trở về trong những giấc mơ của . Đó là vụ phóng tàu của Emma. Trong nhà tắm, đứng cúi đầu dưới dòng nước mát lạnh, chờ cho những dư còn lại của giấc mơ trôi hết. Bắt đầu từ tuần tới được nghỉ ba tuần nhưng mong được nghỉ từ lâu. Nhiều tháng rồi được du thuyền. Có lẽ vài tuần lênh đênh biển, tránh xa ánh đèn thành phố là phương pháp điều trị tốt nhất. Chỉ có , biển cả và những vì sao. lâu lắm rồi thực ngắm sao. Dạo này hình như tránh nhìn chúng nữa. Khi còn , ánh mắt luôn hướng lên trời. Có lần mẹ kể rằng khi mới biết , đêm đứng bãi cỏ, giơ cả hai tay lên, cố với đến mặt trăng. Rồi khi nhận ra chạm đến nó được, hét lên giận dữ. Mặt trăng, những vì sao, màu đen của vũ trụ. - giờ tất cả vượt khỏi tầm tay . Giờ lại cảm thấy như cậu bé ngày nào, muốn hét lên giận dữ. Chân chôn chặt dưới đất mà hai tay vẫn cố vươn lên trời cao. khóa vòi hoa sen, hai tay tì vào những viên gạch ốp tường. Đầu cúi xuống, nước chảy ròng ròng từ tóc . Hôm nay là ngày 16 tháng 7, nghĩ. Tám ngày nữa Emma lên đường. thấy nước lạnh ngấm vào da thịt. Mười phút sau mặc xong quần áo và ra xe. Hôm đó là thứ ba, Emma và phi hành đoàn gấp rút chuẩn bị cho bài huấn luyện phối hợp trong ba ngày. rất mệt mỏi và chẳng còn tâm trí nào chuyện với . Ngày mai đến mũi Canaveral. Ngày mai thể gặp được nữa. Tại Trung tâm vũ trụ Johnson, đỗ xe ở khu bãi đỗ của tòa nhà số 30. đưa huy hiệu NASA của mình vào cánh cửa an ninh và thẳng đến phòng điều hành. Bên trong, thấy khí rất căng thẳng và gấp gáp. Cuộc diễn tập phối hợp trong ba ngày tới là bài kiểm tra cuối cùng cho các phi hành gia cũng như cho đội điều khiển dưới đất. Nó tái chuỗi các rắc rối từ khi phóng tàu đến khi hạ cánh. Các trục trặc được phân loại được đưa ra khiến tất cả mọi người nháo nhào. Ba ca điều khiển thay phiên nhau trong phòng trong vòng ba ngày qua. Hai mươi người đàn ông và phụ nữ ngồi ở các bảng điều khiển bây giờ trông đều rã rời. Thùng rác ứ lên và chất đầy vỏ cốc cà phê và lon Pepsi. Vài điều khiển viên ngẩng lên chào Jack nhưng nhiều người khác có thời gian chào hỏi. Họ phải xử lý cố nguy cấp. Tất cả mọi người đều tập trung vào vấn đề. Sau nhiều tháng, đây là lần đầu tiên Jack đến phòng điều hành trung tâm. Nhưng ngay lập tức thấy hưng phấn ngày xưa. Dường như nó lan ra khắp căn phòng khi họ thực công việc. đến dãy bảng điều khiển số ba, gần Giám đốc điều khiển chuyến bay Randy Carpenter. Lúc này ông quá bận nên thể chuyện với . Carpenter là vị linh mục tối cao của các giám đốc điều hành bay chương trình tàu con thoi. Ông nặng trăm ba mươi lăm cân và diện của ông rất rệt trong phòng điều hành. Chiếc bụng phệ của ông sau đai quần. Hai chân dạng ra như viên thuyền trưởng biển cố đứng vững trong phòng điều khiển. Trong phòng này, Carpenter là người quản lý mọi việc. Ông như muốn “Tôi là ví dụ điển hình cho thấy bé bự đeo kính có thể bắt nhịp với sống như thế nào”. Ông giống giám đốc điều hành bay huyền thoại Gene Kranz. Câu “Thất bại phải là lựa chọn của tôi” của ông khiến ông nổi tiếng trong NASA. Ông được bảnh trai lắm nên thể trở thành người hùng trong bất cứ kiện nào. Khi nghe cuộc đối thoại điện đàm, Jack nhanh chóng xâu chuỗi và hiểu ngay Carpenter giải quyết việc gì. Jack gặp rắc rối tương tự trong tình huống phối hợp cách đây hai năm. Khi đó vẫn làm việc trong đội phi hành gia và chuẩn bị cho chuyến bay số STS 45. Phi hành đoàn tàu con thoi thông báo áp suất trong buồng lái giảm mạnh, chứng tỏ khí bị rò rỉ. Họ đủ thời gian tìm ra chỗ rò, họ phải rời khỏi quỹ đạo khẩn cấp. Nhân viên điều khiển động lực học ngồi ở dãy bảng điều khiển đầu tiên tên là Trench. khẩn trương vạch ra đường cho tàu để xác định điểm hạ cánh an toàn nhất. ai coi đây là trò chơi, họ hiểu trục trặc này có và mạng sống của bảy người gặp nguy hiểm. - Áp suất phòng lái giảm xuống mười ba phẩy bảy at-mốt-phe. - nhân viên điều khiển môi trường thông báo. - Căn cứ quân Edwards. - nhân viên điều khiển động lực học thông báo. - Họ hạ cánh ở độ cao gần ba trăm kilômét. - Nếu theo đà này áp suất buồng lái tiếp tục giảm xuống còn bảy at-mốt-phe. - nhân viên điều khiển môi trường . - Tôi nghĩ họ nên đội mũ bảo vệ ngay, trước khi bắt đầu vào phòng điều áp. Chỉ huy liên lạc nhắc lại lời khuyên đó với phi hành đoàn. - . - chỉ huy Vance trả lời. - Chúng tôi đội mũ bảo hiểm. Chúng tôi chuẩn bị đốt nhiên liệu để tách khỏi quỹ đạo. Dù muốn nhưng Jack bị cuốn vào cuộc chơi gấp rút này. Mỗi giây trôi qua và nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt. đó có đường của tàu con thoi bản đồ thế giới. Dù biết mỗi rắc rối đều do đội tái môi trường nhân tạo gây ra nhưng bài tập khắc nghiệt này hoàn toàn lôi cuốn . Hầu như nhận thấy cơ bắp mình co lại khi quan sát các dữ liệu thay đổi màn hình. Áp suất buồng lái giảm xuống mức bảy at-mốt-phe. Họ mất sóng điện đài. Tất cả im lặng trong mười hai phút dài dằng dặc sau đó. ma sát giữa tàu và khí xung quanh cắt đứt toàn bộ liên lạc. - Atlantis, các bạn nghe ? - chỉ huy liên lạc . Giọng của chỉ huy Vance đột nhiên xuất . - Chúng tôi nghe thấy các bạn rất , Houston. lúc sau, việc hạ cánh diễn ra cách hoàn hảo. Trò chơi hết. Mọi người vỗ tay trong phòng điều hành bay. - Được rồi, các bạn! Làm tốt lắm! - giám đốc điều hành bay Carpenter khen. - Các bạn bị thẩm vấn mười lăm phút. Hãy nghỉ tay ăn trưa! - ông cười, tháo tai nghe và lúc này mới quay sang nhìn Jack. - Này, lâu lắm rồi mới thấy đến đây. - Tôi đông bệnh nhân quá. - Kiếm tiền khá chứ hả? Jack cười. - Đúng vậy. thử xem tôi biết làm gì với số tiền kiếm được? - nhìn các điều khiển viên giờ thư giãn ở chỗ ngồi của họ, uống sô-đa và đồ ăn trưa đựng trong túi giấy. - Cuộc diễn tập ổn chứ? - Tôi rất hài lòng. Chúng tôi vượt qua mọi khó khăn. - Còn phi hành đoàn sao? - Họ sẵn sàng. - Carpenter nhìn thông cảm. - Cả Emma nữa. ấy ở trong thời kỳ ổn định nhất, Jack ạ, đừng khiến ấy dao động. Lúc này ấy cần tập trung. - Đây chỉ là lời khuyên của người bạn, mà là lời cảnh cáo: Hãy tự lo những vấn đề cá nhân của riêng . Đừng mang bài giảng đạo đức ra làm phiền phi hành đoàn của tôi! Jack bị khuất phục, thậm chí thấy hối hận khi đứng bên ngoài, vã mồ hôi chờ Emma ra khỏi tòa nhà số 5. Đó là khu nhà thực các cuộc diễn tập. bước ra cùng những người khác trong phi hành đoàn. ràng họ vừa chuyện tếu cho nhau nghe vì tất cả đều cười. Nhưng khi thấy Jack, nụ cười của phụt tắt. - Em biết đến. - . nhún vai, ngượng ngùng . - cũng nghĩ là mình đến. - Nghỉ mười phút. - Vance giao hẹn. - Tôi đến. - . - Các bạn trước ! - chờ cả đội khuất, rồi quay lại nhìn Jack. - Em phải cùng họ. Nghe này, em biết lần phóng tàu này khiến mọi việc phức tạp. Nếu đến đây vì vụ giấy tờ li hôn em hứa ký ngay khi trở về. - đến phải vì chuyện đó. - Vậy có chuyện gì? dừng lại. - À… con Humphrey. Bác sĩ thú y của nó tên gì? Phòng khi nó nuốt búi tóc hay thứ gì đó. nhìn bối rối. - Vẫn bác sĩ cũ, bác sĩ Goldsmith. - Ừ, đúng rồi! Họ đứng im lặng lúc, nắng chiếu đầu họ. Lưng vã mồ hôi. Bỗng nhiên thấy quá bé và dễ bị tổn thương. Nhưng đây lại chính là người phụ nữ được nhảy lên tàu con thoi. có thể vượt khi đua ngựa, xoay vòng sàn nhảy. Đây là người vợ xinh đẹp và dũng cảm của . quay về phía tòa nhà số 30. Cả đội chờ ở đó. - Em phải , Jack ạ. - Mấy giờ em bắt đầu đến mũi Cape? - Sáu giờ sáng. - Cả nhà em bay đến khu bệ phóng chứ? - Tất nhiên. - dừng lại. - đến đó phải ? Ác mộng tàu Challenger vẫn còn in đậm trong tâm trí . vẫn nhớ làn khói đen đầy đe dọa trời. thể đến và xem cảnh tượng đó, nghĩ. thể chịu nổi nếu việc đó xảy ra. lắc đầu. lạnh lùng gật đầu chấp nhận câu trả lời đó của . nhìn như muốn : Em có thể sống tốt nếu có . chuẩn bị cất bước và quay . - Emma! - nắm tay , nhàng xoay về phía mình. - rất nhớ em. thở dài. - Chắc chắn rồi, Jack. - thực nhớ em. - Mấy tuần qua nhận được điện của . Và giờ nhớ em ư? - cười vẻ chua xót. thấy đau lòng khi giọng có vẻ mỉa mai và chân . Mấy tháng vừa rồi, tránh mặt . đau lòng khi ở chỗ nào đó gần , vì thành công của càng khiến những thất bại của thêm nặng nề. Chẳng còn hy vọng họ có thể giảng hòa được nữa, giờ có thể nhận thấy điều đó trong ánh mắt lạnh lùng của . Chẳng còn gì để hai người chuyện nghiêm túc nữa. quay . bỗng thấy mình thể nhìn thẳng vào mắt . - chỉ đến đây chúc em có chuyến bình an và tuyệt vời. Hãy vẫy tay với khi em bay qua Houston. dõi theo em. - Trạm vũ trụ quốc tế trông giống ngôi sao chuyển động, sáng hơn sao Kim và bay trời. - cũng vẫy tay chứ? Cả hai cố cười. Cuối cùng đây là vụ ly hôn dân . giang tay ra, cúi vào lòng và họ ôm nhau. Cái ôm rất cứng nhắc và chóng vánh, như thể họ là những người xa lạ gặp nhau lần đầu. cảm nhận thấy cơ thể ấm áp và sống động áp vào người . Rồi quay , về phía tòa nhà Điều hành nhiệm vụ. chỉ dừng lại lần vẫy tay tạm biệt . Nắng chiếu thẳng vào mắt khiến phải nheo mắt lại. chỉ còn thấy dáng người bé của , tóc bay trong gió. biết chưa bao giờ như lúc này, khi nhìn bước . Ngày 19 tháng 7 Mũi Canaveral Chỉ nhìn từ xa, cảnh tượng đủ khiến Emma nghẹt thở. Đứng thẳng bệ phóng 39B và ngập trong ánh sáng đèn pha, tàu con thoi Atlantis trông rất hợp với bình chứa nhiên liệu màu cam to đùng và cặp máy đẩy động cơ tên lửa dạng rắn. Con tàu như cột đèn hiệu khổng lồ nền trời đêm đen kịt. Dù chứng kiến nhiều lần, nhưng cảnh tượng đầu tiên khi con tàu vút lên khỏi bệ phóng chưa bao giờ khiến thôi kinh ngạc. Những thành viên còn lại trong đoàn đứng bên cạnh đường nhựa cũng im lặng. Họ luân phiên nhau ngủ, thức giấc lúc hai giờ sáng hôm đó và rời khu nhà nghỉ để lên tầng ba tòa nhà điều khiển và kiểm tra để chứng kiến cảnh tượng hiếm có của con quái vật khổng lồ sắp đưa họ vào gian. Emma nghe thấy tiếng kêu của con chim ăn đêm. cảm thấy cơn gió mát mẻ thổi từ biển Đại Tây Dương, luồng khí trong lành thổi bay tù đọng của vùng đất ẩm ướt vây quanh họ. - Dường như nó khiến các bạn thấy mình bé đúng ? - đội trưởng Vance bằng giọng lè nhè của xứ Texas. Những người khác lầm rầm tán thành. - như con kiến. - Chenoweth . là hòn đá lạc lõng trong phi hành đoàn. Đây là chuyến du hành đầu tiên của tàu con thoi. hào hứng đến mức dường như bao nhiêu năng lượng của phát hết ra ngoài. - Lúc nào tôi cũng quên mất là nó lớn mức nào. Rồi sau đó tôi nhìn lại nó và tôi nghĩ về toàn bộ sức mạnh của nó. Tôi may mắn khi được là trong những người lái nó. Tất cả đều cười vang. Nhưng đó là những tiếng cười vội vã và thoải mái như tiếng cười của giáo dân trong nhà thờ. - Tôi chưa bao giờ thấy tuần trôi qua lại chậm thế. - Chenoweth . - chàng này chán làm kẻ trinh tiết rồi. - Vance trêu. - Chết tiệt, đúng là như thế đấy. Tôi muốn lên đó. - ánh mắt Chenoweth hau háu nhìn lên trời, lên những vì sao. - Các bạn đều biết bí mật này cả rồi. Tôi thể đợi để chia sẻ nó được nữa. Bí mật. Điều đó thuộc về số ít những người vinh dự được leo lên tàu con thoi. Đó phải là bí mật mà người ta có thể chia sẻ với người khác, chính bạn phải sống với nó, nhìn tận mắt màu đen của vũ trụ và màu xanh dương của trái đất cách xa bên dưới. Bạn bị đẩy về sau chỗ ngồi do lực của tên lửa. Các phi hành gia trở về từ vũ trụ thường cười thông cảm. Họ có ánh mắt như thể muốn : Tôi chia sẻ bí mật về điều mà ít ai trong loài người biết được. Emma cười như thế khi bước ra khỏi cánh cửa tàu Atlantis hai năm trước. Đôi chân yếu ớt của bước trong nắng, nhìn lên bầu trời xanh vô tận hôm đó. Trong tám ngày quỹ đạo, nhìn thấy mặt trời mọc trăm ba mươi lần, thấy cháy rừng ở Brazil và mắt bão vờn quanh Samoa. thấy trái đất dường như rất mong manh, dễ vỡ. trở lại và thay đổi mãi mãi. Trong vòng năm ngày để ngăn chặn thảm họa, Chenoweth được biết bí mật đó. - đến lúc rọi chút ánh sáng vào mắt tôi rồi. - Chenoweth . - Đầu óc tôi vẫn cứ tưởng giờ là nửa đêm. - Đúng là nửa đêm đấy. - Emma thêm vào. - Với chúng ta đây là lúc rạng đông, thưa các vị. - Vance nhắc. Trong số tất cả những người trong số họ, là người điều chỉnh nhịp sinh học xảy ra mỗi ngày lần của mình nhanh nhất cho hợp với thời gian biểu mới quy định giờ dậy và ngủ. Giờ trở lại tòa nhà Điều hành và Kiểm tra để bắt đầu ngày làm việc liên tục lúc ba giờ sáng. Những người khác theo . Chỉ còn lại Emma nán lại ở bên ngoài lát, nhìn con tàu. Hôm qua, họ xem xét lại bệ phóng để kiểm tra lần cuối các quy trình phóng của phi hành đoàn. Khi nhìn ở cự ly gần dưới ánh mặt trời, con tàu dường như quá sáng chói và vĩ đại đến mức người ta thể chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp của nó. Người ta chỉ có thể nhìn vào phần của nó lần. Mũi tàu. Cánh tàu. Những tấm ốp màu đen như vảy bụng của loài bò sát. Dưới ánh sáng ban ngày, con tàu có vẻ và cứng cáp hơn. Lúc này, dường như nó còn ở mặt đất nữa mà tỏa sáng nền trời đen kịt. Do phải chuẩn bị gấp nên Emma cho phép bản thân cảm thấy chút sợ hãi nào. chắc chắn rũ bỏ mọi lo âu. sẵn sàng bay lên. muốn bay lên nhưng giờ thấy hơi sợ. nhìn lên trời và thấy những ngôi sao biến mất sau đám mây kéo đến. Thời tiết thay đổi. run rẩy, quay lại và về phía tòa nhà, về phía có ánh sáng. Ngày 23 tháng 7 Houston Sáu ống y tế được luồn vào cơ thể Debbie Haning. Trong cổ họng có ống phẫu thuật mổ khí quản để ép khí ô-xi vào hai lá phổi. ống thông mũi được luồn vào lỗ mũi bên trái, xuống ống thực quản rồi vào dạ dày. Ống thông đường tiểu rút hết nước tiểu ra ngoài, hai ống tĩnh mạch khác bơm các chất lỏng vào mạch máu. Trong cổ tay có ống động mạch. Các đường huyết áp liên tục chạy máy nghiệm dao động. Jack xem những túi truyền nước treo đầu giường và thấy chúng chứa đầy chất kháng khuẩn mạnh. Đây là dấu hiệu xấu, nó có nghĩa là ấy bị nhiễm khuẩn - bệnh nhân bị hôn mê suốt hai tuần là dấu hiệu bất thường. Mỗi lỗ thủng da và mỗi ống nhựa đều là phương tiện trung chuyển vi khuẩn. Trong máu của Debbie giờ xảy ra trận chiến. Chỉ cần nhìn qua, Jack hiểu ngay việc này nhưng gì với mẹ của Debbie. Bà ngồi bên giường, nắm chặt tay con . Khuôn mặt trông mềm nhũn, cằm cứng, mí mắt khép hờ. vẫn trong tình trạng hôn mê sâu và nhận thức được điều gì, kể cả đau đớn. Bà Margaret ngước lên khi Jack bước vào phòng bệnh và gật đầu chào. - Con bé trải qua đêm khủng khiếp. - Margaret . - Nó bị sốt. Họ biết sao con bé lại sốt. - Các chất kháng sinh có tác dụng. - Rồi sau đó sao? Chúng ta ngăn được bệnh nhiễm khuẩn nhưng tiếp theo là chuyện gì? - Bà Margaret hít sâu. - Con bé muốn thế này. Những cái ống, những mũi tiêm. Chắc nó muốn chúng ta để nó . - Đây phải là lúc đầu hàng. Điện não đồ của ấy vẫn hoạt động. Não của ấy chưa ngừng hoạt động. - Vậy sao con bé tỉnh lại? - ấy còn trẻ. ấy phải sống vì nhiều thứ. - Đây phải là sống. - Bà Margaret cúi xuống nhìn tay con . Nó tím bầm và phồng lên do những ống truyền nước và những mũi tiêm. - Khi bố nó hấp hối, Debbie với tôi nó bao giờ muốn có kết cục như vậy, bị buộc chặt và chăm sóc giường. Tôi cứ nghĩ mãi về điều đó, về những gì nó …. - bà Margaret lại ngước lên. - làm gì nếu đây là vợ ? - Tôi nghĩ đến chuyện đầu hàng. - Thậm chí nếu ấy với là ấy muốn có kết cục như vậy sao? suy nghĩ về chuyện đó lát rồi quả quyết . - Rốt cuộc đó cũng là quyết định của tôi. Bất chấp ấy hay ai khác gì. Tôi đầu hàng vì người tôi quý. bao giờ, bao giờ nếu vẫn còn cơ hội mong manh để tôi cứu được ấy. Lời của an ủi được bà Margaret. có quyền đòi hỏi lòng tin hay bản năng ở bà nhưng bà hỏi ý kiến và trả lời bằng trái tim chứ phải bằng lý trí. Giờ cảm thấy có lỗi. vỗ vai bà Margaret và tới phòng bệnh. bệnh nhân hôn mê và bị lây nhiễm có hệ thống nghĩa là người đó ở ngưỡng cửa cái chết rồi. rời bộ phận chăm sóc đặc biệt, buồn bã bước vào thang máy. chán nản khi trải qua kỳ nghỉ như thế này. Khi thang máy dừng lần đầu tiên, quyết định dừng ở tầng có đại sảnh, chỗ có cửa hàng tạp phẩm để mua hộp sáu lon bia. Điều cần ngay lúc này là cốc bia lạnh và chuyến du thuyền. Chúng giúp quên Debbie Haning. - Hôn mê sâu, phòng điều trị đặc biệt! Hôn mê sâu, phòng điều trị đặc biệt! lập tức ngẩng đầu lên khi nghe thấy thông báo hệ thống gọi tên của bệnh viện. Debbie, nghĩ rồi chạy vụt ra chỗ cầu thang. nhiều người có mặt tại phòng điều trị đặc biệt của . đẩy cửa vào, nhìn ngay màn hình. Hình thành sợi cơ tâm thất! bó cơ cuộn lên trong tim ấy. Tim thể bơm máu lên não. - epinefrin ampe hạ! - y tá hét to. - Mọi người lùi lại! - bác sĩ cầu và áp hai tấm khử rung tim lên ngực. Jack thấy thân thể Debbie giật mạnh khi các tấm khử rung tim rời ra và thấy đường tim lao mạnh màn hình, rồi lại tụt xuống mức thấp nhất. Nó theo hình chữ V. y tá thực hô hấp nhân tạo. Mái tóc vàng và ngắn của rung lên mỗi khi ấn mạnh vào ngực bệnh nhân. Bác sĩ thần kinh học Salomon phụ trách chăm sóc Debbie ngẩng lên khi Jack đứng cạnh ông bên giường bệnh. - Amoidarone vào chưa? - Jack hỏi. - vào nhưng có tác dụng. Jack lại nhìn những đường tim. Từ những đường gấp khúc, chúng biến thành những đường rất bằng phẳng và thoái hóa thành đường thẳng tắp. - Chúng tôi sốc điện cho ấy bốn lần. - Salomon . - lấy lại nhịp được. - Màng ngoài não sao? - Chúng tôi hạ xuống mức thấp nhất. Tiếp tục ! Y tá tiêm chuẩn bị xi-lanh epinefrin và lắp ống tiêm tim dài vào đầu. Ngay cả khi cầm lấy nó, Jack biết là cuộc chiến đấu kết thúc. Việc này thay đổi được gì. Nhưng nghĩ về Bill Haning chờ được về nhà với vợ. Và nghĩ về những gì với bà Margaret cách đây mấy phút. Tôi đầu hàng vì người tôi quý. bao giờ, bao giờ nếu vẫn còn cơ hội mong manh để tôi cứu được ấy. cúi nhìn Debbie và trong giây phân tâm, khuôn mặt Emma vụt qua tâm trí . nuốt nước bọt rồi . - Ngừng ép tim! y tá bỏ tay khỏi xương ức. Jack nhanh chóng dùng thuốc Betadine bôi lên da và ấn mũi tiêm xuống dưới mẩu xương ức. Mạch đập mạnh khi chọc mũi tiêm qua da. ấn tiếp mũi tiêm vào ngực rồi nhàng ấn cái. vệt máu tràn vào trong xi-lanh cho biết mũi tiêm vào đến tim. vặn mạnh ống bơm, tiêm cả liều epinefrin vào rồi rút tiêm ra. - Tiếp tục ép tim! - rồi nhìn màn hình. Cố lên Debbie! Chiến đấu , chết tiệt! Hãy vì chúng tôi đừng đầu hàng. Hãy vì Bill đừng đầu hàng. Cả phòng im lặng, mắt ai cũng dán vào màn hình. Những đường tim thẳng tắp, từng tế bào cơ tim chết dần. ai lời, mặt họ đều vẻ thất bại. ấy còn trẻ, Jack nghĩ. Ba mươi sáu tuổi. Bằng tuổi Emma. Bác sĩ Salomon đưa ra quyết định cuối cùng. - Hãy kết thúc chuyện này. - ông . - Thời gian tử vong là 11 giờ 15. y tá thực ép tim im lặng rời khỏi bệnh nhân. Dưới những bóng đèn phòng bệnh, thân thể Debbie trông như tấm nhựa bợt màu, như người nộm. Đó còn là người phụ nữ lộng lẫy và sống động mà Jack gặp cách đây năm năm tại bữa tiệc của NASA được tổ chức dưới bầu trời sao. Bà Margaret bước vào phòng. Bà đứng im lặng, gì lúc như thể còn nhận ra con mình nữa. Bác sĩ Salomon khẽ đặt tay lên vai bà. - việc diễn ra quá nhanh. Chúng tôi thể làm gì được. - Lẽ ra nó phải ở đây. - Bà Margaret nghẹn ngào . - Chúng tôi cố duy trì sống cho ấy. - Bác sĩ Salomon an ủi. - Tôi rất tiếc! - Tôi cảm thấy tội nghiệp cho thằng Bill. - Bà Margaret . Bà nắm và hôn bàn tay con . - Nó muốn ở đây. Và giờ nó bao giờ tha thứ cho bản thân. Jack ra khỏi phòng bệnh và ngồi thụp xuống ghế trong phòng y tá. Những lời của bà Margaret vẫn vang trong đầu . Lẽ ra nó phải ở đây. Và giờ nó bao giờ tha thứ cho bản thân. nhìn điện thoại. Mình còn làm gì ở đây? tự hỏi. lấy sổ danh bạ trong bàn của y tá, nhấc điện thoại và quay số. - Hãng du lịch Lone Star xin nghe. - phụ nữ trả lời. - Tôi muốn đến mũi Canaveral.
Chương 06 SÁU Mũi Canaveral Qua cửa sổ chiếc ô tô thuê, Jack hít căng lồng ngực bầu khí ẩm ướt của đảo Merritt. ngửi thấy mùi của rừng, của đất ẩm và cây cối. Lối vào Trung tâm vũ trụ Kennedy là con đường kiểu nông thôn có nhiều điều ngạc nhiên. Nó chạy qua những lùm cây ngả vàng, những quán bánh rán xiêu vẹo và những bãi chất đồ đồng nát của các tên lửa phế thải bị cỏ dại phủ đầy. Ánh sáng ban ngày mờ dần. Phía trước, thấy đèn đuôi của hàng nghìn chiếc xe chậm như bò đường. Xe cộ bị dồn tắc lại. Xe của nhanh chóng bị kẹt trong chuỗi những du khách tìm điểm đỗ xe để quan sát vụ phóng tàu vào buổi sáng. có đường nào qua đám hỗn độn đó. cũng nhận thấy có tác dụng gì nếu cố qua cổng để vào cảng Canaveral. Dù sao vào giờ này, các phi hành gia vẫn ngủ. đến quá muộn để lời tạm biệt. thoát khỏi đám xe, vòng xe lại và hướng về đường cao tốc A1A, đường đến bãi biển Cocoa. Kể từ thời của Alan Shepard và Thủy ngân gốc thứ bảy, bãi biển Cocoa trở thành trung tâm tiệc tùng của các phi hành gia. Đó là dải đất tập trung khá nhiều khách sạn, các quán bar và các cửa hàng áo phông trải dài dọc theo khu đất bị mắc kẹt giữa sông Banana ở phía tây và Đại Tây Dương ở phía đông. Jack biết rất dải đất này, từ khu nhà Thịt Bò Tokyo đến Quán Ánh trăng. Có lần chạy bộ cùng bờ biển mà John Glenn từng chạy qua. Cách đây mới hai năm, đứng công viên Jetty và ngắm sông Banana tại bệ phóng 39A, tại tàu con thoi của , con chim khổng lồ mà lẽ ra đưa vào gian. Những ký ức đó vẫn bao trùm nỗi đau. nhớ lần chạy dài vào buổi chiều oi bức. bị cú chọc sườn bất ngờ và cực kỳ đau đớn. Nỗi đau đó khủng khiếp đến mức gục ngã. Rồi trong trạng thái mơ hồ do thuốc gây mê, khuôn mặt ủ rũ của bác sĩ chuyến bay cúi xuống nhìn trong phòng cấp cứu và thông báo cho tin dữ. viên sỏi thận. bị loại khỏi đội làm nhiệm vụ bay. Tồi tệ hơn là tương lai của trong ngành vũ trụ gian bị nghi ngờ. Lịch sử bệnh án có sỏi thận là trong số rất ít lý do có thể trói chân phi hành gia dưới mặt đất. Trọng lực cực gây ra những biến đổi sinh lý học đối với các chất dịch trong cơ thể, dẫn đến tình trạng mất nước. Nó cũng khiến xương bị lọc mất chất canxi. Khi kết hợp lại, các yếu tố này làm tăng nguy cơ xuất thêm các viên sỏi thận mới khi vào vũ trụ. - đây là mối nguy hiểm mà NASA muốn gặp phải. Mặc dù vẫn nằm trong đội phi hành gia nhưng Jack chắc chắn bị hạ xuống mặt đất. đợi thêm năm nữa, hy vọng có nhiệm vụ bay khác nhưng tên bao giờ được nhắc đến nữa. bị biến thành bóng ma phi hành gia, bị xử phạt lang thang trong các hội trường của Trung tâm vũ trụ Johnson mãi mãi để tìm kiếm nhiệm vụ. nhanh chóng trở về với thực tại. Giờ ở đây, trở về Canaveral phải với tư cách của phi hành gia nữa, mà chỉ là khách du lịch dọc theo quốc lộ A1A, đói khát, gắt gỏng và chẳng biết nơi nào. Mọi khách sạn trong vòng bán kính bốn mươi dặm bị đăng ký hết, mà mệt mỏi vì lái xe. quay về khu đỗ xe của khách sạn Hilton, về phía quầy rượu. Nơi này được tân trang rất nhiều so với lần cuối đến đây. Thảm mới, các quầy rượu mới, những cây dương xỉ mọc trần nhà. Trước đây nó là chỗ dừng chân khá tồi tàn, khách sạn Hilton cũ kỹ, mệt mỏi khu đất du lịch cũng cũ kỹ và mệt mỏi. có khách sạn bốn sao nào đảo Cocoa. Nơi này gần giống như nơi bạn phải đào bới nhiều mới có chút xa xỉ. gọi cốc uytx-ky Scotland và tập trung xem ti-vi phía quầy rượu. Nó chiếu kênh NASA và tàuAtlantis màn hình. Nó chìm trong ánh sáng chói lòa và những làn hơi nước ma quái vây quanh nó. Chuyến của Emma vào gian. chằm chằm nhìn hình ảnh đó, nghĩ về hàng trăm mét dây chằng chịt trong thân tàu đó, vô số các thanh gạt và bộ phận truyền dữ liệu, đinh ốc, mối hàn và các vòng tròn hình chữ O. Hàng triệu thứ có thể bị trục trặc. Vấn đề khiến băn khoăn là có quá ít thứ bị trục trặc, những con người dù khiếm khuyết mức nào nhưng lại có thể thiết kế và chế tạo công trình có độ an toàn lớn đến mức bảy con người sẵn sàng giam mình trong đó. Làm ơn hãy để lần phóng tàu này an toàn, nghĩ. Đó là lần phóng mà mọi người thực tốt công việc của mình, đinh ốc nào bị lỏng. Nó phải hoàn hảo vì Emma của tôi lên tàu. phụ nữ ngồi xuống bên quầy rượu cạnh và . - Tôi biết giờ họ nghĩ gì. quay lại nhìn ta. Trong thoáng chốc bị cuốn hút khi thoáng thấy bộ đùi ta. Trông ta lộng lẫy, tóc vàng óng ả. ta sở hữu trong những khuôn mặt dịu dàng đến hoàn hảo với những đường nét khiến người ta thể quên sau giờ chia tay. - ai? - hỏi. - Các phi hành gia. Tôi tự hỏi họ nghĩ gì. Ôi, chết tiệt, tôi dính vào cái quái gì thế này? nhún vai, uống ngụm uytx-ky. - Giờ họ chẳng nghĩ gì cả. Họ ngủ hết rồi. - Tôi ngủ nổi. - Nhịp sinh học trong ngày của họ được điều chỉnh lại hoàn toàn. Có lẽ họ ngủ hai tiếng trước. - , ý tôi là tôi ngủ được tí nào. Tôi nằm thao thức và nghĩ ra những cách để thoát khỏi việc đó. cười. - Tôi đảm bảo với nếu họ thức nhất định đó là vì họ thể chờ đến lúc được leo lên bé bự đó và phóng lên. ta tò mò nhìn . - có tham gia vào chương trình đó đúng ? - Trước đây thôi. Phi hành đoàn. - Giờ à? đưa cốc rượu lên môi và cảm thấy những viên đá va mạnh vào răng . - Tôi về hưu. đặt chiếc cốc xuống, đứng lên và thấy thoáng thất vọng trong ánh mắt người phụ nữ. cho mình chút thời gian để suy nghĩ về phần còn lại của buổi tối nay như thế nào nếu ở lại và tiếp tục cuộc chuyện. người đồng hành dễ chịu, hứa hẹn có thêm nhiều điều tiếp theo. Nhưng thay vào đó, trả tiền rượu rồi ra khỏi khách sạn Hilton. Lúc nửa đêm, khi đứng bãi biển trong công viên Jetty, nhìn lướt mặt nước về phía bệ phóng 39B. ở đây, nghĩ. Dù em biết nhưng luôn ở bên em. ngồi xuống bãi cát, chờ bình minh. Ngày 24 tháng 7 Houston “ khối khí áp cao Vịnh khiến trời trong xanh khắp mũi Canaveral nên việc đưa tên lửa trở lại bệ phóng thành công. Căn cứ quân Edwards rải rác có mây nhưng dự kiến trời quang khi phóng tàu. Khu hạ cánh ở bờ kia Đại Tây Dương tại Zaragoza, Tây Ban Nha vẫn hoạt động và thành công. Tại Ben Guer, Morocco có những trận gió lớn và bão cát. Lúc này chưa có khu hạ cánh ràng tại bờ kia Đại Tây Dương. ” Những bản tóm tắt thời tiết đầu tiên trong ngày được phát cùng lúc tới mũi Canaveral mang lại những tin tức tốt lành và khiến trưởng điều hành bay Carpenter hài lòng. Việc phóng tên lửa vẫn thực được. Những điều kiện hạ cánh tốt tại cảng Ben Guer chỉ là vấn đề vì hai khu vực hạ cánh bên bờ kia Đại Tây Dương ở Tây Ban Nha vẫn nét. Dù sao đó cũng là biện pháp hỗ trợ trong trường hợp cần trợ giúp, những khu vực này chỉ cần đến trong trường hợp có hỏng hóc lớn. Ông nhìn qua lượt những người còn lại trong đội quân lên tàu để xem có vấn đề nào cần quan tâm nữa . căng thẳng thần kinh trong Phòng Điều hành bay hữu rất và ngày càng tăng như mọi lần trước khi phóng tàu khác. Đó là điều tốt lành. Hôm nào họ căng thẳng là hôm đó họ phạm sai lầm. Carpenter muốn những người trong đội mình luôn sẵn sàng, mọi dây thần kinh phải căng lên. Đó là mức độ tỉnh táo mà giữa đêm cũng đòi hỏi phải có thêm liều thuốc adrenalin. Tâm trạng Carpenter cũng căng thẳng như những người khác mặc dù việc đếm ngược thời gian được lên lịch. Đội kiểm tra của trung tâm Kennedy hoàn thành công việc. Đội kiểm tra khí động lực học xác nhận thời gian phóng được tính bằng giây. Cùng lúc đó, những người làm nhiệm vụ phóng tàu cùng hướng về đồng hồ đếm ngược. Tại mũi Canaveral, nơi tàu con thoi được lên lịch phóng, bầu khí căng thẳng kém tăng lên trong căn phòng ngột ngạt tại Trung tâm Điều hành phóng tàu. Ngay khi động cơ phóng tên lửa được kích hoạt, Trung tâm nhiệm vụ của Houston gánh toàn bộ công việc còn lại. Mặc dù cách xa nhau nghìn dặm nhưng hai phòng điều khiển tại Houston về Canaveral được liên kết chặt chẽ với nhau qua những phương tiện liên lạc như thể chúng thuộc cùng tòa nhà. Tại Trung tâm bay vũ trụ Marshall, Huntsville, Alabama, các đội nghiên cứu chờ cho những cuộc thử nghiệm của họ được phóng lên vũ trụ. Cách mũi Canaveral trăm sáu mươi dặm về phía bắc. - đông bắc, các tàu hải quân đợi ở biển để thu lại các động cơ đẩy tên lửa dạng rắn. Chúng tách khỏi tàu sau khi cháy hết. Tại các khu vực hạ cánh trong trường hợp khẩn cấp và các trạm tìm kiếm khắp thế giới, từ NORAD tại Colorado đến sân bay quốc tế ở Banjul, Gambia, đàn ông và phụ nữ đều nhìn đồng hồ. Vào thời điểm này, bảy người sắp trao sinh mạng họ vào tay chúng ta. Carpenter giờ có thể nhìn thấy các phi hành gia màn hình ti-vi gần đó khi người ta giúp họ mặc quần áo để phóng tên lửa và lên tàu. Những hình ảnh đó được truyền trực tiếp từ Florida. Carpenter dừng lúc để xem xét kỹ khuôn mặt của họ. Dù ai trong số họ để lộ ra chút sợ hãi nào nhưng ông biết nó hữu trong họ, nó dưới vẻ bề ngoài vui vẻ của họ. Mạch họ đập loạn lên và những dây thần kinh căng ra. Họ biết những mối nguy hiểm nên họ lo sợ. Khi nhìn họ màn hình là lời nhắc nhở nghiêm khắc với những người mặt đất rằng bảy người đó trông chờ hoàn toàn vào việc họ có làm tốt công việc của mình hay . Carpenter nhìn màn hình nữa mà quay sang tập trung vào đội điều hành bay ngồi tại mười sáu bảng điều khiển. Dù biết tên họ rất nhưng ông gọi từng người bằng các nhiệm vụ của họ trong chương trình, chức vụ của họ được rút ngắn lại thành các tín hiệu theo cách của NASA. Nhân viên hướng dẫn được gọi tắt là GDO. Người liên lạc với tàu gian được gọi tắt là Capcom. Kỹ sư hệ thống đẩy được gọi là Prop. Nhân viên chịu trách nhiệm quản lý đường bay được gọi là Traj. Bác sĩ chuyến bay được gọi là Surgeon. Carpenter gọi tên họ lượt. Việc đếm ngược thời gian được trừ dần trong vòng ba tiếng. Nhiệm vụ của họ vẫn khả thi. Carpenter đưa tay vào túi làm nhánh cây ba lá sột soạt. Đó là thói quen để lấy may của riêng ông. Ngay cả những kỹ sư cũng có những cách mê tín riêng. Đừng để trục trặc gì xảy ra, ông nghĩ. Đừng xảy ra khi tôi quan sát. Mũi Canaveral Xe của Trung tâm vũ trụ từ tòa nhà Điều hành và kiểm tra đến khu bệ phóng 39B mất mười lăm phút. Chuyến im lặng đến kỳ lạ, ai trong đoàn năng gì nhiều. Nửa giờ trước đó, trong khi mặc đồng phục, họ cười đùa hết mình theo kiểu khi đầu óc người ta chỉ có hứng khởi. căng thẳng tăng lên từ lúc họ bị đánh thức lúc hai rưỡi để ăn bữa sáng truyền thống với thịt bò và trứng. Trong khi nghe bản tóm tắt thời tiết, mặc quần áo và làm việc truyền thống trước khi phóng tàu là chơi bài để tìm ra tay chơi cừ nhất tất cả bọn họ đều rất ồn ào và vui vẻ. Tất cả các động cơ đều gầm cách tự tin. Giờ họ im lặng. Chiếc xe dừng lại. Chenoweth, viên tân binh ngồi cạnh Emma lẩm bẩm. - Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cái tã lót vất cũng có thể là thảm họa trong nghề của chúng ta. bật cười. Tất cả bọn họ đều đeo tã lót cho người lớn dưới lớp quần áo đồng phục dày cộp, vẫn còn ba tiếng dài dằng dặc nữa mới đến lúc cất cánh. Các nhân viên kỹ thuật ở khu bệ phóng giúp Emma ra khỏi xe. dừng lại lúc bệ phóng, ngỡ ngàng nhìn con tàu ba mươi tầng rực sáng dưới những ánh đèn pha. Lần cuối cùng đến bệ phóng cách đây năm ngày. Khi đó, chỉ nghe thấy tiếng gió biển, tiếng chim chóc. Giờ con tàu sống lại, gầm gừ và nhả khói như con rồng tỉnh giấc khi những chất nổ đẩy dễ bay hơi bị đốt nóng trong thùng nhiên liệu. Họ thang máy lên tầng thứ trăm chín mươi lăm và bước lên mặt sàn kêu cót két. Lúc đó vẫn là ban đêm nhưng bầu trời sáng rực lên bởi ánh đèn pha. Emma hầu như thể thấy được những vì sao đầu. Vũ trụ đen kịt chờ . Trong căn phòng khử trùng trắng toát, các kỹ thuật viên mặc những bộ đồ rất đồ sộ đến giúp các phi hành gia, từng người qua cửa để vào tàu vũ trụ. Tổng chỉ huy và viên lái tàu ngồi vào chỗ trước. Emma được phân công ngồi ở khoang giữa nên là người cuối cùng được sắp chỗ. ngồi vào ghế đệm, cài nút an toàn, đội mũ bảo hiểm và ra hiệu sẵn sàng. Cửa đóng sập lại, ngăn cách phi hành đoàn với thế giới bên ngoài. Emma nghe thấy tim mình đập mạnh. Mặc dù các mệnh lệnh kiểm tra nối từ vũ trụ với mặt đất vang lên trong máy bộ đàm của nhưng lẫn trong tiếng sôi ùng ục và gầm gừ của con tàu vận hành tiếng tim đập nghe như tiếng trống đều đặn. Khi ngồi ở khoang giữa, chẳng biết làm gì trong hai tiếng tiếp theo ngoài việc ngồi và suy nghĩ, những công việc kiểm tra trước khi bay được đội kiểm tra chuyến bay thực . nhìn thấy bên ngoài. chẳng có gì để nhìn ngoài khu vực xếp hàng hóa và khu thực phẩm. Bên ngoài, bình minh sớm chiếu sáng bầu trời. Những con bồ nông lướt sóng bờ biển Playalinda. hít sâu và lại chờ đợi. Jack ngồi bờ biển ngắm mặt trời lên. chỉ có mình tại công viên Jetty. Những người đến ngắm cảnh tụ tập tại đây trước lúc nửa đêm. Những chiếc xe đến tạo thành đường ánh đèn pha dài vô tận bò dọc theo Đường cao tốc Bee Line. số xe về phía bắc để tới đảo Merritt, Khu bảo tồn Động vật hoang dã. Còn những xe khác vẫn tiếp tục vượt qua sông Banana, tới thành phố có mũi Canaveral. Tầm nhìn từ trong các địa điểm đó đều rất tốt. Đám đông quanh tràn đầy tinh thần ngày nghỉ. Họ mang theo khăn tắm biển và những giỏ picnic. nghe thấy tiếng cười, tiếng loa đài rất to và tiếng oang oang của những đứa bé ngủ. Bị những người chơi vây quanh, là vật thể im lặng, người đàn ông đơn với những suy nghĩ và nỗi sợ của chính mình. Khi mặt trời chiếu đường chân trời, nhìn về phía bắc, về khu bệ phóng. ấy giờ lên tàu, bị bó buộc và chờ đợi, hào hứng, hạnh phúc và có chút sợ hãi. nghe thấy đứa bé . - Đó là người xấu mẹ ạ. quay lại nhìn bé. Hai người nhìn nhau lúc, nàng công chúa nhắn với mái tóc vàng nhìn người đàn ông râu ria, luộm thuộm. Bà mẹ lôi con vào lòng và nhanh chóng đến nơi an toàn hơn bờ biển. Jack gượng gạo lắc đầu và lại quay về phía bắc, về phía Emma. Houston Phòng Điều hành bay có vẻ im lặng. Còn hai mươi phút nữa là phóng tàu. - đó là khoảng thời gian để xác nhận chuyến bay vẫn khả thi. Toàn bộ viên điều hành ở phòng gián tiếp kiểm tra xong hệ thống và giờ phòng điều khiển phía trước sẵn sàng thu lại các ý kiến. Bằng giọng bình tĩnh, Carpenter đọc qua các danh sách và cầu từng điều khiển viên xác nhận lại bằng lời . - Khí động lực? - Carpenter hỏi. - Khí động lực xong. - viên điều khiển khí động lực chuyến bay trả lời. - Hướng dẫn? - Hướng dẫn xong. - Bác sĩ? - Bác sĩ xong. - Xử lý dữ liệu? - Xử lý dữ liệu xong. Khi Carpenter gọi họ hết lượt và nhận được lời xác nhận từ mọi bộ phận, ông nhanh chóng gật đầu về phía phòng điều hành bay. - Houston xong chưa? - giám đốc điều khiển việc phóng tàu ở mũi Canaveral hỏi. - Ban điều hành nhiệm vụ xong. - Carpenter xác nhận. Lời nhắn truyền thống của giám đốc điều hành bay với phi hành đoàn tàu con thoi đều được mọi người tại Trung tâm làm nhiệm vụ bay Houston lắng nghe. - Atlantis, các bạn sẵn sàng. Tất cả mọi người chúng tôi ở mũi Canaveral chúc các bạn may mắn và thành công. - Trung tâm điều hành phóng, đây là tàu Atlantis. - họ nghe thấy chỉ huy Vance báo cáo. - Cảm ơn giúp chú chim này sẵn sàng cất cánh. Mũi Canaveral Emma đóng và khóa tấm kính che mặt, rồi bật nguồn cung cấp ô-xi. Còn hai phút nữa cất cánh. Bị bó buộc và tách biệt trong bộ quần áo của mình, biết làm gì ngoài việc đếm từng giây trôi qua. cảm thấy sức mạnh đập của động cơ chính chuẩn bị phóng lên. Thời gian trừ ba mươi giây. Đường dẫn điện với trung tâm điều khiển dưới mặt đất giờ bị ngắt và các máy tính tàu bắt đầu điều khiển. Tim đập nhanh hơn, chất kích thích bơm khắp các mạch máu. Khi nghe tiếng đếm ngược, biết từng giây trôi qua điều gì xảy ra. có thể thấy trong tâm tưởng mình chuỗi các kiện diễn ra bên ngoài. Khi thời gian chỉ còn tám giây, hàng nghìn ga-lông nước được bơm dưới bệ phóng để át tiếng gầm động cơ. Khi chỉ còn năm giây, các máy tính tàu mở các van và cho phép ô-xi dạng lỏng và hy-đrô vào các động cơ chính. cảm thấy con tàu rung chuyển sang hai bên khi ba động cơ chính được kích hoạt. Con tàu chống lại lực ma sát của các mối hàn gắn chặt nó với hệ thống. Bốn. Ba. Hai… Đây là lúc thể quay đầu lại được. nín thở, hai tay nắm chặt khi các động cơ đẩy tên lửa dạng rắn kích hoạt. Chuyển động của tên lửa rung đến tận xương, tiếng gầm của nó to và khó chịu đến mức thể nghe thấy tiếng liên lạc trong tai phôn của mình. phải cắn chặt hàm để răng va vào nhau. Giờ cảm thấy con tàu cuốn vào hình cung định sẵn cho nó biển Đại Tây Dương. Cơ thể đẩy mạnh về phía sau ghế do lực đẩy ngày càng tăng. Chân nặng trĩu và hầu như thể di chuyển được. Các xung động mạnh đến mức dường như con tàu chắc chắn bay mỗi nơi mảnh. Họ ở điểm cực đại, điểm rung động mạnh nhất. Chỉ huy trưởng Vance thông báo rằng điều khiển van các động cơ chính. Trong vòng chưa đầy phút, đẩy van lên mức cực đại. Khi mỗi giây trôi qua và chiếc mũ bảo vệ lắc quanh đầu . Lực đẩy tên lửa như bàn tay bạo lực ép chặt lên ngực khiến sợ hãi. Đây chính là điểm trong suốt thời gian phóng tàu mà tàu Challenger nổ tung. Emma nhắm mắt và nhớ lại tình huống diễn tập tại Hazel cách đây hai tuần. Giờ họ ở gần thời điểm mà mọi việc trong tình huống diễn tập bắt đầu trục trặc. Đây là thời điểm họ buộc phải hủy việc đưa tàu trở lại bệ phóng và sau đó, Kittredge bị mất khả năng kiểm soát con tàu. Đây là thời điểm quan trọng trong suốt quá trình phóng tàu. thể làm gì khác ngoài việc tựa lưng về phía sau và hy vọng rằng thực tế dễ chịu hơn những cuộc diễn tập. nghe thấy Vance qua điện đàm. - Trung tâm, đây là tàu Atlantis. mở van. - , Atlantis. Mở van! Jack đứng nhìn trân trân lên trời, tim đập loạn lên khi con tàu vút lên. nghe thấy tiếng kêu răng rắc của các động cơ đẩy tên lửa khi chúng phụt ra hai cột lửa. Vệt khí thải ngày càng lên cao và lẫn vào đó là tàu con thoi trông như chiếc đinh ghim. Xung quanh , đám đông đều hét to tán thưởng. Họ đều nghĩ đó là cuộc phóng thành công. Nhưng Jack biết rằng có rất nhiều thứ có thể bị hỏng hóc. Đột nhiên như phát điên lên vì chú ý trong những giây vừa qua. Bao nhiêu thời gian trôi qua rồi? Họ đến điểm cực đại Q chưa? che mắt lại, tránh ánh nắng buổi sáng và cố nhìn tàu con thoi Atlantisnhưng thể nhìn thấy bất cứ vệt khói nào. Đám đông bắt đầu chui vào trong xe. vẫn đứng im, sợ hãi chờ đợi. thấy vụ nổ khủng khiếp nào. có khói đen. có cơn ác mộng. Con tàu Atlantis rời trái đất an toàn và giờ bay vào vũ trụ. cảm thấy có nước mắt chảy má nhưng buồn lau . cứ để chúng chảy tiếp khi vẫn nhìn bầu trời, nhìn vệt khói đánh dấu diện của vợ đó. TRẠM GIAN. Chương 07 Phần 1 BẢY Ngày 25 tháng 7 Beatty, Nevada Sullivan Obie choàng tỉnh do tiếng chuông điện thoại. cảm thấy đầu mình như có búa bổ và môi có vị như tàn thuốc lá. lấy điện thoại nhưng bất cẩn làm rơi xuống giá để ống nghe. Tiếng đập mạnh khiến nhăn mặt khó chịu. Ôi, kệ nó! nghĩ rồi quay và úp mặt vào mớ tóc rối. phụ nữ à? nheo mắt vì ánh sáng ban ngày và cố kiểm tra lại có là có phụ nữ nằm cùng giường với . Mớ tóc vàng. ta ngáy. nhắm mắt, hy vọng rằng nếu ngủ tiếp ta rồi khi thức dậy. Nhưng giờ ngủ được, phải vì tiếng điện thoại rơi khỏi chỗ gác máy. vòng qua bên kia giường và thấy điện thoại. - Gì vậy, Bridget? - hỏi. - Có chuyện gì? - Sao chưa đến? - Bridget cầu. - Vì tôi ngủ. - Mười rưỡi rồi! Xin chào ! Cuộc họp với các nhà đầu tư mới sao? Tôi nên cảnh cáo là Casper bị mắc kẹt giữa hai lựa chọn, hoặc là bị đóng đinh, hoặc là bị bóp chết. Các nhà đầu tư. Chết tiệt ! Sullivan ngồi dậy, ôm đầu đợi cơn chóng mặt qua . - Nghe này, hãy mặc kệ ả đó rồi đến đây. - Bridget . - Casper đưa họ đến nhà chứa máy bay rồi. - Mười phút nữa. - gác điện thoại và bị trượt chân. ả giường cựa quậy. biết ả là ai nhưng để ta ngủ giường mình. Dù sao cũng nghĩ rằng chẳng có gì để người ta đánh cắp. có thời gian cạo râu hay tắm rửa. uống ba viên thuốc đau đầu, tách cà phê, rồi nổ máy xe Harley. Bridget đợi trước nhà chứa máy bay. có vẻ ngoài đúng kiểu Bridget, sung sức với mái tóc đỏ thành ra có vẻ lúc nào cũng giận dữ. Nhưng may là đôi khi vẻ ngoài lại có vẻ đúng với bản chất. - Họ sắp bỏ rồi. - rít lên. - Lê mông đến đây ! - Rốt cuộc họ là ai? - người tên Lucas, người kia là Rashad. Họ đại diện cho tập đoàn gồm mười hai nhà đầu tư. phá hỏng việc này, Sully ạ và chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào . - dừng lại, nhìn vẻ khinh bỉ. - À, chết tiệt , chúng tôi bị dắt mũi rồi. Nhìn xem! Ít ra cũng phải cạo râu chứ? - muốn tôi về nhà nữa hả? Tôi có thể thuê cả bộ quần áo lễ phục đường về đấy. - Thôi, quên chuyện đó . - ấn tờ báo gập đôi vào tay . - Gì đây? - Casper muốn cái này. Hãy đưa cho ông ấy. Giờ vào đó rồi thuyết phục họ ghi cho tấm séc . tấm séc lớn ấy. thở dài, bước vào kho chứa máy bay. Sau khi phải chịu ánh nắng chói chang của sa mạc, bóng tối trong kho khiến mắt cảm thấy dễ chịu. mất lúc mới nhìn thấy ba người đàn ông đứng bên cạnh các tấm lót cách nhiệt của tàu con thoi Apogee II. Hai vị khách đều mặc âu phục nhìn nơi để các dụng cụ và thiết bị sửa chữa. - Xin chào các vị! - to. - Xin lỗi tôi đến muộn nhưng tôi phải nhận cuộc gọi thông báo họp. Các vị biết cuộc chuyện có thể kéo dài lê thê thế nào đấy…. - bắt gặp ánh mắt cảnh cáo của ông Casper Mulholland như muốn Đừng quá đà, đồ chết tiệt nên phải nuốt khan. - Tôi là Sullivan Obie. - . - Đồng nghiệp của ông Mulholland. - Obie đây biết từng đường tơ kẽ tóc của Thiết bị phóng tái sử dụng này. - Casper . - ấy từng làm việc với cây gạo cội là ông Bob Truax tại California. Thực ra, ấy có thể giải thích hệ thống này hơn tôi. Ở đây, chúng tôi đều gọi ấy là Obie-Wan. Hai vị khách chỉ chớp mắt. Khi ngôn ngữ chung trong phim “Chiến tranh giữa các vì sao” thể tạo ra nụ cười đó là dấu hiệu xấu. Sullivan bắt tay với ông Lucas trước, rồi sau đó là ông Rashad và nở nụ cười rất tươi ngay cả khi những hy vọng của bị chìm nghỉm. Thậm chí trong lúc đó, còn cảm thấy ghét hai quý ông ăn mặc bảnh bao này, những người mà cả và ông Casper rất khao khát tiền của họ. Các công nghệ của con tàu Apogee, đứa con tinh thần và cũng là giấc mơ họ ấp ủ trong suốt mười ba năm qua sắp tan thành mây khói. Chỉ cần được rót tiền từ nhóm các nhà đầu tư mới dự án được cứu sống. và ông Casper phải chiến đấu cả đời vì vụ mua bán này. Nếu thành công tốt nhất là họ nên đóng gói mớ dụng cụ và bán tàu con thoi như bán chiếc xe lưu động. Sullivan vung tay lên chỉ con tàu Apogee II. Giờ trông nó giống ống lắp vòi phun nước khổng lồ đường phố với nhiều cửa sổ hơn là giống máy bay tên lửa. - Tôi biết trông nó giống lắm. - . - Nhưng thứ mà chúng tôi chế tạo ra ở đây là phương tiện phóng có thể tái tạo được với giá thành thấp nhất và hiệu quả nhất từng có tính tới thời điểm này. Con tàu sử dụng hệ thống phóng tàu bằng tên lửa đẩy được hỗ trợ sau khi rời khỏi bệ phóng theo chiều thẳng đứng và lên tới độ cao mười hai kilômét, các tên lửa được bơm đầy áp lực đẩy tàu lên tới nút số bốn trong khi áp lực khí động học chỉ còn rất thấp. Con tàu này hoàn toàn có thể tái chế được và chỉ nặng tám phẩy năm tấn. Nó đáp ứng toàn bộ các quy tắc mà chúng tôi tin trở thành tương lai của ngành thương mại du lịch vũ trụ. hơn. Nhanh hơn. Rẻ hơn. - Vậy nó sử dụng loại động cơ nâng gì? - Rashad hỏi. - Các động cơ thổi hơi có tên là Rybinsk RD-38 được nhập khẩu từ Nga. - Tại sao lại của Nga? - Vì thưa ông Rashad, giữa ông, tôi và những bức tường này người Nga hiểu biết về kỹ thuật tên lửa hơn bất kỳ ai thế giới. Họ chế tạo ra hàng chục động cơ tên lửa hoạt động bằng nhiên liệu lỏng, sử dụng các nguyên liệu tân tiến có thể hoạt động ở áp lực cao. Tôi rất tiếc phải rằng nước ta chỉ sản xuất được động cơ tên lửa chạy bằng nhiên liệu chất lỏng mới từ khi có tàu Apollo. Giờ đây là ngành công nghiệp quốc tế. Chúng tôi tin là lựa chọn các bộ phận tốt nhất cho sản phẩm của chúng tôi, cho dù các bộ phận đó xuất xứ từ đâu chăng nữa. - Vậy vật này hạ cánh như thế nào? - ông Lucas nhìn trân trân con tàu giống ống cắm vòi rồng. - Ồ, đó mới chính là vẻ đẹp thực của con tàuApogee II. Như các vị có thể thấy nó có cánh. Nó cần đường băng. Thay vào đó, nó rơi thẳng xuống, sử dụng dù để làm chậm quá trình hạ cánh và các túi khí để làm đệm cho quá trình tiếp đất. Nó có thể hạ cánh ở bất cứ đâu, thậm chí biển. lần nữa chúng ta lại phải cúi đầu trước người Nga vì chúng tôi mượn các đặc tính từ tàu con thoi Soyuz cũ của họ. Nó là trong những con ngựa kéo đáng tin cậy nhất của họ trong mấy chục năm liền. - Có vẻ như thích mấy kỹ thuật cũ kỹ của Nga quá nhỉ? - Lucas mỉa mai. Sullivan cứng họng. - Tôi thích những kỹ thuật nào có tác dụng. Ông hãy thử ông biết gì về người Nga? Họ luôn hiểu điều họ làm. - Vậy thứ có ở đây là loại hỗn hợp. - Lucas . - Tàu Soyuz được kết hợp vào trong chiếc tàu con thoi. - chiếc tàu con thoi vũ trụ cực . Chúng tôi mất mười ba năm chế tạo nó và chỉ mất sáu mươi lăm triệu đô la để có con tàu này… như vậy là rẻ cách đáng kinh ngạc nếu ông so sánh nó với chi phí tàu con thoi thông thường. Với chiếc tàu đa cấp này chúng tôi tin chắc các vị nhận được khoản lời từ việc đầu tư hàng năm là ba mươi phần trăm nếu các vị phóng nó nghìn hai trăm lần năm. Chi phí cho mỗi chuyến bay là tám nghìn đô, giá cho mỗi cân thiết bị tàu rẻ tới mức chỉ còn hai trăm bảy mươi đô. hơn, nhanh hơn, rẻ hơn. Đó chính là khẩu hiệu của chúng tôi. - tới mức nào vậy ông Obie? Trọng tải của con tàu là bao nhiêu? Sullivan lưỡng lự chút. Đây chính là điểm họ có thể mất hợp đồng này. - Chúng tôi có thể chở lượng hàng là ba trăm kí lô, cộng thêm người lái tàu nếu bay quanh trái đất ở độ cao thấp. Họ im lặng rất lâu. Ông Rashad hỏi. - Thế thôi à? - Như vậy là gần ba trăm cân. Các vị có thể lắp vào đó nhiều thiết bị nghiên cứu… - Tôi biết ba trăm cân là bao nhiêu. Đâu có nhiều nhặn gì. - Vậy chúng tôi bù lại việc đó bằng việc phóng tàu thường xuyên hơn. Các vị gần như có thể nghĩ đến việc biến nó thành chiếc máy bay vào vũ trụ. - Thực tế … thực tế chúng tôi nhận được quan tâm của NASA. - ông Casper xen vào với giọng có chút thất vọng. - Đây là kiểu hệ thống họ có thể mua để lao rất nhanh lên trạm gian. Lucas nhướn lông mày. - NASA quan tâm ư? - Ồ, chúng tôi có đường dây liên lạc bên trong. Ôi, tệ , ông Casper, Sullivan nghĩ. Đừng bàn đến chuyện đó. - Cho họ xem tờ báo Sully! - Gì cơ? - Tờ Thời báo Los Angeles, trang hai. Sullivan nhìn tờ Thời báo Los Angeles mà Bridget dúi vào tay . lật trang hai và thấy bài báo: “NASA đưa các phi hành gia lên thay thế”. Tiếp theo đó là bức ảnh các quan chức cấp cao của Trung tâm vũ trụ Johnson trong cuộc họp báo. nhận ra người đàn ông giản dị với đôi tai to và kiểu tóc rất xấu. Đó là Gordon Obie. Casper giật tờ báo và đưa nó cho các vị khách. - Hãy nhìn người đàn ông này, người đứng cạnh Leroy Cornell. Đó là giám đốc điều hành bay. Đó là trai của ông Obie đây. Hai vị khách bị cuốn hút ngay lập tức. Họ quay lại nhìn Sullivan. - Thế nào? - Casper . - Các quý ông đây có hứng thú bàn chuyện kinh doanh nữa ? - Chúng tôi nên thẳng với các vị chuyện này. - Lucas . - Ông Rashad và tôi xem qua những phát minh khác của các hãng hàng . Chúng tôi xem qua tập đoàn Kelly Astroliner, Roton và Kistler K-1. Họ đều khiến chúng tôi ấn tượng, đặc biệt là K-1. Nhưng chúng tôi nhận ra là chúng tôi cũng nên cho các công ty như các cơ hội. Công ty như các . Mẹ kiếp, Sullivan nghĩ. rất ghét phải xin tiền, ghét phải quỳ gối trước những kẻ mặc áo đóng thùng. Đây là chiến dịch vô vọng. thấy đau đầu, bụng cuộn lên và những kẻ mặc âu phục này lãng phí thời gian của . - Hãy cho chúng tôi biết tại sao chúng tôi nên đặt cược cho các vị. - Lucas . - Điều gì khiến chúng tôi chọn lựa công ty Apogee? - thẳng ra , thưa các quý ông, tôi nghĩ chúng tôi phải là lựa chọn tốt nhất. - Sullivan trả lời thẳng thừng. quay đầu bỏ . - À, xin lỗi! - Casper đuổi theo bạn đồng nghiệp. - Sully! - ông thầm. - làm cái quái gì vậy? - Những gã này hề có hứng thú với chúng ta. nghe bọn họ rồi đấy. Họ thích tập đoàn K-1. Họ muốn những tên lửa bự, để cho hợp với những cái của nợ của họ. - Đừng bới việc này lên! Quay lại chuyện với họ . - Tại sao chứ! Họ chẳng ký cho chúng ta tấm séc nào hết. - Để tuột mất họ nghĩa là chúng ta mất tất cả. - Chúng ta mất rồi đấy. - . , có thể bán thứ này cho họ. Tất cả những gì cần làm là . Hãy cho họ biết chúng ta thực tin gì. Vì biết và tôi biết rằng chúng ta có thứ tốt nhất. Sullivan dụi mắt. Thuốc đau đầu tan hết và thấy đầu như có búa bổ. chán phải cầu xin. là kỹ sư, và cũng là phi công. hài lòng dành nốt phần đời còn lại của mình ngập tay trong đống dầu mỡ động cơ đen sì. Nhưng điều đó xảy ra nếu có các nhà đầu tư và có nguồn vốn mới. quay lại, về phía các vị khách. Điều khiến ngạc nhiên là dường như họ tiếp với thái độ e sợ. Có lẽ vì . - Thôi được. - Sullivan và thấy bạo gan hơn vì lúc này chẳng còn gì để mất. có thể hạ mình xuống là người đàn ông. - Vụ buôn bán như thế này. Chúng tôi có thể khẳng định mọi điều chúng tôi vừa bằng ví dụ đơn giản. Các công ty khác có sẵn sàng phóng con tàu trong tích tắc người ta thả cái mũ ? . Họ thể làm được. Họ cần thời gian chuẩn bị. - rít lên. - Phải mất hàng tháng trời. Nhưng chúng tôi có thể phóng tàu bất cứ lúc nào. Tất cả những gì chúng tôi cần làm là đưa bé bự này lên bệ phóng và chúng tôi có thể đưa nó lên quỹ đạo thấp xung quanh trái đất. Mà tệ lắm chúng tôi có thể cho nó lên đó để gửi xúc xích cho các Trạm vũ trụ. Vì vậy hãy cho chúng tôi ngày chính xác. Hãy cho chúng tôi các vị muốn phóng tàu khi nào và chúng tôi làm được việc đó. Casper mặt trắng bệch như người chết, và đó phải là khuôn mặt thân thiện. Sullivan đưa họ quá xa đến bờ vực mà họ phải bấu víu vào đó. Tàu Apogee IIvẫn chưa được thử nghiệm. Nó nằm trong khu nhà chứa này hơn mười bốn tháng và bám đầy bụi trong khi họ xin tiền. Trong chuyến đầu tiên của tàu, Sully muốn con tàu hết tốc lực đến quỹ đạo ư? - Thực tôi rất tự tin rằng con tàu vượt qua được giai đoạn trình duyệt. - Sullivan , thậm chí còn nâng mức liều lĩnh lên cao hơn. - Chính tôi ngồi ghế lái. Casper lộn ruột. - Ờ… đó là lối dụ, thưa các vị. Nó có thể bay cách hoàn hảo mà cần người lái. - Nhưng có lời bịa đặt nào trong câu đó. - Sullivan . - Hãy để tôi lái nó lên! Như thế mọi người cảm thấy hứng thú hơn. Các vị gì đây? Tôi rằng chắc chắn bị mất trí rồi, đôi mắt của Casper với như vậy. Hai thương gia nhìn nhau, thầm vài câu. Rồi Lucas . - Chúng tôi đều rất chú ý đến lời giải thích đó. Chúng tôi cần thời gian để duyệt qua với các cộng và các lịch trình du lịch hợp tác nữa. Vậy hãy chờ… tháng. Các vị chờ được chứ? Họ buộc phải lừa gạt. Sullivan chỉ cười. - tháng à? sao. - nhìn Casper bây giờ nhắm tịt mắt như thể đau đớn. - Chúng tôi liên lạc với các vị. - ông Rashad và chỉ chiếc tàu. - Tôi có để ý tên các đặt theo kiểu đặc trưng là Apogee II. Liệu có tàu Apogee I ? Casper và Sullivan nhìn nhau. - À, đúng thế. - Casper . - có… - Chuyện gì xảy ra với con tàu đó? Casper im bặt. Khốn nạn , Sullivan nghĩ. dường như có tác dụng với mấy gã này, có lẽ nên lặp lại việc đó. - Nó đâm và bốc cháy. - và bước ra khỏi nhà chứa máy bay. Đâm và bốc cháy. Đó là cách duy nhất để mô tả chuyện gì xảy ra trong buổi sáng lạnh lẽo và trong xanh ấy cách đây năm rưỡi. Buổi sáng hôm đó, ước mơ của cũng vỡ vụn và bốc cháy. Khi ngồi tại chiếc bàn mòn vẹt ở văn phòng công ty và nhấm nháp chút cà phê để giết thời giờ, thể nhớ lại như in từng chi tiết đau lòng của ngày hôm đó. Chuyến xe buýt chở các nhân viên NASA đỗ ở khu bệ phóng. trai , Gordie tự hào cười rất tươi. khí ăn mừng tràn ngập trong lòng hàng chục người làm việc tại Apogee và số các nhà đầu tư tụ tập dưới mái che để uống cà phê và ăn bánh rán trước khi phóng tàu. Rồi đếm ngược. Rồi phóng tàu. Mọi người nheo mắt nhìn bầu trời khi tàu Apogee I bay vút vào trung và thu lại chỉ bằng chiếc đinh ghim. Rồi ánh sáng lóe lên. Và thế là hết.
Chương 07 Phần 2 Sau đó, trai gì nhiều, thậm chí cả lời chia buồn. Nhưng Gordon là như vậy. Suốt đời mình, mỗi khi Sullivan gặp vận hạn. - và dường như điều này xảy ra quá thường xuyên. - Gordon chỉ lắc đầu buồn bã, thất vọng như vậy. Gordon là , đứa con trai nghiêm chỉnh và đáng tin cậy. ấy tự khiến mình nổi bật với tư cách là viên chỉ huy phi hành đoàn tàu con thoi. Sullivan chưa từng được tham gia đội phi hành gia. Dù cũng là phi công và kỹ sư máy bay nhưng dường như chưa bao giờ được cuộc sống cho cơ hội. Nếu leo vào trong buồng lái đó cũng chính là lúc sợi dây điện bị lòi ra hay đường dây nào đó bị đứt. thường nghĩ đáng lẽ phải khắc những chữ phải lỗi của tôi lên trán vì mọi việc rất hay gặp vấn đề khi gây ra lỗi lầm gì. Nhưng Gordon thèm nhìn nhận việc. Mọi việc bao giờ hỏng trong tay ấy. Gordon nghĩ khái niệm rủi ro là lời biện hộ cho bất tài. - Sao gọi điện cho ấy? - Bridget nhắc. ngẩng lên. ta đứng cạnh bàn , khoanh tay như giáo viên tiểu học. - Gọi ai? - hỏi. - trai chứ còn ai nữa? Hãy cho ấy biết là chúng ta phóng mẫu tàu thứ hai. Hãy mời ấy đến xem. Có lẽ ấy đưa theo những người khác trong NASA. - Tôi muốn bất cứ ai của NASA. - Sully, nếu chúng ta gây ấn tượng với họ, chúng ta khiến công ty này vận động. - Như lần trước hả? - Đó là may thôi. Chúng ta sửa chữa các vấn đề. - Nên có lẽ lại có lần may khác. - mang lại xui xẻo cho chúng tôi, biết ? - ta ném điện thoại trước mặt . - Gọi cho Gordon ! Nếu chúng ta gieo con xúc xắc, chúng ta có thể cá cược cả ngôi nhà của mình. nhìn chiếc điện thoại và nghĩ về tàu Apogee I, nghĩ về việc giấc mơ cả đời phút chốc tan thành mây khói như thế nào. - Sully? - Quên chuyện đó ! - . - tôi có những chuyện hay ho để làm hơn là mất thời gian cùng những kẻ thua cuộc. - rồi ném tờ báo vào thùng rác. Ngày 26 tháng 7 tàu Atlantis - Này, Watson. - chỉ huy Vance gọi xuống khoang giữa. - Lên đây và xem ngôi nhà mới của ! Emma trôi lên cầu thang và xuất khoang lái, ngay sau ghế ngồi của Vance. Khi mới nhìn lướt qua cửa sổ, hít hơi mạnh vì ngạc nhiên. Đây là điểm gần nhất được đến với trạm gian. Trong suốt lần làm nhiệm vụ đầu tiên cách đây hai năm rưỡi, họ được lên Trạm gian quốc tế mà chỉ nhìn nó từ xa. - Nó tuyệt quá đúng ? - Nó là thứ tuyệt nhất mà tôi từng thấy. - Emma khẽ. Quả như vậy. Những tia nắng tỏa ra từ mái giàn chính khiến Trạm vũ trụ quốc tế trông như chiếc thuyền buồm kỳ vĩ bay thẳng lên trời. Được mười sáu quốc gia khác nhau chế tạo, các bộ phận của nó được đưa lên vũ trụ sau bốn mươi lăm lần phóng. Họ mất năm năm lắp ghép nó từng mảnh từng mảnh để cho nó bay vào quỹ đạo. Nó chỉ đơn thuần là kỳ công của công nghệ, mà nó còn là biểu tượng cho những gì con người có thể đạt được khi họ hạ vũ khí và hướng ánh mắt lên trời. - Giờ đó là phần của cải . - Vance . - Tôi gọi đó là căn hộ để ngắm cảnh. - Chúng ta đến nơi. - phi công lái tàu con thoi DeWitt . - Bay tốt. Vance rời ghế chỉ huy và đứng cạnh ô cửa phía đầu tàu để nhìn khi họ đến gần khoang hạ cánh của Trạm vũ trụ quốc tế. Đây là giai đoạn tinh tế nhất trong suốt toàn bộ quá trình phức tạp để gặp nhau theo kế hoạch. TàuAtlantis được phóng đến quỹ đạo thấp hơn so với Trạm vũ trụ. Hai ngày qua, chơi trò đuổi kịp Trạm vũ trụ chuyển động ầm ầm. Họ tiếp cận từ phía dưới, sử dụng các máy bay sử dụng hệ thống điều khiển theo phản xạ để định vị vị trí tốt nhất để hạ cánh. Emma giờ nghe thấy tiếng phụt mạnh của các ống xả và thấy con tàu giật mạnh. - Nhìn xem! - DeWitt kêu lên. - Đó là tia nắng kêu ầm ĩ trong tháng qua. - chỉ trong những tấm mặt trời bị thủng lỗ lớn. Đó là trong những mối nguy hiểm ngoài vũ trụ là những cơn mưa thiên thạch và các mảnh vụn do con người tạo ra ngừng rơi xuống. Thậm chí chỉ mảnh vụn cũng có thể biến thành vũ khí phóng nguy hiểm khi nó di chuyển với tốc độ hàng nghìn dặm giờ. Khi họ tiến lại gần hơn và Trạm vũ trụ choán hết ô cửa. Emma cảm thấy nỗi sợ hãi choán ngợp và cả niềm tự hào lớn đến nỗi mắt long lanh nước. Nhà, nghĩ, mình về nhà. Chiếc cửa chặn khí mở toang và khuôn mặt to lớn với nước da nâu cười với họ ở đầu kia của đường ống nối tàu Atlantis với Trạm vũ trụ quốc tế. - Họ mang theo những trái cam! - Luther Ames hét to với các đồng nghiệp trạm. - Tôi có thể ngửi thấy chúng. - Dịch vụ cung cấp tận nhà của NASA đây. - chỉ huy Vance mà mặt lạnh như . - Rau quả của quý vị đến. - Vance xách túi đầy hoa quả tươi và bay qua cửa chặn khí của tàu Atlantis sang Trạm vũ trụ. Họ hạ cánh hoàn hảo. Cả hai con tàu đều di chuyển với vận tốc mười bảy nghìn năm trăm dặm giờ, cách xa trái đất, Vance tiếp cận Trạm vũ trụ quốc tế theo tỉ lệ rất là hai in-sơ mỗi giây. nối liền khoang hạ cánh của tàu Atlantis với cảng của Trạm vũ trụ để khóa chặt và gọn. Giờ những cánh cửa mở và từng người trong phi hành đoàn Atlantis bay sang Trạm vũ trụ được chào đón bằng những cái bắt tay, những cái ôm và những nụ cười hân hoan khuôn mặt của những người được gặp khách mới trong nhiều tháng trời. Khoang đó quá để chứa mười ba người nên hai phi hành đoàn nhanh chóng vào khoang kế bên. Emma là người thứ năm vào trạm. chui ra khỏi ống nối và hít hỗn hợp mùi mới. Đó là thứ mùi hơi chua và có hơi da thịt của những người bị nhốt quá lâu trong gian kín. Luther Ames, người bạn cũ huấn luyện trong đội phi hành gia, là người đầu tiên chào . - Tôi nghĩ đây là bác sĩ Watson! - to rồi ôm vào lòng. - Chào mừng lên trạm! Càng nhiều phụ nữ càng vui! - Này, biết tôi phải là phụ nữ mà. nháy mắt. - Chúng ta giữ bí mật đó giữa hai ta thôi. - Luther lúc nào cũng khoác lác. Đó là người đàn ông có thể khiến cả căn phòng vui vẻ hẳn lên. Mọi người thích Luther vì quý tất cả. Emma rất vui khi có trạm. Đặc biệt là khi quay sang nhìn những người bạn khác trạm. Đầu tiên, bắt tay Michael Griggs, chỉ huy trạm và thấy ta chào lịch nhưng gần như theo kiểu nhà binh. Diana Estes, phụ nữ được Cơ quan vũ trụ Châu Âu gửi lên, nồng nhiệt hơn là mấy. cười nhưng ngạc nhiên là cặp mắt xanh như tảng băng trôi, lạnh lùng và xa cách. Tiếp theo, Emma quay sang người Nga, Nicolai Rudenko, người ở trạm lâu nhất. - gần năm tháng. Những bóng đèn trong khoang tàu dường như làm trôi hết mọi màu sắc mặt ta và biến nó thành màu xám xịt như đám râu hoa mọc lởm chởm của . Khi họ bắt tay, hầu như nhìn . Người đàn ông này, nghĩ, cần được về nhà. ấy buồn và rã rời. Kenichi Hirai, phi hành gia của trung tâm NASDA trôi về phía trước chào . Ít ra nở nụ cười mặt và bắt tay rất chặt. lẩm bẩm chào và nhanh chóng lui về phía sau. Lúc này khoang tàu trống , những người còn lại trong nhóm rải rác về các khu vực khác của trạm gian. thấy chỉ còn lại và Bill Haning. Debbie Haning mất cách đây ba hôm. Tàu Atlantissẽ đưa Bill về nhà, phải đến bên giường bệnh của vợ mà tới mộ của . Emma lướt đến bên . - Tôi xin lỗi. - khẽ. - Tôi rất tiếc! chỉ gật đầu và quay . - Lạ ! - . - Chúng tôi luôn nghĩ nếu có chuyện gì đó xảy ra người gánh chịu là tôi. Tôi là hùng vĩ đại trong gia đình, là người phải nhận những mối nguy hiểm. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng ấy là người…. - hít sâu. thấy cố gắng giữ bình tĩnh. Và biết lúc này thích hợp để những lời an ủi. Ngay cả đụng chạm cũng có thể làm sụp đổ chống cự yếu ớt của về mặt cảm xúc. - Ồ, Watson! - cuối cùng . - Tôi nghĩ tôi nên là người chỉ cho mọi việc vì đảm nhận công việc của tôi. gật đầu. - Bất cứ khi nào sẵn sàng, Bill ạ. - Vậy hãy làm việc đó ngay bây giờ. Có rất nhiều điều tôi cần cho biết. có nhiều thời gian để chuyển giao đâu. Dù Emma quen với cách bố trí của trạm gian, khi nhìn vào cấu trúc thực bên trong, cảm thấy chóng mặt. Tình trạng trọng lượng của con tàu, nghĩa là có việc thẳng đứng hay lộn ngược, có sàn nhà hay trần nhà. Mọi bề mặt đều có thể đóng vai trò là nơi làm việc. Nếu quay quá nhanh trong trung mất cảm giác về phương hướng ngay lập tức. Những cơn buồn nôn cuộn lên làm phải di chuyển rất chậm và cố gắng tập trung vào điểm khi di chuyển. biết kích cỡ của Trạm vũ trụ quốc tế có gian sống tương đương hai chiếc Boeing 747. Nhưng gian sống đó được gắn hàng chục khoang to bằng chiếc xe buýt. Chúng được nối với nhau như những đồ chơi của hãng Tinkertoys bởi những điểm nối gọi là các nút. Tàu con thoi hạ cánh nút thứ hai. Được gắn cùng nút đó là phòng thí nghiệm của cơ quan vũ trụ Châu Âu, phòng thí nghiệm của Nhật Bản và phòng thí nghiệm của Mỹ. Phòng này đóng vai trò là cửa vào những phần còn lại của Trạm vũ trụ. Bill dẫn ra khỏi phòng thí nghiệm của Mỹ, đến điểm nút tiếp theo, đó là điểm nút số . Ở đây, họ dừng lại lúc và nhìn qua mái vòm quan sát. Trái đất quay chậm dưới họ và những đám mây đục như sữa lượn vòng biển. - Đây là nơi tôi thường lui tới mỗi khi rảnh. - Bill . - Chỉ cần nhìn ra ngoài cửa sổ. Như thế khiến tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi gọi nơi này là Nhà thờ của Đất mẹ. - quay nhìn cảnh đó nữa và chỉ cánh cửa vào nút khác. - Ngay trước mặt chúng ta là cửa chặn khí các hoạt động lại trạm. Còn cánh cửa bên dưới chúng ta dẫn đến khoang sinh hoạt. Chỗ ngủ của ở đó. Phương tiện cứu hộ để quay về trái đất nằm ở đầu kia phòng thí nghiệm để có thể đến đó khi có trường hợp khẩn cấp. - Ba thành viên trong đoàn ngủ trong khoang này à? gật đầu. - Ba người khác ngủ trong khoang dịch vụ của Nga. có thể qua cánh cửa ở đây. Giờ chúng ta hãy đến đó! Họ rời nút số , bơi như cá qua mê cung các đường hầm và đến khoang dịch vụ của Nga trạm. Đây là phần cũ nhất của Trạm vũ trụ quốc tế, phần được phóng lên quỹ đạo lâu nhất và già nua của nó . Khi họ qua Zarya. - lò năng lượng và lò đẩy động cơ. - thấy nhiều vết ố tường, có cả những vết cào xước và sứt mẻ. Những gì lúc đầu chỉ là những bản thiết kế trong đầu giờ bắt đầu biến thành những chi tiết cụ thể và có cảm giác. Trạm vũ trụ chỉ là mê cung những phòng thí nghiệm lấp lánh mà nó cũng là nơi ở của con người. Những hao mòn và hư hỏng do cư trú thường xuyên của con người hữu rất . Họ bay vào khoang dịch vụ của Nga. Ở đó, Emma gặp cảnh tượng kỳ lạ của Griggs và Vance. Cả hai đều lộn ngược. Hay mình là người lộn ngược? Emma nghĩ và thấy buồn cười khi sống trong thế giới đảo lộn trọng lực này. Giống như khoang sinh hoạt, khoang dịch vụ của người Nga có phòng trưng bày, nhà vệ sinh và các chỗ ngủ cho ba thành viên. Ở góc xa, thấy lối ra khác. - Lối đó có dẫn ra tàu Soyuz cũ ? - hỏi. Bill gật đầu. - Giờ chúng tôi dùng nó làm kho chứa đồ linh tinh. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể làm với nó. Thân tàuSoyuz từng được sử dụng làm thuyền cứu hộ trong trường hợp khẩn cấp, giờ quá cũ kỹ. Pin của nó cạn từ lâu. Luther Ames thò đầu ra khỏi khoang dịch vụ của Nga. - Này mọi người! đến lúc trình diễn rồi đấy! Cả nhóm ôm nhau ở trung tâm hội nghị truyền thông. NASA muốn những người trả tiền thuế nhìn thấy lễ hội tình của chúng ta ở này. Bill thở dài mệt mỏi. - Chúng ta như những con vật trong sở thú. Ngày nào cũng phải cười với mấy cái máy ảnh ngu ngốc. Emma là người cuối cùng tham gia vào cuộc di cư lên khoang sinh hoạt. Khi đến đó, hơn mười người tụ tập bên trong. Trông họ như đám tay và chân, ai cũng lắc lư, cố va vào nhau. Trong khi Griggs tổ chức mọi việc, Emma nán lại ở nút số . trôi trong trung và từ từ trôi về phía mái vòm. Cảnh đẹp ngoài ô cửa khiến nghẹt thở. Trái đất ở bên dưới phô bày hết vẻ đẹp của nó, chuỗi những ngôi sao tạo thành đường viền nhàng đường chân trời. Giờ họ vào chỗ tối, và ở bên dưới thấy những dấu ấn quen thuộc trôi dần vào bóng tối. Houston! Đó là lễ hái quả đầu tiên của họ trong đêm. cúi sát về phía cửa sổ, áp tay vào kính. Ôi, Jack, nghĩ, em ước có ở đây. Em ước gì có thể nhìn thấy cảnh tượng này. Rồi vẫy tay. Và biết chắc chắn rằng ở nơi nào đó dưới màn đêm dưới kia, Jack vẫy tay đáp lại . Chương 08 Phần 1 TÁM Ngày 29 tháng 7 Thư riêng gửi: Bác sĩ Emma Watson (Trạm vũ trụ quốc tế). Người gửi: Jack McCallum. Giống hệt viên kim cương bầu trời. Em trông giống hệt như vậy khi nhìn từ đây. Đêm qua thức để nhìn thấy em bay lên. vẫy tay tạm biệt em rất lâu. Sáng nay kênh truyền hình , em bị người ta chào hàng như Bà Đúng đắn “Nữ phi hành gia cất cánh mà làm văng cái đinh nào” hay lời gì đó quá mức như vậy. Họ phỏng vấn Woody Ellis và Leroy Cornell. Cả hai đều tươi tắn như những ông bố cảm thấy rất tự hào. Chúc mừng em! Em là con cưng của cả nước Mỹ. Vance và phi hành đoàn hạ cánh đẹp như tranh. Các tay phóng viên khát tin vây bổ lấy Bill khi ấy đến Houston. thoáng thấy ấy ti-vi. - trông ấy như thể già hai chục tuổi. Các nghi thức tang lễ cho Debbie được thực vào chiều nay. đến đó. Ngày mai thuyền vịnh. Emma, hôm nay nhận được đơn xin ly hôn và lòng với em. thấy ổn chút nào. Nhưng rồi nghĩ mọi chuyện cố ý như vậy đúng ? Dù sao chúng sẵn sàng, chỉ chờ chúng ta ký vào. Có lẽ bây giờ cuối cùng mọi chuyện cũng qua, chúng ta lại có thể là bạn như xưa. Jack Tái bút: Con mèo Humphrey hơi cáo già đấy. Em nợ chiếc ghế dài. Thư riêng của Emma gửi: Jack McCallum. Người gửi: Emma Watson. Con cưng của nước Mỹ ư? Chết tiệt! Chuyện bé xé ra to khi người ta đứng trái đất nhìn lên và chờ em gặp rắc rối. Và khi em bị như vậy, em là gánh nặng cho những người đàn ông ở phòng trưng bày số 1. Em ghét điều đó. Tuy nhiên, em rất thích thú khi ở này. Em ước có thể nhìn thấy cảnh từ đây! Khi nhìn xuống trái đất và thấy nó đẹp mức nào, em chỉ muốn chia sẻ chút cảm giác đó với mọi người ở dưới kia. Giá như họ có thể nhìn thấy trái đất của chúng ta bé, mong manh và đơn như thế nào. Vây quanh nó là gian đen tối và lạnh lẽo. Họ bảo vệ nó tốt hơn. (À, lại thế rồi, lại nhòe mắt khi nhìn hành tinh của mình. Lại là gánh nặng cho đàn ông). Em vui mừng báo cho biết là em bị buồn nôn nữa. Em có thể lao nhanh từ khoang này sang khoang khác mà bị đau nhức. Em vẫn thần người ra mỗi khi thoáng thấy trái đất ngoài cửa sổ. Nó khiến em có cảm giác bị lộn ngược và phải mất vài giây em mới định vị lại được. Em cố gắng tập luyện thể lực, nhưng hai tiếng mỗi ngày là quá nhiều, nhất là khi em có rất nhiều việc phải làm, phải theo dõi hàng chục thí nghiệm, hàng tỉ bức thư điện tử từ Trung tâm quản lý hàng vận chuyển. Nhà khoa học nào cũng đòi hỏi em phải ưu tiên trước nhất dự án về động vật nuôi trong nhà của họ. Cuối cùng, em phải thức dậy để chạy đua. Nhưng sáng nay em rất mệt. Em ngủ trong khi tiếng nhạc đánh thức của trung tâm Houston bật ( Luther họ làm chúng em nổ tung vì bài hát Valkyrie của Wagner). Về việc ly hôn của chúng ta đến gần, em cũng cảm thấy vui. Nhưng Jack à, ít ra chúng ta có bảy năm hạnh phúc. Như vậy là hơn những gì các đôi tình nhân có thể . Em biết mong muốn kết thúc việc này. Em hứa ký vào tờ đơn ly hôn ngay khi em về nhà. Hãy tiếp tục vẫy tay nhé! Emma. Tái bút: Con Humphrey bao giờ làm hỏng đồ đạc của em. làm gì khiến nó buồn vậy? Emma tắt máy tính xách tay và gấp nó lại. Trả lời thư riêng là nhiệm vụ cuối cùng trong ngày. mong được nghe tin tức ở nhà nhưng Jack đến chuyện ly hôn khiến đau lòng. Vậy là ấy sẵn sàng tiếp, nghĩ. ấy sẵn sàng “làm bạn” như ngày xưa. Khi đóng khóa túi ngủ của mình, rất giận vì dễ dàng chấp nhận chấm dứt cuộc hôn nhân của họ. Thời gian đầu khi đến chuyện ly hôn, họ vẫn còn tranh luận rất căng, cảm thấy an toàn cách kỳ lạ mỗi khi họ to tiếng vì bất đồng. Nhưng giờ bất đồng hết và Jack đến giai đoạn lặng lẽ chấp nhận. còn đau đớn, còn tiếc nuối nữa. Và em ở nơi này vẫn nhớ đến . Em ghét chính mình vì điều đó. Kenichi phân vân mãi biết có nên đánh thức . lại bên ngoài rèm ngủ ở khoang nghỉ riêng của và phân vân có nên gọi lần nữa . bé và muốn đánh thức . Trông ấy rất mệt mỏi lúc ăn tối. ấy ngủ quên khi tay vẫn cầm dĩa. Khi có lực kéo liên tục của trọng lực, cơ thể bạn bị đổ sập xuống nếu bạn bị ngất. Và đầu bạn bị gật xuống để đánh thức bạn dậy. Người ta biết đến chuyện những phi hành gia mệt mỏi thường ngủ gật ngay trong khi sửa chữa và tay vẫn cầm dụng cụ. quyết định đánh thức dậy rồi quay , mình vào phòng thí nghiệm của Mỹ. Kenichi chưa bao giờ cần nghỉ hơn năm tiếng đêm. Trong khi những người khác ngủ, thường lang thang trong mê cung của Trạm vũ trụ quốc tế và kiểm tra các thí nghiệm khác nhau của . Kiểm tra và khám phá. Dường như chỉ khi nào phi hành đoàn ngủ Trạm vũ trụ mới thể những gì lấp lánh nhất của nó. Nó biến thành vật thể sống ầm ì, kêu lách cách. Các máy tính trạm điều khiển hàng nghìn chức năng khác nhau. Các mệnh lệnh bằng điện tử chạy xuyên suốt hệ thống đầu não đầy dây điện và dòng điện của nó. Khi Kenichi bay qua mê cung các đường hầm, nghĩ về những bàn tay con người lao động chỉ để tạo nên in-sơ trong cấu trúc này. Các công nhân điện và cơ khí, các thợ đổ khuôn nhựa. Các thợ làm kính. Nhờ lao động của họ mà con trai nông dân, lớn lên ngôi làng núi của Nhật giờ lơ lửng cách trái đất hai trăm hai mươi dặm. Kenichi ở trạm được tháng và kỳ diệu của tất cả những điều đó vẫn còn nguyên trong . biết thời gian được ở đây rất hạn chế. biết các nhà đầu tư đòi hỏi rất nhiều ở : canxi dần cạn kiệt trong xương , cơ bắp yếu dần, mạch và tim yếu dần vì bây giờ chúng còn phải làm nhiệm vụ bơm máu để chống lại trọng lực nữa. Mỗi giây phút Trạm vũ trụ đều quý giá và muốn phí phạm giây nào. Vì vậy trong suốt thời gian quy định nghỉ ngơi, lang thang khắp trạm, nán lại bên cửa sổ và xem những con vật trong phòng thí nghiệm. Bằng cách đó, phát ra con chuột chết. Nó lơ lửng, chân cứng đơ và duỗi ra. Cái miệng màu hồng mở to. Lại là con đực nữa. Đó là con chuột thứ tư chết trong vòng mười sáu ngày. kiểm tra và xác nhận là môi trường sống trong trạm vẫn hoạt động bình thường. Các mức nhiệt độ đặt sẵn hề bị biến đổi và luồng khí vẫn được duy trì ở mức chuẩn mực là mười hai đợt giờ. Sao chúng lại chết? Có thể do nhiễm độc nguồn nước hay thức ăn ? Vài tháng trước, trạm mất hàng chục con chuột khi các độc chất ngấm vào nguồn nước trong môi trường sống của chúng. Con chuột trôi lơ lửng ở góc buồng. Những con đực khác tụ thành đống ở góc xa như thể chúng khiếp sợ trước cái chết của con cùng lồng. Chúng điên cuồng tìm cách tránh xa con vật, móng của chúng bám chặt vào mép lồng. Ở bên kia khung phân cách, những con cái cũng túm tụm lại. Tất cả, trừ con. Nó co giật, lượn từ từ trong trung. Móng vuốt của nó cào cào như thể muốn bám chặt vào vật gì đó. Lại con khác bị ốm. Khi nhìn con cái đó ngáp lần cuối như bị tra tấn rồi đột nhiên bất động. Những con cái khác trong lồng đứng sát nhau hơn. Chúng như đám lông trắng quằn quại đau đớn và sợ hãi. phải ném hết các xác chết trước khi bệnh lây lan. - nếu đây là bệnh lây lan nó lan sang những con chuột khác. tiếp xúc với môi trường sống của chúng bằng hộp găng tay khoa học. thọc tay vào găng tay cao su. Đầu tiên, khi chạm ngăn dành cho những con cái trong lồng, lấy cái xác và cho nó vào túi. Rồi mở lồng của những con cái và đưa tay vào lấy con thứ hai bị chết. Khi lấy nó ra, túm lông màu trắng lao vụt qua tay . trong những con chuột chui vào hộp găng tay. túm lấy nó trong trung. gần như buông tay ra khi thấy cơn đau nhói. Nó cắn xuyên qua găng tay. Ngay lập tức, bỏ tay ra khỏi hộp, nhanh chóng tháo găng tay và nhìn chằm chằm ngón tay mình. giọt máu rỉ ra. nghĩ có máu nên cảm thấy buồn nôn. nhắm mắt lại, tự trách mình. có gì cả. - chỉ là vết cắn thôi. Con chuột trả thù chính đáng tất cả những mũi tiêm chích vào nó. lại mở mắt ra nhưng cơn buồn nôn vẫn còn. Mình cần nghỉ ngơi, nghĩ. bắt con chuột cố vùng vẫy, nhét nó vào lồng. Sau đó, cho hai xác chết vào túi, đặt chúng vào tủ lạnh. Ngày mai giải quyết vấn đề này. Ngày mai thấy khá hơn. Ngày 30 tháng 7 - Tôi phát ra con chuột này chết hôm qua. - Kenichi . - Nó là con số sáu. Emma cau mày nhìn những con chuột trong môi trường dành cho động vật. Nhà của chúng là chiếc lồng được chia ra, con đực ngăn cách với con cái chỉ bằng tấm lưới. Chúng sử dụng chung nguồn khí, nước và thức ăn. Ở bên ô của những con đực, con chết bất động, lơ lửng trong gian, chân nó duỗi thẳng, cứng đơ. Những con đực khác túm lại ở góc lồng. Chúng cào mạnh vào lồng như thể muốn thoát ra. - mất sáu con chuột trong mười bảy ngày ư? - Emma hỏi lại. - Năm con đực. con cái. Emma nghiên cứu các con vật còn sống xem có biểu bệnh . Chúng đều có vẻ tỉnh táo, mắt sáng, có dịch nhầy chảy ra từ mũi. - Trước hết, phải bỏ hết những con chết ra. - . - Sau đó, chúng ta xem các con khác kỹ hơn. dùng hộp găng tay, cho vào lồng và lấy con chết ra. Xác nó bị cứng, chân cũng cứng đơ, xương sống còn linh hoạt. Miệng nó hơi mở và đầu lưỡi lộ ra ít thịt màu hồng. Việc những con vật thí nghiệm chết trong vũ trụ là chuyện bình thường. chiếc tàu con thoi năm nghìn chín trăm chín mươi tám, gần trăm phần trăm các con chuột mới sinh chết. Tình trạng trọng lực là môi trường sống quá khác biệt và phải tất cả các loài đều thích nghi tốt. Trước khi phóng tàu, những con chuột này được xem xét rất kỹ để tránh vi khuẩn, nấm và vi-rút. Nếu có dấu hiệu lây nhiễm, chúng bị loại trước khi họ lên Trạm vũ trụ quốc tế. cho con chuột chết vào túi nhựa, thay găng tay, thò tay vào lồng lấy trong những con còn sống. Nó vùng vẫy rất mạnh, có dấu hiệu có bệnh gì. Đặc điểm bất thường duy nhất là bên tai bị rách do bị trong những con cùng lồng cắn. lộn nó lên để lộ ra phần bụng và thốt lên ngạc nhiên. - Nó là con cái. - . - Gì? - có con cái trong khu lồng của những con đực. Kenichi cúi sát hơn, nhìn bộ phận sinh dục của con vật qua cửa sổ của hộp găng tay. Bằng chứng được thấy rất . Mặt đỏ lừ vì ngượng. - Đêm qua. - giải thích. - Nó cắn tôi. Tôi vội cho nó vào. Emma cười thông cảm với . - Ồ, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là có em bé ra đời. Kenichi đeo găng tay và cho tay vào hộp găng tay thứ hai. - Tôi phạm sai lầm. - . - Tôi sửa. Họ cùng nhau kiểm tra những con chuột còn lại trong lồng nhưng thấy các mẫu thử nào bị bỏ sai vị trí. Tất cả đều hoàn toàn khỏe mạnh. - Điều này rất lạ. - Emma . - Nếu chúng ta gặp căn bệnh lây nhiễm phải có vài dấu hiệu lây lan… - Watson? - Griggs gọi trong máy điện đàm giữa các khoang. - Tôi trong phòng thí nghiệm. - . - có thư khẩn từ thiết bị vệ tinh. - Tôi đến đó ngay. - đóng lồng chuột và với Kenichi. - Để tôi kiểm tra tin nhắn. lấy mấy con chuột chết để trong buồng lạnh ra nhé! Chúng ta xem chúng. gật đầu và bay sang tủ lạnh. Khi đến chiếc máy tính ở khu làm việc, mở thư khẩn. Gửi: Bác sĩ Emma Watson. Người gửi: Helen Koenig, trưởng ban điều tra. Trả lời về việc: CCU số 23 (Mẻ tế bào Archaeon) Tin nhắn: Hãy hủy mẻ thí nghiệm này ngay lập tức. Các mẫu gần đây do tàu Atlantis gửi về có biểu bị nhiễm nấm. Toàn bộ các mẻ tế bào Archaeon, cùng các vật chứa chúng phải bị thiêu hủy hết ngay trong nồi nấu kim loại trạm và tro đốt phải ném ra khỏi tàu. Emma đọc lại tin nhắn màn hình. chưa từng nhận được cầu kỳ lạ như vậy. nhiễm nấm nguy hiểm lắm. Việc thiêu hủy cả mẻ tế bào có vẻ là việc quá tay. mải suy nghĩ đến mệnh lệnh này quá nên còn nhớ đến Kenichi. lấy những con chuột chết ra khỏi tủ lạnh. Chỉ khi nghe thấy tiếng thở gấp của , mới quay đầu lại. Đầu tiên, thấy khuôn mặt khủng khiếp của bám đầy đống ruột bẩn thỉu. Rồi nhìn chiếc túi ni-lông bị bục tung. Trong lúc hoảng loạn, để thả chiếc túi ra và nó lơ lửng tự do giữa họ. - Cái gì vậy? - hỏi. ngập ngừng. - Con chuột…
Chương 08 Phần 2 Nhưng thấy con chuột chết trong túi. Đó là mớ các mô chưa phân hủy, múi xơ toàn thịt và lông khiến người ta sợ điếng người. Và giờ chúng rỉ ra những giọt nước có mùi rất khó chịu. thảm họa sinh học! lao rất nhanh dọc theo khoang tàu, đến bảng cảnh báo và nhấn nút đóng lưu thông khí giữa các khoang. Kenichi mở khoang cấp cứu và lấy ra hai mặt nạ lọc khí. ném chiếc về phía . chụp lấy, rồi úp ngay lên mũi và miệng mình. Họ cần lời nào, họ đều biết cần phải làm gì. Họ nhanh chóng đóng cánh cửa ở đầu kia khoang tàu, và cách ly có hiệu quả phòng thí nghiệm với các khoang còn lại tàu. Sau đó, Emma lấy túi đựng chất thải sinh học, cẩn thận về phía chiếc túi lơ lửng chứa đầy thịt chảy thành nước. Áp lực bề mặt khiến chất lỏng bị giới hạn thành giọt nước. Nếu cẩn thận khiến khí lay động, có thể cho nó vào túi và để rơi ra giọt nào. nhàng hạ túi đựng chất bẩn lên mẫu vật trôi tự do rồi nhanh chóng đóng kín lại. nghe thấy Kenichi thở phào nhõm. Thảm họa được ngăn chặn. - Nó có rớt ra tủ lạnh ? - hỏi. - . Chỉ khi tôi lấy nó ra. - lau mặt bằng khăn tẩm cồn và đóng gói khăn lau lại cho an toàn. - Cái túi, nó… biết , nó phồng lên rất to, như quả bóng vậy. Vật chứa bên trong chịu áp lực, quá trình phân hủy sản sinh ra khí. Căn cứ vào chiếc túi nhựa đựng chất gây ô nhiễm, có thể thấy ngày con chuột chết nhãn. Điều này vô lý! nghĩ. Chỉ trong vòng năm ngày, cái xác phân hủy thành các đám thịt màu vàng pha đen. Khi sờ vào, chiếc túi vẫn lạnh, chứng tỏ tủ lạnh vẫn hoạt động bình thường. Dù được để trong kho lạnh nhưng yếu tố nào đó thúc đẩy quá trình phân hủy của cơ thể. Các vi khuẩn liên cầu ăn thịt chăng? băn khoăn. Hay đó là loại vi khuẩn khác có khả năng hủy hoại tương đương? nhìn Kenichi và nghĩ. Nó bắn vào mắt ấy. - Chúng ta cần chuyện với nhân viên kiểm tra chính của . - . - Đó chính là người gửi những con chuột này lên. Lúc đó mới năm giờ sáng, tính theo giờ ban ngày của khu vực Thái Bình Dương nhưng giọng của bác sĩ Michael Loomis, nhân viên kiểm tra chính cho thí nghiệm mang tên “ thụ thai và quá trình thai nghén ở chuột trong suốt chuyến bay trong vũ trụ” được mọi người để ý sát sao và rất quan tâm. ta với Emma từ Trung tâm nghiên cứu Ames tại California. Dù nhìn thấy ta nhưng Emma có thể hình dung ra người đàn ông có giọng như thế này: cao lớn và năng động. Đó là người đàn ông mà đối với ta, năm giờ sáng là thời gian làm việc bình thường. - Chúng tôi theo dõi và kiểm tra những con vật này hơn tháng. - Loomis . - Đây là thí nghiệm gây quá nhiều áp lực cho con vật. Chúng tôi dự định trộn lẫn những con đực và con cái tuần sau và hy vọng chúng kết bạn và giao phối thành công. Nghiên cứu này có khả năng ứng dụng quan trọng cho các chuyến bay vũ trụ dài hạn và cho việc tìm ra và sở hữu các hành tinh mới. Như có thể tưởng tượng ra những con chết khiến chúng tôi khá buồn. - Chúng tôi có các mẻ tế bào nuôi trong lồng ấp. - Emma . - Toàn bộ những con chuột chết có vẻ như phân hủy nhanh hơn mức bình thường. Căn cứ vào tình trạng của các xác chết, tôi lo ngại về việc lây nhiễm các khuẩn clostridia hay khuẩn liên cầu. - Có các vi khuẩn nguy hiểm như vậy trạm ư? Đó là vấn đề rất nghiêm trọng. - Đúng vậy! Đặc biệt là trong môi trường khép kín như của chúng tôi. Chúng tôi đều có nguy cơ bị lây bệnh. - Còn việc khám nghiệm các xác chuột sao? Emma ngập ngừng. - Chúng tôi mới chỉ bắt tay vào việc giải quyết ô nhiễm cấp độ II ở đây. có gì nguy hiểm hơn. Nếu đây là mầm bệnh nguy hiểm tôi thể để có nguy cơ ảnh hưởng đến các động vật khác. Và cả con người nữa. Họ im lặng. Sau đó, Loomis . - Tôi hiểu. Và tôi nghĩ tôi đồng ý với . hủy an toàn các xác chết chưa? - Tôi làm ngay rồi. Ngày 31 tháng 7 Lần đầu tiên kể từ khi đến Trạm vũ trụ quốc tế, Kenichi ngủ được. kéo khóa túi ngủ hàng tiếng rồi nhưng vẫn thức và nghĩ nghĩ lại về vấn đề hóc búa từ những con chuột chết. Dù ai lời trách móc nào nhưng ở mức độ nào đó, phải chịu trách nhiệm về thí nghiệm bị thất bại. cố nghĩ xem làm sai điều gì. Có lẽ dùng kim tiêm bị nhiễm bẩn khi lấy mẫu máu của chúng, hoặc là sơ suất khi sắp đặt lại môi trường sinh sống của chúng? Các ý nghĩ về tất cả các lỗi lầm có thể gây ra khiến tài nào ngủ được. Đầu đau như búa bổ. nhận ra khó chịu lần đầu tiên vào sáng nay khi hai mắt lờ mờ đau nhói. Càng về cuối ngày, cơn đau nhói càng khó chịu, và giờ nửa đầu bên trái của đau nhức. Đó phải là cơn đau dữ dội mà chỉ hơi khó chịu. mở khóa túi ngủ. nghỉ ngơi khi có bất cứ chuyện gì, có lẽ nên kiểm tra lại lũ chuột. bay qua khoang ngủ của Nicolai và về phía dãy các khoang nối tiếp nhau dẫn đến khoang của Mỹ. Chỉ khi vào phòng thí nghiệm mới nhận ra có người nữa trong phòng. Những giọng lầm bầm trong phòng thí nghiệm NASDA bên cạnh. lặng lẽ bay sang nút số hai, nhìn qua cánh cửa để mở. thấy Diana Estes và Michael Griggs quấn chân vào nhau, miệng họ gắn chặt trong lúc nghiến ngấu khám phá nhau. Ngay lập tức, lùi lại và bị phát . Mặt đỏ lên vì ngượng do những gì vừa thấy. Giờ sao đây? có nên cho họ riêng tư và lui về khoang ngủ của mình ? Điều này hay ho chút nào, bỗng tức giận nghĩ. Mình ở đây để làm việc, để hoàn thành những nhiệm vụ của mình. bay sang khoang nuôi động vật. cố tình ồn ào khi mở và đóng các ngăn kéo trong ô. lúc sau, như nghĩ, Diana và Griggs thình lình xuất . Cả hai đều đỏ mặt. Bọn họ nên như thế, nghĩ, khi nghĩ đến những gì họ vừa làm. - Chúng ta có rắc rối với máy ly tâm. - Diana dối. - Tôi nghĩ giờ nó được sửa. Kenichi chỉ gật đầu, để lộ ra bất cứ dấu hiệu gì chứng tỏ biết . Diana lạnh lùng như băng về việc này và cả hai đều tỏ ra giận . Ít ra Griggs cũng còn chút nhân cách nên trông có vẻ hơi hối lỗi. Kenichi nhìn theo khi bọn họ bay ra khỏi phòng thí nghiệm và biến mất ở cửa vào. Rồi lại chú ý vào môi trường sống của lũ chuột. nhìn sát vào lồng. con nữa lại chết. con cái. Ngày 1 tháng 8 Diana Estes bình tĩnh nâng tay lên để quấn ga-rô và gấp, duỗi tay vài lần để phần mạch trước khuỷu tay phồng lên. nhăn mặt hay quay khi mũi tiêm chọc qua da. Thực Diana rất lạnh lùng. Có thể đứng nhìn người khác bị lấy máu. Mỗi phi hành gia đều chịu đau đớn nhiều lần trong suốt thời gian làm việc. Ở khâu chọn lựa, họ phải chịu nhiều lần lấy máu, các bài kiểm tra thể chất và những câu hỏi khó chịu nhất. Các chất trong huyết thanh, điện tâm đồ và số lượng tế bào được báo cáo liên tục và được các bác sĩ y khoa vũ trụ nghiên cứu kỹ. Họ thở hổn hển và vã mồ hôi với guồng làm việc đơn điệu, cùng các vật mạ điện gắn vào ngực họ, các chất dịch trong cơ thể họ bị biến đổi, ruột và từng phần da cũng bị kiểm tra kỹ. Các phi hành gia chỉ được huấn luyện cao độ về mặt nhân , họ còn là vật thí nghiệm. Trong khi bay quanh quỹ đạo, họ tự bắt mình tham gia vào những bài kiểm tra rất đau đớn. Hôm nay là ngày lấy mẫu máu. Là bác sĩ trạm, Emma là người cầm kim tiêm và xi-lanh nên hề ngạc nhiên khi ai cũng chán nản kêu lên khi thấy đến. Chỉ có Diana giơ tay ra sẵn sàng chờ đợi. Emma chờ cho kim tiêm bơm đầy máu, cảm nhận thấy ánh mắt người phụ nữ kia theo dõi và đánh giá kỹ năng, kỹ xảo của mình. Nếu công nương Diana là bông hồng của nước tại Trung tâm vũ trụ Johnson, người ta đùa rằng Diana Estes là cục đá lạnh của nước . Đó là phi hành gia có thái độ kiêu hãnh bao giờ bị bẻ gãy, thậm chí khi ở trong tình thế nước sôi lửa bỏng. Bốn năm trước, Diana ở tàu Atlantis khi động cơ chính ngừng hoạt động. Trong đoạn băng phát về cho phi hành đoàn, giọng của viên chỉ huy, viên lái tàu đều có vẻ hoảng hốt khi họ điều khiển hủy phóng tàu sang bờ bên kia Đại Tây Dương. Nhưng đó phải là giọng của Diana. Người ta nghe thấy lạnh lùng đọc danh sách các việc cần làm khi tàu Atlantis lao ầm ầm xuống để hạ cánh an toàn ở Bắc Phi. điều nữa gắn danh tiếng lạnh như băng cho là khi lấy các mẫu thử sinh học. Trong lần phóng tàu, cả phi hành đoàn đều bị gắn dây điện để đo huyết áp và nhịp tim. Trong khi nhịp tim của những người khác tăng vọt nhịp tim của Diana hầu như tăng quá chín mươi sáu nhịp. Đây là mức khi người ta thấy khoan khoái. - Đó là vì ấy phải là con người. - Jack đùa. - ấy thực là người máy, là cỗ máy đầu tiên trong dây chuyền các phi hành gia tân tiến nhất của trung tâm NASA. Emma phải thừa nhận rằng người phụ nữ này có cái gì đó thuộc về con người. Diana nhìn vết tiêm tay, thấy máu ngừng chảy và như chuyện tất nhiên, quay trở lại với những thí nghiệm về việc phát triển các chất protein trong suốt của mình. là người máy hoàn hảo . Chân tay dài, mảnh khảnh, nước da mịn màng và có màu tái như sữa do sống tháng trong vũ trụ. Tất cả những điều đó còn được cộng thêm bộ óc thông minh siêu phàm. Đó là lời của Jack, người huấn luyện cùng Diana cho nhiệm vụ tàu con thoi mà bao giờ hoàn thành được. Diana có bằng tiến sĩ về khoa học nghiên cứu các nguyên liệu và xuất bản vài chục bài nghiên cứu về khoáng chất zeolit. - các nguyên liệu kết tinh được sử dụng trong công nghiệp lọc dầu. - trước khi được nhận vào chương trình làm phi hành gia. Giờ ta là nhà khoa học kiêm nhiệm cả các nghiên cứu hữu cơ và vô cơ. trái đất, hình thành các tinh thể bị trọng lực làm hỏng. Trong vũ trụ, các tinh thể phát triển lớn hơn và phức tạp hơn, cho phép con người nghiên cứu toàn diện hơn cấu trúc của chúng. Hàng trăm chất protein trong cơ thể con người, từ chất protein trong máu đến các chất kích dục cố định đều được nuôi cấy như các tinh thể Trạm vũ trụ quốc tế. Đây là nghiên cứu y dược quan trọng có thể mở đường cho việc phát triển các loại thuốc mới. Khi làm xong cho Diana, Emma rời phòng thí nghiệm của Hãng hàng Vũ trụ Châu Âu, về khoang nghỉ ngơi để tìm Mike Griggs. - là người tiếp theo. - thông báo. ta lầm bầm và miễn cưỡng đưa tay ra. - Tất cả vì khoa học. - Lần này chỉ lấy ống thôi. - Emma trong khi buộc ga-rô. - Chúng tôi bị tiêm nhiều mũi lắm rồi, đến mức trông chúng tôi chẳng khác gì bọn nghiện ngập. đập vào cánh tay ta mấy cái để làm dịu mạch máu dưới khuỷu tay. Nó phồng lên, có màu xanh và trông như sợi dây dưới cánh tay lực lưỡng của ta. Griggs cảm thấy gò bó khi phải sống trong tình trạng bị kiểm soát. - việc sống trong quỹ đạo hề đơn giản. Cuộc sống Trạm vũ trụ tổn hại rất nhiều đến cơ thể con người. Khuôn mặt của các phi hành gia sưng húp lên, phồng to lên vì các chất dịch bị biến đổi. Các cơ đùi và bắp chân của họ teo tóp lại cho đến khi họ chỉ còn lại “những cái chân gà”. Chúng tái xám và gầy nhô xương, thò ra khỏi những chiếc quần đùi quá rộng như bị may lỗi. Nhiệm vụ của họ rất nặng nề và khó chịu cũng thể đếm hết được. Họ cảm thấy như bị tra tấn về tinh thần là bị nhốt hàng tháng trời cùng các thành viên trong đoàn, những người cũng chịu áp lực, hiếm khi được tắm và mặc toàn quần áo bẩn. Emma dùng khăn lau chất cồn rồi xuyên kim vào mạch. Máu chảy vào trong xi-lanh. nhìn ta và thấy ta quay . - sao chứ? - sao. Tôi rất cảm ơn con ma cà rồng có kỹ xảo. tháo ga-rô và nghe thấy ta thở dài khi rút mũi tiêm ra. - Giờ ăn sáng được rồi. Tôi lấy máu của mọi người, trừ Kenichi. - nhìn quanh khoang sinh hoạt. - ấy đâu nhỉ? - Sáng nay tôi chưa gặp ấy. - Tôi hy vọng ấy chưa ăn gì. Điều đó khiến lượng đường glu--zơ bị bóp chặt. Nicolai lặng lẽ bay ra góc và ăn sáng xong. - ấy vẫn ngủ. - Lạ . - Griggs . - ấy luôn thức dậy trước mọi người mà. - Giấc ngủ của ấy sâu lắm. - Nicolai . - Đêm qua, tôi nghe thấy ấy nôn mửa. Tôi hỏi có thể giúp gì ấy từ chối. - Tôi đến xem. - Emma . rời khoang sinh hoạt, theo hướng đường ống dài loằng ngoằng đến khoang dịch vụ của Nga. Đó là chỗ ngủ của . thấy rèm cửa cá nhân của vẫn khép. - Kenichi? - gọi to. ai trả lời. - Kenichi? - thoáng lưỡng lự, mở rèm và thấy khuôn mặt . Mắt đỏ tươi như máu. - Trời ơi! - kêu lên. DỊCH BỆNH Chương 09 Phần 1 CHÍN Bác sĩ chuyến bay vận hành bảng điều khiển cho việc điều hành đặc vụ Trạm vũ trụ quốc tế là bác sĩ Todd Cutler. Vị bác sĩ này là khuôn mặt mới và trẻ đến mức các phi hành gia đặt cho cái tên “Doogie Howser” sau khi có chương trình truyền hình về bác sĩ thiếu niên. Thực Cutler ba mươi hai tuổi và nổi tiếng nhờ năng lực rất vững vàng. là bác sĩ riêng của Emma khi ở quỹ đạo. Mỗi tuần lần, trong suốt cuộc họp y khoa riêng, chuyện với qua khoang liên lạc đóng kín và báo cáo lại cho hầu như mọi chi tiết kín đáo nhất về tình hình sức khỏe của . tin vào nghiệp vụ y khoa của Todd. Vì vậy thở phào nhõm khi là bác sĩ trực vào thời điểm đó tại phòng điều khiển Trạm vũ trụ quốc tế tại Johnson. - ấy bị xuất huyết màng cứng ở cả hai mắt. - . - Điều đó khiến tôi như rơi vào địa ngục khi thấy nó. Tôi nghĩ ấy bị như vậy là do bị nôn đêm qua… những biến đổi áp lực đột ngột tác động vào các thành mạch trong mắt. - Giờ đó chỉ là mối lo ngại . tượng xuất huyết biến mất. - Todd . - Phần còn lại của bài kiểm tra sao? - ấy bị sốt ba tám phẩy sáu độ. Mạch hai mươi, huyết áp trăm sáu mươi, tim và phổi có vẻ ổn. ấy kêu bị nhức đầu nhưng tôi thấy bất cứ thay đổi nào trong não. Điều khiến tôi lo lắng thực là ấy có tiếng óc ách gì trong ruột. Bụng ấy mềm nhão. ấy nôn mấy lần chỉ trong vòng giờ qua, đến lúc này bụng ấy bị xuất huyết. - ngừng lại. - Todd, ấy có vẻ ấm lắm. Và đây mới là tin xấu. Tôi đo lượng men phân giải tinh bột amilaza của ấy. Nó lên đến mức sáu trăm. - Chết tiệt! nghĩ ấy có vấn đề với tuyến tụy ư? Trong trường hợp lượng amilaza tăng đột biến điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Amilaza là loại enzim được tạo ra trong tuyến tụy. Mức độ của nó thường tăng vọt khi cơ quan đó bị nóng lên. Nhưng lượng amilaza cao cũng có thể là biểu của các bệnh đường ruột cấp tính khác như bị thủng ruột hay viêm loét tá tràng. - Các tế bào bạch cầu cũng tăng cao. - Emma tiếp. - Tôi chích máu, phòng khi… - Vậy bệnh án ra sao? Có rắc rối gì ? - Hai vấn đề. là, ấy bị căng thẳng đầu óc. trong các thí nghiệm của ấy bị trục trặc và ấy cảm thấy phải có trách nhiệm. - Và điều thứ hai? - ấy bị chất dịch của con chuột chết trong phòng thí nghiệm bắn vào mắt hai hôm trước. - hơn ! - Giọng của Todd đột nhiên trầm xuống. - Những con chuột trong phòng thí nghiệm của ấy chết dần mà nguyên nhân. Các xác chết bị phân hủy nhanh đến ngạc nhiên. Tôi lo là có loại vi khuẩn nuôi mầm bệnh nên tôi lấy mẫu dịch của con vật để xem mẻ cấy. may là các mẻ đó bị hỏng hết. - Sao? - Tôi nghĩ đó là kiểu nhiễm nấm. Các đĩa cấy chuyển hết sang màu xanh lá cây. tìm thấy bất cứ mầm bệnh nào. Tôi phải hủy các đĩa đó. thí nghiệm khác cũng bị tương tự đối với mẻ tế bào của các sinh vật biển. Chúng tôi phải hủy dự án đó vì nấm xâm nhập vào ống nuôi mẻ cấy. may là phát triển của nấm trong mẻ cấy là tượng bình thường trong môi trường khép kín Trạm vũ trụ quốc tế mặc dù có luồng khí lưu thông liên tục. Trạm vũ trụ trước đây tên là Mir, các cửa sổ đôi khi bị phủ lớp nấm dày. Khi môi trường tàu bị các sinh vật này làm cho nhiễm bẩn tiếp theo, chúng thể bị diệt hết. Điều may mắn là nhìn chung chúng vô hại với con người và các động vật trong phòng thí nghiệm. - Vậy là chúng ta biết ấy có tiếp xúc với bất cứ mầm bệnh nào ? - . Ngay lúc này nó có vẻ như ấy bị viêm tuyến tụy chứ phải bị nhiễm khuẩn. Tôi bắt đầu đo mạch đập. Tôi nghĩ đến lúc cho ống thông mũi vào. - dừng lại, rồi nhát gừng . - Chúng ta cũng cần tính đến khả năng phải tản cư khẩn cấp. Họ im lặng rất lâu. Đây là khả năng mọi người sợ nhất, là quyết định ai muốn. Phương tiện quay về của cả phi hành đoàn vẫn ở Trạm vũ trụ quốc tế mỗi khi có người trạm và nó đủ lớn để di chuyển toàn bộ phi hành đoàn sáu người. Kể từ khi các đầu mang khí cụ khoa học con tàu Soyuz còn hoạt động, phương tiện quay trở về trái đất là công cụ di dời duy nhất trạm. Nếu nó rời tất cả bọn họ cũng lên tàu. Vì người ốm, họ buộc phải rời Trạm vũ trụ quốc tế và hủy hoàn toàn hơn hàng trăm cuộc thí nghiệm tàu. Đó là thất bại nặng nề đối với trạm. Nhưng còn lựa chọn khác. Họ có thể đợi cho đến khi có chuyến bay tàu con thoi tiếp theo để di dời Kenichi. Giờ chỉ còn là quyết định về mặt y học. ấy có thể đợi được ? Emma biết NASA trông cậy vào các phán đoán y khoa của và trách nhiệm đổ dồn hết lên vai . - Còn việc di dời tàu con thoi sao? - hỏi. Todd Cutler hiểu tình thế tiến thoái lưỡng nan đó. - Chúng ta có tàu Discovery được đưa lên bệ phóng thuộc hệ thống vận chuyển tàu con thoi hiệu số 161. Từ nay đến lúc phóng còn mười lăm ngày nữa. Nhưng nhiệm vụ của tàu là nhiệm vụ quân đặc biệt. Nó đưa vệ tinh về để sửa chữa. Phi hành đoàn của tàu 161 vẫn chưa được chuẩn bị để gắn vào và gặp gỡ Trạm vũ trụ quốc tế. - Có thể thay thế họ bằng phi hành đoàn của Kittredge được ? Đó là phi hành đoàn trước kia của tôi mang hiệu số 162. Họ có lịch hạ cánh trạm trong bảy tuần nữa. Họ chuẩn bị đầy đủ rồi. Emma nhìn Mike Griggs lượn bên cạnh và nghe cuộc chuyện. Là chỉ huy trạm, mục đích hết của ta là giữ cho trạm tiếp tục hoạt động và ta chịu bỏ lại. ta tham gia cuộc chuyện. - Cutler, Griggs đây. Nếu phi hành đoàn của tôi phải di dời chúng tôi mất toàn bộ các thí nghiệm. Đó là mồ hôicông sức hàng tháng trời miệt mài của chúng tôi. Cứu hộ bằng tàu con thoi là phương án hợp lý nhất. Nếu Kenichi cần về nhà các vị lên mà đưa ta về. Hãy để chúng tôi ở lại đây và làm nốt phần việc của mình. - Việc cứu hộ có thể đợi lâu như vậy ? - Todd hỏi. - Các vị có thể đưa con chim đó lên đây sớm nhất là khi nào? - Griggs . - Chúng tôi phải bàn bạc chuyện hậu cần. Các cửa sổ tàu… - Hãy cho chúng tôi biết bao lâu. - Griggs cắt ngang. Cutler ngừng lại. - Giám đốc điều hành bay Ellis đứng cạnh tôi. Hãy , giám đốc. Bắt đầu là cuộc chuyện kín đáo giữa hai bác sĩ giờ được tiết lộ cho cả giám đốc điều hành bay. Họ nghe thấy Woody Ellis . - Ba mươi sáu tiếng. Đó là thời gian phóng tàu nhanh nhất có thể. Rất nhiều việc có thể thay đổi trong ba mươi sáu tiếng, Emma nghĩ. vết loét có thể đục thủng hay xuất huyết tuyến tụy có thể khiến cho bệnh nhân bị sốc và bị nhiễm khuẩn đường ruột. Hoặc là Kenichi hồi phục hoàn toàn nếu là nạn nhân của căn bệnh nghiêm trọng hơn bệnh nhiễm khuẩn đường ruột. - Bác sĩ Watson là người theo dõi bệnh nhân. - Ellis . - Ở đây chúng tôi trông đợi nhận định của ấy. Các xét nghiệm y khoa cho thấy gì? Emma suy nghĩ về điều đó. - ấy cần phẫu thuật bụng khẩn cấp… ít ra phải là lúc này. Nhưng mọi chuyện có thể xấu rất nhanh. - Vậy là chắc. - Đúng vậy. - Khi với chúng tôi, chúng tôi vẫn cần hai mươi bốn tiếng để nạp nhiên liệu. Cả ngày chậm trễ và mất thời gian giữa việc cứu hộ và phóng tàu , cộng thêm thời gian phụ để gặp gỡ. Nếu Kenichi đột nhiên đổi hướng theo chiều hướng xấu có thể khiến sống lâu như vậy ? Tình thế này đau đầu. là bác sĩ chuyên khoa chứ phải thầy bói. có thiết bị chụp X-quang để tùy ý sử dụng, cũng có phòng mổ. Việc kiểm tra thể lực và xét nghiệm máu có biểu bất thường nhưng chính xác. Nếu lựa chọn phương án trì hoãn cứu hộ Kenichi có thể chết. Nếu cầu giúp đỡ quá sớm hàng triệu đô la bị phung phí cho lần phóng tàu. Quyết định sai theo trong hai cách đều chấm dứt nghiệp của với NASA. Đây chính là sợi dây thòng lọng mà Jack cảnh báo . Mình gặp rắc rối và cả thế giới biết điều đó. Họ chờ xem mình có đưa ra quyết định đúng đắn . nhìn những bản in báo cáo về các bài xét nghiệm máu của Kenichi. Ở đó thấy có lý do gì để hoảng loạn, vẫn chưa có gì. . - Giám đốc, tôi luồn ống thở cho ấy và bắt đầu thông ống vào mũi. Ngay lúc này các dấu hiệu cơ bản của ấy vẫn ổn định. Tôi chỉ ước tôi biết bụng dạ ấy có vấn đề gì. - Vậy theo việc phóng tàu con thoi khẩn cấp vẫn chưa xác định? thở dài. - Chưa, vẫn chưa đâu. - Tuy nhiên, chúng tôi luôn cảnh giác và thắp sáng đèn tàu con thoi Discovery nếu cần thiết. - Tôi rất cảm ơn về việc đó. Tôi liên lạc với giám đốc sau để báo cáo về tình trạng mới nhất của ấy. - ra hiệu kết thúc và nhìn Griggs. - Tôi hy vọng tôi thực cuộc gọi đúng đắn. - Chỉ cần chữa trị cho ấy, thế nhé! tiếp tục kiểm tra Kenichi. ấy cần được theo dõi suốt đêm nên chuyển khỏi phòng sinh hoạt vào phòng thí nghiệm của Mỹ. Như vậy những người còn lại trong đoàn bị mất giấc ngủ. bị nhốt trong chiếc túi ngủ. Đường truyền liên tục dẫn dung dịch nước và muối vào các tĩnh mạch của . vẫn thức và ràng cảm thấy rất khó chịu. Luther và Diana đứng trông chừng bệnh nhân nãy giờ và cả hai đều nhõm khi thấy Emma. - ấy lại nôn. - Diana . Emma cố định chân để giữ nguyên vị trí rồi áp ống nghe lên tai. nhàng đặt đầu ống nghe lên bụng Kenichi. Vẫn hề có thanh đường ruột. Các đường tiêu hóa của đóng lại và các chất dịch bắt đầu tích tụ trong bụng. Chất dịch đó cần phải bị hút ra ngay. - Kenichi. - . - Tôi đút ống dẫn vào bụng . Nó giúp giảm đau và có thể bị nôn nữa. - Gì? Ống dẫn á? - Ống dẫn qua mũi. - mở hộp dụng cụ y khoa hỗ trợ sống cao cấp. Bên trong có rất nhiều loại đồ đạc và thuốc, bộ sưu tập phong phú như xe cứu thương đại. Trong ngăn kéo có dòng chữ HÀNG chứa rất nhiều ống, các thiết bị hút, các túi đựng chất thải và dụng cụ soi thanh quản. xé gói chứa dụng cụ thông mũi. Nó bé, được cuộn lại, làm bằng nhựa hoạt tính và có đầu được đục thủng. Cặp mắt đỏ như máu của Kenichi mở to. - Tôi nhàng hết sức. - . - có thể khiến nó vào nhanh hơn nếu uống ngụm nước khi tôi bảo. Tôi cho đầu này vào lỗ mũi . Cái ống này trôi xuống cổ họng . uống nước, rồi nó vào bụng. Phần khó chịu nhất chỉ là phần đầu, khi tôi mới đưa vào. Sau khi nó vào vị trí, nó làm khó chịu nữa. - Nó ở trong đó bao lâu? - Ít nhất là ngày, cho đến khi nào ruột hoạt động trở lại. - nhàng thêm. - Điều này rất cần thiết, Kenichi ạ. thở dài, gật đầu. Emma nhìn Luther. ta có vẻ như ngày càng sợ khi nghĩ đến cái ống này. - ấy cần nước để nuốt nó. lấy thêm được ? - sau đó, nhìn Diana lơ lửng bên cạnh. Như mọi khi, Diana trông vẫn như , lạnh lùng quan sát tượng đó. - Tôi cần lắp đặt để hút dịch. Diana tự động đến gần hộp dụng cụ cấp cứu cao cấp, lấy thiết bị hút và túi đựng chất thải. Emma làm thẳng cuộn ống thông mũi. Trước hết, nhúng đầu vào chất gen bôi trơn để nó dễ dàng qua lỗ mũi. Sau đó, đưa cho Kenichi túi nước được Luther đổ đầy. nắm chặt tay Kenichi để động viên. Mặc dù sợ hãi trong mắt nhưng vẫn đáp lại bằng cái gật đầu hài lòng. Đầu đâm vào của chiếc ống lấp lánh chất bôi trơn. thọc đầu ống vào lỗ mũi bên phải của , nhàng ấn vào sâu hơn, rồi vào ống thông mũi và thanh quản. nôn ọe, chảy nước mắt và bắt đầu ho để ngăn ống trượt sâu vào phần sau cổ họng. ấn nó vào sâu hơn. Giờ quằn quại, chiến đấu bằng bản năng mạnh mẽ để đuổi và dứt ống khỏi mũi. - Uống ít nước . - giục. nhăn mặt, bàn tay run run đưa ống hút vào miệng. - Uống , Kenichi! - dỗ. Khi ngụm nước to từ cổ họng vào thực quản, nắp thanh quản linh động đóng đường dẫn đến khí quản, cho nước rỉ ra phổi. Nó cũng định hướng cho ống thông mũi xuống đúng chỗ. Khi nhìn thấy bắt đầu nuốt, nhanh chóng ấn thêm ống vào, đẩy nó qua cổ, xuống thực quản cho đến khi nó trôi xa và đầu kia chạm đến dạ dày. - Tất cả xong. - và dán ống vào mũi. - làm tốt lắm! - Sẵn sàng hút. - Diana . Emma nối ống thông mũi với thiết bị hút. Họ nghe thấy những tiếng ùng ục, rồi chất dịch đột ngột xuất trong ống, chảy ra từ dạ dày của Kenichi vào túi đựng. Nó có màu xanh như mật, có máu. Emma thở phào khi nhận thấy điều đó. Có lẽ ấy chỉ cần điều trị thế này, bụng dạ cần nghỉ ngơi, ống thông mũi và hút các chất dịch tụy. Nếu ấy thực bị viêm tuyến tụy điều trị bằng cách này cũng giúp chịu đựng thêm mấy ngày cho đến khi tàu con thoi đến. - Đầu tôi đau lắm. - Kenichi kêu lên và nhắm chặt mắt. - Tôi cho uống thuốc giảm đau. - Emma an ủi. - nghĩ sao? Cơn nguy kịch qua chưa? - Đó là giọng của Griggs. ta đứng ở cửa vào, quan sát toàn bộ quá trình. Mặc dù lúc này ống thông được cho vào nhưng Griggs vẫn lùi lại như thể chỉ cần nhìn thấy bệnh đó cũng khiến ta lùi lại. ta thậm chí thèm nhìn người bệnh mà mắt dán chặt vào Emma. - Chúng tôi phải xem . - Emma . - Tôi phải báo cáo với Houston thế nào? - Tôi cho ống vào. Giờ còn quá sớm. - Họ cần biết sớm. - Ôi, tôi biết! - Sau đó, nuốt giận và bình tĩnh hơn. - Chúng ta bàn vấn đề này trong khoang sinh hoạt được chứ? - để Luther ở lại với người bệnh và qua cửa vào. Tại khoang sinh hoạt, và Griggs có thêm Nicolai. Họ đứng quanh bàn bếp như thể ăn cùng nhau. Nhưng thực ra, điều họ chia sẻ là cơn phẫn nộ của mình trong tình thế chắc chắn. - là bác sĩ chuyên khoa. - Griggs gắt. - đưa ra quyết định được sao? - Tôi vẫn cố ổn định ấy… Ngay lúc này tôi biết tôi đương đầu với căn bệnh gì. Nó có thể hết trong hoặc hai ngày. Hoặc nó cũng có thể đột ngột xấu . - Và thể cho chúng tôi biết có chuyện gì xảy ra. - có máy chụp X-quang, có phòng mổ tôi thể thấy bên trong ấy có vấn đề gì. Tôi thể dự đoán tình hình ngày mai của ấy ra sao. - Tuyệt! - Tôi nghĩ rằng ấy nên về nhà. Tôi muốn việc phóng tàu được thực càng sớm càng tốt. - Còn việc di dời bằng phương tiện cứu hộ khẩn cấp sao? - Nicolai hỏi. - Chuyến bay tàu con thoi được điều khiển luôn là cách tốt hơn để vận chuyển người bệnh. - Emma . - Chuyến về bằng phương tiện khẩn cấp rất khó khăn và phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện thời tiết dưới trái đất. Rất có khả năng họ thể hạ cánh ở nơi tốt nhất để chuyển ấy đến bệnh viện. - Hãy quên chuyện di dời bằng tàu khẩn cấp ! - Griggs thẳng thừng. - Chúng ta bỏ trạm. Chương 09 Phần 2 Nicolai đưa ra ý kiến. - Nếu ấy bị nặng hơn… - Chỉ cần Emma giữ cho ấy còn sống đủ lâu đến khi tàu Discovery đến đây. Chết tiệt , cái trạm này là xe cứu thương quay quanh quỹ đạo mất rồi! Đáng lẽ ta phải có khả năng giữ cho ấy ổn định. - Nếu ấy thể sao? - Nicolai nhấn mạnh. - sống của người còn quan trọng hơn nhiều so với những thí nghiệm này. - Đó là lựa chọn cuối cùng. - Griggs nuối tiếc. - Tất cả chúng ta nhảy lên phương tiện di dời khẩn cấp. Chúng ta bỏ lại các thí nghiệm thực hàng tháng trời. - Nghe này, Griggs. - Emma . - Tôi muốn rời trạm này chẳng kém gì . Tôi đấu tranh mệt mỏi để được lên đây và tôi cũng muốn chuyến của mình ngắn lại. Nhưng bệnh nhân của tôi cần di dời khẩn cấp lúc đó chính tôi gọi điện cầu. - Xin lỗi, Emma. - Diana khi bay qua cửa ra vào. - Tôi vừa hoàn thành kiểm tra máu cho Kenichi. Tôi nghĩ nên xem thứ này. đưa cho Emma bản in. Emma nhìn kết quả: chất creatin: 20, 6 (thông thường là 0 đến 3, 0. Căn bệnh này còn hơn cả bệnh viêm tuyến tụy, hơn cả rối loạn đường ruột. Nồng độ chất creatin cao chứng tỏ cả cơ hoặc tim ấy bị hủy hoại. Chứng nôn mửa đôi khi là triệu chứng của bệnh đau tim. nhìn Griggs. - Tôi quyết định rồi. Hãy báo với Houston phóng ngay tàu con thoi lên. Kenichi phải về nhà. Ngày mùng 2 tháng 8 Jack buộc chặt cánh buồm. Hai cánh tay rám nắng của lấp lánh mồ hôi khi buộc dây vào cột buồm. Sau tiếng, cánh buồm căng gió. Con tàu Sanneke đánh đuôi về phía khuất gió. Lưng buồm đột ngột lao nhanh hơn qua khu nước lầy tại vịnh Galveston. bỏ lại vịnh Mexico phía sau và thuyền quanh mũi Bolivar sớm hơn trong chiều hôm đó. lách qua những chiếc phà đảo Galveston. Giờ qua chuỗi các nhà máy lọc dầu bờ thành phố Texas khi cho thuyền về phía bắc theo hướng Clear Lake. Đó là hướng về nhà. Bốn ngày biển quanh khu vịnh khiến da nâu giòn, đầu tóc bờm xờm. thông báo cho bất cứ ai về những dự định của mình. chỉ chuẩn bị đồ ăn và căng buồm về khu nước mênh mông, qua khỏi tầm nhìn thấy đất liền. vào màn đêm bao trùm lấy mắt và ngạc nhiên khi thấy những vì sao. nằm ngửa mặt boong, những đợt nước trong vịnh nhàng lắc thân tàu ngay bên dưới. nhìn bầu trời đêm hàng giờ liền. Hàng hà sa số những ngôi sao tỏa ra mọi hướng trời và xa ngút tầm mắt. lao trong vũ trụ. Mỗi đợt sóng biển cuộn lên lại cuốn sâu hơn vào vòng xoáy của dải ngân hà khác. để đầu óc thảnh thơi, nghĩ về bất cứ điều gì ngoài những vì sao và biển cả. Sau đó, mảnh thiên thạch lóe lên vệt sáng chói và bỗng nghĩ về Emma. thể đặt hàng rào ngăn cách đủ cao để xóa hết hình ảnh của khỏi tâm trí. Lúc nào cũng ở đó, bay lượn mép thuyền và chờ đến lúc lao vào tâm trí lúc lơ đãng hay muốn nhất. trở nên cứng rắn, đôi mắt nhìn chăm chăm vào vệt sáng tắt dần của mảnh thiên thạch đó. Mặc dù chẳng có gì thay đổi, phải hướng gió hay những đợt sóng cuộn lên nhưng đột nhiên cảm thấy rơi vào cõi đơn sâu thẳm. Trời vẫn tối khi giương buồm trở về nhà. Lúc này, khi tăng tốc vào khu vịnh Clear Lake, qua các mái nhà san sát in bóng dưới ánh hoàng hôn, cảm thấy tiếc quyết định về nhà quá sớm. vịnh ngoài kia gió vẫn thổi đều đều, nhưng ở đây hơi nóng cứ quấn lấy và ẩm ướt rất khó chịu. buộc chặt neo dây cột thuyền rồi bước lên boong tàu. Chân còn đứng vững sau nhiều ngày biển. nghĩ, cầu đầu tiên của công việc này là phải tắm bằng nước lạnh. để dành việc dọn tàu đến đêm nay, khi trời mát mẻ hơn. À, còn về con mèo Humphrey, thêm ngày bị nhốt trong cũi tổn hại gì đến đám lông đó. kéo lê chiếc túi đựng đồ đạc và lên bờ. Khi ngang qua cửa hàng bán rau quả ven biển, ánh mắt dừng lại bản tin. Chiếc túi đựng đồ của tuột khỏi tay, ngồi phịch xuống đất. nhìn chằm chằm vào tít báo lớn chạy ngang Điểm Tin hàng ngày của Houston: “Việc đếm ngược thời gian cho tàu con thoi khẩn cấp bắt đầu. - Ngày mai bắt đầu phóng”. có chuyện gì vậy? nghĩ. Có rắc rối sao? run run móc mấy đồng hai mươi lăm xu khỏi túi, nhét xu vào lỗ và chộp lấy bản in từ chiếc máy. Có hai bức ảnh kèm bài báo đưa tin. là của Kenichi Hirai, phi hành gia người Nhật đến từ trung tâm NASDA. Bức khác là của Emma. chộp lấy túi đựng đồ và chạy gọi điện. Có ba bác sĩ chuyến bay tại cuộc họp. - điều đó cho Jack biết rằng rắc rối họ gặp phải có liên quan đến y khoa. Khi bước vào phòng, mọi người đều quay lại ngạc nhiên. hiểu câu hỏi ra trong cặp mắt của giám đốc điều hành bay Woody Ellis: Jack McCallum làm cái quái gì ở đây vậy? Bác sĩ Todd Cutler trả lời. - Jack góp phần vào việc phát triển bản dự thảo về các quy trình cấp cứu y khoa cho phi hành đoàn đầu tiên của trạm. Tôi nghĩ ấy nên tham gia cùng chúng ta. Ông Ellis khó chịu . - Vấn đề nhân khiến cho việc này phức tạp hơn. - Ông ta có ý ám chỉ Emma. - Mỗi thành viên trong đoàn đều như gia đình của chúng tôi. - Todd . - Theo cách nào đó họ đều là nhân . Jack ngồi xuống cạnh Todd. Ngồi quanh bàn có phó giám đốc Hệ thống vận chuyển hàng quốc gia, giám đốc chuyên nhiệm vụ điều hành Trạm vũ trụ quốc tế, các bác sĩ các chuyến bay và vài giám đốc quản lý chương trình. Nhân viên ngoại giao của NASA cũng có mặt. Đó là Gretchen Liu. Ngoại trừ ngày phóng tàu các hãng đưa tin hầu như bao giờ chú ý đến NASA. Nhưng hôm nay, các phóng viên từ mọi hãng tin chen chúc trong phòng họp báo khiêm tốn tại Tòa nhà thông tin công chúng của NASA và chờ Gretchen xuất . Hôm nay là khác biệt, Jack nghĩ. Công chúng lại để mắt đến chốn này. Chắc chắn là phải có vụ nổ, bi kịch hay thảm họa gì đó. Phép màu khi người ta điều hành bay hoàn hảo khiến ai chú ý cả. Todd đưa chồng giấy cho Jack với dòng chú ý đầu: “Phòng thí nghiệm của Hirai và các phát về y khoa trong vòng 24 giờ qua. Chào mừng trở lại!” Jack lật nhanh các bản báo cáo trong khi lắng nghe cuộc họp. mất ngày nắm bắt thông tin và phải mất chút thời gian để hiểu hết vấn đề. Kenichi Hirai bị bệnh nặng và các phát trong phòng thí nghiệm của khiến người ta thắc mắc. Tàu Discovery sẵn sàng vào lúc sáu giờ sáng. Việc phóng tàu và điều khiển bên trong do phi hành đoàn của Kittredge cùng bác sĩ chuyên khoavà cũng là phi hành gia đảm nhiệm. Việc đếm ngược cho tàu được lên lịch. - Các vị có thay đổi gì về mặt đề xuất ? - Phó giám đốc Hệ thống vận chuyển hàng quốc gia hỏi các bác sĩ các chuyến bay. - Các vị có nghĩ là Hirai có thể đợi đến khi di dời bằng tàu con thoi ? Todd Cutler trả lời. - Chúng tôi vẫn tin rằng việc di chuyển bằng tàu con thoi là lựa chọn an toàn nhất. Chúng tôi thay đổi các đề xuất của mình khi xét đến khía cạnh đó. Trạm vũ trụ quốc tế là bệnh viện được trang bị khá tốt với toàn bộ thuốc men và các thiết bị cần thiết cho việc làm bệnh nhân tỉnh lại khi tác động vào tim và phổi. - Vậy vẫn tin rằng ta bị đau tim? Todd nhìn các bác sĩ đồng nghiệp. - . - thú nhận. - Chúng tôi hoàn toàn chắc chắn. Có số biểu của chứng co thắt cơ tim. - tức là chứng đau tim khi nhìn nhận ấy như người bình thường. Và nhất là nồng độ chất enzim tuyến tụy trong máu ấy quá cao. - Vậy tại sao vẫn chưa chắc? - Các bản chụp tim cho thấy các biến đổi đáng kể. - chỉ có vài đường sóng nhiễu. Đó phải là mẫu chuẩn khi bệnh nhân bị đau tim. Hơn nữa, Hirai được kiểm tra toàn diện về các bệnh liên quan đến tim mạch trước khi ấy được nhận vào chương trình. ấy có bất cứ nguy cơ nào. là chứng tôi chắc có chuyện gì. Nhưng chúng tôi đảm bảo là ấy bị cơn đau tim và điều đó khiến cho việc di dời bằng tàu con thoi là lựa chọn tốt nhất. Như vậy việc chui vào nhàng và quá trình hạ cánh được kiểm soát. giảm áp lực đáng kể lên người bệnh so với việc về trái đất bằng phương tiện khẩn cấp. Và trong khi đó, Trạm vũ trụ quốc tế có thể giải quyết các chứng loạn nhịp tim của ấy. Jack ngẩng đầu lên, nhìn bản báo cáo đọc qua nữa. - Nếu có các thiết bị phòng thí nghiệm cần thiết Trạm vũ trụ quốc tế thể cắt phân đoạn các mức độ loạn nhịp tim này được. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn là chất enzim này là do tim tiết ra? Mọi chú ý dồn hết vào . - “cắt phân đoạn” là có ý gì? - Ông Woody Ellis thắc mắc. - Chất creatin là loại enzim giúp các tế bào cơ sử dụng các năng lượng được dự trữ. Nó có trong các cơ sọc và cơ tim. ví dụ như khi các tế bào tim bị tổn hại khi bị đau tim mức độ chất creatin trong máu tăng. Đó là lý do tại sao chúng ta cứ nghĩ đó là cơn đau tim. Nhưng nếu chất đó phải do tim tiết ra sao? - Nó có thể là gì khác? - loại tổn thương khác về cơ. Ví dụ như chấn thương hay chứng co giật. Thực tế khi tiêm thuốc vào cơ cũng có thể khiến cho chất creatin tăng lên. Các vị cần cắt phân đoạn chất creatin để khẳng định xem nó có bắt nguồn từ tim . Trạm vũ trụ quốc tế thể làm việc đó được. - Vậy rất có thể là ta hề bị đau tim? - Chính xác! Và đây là chi tiết đáng băn khoăn nữa. Sau khi bị tổn thương cơ cấp tính nồng độ chất creatin của ấy lẽ ra phải giảm xuống mức bình thường. Nhưng hãy nhìn mẫu nồng độ xem! - Jack lật qua các tờ giấy trong phòng thí nghiệm và đọc to các số liệu. - Trong vòng hai mươi tư giờ qua, mức độ chất creatin của ấy tăngdần. Điều đó chứng tỏ tiếp tục có tổn thương. - Đó chỉ là phần của câu hỏi lớn hơn. - Todd . - Chúng ta có các kết quả bình thường bảng và có mẫu nào có thể đọc được. Các chất enzim trong gan, thận biến đổi thất thường, tỉ lệ các chất lắng đọng và số lượng các bạch cầu được ghi lại. số tăng, còn các số liệu khác giảm. Như thể các hệ thống cơ quan khác nhau lần lượt bị tấn công. Jack nhìn . - Bị tấn công à? - Chỉ là cách văn hoa thôi Jack. Tôi biết chúng ta đương đầu với biến chứng gì. Tôi biết đó phải là tai nạn trong phòng thí nghiệm. Chúng tôi kiểm tra toàn bộ phi hành đoàn và họ hoàn toàn bình thường. - Nhưng ấy ốm đến mức cần di dời bằng tàu con thoi đúng ? - Giám đốc điều hành nhiệm vụ tàu con thoi đặt ra câu hỏi đó. Ông ta hài lòng chút nào về việc này. Nhiệm vụ ban đầu của tàu con thoi Discovery là thu lại và sửa chữa vệ tinh do thám Capricon. Giờ nhiệm vụ của tàu bị vụ này đảo lộn hoàn toàn. - Washington hài lòng về việc lui lại hạn sửa chữa vệ tinh. Các vị điều khiển chuyến bay của họ và biến Discovery thành chiếc xe cứu thương biết bay. Điều đó có thực cần thiết ? Hirai thể hồi phục trạm sao? - Chúng ta thể trước điều gì. Chúng ta biết ấy có vấn đề gì. - Todd cố giải thích. - Lạy Chúa, các vị còn có bác sĩ chuyên khoa đó mà. ta xác định ra bệnh gì sao? Jack thấy căng thẳng. Họ chỉ trích Emma. - ấy có thiết bị chụp X-quang. - xen vào. - ta có mọi thứ khác để sử dụng bất cứ khi nào. gọi cái trạm đó là gì, bác sĩ Cutler? “ cỗ máy được trang bị đầy đủ thiết bị y khoa” phải ? - Phi hành gia Hirai phải về nhà càng nhanh càng tốt. - Todd khẳng định. - Những việc còn lại chúng tôi lo. Nếu ông muốn đánh giá lại về các bác sĩ chuyến bay đó là lựa chọn của ông. Tất cả những gì tôi có thể là tôi chưa bao giờ đánh giá lại bất cứ kỹ sư nào làm việc với hệ thống đẩy tên lửa. Câu đó kết thúc cuộc tranh luận rất hiệu quả. Phó giám đốc điều hành hệ thống vận chuyển tàu vũ trụ hỏi. - Còn ai có thắc mắc gì nữa ? - Thời tiết. - nhân viên dự báo của NASA nhắc. - Tôi nghĩ nên thông báo về cơn bão hình thành ở phíatây Guadeloupe và di chuyển rất chậm về phía tây. Nó ảnh hưởng gì đến việc phóng tàu. Nhưng phụ thuộc vào đường của nó Kennedy có thể gặp chút rắc rối trong hay hai tuần tới. - Cảm ơn lo xa! - Phó giám đốc , nhìn quanh phòng xem có ai hỏi thêm . - Vậy là việc phóng tàu được tiến hành vào lúc 5 giờ sáng. Hẹn gặp tất cả các vị tại đó.
Chương 10 Phần 1 MƯỜI Tại Punta, Mexico Biển Cortex lấp lánh như dát bạc dưới ánh sáng mờ dần. Ngồi bên chiếc bàn bến đỗ ngoài trời ở quán cà phê Las Tres Virgenes, Helen Koenig nhìn thấy những tàu đánh cá quay trở về Punta Colorado. Đây là thời điểm thích nhất trong ngày. Gió biển mát vờn lên nước da rám nắng. Những thớ cơ của uể oải cách dễ chịu sau khi bơi buổi chiều. bồi bàn mang cho cốc margarita và đặt ngay trước mặt . - Gracias senior. - khẽ. ta bất chợt thấy nhìn mình. nhận thấy ta là người đàn ông trầm lặng, nổi bật với cặp mắt mệt mỏi và mái tóc có vài sợi bạc. thoáng cảm thấy thoải mái. tội lỗi kiểu Mỹ, nghĩ vậy khi nhìn ta quay trở vào quán. Đó là cảm giác luôn có khi lái xe dọc theo Baja. nhấp ngụm rồi nhìn ra biển, lắng nghe tiếng kèn trumpet não nề của ban nhạc mariachi chơi đâu đó bãi biển. Hôm đó rất đẹp trời nên ở dưới biển gần như cả ngày. Sau khi lặn rất sâu vào buổi sáng, lặn nông hơn vào buổi chiều. Rồi sau đó, ngay trước khi ăn cơm tối, bơi trong làn nước lấp lánh dưới ánh hoàng hôn. Biển khiến dễ chịu và là thánh địa của . Luôn là như vậy. giống với tình của người đàn ông, biển lúc nào cũng chung thủy và bao giờ làm thất vọng. Nó luôn sẵn sàng ôm ấp, vỗ về . Và trong những lúc buồn, lại thấy mình muốn trốn vào vòng tay chờ đợi của biển. Đó cũng chính là lý do đến Baja, để được bơi trong làn nước ấm nóng, để được mình và ai có thể liên lạc với được, thậm chí là Palmer Gabriel. Môi bị nhúm margarita kéo co lại. nuốt trôi nó và gọi cốc khác. Đồ uống có cồn đó khiến cảm thấy như bồng bềnh. sao, là phụ nữ tự do tự tại. Dự án công ty xong và bị bỏ dở. Các mẻ cấy bị hỏng hết. Mặc dù Palmer cũng nổi điên lên với nhưng biết làm đúng. Đó là điều an toàn. Ngày mai ngủ ngon và gọi món sô--la nóng cùng món thịt bò hầm cho bữa sáng. Sau đó, lao mình xuống nước để lặn và lại trở về với người tình biển trong xanh. Tiếng cười của phụ nữ khiến chú ý. Helen quay về phía quán rượu, chỗ có đôi tán tỉnh nhau. Người phụ nữ nhắn, nước da rám nắng, còn người đàn ông có cơ bắp như những lõi thép. kỳ nghỉ biến thành cuộc vui chơi. Có thể họ ăn tối cùng nhau, nắm tay nhau dọc bờ biển. Rồi họ hôn nhau, ôm ấp và toàn bộ các thủ tục tốn hooc-môn của việc ân ái. Helen nhìn họ với con mắt thích thú của nhà khoa học và thái độ ghen tị của người đàn bà. biết những thói quen ấy hợp với . bốn mươi chín tuổi và chỉ quan sát việc đó thôi. Eo dầy lên, nửa mái đầu hoa râm, khuôn mặt chẳng có gì nổi bật ngoài cặp mắt lanh lợi. phải kiểu phụ nữ khiến những gã đẹp trai rám nắng bị hút mắt. uống hết cốc margarita thứ hai. Giờ cảm giác bồng bềnh tràn ngập khắp cơ thể và biết đến lúc cho thức ăn vào dạ dày. mở thực đơn có dòng chữ “Nhà hàng của những món cực kỳ tinh khiết” chạy ngay đầu. Ba người tinh khiết. là nơi ăn uống phù hợp với . cũng có thể là kẻ tinh khiết. Người bồi bàn lấy tờ giấy ghi những món gọi. ngẩng lên nhìn ta và gọi món cá nục heo nướng trong khi mắt nhìn ti-vi quầy rượu. nhìn hình chiếc tàu con thoi được ấn định phóng lên. - Có chuyện gì thế? - hỏi và chỉ cái ti-vi. Người bồi bàn nhún vai. - Vặn to lên! - hét to với người phục vụ ở quầy rượu. - Làm ơn! Tôi cần nghe tin đó. ta nhấn nút chỉnh lượng và đó là bản tin tiếng thuộc kênh truyền hình Mỹ. Helen tới quầy rượu, chăm chú nhìn màn hình. “… việc di dời khẩn cấp vì lý do sức khỏe của phi hành gia Kenichi Hirai. NASA chưa cung cấp thêm thông tin nhưng các bản báo cáo cho thấy các bác sĩ của NASA vẫn đau đầu vì căn bệnh của ấy. Dựa các bài kiểm tra máu hôm nay họ thấy cần phải phóng tàu con thoi lên cứu . Tàu Discovery theo dự kiến được phóng ngày mai, lúc sáu giờ sáng theo giờ phía đông”. - Senora? - Người bồi bàn hỏi. Helen quay lại và thấy ta vẫn cầm khay cầu. - có muốn loại đồ uống khác ? - , . Tôi phải ngay. - Nhưng đồ ăn của … - Bỏ món tôi gọi , được chứ? - mở ví, đưa ta mười lăm đô và vội vã rời nhà hàng. Trở lại phòng khách sạn, cố gọi cho Palmer Gabriel ở San Diego. Phải mất năm lần mới kết nối được với người trực tổng đài quốc tế. Cuối cùng, khi kết nối được chỉ nhận được thư thoại của Palmer. - Họ có phi hành gia bị bệnh Trạm vũ trụ quốc tế. - . - Palmer, đây là điều tôi lo ngại. Đấy là điều tôi muốn cảnh báo với các vị. Nếu việc này được xác nhận chúng ta phải hành động nhanh trước khi…. - Côdừng lại, nhìn đồng hồ. Chuyện này tồi tệ, nghĩ, rồi gác máy. Mình phải quay về San Diego. Mình là người duy nhất biết cách giải quyết việc này. Họ cần mình. ném hết quần áo vào va li, gửi phòng, lên taxi và mười lăm dặm đến hãng máy bay Buena Vista. chiếc máy bay chờ sẵn ở đó để đưa đến La Paz. Ở đó có thể máy bay hạng thương nhân đến San Diego. Chuyến taxi rất xóc. Đường lồi lõm và lắt léo. Bụi cuộn vào cửa xe để mở. Nhưng điều khiến sợ nhất trong suốt chuyến là khi máy bay cất cánh. rất sợ những máy bay cỡ . Nếu phải vội về nhà chuyến dài đến hẳn đảo Baja bằng xe riêng. Bây giờ nó được đậu an toàn ở khu nghỉ mát. Bàn tay nhớp nháp mồ hôi của bám chặt vào chỗ để tay và hình dung ra thảm họa hàng chờ đón mình. Sau đó, nhìn lên bầu trời đêm, trong trẻo và đen như nhung. nghĩ về những người Trạm vũ trụ quốc tế. nghĩ về những mối nguy hiểm mà những con người dũng cảm hơn cáng đáng. Tất cả chỉ là do cảm giác của con người. chuyến bằng máy bay cỡ thể so sánh được với những mối nguy hiểm mà các phi hành gia phải đối mặt. Đây phải là lúc để hèn nhát. Những mạng sống con người bị treo bàn cân. Và là người duy nhất biết phải làm gì để giải quyết việc này. Chuyến lạnh xương sống trôi qua suôn sẻ. Giờ họ đặt chân đường lát gạch, tạ ơn Chúa! Và Buena Vista chỉ còn cách vài dặm. Cảm thấy khẩn thiết của chuyến này, tài xế của tăng tốc. Gió quất mạnh vào cửa xe để mở. Bụi tung vào mặt . với tay giật cửa kính xuống. Đột nhiên cảm thấy chiếc xe ngoặt sang bên trái để vượt qua chiếc xe khác chậm hơn. nhìn lên và kinh hoàng nhận ra họ ở trước khúc cua. - Senor! Más despacio! - . - chậm lại! Giờ họ bằng với chiếc xe kia. Chiếc taxi vọt lên , người lái xe chịu nhường đường. Con đường trước mặt uốn về phía bên trái và khuất tầm mắt. - Đừng vượt qua! - hét. - Làm ơn, đừng! - nhìn thẳng về phía trước và chết cứng khi nhìn thấy ánh đèn sáng chói của chiếc xe khác. đưa tay lên che mặt, chắn luồng sáng của ánh đèn đó. Nhưng thể ngăn lại tiếng bánh xe két đường và tiếng kêu thất thanh của chính mình khi những chiếc đèn pha đó nhảy chồm lên họ. Ngày mùng 3 tháng 8 Từ chỗ ngồi sau ô kính phân cách của bảo tàng đông đúc dành cho khách tham quan, Jack nhìn thấy phòng điều hành. Các bảng điều khiển đều có người. Các điều hành viên đều quần áo chỉnh tề để xuất trước ống kính truyền hình. Mặc dù những người đàn ông và phụ nữ làm việc bên dưới có thể tập trung cao độ vào nhiệm vụ của mình nhưng họ bao giờ quên là họ bị quan sát và con mắt công chúng dồn hết về họ. Mỗi cử chỉ, mỗi cái lắc đầu lo lắng có thể bị nhìn thấy qua tấm kính ngăn cách ngay sau lưng họ. Mới năm ngoái, Jack là người làm việc tại bảng điều khiển dành cho bác sĩ chuyến bay trong suốt thời gian phóng tàu con thoi và cảm thấy ánh mắt của những kẻ lạ mặt như thứ hơi nóng lờ mờ nhưng rất khó chịu đè nặng lên phía sau cổ. biết những người dưới kia bây giờ cảm thấy thế nào. khí trong phòng điều hành bay có vẻ bình tĩnh như băng và những giọng loa liên lạc cũng vậy. Đó là hình ảnh mà NASA luôn cố gắng duy trì, hình ảnh của những chuyên gia làm việc, mà còn làm rất tốt nữa. Điều công chúng hiếm khi thấy là những rắc rối phía sau phòng điều khiển, những hiểm họa đến gần, những mũi khoan nhiệt của Trung Quốc khi mọi chuyện trở nên rắc rối và mọi người loạn lên. phải là hôm nay, nghĩ, Carpenter cầm lái. Mọi chuyện phải ổn thôi. Giám đốc điều hành bay Randy Carpenter dẫn đầu đoàn bay chính thức. đủ lớn và kinh nghiệm và chứng kiến đủ loại rắc rối trong suốt nghiệp của mình. tin rằng những thảm họa các chuyến bay tàu con thoi thường chỉ do trục trặc chính mà là chuỗi các vấn đề tích tụ lại cho đến khi chúng dẫn đến thảm họa . Do đó, là người rất khắt khe trong từng chi tiết, người mà đối với mỗi vấn đề đều là thảm họa tiềm . Đội của phải ngước nhìn theo đúng nghĩa đen của từ đó. - vì thực là người khổng lồ, cao gần hai mét và nặng gần trăm ba mươi lăm cân. Gretchen Liu, nhân viên quan hệ quốc tế ngồi ở góc xa bên trái, bảng điều khiển cuối cùng. Jack nhìn thấy quay lại và nở nụ cười chứng tỏ mọi việc đều suôn sẻ với những người ngồi trong phòng trưng bày. Hôm nay mặc bộ quần áo đẹp nhất để lên ti-vi, bộ quần áo màu xanh hải quân và chiếc khăn lụa màu xám. Nhiệm vụ này khiến cả thế giới chú ý và hầu hết các tờ báo tụ về khu phóng tàu tại mũi Canaveral. Tại phòng điều hành của Trung tâm vũ trụ Johnson, có đủ phóng viên để làm chật kín phòng trưng bày. Mười phút đếm ngược sắp đến. đài, họ nghe thấy các thông báo chính thức cuối cùng về thời tiết và việc đếm ngược bắt đầu. Jack cúi về phía trước, các cơ của co lại khi những giây cuối cùng cho việc việc phóng tàu đến. Năm ngoái, khi phải tạm biệt chương trình vũ trụ, nghĩ bỏ lại tất cả phía sau. Nhưng giờ lại ở đây và lại sôinổi như xưa. Đó là giấc mơ. hình dung ra phi hành đoàn được gắn chặt vào ghế ngồi, con tàu rung chuyển dữ dội dưới chân họ khi các thùng chứa ô-xi và hy-đrô tăng áp suất. nghĩ về nỗi sợ bị giam giữ của họ khi họ đóng tấm kính chắn lại. Tiếng thở bình ô-xi xì xì và mạch họ đập nhanh hơn. - Chúng ta kích hoạt động cơ đẩy tên lửa bằng chất lỏng. - nhân viên quan hệ công chúng thông báo trong phòng điều khiển phóng tàu của Trung tâm vũ trụ Kennedy. - Phóng! Chúng ta phóng! Việc điều hành giờ giao lại cho Trung tâm vũ trụ Johnson tại Houston… Khi tìm khắp màn hình trung tâm, con tàu lượn về phía tây dọc theo hành trình bay định trước. Jack vẫn căng thẳng, tim đập rất nhanh. các màn hình ti-vi được treo phòng trưng bày, những hình ảnh về tàu con thoi được truyền đến từ Kennedy. liên lạc giữa tổng điều hành viên và thuyền trưởng Kittredge được bật loa. Tàu Discovery chuyển mình và leo lên những tầng khí cao hơn. Ở đó, bầu trời trong xanh nhanh chóng bị màu đen của vũ trụ lấn chiếm. - Mọi chuyện có vẻ ổn. - Gretchen qua bộ đàm. Họ nhận ra vui mừng trong giọng của vì việc phóng tàu diễn ra hoàn hảo. Tính đến giờ phút này nó hoàn hảo. Đó là ngay khi qua điểm cực đại Q, qua việc tháo thiết bị đốt tên lửa và tắt động cơ chính. Trong phòng điều hành bay, giám đốc điều hành bay Carpenter đứng bất động. Mắt ông dán chặt vào màn hình trước mặt. - Tàu Discovery, các bạn chuẩn bị phóng lên. - Trưởng tàu . - , Houston. - Kittredge . - Chúng tôi sẵn sàng. Cái đầu to tướng của Carpenter đột nhiên lắc mạnh mách bảo với Jack là có điều gì đó thay đổi. Trong phòng điều hành bay, hành động nào đó thay đổi dường như khiến toàn bộ các viên điều hành bay bận rộn hẳn lên. Vài người còn quay ngang sang nhìn Carpenter. Đôi vai thõng xuống của thường đủ khiến người ta để ý. Gretchen ấn tay vào tai nghe khi lắng nghe chăm chú bộ đàm. Có trục trặc gì đó, Jack nghĩ. Đường dây liên lạc giữa tàu và trái đất vẫn tiếp tục được phát phòng trưng bày. - Discovery. - tổng chỉ huy . - Kỹ sư hệ thống bảo trì, kỹ thuật của phi hành đoàn báo cáo các cửa giữa thể đóng được. Xin xác nhận. - , chúng tôi xác nhận. Các cánh cửa đóng lại. - Đề nghị các bạn điều khiển bằng tay. Căn phòng im lặng cách đáng sợ. Rồi họ nghe thấy Kittredge . - Houston, giờ chúng tôi ổn. Các cánh cửa vừa được đóng. Chỉ đến khi Jack thở mạnh hơi mới nhận ra mình nín thở. Đến giờ phút này, đó là trục trặc đầu tiên. nghĩ mọi chuyện khác đều hoàn hảo. Nhưng ảnh hưởng của mức độ adrenalin tăng đột ngột vẫn còn đâu đó và tay vã mồ hôi. Họ vừa được nhắc nhở rất nhiều việc có thể trục trặc. Và thể rũ bỏ hết cảm giác khó chịu mới mẻ này. cúi xuống nhìn phòng điều hành bay và băn khoăn biết Randy Carpenter, người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc nhất có cảm thấy điềm gở báo trước như . Ngày mùng 4 tháng 8 Như thể đồng hồ sinh học trong não tự động cài đặt lại, thay đổi vòng quay ngủ và thức của để khiến tỉnh giấc lúc 1 giờ sáng. Jack nằm giường, mắt mở to, ánh sáng của chiếc đồng hồ phát quang chiếu vào . Như tàu con thoi Discovery, nghĩ, mình chạy đua để đuổi kịp Trạm vũ trụ quốc tế, để đuổi kịp Emma. Toàn bộ cơ thể đồng bộ hóa cùng . tiếng nữa, thức giấc và ngày làm việc của bắt đầu. Còn Jack ở đây, thức và nhịp sinh học của họ song song với nhau. cố ngủ tiếp mà thức dậy và mặc quần áo. rưỡi, Trung tâm nhiệm vụ bay có những tiếng làm việc ầm ĩ lặng lẽ. Đầu tiên, nhìn phòng điều hành bay, nơi các điều khiển viên tàu con thoi ngồi. Đến nay chưa có rắc rối nào xảy ra tàu Discovery. xuống đại sảnh, vào phòng Điều hành phương tiện đặc biệt. Đây là phòng tách biệt dành riêng cho Trạm vũ trụ quốc tế. Nó hơn nhiều so với phòng điều hành bay và có hệ thống bảng điều khiển cũng như nhân riêng. Jack thẳng về phía bảng điều khiển các bác sĩ chuyến bay và ngồi xuống chiếc ghế cạnh bác sĩ Roy Bloomfeld trực. Bloomfeld ngạc nhiên khi thấy . Chương 10 Phần 2 - Chào Jack! Tôi nghĩ thực quay lại với chương trình này. - thể đứng nhìn được. - Ồ, thể là vì tiền được. Vậy chắc chắn là do hồi hộp của công việc. - ngả về sau và ngáp. - Đêm nay chẳng có mấy điều thú vị đâu. - Bệnh nhân vẫn ổn định à? - Mười hai tiếng qua vẫn vậy. - Bloomfeld hất đầu về phía các báo cáo y khoa bảng điều khiển. Các đường điện tâm đồ và huyết áp của Kenichi Hirai chập chờn màn hình. - Nhịp tim giờ rất ổn định. - có biến chuyển gì mới à? - Báo cáo tình hình mới nhất cách đây bốn giờ. Cơn đau đầu cửa ấy ngày càng nặng thêm và ấy vẫn bị sốt cao. Các thuốc kháng sinh dường như có tác dụng gì nhiều. Chúng tôi đau đầu vì điều này. - Emma có ý kiến gì ? - Lúc này, ấy có lẽ quá kiệt sức để suy nghĩ rồi. Tôi bảo ấy chợp mắt lúc vì chúng tôi có thể quan sát màn hình. Đến giờ vẫn chán lắm. - Bloomfeld lại ngáp. - Nghe này, tôi phải vệ sinh . trông chừng màn hình giúp tôi phút nhé? - có gì. Bloomfeld rời khỏi phòng và Jack đeo tai nghe vào. cảm thấy rất thân thuộc và tuyệt vời khi lại ngồi trước bảng điều khiển, lại nghe thấy những cuộc chuyện thầm giữa các điều khiển viên khác, lại nhìn thấy màn hình chính. đó, đường bay theo quỹ đạo của Trạm vũ trụ vệt thành sóng hình sin ngang bản đồ. Đây có thể phải là chỗ ngồi tàu con thoi nhưng nó cũng gần như vậy. Mình bao giờ chạm vào những vì sao được nhưng mình có thể ở đây và nhìn những người khác làm điều đó. sửng sốt khi nhận ra đó, nhận ra rằng chấp nhận bước ngoặt cay đắng trong cuộc đời mình. nhận ra rằng có thể đứng bên ngoài giấc mơ xưa của mình và vẫn có thể tận hưởng viễn cảnh đó từ xa. Jack thấy nhõm. Chẳng có gì phải lo, nhận ra đó chỉ là thứ đồ điện bình thường. - có lẽ là tấm chì điện tâm đồ bị lỏng. Đường đo huyết áp vẫn màn hình, thay đổi gì. Có lẽ bệnh nhân tháo ra hay vô tình làm rơi đầu chì. Hay có lẽ Emma ngắt kết nối màn hình để ấy vệ sinh. Giờ đường đo huyết áp đột nhiên bị ngắt. - thêm điều nữa cho thấy Kenichi còn ra màn hình nữa. nhìn màn hình lâu hơn nữa và mong những thông tin đó lại lên. Nhưng chúng lên nữa và chộp ngay lấy bộ đàm. - Đội trưởng, bác sĩ điều hành bay đây. Tôi thấy có cục chì bị lỏng điện tâm đồ của bệnh nhân. - Tấm chì bị lỏng à? - Có vẻ như ấy bị ngắt kết nối với màn hình. Các đường điện tâm đồ còn chạy ngang màn hình nữa. có thể kiểm tra Emma để xác nhận ? - Được rồi. Tôi gọi cho ấy. tiếng kêu khiến Emma choàng tỉnh trong giấc ngủ chập chờn. tỉnh dậy vì hơi nước lạnh mặt. định chợp mắt. Mặc dù Trung tâm điều khiển nhiệm vụ vẫn liên tục theo dõi điện tâm đồ của Kenichi máy đo sinh học và thông báo với nếu có bất cứ thay đổi gì nhưng định thức trong suốt thời gian được lên lịch ngủ cho cả phi hành đoàn. Nhưng hai ngày qua, chỉ nghỉ ngơi qua loa. Và những lần nghỉ ngơi đó thường bị các phi hành gia cùng đoàn ngắt đoạn. Họ đánh thức và hỏi tình hình người bệnh. Cuối cùng quen với mệt mỏi và tình trạng nghỉ ngơi hoàn toàn trong môi trường trọng lượng. Điều cuối cùng nhớ là nhìn thấy nhịp tim của Kenichi lên ngang màn hình thành những đường vòng vèo như thôi miên, đường đó mờ dần thành màu xanh lục, rồi màu đen. thấy vệt nước lạnh bám vào má, mở mắt và thấy giọt nước trôi lơ lửng về phía mình, cuộn trong đó là bảy sắc cầu vồng. ngạc nhiên mất vài giây rồi mới hiểu mình nhìn cái gì. Rồi mấy giây sau mới để ý thấy hàng chục giọt nước khác nhảy nhót quanh như những đồ trang trí đêm Giáng sinh. Rồi giọng bình tĩnh rè rè trong bộ đàm. - À, Watson, chỉ huy đây. Chúng tôi muốn đánh thức nhưng chúng tôi cần xác nhận tình hình điện tâm đồ của bệnh nhân. Giọng khàn khàn mệt mỏi. trả lời. - Tôi thức rồi, thưa chỉ huy. Tôi nghĩ vậy. - Màn hình sinh học cho thấy có vấn đề với điện tâm đồ. Các bác sĩ dưới này nghĩ là để lỏng đầu chì. bị trôi và quay tròn trong trung trong khi ngủ quên. Giờ định hướng lại về phía khoang tàu và trở về chỗ bệnh nhân. Túi ngủ của ấy trống rỗng. Chiếc ống thở bị tháo trôi tự do, đầu ống thông đường tiểu những giọt nước lấp lánh vào khí. Các đường dây điện cực lơ lửng thành đám rối tung. Ngay lập tức đóng ống bơm chất truyền và nhìn quanh. - Chỉ huy, ấy có ở đây. ấy ra khỏi khoang! Chờ ! đẩy cánh cửa, lao vào nút số 2 dẫn đến các phòng thí nghiệm NASDA của Nhật và Hãng Hàng Vũ trụ châu Âu. nhìn qua các cánh cửa và biết ngay có ở đây. - tìm thấy ấy chưa? - chỉ huy lo lắng. - Chưa. Tôi tìm. ấy có mất phương hướng và lang thang biết ở đâu ? tìm lại trong phòng thí nghiệm của Mỹ và lao thẳng qua cánh cửa dẫn qua nút. giọt nước vụt qua mặt . lau chất lỏng đó và kinh hãi khi thấy ngón tay mình dính máu. - Chỉ huy, ấy trôi qua nút số 1. ấy bị chảy máu từ chỗ gắn ống truyền. - Tôi khuyên nên đóng các đường thông khí giữa các khoang. - ! - lướt qua cánh cửa sang phòng sinh hoạt. Ánh sáng trong phòng lờ mờ và thấy Griggs và Luther. Cả hai đều ngủ và bị khóa trong túi ngủ của họ. thấy Kenichi. Đừng hoảng, nghĩ khi đóng đường thông khí giữa các khoang. Động não ! ấy có thể đâu được? Có lẽ quay về chỗ ngủ, tại khoang của Nga Trạm vũ trụ quốc tế. đánh thức Griggs và Luther. rời phòng sinh hoạt và nhanh chóng về phía đường hầm có các khoang và nút thông nhau. đưa mắt sang trái, rồi sang phải cố tìm bệnh nhân bỏ trốn. - Chỉ huy, tôi vẫn chưa thấy ấy. Tôi quađường hầm Zarya và về phía khoang dịch vụ của Nga. bước vào khoang dịch vụ của Nga, chỗ Kenichi thường ngủ. Dưới ánh sáng lờ mờ, thấy cả Diana và Nicolai đều ngủ, lơ lửng như thể bị chết đuối và hai taybuông thõng tuột ra khỏi túi ngủ. Chỗ của Kenichi vẫn trống . Nỗi lo lắng của chuyển sang sợ hãi. lắc Nicolai. từ từ thức dậy và mãi lúc sau mới hiểu gì. - Tôi thể tìm thấy Kenichi. - nhắc lại. - Chúng ta cần tìm hết các khoang. - Watson. - chỉ huy với qua bộ đàm. - Các báo cáo kỹ thuật cho thấy có dị vật khác thường trong buồng chặn khí, nút số 1. Hãy kiểm tra tình hình. - Dị vật gì? - Các báo cáo chập chờn cho thấy cánh cửa giữa các thiết bị và ổ khóa có thể chưa an toàn tuyệt đối. Kenichi. ấy trong buồng chặn khí. Nicolai ngay sau , lao như chú chim dọc theo Trạm vũ trụ vào nút số 1. nhìn chằm chằm qua cánh cửa mở và ổ khóa thiết bị, Emma giật mình khi thoáng thấy cái gì đó trông giống như ba bóng người. Hai trong số đó chỉ là hai bộ áo khoác gian, các thân hình cứng đơ đó treo mình các bức tường khóa khí để dễ mặc quần áo. Kenichi lơ lửng trong trung, cả người gập cong về phía sau và co giật rối loạn. - Giúp tôi đưa ấy ra khỏi đây. - Emma kêu lên. bay về phía sau , chân đạp vào cánh cửa bên ngoài và đẩy về phía Nicolai. Họ đưa về phía phòng thí nghiệm, ở đó các thiết bị được sắp xếp hết. - Chỉ huy, chúng tôi tìm thấy bệnh nhân. - Emma thông báo. - ấy hình như co thắt… tệ lắm! Tôi cần liên lạc với bác sĩ. Emma giật mình khi nghe thấy giọng quen thuộc ở đầu dây bên kia. - Này, Em. nghe em gặp rắc rối đó. - Jack à? làm gì… - Bệnh nhân của em sao rồi? Vẫn chưa hết hoảng, tập trung chú ý vào Kenichi. Ngay cả khi khởi động lại máy trợ thở và nối các dây điện tâm đồ, vẫn băn khoăn biết Jack làm gì trong phòng điều khiển nhiệm vụ bay. còn ngồi trước bảng điều khiển của bác sĩ điều hành bay năm nay, giờ lại ở đấy và chuyện với qua bộ đàm. Giọng bình tĩnh, thậm chí có vẻ trịnh trọng khi hỏi về tình hình của Kenichi. - ấy vẫn co thắt à? - . Giờ ấy giãy giụa rất mạnh… ấy chống lại chúng tôi. - Các dấu hiệu chính sao? - Mạch nhanh… 120… 130. ấy thở. - Tốt, ít nhất ấy vẫn thở. - Giờ chúng tôi mới nối điện tâm đồ. - nhìn lên màn hình, nhìn những đường tim chạy dọc màn hình. - Quá nhanh, mạch trăm hai mươi bốn lần phút. - Tôi thấy màn hình. - Giờ đo huyết áp. - đóng khóa dán lại và nghe mạch đập cánh tay… chín lăm sáu mươi. nguy hiểm lắm. ngạc nhiên khi bị huých cái. hét to vì đau khi cánh tay của Kenichi gạt mạnh ra và đánh ngang miệng . bị bật ra và bay sang đầu bên kia khoang, đập vào bức tường đối diện. - Emma? - Jack gọi. - Emma? vẫn còn sợ, đưa tay lên sờ môi bị đau nhói. - ấy bị chảy máu. - Nicolai thông báo. bộ đàm, nghe thấy Jack cầu như phát điên. - Chuyện quái gì xảy ra đó vậy? - Em ổn. - lầm bầm và tức giận nhắc lại. - Em ổn, Jack ạ. Đừng sợ! Nhưng đầu vẫn quay cuồng vì cú đấm. Khi Nicolai buộc Kenichi vào bàn giữ bệnh nhân, dừng lại, chờ cho hết chóng mặt. Lúc đầu, thể hiểu nổi Nicolai gì. Rồi nhận thấy mắt có vẻ hoài nghi. - Nhìn bụng ấy xem! - Nicolai thầm. - Nhìn ! Emma lại gần. - Cái quái gì thế? - thào. - Hãy cho biết, Emma. - Jack nài nỉ. - Có chuyện gì thế? nhìn chằm chằm vào cái bụng của Kenichi. đó, lớp da hình như gợn lăn tăn và sôi. - Có thứ gì đó chuyển động… dưới lớp da của ấy. - Em sao? Chuyển động à? - Trông như những bó cơ. Nhưng nó ngang bụng. - phải là do nhu động à? - . Nó di chuyển lên . Nó theo đường ruột. - ngừng lại. Những biến động đó đột nhiên dừng lại. chằm chằm nhìn vào bề mặt mịn và biến đổi gì bụng Kenichi. Các bó cơ, nghĩ. Các sợi cơ co thắt lại theo trật tự nào. Đó gần như là cách giải thích duy nhất, trừ chi tiết: các bó cơ tạo thành sóng. Đột nhiên hai mắt Kenichi mở trừng trừng và nhìn Emma. Báo động về tim đột ngột réo lên. Emma quay sang nhìn máy điện tâm đồ chạy lên xuống màn hình. - Hãy xung tim! - Jack hét. - Em thấy rồi, em thấy rồi! - bật nút sạc điện cho máy xung tim rồi bắt động mạch cảnh. Nó đây rồi, rất yếu và khó bắt. Hai mắt Kenichi trợn lên và chỉ còn nhìn thấy màng cứng đỏ như máu. vẫn thở. cầm hai tấm xung điện tim, đặt hai tấm lên ngực và ấn các nút ngắt điện. Luồng điện mạnh trăm Jun truyền qua cơ thể Kenichi. Các thớ cơ của cuộn lại mạnh mẽ và co giật liên tục. Hai chân đạp lên tấm ván. Chỉ có các dây buộc mới giúp bay sang đầu bên kia khoang. - Vẫn trong tình trạng xung tim. - Emma thông báo. Diana bay vào khoang. - Tôi có thể làm được gì? - hỏi. - chuẩn bị lidocain! - Emma nhanh. - Trong ngăn kéo các dụng cụ y tế, bên phải! - Thấy rồi. - ấy thở nữa! - Nicolai . Emma chụp lấy túi cấp cứu và . - Nicolai, ôm chặt lấy tôi! bay đến bên , ấn chặt chân vào bức tường đối diện, lưng ấn chặt vào Emma để giữ đứng yên khi đeo mặt nạ ô-xi. trái đất, việc hô hấp nhân tạo bằng phổi đủ vất vả rồi, trong môi trường trọng lực siêu đó là cơn ác mộng của các động tác nhào lộn. Các thiết bị lơ lửng, các ống dây cuộn lại và rối tung trong khí, các xy-lanh chứa đầy các loại thuốc quý trôi . động tác đơn giản là ấn tay xuống ngực nạn nhân cũng có thể khiến người ta bay sang đầu bên kia phòng. Mặc dù phi hành đoàn thực hành tình huống này nhưng tập luyện nào có thể tái các tình huống hỗn loạn thực khi nhiều người bay loạn xạ trong môi trường giới hạn và chạy đua với đồng hồ của trái tim chết dần. Khi đeo mặt nạ miệng và mũi Kenichi, bóp mạnh túi cấp cứu, đẩy khí ô-xi vào hai lá phổi. Đường điện tâm đồ vẫn tiếp tục chạy ngang màn hình. - ampe chất lidocain được bơm vào ống thở. - Diana . - Nicolai, xung tim lần nữa! - Emma cầu. Sau lúc chần chừ chóng vánh, lấy hai tấm xung điện, đặt chúng lên ngực Kenichi và ấn nút ngắt điện. Lần này, hai trăm Jun cuộn khắp tim Kenichi. Emma nhìn màn hình. - ấy sắp bị rung tim! Nicolai, hãy ấn tim ! Tôi luồn ống khí. Nicolai bỏ hai tấm xung điện và chúng trôi nổi, đung đưa ở cuối đầu dây. Ấn chân vào bức tường đối diện của khoang thí nghiệm, phải đặt hai lòng bàn tay mình lên xương ức của Kenichi nhưng đột nhiên buông hai tay ra. Emma nhìn . - Gì thế? - Ngực ấy. Nhìn ngực ấy xem! Họ nhìn chằm chằm vào đó. Da ngực của Kenichi sôi sùng sục và cuộn lên. Những điểm tiếp xúc, nơi các tấm xung điện tạo ra các luồng điện, hai vòng tròn cuộn lên hình thành và bây giờ lan ra trông như những gợn sóng lăn tăn khi ném viên đá xuống nước. - Tiêm asystol! - Jack hét qua bộ đàm. Nicolai vẫn bất động, rời mắt khỏi ngực Kenichi. Emma nhảy ngay vào chỗ đó, ấn lưng vào Nicolai. Tim ngừng đập. ấy chết nếu được ép tim. thấy có gì chuyển động, có gì bất thường. Chỉ là tấm da trải dài và bọc lấy những chỗ xương xẩu ngực . Các bó cơ, nghĩ. Chắc chắn là nó, thể có cách giải thích nào khác. tựa mình vào điểm, bắt đầu ép ngực. Hai tay thực các động tác cần thiết ngực Kenichi để bơm máu vào các cơ quan quan trọng trong cơ thể . - Diana, bơm vào ampe ống khí. - cầu. Diana tiêm thuốc vào ống thở. Tất cả bọn họ đều nhìn màn hình, mong đợi và cầu cho có đốm sáng đó.