1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Thiên Tỏa - Tang Thượng

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 11: Thiên Cung Cách sát trận





      Với loại bảo bối đất bay cát chuyển này, ngoài đặc tính di chuyển tự do như trong trạng thái vô trọng lượng ra, chúng còn có tính hàn, nên từ khi xuất chúng nhanh chóng hạ nhiệt cho căn hầm hừng hực như lò than, khiến chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng từ khi hắc ưng thoát ra và bay thẳng lên trung, lớp đất cát cũng lập tức rút xuống lòng đất qua đường khe giữa những phiến lát sàn; khí mát lạnh cũng theo đó mà mất dần , khiến nhiệt độ trong căn hầm lại từ từ tăng lên như cũ. Chúng tôi chỉ mới được đoạn mà toàn thân ướt đẫm mồ hôi.
      Nhiệt độ căn hầm mỗi lúc thêm ngột ngạt đến tức thở. Chốc chốc tôi lại lôi chai nước khoáng trong balô ra uống ừng ực, rồi vẩy vài giọt nước lên mặt, lên tay cho đỡ nóng, nhưng chỉ trong nháy mắt, lớp nước đó lại bốc hơi khiến cơ thể nóng rát và khó chịu đến cực độ. Chị Giai Tuệ phía sau liên tục nhắc nhở tôi nên tiết kiệm nước vì chỗ nước còn lại cũng nhiều.
      Nghe chị Giai Tuệ vậy, Lão Ngũ phía trước bỗng nhiên dừng lại, quay sang hỏi chúng tôi:
      - Hai nhóc, có đứa nào nhớ chúng ta xuống đây bao lâu rồi ?
      Tôi và Lão Ngũ là những người sống dựa vào đôi tay nên chúng tôi ghét nhất là phải đeo những thứ gây ảnh hưởng tới các thao tác khi mở khóa tay, cho nên từ trước đến nay đồng hồ, nhẫn, vòng tay hay những thứ đại loại như thế đều bao giờ xuất tay chúng tôi.
      Tôi nhẩm tính lúc rồi :
      - Chắc mới chỉ khoảng hai ngày thôi.
      Chị Giai Tuệ ghé sát mắt nhìn chiếc đồng hồ cổ tay, ước đoán:
      - Chúng ta tới điện Sùng Chính lúc mười giờ trưa ngày mười sáu, sau đó mở chiếc khóa Song Long cũng mất nhiều thời gian lắm, còn lúc này là giờ chiều ngày mười tám, như vậy là chúng ta xuống đây được hai ngày rồi.
      Lão Ngũ thốt lên tiếng đầy cảm khái rồi lầm bầm tự mình:
      - Mới hai ngày thôi à, vậy mà tưởng chừng như hai năm trôi qua. – Rồi lão hỏi chị Giai Tuệ xem lượng lương thực và nước uống còn lại bao nhiêu.
      Chị Giai Tuệ đặt balô xuống kiểm tra lại chỗ lương thực dự trữ. Nước khoáng còn mười chai, lương khô mười bốn gói, nếu theo lượng sử dụng như nay hay tiết kiệm hết mức cũng chỉ có thể duy trì trong khoảng từ ba đến năm ngày là cùng.
      Lão Ngũ gật đầu, thở dài:
      - Đến lúc đấy mà vẫn chưa thoát ra được, chỉ còn cách tự mút chân, uống nước đái của mình thôi. Mẹ kiếp, đói còn nhịn được chứ khát làm sao mà chịu được chứ, cổ họng ta khô rát như lửa đốt đây này.
      Chị Giai Tuệ tủm tỉm cười, định mở lời trấn an lão hai tay chị chợt sờ lên trán rồi ngẩng đầu lên, vừa quan sát vừa thắc mắc:
      - Sao ở đây lại dột nhỉ?
      Tôi cũng giật mình kêu tiếng, định hỏi lại xem là chuyện gì chợt thấy phía đầu tự dưng mát rượi, giống như có hạt mưa rơi xuống vậy. Rồi sau đó hai hạt, ba hạt… liên tiếp rơi xuống. Trong căn hầm nóng nực như vậy tại sao bỗng nhiên lại có mưa? Tôi khum tay trước trần, nheo mắt ngó lên khoảng đen kịt đỉnh đầu.
      Vẫn là gian im lìm giới hạn mà chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ chỉ có thể chiếu sáng khoảng chừng ba mươi đến năm mươi mét. Thế nhưng từ phía cao tít tưởng chừng như vô hạn đó lại đổ xuống vô số những hại nước , qua tia sáng xanh của chiếc gương, chúng lấp lánh như những viên pha lê đắt tiền khiến tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng, ra trời mưa .
      Cho dù nhìn những hạt nước từ đâu rơi xuống, nhưng trước mắt tôi giờ là những hạt mưa rơi xuống mỗi lúc nhanh và dày hạt hơn, tạo nên vô số đường thẳng kéo dài từ xuống, lóng lánh trong suốt như những sợi thủy tinh, nối liền khoảng vô định phía với mặt sàn ở dưới.
      Cả ba chúng tôi đều hết sức kinh ngạc ngắm nhìn gian bao la của căn hầm ken dày bằng những sợi thủy tinh vô cùng đặc biệt. Ánh sáng phản chiếu sợi nước ngừng xoay chuyển và biến hóa, liên tục tỏa ra những tia sáng đủ sắc màu khiến người ra cảm giác lóa mắt. Nhìn theo những sợi nước chạm xuống sàn, tôi ngỡ ngàng phát ra chúng đều tuân thủ theo quy luật: Khi rơi xuống sàn chúng rơi đúng vào bốn góc của phiến đá lát tạo thành hình chữ nhật vuông vức. Mỗi người chúng tôi đều đứng trong phiến đá, xung quanh là vô số những sợi nước trượt từ xuống mà hề có tiếng động nào, cảnh tượng đó tạo cho tôi cảm giác vô cùng lạ lẫm.
      - Đ. mẹ, là dầu mỏ! – Lão Ngũ hét lớn.
      Nghe thấy vậy, tôi mới giật mình tỉnh cơn mơ màng, cả căn hầm biết từ lúc nào sực mùi hăng hắc, hình như đúng là mùi dầu mỏ . Tôi vội vàng lấy ngón tay quệt lên thứ dung dịch nhơn nhớt, mát lạnh dính đầy tóc xem thử, quả nhiên đó phải là nước mà là dầu. Thảo nào rơi từ cao xuống mà vẫn dính vào nhau thành sợi, hề bị đứt đoạn. Nghĩ tới đó, tôi vội nhấc chân lên vì sợ giẫm phải chúng.
      Lần này đến lượt chị Giai Tuệ lên tiếng:
      - Nhìn xuống dưới chân xem, chỗ dầu mỏ chảy hết rồi.
      Mặc dù dầu vẫn liên tục rơi từ xuống, nhưng lại đọng lại thành vũng mà chúng men theo những khe hở rất giữa hai phiến đá, chảy vào lòng đất.
      Lão Ngũ cũng trố mắt nhìn lúc, rồi lại chửi thề:
      - Thảo nào trong này nóng thế, ra là mỏ dầu. Ta cứ tưởng là nước, hí hửng được tắm trận. Mẹ kiếp, giờ mà có mồi lửa cả ba chúng ta thành gà quay hết! – rồi lão ngồi sụp xuống, nheo mắt nhìn đường khe giữa hai phiến đá. – Hay đấy, xem ra cuối cùng tìm ra cỗ máy điều khiển rồi. Nhưng sao cứ thế mà thiêu cháy chúng ta , mà lại còn phải chảy xuống dưới đó làm gì. Mẹ cái bọn hoang phí, mấy thằng đầu trọc tết tóc này toàn là bọn ăn no rửng mỡ, chẳng biết làm gì toàn bày ra trò để tiêu khiển.
      Nghe bảo có thể bị thiêu sống, tôi sợ hãi nghĩ thầm con hắc ưng bị xổng chắc khởi động cỗ máy dưới lòng đất; thế nhưng trong lòng vẫn còn chút hồ nghi, tôi vội hỏi chị Giai Tuệ:
      - Chị Giai Tuệ, em thấy tivi dầu mỏ có màu đen, vậy tại sao ở đây nó lại trong suốt giống như nước thế?
      Chị Giai Tuệ cũng ngồi xuống nhìn ngó xung quanh, hơi nhíu mày suy nghĩ rồi chậm rãi giải thích cho tôi:
      - Dầu mỏ khi đạt tới độ tinh khiết cao chuyển sang trong suốt, điều này chứng tỏ dầu mỏ ở đây hề có tạp chất. Với chất lượng như thế này, có thể trực tiếp đóng thùng sử dụng đấy.
      Dường như chị Giai Tuệ cũng băn khoăn điều gì đó trong lòng, chị ngần ngừ lúc rồi hỏi Lão Ngũ:
      - Lão Ngũ, lão nghĩ chúng ta ở độ sâu bao nhiêu ạ?
      Lão Ngũ vuốt chỏm râu lẩm nhẩm suy tính, :
      - Sau khi mở được chiếc chìa khóa Song Long, nó đưa chúng ta xuống đáy mất nửa ngày trời, rồi lại lúc lên lúc xuống, mất biết bao nhiêu công sức, nhưng ta đoán cũng phải sâu hơn nghìn mét.
      Chị Giai Tuệ khẽ lắc đầu, chậm rãi :
      - đúng, ít nhất cũng phải hai nghìn mét rồi.
      Tôi giật mình thốt lên:
      - Trời! Chúng ta ở sâu thế sao?
      Lão Ngũ vội lên tiếng phản đối con số dự đoán của chị Giai Tuệ:
      - Vô lý, sao có thể sâu được thế, vẫn chưa chạm tới mạch nước ngầm kia mà, vả lại ở đây vẫn còn khá dễ thở.
      Chị Giai Tuệ gật đầu tán thành nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình:
      - thể sai được, tám mươi phần trăm lượng dầu mỏ phân bổ ở trong lòng đất tại hai tầng địa chấn có độ sâu là hai nghìn mét và khoảng ba nghìn mét đến năm nghìn mét; đặc biệt, với loại dầu mỏ có độ tinh khiết cao như thế này ít nhất phải trong khoảng hơn hai nghìn mét. Từ chi tiết này, cháu ước tình chỗ chúng ta đừng ít nhất cũng phải ở độ sâu hai nghìn mét. Thế nhưng khi nhìn lên phía hầu như thể đoán được độ cao của khoảng này là bao nhiêu. Vừa xong khi con hắc ưng bay lên cháu cũng để ý dõi theo, thanh nó phát ra vọng lại từ khoảng cách rất xa, ít nhất cũng phải vài trăm mét, thậm chí cả nghìn mét. Vậy chỗ chúng ta đứng lúc này, nếu là sâu đến hai nghìn mét đúng lắm.
      Lão Ngũ đưa tay vỗ vỗ lên mặt sàn đá dưới chân, lưỡng lự :
      - Hay đấy, hay đấy! Mẹ kiếp, trong suốt dọc đường chúng ta gặp bất cứ dấu hiệu của mạch nước ngầm nào, chẳng lẽ trong quá trình xây dựng, bọn đầu trọc tết tóc đó áp dụng quy trình xử lý mạch nước ngầm trong lòng đất, đẩy chúng chảy tới nơi khác, rồi đào những địa đạo lớn thông với nhau trong lòng đất để khí được lưu thông. Nếu tạo được địa cung như vậy, cái bọn cẩu Thanh này cũng đáng để ta nể phục đấy chứ.
      Hai người bọn họ cứ mải mê tranh luận, phân tích, khiến tôi nghe càng thêm mơ hồ. Bên dưới địa cung này càng càng thấy nhiều điều thần kỳ, tôi chỉ biết ngồi nghe, nhìn lên nhìn xuống, rồi ước lượng, phán đoán trong đầu. Bỗng nhiên, tôi phát ra những sợi dầu lóng lánh dần dần phình to…
      Cứ nghĩ do mắt mình bị hoa nên tôi ra sức dụi, những giọt mồ hôi ướt đầm cánh tay khiến mắt tôi cay xè. Nhưng càng nhìn tôi càng dám khẳng định rằng mình nhìn sai, những sợi dầu đó đúng là to dần lên cứ như bên trong nó là những mũi tên dài và xuyên thẳng trong lõi với tốc độ rất nhanh. Tôi vội vàng gọi Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nhanh tới xem.
      Cả ba chúng tôi cùng lao tới sợi dầu gần nhất, tập trung quan sát, bên trong lõi của sợi dầu là thanh kim loại sáng, màu vàng chanh, thẳng tắp, chỉ bằng ngón tay út; phần đầu còn chia thành bốn lưỡi móc lao xuống góc phiến đá, phát ra tiếng cạch cạch.
      Tôi nhìn sang xung quanh, đều là như vậy, thể đếm hết có bao nhiêu thanh kim loại như thế đâm vuông góc xuống sàn đá, lớp dầu mỏ cũng ngừng men theo đó tuôn xuống, khiến những thanh kim loại sáng loáng như gương. Tôi đứng ở giữa chẳng khác gì bị nhốt trong chiếc lồng sắt vuông vức.
      Chưa hết ngạc nhiên bỗng từ phía dưới vọng lên thanh rất lớn, giống như tiếng bánh răng kim loại chuyển động khớp lại với nhau, những phiến đá dưới chân rung lên bần bật rồi lắc mạnh sang hai phía, khiến tôi suýt ngã nhào.
      Tôi nắm chặt lấy cánh tay Lão Ngũ, vội hỏi lão chuyện gì diễn ra, có phải lũ hắc ưng chuẩn bị xông tới ? Sắc mặt Lão Ngũ bỗng sầm xuống, mắt nhìn chằm chằm xuống nền nhà, giọng lão rít qua kẽ răng:
      - Bà nó chứ, nhìn kìa!
      Những phiến đá lát dưới chân chúng tôi rung lên dữ dội, từng phiến từng phiến bắt đầu tách rời nhau ra, đồng thời những thanh kim loại đâm thẳng xuống dưới khe đá khoảng vài centimet cũng dừng lại, rồi ngay lập tức có tiếng lạo xạo của kim loại cọ sát vào nhau, tựa như những chiếc móc đầu thanh kim loại móc vật gì đó dưới phiến đá.
      Nhìn cảnh tượng này, tôi đoán cỗ máy bắt đầu khởi động, chúng hoạt động theo quy trình đồng nhất từ đầu đến cuối như cỗ máy liên hoàn mà Lão Ngũ từng đến. Vậy đây nhất định chính là động Hắc Ưng. Tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng, liền nhảy sang phiến đá Lão Ngũ đứng, kéo theo cả chị Giai Tuệ, ba người chúng tôi đứng cạnh nhau, tay nắm chặt tay.
      Chúng tôi đứng sát lại với nhau. Bỗng nhiên gian vụt sáng bừng lên. Đó phải là ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh. Vừa nghĩ tới đó, bên tai tôi chợt vang lên từng hồi từng hồi tiếng động dội từ đầu xuống, thanh đó mỗi lúc lớn hơn, ánh sáng trong căn hầm cũng sáng chói cách khó hiểu. Tôi vội ngẩng đầu lên quan sát, cảnh tượng phía khiến tôi hết sức ngỡ ngàng.
      Đầu cùng của thanh kim loại ánh lên những tia sáng màu xanh nước biển lấp lánh, chúng rọi thẳng xuống phía dưới và bắt đầu lan rộng. Mọi thứ tối đen như mực bỗng dội lên những tia sáng xanh biếc khiến gian căn hầm bừng sáng với đủ màu sắc lung linh huyền ảo đến lạ thường. Cùng với những tia sáng xanh là những luồng khí lạnh đột ngột kéo đến làm nhiệt độ căn hầm hạ xuống nhanh chóng và khiến toàn thân tôi nổi da gà.
      Lão Ngũ giậm chân thình thịch, hốt hoảng kêu to:
      - Lửa, dầu mỏ gặp lửa rồi.
      Câu của Lão Ngũ khiến tôi cảm thấy rất phân vân, ràng nhiệt độ giảm thậm chí còn là hơi lạnh, vậy sao lại có lửa chứ, hay là lão đùa chúng tôi. Chưa kịp thắc mắc tia sáng xanh từ thanh kim loại lan đến gần chúng tôi. Đứng giữa bốn tia sáng xanh lè, khuôn mặt ai trông cũng khác lạ như nhìn qua màn sương mỏng.
      Tôi vội quay đầu nhìn lên, những thanh kim loại được bọc trong lớp ánh sáng xanh từ từ tỏa ra làn khí trắng mỏng, giống như hơi nước từ những tảng băng. Luồng khí đó mỗi lúc dày đặc hơn khiến người ta có cảm giác lạc vào giữa những đám mây, tầm nhìn cũng vì thế bắt đầu mờ hẳn.
      Càng nhìn càng cảm thấy lạ lùng, tôi chăm chú quan sát thanh kim loại, ra những tia sáng xanh kia chính là tia lửa , giống như ngọn lửa màu xanh của bếp gas, chúng chạy dọc thanh kim loại.
      Chị Giai Tuệ vẫn chưa tin đó là những ngọn lửa, liền nhổ sợi tóc gí vào tia sáng xanh. Sợi tóc vừa chạm phải lập tức cháy rụi, để lại chút dấu vết. Nếu chỉ là ngọn lửa màu xanh thông thường có gì đáng , nhưng ngọn lửa mà lại có thể tỏa ra luồng khí lạnh thực tình thể hiểu nổi.
      Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ, nghĩ bụng: Ngay từ đầu lão biết đó là tia lửa, vậy chắc hẳn lão nhận ra cơ chế hoạt động của cỗ máy này rồi.
      Lão Ngũ mắt rời khỏi thanh kim loại, tay vân vê mấy sợi râu dưới cằm rồi với chúng tôi:
      - Nếu như ta đoán sai, những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim, tên loại vàng chỉ có thể tìm thấy tại dãy núi Sơn thuộc vùng Tân Cương. Nghe , số lượng của loại khoáng vật này rất ít lại nằm ở độ sâu vài trăm mét dưới lòng đất; để luyện được nó người ta phải sử dụng rất nhiều phương pháp phức tạp, nên loại vàng này cảng trở nên hiếm hoi hơn. Nó có đặc tính cực kì lạ lùng là mỗi khi gặp lửa, dù nhiệt độ của lửa có cao đến đâu chăng nữa bản thân nó vẫn luôn tỏa ra luồng khí lạnh.
      Nghe thấy vậy, chị Giai Tuệ đưa mắt nhìn ra tứ phía, nghi hoặc :
      - Lão Ngũ, nếu đúng như lão , những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim vua Nỗ Nhĩ Cáp Xích kiếm đâu ra những thứ kì quái này chứ. Hơn nữa, thời bấy giờ kỹ thuật luyện kim đâu phát triển, liệu họ có tự chế tạo ra , đây quả đúng là điều bí .
      Lão Ngũ gật đầu tán thành ý kiến của chị, lão mọi thứ ở dưới này đều rất kì quái, bởi bọn cẩu Thanh làm cái gì cũng muốn hoành tráng. Lão còn cho rằng dưới Cố Cung ở Bắc Kinh nhất định còn cất giấu nhiều bảo vật quý hiếm hớn thế này nhiều, nếu có cơ hội phải đến đó chuyến để mở mang đầu óc mới được. Chị Giai Tuệ vội lắc đầu phản đối:
      - Cố Cung ở Bắc Kinh chắc chắn được như thế này đâu, bởi vì nơi nhà Thanh phát tích chính là vùng Đông Bắc này, đây mới chính là cội nguồn…
      Chưa để chị hết câu, tôi vội ngắt lời, hỏi Lão Ngũ cỗ máy này ở đây thực ra có dụng ý gì, tại sao cố tình đặt những thanh vàng tỏa ra khí lạnh như thế, phải chăng chúng cũng giống những cột trụ ở giữa Hắc Xà, dùng những luồng khí lạnh để làm đông cứng chúng tôi?
      Lão Ngũ lắc đầu, :
      - Ta nghĩ phải. Tuy nhiệt độ có hạ xuống nhưng căn hầm này vẫn còn hơi nóng. Khi hai luồng khí đối nghịch gặp nhau, chúng ta cũng đâu có thấy khó chịu lắm.
      Lão quay sang nhìn ra bốn phía rồi thêm là chính lão cũng chưa hiểu vai trò của cỗ máy này như thế nào, đến nước này chỉ còn cách đến đâu hay đến đó, trước mắt cứ lần theo khoảng giữa những thanh kim loại mà về phía trước thôi.
      Nghe Lão Ngũ vậy, vốn sẵn sốt ruột nên tôi lập tức đưa chân định bước qua khoảng giữa của hai thanh kim loại để tiếp tục tiến lên phía trước. ngờ, vừa đặt chân xuống mặt sàn bỗng nhiên những tia lửa từ thanh kim loại lập tức phụt mạnh, đúng lúc tôi ở tư thế chân trong chân ngoài giữa hai phiến đá, chưa biết phải tránh sang phía nào tôi đành cứ đứng trơ trơ chấp nhận chờ chết. Tôi căng thẳng tới mức buột mồm văng ra câu chửi thề.
      Bỗng có lực kéo mạnh tôi về phía sau đúng lúc hai ngọn lửa mang theo luồng khí lạnh buốt phụt tới xém qua chóp mũi tôi rồi chập vào nhau, phát ra tiếng kêu giòn giã. Do lực va khá lớn nên hai thanh kim loại cũng bị rung mạnh, rồi theo đà chúng tiếp tục rung khiến những ngọn lửa xanh đua nhau phụt ra những tia lửa li ti làm tóc mái của tôi cũng bị cháy sém góc.
      Tôi cuống cuồng đưa tay lên phủi phủi tóc mái để dập lửa, quay ra sau thấy Lão Ngũ vừa túm chặt tay lấy lưng áo tôi vừa hằm hằm nhìn tôi đầy trách móc.
      Chị Giai Tuệ vừa giúp tôi dập lửa vừa lo lắng :
      - Nguy hiểm quá, may mà Lão Ngũ ra tay kịp thời.
      Tôi vỗ vỗ tay lên ngực để trấn an tinh thần rồi hổn hển cảm ơn Lão Ngũ cứu mạng và hỏi lại đây là cỗ máy gì. Lão Ngũ bực bội trả lời:
      - Nhóc con, chỉ được cái lanh chanh. Chưa đợi hết câu lao lên trước, giờ đứng yên đấy để ta xem xét kĩ lưỡng rồi cho mi biết.
      Lão Ngũ xong thả tôi ra, rồi ngồi xuống nghiêng đầu sang trái, ngoẹo đầu bên phải quan sát kỹ hai tia lửa chạm vào nhau, sau đó khẽ gật đầu:
      - Hay đấy, hay đấy. Hóa ra đây chính là Thiên Cung Cách sát trận.
      Nghe thấy cái tên này, tôi lập tức nghĩ tới bộ phim nước ngoài từng xem, nội dung kể về những cỗ máy được thiết lập theo mô hình trận địa. Hồi đó, ông nội bắt tôi phải xem bộ phim này để quan sát và rèn luyện.
      Lão Ngũ với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận có nguồn gốc từ kiểu thế trận biến hình thời cổ đại, chủ yếu dùng để bày binh bố trận hoặc bảo vệ lăng mộ của vua chúa, thế nên nó mới được gọi là Thiên Cung. Đem đặt ở đây cũng hơi cần thiết.
      Trong mắt của những người Trung Quốc cổ đại, các hình khối đối xứng tự thân có tính thẩm mĩ cao, đặc biệt là hình tròn, tiếp đó là hình vòng cung, rồi mới đến những hình có góc cạnh như hình vuông, hình chữ nhật. Nhưng theo ghi chép về các cỗ máy bí mật thời cổ xưa, loại thế trận hình vòng cung dễ ứng dụng vào thực tiễn hơn loại thế trận hình tròn, vì tính năng kết hợp thuận tiện, dễ dàng. Đặc biệt bên trong nó vẫn có thể bố trí thêm trận địa khác để tăng khả năng liên kết và chống đỡ.
      Lấy căn hầm trước mặt làm ví dụ. Mỗi phiến đá lát được coi là “nhất cung”, vậy bốn phiến đá tạo thành “tứ cung”, chín phiến là “cửu cung”[1]. Cứ theo quy luật như vậy, có bao nhiêu phiến đá tạo nên trận địa có bấy nhiêu cung.
      [1] Cửu cung ở đây có hình dạng khá giống Cửu cung Hà đồ, nhưng tính chất hoàn toàn giống nhau.
      Tiếp đó, hai cung tạo thành cách, cứ theo đó mà tính cho dù dưới này có bao nhiêu phiến đá lát chăng nữa cũng chỉ cần sắp xếp chúng theo đúng trình tự dọc ngang, hoặc theo hình bình hành đều tạo thành Thiên Cung Cách sát trận.
      Giảng giải đến đây, Lão Ngũ giậm mạnh chân xuống sàn:
      - Nơi chúng ta đứng là cung, lấy đây là điểm trung tâm rồi hướng ra bốn phía xung quanh, cứ hai phiến đá là cách. Những cung, cách này từ xuống dưới, từ trái qua phải đều ăn khớp với nhau, biết trận địa ở căn hầm này được ghép bởi bao nhiêu cung, cách đây.
      Lão Ngũ còn say sưa đông tây hồi lâu, nhưng tôi tài nào hiểu được. Vốn là đứa trẻ lười học, nên với những lời giải thích kiểu lôgic toàn học thế này, tôi thực thể tiêu hóa nổi. Những phiến đá trước mặt ngừng nhảy múa trước mắt khiến đầu óc tôi quay cuồng, mụ mị. Dù sao những lời của Lão Ngũ cũng khẳng định điều: Thiên Cung Cách sát trận là trận địa vô cùng phức tạp và khó lường.
      Chị Giai Tuệ chăm chú nghe Lão Ngũ giảng giải nên hiển nhiên là hiểu ra vấn đề, chị giải thích thêm cho tôi:
      - Đây là tổ hợp những ô vuông được bố trí và sắp xếp có chủ ý, bản chất của nó là áp dụng những công thức toán học lũy thừa và nghịch đảo. giờ ta số phiến đá mặt sàn là bao nhiêu, như thế đồng nghĩa với việc trình tự sắp xếp của các cung, cách cũng là vô số.
      Lão Ngũ gật đầu tán thành:
      - Mấy cái trình tự dọc ngang gì đó ta hiểu lắm, nhưng dù sao trận địa này cũng vô cùng nguy hiểm.
      Tôi sốt ruột tới mức thể lên tiếng hỏi lại:
      - Nhìn mấy thứ này cháu cứ thấy u u mê mê kiểu gì ấy, thế nhưng chắc chắn chúng phải mang ý gì đó, đúng ạ? Chẳng lẽ chúng lại điều khiển các thanh kim loại này kẹp chết chúng ta?
      Lão Ngũ mỉm cười trả lời mà chỉ thò tay vào ngực áo lấy ra viên Phi Hoàng thạch, khiến chúng tôi chăm chú dõi mắt nhìn theo.
      Lão lia viên Phi Hoàng thạch sang phiến đá bên phải rồi để nó rơi tự do xuống nền. Thanh kim loại kẹp giữa hai phiến đá lập tức chuyển động. Thế nhưng điều rất lạ là hai tia lửa xuất như trước, mà thanh kim loại bỗng dưng lắc mạnh rồi va vào thanh còn lại, sau đó chúng quay trở lại vị trí ban đầu. việc xảy ra nhanh đến mức tia lửa thanh kim loại tạo thành vệt xanh lè bay vụt qua.
      Nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, tôi và chị Giai Tuệ đều hết sức ngỡ ngàng, đặc biệt là tôi – người khá rành về nguyên lí chế tạo khóa và những thiết bị tương tự. Hành động của Lão Ngũ khiến tôi nhận ra kết cấu của cỗ máy phía dưới mặt sàn đá kia rất đỗi phức tạp, nó là kết hợp của rất nhiều cơ chế hoạt động khác nhau nên hình thức tấn công phòng thủ mới biến hóa như vậy.
      Lão Ngũ còn với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận thường đặt trong lăng mộ thế nên thông thường cấu tạo của nó là những bức tường đá và sàn kim loại. Bốn mặt cung đều là lối ra, nhưng bắt buộc phải tìm cho đúng; sang tới cung tiếp theo, lại phải chọn lối khác. Trong đó, tường đá và mặt sàn kim loại chính là điểm mấu chốt của cả cỗ máy và chúng liên quan mật thiết với nhau. Chỉ cần chọn sai bước, những thoát ra được mà thậm chí còn bị cỗ máy tấn công, tới lúc đó tính mạng vô cùng mong manh.
      Trận địa Thiên Cung Cách sát trận trước mắt chúng tôi lại thuộc hàng vi diệu nhất, cả bốn phía đều có tường chắn mà chỉ có những thanh Thệ Diệm Kim phủ lửa xanh. Mặc dù nó trong suốt, nhưng như thế càng khó để thoát ra do ngọn lửa phản chiếu làm suy giảm khả năng quan sát, thậm chí còn rất dễ bị chệch hướng. Chỉ cần chọn sai cỗ máy điều khiển những thanh kim loại di chuyển loạn xạ tạo nên trận địa rối ren. Đến lúc đó, thể tưởng tượng được chuyện gì xảy ra.
      đến đây, những nếp nhăn khuôn mặt Lão Ngũ xô đẩy vào nhau khiến gương mặt lão trở nên nhăn nhúm, khó coi. Lão hằn học :
      - Có nghe câu thành ngữ Cách sát bất luận (giết cần luận tội) bao giờ chưa? Cách sát… ha ha… chính là từ trận địa này mà ra đấy. Xem ra ba cái mạng còm của chúng ta đến lúc bị cách sát rồi.
      Nghe thấy vậy, đầu óc tôi trở nên trống rỗng, chẳng lẽ chúng tôi lại cam tâm chết ở đây sao. Đây cũng là lần đầu tiên Lão Ngũ gặp phải tình huống này nên giờ lão cũng chẳng khác gì hai chị em tôi, đến đâu hay đến đó. Chúng tôi quan sát xung quanh hồi lâu rồi quyết định tiếp tục dấn thân, thể để mọi việc chấm dứt như thế này được.
      Do thám thính trước nên Lão Ngũ cho rằng bước sang phía tay trái an toàn hơn. Lão dùng viên Phi Hoàng thạch thử lại lượt nữa, quả nhiên hai thanh kim loại va vào nhau, đến lúc đó chúng tôi mới cẩn trọng bước qua.
      - Phiến thứ ba nhất định phải tiến vào từ phía sau, phiến thứ tư tiếp tục bước thẳng tới…
      Qua chỉ dẫn của Lão Ngũ, chúng tôi cẩn thận bám sát theo sau, lúc bước thẳng lúc lùi ra sau, lúc sang trái lúc sang phải, cứ như vậy cuối cùng chúng tôi cũng tới được phiến đá thứ hai mươi mốt mà gặp trở ngại gì. Tuy nhiên do lúc tiến lúc lùi nên tính về khoảng cách thực chúng tôi mới chỉ tới được phiến đá thứ tám. Mỗi phiến đá có chiều dài mét, vậy nghĩa là chùng tôi mới được có tám mét. Thế nhưng để được tám mét ngắn ngủi này, chúng tôi phải mất gần hai mươi phút đồng hồ. Lão Ngũ đăm chiêu vuốt râu và :
      - được, được rồi, cứ như thế này mãi cũng được, có đến tận đầu kia cũng thể tìm được lối ra.
      Chị Giai Tuệ lo lắng hỏi Lão Ngũ xem có cách nào khác . Lão chớp chớp đôi mắt mờ đục, suy nghĩ lúc lâu rồi khẽ lắc đầu và :
      - Mẹ kiếp, hướng nào cũng là cửa tử, thà chết nhanh chóng còn hơn là như thế này, chúng ta quay vòng thôi. Ta vừa nảy ra ý, hai đứa thử tham mưu xem sao.
      Cơn tò mò trỗi dậy, tôi lập tức hỏi lại:
      - Lão Ngũ, quay vòng gì?
      Lão Ngũ liếc xéo tôi đầy khinh thường rồi khịt mũi :
      - Mi còn lại ít kinh nghiệm, nên hiểu được chuyện này đâu. Chim phượng hoàng sau khi bị thiêu vẫn có thể tái sinh trở lại, đó chính là quay vòng.
      Tôi gật gù tỏ vẻ hiểu, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy rất kỳ lạ, điều đó có liên quan gì đến quay vòng chứ?
      Chị Giai Tuệ bỗng nhiên đưa tay lên bịt miệng, ho sặc sụa, vẻ mặt dở khóc dở cười trước lời giải thích của Lão Ngũ, nhưng rồi vẫn hỏi lão rốt cuộc có chủ ý gì.
      Lão Ngũ mím môi trả lời đầy quyết tâm:
      - Thành công hay ta chưa biết được, hay là cứ đánh động tất cả cung, cách trước , rồi từ từ theo đó tìm đường thoát thân.
      Lão bàn với chúng tôi về cách thoát thân. ra chủ ý của Lão Ngũ là dùng Phi Hoàng thạch lia ra tứ phía để kích cho các thanh kim loại kia cùng chuyển động va vào nhau, rồi dựa vào đó để nắm bắt quy luật, tìm ra hướng .
      Đó là cách vô cùng mạo hiểm, là ranh giới cuối cùng giữa sống và cái chết với nếu cả cỗ máy cùng hoạt động lúc chúng tôi còn cơ hội sống cho mình. Thế nhưng, nếu làm như vậy trận đồ bát quái này cũng giam chân chúng tôi cho đến chết.
      Sau khi bàn bạc ổn thỏa, Lão Ngũ lôi ra hai nắm đá, mỗi tay mười viên. Lão thận trọng chỉnh lại góc độ cũng như vị trí kẹp giữa hai ngón tay. Hơi cúi người xuống, lão lấy hơi dài rồi nín thở, đột ngột thẳng người ném hai mươi viên Phi Hoàng thạch ra ba hướng khác nhau.
      biết lão làm thế nào mà những viên Phi Hoàng thạch bay ra nhanh chậm, cao thấp, xa gần cũng khác nhau. Chỉ trong nháy mắt, hai mươi viên Phi Hoàng thạch rơi xuống hai mươi phiến đá xung quanh chúng tôi, rồi gần như cùng lúc, phát ra tiếng lạch cạch. Những thanh kim loại cũng lập tức chuyển động.
      Trong nháy mắt, từ bốn góc của phiến đá, những thanh kim loại bắt đầu rung bần bật với những tiếng rít rùng rợn. Chúng chuyển động mỗi lúc nhanh hơn, kéo theo dây chuyền cùng đồng loạt hoạt động rồi nhanh chóng tỏa ra bốn phương tám hướng, như những con sóng dồn dập xô nhau.
      Do thanh kim loại khá mảnh và quay tít nên nhìn như chúng chỉ khẽ đưa qua đưa lại, ngọn lửa xanh lè lúc nãy giờ cũng giảm dần và chúng tôi còn cảm nhận sức nóng của nó nữa.
      Cả căn hầm bỗng dội lên tiếng vang rất lớn, giống như sóng thần cuồn cuộn dâng lên. Hai tai ù đặc và trong lòng bất an, tôi vội vàng bịt chặt hai tai nhưng thể nào ngăn được tiếng sóng gào thét.
      Cùng lúc đó, tất cả các thanh kim loại gần như dừng lại trong thoáng chốc rồi tiếp tục chuyển động tạo ra những đường lửa xanh lập lòe, khiến cả căn hầm sáng lên trong thứ ánh sáng ma quái.
      Cả ba chúng tôi đều cố kìm nén ngạc nhiên, nắm chặt tay nhau, đứng im đưa mắt nhìn ra bốn phía thăm dò, cố gắng tìm quy luật hoạt động của những thanh kim loại kia; thế nhưng, càng dõi chúng tôi càng thất vọng hơn vì thể tìm ra quy luật hoạt động của chúng; những thanh kim loại tuy chuyển động theo đường biên, nhưng tuyệt nhiên theo quỹ đạo nào. Có những thanh chuyển động theo hướng cố định, nhưng lại có những thanh liên tục va vào nhau, thậm chí có cả những thanh chỉ men theo đường biên trượt ra xa; dường như tất cả chúng đều có đường di chuyển riêng. Thực tình chúng tôi thể tưởng tượng nổi cỗ máy tinh tế này được thiết kế như thế nào và bộ phận điều khiển mấu chốt của nó phức tạp tới đâu.
      Chuyển động của những thanh kim loại mỗi lúc nhanh hơn, chúng vùn vụt lao nhanh, đem theo những ngọn lửa xanh rồi giao tại các điểm khác nhau, tạo nên bức tường lửa với những đường kẻ sọc màu xanh. lạ, những bức màn lửa xanh mỏng manh tuy vẫn hừng hực tỏa nhiệt nhưng lại trong suốt đến bất thường, chẳng khác gì mặt gương phản chiếu lại hình ảnh của ba chúng tôi cách nét. Từ trước đến sau, từ trái qua phải đâu đâu cũng là hình ảnh của chúng tôi. Ba chúng tôi như bị vây hãm bởi rừng tường lửa mà chỉ cần nhìn thôi cũng đủ làm cho đầu óc quay cuồng.
      Lão Ngũ bỗng dưng kêu lên ầm ĩ:
      - Chết rồi, chết rồi, vậy là phí phạm bao nhiêu viên Phi Hoàng thạch của ta rồi.
      định mở lời bỗng nhiên chị Giai Tuệ quay lại cười với tôi với vẻ mặt khác thường, khiến tôi có chút khó hiểu và thoáng thấy lo sợ. Ngỡ ngàng trong phút chốc, Lão Ngũ liền rút từ trong áo ra thanh gươm mỏng sáng loáng, múa vài đường trong trung, giọng sang sảng:
      - Mẹ kiếp, chém chết chúng mày .
      Lão Ngũ giống như kẻ điên, miệng hét ầm ĩ, tay ngừng vung mạnh lưỡi gươm tạo nên những đường lóe sáng trung, rồi chém mạnh lên bức tường lửa in hình mình phía bên trái với vẻ tức tối.
      Hai thanh kim loại bên phía tay trái vẫn liên tiếp va vào nhau, lưỡi gươm chạm phải đinh tai như đạn pháo oanh tạc. Đúng lúc đó ngọn lửa xanh bỗng bùng lên như dòng nước chảy dọc theo lưỡi gươm.
      Đôi mắt Lão Ngũ đỏ ngầu cùng ánh lửa, lão ngửa cổ cười khanh khách, nhưng bàn tay vẫn rời thanh gươm, tiếp tục quay người chém sang bức tường lửa khác.
      Tôi thấy sợ hãi vô cùng, lẽ nào Lão Ngũ bị điên rồi sao? Nhìn thấy ngọn lửa cháy lan đến tay lão, tôi vội vàng lao tới, giằng lưỡi gươm trong tay lão ra.
      Lão Ngũ hình như cảm thấy đau, luôn miệng phát ra những tràng cười quái dị, rồi quay đầu nhìn chị Giai Tuệ:
      - Vẫn còn mi… hơ hơ…
      Đôi mắt lão đỏ rực lên, nhào người đuổi theo chị Giai Tuệ. Lúc này vẻ mặt Giai Tuệ cũng vô cùng dữ tợn, chị rút khẩu súng, lên đạn và chĩa thẳng về phía Lão Ngũ.
      Trời ơi! Hai người họ làm gì thế này, phải chăng là họ muốn chém giết lẫn nhau? Tim đập thình thịch, tôi vội vàng lao tới giật khẩu súng trong tay chị Giai Tuệ, hét lớn:
      - Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người làm sao thế?
      Thế nhưng mặc cho tôi gào thét, họ vẫn như nghe thấy gì, hai bên cùng lao tới siết cổ đối phương. Hai cặp mắt hằn tia máu, khuôn mặt tím tái, miệng ngừng phát ra những tràng cười điên dại.
      Qua những hành động kì quặc , tôi đoán họ trúng phải loại độc tố nào đó. còn thời gian để sợ hãi, tôi cuống cuồng rút từ trong balô ra hai chiếc kim móc, cầm chắc tay rồi lần lượt đâm vào huyệt tỳ du phía sau lưng của từng người. Đầu mũi kim cắm thẳng vào xương sống chúng centimet khiến hai người họ lập tức đừng yên như pho tượng.
      Vị trí của huyệt tỳ du nằm ở phía sau lưng, dưới sống lưng thứ mười , rộng chừng hai đầu ngón tay. Ngày trước, ông nội từng giảng giải về vị trí các huyệt đạo và kiến thức liên quan, thế nên tôi biết rất huyệt tỳ du là trọng điểm khiến toàn thân mềm nhũn ngay tức khắc.
      Thấy có tác dụng, tôi tiếp tục vê chiếc kim cắm sâu thêm chút nữa. Cả hai người từ từ thả lỏng tay chân, toàn thân lắc lư như say rượu, liêu xiên ngã phịch sang bên. Mỗi phiến đá dưới chân chúng tôi đều chỉ rộng mét vuông, ba chúng tôi đứng chung phiến đá đá thấy rất chật chội, giờ nếu hai người này ngã xuống liệu có bị những thanh kim loại kia kẹp chết ?
      Tôi lập tức thả tay ra khỏi chiếc kim, ôm chặt lấy hai người, cố gắng giữa họ vượt qua ranh giới tử thần kia. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được cơ thể của hai người họ nóng hừng hực như bị sốt, đôi mắt đỏ quạch dần dần trở lại màu sắc bình thường.
      Tôi mừng rơn, áp má lên mặt hai người, khẽ :
      - Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người đỡ chưa?
      Thực ra, lúc đó tôi thực rất sợ, nhỡ đâu hai người họ lại cùng lúc điên loạn mình tôi biết làm sao đây?
      lúc sau, Lão Ngũ bỗng nhiên nấc lên tiếng rồi phều phào ni:
      - Nhóc con, mi ôm ta làm gì thế?
      Lão Ngũ chớp chớp đôi mắt híp như sợi chỉ của mình, nhìn tôi vẻ khó hiểu, hoàn toàn còn thấy vẻ điên dại lúc trước nữa. Chị Giai Tuệ cũng ho khan vài tiếng, rồi quay sang nhìn tôi đầy thắc mắc.
      Thấy hai người trở lại trạng thái bình thường, tôi mới thở phào nhõm, nhưng vẫn giữ chặt lấy vạt áo của hai người dám thả tay ra, tỉ mỉ kể lại việc vừa rồi.
      Nghe tôi kể xong, hai người tỏ vẻ hoài nghi, họ dường như quên hết mọi việc mới chỉ diễn ra vài phút trước. Thế nhưng nhìn thấy thanh gươm và khẩu súng bị tôi đá sang bên, hai người thể tin những lời tôi . Lão Ngũ lắc đầu, miệng lẩm bẩm:
      - Hay đấy, lẽ nào chúng sử dụng dạng khóa treo, khiến chúng ta lạc vào mê trận này?
      Chị Giai Tuệ vội lên tiếng:
      - Cũng đúng, thế tại sao Lan Lan lại bị? Lão Ngũ, lẽ nào chúng ta bị trúng khí độc?
      Lão Ngũ gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý, :
      - Có lý! thanh kim loại kia thể có độc, nhưng lớp dầu lan tới chắc chắn có, chúng ta do biết điều này nên vô tình khởi động các bộ phận của cỗ máy, và bị trúng loại độc dược gây ảo giác chết người.
      Nghe lời Lão Ngũ phân tích, tôi sực nhớ ra cảm giác lâng lâng ban nãy của mình, chắc chắn tôi cũng bị trúng độc, nhưng do người đeo cặp tỳ hưu ngọc nên mới giữ được tỉnh táo. Nghĩ vậy, tôi bỗng cảm thấy rùng mình, may mà bảo bối này luôn bên người, nếu cả ba chúng tôi cùng bị trúng độc, đến lúc đó chết vì tự chém giết lẫn nhau cũng bị những thanh kim loại bốc cháy hừng hực kia kẹp chết, khéo biến thành than cũng nên.
      Tôi lập tức nhìn ra bốn phía xung quanh, những thanh kim loại lúc nãy còn va đập dữ dội vậy mà giờ cũng bắt đầu va chậm lại rồi từ từ trở về vị trí ban đầu; những tia lửa xanh yếu dần , chỉ còn lại lớp mỏng bao quanh thanh kim loại. Thế nhưng đó chỉ là quanh khu vực chỗ chúng tôi đứng, còn phía đằng xa, những thanh kim loại vẫn ngừng va đập vào nhau, tiếng lanh canh vọng tới theo nhịp điệu nhất định.
      Lão Ngũ quan sát hồi lâu rồi bỗng vỗ mạnh lên đùi, :
      - Mẹ kiếp, đây chính là Trung cung, vị trí then chốt nguy hiểm nhất của loạt Cung Cách sát trận, và cũng là nơi khí độc lan tỏa. Xem ra chúng ta thực tiến vào bên trong cỗ máy, giờ chỉ còn cách phá được chúng mới có thể thoát khỏi đây.
      đến đây, lão lại tiếp tục kể cho chúng tôi nghe cái cách mà người xưa đặt tên cho loại Cung Cách sát trận này, họ đặt tên cho nơi ở của hoàng hậu là Trung cung, còn nơi trọng yếu nhất trong triều đình lại là Nội các. Hai nơi này đều có quyền lực tối cao nhưng cũng nguy hiểm nhất. Xem ra, đàn bà và chính trị đều nham hiểm như nhau.
      Tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì cả, biết lão cố tình trêu tôi hay là .
      Lão Ngũ vỗ mạnh lên vai tôi, đưa ra lời đề nghị:
      - Nhóc con, những lúc hiểm nguy như thế này nên ích kỉ, hãy tách đôi cặp tỳ hưu ngọc ra .
      Tôi lập tức làm theo lời lão, tháo cặp tỳ hưu ngọc đeo cổ ra, tách đôi chúng rồi đưa cho lão mảnh để phòng độc.
      Lão Ngũ nắm chặt mảnh ngọc trong tay, bước nhanh tới gần thanh kim loại trước mặt, rồi từ từ ngồi xuống, nghiêng đầu quan sát tỉ mỉ. Tôi và chị Giai Tuệ đứng phía sau, khoác chặt tay nhau và cùng lo lắng nhìn về phía Lão Ngũ.
      Lão Ngũ ngồi phịch xuống sàn, nhìn lên ngó xuống rất lâu rồi lại nhìn sang ba thanh kim loại còn lại, sau đó lão quay đầu lại với chúng tôi:
      - Phần mũi thanh kim loại đúng là có vấn đề. Lan Lan, mi lại đây xem này!
      rồi, lão quay trở lại đứng thay vào vị trí của tôi, nắm lấy tay chị Giai Tuệ. Còn tôi giữ chặt mảnh ngọc trong tay, rồi ngồi xổm xuống trước thanh kim loại, quan sát kĩ lưỡng nơi Lão Ngũ chỉ.
      Tôi dần dần phát ra, phần mũi mỗi thanh kim loại đều có mắt khóa vô cùng , cách mặt đất đúng chừng ba centimet. Quan sát kĩ hơn thấy từ mắt khóa phun ra làn khí mỏng, lực vừa đủ khiến cho tia lửa xanh phủ quanh thân thanh kim loại tào thành vòng xoáy .
      Bỗng tôi nghe giọng Lão Ngũ vang lên từ phía sau:
      - nhìn thấy chưa, ta đoán khí độc được phun ra từ đó, mi xem liệu đó có phải là lỗ khóa ?
      Tôi gật đầu vì cho rằng điều Lão Ngũ hoàn toàn có cơ sở. Khi thanh kim loại lao từ xuống, lần lượt cắm vào bốn góc của phiến đá, khi chúng gắn kết hoàn chỉnh với nhau, cỗ máy bắt đầu khởi động. Nếu đây là loại khóa, có vẻ như nó mang kết cấu của khóa khảm nhưng với quy mô lớn hơn rất nhiều.
      Khóa khảm là loại khóa mà tất cả các bộ phận đều hiển lộ ra ngoài, thông thường chúng được thiết kế trong những cỗ máy lớn. Những thanh kim loại này được coi là lõi khóa, còn những phiến đá chính là những bánh răng cưa; khi những thanh kim loại cắm thẳng xuống nền đá coi như trục khóa ăn khớp vào các bánh răng cưa. Các phiến đá lát dưới căn hầm này nhiều vô kể, mỗi khi thanh kim loại cắm xuống ăn khớp với bốn phiến đá xung quanh nó tạo nên thế trận liên kết chặt chẽ với nhau, đây chính là loại khóa khảm điển hình. Người thiết kế ra nó cố tình tăng diện tích lên bội phần; hơn nữa lại đặt trong căn hầm bất tận này, e là muốn mở được nó phải mất rất nhiều thời gian và sức lực.
      Nghe thấy lời giải thích của tôi, Lão Ngũ tỏ vẻ chán nản, lão :
      - Vậy phải nghĩ cách khác thôi, chứ nếu để giải quyết từng thanh kim loại chắc ba chúng ta phải ăn Tết ở dưới này mất.
      Chị Giai Tuệ im lặng bỗng dưng lên tiếng:
      - Lan Lan, chị nghĩ tốt nhất là em vẫn cứ nên thử. Hắc ưng chắc chắn tấn công từ phía xuống, mà căn hầm này lại rộng bao la, bốn phía xung quanh có đường biên, chi bằng chúng ta nghiên cứu kỹ phía dưới này, nhỡ đâu lại phát thêm điều gì.
      Lão Ngũ lập tức đồng tình, hết lời khen ngợi chị Giai Tuệ suy nghĩ sáng suốt. Bản thân tôi cũng cảm thấy còn chút tia hi vọng, từ trước đến nay tôi luôn cho rằng mọi hướng đều ở phía trước mặt, chứ hề nghĩ nó lại có thể nằm ngay dưới chân, nếu như lần này may mắn, biết đâu chúng tôi thoát được khỏi căn hầm này.
      Nghĩ vậy, tôi lôi bọc kim móc từ trong balô ra rồi chọn lấy sợi dây da lừa màu đen dài chừng sáu centimet. Loại dây da lừa này là loại bảo bối truyền đời của Kiện môn vì có lực nén cực lớn. Tôi từng nghe ông nội giảng giải về cách chế tạo vô cùng phức tạp của nó, đầu tiên phải luộc luộc lại rất nhiều lần cho đến khi nó co lại ở mức tối đa và chuyển sang màu xám đậm, tiếp sau đó là tôi luyện nhiều lần trong nước đá và lưu huỳnh cho tới khi nó đạt tới khả năng chống lửa chống nước. Hơn nữa, tính năng của loại dây này rất đặc biệt, nó vừa có tính mềm dẻo lại vừa chắc khỏe, rất thích hợp để mở mọi loại khóa trong thiên hạ.
      Tôi giữ chặt hai đầu dây, kéo nó dài hơn ra chút rồi từ từ chọc vào lỗ khóa ở mũi thanh kim loại.
      Sợi dây da lừa vừa chạm vào tia lửa xanh ngay lập tức phát ra tiếng lép bép, rồi từ từ chuyển sang màu trắng và vô số những tia li ti bắn ra giống như tia lửa hàn. Xem ra ngọn lửa xanh này cũng khá lợi hại, nhưng dù lợi hại như vậy sợ dây da lừa cũng hề hấn gì.
      Thấy sợi dây da lừa bắt lửa, tôi yên tâm phần nào, từ từ chọc mũi kim vào lỗ khóa thăm dò. Tôi phát thấy phía trong lỗ khóa là khoảng rỗng nằm dọc theo thanh kim loại. Lúc tôi đổi tay, lực tác động lên sợi dây cũng thay đổi khiến nó hơi cong lên nhưng vẫn từ từ thẳng vào trong.
      Sau khi nhét toàn bộ sợi dây vào lõi thanh kim loại, ngón tay tôi cũng gần chạm phải ngọn lửa xanh. Tôi tự nhủ phải giữ nguyên vị trí, nhưng cảm giác vừa rát vừa buốt kia khiến tôi suýt chút nữa rút tay ra; bỗng đầu kia của sợi dây da lừa dừng lại, hình như nó chạm tới đầu bên kia.
      Tôi như mở cờ trong bụng, quên cả rát buốt các ngón tay, tiếp tục đẩy sợi dây da lừa vào sâu thăm dò. Do tập trung cao độ nên tôi cảm nhận được ngay lập tức kết cấu phức tạp bên trong lõi thanh kim loại qua lực tác động dù là nhất lên sợi dây, truyền đến đầu ngón tay.
      Dần dà tôi cũng nhận ra đâu là mắt xích quan trọng. ra, bốn lưỡi móc được nối thẳng vào phía trong cùng của thanh kim loại, rồi lần lượt móc xuống bốn góc phiến đá, rãnh trượt đó lại là vô vàn những đầu móc khác rất . Như vậy thanh kim loại mới có thể bám theo đường khe để chuyển động qua lại cho dù đường khe giữa những phiến đá rất ; ngoài ra thanh kim loại còn có tác dụng là đầu mối quan trọng để điều khiển phiến đá. Thế nhưng chiều dài của sợi dây da lừa có hạn, nên mới chỉ chạm tới phần ngoài cùng của hệ thống, vì thế chưa thể chắc chắn rằng phần kết cầu nằm sâu bên trong đó liệu có phức tạp hơn thế hay ?
      Khi hiểu được cơ chế hoạt động của cỗ máy, tôi cảm thấy nhõm hơn rất nhiều, tinh thần cũng lạc quan hơn. Tới giờ tôi mới chợt nhận ra bàn tay mình đau rát, phồng rộp lên do bỏng, thêm vào đó là cảm giác lạnh buốt khó có thể chịu nổi.
      Tôi lập tức rút sợi dây da lừa ra đặt xuống mặt sàn, sợi dây từ từ co lại. Tôi vừa xoa tay cho ấm vừa kể lại những phát mới cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nghe.
      Nghe tôi kể xong, Lão Ngũ lập tức vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên tiếng gọn lỏn “Tuyệt!”, lão nhấc bổng chị Giai Tuệ xoay vòng vòng trong lòng phiến đá chỉ rộng mét vuông, sau khi nhìn ngang ngó dọc hồi, lão hí hửng :
      - thanh kim loại mà lại có chức năng điều khiển bốn phiến đá xung quanh à? Vậy có nghĩa mở được thanh coi như phá được trận địa trong bốn phiến đá sao? Lan Lan, xử lí mấy cái thanh đó có dễ ?
      Tôi vốn có cùng ý nghĩ với Lão Ngũ, nên lập tức gật đầu, giọng chắc nịch:
      - Có vẻ cũng khó lắm. Chỉ có điều sợi dây da lừa vừa lúc nãy hơi ngắn, để cháu đổi sang sợi dây dài hơn xem. Nếu được mình mở thanh đó trước.
      Quyết định xong, tôi mới lấy ra sợi dây da lừa màu đen giống với sợi dây cũ nhưng dài hơn, rồi ngắm chuẩn, từ từ đút sợi dây vào sâu bên trong lỗ khóa, chuẩn bị mở thanh kim loại đầu tiên.
      Phần mũi thanh kim loại có bốn lưỡi móc, vì sợi dây da lừa khá dài nên tôi có thể dễ dàng cảm nhận kết cấu nằm sâu bên trong. Dưới tác động lực của ngón tay giữa, tôi nhàng gẩy hết những lưỡi móc đường rãnh trượt, rồi rung để chúng trượt ra ngoài.
      Bỗng tôi nghe thấy thanh giòn giã vọng tới từ giữa phiến đá, thanh kim loại kia rung , rồi lập tức dừng lại. Vậy là tôi thành công.
      Thắng lợi ngay từ ban dầu khiến tôi thấy hào hứng hẳn lên, tiếp tục áp dụng phương thức đó mở nốt ba thanh còn lại. Chỉ đến khi những thanh kim loại kia bị tách rời, lơ lửng trượt giữa hai phiến đá, chúng tôi mới thở phào nhõm.
      Lão Ngũ đứng ngay phía sau tôi quan sát, tỏ vẻ rất hài lòng, rồi giục tôi nhanh chóng mở nốt những thanh kim loại còn lại. Chị Giai Tuệ cũng rất hào hứng vì sắp được thoát khỏi cảnh tù túng trong phiến đá chật chội này.
      Tôi gật đầu tán thành, nhưng khi vừa nhổm người đứng dậy đột nhiên có thanh rất lớn dội từ phía đầu xuống, giống như tiếng sấm đánh bên tai.
      Tôi chưa kịp định thần lại, những thanh kim loại vừa bị tôi vô hiệu hóa bỗng dưng xoay chuyển mỗi lúc nhanh hơn, tia lửa xanh bỗng bùng lên dữ dội, bắn ra vô số những tàn lửa giống như những vì sao bay tứ phía, vài tàn lửa trong số đó lao thẳng về phía mặt tôi.
      Tôi hốt hoảng buột miệng chửi thề rồi nhanh chóng né người ra sau, nên tàn lửa chỉ kịp sượt qua má. Tôi đưa tay xoa mặt rồi thở phào nhõm: May quá, việc gì.
      Trong lúc tôi mải xoa bên má bị lửa sượt qua, lại nghe thấy có tiếng lách cách vang tới. Cảm giác bất an dội vào lòng, tôi vội nhìn lại kĩ bốn thanh kim loại vừa mở, chúng ngừng xoay tròn, giờ chỉ còn hơi rung . Nhưng tôi nhận thấy ràng bốn lưỡi móc kia lại móc xuống bốn góc phiến đá.
      Tôi thở dài chán nản, vậy là bao công sức đổ xuống sông xuống biển.
      Thấy vẻ mặt tôi u ám khác thường, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ có lẽ cũng đoán ra việc phá cỗ máy kia thất bại, nên hỏi tôi rốt cuộc xảy ra chuyện gì.
      Tôi lắc đầu cười gượng:
      - Cháu cũng lắm, lúc mở vẫn bình thường, nhưng chẳng hiểu sao rốt cuộc vẫn được.
      Tôi ngồi sụp xuống, nhìn chằm chằm vào thanh kim loại và cố hồi tưởng lại cảm giác các đầu ngón tay lúc đẩy sợi dây da lừa tới đầu bên kia của lõi khóa. ràng có gì sai sót, tại sao chúng lại quay lại vị trí ban đầu?
      Chợt có tiếng Lão Ngũ vọng lại từ sau lưng tôi:
      - Lan Lan, mi nghĩ rằng đây chính là hệ đối số sao?
      Lời gợi ý đúng lúc. Tôi bỗng nhớ lại có lần ông nội với tôi, các loại khóa cổ quái ngày xưa rất hay áp dụng phương pháp sắp xếp theo hệ đối số, và theo quy luật đó mắt xích quan trọng thường nằm ở vị trí trung tâm, còn các vị trí dưới trái phải tạo thành hệ đối số. Liệu Thiên Cung Cách sát trận có phải được bố trí như vậy ? Nghĩ vậy tôi lập tức nhờ Lão Ngũ quan sát kỹ Trung cung gồm bao nhiêu phiến đá.
      Sau hồi tập trung đong đếm cẩn thận, Lão Ngũ khẳng định Trung cung là hình lập phương, với tổng số các thanh kim loại theo chiều dọc và chiều ngang là vừa đúng trăm linh chín phiến đá.
      Nghe thấy vậy tôi lập tức hiểu ra vấn đề, với tổng cộng trăm linh chín phiến đá tạo thành các ô vuông giao nhau như bàn cờ ô thứ năm mươi lăm chính là trung điểm của Trung cung, và chắc chắn điều rằng bốn góc của phiến đá thứ năm mươi lăm đó cũng nối liền với bốn thanh kim loại, tôi nhất định phải mạo hiểm tới đó để mở bốn thanh này. Thế nhưng giờ chúng tôi mới chỉ đứng ở phiến đá thứ bảy theo chiều dọc và thứ chín theo chiều ngang, vẫn còn cách phiến đá thứ năm mươi lăm khoảng rất xa, để được tới đó quả là vấn đề hề đơn giản.
      Tôi cắn chặt răng, quyết tâm ra tay xử lí những thanh kim loại phía trước, mở đường tiến tới vị trí trung tâm phiến đá thứ năm mươi lăm. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức, cuối cùng tôi mới tới được vị trí đó. Bình tĩnh quan sát thêm lần nữa trước khi ra tay, tôi phát ra cỗ máy này được thiết kế theo kết cấu rất chặt chẽs: Bốn đường biên của phiến đá đều vuông góc với nhau ứng với bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây. Bốn thanh kim loại lại cắm vuông góc tại bốn góc của phiến đá, ứng với tám hướng Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc. Để phá được thế trận bắt buộc phải cùng lúc dùng tới bốn sợi dây da lừa, thế nhưng tôi lại chỉ có hai tay, biết mở thế nào đây?
      Suy tính lại, cũng chỉ còn cách tiếp tục dùng đến lỗ sẹo khớp xương nối trong lòng bàn tay tôi, rồi chọc bốn sợi dây da lừa vào đó, lợi dụng lực của cả khớp xương để cùng lúc mở bốn thanh kim loại. Nhưng kế hoạch đó lại khiến tôi do dự, vì thực chất tôi đâu có khả năng đấy; hơn nữa, lỗ khoan như vậy làm sao có thể nhét được bốn sợi dây da lừa chứ, chẳng nhẽ lại phải khoan thêm ba lỗ nữa vào lòng bàn tay nữa sao?
      Đắn đo hồi lâu, tôi mới hạ quyết tâm tiếp tục thực kế hoạch . Cùng lắm là chết ở đây là cùng chứ gì. Nghĩ là làm, tôi lấy ra cây kim móc định nhờ Lão Ngũ chọc thêm ba lỗ nữa vào xương bàn tay. Nhưng tôi chợt cảm thấy lỗ sẹo lòng bàn tay phải bỗng dưng đau ngứa kì lạ, cảm giác như bên trong đó có thứ gì đó chuyển động. Bỗng ý nghĩ táo bạo lướt qua đầu tôi, vậy là tôi có cách phá hủy Thiên Cung Cách sát trận này mà cần phải tạo gây thêm thương tích cho bản thân.
      Cát bay, cảm giác vừa rồi chính là hạt cát bay chuyển động bên trong lỗ sẹo. Vì cất giữ nó ở đó suốt mấy tiếng đồng hồ, lại thêm việc phải vắt óc suy nghĩ cách thoát thân nên tôi gần như quên bẵng diện của nó, ngờ lúc khó khăn nó lại gợi cho tôi ý rất hay. Trước mắt, tôi nắm được những kĩ năng mở khóa ở cấp Địa Kiện, chỉ có điều sức vẫn còn hơi yếu, nếu có thể lợi dụng được tính năng tự chuyển động đặc biệt của cát bay, sau khi cắm bốn sợi dây da lừa vào lỗ sẹo kia rồi lợi dụng lực co bóp của những thớ thịt quanh đó kết hợp với lực chỉ đạo từ khớp xương nối, khéo tôi có thể mở được liền lúc bốn thanh kim loại kia cũng nên.
      Tôi nhanh chóng sắp xếp từng bước hành động và đoan chắc phương pháp này rất khả quan. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng ở phía xa quan sát, tuy hiểu ý đồ của tôi, nhưng hai người họ cũng đoán ra tôi tìm được cách mở khóa, nên vẫy tay ra hiệu cho tôi nhanh chóng giải quyết, Lão Ngũ hét lớn:
      - Lan Lan, nhanh chóng xử lí bốn thanh đó , cần gì bọn ta ở đây hỗ trợ.
      Tôi cảm thấy vững tin hơn hẳn, nhàng lấy trong bọc kim ra bốn sợi dây da lừa dài nhất, lần lượt luồn vào bốn lỗ khóa ở mũi bốn thanh kim loại, đầu còn lại kẹp chặt giữa các ngón tay. Tôi nhàng bóc miếng urgo bịt miệng lỗ sẹo ra, rồi nhanh chóng nhét bốn đầu dây vào bên trong. Qua hệ thống dây thần kinh nhạy cảm, tôi lập tức cảm nhận rất hoạt động mạnh mẽ của hạt cát bay tác động lên đầu bốn sợi dây da lừa khiến chúng cũng khẽ chuyển mình theo. Tôi mừng rỡ khôn xiết vì biết rằng cách này chắc chắn có hiệu quả, đúng là ông trời phù hộ, ba hạt cát bay vô tình lưu lại người chị Giai Tuệ giờ đây lại có thể cứu mạng ba người chúng tôi.
      Tôi vội ngồi khoanh chân giữa phiến đá, rồi từ từ nâng bàn tay phải lên trước ngực, để bốn sợi dây da lừa chĩa về bốn hướng. Sau khi ổn định vị trí, tôi mới từ từ cụp năm ngón tay lại, cố tình ép chặt những thớ thịt trong lòng bàn tay với mục đích đẩy sợi dây chọc sâu vào tận đáy lỗ sẹo.
      Bốn sợi dây da lừa giống như bốn con hắc xà xíu, ngừng uốn éo luồn sâu vào bên trong lỗ khóa. Đầu dây bên trong lỗ sẹo cũng ngừng cọ xát lên thành lỗ, khiến khớp xương của tôi ngứa ngáy vô cùng, nhưng tôi vẫn phải nén chịu, cố gắng đưa bàn tay trái sang nắm chặt lấy cổ tay phải, hợp sức điều khiển các sợi dây tiến tới vị trí nơi các lưỡi móc rãnh trượt trong thanh kim loại móc chặt vào phiến đá. Bỗng có tiếng “bục” khe khẽ vang lên, bốn sợi dây da lừa tự động duỗi ra thẳng tắp, tần số hoạt động trở nên đồng nhất, bắt đầu những bước mở khóa vô cùng phức tạp.
      Hạt cát bay bên trong lỗ sẹo như cũng hiểu ý của tôi, nó chuyển động mỗi lúc nhanh hơn, khiến những sợi dây da lừa cũng theo đó mà di chuyển mạnh hơn, cảm giác như muốn bật tung ra ngoài. Tôi lập tức dùng những đầu ngón tay ép chặt lên thớ thịt trong lòng bàn tay xung quanh miệng lỗ sẹo để cho những sợi dây đó tuột ra. Những lưỡi móc dần dần cũng bị gỡ ra khỏi phiến đá, sợi dây mỗi lúc lại di chuyển sâu vào trong lõi thanh kim loại, khiến lực tác động càng mạnh hơn.
      Lực căng ở hai đầu dây da lừa ngừng tăng lên khiến cho sợi dây cứa mạnh vào các thớ thịt trong lòng bàn tay tôi, những giọt máu đỏ tươi cứ thế túa ra chảy thành dòng xuống mặt sàn đá. Cảm giác đau đớn do bị mất nhiều máu khiến tôi nhiều lần như muốn ngất , rất muốn buông tay ra; thế nhưng tôi thể làm thế, để tìm ra ông nội, để có thể thoát ra khỏi đây, tôi bắt buộc phải chịu đựng. Tôi cắn chặt răng, cố nén nỗi đau hành hạ thể xác để tập trung toàn lực vào việc mở bằng được cỗ máy này.
      Cuối cùng, bốn sợi dây da lừa xoắn chặt lại với nhau, lực xoắn mạnh đến nỗi khiến cả người tôi cũng muốn lăn theo. Để hãm lại, tôi liền nằm xuống sàn, hai chân bắt chéo trung, hai đầu gối kẹp chặt lấy khuỷu tay phải, rồi vòng cánh tay trái ôm chặt lấy hai chân, cả người co tròn lại. Mặc dù dùng hết sức mình, nhưng lực kéo của những thanh kim loại kia vẫn quá lớn, chúng kéo tôi lăn tròn sàn đá chừng hơn chục vòng, sống lưng tôi bị đập mạnh xuống mặt sàn đau nhức vô cùng, cả người trầy trụa cũng ít.
      Lực xoay mỗi lúc tăng nhanh hơn, cho tới khi tôi đếm xuể mình bị quay như vậy bao nhiêu vòng. Tôi lập tức nhắm chặt mắt lại, đầu óc quay cuồng choáng váng, lục phủ ngũ tạn cũng bị đảo lộn, sống lưng từ đau nhức chuyển sang tê dại.
      lúc định thả tay bỏ cuộc tôi bỗng cảm thấy lực trong lòng bàn tay giảm dần. Bốn sợi dây da lừa cũng nhanh chóng co rút lại, rời khỏi thanh kim loại rồi trở lại trạng thái mềm dẻo ban đầu trước khi rơi xuống người tôi. Toàn thân tôi vẫn theo quán tính lăn thêm vài vòng nữa rồi mới dừng lại hẳn.
      Tôi thở dốc, lẩy bẩy chống tay lên sàn gượng ngồi dậy, lắc đầu để định thần lại, chân tay vẫn chưa hết tê mỏi bên tai lại nghe thấy hồi thanh lớn từ dưới đất vang lên, phiến đá ngay dưới chân tôi rung bần bật. Tôi nhanh chóng ngẩng đầu lên quan sát bốn góc xung quanh thấy bốn thanh kim loại từ từ rời khỏi phiến đá, bốn lưỡi móc xíu cũng dần co lại.
      Thành công rồi, chắc chắn lần này tôi thành công rồi. Tôi vui sướng hét toáng lên, quên bẵng đau đớn giày vò thân thể yếu ớt, hai tay chống lên mặt sàn, quỳ gối cố nghểnh ra nhìn về phía đằng xa.
      Đột nhiên, tôi thấy trước mắt tối sầm lại, ra tia lửa xanh bốn thanh kim loại kia tắt từ lâu. Ngay sau đó, bốn phía xung quanh cũng tối dần bởi các thanh kim loại còn lại cũng bị tắt ngóm theo trình tự từ chỗ tôi ngồi kéo dài ra phía đằng xa.
      Sau đó, từng thanh kim loại được kéo lên , khiến cả gian căn hầm đột nhiên vang những tiếng lạo xạo giống như tiếng cát rơi nền đá.
      Tôi như mở cờ trong bụng, cuối cùng công sức của mình bỏ ra cũng được đền đáp, những mở được Thiên Cung Cách sát trận mà còn khám phá ra đặc tính của những hạt cát bay.
      gian bốn phía đen kịt, những tiếng lạo xạo vẫn ngừng vang lên, xem ra những thanh kim loại vẫn được kéo lên tít kia.
      Trong lúc lâng lâng vui sướng, tôi chợt rùng mình bất an, run rẩy nhìn về phía Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng lúc nãy nhưng vẫn chỉ là màn đêm tối đen như mực. Hai người mất tích từ bao giờ.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 12: Thất hận môn và cái xác khô




      Trong lúc mở khóa, từ đầu tới cuối tôi chỉ đứng trong phạm vi phiến đá thứ năm mươi lăm, thỉnh thoảng quay đầu lại vẫn nhìn thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng từ phía đằng xa, tay cầm chiếc gương Dạ Minh lắc qua lắc lại, chiếu ra chùm tia sáng màu xanh lấp lánh. Hơn nữa, bốn phía xung quanh đều là màu đen kịt, có đến tia sáng khác dù là nhất, hai người họ thể vì cố tình trêu tôi mà gập chiếc gương Dạ Minh lại được.
      Vẫn thấy, thực thấy bóng dáng của hai người họ đâu! Tôi càng nghĩ càng thấy sợ hãi, liên tục quay sang tứ phía với hi vọng tìm thấy họ, tôi hét lên trong tuyệt vọng:
      - Lão Ngũ ơi… chị Giai Tuệ ơi… Lão Ngũ… chị Giai Tuệ…
      Nhưng trước mắt tôi chỉ là gian im lặng như tờ và tiếng thét xé tan màn đêm của tôi, thỉnh thoảng có tiếng chuyển động khe khẽ vọng lại từ đằng xa.
      Tôi cứ hét cho tới khi lạc cả giọng, nhưng bốn phía xung quanh đều có bất cứ tiếng phản hồi nào, chắc chắn hai người họ bị mất tích. Vậy có nghĩa là sau khi mở được phần Trung cung của Thiên Cung Cách sát trận, tôi khiến cho các phần khác của cỗ máy tự động biến mất, biết nó lợi hại tới mức nào mà lại có thể khiến cho họ biến mất trong nháy mắt.
      Thế nhưng cũng khó hiểu, cho dù có xảy ra chuyện gì họ cũng phải kêu lên tiếng để báo hiệu mới phải, tại sao tôi lại nghe thấy gì? Lẽ nào do quá tập trung tinh thần vào mở khóa nên tôi nghe thấy tiếng họ gọi?
      Nghĩ nghĩ lại, tôi vẫn thể hiểu nổi vì sao họ lại biến mất như thế, cảm giác sợ hãi lần nữa lại khỏa lấp tâm hồn non nớt. đứa con mới lớn như tôi biết làm gì trong căn hầm rộng lớn thế này đây?
      Cùng lúc đó, các thanh kim loại cũng dừng chuyển động, những khe rãnh cũng dần khép kín. Để định hướng, tôi phải bò sát người xuống sàn, lần theo đường khe nối trong bóng tối mịt mùng để tìm tới nơi hai người mất tích.
      Tôi đếm nhẩm trong đầu số lượng những phiến đá mình bò qua và phải luôn đảm bảo rằng mình đúng hướng. Khi lần được tới nơi, tôi đưa tay mò khắp nhưng vẫn thấy gì cả. Trong nỗi kinh hoàng, tôi quờ quạng mọi chỗ có thể, bỗng nhiên chạm phải vật gì đó mềm mềm. Tôi vội vàng giật lấy, dùng cả hai tay mân mê để xem đó là gì, hình như nó là đôi găng tay chuyên dụng của cảnh sát mà chị Giai Tuệ từng dùng.
      Tôi đoán rằng trong lúc bất ngờ gặp cố, chị Giai Tuệ nhanh trí ném lại đôi găng tay này với mục đích đánh dấu vị trí để tôi phát nơi hai người mất tích.
      Căn hầm này thấy đỉnh, chắc chắn hai người thể bay lên đó, và cũng thể nào có chuyện hắc ưng quắp họ mà tôi mảy may nhận thấy. Vậy chỉ có thể là do mặt sàn đá, chắc hẳn phiến đá lật lại khiến hai người họ rơi xuống dưới.
      Nghĩ vậy, tôi bèn lấy tay sờ từng phiến đá xung quanh, nhưng cũng chẳng phát ra dấu hiệu gì bất thường. Suy nghĩ lúc, tôi mới quyết định lấy chiếc kim móc ra cào lên phiến đá để xem liệu có tìm thấy manh mối nào .
      Tiếng ken két vang lên khi tôi cào lên nền đá giống như tiếng lũ chuột cống nghiến răng kèn kẹt, thêm vào đó là tiếng chuyển động của cỗ máy từ đằng xa vọng tới; những tạp này khiến tôi cảm thấy rất khó chịu, bất an. Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người ở đâu? Tôi cố nén dòng nước mắt chực chảy ra, tay cào lên mặt sàn mỗi lúc nhanh.
      Cuối cùng, tôi cũng phát ra điều đáng ngờ phiến đá. thanh ở đó khá lạ lẫm, nhiệt độ bề mặt cũng mát hơn so với những phiến đá khác. Xem ra đây chính là thủ phạm, nếu như tôi đoán sai, hai người họ bị rơi xuống phía dưới phiến đá này.
      Tôi liền áp sát tai xuống mặt sàn để lắng nghe những thanh phía dưới, đó là những tiếng vang lớn, tạm thời tôi thể biết rốt cuộc đó là chuyển động của vật gì, Tôi chuyển sang những phiến đá bên cạnh, mặc dù vẫn là tiếng vang đó, nhưng yếu hơn, rất có thể những thanh đó là của cùng vật.
      Khi xác định đúng vị trí, tôi hạ quyết tâm tìm cho ra điểm mấu chốt, có như thế mới biết tình hình tại của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, xem họ còn sống hay… Nghĩ tới đó, bên tai tôi như văng vẳng đâu đây câu “Hay đấy!” quen thuộc của Lão Ngũ; và cả đôi mắt trong sáng, luôn lo lắng cho tôi của chị Giai Tuệ.
      Tôi thấy sống mũi cay cay, nước mắt lại chực trào ra, nhưng nghĩ đến lời Lão Ngũ luôn chê tôi là đứa con nít chỉ biết khóc nhè; tôi đành cắn răng cố nén những giọt nước mắt vào trong, và cũng tự hứa với lòng mình rằng: Lão Ngũ. Chị Giai Tuệ, hai người cứ yên tâm, cháu nhất định tìm ra hai người.
      Do có kinh nghiệm trong lúc khống chế những thanh kim loại lửa, nên tôi hiểu được phần nào cấu tạo và cơ chế hoạt động của những phiến đá này. Tôi lập tức lôi từ trong balô ra miếng kim loại dẹt và mỏng, cố gắng dùng hết sức ấn mạnh nó vào đường khe . Thế nhưng dù cố đến mức các đầu ngón tay trở nên tê cứng, phiến đá vẫn dịch chuyển và hề có dấu hiệu nào cho thấy nó chuyển động. Tôi vẫn nhụt chí, tiếp tục đổi sang các dụng cụ khác, nhưng vẫn khả quan gì hơn.
      Loay hoay hồi lâu, tôi bắt đầu cuống lên, cả người đầm đìa mồ hôi, liền ngồi phịch xuống phiến đá bên cạnh thở dốc. Trong lúc nghĩ ngợi lung tung, tôi bỗng cảm thấy phiến đá dưới mông rung , chưa kịp phản ứng bỗng nhiên thấy phía dưới trống , cả người tôi chao đảo rớt xuống.
      - Ôi mẹ ơi!
      Tôi hét lên lớn, trong lòng lập tức hiểu ra mình bị phiến đá hất xuống dưới. Bản năng mách bảo tôi ôm chặt lấy hai gối, người co tròn lại, để tránh cho đầu và tay chân bị thương.
      Cả người tôi lao xuống phanh, bên tai chỉ còn tiếng ù ù của gió, lòng thầm sợ hãi và lo lắng, nếu như rơi xuống mặt sàn đá thân này chắc chắn nát như tương. Tôi cố gắng ngó xuống dưới, hình như có luồng ánh sáng rọi ngược lên nhưng chưa kịp nhận ra cái gì tôi cảm thấy phía dưới lưng mình mềm mềm, giống như chạm phải vật gì đó giống như bông xốp vậy. Bốn bề tối như bưng, lập tức cảm giác bí bức vây lấy tôi khiến hơi thở cũng trở nên nặng nề, khó chịu hơn.
      Cảm giác như mình mỗi lúc lún sâu hơn, rồi ngay sau đó, phía dưới lưng lập tức truyền tới lực đẩy rất lớn, khiến cả người tôi lại bật thẳng lên trung. Nó rất giống với trò chơi bật bông hồi ông nội hay cho tôi chơi.
      Cảm thấy nguy hiểm lắm nên trong lòng tôi đỡ lo phần nào. Cả cơ thể bật cao khoảng chừng hơn chục mét, lực đẩy yếu dần , rồi lại bắt đầu quá trình rơi tự do. trung tôi quay đầu nhìn xuống, những gì nhìn thấy khiến tôi kinh hãi suýt tè cả ra quần.
      Phía dưới vẫn là khoảng trống bất thường như trong lòng động, tường treo dày đặc những ngọn đèn dầu, mặc dù lửa lớn lắm, nhưng do chúng có cụm lại với nhau nên chẳng trách ở dưới đó sáng như thế. Dưới mặt sàn là đống bầy nhầy màu đen rất lớn, kết dính với nhau, thỉnh thoảng lại điểm xuyết bằng những đốm lớn màu trắng, trông như những con mắt trắng dã.
      Thoáng cái, cả người tôi rơi xuống đống bầy nhầy đó, rồi lại bật lên, lần này cao lắm, cứ lặp lặp lại như vậy thêm ba bốn lần dừng hẳn. Tôi nằm bất động đống bầy nhầy đen đúa đó, dưới mông hơi man mát, biết có phải do tôi sợ quá mà tè ra . Trong lòng bỗng dưng cảm thấy hỗn loạn vô cùng, rốt cuộc đây là đâu, những cây đèn dầu kia do ai thắp lên?
      Tôi đưa mắt thăm dò xung quanh chợt phát ra, bốn bức tường động mọc ra vô số thạch nhũ khổng lồ, ở đó đặt rất nhiều những cây đèn dầu với hình dạng cổ xưa, và gió… Tôi cũng biết những luồng gió này từ đâu thổi đến, tuy bị gió tạt song những cây đèn dầu hề bị thổi tắt. nén được tò mò tôi chậm rãi bò dậy.
      Bỗng nhiên, bên tai tôi văng vẳng có tiếng ai đó gọi:
      - Lan Lan, Lan Lan!
      Tiếng gọi ban đầu rất xa xăm, cảm giác như từ nơi cách xa ngàn dặm vọng tới, nhưng càng lúc tiếng vang đó lại càng hơn.
      Chị Giai Tuệ?!
      Đó chính là giọng của chị Giai Tuệ, hình như còn lẫn cả giọng của Lão Ngũ nữa. Tôi sung sướng đến phát khóc, lập tức rướn cổ về phía tiếng gọi kia đáp lời. Cách nơi tôi đứng chừng hơn năm mươi mét, có hai bóng người mờ mờ ngồi tảng thạch nhũ, đó chính là Lão Ngũ và chị Giai Tuệ! Chị Giai Tuệ vội cầm cây đèn dầu lên, ngừng vẫy tay ra hiệu, kèm theo đó là tiếng gọi vội vã của Lão Ngũ.
      - Lan Lan, nhảy xuống phía dưới, men theo đường khe lại đây.
      Khe nào mới được chứ? Tôi chưa kịp phản ứng toàn thân lại rung lên lần nữa, phần “đệm” dưới chân bất ngờ biến mất, cả người tôi bỗng tụt mạnh xuống cái hố, nửa người dưới rơi tùm xuống nước.
      Tôi hốt hoảng giơ tay ra bám lấy miệng hố thấy mềm mềm như miếng thịt sống, móng tay tôi cắm chặt vào nó, hệt như tóm phải cái bánh bao rất lớn. tay vẫn bám chặt, tôi ngoảnh đầu nhìn xuống. ra những đốm trắng mà lúc nãy tôi nhìn thấy từ cao xuống chính là những cái hố sâu, phần miệng hố trơn nhẵn còn đáy sáng lấp lánh, phản chiếu những tia sáng lung linh trong trẻo, bên trong hồ chứa đầy dung dịch như lòng trắng trứng gà.
      Cha mẹ ơi, đây là cái gì thế này? Tôi lập tức nhớ đến lời dặn của Lão Ngũ, liền cúi xuống nhìn lại kĩ, ra bên thành hố, giữa những tảng mềm mềm kia là khe hở rất hẹp. lưỡng lự, tôi cúi người xuống, dùng tay vạch khe hở để chui qua. Lăn lộn trong cái đống bùng nhùng đó lúc tôi rơi tiếp xuống dưới, lớp nhầy nhụa, bê bết vừa rồi dính đầy lên mặt lên đầu. Rất nhanh sau đó, tôi đứng thẳng dậy, cảm thấy dễ thở hơn và trong lòng yên tâm được phần nào. Trong lúc chui qua khe hở kia, bốn phía xung quanh đen kịt, mùi tanh nồng bốc lên khiến tôi thấy lợm giọng buồn nôn.
      Mặc dù trong lòng tôi rất lo sợ, nhưng may nhờ có tiếng gọi và hướng dẫn của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, tôi mới biết đường mà chui qua khe hở thoát thân. Vừa mới chui đầu qua, Lão Ngũ hối hả lấy tay phủi lớp bầy nhầy dính đầy đầu tóc và quần áo tôi, rồi cốc mạnh vào trán tôi, sung sướng :
      - Con nhóc này, vậy là mi cũng xuống dưới này rồi.
      Chị Giai Tuệ vội lao tới ôm chầm lấy tôi.
      - May quá, may quá, chị cứ tưởng là lạc mất em. – xong, chị lôi ra chiếc khăn tay lau sạch mặt mũi, đầu tóc cho tôi.
      Gặp lại hai người, tôi mừng rơi nước mắt, nắm chặt lấy tay họ, định gì đó chợt thấy người Lão Ngũ giờ chỉ còn lại chiếc quần, để lộ ra hai cẳng chân gầy gò, đen đúa.
      Tôi ngại ngùng hỏi lão sao lại cởi quần dài ra? Lão Ngũ liền chửi thề câu, rồi kể lúc thấy cái thanh kim loại tự động kéo lên, hai người họ nghĩ mở khóa thành công nên định chạy thẳng tới chỗ tôi đừng, ai ngờ phiến đá dưới chân lại là phiến đá lật, nên họ bị rơi thẳng xuống dưới này. May mà phía dưới này mọc toàn nấm đá, nếu tan xương nát thịt rồi.
      Lão Ngũ với tôi, lớp nhầy nhụa ban nãy chính là nấm đá, chúng là loại nấm khuẩn dưới mặt đất cực kì quý hiếm, để chúng mọc dài được như thế chắc cũng phải mất hàng trăm năm tuổi. Còn những đốm trắng phía bề mặt là những lỗ thoát khí, nó mở ra khép vào theo chu kì nhất định. Cái số ta cũng chó chết, rơi đúng vào lúc nó khép lỗ thoát khí, vậy là nửa người dưới bị kẹp chặt, làm tuột mất cả chiếc quần dài.
      đến đây, lão vỗ mạnh vào đùi, khuôn mặt đầy vẻ ấm ức:
      - Lần này đúng là lỗ to rồi, những bị mất quần đùi, mà đến cả gương Dạ Minh, chuỗi hạt Ô Kim và mấy thứ bảo bối lúc trước tìm thấy giờ cũng mất hết rồi, mẹ kiếp! Nếu biết trước là rơi xuống lũ nấm đá này ta giấu chúng ở người, bỏ mẹ trong balô có phải tốt hơn .
      Nghe thấy vậy, tôi cũng tiếc đứt ruột thay lão, nhìn vẻ mặt đau khổ của Lão Ngũ, tôi liền an ủi:
      - Lão Ngũ, cháu vẫn còn số bảo bối dùng đến đây, cháu cho lão hết đấy.
      Lão Ngũ đồng ý ngay tắp lự, nhưng định đưa tay ra nhận lấy mặt lão bỗng dưng đỏ ửng lên, ngượng ngùng :
      - Cái này… cái này… ta làm sao lại giành đồ với đứa trẻ chứ?
      Tôi cười khì khì, rằng mình vốn dĩ thích chúng, quay đầu sang thấy chị Giai Tuệ cầm tay chiếc đèn dầu rất cổ, liền vội hỏi chuyện gì xảy ra.
      Lão Ngũ hào hứng vỗ lên thành tường:
      - Theo như ta quan sát đây chính là cái động tự nhiên, thế nhưng mỗi tảng thạch nhũ lại đặt những chiếc đèn dầu. Cả địa cung chỗ nào cũng tối đen như mực, duy chỉ nơi này mới có ánh sáng lung linh, có lẽ đích đến ngay gần chúng ta, và cái bọn đầu trọc tết tóc đuôi sam kia chắc chắn giấu loại bảo bối gì đó ở đây.
      rồi, lão di di bàn chân xuống mặt sàn. Ánh mắt tôi chợt dừng tại cái lỗ bằng đầu ngón tay tảng thạch nhũ, ràng đó là do con người tạo ra, từ phía trong lỗ phun ra thứ dung dịch màu xanh nhạt, chảy men theo tảng thạch nhũ từng giọt xuống dưới. Cơn tò mò trỗi dậy, tôi liền ngồi xuống lấy tay quệt chút dung dịch đó lên xem, cảm giác sền sệt dinh dính như nhớt.
      Lão Ngũ ngay đây chính là loại dầu Hà Tử mà ngày trước những người Nữ Chân dùng làm chất đốt. Nó được luyện từ hỗn hợp mỡ và mật gấu đen vùng Đông Bắc, với đặc điểm rất đượm lửa, chỉ cần giọt Hà Tử là có thể cháy sáng được cả ngày. Vừa xong lão và chị Giai Tuệ gỡ chiếc đèn dầu xuống, dùng vải làm bấc, mặc dù chiếc gương Dạ Minh mất, nhưng dù sao cũng vẫn còn thứ này để ra khỏi đây.
      Loại dầu Hà Tử công năng đặc tính thế nào tôi còn hiểu, nhưng còn người Nữ Chân Nữ Tay kia chẳng nghe thấy bao giờ. Chị Giai Tuệ liền giải thích cho tôi tộc Nữ Chân là tổ tiên của dân tộc Mãn, ngày trước họ cư trú ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang, cuộc sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm trong rừng sâu. Sau khi hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất từng vùng lãnh thổ, lật đổ nhà Minh xây dựng đế chế Hậu Kim, khởi nguồn cho triều Đại Thanh sau này.
      Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết:
      - Em hiểu rồi, vậy tộc người Nữ Chân chính là thủy tổ của chị đúng ?
      Chị Giai Tuệ mỉm cười, quay đầu nhìn sang bốn phía, giọng trầm hẳn xuống:
      - Đúng thế, có lẽ đây chính là điểm cuối cùng trong hệ thống địa cung mà hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng.
      Nghe chị vậy, tôi reo lên mừng rỡ:
      - Vậy bảo bối chắc chắn chôn ở đây rồi.
      Lão Ngũ cũng cười khoái chí như trẻ con, chỉ tay lên đỉnh đầu, tự đắc thêm:
      - Nhóc con, nhìn thấy gì chưa, đó có cửa ra đấy. Ta và con Giai Tuệ lúc nãy cũng tính rồi, chắc chắn đó là nơi cất giấu bảo bối, giờ mi cũng đến rồi, chúng ta cứ trèo lên đó xem sao, thành công hay thất bại còn tùy thuộc vào vận số nữa đấy.
      Tôi ngẩng đầu nhìn theo hướng tay lão chỉ. Cách chỗ chúng tôi đứng chừng bốn mươi mét hơi chếch về phía bên trái là bề mặt khá bằng phẳng và nhẵn nhụi, hình như đó là cánh cửa. Nó ở chính giữa bốn tảng thạch nhũ, lại được những chiếc đèn dầu rọi sáng nên có thể nhìn thấy rất .
      Nhìn thấy cửa ải cuối cùng ở trước mắt, chúng tôi đều hào hứng vô cùng, hăng hái trèo lên những tảng thạch nhũ. Nhưng mọi việc lại hề đơn giản như chúng tôi tưởng. Bề mặt của những tảng thạch nhũ này trơn như mỡ, cứ trèo lên được đoạn lại bị trượt xuống, loay hoay cả buổi, chúng tôi mới lên được tới nơi, hề dễ dàng gì.
      Ở đó có mỏm đá rộng chừng hai ba mét nhô ra phía trước, ba chúng tôi cùng đứng chen chân ở đó. Tôi mệt đứt hơi, người đầm đìa mồ hôi, vừa vịn tường thở dốc vừa tiếp tục quan sát xung quanh.
      Đó là cánh cửa bằng sắt chi chít những vết hoen gỉ màu đỏ gạch, to chừng mặt bàn với với bốn cạnh vuông vức, gắn chìm vào trong vách đá. Tôi lập tức lấy chiếc kim móc trong balô ra, gõ liên tục phần mũi kia vào mặt cánh cửa, đồng thời áp sát tai chú ý lắng nghe từng tiếng động phát ra. thanh phát ra khá nặng, điều đó chứng tỏ lớp gỉ sét bám cánh cửa này rất dày, tôi cạo mũi kim lên lớp hoen gỉ, chúng rơi xuống lả tả như tàn tro.
      Cạo hồi lâu, cánh cửa trở nên sạch hơn, để lộ ra toàn bộ diện mạo của nó. Đó phải là cánh cửa kim loại được đúc liền khối như tôi nghĩ ban đầu mà do bảy thanh kim loại màu đen ghép lại với nhau theo kết cấu rất kì quặc, gồm năm thanh to khác nhau ghép thành hình tam giác vuông, còn lại là thanh hình vuông và thanh hình bình hành được thiết kế ăn khớp với nhau. Đặc biệt là, mỗi thanh kim loại đều khắc chữ “Hận” màu xanh đậm, chữ viết tay, rất nét, lồi lõm thô sơ, sờ tay lên đó có cảm giác phẳng lì tì vết.
      Cặp chân mày xinh đẹp của chị Giai Tuệ cau lại, chị thắc mắc:
      - Nếu như đây là cửa ải cuối cùng dưới địa cung, những nét chữ này nhất định là mang điều bí nào đó.
      Nghe vậy, bỗng dưng tôi nhớ ra, cánh cửa trước mặt có thể chính là Thắt Xảo Thiên Tập môn mà ông nội từng có lần kể, nó được tạo thành dựa vào kết cấu Thất Xảo Bản. Thất Xảo Bản được bắt nguồn từ Yến chi đồ đời Tống và Điệp chí đồ thời Minh, cho tới tận đầu nhà Thanh, nó mới được hoàn thiện với bảy mảnh ghép biến hóa muôn hình vạn trạng, có thể sử dụng ở mọi loại trận địa. Sau đó có bậc thầy chế tạo khóa dựa kết cấu của nó để chế tạo ra loại Thất Xảo Thiên Tập môn. Cửa chính là khóa, khóa chính là cửa, chính vì thế nên nó còn được gọi là khóa Thiên hợp, chủ yếu lấy thiên số “Thất” làm chủ đạo. Thất – số bảy là con số có ý nghĩa rất đặc biệt, nó thường được dùng làm con số cơ bản cho các loại cửa cổ quái. Nếu tách nó ra làm “nhị - ngũ” là tượng trưng cho lưỡng nghi, ngũ hành; “tam – tứ” tượng trưng cho tam tài, tứ tượng; “nhất – lục” tượng trưng cho thái cực, lục hòa; nhưng khi cả bảy mảnh được ghép thành khối lại mang ý nghĩa là thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thế nhưng với chữ “Hận” hình như ông chưa từng đến.
      Ngay sau khi nghe tôi giải thích, Lão Ngũ vỗ đùi đánh đét, giọng vô cùng hào hứng:
      - Mẹ kiếp! Dùng khóa Thiên Tập để trấn áp chắc chắn bên trong có giấu báu vật rồi. Lan Lan, mi nhanh chóng động thủ .
      Chị Giai Tuệ đưa tay chạm khẽ lên cánh cửa, nhìn chằm chằm vào bảy chữ “Hận” các mảnh ghép, rồi rằng những chữ này rất cổ quái, thể nhận ra chúng được viết bằng cách nào, liệu đó có phải là lời nguyền ?
      Lão Ngũ đấm mạnh lên cánh cửa, tuyên bố:
      - Nguyền rủa cái mẹ gì, chỉ có bọn chó đầu trọc sợ bị ăn trộm mất bảo bối, nên cố tình viết chữ lên đây để nhát mấy kẻ yếu bóng vía thôi. Lan Lan, mi giải quyết nó . Nếu có chuyện gì xảy ra ta chịu trách nhiệm, Lão Ngũ này mặt dày lắm, chẳng sợ bị thằng nào hận hết.
      Thấy tôi gật đầu đồng ý, nên chị Giai Tuệ cũng gì thêm, chỉ lôi từ trong balô ra chiếc máy ảnh cỡ , chụp tách tách vài kiểu, rằng để sau này làm tư liệu.
      Do mỏm đá khá chật, nên tôi bảo Lão Ngũ và chị Giai Tuệ tụt xuống, để tôi nới rộng chỗ mở cánh cửa.
      Tôi cố gắng đứng vững, điều chỉnh tư thế sao cho thoải mái nhất để quan sát kĩ càng hơn. Bảy mảnh ghép gồm có tất cả hai mươi ba đường biên, trừ sáu đường trong vách đá ra, cánh cửa vẫn còn mười bảy đường biên bên ngoài. Tôi lôi chiếc kính lúp chuyên dụng ra soi phát đường biên xuất dày đặc những móc khóa rất ăn khớp với nhau. Tôi nghĩ ngợi hồi lâu rồi lôi ra chiếc kim móc loại cực mảnh, chọc vào phía trong đường biên thăm dò, hóa ra mỗi đường lại được thiết kế kiểu khác nhau: Có đường là vô số những bánh răng khít chặt nhau, có đường là những trụ tròn, có đường lại được nối bằng những sợi dây chập lại với nhau; nhưng tất thảy đều có điểm chung là vô cùng cố quái, bắt buộc người mở khóa phải kết hợp sử dụng nhiều loại công cụ và kỹ thuật phức tạp mới có thể mở được.
      Cảm giác đúng hướng, khiến tôi thấy áp lực lắm, với kĩ năng mở khóa cấp Địa Kiện cánh cửa này phải là quá khó, tuy nhiên chắc chắn là phải hi sinh vài sợi dây da lừa rồi.
      Tôi từ từ chọc sâu mũi kim móc vào trong đường biên, vừa lắc chiếc kim, tôi nghe thấy tiếng va chạm rất lớn, liền sau đó, chúng dội lên liên hồi, giống như tiếng kim loại va đập vào nhau nhưng được phóng to lên bội phần. thanh đó mỗi lúc lùi xa hơn, vọng khắp vách động. Tôi vô thức ngẩng đầu nhìn lên phía ngỡ ngàng phát ra điều, mỗi khi thanh lan đến đâu ngọn lửa đèn dầu lại chập chờn như bị gió tạt đến đó, nhưng sau đó lập tức trở lại trạng thái bình thường. Chỉ trong nháy mắt, những luồng thanh đó quay trở lại, tập hợp trước khóa Thiên Tập nghe răng rắc như những bánh răng kéo lê đoạn xích.
      Tôi lắc lắc đầu để dồn mọi tập trung vào đôi mắt, nhưng trong lòng thấy rất kì lạ, biết rốt cuộc chuyện gì xảy ra. Chỉ vài giây sau, từ vách đá đối diện với cánh cửa trồi ra bảy ống thép trắng, to gần bằng miệng cốc. Sau khi trồi ra chừng mười centimet, chúng bắt đầu xoay tít như nòng súng lên đạn, qua ánh sáng của ngọn đèn dầu, những ống thép phản chiếu ra thứ ánh sáng vô cùng chói mắt.
      Chứng kiến cảnh tượng , tôi thầm rủa mình vì bất cẩn chạm vào chi tiết nguy hiểm nào đó. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng hét từ phía dưới, rồi đoạn dây được quăng lên, cuối cùng tôi thấy mình nằm gọn trong lòng Lão Ngũ.
      Chưa kịp định thần lại, tôi nhìn thấy từ miệng ống thép bắn mạnh ra những tia sáng trắng, lao thẳng vào cánh cửa kim loại, phát ra thanh đinh tai nhức óc như tiếng súng nổ.
      Kèm với tiếng nổ là vô số những tia sáng dài chừng vài centimet liên tục bắn ra. Có vài tia rơi xuống người tôi, nhìn lại kĩ hơn hóa ra đó là những mũi tên rất bằng kim loại màu trắng bạc, chỉ có điều chúng được bắn với tốc độ quá nhanh, khoảng cách lại quá ngắn nên có cảm giác như chúng chỉ là những tia sáng mảnh mai. Đầu mũi tên rất nhọn, phía đuôi gắn ba sợi lông vũ màu trắng rất . Tôi ngẩng đầu nhìn lên cánh cửa, vẫn hề để lại dấu vết nào, thế cũng đủ biết cánh cửa đó cứng đến cỡ nào.
      Những mũi tên màu trắng bạc vẫn tiếp tục bắn rào rào chừng nửa phút sau mới dừng hẳn. Tôi sợ đến mức dạ dày như cuộn lại, may mà Lão Ngũ nhanh tay kéo xuống, nếu tôi sớm tiêu đời rồi.
      Lão Ngũ cũng nhặt hai mũi tên lên ngắm nghía lúc, lão với giọng vô cùng oán hận:
      - Mẹ kiếp, là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. tàn ác! Hay đấy, hay đáy!
      Lão quay sang giải thích với chúng tôi, bảy ống thép trắng kia được sắp xếp theo vị trí của chòm sao Bắc Đẩu, bên trong được thiết kế lực đẩy rất mạnh, gọi là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. Sức công phá của chúng còn mạnh gấp trăm gấp vạn lần so với năm lưỡi dao mà chúng tôi gặp ở cửa ải đầu tiên, chúng được đặt ở đây là nhằm để cản trở những người muốn vượt qua cánh cửa Thiên Tập kia.
      Tôi nghĩ lúc rồi đưa ra giải pháp:
      - Lão Ngũ, hay là chúng ta trèo sang vách đối diện để phá bảy nòng Liên Châu Tiễn trước .
      Lão Ngũ lập tức lắc đầu, giải thích:
      - Đây được gọi là cỗ máy Tung hoành tiêu khí với đường dây dẫn chạy dài khắp vách động, mỗi ống là nòng bắn, chúng được nối liền tạo thành chuỗi liên hợp với nhau. Chỉ cần phá bỏ ống vô tình khởi động tất cả những ống còn lại, đến lúc đó mũi tên được bắn ra từ bốn phương tám hướng, đến con ruồi cũng thoát nổi đâu.
      Tôi sợ rúm người nấp sau Lão Ngũ, lo lắng nhìn ngó khắp nơi vì lo những mũi tên đó lại xuất lần nữa. Đến người luôn điềm tĩnh như chị Giai Tuệ cũng cuống quýt hỏi:
      - Lão Ngũ, phải làm sao bây giờ?
      Lão Ngũ cúi đầu lẩm nhẩm lúc, rồi vừa xoắn chòm râu thưa vừa khẳng khái :
      - Nghìn vạn thiên binh còn sợ nữa là ba tấc sắt này. giờ chỉ còn cửa ải cuối cùng này thôi, ta đứng phía sau Lan Lan để làm bia đỡ đạn vậy. Nếu như nó mở nhanh, tài nghệ của Lão Ngũ ta còn đường phát huy. Còn nếu như cả hai người cùng ngoẻo … ha ha… coi như chết có bạn có bè vậy
      Chúng tôi bàn bạc kế hoạch lúc lâu, mặc dù cả hai đều biết làm vậy rất mạo hiểm nhưng còn cách nào khác. Thế rồi tôi và Lão Ngũ cùng leo lên phiến đá , lưng áp lưng. Lão Ngũ cầm hai đầu mũi tên trong tay, hai chân choãi sang hai bên tìm thế đứng vững chãi, lão dứt khoát ra lệnh:
      - Nhóc con, tiến hành !
      Tôi dám lưỡng lự thêm phút nào, lập tức bắt tay vào mở khóa. Kim móc vừa mới chọc vào đường biên Thất Tinh Liên Châu Tiễn bắt đầu khai hỏa, tôi nghe có tiếng leng keng ngừng phát ra phía sau lưng, nhưng hề thấy mũi tên nào bắn trúng cánh cửa. Mặc dù được tận mắt chứng kiến, nhưng tôi cảm nhận rất toàn thân Lão Ngũ rung lên dữ dội, chắc hẳn lão cố gắng đánh bật cơn mưa mũi tên lao tới.
      Tôi vô cùng lo lắng và sốt ruột nên quay đầu lại. Lão Ngũ ngừng chống cự với hai mũi tên trong tay, hai chân cũng liên tục đá những mũi tên ở tầm thấp. Tốc độ chuyển động của tay và chân lão nhanh đến kinh người, khiến tôi có cảm giác như người lão mọc ra hàng nghìn tay chân, và cũng thể đếm xuể có bao nhiêu mũi tên rào rào lao tới.
      Tôi nhìn trân trân vào cảnh tượng kì diệu , bỗng nghe thấy chị Giai Tuệ vọng từ phía dưới:
      - Lan Lan, tập trung vào mở khóa .
      Tôi như choàng tỉnh khỏi cơn mộng mị, lập tức quay lại, dùng chiếc kim cắm đầu vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay cào lên đường biên. Do kết cấu của từng đường biên đồng nhất, nên tôi phải sử dụng các kĩ thuật khác nhau để gỡ từng bánh răng, cột trụ hay chùm dây xoắn bên dưới đường biên. Sau khi mở xong mười bảy đường biên bên ngoài, tôi ước lượng chiều dài của sáu đường biên nằm bên trong rồi dùng chiếc hộp tích lực chia sợi dây da lừa ra thành sáu đoạn, mỗi đoạn dài khoảng ba phân, sau đó dùng kim móc luồn từng đầu dây vào bên trong đường biên, xuyên qua chiếc ghim móc có nhiệm vụ níu chặt hai mảnh ghép lại với nhau, rồi lôi chúng ra ngoài. Cuối cùng mọi nỗ lực của tôi được đền đáp với mười hai đầu dây ngắn ngủi thò ra bên ngoài.
      Thấy mọi thứ ổn, tôi nhanh tay buộc chúng lại với nhau, cứ hai đầu dây tạo thành nút thắt, rồi dùng sợi dây da lừa màu đen luồn qua sáu nút thắt kia, kéo ra ngoài, đồng thời dùng chiếc kim móc miết chặt. Chỉ vài giây sau, cả cánh cửa rung , sáu chiếc ghim móc bên trong lách cách vài tiếng rồi rời nhau ra, bảy mảnh kim loại lần lượt thụt sâu vào vách đá.
      Cùng lúc đó tôi nghe giọng Lão Ngũ hổn hển chửi thề phía sau lưng:
      - Mẹ kiếp, cũng may mà con nhóc này giải quyết nhanh, nếu ta cũng sắp ị ra quần tới nơi rồi. – Dứt lời, lão ngồi phịch xuống đất, dựa lưng vào chân tôi, thở ra hơi vì kiệt sức.
      Tôi vội vàng ngoái lại, bảy ống thép vách đá đối diện dần thụt vào trong, thoáng cái biến mất dạng. Tôi cúi đầu nhìn xuống đáy, thể đếm xuể những mũi tên màu bạc trắng nằm la liệt bề mặt nấm đá.
      Lão Ngũ vẫn ngồi thõng ở dưới chân tôi, vừa lắc lắc cánh tay cho thư giãn gân cốt vừa hổn hển :
      - Hay đấy, hay đấy! May mà lão già vẫn còn được việc, nếu thành con nhím chết rồi.
      Chị Giai Tuệ vội leo lên, ân cần bóp tay bóp chân Lão Ngũ.
      Thấy Lão Ngũ sao tôi cũng yên tâm phần nào, quay đầu nhìn lại cánh cửa Thiên Tập. Trong bảy mảnh kim loại, có mảnh hình tam giác rất nằm ở giữa, khi sáu thanh kia thụt vào trong nó lại lùi về phía bên trái. Tôi thử cầm tay, nặng trình trịch, thể nhận ra nó được làm bằng chất liệu gì. Tôi vội nhấc nó ra cất vào balô làm kỉ niệm, coi như mình uổng công đến đây.
      Cánh cửa bỗng phát ra tiếng lộc cộc rồi từ phía trong phả ra thứ mùi hôi thối rất khó ngửi khiến tôi nôn nao cả người. tay bịt mũi, tay giơ chiếc đèn dầu lên để soi xét, tôi nheo mắt nhìn vào trong. Vừa ngó vào bên trong, tôi hốt hoảng lùi về phía sau, may mà bị trượt chân rơi xuống. thể ngờ, bên trong đó lại có người.
      Mặc dù ánh sáng của chiếc đèn dầu hơi lờ mờ, nhưng khoảng gian bên trong cánh cửa cũng lớn lắm, nên về cơ bản vẫn có thể nhìn thấy khá . Dưới ánh sáng của ngọn đèn leo lắt, tôi thấy người ngồi cách đó gần hai mét, đầu hơi nghiêng, đôi mắt mở to nhìn chằm chằm về phía tôi.
      Đó là khuôn mặt hết sức dữ tợn, mặt mũi nhăn nhúm, thế nhưng lại có vẻ như lo sợ điều gì đó. Tôi cũng nhìn lắm, nên “dữ tợn” thực ra chỉ là cảm nhận thoáng qua ban đầu. Chỉ trong khoảng vài mét mà bỗng nhiên xuất gương mặt với bộ dạng khó hiểu như vậy, thực tình cũng dễ khiến người ta sợ điếng người. Do quá bất ngờ, nên tôi hơi mất tự chủ, hoảng hốt bước lùi ra sau, nếu nhanh tay bám vào tảng thạch nhũ bên cạnh chắc tôi cũng bỏ mạng ở đây. Tôi ngồi sụp xuống, chân tay run lẩy bẩy vì sợ hãi, mắt nhắm tịt nhưng những hình ảnh về khuôn mặt kia vẫn đeo bám tâm trí, khiến tôi mặt mày tái mét, thốt nên lời.
      Lão Ngũ thấy tôi co rúm người lại như con mèo ướt, vừa đẩy mông tôi vừa gắt gỏng:
      - Nhóc con, sao thế? Nhanh chân trèo vào trong !
      Tôi mếu máo cầu cứu lão:
      - Lão… Lão… Ngũ ơi… bên… bên… trong… có… có… người!
      - Mẹ kiếp!
      Lão Ngũ chửi thề câu rồi nhanh chóng bật dậy, chị Giai Tuệ cũng lập tức đừng lên theo, đỡ lấy ngọn đèn dầu tay tôi. Tôi ngồi phịch xuống dưới chân hai người, đầu gối nhũn ra như bún nhưng vẫn muốn tụt xuống càng nhanh càng tốt.
      lúc sau, chị Giai Tuệ cúi xuống gọi tôi với giọng rất đỗi bình thường.
      - Lan Lan à, đứng lên . Chỉ là xác chết thôi mà.
      Xác chết?! Nghe thấy vậy, nồng độ sợ hãi tụt quá nửa, tôi lồm cồm bò dậy, chui đầu qua khoảng trống giữa hai người, nhìn vào trong.
      Cái xác ngồi duỗi thẳng hai chân, hai tay buông thõng xuống đất, đầu hơi nghiêng sang bên trái, mặc dù mắt mở to, nhưng chỉ còn lại hai cái hốc sâu hoắm, còn con ngươi. Lớp da mặt thâm đen, nhăn nhúm như bị nhúng nước quá lâu nên sun cả lại, mồm miệng nhăn nheo rúm ró trông y hệt như con chuột già thành tinh. người xác chết khoác bộ lễ phục cổ xưa, mục nát đến mức thể nhận ra màu gì nữa.
      Tôi chăm chú nhìn hồi lâu, nhưng vẫn cảm thấy yên tâm lắm liền quay sang hỏi chị Giai Tuệ, :
      - Chị Giai Tuệ, có là xác người chết ?
      Chị Giai Tuệ chăm chú quan sát từng chi tiết người xác chết, nghe thấy tôi hỏi liền khẽ gật đầu:
      - Ừ, có lẽ đây là cái xác khô, để chị xem thêm , em đứng yên đừng động đậy nhé. – rồi chị dùng hai tay mò mẫm dò đường rồi bước vào căn hầm phía sau cánh cửa Thiên Tập. Lão Ngũ cũng lặng lẽ sau chị.
      Nhìn hai người họ cùng bước vào trong, tôi bạo gan nối gót Lão Ngũ tiến vào. Vào đến bên trong, mặt đối mặt, mới quan sát được kĩ hơn. Người này chắc là nam giới, nửa đầu cạo trắng hếu, chỉ có túm tóc bé xíu tết gọn sau gáy. Bộ lễ phục người mục nát gần hết; vạt áo có thêu hình con rồng giơ móng vuốt, hình như là màu vàng, phía cổ áo lấp lánh, có lẽ là được đính ngọc phải.
      Lão Ngũ thốt lên câu gì đó trong miệng mà chỉ mình lão nghe thấy, rồi với tay gỡ miếng ngọc cổ áo xuống, đưa lên trước mặt ngắm lúc rồi cười ha hả:
      - Mẹ kiếp, là Hòa Điền Ngọc Tinh. Kiếm được nó coi như chuyến này đủ vốn.
      Tôi nhăn mày vì nghĩ rằng lấy trộm đồ của người chết hay ho chút nào.
      Qua hình dáng và phục trang người xác chết, tôi đoàn có lẽ ta là người Mãn Thanh, thế nhưng kiểu tóc lại giống lắm, nên cũng chưa người này là ai và chết được bao nhiêu năm rồi. Rợn nhất là đôi mắt trợn trừng giống như bị chết oan, dưới ánh đèn lập lòe, chúng thực dễ khiến cho người ta nổi da gà.
      Chúng tôi vòng ra phía sau cái xác khô phát thấy sau lưng nó xếp đầy những chiếc hộp hình vuông, chiều dài mỗi cạnh khoảng ba phân, chúng đều có màu đỏ sậm. ra do đằng sau có điểm tựa nên cái xác đó mới có thể ngồi thẳng như vậy.
      Lão Ngũ lặng im nãy giờ, đột nhiên thốt lên tiếng:
      - Tuyệt! – Lão đưa chân đá đá cái xác khô, rồi quay sang với chúng tôi. – Mặc kệ nó là ai, bảo bối chắc chắn nằm ở đây.
      Tôi thở dài, cúi đầu nhìn xuống đống hộp vuông màu đỏ, ra chúng là những chiếc khuôn được đúc bằng thép, bề mặt chi chít những vết hoen gỉ đỏ sậm, bốn cạnh là những đường cắt vuông vức, giống như được con dao vô cùng sắc bén chia cắt ngọt. Nơi tiếp giáp giữa khuôn thép và mặt sàn hề có đường biên, hình như chúng được đúc liền thành khối.
      Lão Ngũ ngồi xổm xuống, mò mẫm khắp nơi, đôi mắt hau háu nhìn ngó mọi ngóc ngách như thể phải lôi bằng được bảo bối ra ngoài. Trông lão lúc này giống hệt những đứa trẻ háo hức khám phá thứ đồ chơi mới, tôi và chị Giai Tuệ cười thầm rồi quanh căn hầm vòng.
      Căn hầm rộng lắm, chỉ khoảng mười mét vuông với bốn bức tường vuông vức. Tôi đưa tay sờ lên tường, lạnh và cứng, đích thị đây là khối thép. Có điều hết sức kì quặc là, bức tường có rất nhiều những đường vân và dài, chúng nguệch ngoạc chồng chéo lên nhau, giống như bị vật gì đó cào mạnh. Ở góc tường phía trong cùng, chị Giai Tuệ nhặt lên con dao vừa dài vừa mỏng, sắc bén vô cùng và dường như vết hoen gỉ.
      Chị Giai Tuệ búng búng tay lên lưỡi dao, thân dao hơi rung, vang lên chuỗi thanh xa vắng. Chị đưa lưỡi dao lên ướm thử những đưỡng vân tường, rồi chậm rãi :
      - Hoàn toàn khớp với nhau, những vết đó chính là do lưỡi dao này tạo ra; chứng tỏ ở đây từng xảy ra trận xô xát, vậy cái xác khô kia…
      Chị vừa đến đây, bỗng có tiếng Lão Ngũ gọi giật lại từ đằng sau:
      - Lan Lan, lại đây, lại đây. Mẹ kiếp, cái hộp này đúng là cổ quái.
      Chúng tôi lập tức chạy tới, ngồi xuống quan sát chiếc hộp Lão Ngũ vừa vỗ lên nắp vừa hổn hển :
      - Mẹ kiếp, mở kiểu gì cũng hề nhúc nhích. Bên lại đầy những vết chém, cứ như ma làm vậy.
      Chị Giai Tuệ đưa ngọn đèn đến gần, qua quầng sáng mờ ảo, tôi nhìn thấy nắp chiếc hộp rất sạch , những vết hoen gỉ được Lão Ngũ cạo sạch, để lộ ra màu sơn đen kịt, bên nắp là những đường gân vừa nông vừa mỏng phân bố đồng đều, giống như có người dùng vật sắc nhọn để tạo ra những vết xước hình vòng cung có kích thước giống nhau. Ngón tay chậm rãi lần theo những vết xước, trực giác mách bảo tôi rằng, người xưa cố tình tạo ra chúng, chứ phải sau này mới có. Tôi dùng mũi kim móc cào lên nắp hộp thám thính, thanh phát ra chứng tỏ bên trong hộp là rỗng.
      Lão Ngũ miết ngón tay lên đường biên nối giữa chiếc hộp và mặt sàn, rồi với tôi:
      - Chúng liền khối đấy, nhóc con. Mi thử nhìn xem đây là loại khóa gì, nếu được nhanh chóng mở nó ra , ta sốt ruột quá rồi.
      Tôi gật gật đầu, dùng mũi kim móc rà theo đường biên, thứ thanh lạo xạo khác thường vang lên, giống như có hàng trăm con rết hành quân ngang qua, khiến tôi hoang mang cực độ.
      Càng nghe tôi càng liên tưởng đển điều gì đó rất quen thuộc, thế nhưng tài nào hình dung ra được. Tôi lập tức quỳ gối, áp sát mặt nhìn kĩ những đường gân kì quái kia. Nhìn ngó hồi lâu, quả nhiên tôi phát ra điều bí mật bên trong đó.
      Tôi nhẩm tính lúc mới quay đầu với hai người:
      - Ngày trước cháu từng nghe ông nội nhắc đến loại khóa này lần, nó được gọi là Hoa Hạp, vật chuyên dùng trong hoàng cung thời Minh Thanh để cất giữ những vật cơ mật. Hai người có nhìn thấy những đường vân này , đó chính là những bông hoa được khắc chìm thân hộp và cũng là loại khóa biến hình siêu tuyệt. Mỗi bông hoa lại có tám cánh, và thủ thuật để mở nó gọi là Liệt Biện. Loại khóa này rất khó xử lí, bình thường là hoa, cùng lắm cũng chỉ ba hoa, nhưng vừa xong cháu đếm có tới năm hoa, loại này vô cùng hiếm, xem ra đúng là bên trong cất giữ vật báu rồi.
      Nghe tôi vậy, Lão Ngũ vuốt vuốt chòm râu, nét mặt trở nên nghiêm trọng, lão sốt ruột hỏi:
      - Vậy nhanh chóng mở nó ra , còn chần chừ gì nữa, có khó ?
      Tôi loay hoay sờ nắn chiếc hộp lúc rồi :
      - Cũng có thể, dù sao cháu cũng đạt tới cấp Địa kiện nên chắc là có khả năng mở được nó.
      Lão Ngũ hoan hỉ như bắt được vàng, liền vội vàng :
      - Vậy để ta giúp tay.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 13: Lối thoát khỏi địa cung





      Chiếc hộp Hoa Hạp nhô từ dưới mặt đất lên, để lộ ra năm mặt phẳng, mỗi mặt đều được khắc bông hoa. Tôi quyết định bắt tay vào mở mặt cùng trước.

      Tôi chọn ra chiếc kim móc mảnh và nhất, vì mở loại khóa này phải rất cẩn thận, tỉ mỉ. Những cánh hoa được khắc rất phức tạp với rất nhiều đường viền, mũi kim dò theo đường viên nhất định được ngừng lại, nếu khiến lực tác động lên các cánh hoa đồng nhất, rất dễ ảnh hưởng đến đoạn lò xo ở phía trong, đến lúc đó cả chiếc hộp Hoa Hạp tự động khóa vĩnh viễn.

      Tôi ngó nghiêng quan sát rất lâu để nhận diện chính xác từng đường viền cánh hoa; hít hơi dài để lấy bình tĩnh, tôi từ từ đặt mũi kim lên đầu cánh hoa.
      Rồi bằng tất cả cẩn thận của mình, tôi đưa mũi kim men theo đường viền cánh hoa đến hết, rồi mới chuyển sang cánh tiếp theo. Cứ thế mũi kim chạy trơn tru lượt qua tám cánh hoa, coi như mắt xích trọng yếu trong cỗ máy được vô hiệu hóa, cuối cùng tôi mới chọc đầu mũi kim vào điểm chính giữa của bông hoa để giữ cố định.
      Phần chính giữa của mỗi bông hoa là tám sợi nhụy cuộn tròn với nhau tạo thành khối rất khăng khít, phần chân nhụy lại được nối với sợi dây thép màu trắng, cắm sâu vào bên trong lòng hộp và được cố định vị trí bằng sợi dây đồng. Tôi lại đặt đầu kim vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay rồi xoay vòng. Chiếc kim móc lúc hơi uốn cong lúc lại duỗi thằng để ăn khớp với những đoạn dây bên trong, thanh truyền qua đầu mũi kim lúc sau, những tiếng “tạch… tạch” liên hồi vang lên, từng sợi từng sợi nhụy hoa bị bật tung, những sợi thép trắng cũng theo đó tuột khỏi chân nhụy. Chiếc hộp rỗng khẽ rung rung, rồi tám cánh hoa từ từ nhô lên khỏi bề mặt chiếc hộp khoảng chừng đốt ngón tay. bông hoa nở.
      Vẫn áp dụng theo phương pháp này, tôi tiếp tục mở nốt bốn bông hoa còn lại.
      Vậy là cả năm bông hoa nở.
      Thấy mình thành công nhanh chóng, lòng tôi lâng lâng hạnh phúc. Còn nhớ ông nội từng , với khả năng tại của tôi, may ra cũng chỉ mở được từ hai đến ba bông hoa, vậy mà tới giờ có năm bông hoa được mở cách nhàng, chứng tỏ tôi tiến bộ vượt bậc. Nếu ông được tận mắt chứng kiến, biết ông thích thú và tự hào đến nhường nào? Bỗng dưng tôi lại thấy nhớ ông nội da diết, khóe mắt cay cay, khiến mọi cảm giác hưng phấn trước đó lập tức biến mất.
      Tôi từ từ thả người ngồi bệt xuống sàn, mặt đờ đẫn nhìn những cánh hoa nhô cao, những kỉ niệm về đêm giao thừa tết Nguyên đán năm 2005 bỗng dưng ùa về, giọng của ông nội như vẫn vang vọng bên tai: “Con bé ngốc này, ta thể nuôi con cả đời được, giờ con biết làm gì cả sau này khi có ta, con sống như thế nào đây?”
      Đúng thế, ông thể ở bên tôi cả đời được, có ngày ông già và mất . Thế nhưng giờ Lan Lan có đủ bản lĩnh để tự nuôi sống bản thân rồi, Lan Lan chỉ mong ông nội trở về để được tận hiếu với ông. Tôi quay sang nhìn cái xác khô vẫn ngồi im lìm góc, trong lòng tràn ngập nỗi xót xa, ông nội nếu gặp nguy hiểm hoặc chết ở dưới này liệu có bị biến thành như thế … Càng nghĩ ngợi tôi càng cảm thấy buồn vô hạn, hai dòng nước mắt cứ thế tuôn trào đầm đìa.
      Thấy tôi bỗng dưng rơi nước mắt, chị Giai Tuệ vội vã hỏi thăm, còn Lão Ngũ nhìn tôi với vẻ khó hiểu:
      - Đấy, lại nước mắt vòng quanh rồi. Cả năm bông hoa được mở ra, giờ còn khóc lóc cái nỗi gì?
      Tôi như choàng tỉnh giấc, ngượng ngùng dùng mu bàn tay quệt nước mắt, rồi nhàng :
      - sao, cháu chỉ bị cay mắt thôi. À, giờ chắc là có thể mở được rồi, để cháu thử xem sao!
      tay chống xuống đất, tôi lê người tới trước chiếc hộp, hai tay nhấc từng bông hoa ra khỏi bề mặt chiếc hộp, để lộ ra khoảng trống hình cánh hoa, bên trong lòng hộp cất giữ vật gì đó. Tôi gí ngọn đèn dầu ngay sát miệng cánh hoa, mắt mở to nhìn thẳng vào bên trong, ra là quả cầu kim loại do vài chục vòng thép màu trắng lồng ghép lại với nhau. Về kết cấu, nó có phần hơi giống sân vận động Tổ Chim ở thế vận hội Olympic 2008 tại Bắc Kinh, thế nhưng lại có chút khác biệt trong phân bổ rất quy củ. Về bản chất đó là quả cầu được lồng bằng những vòng tròn hoàn hảo, xung quanh là những sợi dây thép hình vòng cung, lần lượt cắm chặt xuống đáy hộp. Giữa hai vòng thép là đường khe rất , lúc lúc . Nhìn kĩ hơn vào đường khe, tôi nhận ra trong lòng quả cầu kim loại có vật hơi dẹt màu trắng đục, có lẽ nó mới chính là bảo bối mà chúng tôi tìm kiếm.
      Lão Ngũ vội đưa tay tóm lấy quả cầu kim loại, ra sức lắc lắc, nhưng vật bên trong vẫn hề chuyển động.
      - Mẹ kiếp! Lại còn giở trò này nữa cơ đấy! Xem ra đây mới chính là ổ khóa cuối cùng.
      Tôi nghiêng đầu ngắm nghía hồi lâu, rồi với hai người:
      - Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người còn nhớ chiếc khóa tơ ba mươi sáu vòng với các vòng móc lại với nhau ? Chiếc khóa này cũng có kết cấu gần như thế, đều là dạng khóa đa vòng.
      Lão Ngũ ồ lên vỡ lẽ, vừa vân vê vài sợi râu lưa thưa dưới cằm vừa :
      - Cái khóa đấy ta phải mất rất nhiều công sức mới mở được, bọn này là thâm độc, xem ra số lượng của những chiếc vòng kim loại này cũng hề ít đâu.
      Tôi gật đầu đồng ý với Lão Ngũ, rồi thêm rằng loại trước là theo kết cấu bề mặt với dây và tơ, còn loại này lại theo kết cấu hình lập thể, vốn dĩ được coi là dạng khó nhất.
      - Trong những bí kíp mở khóa được truyền lại, với dạng khóa hình cầu này, vòng là Thiên địa, hai vòng là Thí nhật, ba vòng là Hạo Nguyệt, bốn vòng là Phồn tinh, năm vòng là Thủy hỏa, sáu vòng là Phong lôi, bảy vòng là Sơn xuyên, tám vòng là Địa lý…
      Trong khi tôi say sưa giảng giải về những kiến thức liên quan đến loại khóa vòng lập thể đầy hào hứng, Lão Ngũ lại sốt ruột phẩy mạnh tay rồi giục loạn lên:
      - Nhóc con, đừng có lèm bèm nữa, mau bắt tay vào việc .
      Chị Giai Tuệ tủm tỉm cười, đỡ cho tôi:
      - Cũng hay mà, lão cứ để Lan Lan tiếp .
      Lão trợn trừng mắt nhìn hai chị em tôi:
      - cái gì mà , giờ phải lúc, đến vòng trăm tám mươi Lão Ngũ ta chắc biến thành vòng thứ trăm tám mươi mốt từ đời tám hoánh rồi.
      Tôi bĩu môi cự lại:
      - Lão Ngũ à, loại khóa này chỉ có tối đa bốn mươi tám vòng thôi, muốn hơn cũng có nữa đâu.
      Lão Ngũ nhanh chóng ăn miếng trả miếng:
      - Bốn mươi tám hay tám mươi bốn vòng cũng mặc mẹ nó. Cái con nhóc này, nhanh nhanh mở ra , ta muốn biết trong đó cất giữ thứ gì lắm rồi.

      Thực ra tôi cũng muốn mở nhanh chiếc vòng đó kém gì lão, nên đành tạm dừng cuộc đôi co để cầm quả cầu kim loại kia lên. Đếm đếm lại, tôi mới phát ra tổng cộng quả cầu kim loại có bốn mươi tám vòng . Tôi giật mình dám tin vào này, liền cẩn thận đếm đếm lại thêm vài lần nữa, đúng là vừa đúng bốn mươi tám vòng. Tôi thất vọng buông thõng câu:
      - Haizzzz, cái này thể mở được.
      Chị Giai Tuệ sốt ruột hỏi lại:
      - Vì sao vậy, có phải là nó quá khó ?
      Lão Ngũ cũng lập tức ngồi thẳng dậy.
      - Mi đừng lấp lửng nữa, mau vì sao lại mở được .
      Tôi lắp bắp giải thích:
      - Vấn đề phải là khó hay dễ, nhưng mà vì nó thực gồm có bốn mươi tám vòng. Trong giới mở khóa, người ta vẫn thường rằng: Bốn mươi tám vòng đổi mạng người.
      Nghe tôi vậy, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều ngẩn người ra trong giây lát, rồi vội vàng hỏi tôi vì sao lại như thế.
      Tôi nhìn thẳng Lão Ngũ và ngắn gọn câu:
      - Lão Ngũ, đây là khóa bốn mươi tám vòng, nó áp dụng phép nhân sáu tám.
      Lão Ngũ khẽ rùng mình, lắc lắc đầu như vẻ tin, mắt mở to, hai con ngươi liên tục đảo xuôi ngược. Như sực nhớ ra điều gì đó, lão quay sang nhìn lại quả cầu kim loại, lớn:
      - Thuật lục bát! Mẹ kiếp, nó chính là cỗ máy tuyệt môn. Hay đấy, hay đấy!
      Thấy chị Giai Tuệ vẫn có vẻ chưa hiểu, tôi và Lão Ngũ thay nhau giải thích lại cho chị. Trong mắt của người Trung Quốc cổ đại, thế giới xung quanh được chia thành sáu chương gồm: , dưới, trước, sau, trái, phải; hay đơn giản hơn đó chính là sáu mặt của chiếc hộp. Trong đó, tại điểm giao nhau của ba mặt phẳng tạo thành đỉnh góc, tổng cộng có tám đỉnh như thế, gọi là tám hướng xiên. Sáu mặt và tám đỉnh, cộng lại thành mười bốn hướng mang hàm ý “vũ trụ hồng hoang, như phong tự bế”. Tương truyền Lục hòa và Bát quái đều bắt nguồn từ đó mà ra, thế nhưng đó chỉ là kết cấu bề mặt, độ khó vẫn thể bằng cấp độ của kết cấu lập thể.
      Những loại khóa hay cỗ máy thông thường rất kị sử dụng thuật lục bát, và tránh dùng con số bốn mươi tám. Nếu như phải sử dụng chúng có nghĩa là đắc tội với thần thánh, trời dung, đất tha. Trước mặt chúng tôi chính là cỗ máy như thế, khi được tạo ra đến người chế tạo ra nó cũng thể mở được, nếu như vẫn cố tình mở cỗ máy tự động bị phá hủy, thậm chí còn gây ra những hiểm họa khôn lường.
      Chúng tôi chỉ biết bất lực nhìn quả cầu kim loại mà thở dài, lòng vô cùng mâu thuẫn, rốt cuộc nên hay nên mở đây?
      Nếu quyết mở ra được nhìn thấy loại bảo bối được cất giữ trong đấy, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc tự đẩy mình xuống vực thẳm. Còn nếu như mở áy này, sống chết vượt qua bao nhiêu cửa ải mới mò được tới đây, nhìn thấy thức ăn bày ra trước mắt mà được dùng, quả thực cũng cam lòng.
      Cả ba người nhìn nhau đắn đo, ai biết làm thế nào mới phải.
      Lão Ngũ bỗng đứng bật dậy, xoay xoay quả cầu vài vòng, tay vừa mân mê chòm râu, miệng vừa nhẩm tính điều gì đó. Cuối cùng lão giậm mạnh chân, với vẻ đầy bất mãn:
      - Cũng lắm là chết chứ gì! Dù gì cũng đến được đây còn gì phải do dự nữa.
      xong, lão ngồi sụp xuống, vỗ vai tôi như muốn khuyến khích và tiếp thêm sức mạnh:
      - Nhóc con, mở ! Trước khi banh xác mà được nhìn thấy bảo bối đó đời lão già này cũng coi như mãn nguyện.
      Chị Giai Tuệ cũng nắm lấy tay tôi, bóp :
      - Lan Lan, em mở . Hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho xây dựng địa cung hùng vĩ với vô vàn cạm bẫy như thế cũng chỉ với mục đích cất giấu nó, hoặc là điều bí mật kinh thiên động địa nào đó thôi. Chẳng dễ gì chúng ta tới được đây, vẫn nên thử xem rốt cuộc đó là gì. Với lại, chúng ta giờ cũng chưa tìm được cách thoát ra khỏi đây.
      Thực ra tôi cũng nửa tò mò, nửa lưỡng lự, chưa biết quyết định ra sao, nhưng khi nghe hai người vậy, tôi cũng hạ quyết tâm, tháo chiếc balô đeo lưng xuống.
      - Được, vậy để cháu mở!
      Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng gật đầu, rồi từ từ đứng lùi ra sau vài bước chừa cho tôi khoảng trống vừa đủ.
      Tôi lẩm nhẩm tính toán chút rồi mở bộ kim móc ra, cẩn thận chọn lấy mười bốn chiếc kim, lần lượt cắm vào sáu mặt và tâm đinh. Tôi thận trọng nhìn lại lần nữa, chỉnh sửa lại vị trí sao cho chuẩn. Những sợi thép bên trong chiếc hộp xoắn lại với nhau, tại những giao điểm lại được nối kết bằng vô vàn móc , bánh răng và những sợi dây như vô hình. Mười bốn chiếc kim móc đều được cắm vào đúng vị trí giao nhau.
      Để tránh cho kim bị lỏng và tụt ra, tôi lấy ngón tay búng mấy cái, thân kim ngừng lắc sang hai bên, phát ra những tiếng tách tách, cắm cũng khá chắc.
      Tôi lấy sợi dây da lừa dài nhất, luồn qua những lỗ ở phần chân kim, rồi nhanh chóng thắt nút lại, khiến cho mười bốn chiếc kim đều chụm lại thành mối.
      Loại khóa cầu lập thể này có đặc tính rất cổ quái, đó là bắt buộc phải mở tất cả các mặt cùng lúc, tránh để lực tác động lên các mặt đều nhau, dễ khiến cho kết cấu trong lõi khóa bị biến hình đổi dạng.
      Khi mọi công đoạn chuẩn bị hoàn tất, tôi hít hơi sâu, ngửa lòng bàn tay phải lên, tập trung hoàn toàn trí lực vào quả cầu kim loại rồi định sẵn trong đầu những thao tác và trình tự phải thực .
      Nhất định làm được. Tôi đưa hai tay ra trước, lần lượt dùng ngón cái, ngón trỏ bóp chặt hai chiếc kim; tay trái vặn chặt theo chiều kim đồng hồ vòng, tay phải vặn thêm hai vòng nữa.
      Lắng nghe thanh khẽ phát ra từ bên trong, tôi theo đà, tiếp tục thực kế hoạch với hai chiếc kim, lần lượt vặn thêm ba vòng, rồi bốn vòng... Sau đó, tay phải đưa ra trước, tay trái chuyển sang sau, lần lượt vặn chặt hai chiếc kim thêm năm sáu vòng.
      Mặc dù mỗi lần vặn số vòng giống nhau, nhưng khi thao tác hai tay, tôi luôn giữ tốc độ nhanh chậm nhịp nhàng và co duỗi đồng nhất để lực tác động lên ổ khóa bên trong quả cầu bị thay đổi.
      Sáu mặt được mở thành công, tôi thấy trong lòng có phần nhõm hơn. Tiếp sau đó tôi lại mở thêm được tám đỉnh, đồng thời vặn cùng lúc những chiếc kim móc để kích hoạt cỗ máy bên trong. Tôi nhét đầu sợi dây da lừa vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay, chọn ra góc độ thích hợp nhất, năm đầu ngón tay vẫn giữ chặt sợi dây rồi giật mạnh, cả mười bốn chiếc kim cũng oằn mình cọ xát với nhau. Ngay lập tức, quả cầu kim loại được mở, điều gì xảy ra tiếp theo chỉ còn biết trông chờ vào ông trời mà thôi.
      Tôi nhanh chóng lùi ra sau, đứng sát bên cạnh Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, nắm chặt lấy tay của hai người, nhưng vẫn nghển cổ chăm chú nhìn vào quả cầu.
      Ban đầu, quả cầu kim loại có bất cứ phản ứng gì, nhưng chỉ thoáng sau, nó dần dần chuyển động, mỗi lúc nhanh hơn, trông giống như quả cầu pha lê lóng lánh ở các sàn nhảy; bên trong lòng quả cầu liên tục phát ra thứ thanh của những chiếc móc dần bị nới lỏng.
      Tôi siết chặt lấy tay của chị Giai Tuệ, nhìn quả cầu chớp mắt, biết nó còn tiếp tục quay như thế đến bao giờ.
      Nhưng chỉ lúc sau, quả cầu bỗng nhiên dừng lại, ngay sau đó là những tiếng “cạch, cạch” rất khẽ phát ra từ bên trong. Quả cầu lúc này trông như quả dưa hấu bị bổ đôi bằng đường rạch rất ngọt, những vòng thép bọc xung quanh quả cầu cũng lần lượt trượt xuống hai bên, khiến đường rạch mỗi lúc to hơn.
      - Mở rồi, mở rồi! – Lão Ngũ hét toáng lên trong sung sướng.
      Cả ba chúng tôi cùng lao tới trước để nhìn cho hơn. Chẳng lẽ hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho xây dựng hẳn địa cung rộng lớn với những thiết kế và tầng khóa nguy hiểm như thế chỉ để cất giữ thứ đơn giản? Nhưng biết đâu chính vật này mới mang đến kì diệu sao?
      Nghĩ vậy, tôi vội vàng ngồi xuống, quan sát tỉ mỉ vật được cất giữ trong quả cầu kim loại. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng tò mò kém, cả ba cùng chụm đầu vào nhau, chăm chú quan sát, ai với ai câu nào, thanh duy nhất lúc này chính là hơi thở gấp gáp của mỗi người.
      Vật được cất giấu bên trong quả cầu là khay sứ dẹt, nó gần giống với chiếc khay sứ vẫn dùng để đựng thức ăn với đường diềm hơi lượn sóng giống như cánh hoa mềm mại, lòng khay được in hoa văn màu xanh nhạt. Đó là bức tranh sống động với những ngọn núi cao sừng sững, thấp thoáng đâu đó lưng chừng núi là vài phong đình để dừng chân, nhìn hệt như , tựa như được dán tấm ảnh vậy.
      Tôi chớp mắt, nhìn hồi lâu, ngoài việc cảm thấy rất đẹp ra, thấy có gì đặc biệt; nhưng Lão Ngũ bỗng dưng trợn mắt, miệng lắp bắp như bị trúng tà:
      - Cái… cái… này… mẹ kiếp… quá… quá hay, Khang Hy Thanh… Thanh Hoa sứ.
      Chị Giai Tuệ “hả” tiếng rồi từ từ đưa tay vuốt lên khay sứ:
      - Uhm, đúng là sứ Thanh Hoa! – Giọng của chị đầy mê đắm.
      Vẻ mặt Lão Ngũ bỗng dưng sa sầm lại:
      - Giai Tuệ, nếu như ta nhìn lầm đây chính là chiếc khay Thanh Hoa Sơn Thủy, tuyệt phẩm từ thời Khanh Hư.
      Chị Giai Tuệ cũng rùng mình hoảng hốt hỏi lại:
      - Khang Hy… nhưng… Lão Ngũ…
      Lão Ngũ hít hơi dài, ra hiệu cho chị Giai Tuệ bình tĩnh, rồi nhàng nhấc khay sứ ra khỏi quả cầu kim loại, ngửa phần đáy lên. Chị Giai Tuệ vội giơ ngọn đèn dầu lên. Dưới ánh đèn, phần chính giữa của đáy đĩa có viết bốn chữ phồn thể màu xanh theo hàng dọc.
      Những nét chứ phóng khoáng tuyệt mĩ, nhưng tôi lại thể nhận ra chữ nào, liền tò mò hỏi Lão Ngũ:
      - Lão Ngũ, đó viết gì thế ạ?
      Lão Ngũ nheo nheo đôi mắt, chậm rãi :
      - Chúng có nghĩa là “do xưởng Mặc Văn Đường chế tạo”. rồi lão miết ngón tay lên dòng chữ khắc, chắc như đinh đóng cột. – sai, chính là Khang Hy Thanh Hoa sứ.
      Thấy hai người cứ câu được câu mất, thần sắc hết sức kì lạ, tôi nén được tò mò đành chen vào:
      - Khang Hy cháu biết, ông ta là bậc hiền vương của nhà Thanh, đây cũng chính là Cố Cung của nhà Thanh, điều này rất bình thường mà.
      Lão Ngũ liếc xéo tôi năng gì, chỉ chau mày, hai con ngươi liên tục chuyển động, biết lão nghĩ ngợi điều gì trong đầu. Chị Giai Tuệ thở dài, rồi quay sang kéo tay tôi, giải thích:
      - Cố Cung Thẩm Dương là do hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích sau khi chiếm thành ra lệnh xây dựng, mà Khang Hy lại là vị vua sau đó bốn đời, tính ra chỉ là hàng cháu chắt, hai người sống cách nhau hàng trăm năm…
      đến đây, chị nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa sứ với ánh mắt hoài nghi, rồi chậm rãi tiếp:
      - Lan Lan, em thử nghĩ xem, dưới lòng Cố Cung được xây dựng từ thời hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích tại sao lại cất giấu báu vật của thời Khang Hy?
      Lúc này tôi mới ngớ người bởi vô lý đó, thứ đồ này đáng lẽ ra thể xuất ở đây. Cũng giống như việc ông nội làm chiếc hộp gỗ từ khi tôi chưa được sinh ra, bên trong đựng đôi giày tôi từng , thế nhưng lúc đó làm gì có tôi đời này.
      Tôi đờ đẫn nhìn chiếc đĩa sứ, trong đầu hỗn độn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Thực tình lúc đó tôi sợ hãi, mà chỉ nhìn thấy mọi việc diễn ra quá sức tưởng tượng của mình.
      - Xuyên việt, chính là Xuyên việt[1] đấy.
      [1] Tức là ngược dòng thời gian. Đây chính là trào lưu tiểu thuyết, phim truyền hình mới của Trung Quốc.
      Sau hồi suy đoán, trong đầu tôi bỗng bật lên ý tưởng:
      - Hồi cấp Hai cháu rất thích đọc loại tiểu thuyết này. Nhất định là người từ thời Khang Hy ngược dòng thời gian để trở về thời đại của hoàng đế Nỗ cái gì Xích ấy nhỉ, rồi để lại vật này.
      - Cái gì? – Lão Ngũ vẫn chưa nghe , quay lại nhìn tôi thắc mắc, - Xuyên cái gì việt, đó là tên tuyệt kĩ mới sao?
      Chị Giai Tuệ lắc đầu ngao ngán:
      - Lan Lan, em đừng linh tinh. Đó chỉ là những điều hư cấu trong tiểu thuyết thôi, làm sao có thể tin được.
      xong, chị đưa mắt nhìn sang bốn phía, rồi dừng lại ở cái xác khô, lưỡng lự tiếp:
      - Lão Ngũ, Lan Lan, hai người nghĩ xem liệu có thể có khả này nhé: Hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung này nhất định là chôn giấu loại bảo bối nào đó; tới thời vua Khang Hy, có người lén lút xuống đây, rồi dùng thủ đoạn lấy cắp bảo bối đó và đổi thành vật khác… Nếu như điều đó thực xảy ra chứng tỏ cái khay sứ trong tay chúng ta chỉ là đồ ngụy tạo, cái xác này có khi nào chính là tên trộm đồ khi đó thận trọng nên bị cỗ máy giết chết tại đây?
      Mặc dù hiểu lắm nghĩa của từ ngụy tạo, nhưng tôi đoán nó có nghĩa là đồ giả. Tôi ngồi xuống, đưa tay sờ quả cầu kim loại, với vẻ chắc chắn:
      - thể nào, đây chính là loại khóa chế tạo theo luật lục bát, mở xong coi như bị phá hỏng hoàn toàn, thể nào tiếp tục sử dụng nữa, đến cả ông nội em cũng khó có thể làm gì được.
      Lão Ngũ khẽ gật đầu, nghiêm giọng :
      - Đúng thế, cái cỗ máy khốn kiếp này… Mẹ kiếp, mở xong là coi như tự hủy luôn… Hừm… hay rồi, sắp có chuyện xảy ra đấy, tốt nhất ba chúng ta hãy nhanh chóng rời khỏi đây mau.
      Lão Ngũ đưa chiếc khay sức cho chị Giai Tuệ, tiếp:
      - Mặc mẹ nó là hàng hay hàng giả, cái khay này cũng đáng giá ít tiền đâu, đủ cho ba chúng ta xả láng trận đấy. Giai Tuệ, cất nó !
      Chị Giai Tuệ cẩn thận dùng chiếc áo bọc chiếc đĩa lại rồi cất vào trong balô, Lão Ngũ tóm lấy tay hai chị em tôi lôi xềnh xệch.
      - Hai đứa, nhân lúc cỗ máy chưa kịp khởi động, chúng ta hãy mau nghĩ cách chuồn khỏi đây thôi.
      Lão Ngũ vẫn chưa dứt lời, tôi bỗng nghe thấy có tiếng nước chảy ầm ầm từ phía bên ngoài căn hầm, giống như thác nước khổng lồ đổ từ xuống ngừng nghỉ.
      - Đ. mẹ, rắm vừa đánh là ị ngay luôn. Hay đấy!
      Lão Ngũ vặn người lao thẳng tới cánh cửa, tôi và chị Giai Tuệ cũng chạy theo, bám lên cánh cửa ngó ra ngoài. Nước cuồn cuộn chảy từ những miệng lỗ bức vách đá, giống như những con rồng nước giận dữ lao tới; chỉ trong chốc lát, những “con mắt trắng dã” của lũ nấm đá bị chìm ngập trong lòng nước hung dữ. Toàn bộ những ngọn đèn dầu thạch nhũ cũng bị tắt ngấm, cả khoảng gian trong lòng động trở nên tối đen như mực, chỉ còn duy nhất ngọn đèn dầu tay chị Giai Tuệ là vẫn tỏa chiếu những tia sáng leo lắt, yếu ớt.
      Lão Ngũ giậm chân lo lắng:
      - khéo chúng ta bị chết chìm mất. Dòng sông ngầm cuối cùng cũng bị vỡ rồi.
      Qua ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy nước mỗi lúc dâng cao với những con sóng bạc cuồn cuộn tiến tới, kèm theo đó là những tiếng nổ lớn đinh tai. Tôi rối trí vô cùng, quay sang cố hét lớn để át tiếng ì ầm của dòng nước.
      - Làm thế nào bây giờ? Nước sắp dâng tới nơi rồi!
      Có vẻ như lúc này, chị Giai Tuệ vẫn là người điềm tĩnh nhất trong ba chúng tôi, chị vừa ngó ra ngoài vừa :
      - Xuống cũng xuống được, chi bằng chúng ta bám vào những tảng thạch nhũ để trèo lên để Lan Lan mở cánh cửa đá phía đỉnh, quay trở lại Thiên Cung Cách sát trận.
      Lão Ngũ vuốt mấy sợi râu lưa thưa dưới cằm, đăm chiêu lúc rồi vừa khẽ gật đầu vừa :
      - Chỉ còn cách đó thôi, thế nhưng ngọn đèn này có lẽ đem theo được nữa.
      Nghĩ tới màn đêm tối đen như mực trong Thiên Cung Cách sát trận, đến tia sáng heo hắt cũng có là tôi muốn quay lại. Nhưng tình thế trước mắt vô cùng khẩn cấp, nên giờ cũng chỉ biết tới đâu hay tới đó thôi. Vì vậy, chúng tôi nhanh chóng cất hết đồ đạc vào balô đeo lên vai rồi tiếp tục trèo lên cao.
      Chiều cao của cả cái động này ước chừng trăm mét, chỗ chúng tôi đứng là ở khoảng giữa, thế nhưng dòng nước từ phía đỉnh ngừng đổ xuống, lực cản rất lớn. Lão Ngũ trèo thử vài bận mà thể nào thoát ra được, lão xoa xoa mặt, rủa ầm ĩ:
      - được rồi, được rồi. Mẹ kiếp! Trơn như mỡ lợn trèo thế nào được?
      Chị Giai Tuệ đăm chiêu suy tính lúc, rồi bỗng nhiên lên tiếng:
      - Vẫn còn cách khác. Đợi tí nữa nước dâng lên đến miệng động, chúng ta cứ bơi ra, đợi động ngập nước, chỉ cần Lan Lan nhanh tay mở khóa là có thể…
      Hiểu được ý của chị Giai Tuệ, tôi vội vàng lên tiếng:
      - Nhưng em biết bơi!
      Chị Giai Tuệ nắm chặt vai tôi động viên:
      - sao, lúc đấy chị dìu em…
      Lão Ngũ tỉnh queo tiếp lời:
      - Thế nếu nó mở chậm coi như ba người chúng ta được thể uống nước đẫy bụng à? Hay đấy, hay đấy!
      Chúng tôi tranh cãi lúc, vẫn chỉ có cách đó là khả thi nhất nên đành ngồi ở miệng hầm đợi nước dâng lên.
      Chị Giai Tuệ quay lại nhìn cái xác khô, rằng muốn đem vài thứ về nghiên cứu. Chị lập tức đứng dậy về phía cái xác, lôi ra con dao , cắt lấy mảnh da đen thui bị khô teo, nhổ lấy vài sợi tóc. Rồi chị nhờ tôi cởi bộ quần áo mục nát cái xác khô ra, đặt nằm thẳng xuống sàn, và lôi chiếc máy ảnh xíu ra chụp lại.
      Mặc dù có chút dã man, nhưng tôi vẫn cố làm theo. Khi cởi bỏ quần áo cho cái xác, tôi bỗng nhiên phát cổ ta có sợi dây màu trắng thít sâu vào trong thịt, chỉ để lòi ra hai đầu dây ngắn cũn. Nhìn kĩ hơn, tôi bỗng giật mình, đó chính là sợi dây da lừa của phái Kiện môn, lẽ nào người này lại bị người mở khóa khác siết cổ cho tới chết?
      Chị Giai Tuệ chau mày, sờ tay vào cổ cái xác rồi đưa ra kết luận cổ họng bị cứa đứt, chứng tỏ là bị người khác siết cổ cho tới chết. Chị từ từ lôi sợi dây da lừa ra, đưa cho tôi tiếp tục lục lọi quần áo của ta, nhưng phát thêm thứ gì khác.
      Sau khi hoàn tất mọi việc, chúng tôi vẫn phải đợi thêm khoảng hơn nửa canh giờ nữa dòng nước mới ngập tới miệng hầm, dòng nước cuốn theo bùn đất lao mình vào vách đá, chỉ trong nháy mắt nước ngập cao hơn chục centimet. Lão Ngũ hét lên tiếng rồi nhảy xuống dòng nước cuồn cuộn, tay vẫn cố giơ cao ngọn đèn dầu để bị tắt. chị Giai Tuệ cũng lập tức nhảy theo, hai người đạp nước quay lại gọi tôi cùng xuống.
      Mặc dù trong lòng rất sợ hãi nhưng tôi vẫn cắn răng, ngồi vắt vẻo miệng hầm lúc, rồi lấy can đảm từ từ thả mình xuống dòng nước. Chị Giai Tuệ vội bơi tới ôm lấy thắt lưng tôi rồi kéo tôi ra xa hơn để tránh ngọn sóng ào ạt xô tới.
      Chúng tôi giữ chặt chiếc balô làm phao để nổi mặt nước. Tôi lo lắng nhìn những “con rồng nước” dữ dội lao xuống, trong lòng thấp thỏm yên, chỉ mong sao dòng nước nhanh nhanh ngập tới đỉnh, mở được cánh cửa đá kia là coi như thoát khỏi đây an toàn.
      Nổi lênh đênh mặt nước gần tiếng đồng hồ khiến cả người tôi ướt sũng, lạnh cóng, hai hàm răng va vào nhau lập cập rất khó chịu. Cũng may là mực nước dâng lên khá nhanh, giờ đây tôi có thể giơ tay chạm tới đỉnh động.
      đỉnh là những tảng đá vuông vức xếp ngay ngắn cạnh nhau, đó chính là mặt dưới của Thiên Cung Cách sát trận. Nhưng loay hoay lúc lâu, tôi mới phát ra những tảng đá này đều được thiết kế chiều, tức là chỉ có thể xoay theo chiều từ xuống, còn từ dưới hoàn toàn bó tay, trừ khi có mũi khoan để khoan thủng phiến đá may ra.
      Lão Ngũ cũng nhìn ra vấn đề, lão nhịn được chửi ầm lên:
      - Mẹ kiếp! Đúng là bọn khốn nạn thâm hiểm!
      Chị Giai Tuệ để Lão Ngũ giữ tôi rồi tự mình tìm hiểu đỉnh động. Chị bơi vòng rồi bất ngờ dừng lại ở phía bên trái, gõ gõ sờ sờ mãi mới vẫy tay gọi chúng tôi đến. Từ chỗ chị Giai Tuệ dừng lại, tôi nhìn thấy ngay sát đỉnh động có cái hang hơi dẹt, điều đặc biệt là dòng nước lọt được vào đó, mặc dù mực nước ở xung quanh vẫn ngừng ì oạp dâng lên.
      Phát thấy khác thường, Lão Ngũ lập tức giơ đèn ra soi. Miệng hang vừa đủ thân người chui qua, bên trong là màu đen kịt nên thể nhận biết nó sâu cỡ nào. Lão Ngũ vội quay sang với chúng tôi:
      - May mà còn có cái lỗ thoát thân, chui qua , hai đứa.
      Lúc đầu dòng nước vẫn chưa ngập quá cổ, vậy mà giờ nó mấp mé miệng tôi. còn thời gian suy nghĩ nữa, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đẩy tôi chui qua trước, rồi luồn ngọn đèn dầu theo sau.
      Lòng hang tôi vừa trèo vào rất hẹp, chỉ vừa đủ cho người bò sát xuống sàn. Tường xung quanh chỗ lồi chỗ lõm, vách hang gồ ghề là rất nhiều những viên đá lóng lánh, dưới ánh sáng của ngọn đèn, chúng phản chiếu lấp lánh như bầu trời sao.
      Tôi còn say sưa ngắm nghía tượng kì thú, có tiếng Lão Ngũ sặc sụa hét lên:
      - Lan Lan, mẹ kiếp! mơ màng gì đấy? Còn mau bò lên trước , Lão Ngũ ta sắp bị mi nhấn chìm rồi.
      Tôi sực tỉnh, cố gắng ép mình vào sát vách để lấy khoảng trống cho hai người leo lên. Lão Ngũ vẫn cuống cuồng thúc giục:
      - Nhanh… nhanh… nhanh… cố lên… cố lên… nước dâng tới nơi rồi!
      Lão chưa dứt lời, tôi thấy phía dưới người ươn ướt, ra dòng nước lạnh buốt bắt đầu tràn đến. Tôi đoán nước hoàn toàn nhấn chìm động đá phía sau lưng, tạo nên áp suất lớn đẩy nước tràn vào lỗ hang này. Chỉ trong nháy mắt, mực nước tăng lên vài centimet, và vẫn ngừng dâng lên nhanh chóng.
      Cả nửa thân người ngập trong nước, vừa lạnh vừa sợ, tay cầm ngọn đèn dầu giơ lên cao, tôi cố gắng leo lên chỗ cao nhất có thể.
      Đó là địa đạo dài vô tận, thẳng tắp theo hướng cao dần lên, hầu như có khúc cua. Cả ba chúng tôi ai với ai câu nào, chỉ cúi đầu hùng hục bò về phía trước. biết chúng tôi bò như thế trong bao lâu, chỉ biết dòng nước ở phía sau lưng từ từ rút xuống, nhưng vẫn ở mức cao.
      Tiến thêm được đoạn nữa tôi mệt tới mức thở ra hơi, lòng bàn tay và hai đầu gối đều bị trầy xước đau rát do bò mặt đá gồ ghề. Tôi liền dừng lại lúc, hổn hển :
      - Mệt quá… mệt chết mất! Lão Ngũ ơi, nghỉ lúc !
      Chị Giai Tuệ ở phía đằng sau cũng đồng tình:
      - Đúng đấy, nước còn dâng cao nữa, chúng ta dừng lại nghỉ chút !
      Lão Ngũ ậm ừ đồng ý rồi thêm:
      - Vậy nghỉ chút. Lan Lan, đưa ngọn đèn để ta soi chút.
      Tôi vòng tay chuyền ngọn đèn ra phía sau lưng để chị Giai Tuệ chuyển cho Lão Ngũ, trong lòng băn khoăn biết lão dùng đèn soi thứ gì. Chợt vài tia sáng lấp lánh sau lưng chiếu xiên lên phía trước, kèm theo đó là giọng đầy phấn khích của Lão Ngũ.
      - Khá lắm, ra đây là kênh Thiết Trân. Hay đấy, hay đấy… Chết mẹ! ổn rồi, ổn rồi, hình như có người đến đây trước chúng ta.
      Tôi và chị Giai Tuệ đồng thanh hỏi lại:
      - Kênh Thiết Trân là cái gì ạ?
      Lão Ngũ liền hắng giọng cắt nghĩa:
      - “Thiết” là ăn trộm, “Trân” là của báu, Thiết Trân chính là con kênh đào do bọn trộm mộ tạo ra. Giai Tuệ, mi cũng thử ngó lên vách tường đá hai bên mà xem. – rồi lão đưa ngọn đèn tới đoạn tường đá gần chỗ chị Giai Tuệ.
      lâu sau, chị Giai Tuệ bỗng thốt lên đầy kinh ngạc:
      - Đúng rồi, bề mặt vách đá đều mang dấu vết chạy theo hướng từ xuống dưới. Chắc chắn là có người đào con kênh này.
      Nghe thấy vậy, tôi cũng lập tức đưa tay ra sờ lớp vách đá bên cạnh mình, quả nhiên là có vô số những vết cào chạy từ xuống.
      Lão Ngũ với chúng tôi, kĩ thuật của phái Đạo gia cũng chia thành hai loại là Nhuyễn Đạo và Ngạnh Đạo. Nếu như dùng kĩ thuật của bàn tay để lấy đồ của người khác gọi là Nhuyễn Đạo, còn nếu như dùng công cụ để khoan cắt hay là bất cứ cung hoặc lăng mộ gọi là Ngạnh Đạo, và những con kênh đào xuyên lòng đất để vào bên trong cung như thế này được gọi là kênh Thiết Trân. Do đó, chắc chắn điều rằng, trước đây từng có người đào kênh Thiết Trân để chui xuống dưới địa cung ăn cắp báu vật, nhưng người đó là ai, đào vào thời gian nào thể biết được.
      Tôi lập tức hỏi Lão Ngũ, vậy cái xác khô lúc này có phải là do những tên ăn trộm đó để lại? Liệu có phải chúng gặp phải cái bánh chưng[2] ấy ? Thấy Lão Ngũ hiểu, tôi liền giải thích hơn.
      [2] Từ lóng của dân trộm mộ chỉ xác chết.
      Lão Ngũ nghe xong liền phì cười, chế giễu:
      - Đừng có ngồi đó mà tưởng tượng vớ vẩn, Trung Quốc lấy đâu ra nhiều lăng mộ thế cho mi đào? Lại còn bánh chưng bánh dầy cái nỗi gì, đưa ta miếng bánh gạo còn tốt hơn.
      Chúng tôi cứ thế ngồi đoán già đoán non, nhưng cũng tìm ra được lí do thuyết phục. Những phút nghỉ ngơi quý báu giúp hồi phục sinh lực, nên chúng tôi tiếp tục bò về phía trước. Được khoảng hơn hai trăm mét, tôi bỗng nghe thấy có tiếng gió ù ù thổi đến, hình như chúng tôi tới đầu bên kia của kênh Thiết Trân, trước mặt tôi lúc này là khoảng trống rộng lớn và thoáng đãng.
      Tôi mừng rơn, vội vàng báo cho hai người kia biết, rồi lập tức bò nhanh về phía trước, đến nơi có vẻ như là miệng hang. Tôi lấy ngọn đèn ra giơ cao lên phía trước để nhìn hơn. Mặc dù vẫn là khoảng tối om om, nhưng tôi có thể cảm nhận thấy trước tầm mắt mình hoàn toàn có vật cản nào, chứng tỏ đây là gian rất rộng lớn. Ánh sáng của ngọn đèn có hạn, nhưng may thay, ngay phía dưới chỗ tôi ngồi là dải cát trắng phau, ánh đèn làm chúng phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh, soi rọi cả vùng mờ ảo.
      Tôi vội ngoảnh đầu lại, sung sướng thông báo:
      - Tới nơi rồi, Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, chúng ta tới nơi rồi!
      để cho chị Giai Tuệ kịp lên tiếng, Lão Ngũ cướp lời:
      - Phì, tới cái đầu mi ấy, toàn lời đen đủi.
      Tôi quá sung sướng nên cũng chẳng thèm để ý đến lão gì nữa, hai tay vịn chắc vách tường từ từ tụt người xuống. Tôi đặt cây đèn dầu sang bên, vươn vai, vặn vẹo tay chân cho đỡ mỏi, cảm giác thoải mái dễ chịu vô cùng.
      Ngay sau đó, chị Giai Tuệ và Lão Ngũ cũng tụt xuống, cả ba chúng tôi đứng cạnh nhau, chẳng thèm nhìn ngang ngó dọc như mọi bận mà chỉ tranh thủ nghỉ ngơi, tận hưởng cảm giác được thoát khỏi nơi tù túng.
      Sau khi nghỉ ngơi thoải mái, chúng tôi soi ngọn đèn về bốn phía xung quanh và nhận ra đây là gian mênh mông có dạng kết cấu thẳng đứng. Nơi chúng tôi vừa thoát ra nằm gần chân vách đá, còn phía đầu, cách chúng tôi chừng ba mét là vòm nham thạch khá xù xì với những mỏm đá nhô ra chi chít. Dưới ánh đèn dầu, những mỏm đá nhấp nhô ngừng phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh, lung linh màu sắc, thỉnh thoảng lại có những giọt nước mát lạnh xuống.
      Chị Giai Tuệ liền bước tới, quan sát lượt xung quanh rồi với chúng tôi, đây có lẽ là phần đáy của khe nứt được tạo thành trong quá trình địa chấn kiến tạo vỏ trái đất từ hàng nghìn năm trước. Hầu hết dưới lòng đất vùng Đông Bắc đều mang cấu tạo như thế, chúng được phân bổ khắp nơi với độ nông sâu khác nhau, có tác dụng làm giảm nguy cơ các tầng đất đá dưới lòng đất bị đè nén, do vậy ở đây ít khi bị động đất như ở khu vực Tứ Xuyên và Thanh Đảo.
      Nghe chị giải thích tường tận như vậy, trong lòng tôi tránh khỏi lo lắng, sợ hãi.
      Lão Ngũ cũng lắc đầu, cứng cỏi đáp:
      - Mặc mẹ nó có động đất hay , mà nếu có cũng là ý Trời.
      Chị Giai Tuệ mỉm cười, tay giơ cao ngọn đèn, tay vỗ vào thành đá, chị :
      - Ngày xưa giáo từng giải thích tượng động đất tạo ra những đứt gãy về mặt liên kết, hay chính xác hơn là tạo ra những thềm địa tầng nhấp nhô, chạy dọc lên mặt đất. Nếu như chúng ta tìm ra được những thềm địa tầng này cũng có thể thoát ra khỏi đây.
      Mặc dù hiểu lắm về kiến thức địa lý, nhưng nghe đến việc có thể thoát ra ngoài, tôi và Lão Ngũ vô cùng hào hứng, dù sao cũng còn có chút hi vọng. Cả ba chúng tôi lập tức bắt tay vào việc tìm lối ra dưới hướng dẫn của chị Giai Tuệ.
      đường , những mỏm đá nhọn hoắt chi chít chen lẫn với nhau, luôn rập rình đâm vào chân khiến chúng tôi luôn phải dò dẫm từng bước khó nhọc. được chừng vài trăm mét, tôi chợt nhìn thấy có cái gì đó trăng trắng lấp ló phía trước, hình như nó còn hơi chuyển động phải. Bị cơn tò mò thúc giục nên tôi bước nhanh về phía trước, gần tới nơi, tôi mới phát ra trước mắt mình là con sông mênh mông với mặt nước phẳng lặng như tờ, trông rất giống chiếc gương soi lấp loáng, dòng nước lững lờ trôi mà hề gây ra tiếng động nào dù là nhất.
      lúc tò mò khôn xiết, bỗng nhiên tôi nghe giọng chị Giai Tuệ từ đằng sau hét lớn:
      - Nhìn kìa, kia là cái gì thế?
      Theo hướng tay chị chỉ, tôi nhìn thấy vật màu trắng nhờ nhờ nổi mặt nước cách bờ chừng mười mét, từ từ trôi dạt về phía chúng tôi.
      Lão Ngũ “hừm” tiếng, rồi bì bõm lội xuống nước, vớt được vật kia lên, lão liền chửi thề câu trước khi quay vào bờ. ra đó là vỏ chai nước khoáng, lớp giấy nhãn bọc bên ngoài bị tuột mất.
      Tôi vô cùng sửng sốt, lẽ nào có người tới đây trước chúng tôi ? Tôi sực nghĩ đó có thể là ông nội lắm chứ, ông bằng con đường khác và cũng tới đây, uống nốt chai nước cuối cùng rồi vô tình ném xuống sông?
      Càng nghĩ tôi càng cảm thấy phấn khích vô cùng, lao nhanh về phía trước, hớt hải ngó nghiêng xung quanh, rồi chạm hai tay trước miệng hét lớn:
      - Ông ơi, ông ơi, cháu là Lan Lan đây, ông ở đâu?
      Thấy tôi gọi ông nội, Lão Ngũ như cũng sực nhớ ra và lập tức cất tiếng gọi lớn:
      - Lão Sở, lão Sở… cái lão già chết tiệt này, mau chui ra
      Tôi và Lão Ngũ cùng ra sức hò hét, người này cố át tiếng của người kia, thanh liên tục dội tới tường đá rồi vọng lại khắp nơi, khiến những giọt nước đọng thạch nhũ cũng rơi xuống nhanh hơn tạo nên cơn mưa phía dưới vòm đá. Thế nhưng, dù chúng tôi gọi khàn cả cổ nhưng vẫn tiếng trả lời nào, mọi thứ vẫn lặng im như tờ. Tôi bắt đầu cuống lên, quay người lại nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ.
      - Chị Giai Tuệ, chúng ta phải nhanh lên mới có thể đuổi kịp ông em.
      Vẻ mặt của chị Giai Tuệ rất lạ, chị lặng lẽ với vẻ hoài nghi:
      - phải đâu, chai nước này là của hãng Băng Lộ, hơn nữa vỏ chai rất cũ rồi, thể có chuyện vừa mới được vứt xuống đây.
      Chị vặn chiếc nắp chai ra, nhìn vào mặt phía trong, :
      - Ngày sản xuất là tháng Hai năm ngoái, tới giờ hơn năm rồi. Hơn nữa, Cơ quan Cảnh sát có mối quan hệ làm ăn với công ty Robust Thẩm Dương từ rất lâu rồi, nên từ trước đến nay mọi người đều dùng nước của hãng này.
      Nghe chị Giai Tuệ tôi hiểu ra, cái vỏ chai này phải là do ông nội ném lại, nhưng chắc chắn người khác từng ở đây. Lẽ nào, năm trước có người xuống dưới địa cung, và cũng mò tới được thềm địa tầng như chúng tôi?
      Nghĩ đến đây, tôi chợt có linh cảm rất lạ: Nếu như có người đến đây, vậy tại sao những cỗ máy kia đều có dấu vết của việc từng bị mở, và họ đến đây với mục đích gì?
      Lão Ngũ vỗ mạnh lên đầu mình tự giễu:
      - Tóm lại chúng ta vẫn phải là người đầu tiên, bảo bối cũng bị lấy mất rồi. Mẹ kiếp, đến muộn rồi… đến muộn rồi. Hay đấy, hay đấy!
      Tôi định hỏi chị Giai Tuệ rốt cuộc chuyện gì xảy ra, bỗng thấy chị cười, chỉ tay lên đỉnh đầu :
      - Thẩm Dương mưa rất to đấy.
      hiểu vì sao lúc này chị Giai Tuệ lại có thể buông ra câu đầu cuối như thế. Trong khi chúng tôi vẫn bị chôn chân dưới lòng đất hàng nghìn mét, kể cả khi bên mặt đất có bom nguyên tử nổ chưa chắc chúng tôi biết, vậy mà chị lại có thể nghĩ đến việc trăng sao mưa gió như thế.
      Thấy chúng tôi vẫn ngơ ngác chưa hiểu ra vấn đề, chị Giai Tuệ mới từ từ giải thích. Chị , dòng sông lớn trước mặt chúng tôi gọi là Phục lưu[3], được tạo thành bởi các mạch nước ngầm tập trung lại, hoặc do các mạch nước men theo những khe nứt trong lòng địa tầng, qua thời gian, các tầng đá dần bị bào mòn tạo thành lòng sông. tượng Phục lưu này nếu được phân bố tại những vị trí có độ nông sâu, to , lưu lượng dòng chảy khác nhau phân thành hai loại dòng chảy là dòng chảy xiết và dòng chảy lặng. Theo như chị quan sát, nhánh sông này thuộc nhóm dòng chảy lặng.
      [3] Sông ngầm
      Lão Ngũ nghe chị giải thích phức tạp quá nên phẩy tay, :
      - Thôi, thôi! Phục gì phục, cũng chỉ là sông ngầm mà thôi. Lão Ngũ ta băng sông vượt biển chán rồi, số sông ngầm ta vượt qua còn nhiều hơn những dòng chảy chúng bay từng thấy đấy. Nhanh nhanh rốt cuộc là có chuyện gì .
      Chị Giai Tuệ mỉm cười, cúi người ngồi bên bờ sông, thò tay xuống dòng nước rồi :
      - Chai nước phải do ai đó ở đây ném xuống, hơn nữa ngày sản xuất khá lâu rồi, vậy chỉ có thể giải thích rằng, nó trôi nổi theo dòng sông chảy tới đây…
      Tôi vỡ lẽ đôi chút nhưng vẫn còn khá hồ nghi:
      - Em biết rồi, lúc nãy chị vừa về mấy vết nứt, về tảng đất đá gì gì đó, giờ lại về mặt nước, dòng chảy… Liệu ý của chị có phải là chai nước rơi xuống vách đá nào đó rồi trôi nổi xuống tận dưới này ?
      Chị Giai Tuệ gật đầu.
      - sai, chị nghĩ rằng chúng ta chỉ cần men theo dòng chảy này là tìm ra… vách đá mà em vừa đến. Chị nghĩ phía chúng ta chắc chắn phải có rất nhiều mạch nước ngầm, kết hợp với vị trí đứng, chị đoán đây chính là dòng Hỗn Giang của Thẩm Dương.
      Chị giải thích cặn kẽ thêm là, vị trí này cách mặt đất rất xa, nếu như phía có dòng chảy mạnh và áp suất lớn chiếc vỏ chai này khó có thể lọt xuống đây, cho nên chị đoán rằng tại Thẩm Dương chắc hẳn mưa rất to. Sau đó chị còn cắt nghĩa thêm về mấy thứ đại loại như đường dẫn nước, chân hay áp suất gì gì đó, nhưng dĩ nhiên là tôi nghe như vịt nghe sấm; cuối cùng chị kết lại câu, đó là cứ theo ngược dòng, chắc chắn tìm thấy lối ra.
      Nghe tới đó, Lão Ngũ lập tức cởi chiếc áo mặc người ra rồi xé toạc thành hai mảnh, lần lượt buộc tay tôi vào tay lão và chị Giai Tuệ. Thấy chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, lão cười khoái chí rồi :
      - Hai đứa còn nhìn cái gì nữa, mau thôi. Có ra được khỏi đây còn phải trông chờ vào số mệnh của ba chúng ta. Nếu chìm coi như là được chết có nhau, còn nếu qua được cửa tử có thêm bạn đồng hành.
      Chúng tôi nắm chặt tay, cố trao nhau ánh mắt khích lệ. Sống mũi cay cay, tôi bỗng thấy ngoài ông nội ra, hai người này trở thành những người thân thiết nhất của tôi.
      Ngay sau đó, hai người để tôi ở giữa, rồi cùng lội xuống dòng nước mát lạnh. Ban đầu, nước chỉ ngập quá bắp chân tôi, nhưng càng tiến ra xa mực nước càng dâng cao hơn, khi ra tới giữa dòng nước ngập ngang ngực. Người tôi khẽ chao đảo theo từng nhịp sóng nước. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nhàng kéo tôi nổi theo, cứ thế từ từ bơi ra xa.
      Dòng sông phẳng lặng, bốn phía đều yên tĩnh cách kì lạ, chỉ có tiếng tay chân chúng tôi rẽ nước ì oạp. Mặc dù độ sáng của ngọn đèn dầu khá yếu ớt, nhưng chúng tôi vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy bức tường đá hai bên bờ xám xịt với những hình dạng hết sức cổ quái, kèm theo những tia sáng lóng lánh, phản chiếu qua ánh đèn lúc sáng lúc tối như có hàng trăm đôi mắt dõi theo, khiến tôi sởn hết tóc gáy.
      Chúng tôi bơi được chừng ba trăm mét phát bờ sông bỗng nhiên hẹp dần, bức tường đá phía mỗi lúc thấp xuống cho tới khi chỉ còn cách mặt nước chừng vài centimet tạo thành khe hở rất . Chúng tôi phải trầm mình dưới nước, ngửa cổ lên để mũi và miệng lấy được chút khí, rồi lại tiếp tục bơi về phía trước, tôi cảm thấy người rã rời và đói vô cùng. Chị Giai Tuệ mò trong balô ra gói lương khô, giơ cao lên đầu xé lớp túi bọc rồi bẻ chia cho mỗi người miếng. Do khoảng quá đủ để nhô hẳn đầu lên, nên mọi người phải khó khăn lắm mới hoàn thành được bữa ăn mặt nước.
      Cả đoạn đường dài, lúc trôi theo dòng nước, lúc tạm dừng nghỉ, nên chúng tôi được bao xa; cho tới khi tôi nghe thấy tiếng ầm ầm vọng tới, dòng nước êm đềm bỗng chuyển dòng chảy xiết.
      Chị Giai Tuệ hào hứng giải thích, dưới áp lực của dòng nước, nơi dòng chảy xiết và dòng chảy lặng giao nhau chính là vị trí thềm địa tầng bị đứt đoạn, hay chính là những khe đá sau khi địa tầng được hình thành tạo nên dòng thác chảy xiết. Vượt qua chúng lại tới dòng chảy lặng. Rồi tiếp tục dâng lên, cho tới khi có đường thoát ra ngoài.
      Nghĩ đến việc thoát được ra ngoài, chúng tôi hào hứng bơi ngược dòng thêm đoạn khoảng hơn trăm mét nữa. Lúc này lực cản của dòng nước đá rất lớn, nếu phải ba người chúng tôi chụm lại với nhau, có lẽ sớm bị đẩy ngược lại rồi.
      lâu sau đó, quả nhiên đúng như lời dự đoán của chị Giai Tuệ, tôi nhìn thấy vách đá rất lớn ầm ầm tung bọt trắng xóa, tiếng thác đổ như những hồi trống giục giã nhấn chìm cả bầu gian yên tĩnh.
      Lão Ngũ cố át tiếng ầm ầm của dòng nước:
      - Hai đứa, sống hay chết chính là ở đây, giờ vào thôi! – rồi, lão gắng sức lôi mạnh tôi và chị Giai Tuệ tiến vào dòng thác hung hãn.
      Vừa vào lòng thác, ngọn đèn dầu trong tay tôi tắt phụt, bốn phía xung quanh tối om om. Tôi cảm thấy như mình bị vô số xoáy nước cuồn trôi, những đợt sóng liên tiếp ào đến tối tăm mặt mũi.
      Tôi cố gắng nín thở, vùng vẫy điên cuồng để người nổi lên, rồi bám chặt vào mỏm đá kề ngay miệng thác, cùng với giúp sức của hai người đồng hành, tôi dồn sức trèo qua, sống chết bơi ra quãng xa, nơi dòng nước hiền hòa trở lại. Mặc dù thể nhìn thấy xung quanh, nhưng cảm giác của tôi cho thấy đây chính là dòng chảy lặng, khác hẳn chặng đường vừa rồi. Chúng tôi lại cần mẫn bơi ngược dòng thêm đoạn rồi tiếp tục oằn mình chống chọi với dòng chảy xiết thứ hai…
      Cứ hết dòng thác này lại tới dòng thác tiếp theo, cho tới khi tôi thể nhớ mình vượt qua bao nhiêu tầng thác, chỉ biết rằng lực cùng sức kiệt, ba chúng tôi đều rét run cầm cập.
      Tiếp tục vượt qua thêm tầng thác nữa, tôi bỗng thấy lẫn trong dòng nước là lớp bùn cát đục ngầu kéo chúng tôi vào giữa trung tâm cơn xoáy rồi ùa vào tai vào mũi, khó chịu vô cùng.
      lo sợ dâng lên cực đỉnh khi mảnh vải buộc tay tôi vì bị giằng kéo quá lâu nên đứt lìa, dòng nước lập tức đẩy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ ra xa. Do thể mở mắt và cũng kịp mở miệng lấy hơi, nên tôi chỉ có thể vùng vẫy theo bản năng.
      Khoảng hai phút sau, ngực tôi đau tức như muốn nổ tung, toàn thân bị kéo mạnh xuống dưới làn nước đục ngầu. chịu được nữa, tôi đành há miệng lấy hơi, lập tức dòng nước lạnh buốt kèm theo cả bùn đất chui tọt vào trong cổ họng. Trong đầu nghĩ được điều gì, tôi chỉ biết mình bị sặc nước, hai lỗ mũi cũng trở nên cay xè khó chịu. Bỗng nhiên tôi thấy đầu đau nhói, hình như có ai đó túm tóc tôi giật mạnh lên. Chỉ lúc sau, đầu tôi nhô lên khỏi mặt nước, khí lại được lấp đầu lá phổi; tôi nhận thấy có bàn tay vòng qua eo ôm chặt.
      Tôi như từ cõi chết trở về, mệt mỏi hé mắt, tay chị Giai Tuệ ôm chặt lấy tôi, tay còn lại sải rộng cố bơi theo dòng nước.
      Tôi bám chặt tay chị, mừng rỡ khóc òa lên:
      - Chị… chị Giai Tuệ, chúng… chúng ta thoát ra rồi!
      Tôi quay đầu nhìn xung quanh, vẫn là vùng tối đen với từng đợt sóng nhàng vỗ bờ, bầu trời bên xám xịt trong cơn mưa tầm tã, từng tia chớp chói lóa thỉnh thoảng rạch qua bầu trời, kèm theo những tiếng sấm ì ầm từ xa.
      Đây chính là dòng Hỗn Giang sao, vậy mà tôi lại thấy nó rất giống với mặt biển thường thấy tivi. Tôi bất giác vòng tay ôm chặt chị Giai Tuệ.
      Chị Giai Tuệ vẫn sải tay bơi, được lúc, chị đánh mắt ra hiệu cho tôi nhìn về phía Tây, từ phía xa xa có vật nhọn hoắt chĩa thẳng lên trời, càng nhìn càng thấy nó giống chiếc đũa bạc tỏa chiếu những tia sáng lóng lánh, trông rất đẹp mắt.
      Chị Giai Tuệ reo lên đầy phấn khích, tay vẫn ôm chặt eo tôi:
      - Lan Lan, đó là tháp truyền hình tỉnh Liêu Ninh đấy. Với khoảng cách này, có lẽ chúng ta ở khu Đông Lăng, đây chắc chắn là Hỗn Giang rồi, ra dòng sông ngầm nối liền với sông Hỗn Giang .
      Vừa thoát cơn nguy hiểm, tôi sung sướng định reo lên lớn sực nhớ tới Lão Ngũ, tại sao lão vẫn chưa ngoi lên, lẽ bị nhấn chìm rồi sao? Nghĩ tới đó, lòng tôi bỗng đau tê tái, nước mắt chực trào ra.
      Thấy tôi hỏi về Lão Ngũ, chị Giai Tuệ cũng lắc đầu buồn bã.
      - Chị biết, nhưng Lão Ngũ bơi rất giỏi, chắc xảy ra chuyện gì đâu.
      Chị Giai Tuệ chưa dứt lời bất chợt từ dưới mặt nước bỗng nhô lên mái đầu bạc trắng, ướt sũng, cùng giọng hết sức quen thuộc vọng tới:
      - Mẹ kiếp, hay… hay đấy, cuối cùng … cũng ngoi lên được. Mẹ kiếp!
      Thấy Lão Ngũ cũng bình an vô , tôi và chị Giai Tuệ vội vàng bơi tới ôm chầm lấy lão. Lão Ngũ cười sảng khoái:
      - Lão già này đúng là có số đào hoa, tự nhiên lại được hai đứa con chủ động đến ôm cơ đấy.
      Sau khi xác định được phương hướng, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cố gắng kéo theo tôi vượt sông, bám vào hàng rào ngăn cách leo lên bờ.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Phần ba: Thanh Nham Thánh Cảnh
      <address style="Lão Ngũ bước lên lớp tuyết. tiến tới dưới gốc cây thông, thoắt cái trèo lên cây, đưa tay ngắt nắm lá thông vẫn bám đầy tuyết trắng. Nắm chặt nắm lá trong tay, lão từ từ bước tới mép vách đá, nheo mắt ngẩng lên nhìn ánh trăng, cánh tay phải vung mạnh, những chiếc lá thông nhọn hoắt như chiếc kim bay thẳng lên trời, tạo thành những đường sọc đen in hình xuống nền đất, rồi nhanh chóng bị cơn gió cuốn . Cùng lúc, đám người đứng bên dưới kia mới bắt đầu động đậy, ai ai cũng vươn dài cổ, mắt mở to, nhìn chằm chằm vào đám lá thông, luôn miệng lẩm bẩm gì đó.</address>
      Chương 14: Bí đĩa sứ Mặc Văn đường




      Ngày hôm đó mưa quả thực rất lớn, sấm chớp liên tục xé ngang bầu trời, nước mưa làm ngập hết đường, chúng tôi đứng đó khá lâu mà thấy bóng xe qua, đành dìu nhau lội mưa đoạn khá dài. Vừa nhìn thấy đồn cảnh sát địa phương vùng Đông Lăng, chị Giai Tuệ liền kéo chúng tôi nhanh về phía trước.
      Mấy cảnh sát trực ban trợn tròn mắt khi nhìn thấy bộ dạng ướt sũng, rũ rượi đến thảm hại của chúng tôi, đặc biệt là Lão Ngũ, vì người lão giờ chỉ còn duy nhất chiếc quần đùi còn sót lại. Đợi sau khi chị Giai Tuệ trình bày lai lịch xong, họ mới vội vã tìm quần áo cho chúng tôi thay và nấu cho mỗi người tô mì nóng hổi. Chị Giai Tuệ vừa ăn mì vừa bấm điện thoại gọi điện cho Trưởng phòng Tư.
      Chỉ khoảng hai mươi phút sau, Trưởng phòng Tư và Trần Đường có mặt. Vừa thấy chúng tôi, cả hai mừng rỡ lao tới ôm chầm lấy. Trưởng phòng Tư ôm chặt tôi vào lòng lúc lâu, rồi quay sang cảm ơn Lão Ngũ rối rít, ông cũng quên thông báo bên quản lí trại giam đồng ý xóa án cho lão sớm hơn quy định. Lão Ngũ cười khoái trá, sung sướng thốt lên rằng chuyến lần này coi như lãi to.
      Biết tôi vẫn chưa tìm thấy ông nội, Trưởng phòng Tư thở dài, an ủi tôi đừng lo nghĩ nhiều, chừng ông nội tôi cũng thoát được ra ngoài. Sau đó, Trưởng phòng Tư đưa chúng tôi về cùng. Suốt chặng đường , chúng tôi vừa thăm hỏi vừa báo cáo sơ qua tình hình.
      Lần này, Trưởng phòng Tư và Trần Đường chiếc ôtô bình thường tới đây, và cũng có đội cảnh sát bảo vệ kèm. Trần Đường rằng rút kinh nghiệm từ lần trước, nên phô trương mà càng ít người biết càng tốt.
      Chiếc xe quay về Cục Cảnh sát mà tiếp tục về hướng ngoại ô và dừng lại ở khu biệt thự liền kề. Trần Đường đưa chúng tôi vào ngôi biệt thự hai tầng nhắn, đầy đủ nội thất nhưng vẫn nồng mùi sơn sửa. Trần Đường rằng đây là ngôi nhà mới tu sửa nhưng chưa có ai ở của người họ hàng, nên mượn để chúng tôi ở tạm vài ngày, ở đây an toàn tuyệt đối lại rất yên tĩnh thoải mái.
      Khi tôi tắm gội xong ra nhìn thấy Tôn Ngọc Dương và La Hoán Văn ngồi ngay trong phòng khách. Tôn Ngọc Dương đứng dậy mừng rỡ ôm lấy tôi, miệng liên tục cảm ơn trời đất phù hộ, nếu như cả tôi cũng mất tích nữa Kiện môn coi như còn người nối dõi.
      Sau hồi hỏi thăm nhau, Trưởng phòng Tư mời mọi người ngồi xuống, để chúng tôi kể lại chi tiết chuyến thám hiểm dưới địa cung vừa rồi. Thực ra, mọi việc chủ yếu là do chị Giai Tuệ tường thuật lại, tôi và Lão Ngũ chỉ bổ sung thêm vài chi tiết liên quan đến chuyên môn. Khi nghe đến đoạn phía dưới khóa tường Song Long là cả gian vô cùng rộng lớn với rất nhiều tầng khóa khác biệt, mà mỗi tầng khóa lại chứa vô số điều thần bí; tất cả mọi người đều cảm thấy kinh ngạc tột độ và thắc mắc hiểu hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung với mục đích gì?
      Cuối cùng, mọi ánh mắt đều dồn vào chiếc khay sứ Thanh Hoa, vật mà ngay từ cách xuất của nó khiến cho tất cả mọi người cảm thấy kì quặc, thể giải thích nổi. Trưởng phòng Tư thở dài, buông câu tự thán:
      - Đây ràng là lịch sử thử thách chúng ta.
      La Hoán Văn trầm tư cầm chiếc khay sứ lên soi xét rất lâu, rồi chậm rãi lên tiếng:
      - Hay ! chiếc khay sơn thủy bằng sứ Thanh Hoa tuyệt mĩ, tôi có thể chắc chắn điều rằng đây là bảo vật thời Khang Hy, được nung tại trấn Cảnh Đức tỉnh Giang Tây. - rồi ông lật phần đế lên và nhìn chằm chằm vào dòng chữ khắc bên dưới, rất nhiều sắc thái biểu cảm lẫn lộn gương mặt ông.
      Trưởng phòng Tư gặng hỏi ông phải chăng dòng chữ khắc đó có vấn đề gì? Ông suy nghĩ hồi rồi từ từ giải thích với chúng tôi. Nghệ thuật khắc chữ gốm sứ của Trung Quốc bắt đầu xuất từ thời nhà Tống, nhưng lúc đó còn rất sơ khai, phải cho tới thời nhà Minh nghệ thuật này mới thực phát triển. Nhưng bấy giờ cũng mới chỉ dùng các loại chữ “Tạo năm x x” hay “Đường tạo năm x x”, chứ rất hiếm khi khắc chữ “Chế”. Đến thời nhà Thanh, do chữ “Tạo” và chữ “Triệu” đều là chữ phạm húy, nên người ta chỉ dùng chữ “Chế” để khắc chữ chứ tuyệt đối dùng chữ “Tạo”. Nhưng chiếc khay này tại sao lại phạm sai lầm lớn như thế?
      Tôn Ngọc Dương tò mò hỏi lại tại sao chữ “Chế” lại phạm húy.
      La Hoán Văn lắc lắc đầu, đưa mắt nhìn khắp lượt chúng tôi, giọng bỗng nhiên trầm hẳn xuống:
      - Nỗ Nhĩ Cáp Xích!
      Trong số những người ngồi ở đây, tôi là người có học vấn thấp nhất, thế nhưng cũng thực sững sờ trước câu trả lời vừa rồi của La Hoán Văn. Đơn giản là vì tôi biết rằng, ngay cả khi chưa cần xem xét đến vấn đề chiếc khay sứ Thanh Hoa này ra đời vào khoảng thời gian nào, việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung để cất giấu vật được cho là phạm húy của mình cũng là quá sức tưởng tượng.
      Tôn Ngọc Dương cũng ngẩn người ra lúc lâu, dường như vẫn chưa hoàn toàn tin vào lời giải thích của La Hoán Văn nên dùng điện thoại lên mạng tìm kiến thông tin, và nhận được lời giải đáp rằng: “Miếu hiệu của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Thái tổ, thụy hiệu là Võ hoàng đế, sau đổi thành Cao hoàng đế, niên hiệu Thiên Mệnh. Tên đầy đủ của ông là Thừa Thiên Quảng Vận Thần Công Thánh Đức Triệu Kỷ Lập Cực Nhân Hiếu Duật Võ Đoan Nghị Khâm An Hoằng Văn Định Nghiệp Cao hoàng đế”. Quả nhiên là có chữ “Triệu”, xem ra chiếc khay sứ này đúng là câu hỏi lớn.
      Mọi người đều cảm thấy hết sức khó hiểu, ai cũng đưa ra ý kiến của riêng mình, đặt ra đủ mọi giả thuyết nhưng cuối cùng vẫn đưa ra được kết luận thống nhất, thậm chí càng thảo luận càng phát ra nhiều điều kì bí. Cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập được bảo tồn nguyên vẹn, tầng khóa cuối cùng là chiếc khóa tuyệt môn lục bát thuật cũng thể mở lần thứ hai, vậy mà bên trong đó lại xuất chiếc khay sứ Thanh Hoa thời Khang Hy, điều đó chỉ có thể giải thích được rằng. Chiếc khay này có phép biến hóa thần thông quảng đại.
      Chúng tôi say sưa tranh luận và bàn tán mãi cho đến quá nửa đêm, nên Trưởng phòng Tư phân công Tôn Ngọc Dương ở lại để bảo vệ an toàn của tôi và Lão Ngũ; còn ông, chị Giai Tuệ cùng những người kia phải trở về thành phố báo cáo với cấp , đồng thời cũng phải đưa chiếc khay sứ kiểm nghiệm kỹ thuật nung.
      Trước khi Trưởng phòng Tư rời , tôi còn giao luôn những bảo bối thu được trong suốt chặng đường thám hiểm cho ông, từ viên đá Sơn Hải Lan, cát bay, Tinh ngọc Hòa Điền cho đến mảnh kim loại hình tam giác khắc chữ Hận.
      Lão Ngũ lập tức tỏ thái độ, lão ca cẩm chuyến này coi như trắng tay, bao nhiêu bảo bối đều phải sung công hết.
      Trưởng phòng Tư hiểu ý lão liền mỉm cười trấn an:
      - Tiền bối à, đợi khi chúng tôi kiểm tra xong, tất cả những bảo bối này tặng lại hết cho ông.
      Nghe vậy, Lão Ngũ liền thay đổi thái độ, cười hí hửng và luôn miệng lầm bầm “hay đấy, hay đấy!”
      Sau khi mọi người ra về, tôi và Lão Ngũ lập tức lên giường đánh giấc say sưa. Tôi ngủ li bì cho tới tận tối hôm sau, khi Tôn Ngọc Dương gọi dậy ăn cơm. Sau khi nghỉ ngơi thoải mái, ăn uống no nê, tôi mới cảm thấy mình hoàn toàn được giải thoát khỏi những căng thẳng mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần.
      Chúng tôi ở trong ngôi biệt thự đó bốn ngày, cả bốn ngày đó thấy Trưởng phòng Tư hay chị Giai Tuệ liên lạc gì, nên cũng biết họ báo cáo tình hình đến đâu, và tìm ra manh mối về nguồn gốc chiếc khay sứ kia chưa?
      Tôn Ngọc Dương ở lại căn biệt thự để giữ an toàn cho chúng tôi, cho chúng tôi bước chân ra ngoài dù chỉ phút.
      Mặc dù ngày nào cũng được ăn ngon và nghỉ ngơi thoải mái, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy trong lòng bất an. tại vẫn chưa biết ông nội sống chết ra sao, tôi còn lòng dạ nào mà ngồi chờ ở đây được.
      Thấy tôi suốt ngày lo lắng cho ông nội, Lão Ngũ cùng thở dài và với giọng pha chút tủi thân:
      - Lão Sở là có phúc, có cháu chăm sóc tuổi già. Còn lão già này cả đời coi như chẳng có gì, đến khi chết , ngay cả người đào mộ cũng chẳng có.
      Đây là lần đầu tiên Lão Ngũ buồn rầu như thế, tôi cảm thấy tình cảnh lão đáng thương, tuổi già sức yếu mà chẳng có đến mụn con cháu chăm sóc, sau này mình lão sống như thế nào. Tôi lập tức nắm lấy bàn tay gầy guộc của lão, tỉ tê:
      - Lão Ngũ à, lão đừng buồn nữa, phải là còn có cháu nữa sao. Đợi khi nào tìm được ông nội, cháu chăm sóc cả hai người.
      Ánh mắt của Lão Ngũ bỗng long lanh trìu mến, tôi biết rằng lão rất xúc động, còn đưa tay vuốt lên mái tóc tôi, luôn miệng :
      - Con tiểu a đầu này, ngoan lắm, ngoan lắm! - Thần sắc và cử chỉ ân cần của lão làm tôi nhớ đến ông nội, sống mũi cay cay và nỗi buồn trong lòng lại dâng lên tê tái.
      Sang ngày thứ năm, lúc hơn mười giờ tối, chị Giai Tuệ bỗng tới chỗ chúng tôi với vẻ rất vội vã. Tôi vui sướng lao tới ôm chầm lấy chị và quên hỏi kết quả kiểm định chiếc khay sứ thế nào, đến khi nào tôi mới được tiếp tục tìm ông nội?
      Vẻ mặt của chị Giai Tuệ vẫn bình thản như mọi khi, chỉ rằng chúng tôi chuẩn bị trở về Cục Cảnh sát với chị ngay bây giờ, kết quả kiểm nghiệm hết sức có giá trị. Máu tò mò nổi lên, lập tức tôi và Lão Ngũ thu dọn đồ đạc rồi cùng chị Giai Tuệ và Tôn Ngọc Dương lái xe quay về trụ sở Cảnh sát.
      là đêm khuya nên cánh cổng chính của Cục Cảnh sát đóng im lìm, đèn cũng bật, yên tĩnh và gian tối đen ấy dễ khiến người ta lạnh người. Chúng tôi đỗ xe ở bên ngoài, rồi vào cánh cổng phụ bên cạnh, sau đó lên cầu thang tiến thẳng đến tầng năm. Trưởng phòng Tư đứng ngay cửa ra vào phòng làm việc, chắc ông đợi chúng tôi.
      Sau khi vào phòng, tôi thấy Trần Đường và La Hoán Văn có mặt ở đó với dáng vẻ cũng hào hứng kém, mặt bàn phía trước mặt họ chồng chất rất nhiều tập tài liệu và hơn chục bức ảnh. Tôi liếc qua, ra đó là những bức ảnh chụp cái xác khô dưới địa cung và lưỡi dao dài và , tất cả chúng đều do chị Giai Tuệ cẩn thận chụp lại.
      Trưởng phòng Tư đứng dậy đóng cánh cửa, rồi quay lại đứng trước mặt tôi và Lão Ngũ, nhàng lên tiếng:
      - Hắc tiền bối, Lan Lan, mấy ngày vừa rồi hai người đỡ mệt chưa? Hôm nay tôi mời hai người tới đây, là để thông báo kết quả kiểm định chiếc khay sứ, hai là mong rằng nhận được giúp đỡ của hai người thêm lần nữa.
      Vừa nghe thấy vậy, Lão Ngũ lập tức co chân vào, rồi với vẻ được nhiệt tình cho lắm:
      - Ta nên tin lời của đám quan chức rồi mà, lúc nào cũng vòng vo nhiễu , có phải cho dù ta có đồng ý hay vẫn phải tiếp tục thực điều đó ?
      Tôi cảm thấy hơi khó hiểu. Chẳng lẽ mọi việc vẫn chưa chấm dứt? Bảo bối cũng lấy về rồi, giờ còn muốn chúng tôi giúp gì nữa đây? Tôi sốt ruột hỏi lại:
      - Nếu như cháu đồng ý, có phải mọi người giúp cháu tìm ông nội, và cũng… cũng cho cháu làm… làm cảnh sát nữa đúng ?
      Trưởng phòng Tư mỉm cười, :
      - Hắc tiền bối hiểu lầm ý chúng tôi rồi. Lan Lan, cháu hãy bình tĩnh. Tôi chỉ kêu gọi giúp đỡ của hai người chứ phải là ra mệnh lệnh. Nếu như hai người nghe xong mà vẫn quyết định tiếp tục tham gia có thể rời bất cứ lúc nào, phía cảnh sát chúng tôi nhất định thu xếp ổn thỏa cuộc sống của hai người sau này. Còn Lan Lan, ta hứa với Sở thúc là nhận cháu vào Cục Cảnh sát tỉnh Thẩm Dương rồi, cháu là trường hợp đặc biệt nên được đặc cách vào thẳng, chính thức trở thành đồng nghiệp của những người ngồi đây.
      Tôi và Lão Ngũ quay sang nhìn nhau, thực điều này cũng tệ lắm, thế nên ngồi lại để nghe họ rốt cuộc chuyện gì xảy ra.
      ra ngay sau khi rời khỏi ngôi biệt thư, Trưởng phòng Tư và chị Giai Tuệ lập tức chuyển chiếc khay sứ tới phòng thí nghiệm để kiểm tra niên đại của nó, đồng thời triệu tập cả những chuyên gia cổ vật có tiếng tăm đến để thảo luận. Tất cả các chuyên gia đều thống nhất khẳng định rằng đây chính là cổ vật được nung tại trấn Cảnh Đức từ những năm đầu thời Khang Hy. Thế nhưng, về dòng chữ khắc “Mặc Văn đường tạo” họ cũng thể tìm ra lời giải thích phù hợp, duy chỉ có vị chuyên gia lập luận khá hợp lý. Đó là mặc dù nhà Thanh lập triều được thời gian khá lâu, nhưng thời đó những băng đảng giang hồ hay đa phần người dân vẫn ủng hộ triều Minh, luôn mang trong lòng ý niệm phản Thanh phục Minh, nên rất có thể mấy chữ “Mặc Văn đường” đó là tên của băng đảng nào đấy, và họ cố tình dùng chữ “Tạo” với mục đích mà ai cũng biết đó là gì.
      Ngoài ra, Cố Cung Thẩm Dương bắt đầu xây dựng vào năm 1625, hoàn thành vào năm 1636, trong khi đó hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại mất vào năm 1626. Mặc dù có thể rằng ý tưởng xây dựng Cố Cung là của ông, nhưng phần lớn công việc xây dựng lại do người con thứ tám là Hoàng Thái Cực hoàn thành. Cho nên, có thể chiếc khay sứ này phải do Nỗ Nhĩ Cáp Xích đặt vào, mà chính là do Hoàng Thái Cực.
      Mặc dù tôi rất dốt môn lịch sử nhưng vẫn cảm thấy có gì đó ổn lắm. Chị Giai Tuệ rằng, giữa Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Khang Hy là Hoàng Thái Cực và Thuận Trị, nếu phải do Nỗ Nhĩ Cáp Xích làm, khoảng thời gian cách nhau quá xa.
      Trưởng phòng Tư mỉm cười và quay sang hỏi tôi có còn nhớ sợi dây da lừa cổ xác khô và đoạn kênh Thiết Trân dưới lòng động ? Ông đưa ra giả thuyết cũng có thể lúc bấy giờ Hoàng Thái Cực dùng loại khóa tuyệt môn lục bát thuật để cất giấu báu vật. Nhưng đến thời vua Khang Vy, cao thủ của Kiện môn xuống dưới đó, dùng chiếc khay sứ này để đánh tráo với bảo bối kia. Trong giới Kiện môn có lưu truyền thuật Thiên giới với sức mạnh vô cùng thần kì, nên có lẽ chiếc khóa tuyệt môn kia bị thuần phục.
      Nghe những giả thuyết đó, tôi lập tức đứng dậy phản pháo:
      - Chú Tư, có phải chú nghi ngờ người phái Kiện môn chúng cháu phạm tội giết người ? - Vừa dứt lời, tôi mới sực nhớ ra, phái Kiện môn và Đạo môn cũng từng có giai đoạn tranh giành chém giết lẫn nhau, xem ra phải có người xấu. Nghĩ vậy, tôi cố kìm lòng và từ từ xuôi theo những lời phân tích của Trưởng phòng Tư.
      Lão Ngũ vân vê mấy sợi râu thưa dưới cằm, đột nhiên cất tiếng:
      - Mẹ kiếp, vậy là ta đoán sai mà, chắc chắn là có đứa đến nẫng tay bảo vật trước ta rồi. Vậy điều tra ra tên đó là ai chưa?
      Tôi cũng rất muốn biết tên ăn trộm kia rốt cuộc là ai, có phải khi đó bị đồng bọn giết hại rồi cướp mất bảo vật , chẳng trách vách hang lại có nhiều vết dao như vậy.
      Trưởng phòng Tư gì mà chỉ rút tập tài liệu bàn rồi đẩy tới. Tôi nhìn thấy tiêu đề của tập tài liệu là: Kết luận pháp y liên quan đến mẫu da người và mẫu tóc lấy từ địa cung dưới lòng Cố Cung Thẩm Dương, mép tài liệu còn in dấu đỏ “Tuyệt mật”. Tôi cầm lấy, tiện tay giở qua vài trang, bên trong toàn là những thuật ngữ chuyên môn mà tôi thể hiểu nổi.
      Chị Giai Tuệ ngồi bên cạnh thấy vậy liền giải thích kĩ càng hơn cho tôi. Cái xác khô mà chúng tôi nhìn thấy tại trường, cổ họng bị xiết đứt, chứng tỏ người đó bị sợi dây da lừa thít chặt cho đến chết; hơn nữa, cơ thể lại có vết thương nào khác, nên nguyên nhân gây tử vong có gì phải đắn đo nữa. Dựa vào những kết quả phân tích pháp y về mẫu da và tóc thời gian người này chết trong khoảng từ ba trăm hai mươi năm đến ba trăm ba mươi năm về trước, vừa đúng với thời gian vua Khang Hy đăng cơ lên ngôi và ra thông báo bị mất bảo vật. Đồng thời, qua khám nghiệm xương rút ra kết luận, người này bị giết chết khi mới bốn mươi mốt tuổi. Thậm chí rốt cuộc người này là ai, ta cũng có thể tìm ra.
      đến đây, chị Giai Tuệ quay sang nhìn La Hoán Văn. La Hoán Văn gật đầu, đứng dậy cầm bức ảnh chụp cái xác khô, rồi chỉ cho chúng tôi thấy những con rồng màu vàng được thêu cổ áo.
      Tôi nhìn ngắm lúc lâu vẫn phát ra những con rồng đó có gì khác lạ, nhưng Lão Ngũ ngồi bên cạnh lập tức thốt lên:
      - Kim Long ngũ chỉ! Là rồng năm ngón sao? Mẹ kiếp, lúc đó kịp để ý, cái này mới đúng là… hay đấy, hay đấy!
      La Hoán Văn mỉm cười đồng tình:
      - Con mắt của Hắc tiền bối là tinh tường, đây chính là rồng năm ngón.
      Tôi vội vàng nhìn lại kĩ hơn, những con rồng đó đúng là có năm ngón chân, bốn ngón ở phía trước và ngón ở phía sau, thế nhưng tôi những ngón chân này lên điều gì?
      La Hoán Văn tận tình giải thích cho tôi biết, rồng Trung Quốc đầu tiên phải là năm ngón, mà là từ ba ngón, bốn ngón phát triển thành. Từ triều đại nhà Nguyên, chỉ có người trong hoàng thất mới được sử dụng hình tượng rồng năm ngón, đến các vương tôn cũng chỉ được dùng hình tượng rồng ba ngón hoặc bốn ngón mà thôi. Những con rồng năm ngón thêu cổ áo chứng tỏ rằng người này thuộc hoàng tộc Mãn Thanh. Đặc biệt túm tóc phía sau tết theo kiểu đuôi chuột dài, đó là kiểu tóc đặc trưng của thời tiền Thanh; đến tận thời hậu Thanh mới dần dần biến đổi thành kiểu đầu dương mà ta vẫn thường nhìn thấy tivi, tức là cạo trọc nửa đầu trước và phần tóc ở nửa đầu sau tết thành bím dài.
      Càng nghe tôi càng cảm thấy những bí mật này thú vị. Xem ra cái xác khô này đúng là hoàng thân quốc thích , thế nhưng người này xuống dưới địa cung làm gì, để rồi bị cao thủ Kiện môn thít cổ chết?
      La Hoán Văn lại lấy ra hai tấm hình khác, lần lượt mang hình ảnh hai con dao và dài; trong đó con dao nằm cạnh xác khô, con còn lại đặt nền vải nhung đỏ trong tủ kính.
      La Hoán Văn với chúng tôi rằng: Con dao thứ hai cất giữ tại viện bảo tàng Cố Cung Thẩm Dương, đó là vật bất li thân của Thái Tông Hoàng Thái Cực, nay nó là cổ vật cấp của quốc gia; lưỡi dao thứ nhất chụp nằm cạnh cái xác có hình dạng y hệt như thế, và chắc chắn cũng là lưỡi dao của người trong hoàng tộc. Ông tiếp tục lấy ra bức ảnh khác chụp viên Tinh ngọc Hòa Điền màu vàng và tiếp tục giảng giải:
      - người xác khô có đeo miếng ngọc màu vàng, màu vàng là màu của hoàng gia, hơn nữa lại là loại ngọc Tịnh cực kì quý hiếm, những người bình thường trong hoàng thân quốc thích cũng được phép dùng nó, thế nên người này rất có thể chính là: Hoàng đế!
      Nghe tới đây, tôi bỗng rùng mình, cảm thấy thực hoảng hốt. Trời ạ! Hoàng đế ư? Điều này quá sức tưởng tượng! Lẽ nào xác chết đó lại chính là vua Khang Hy, người mang chiếc khay sứ Thanh Hoa xuống dưới địa cung, rồi bị cao thủ Kiện môn giết hại?
      Nghe thấy những thắc mắc ngây ngô của tôi, La Hoán Văn và mọi người đều phì cười, chị Giai Tuệ cầm tay tôi, ân cần :
      - Lan Lan, người đó chắc chắn phải là Khang Hy đâu, mọi người đều đoán người đó chính là phụ thân của Khang Hy, hoàng đế Thuận Trị.
      Chị còn , dựa vào ghi chép của sử sách để lại, hoàng đế Thuận Trị sinh năm 1638, đến năm hai mươi ba tuổi bị mắc bệnh truyền nhiễm nên qua đời vào đúng năm 1661. Lịch sử ghi lại rất nhiều giả định về cái chết kì bí của vị hoàng đế này, trong đó có giả thuyết cho rằng do ái phi Đồng Ngạc lâm bệnh và qua đời, Thuận Trị quá đau buồn nên xuất gia tu, từ đó thấy tin tức gì.
      Tôi bỗng dưng nhớ đến bộ phim Lộc đỉnh ký từng xem, hình như trong phim cũng giải thích như vậy, tôi nhanh miệng thốt lên:
      - Cháu biết rồi, hoàng đế Thuận Trị thực ra phải bỏ , mà là xuống địa cung, rồi bị người khác hãm hại.
      La Hoán Văn và mọi người đều khẽ gật đầu, chỉ có chị Giai Tuệ lên tiếng xác nhận:
      - Cũng gần như vậy.
      Lão Ngũ im thin thít từ đầu đến giờ bỗng phì tiếng.
      - Mẹ kiếp! Làm gì có chuyện phi lý thế! Thuận Trị chết, cũng bỏ , mà lại bị cao thủ siết cổ. Có chết ta cũng tin.
      Chị Giai Tuệ liền mỉm cười, đáp:
      - Lão Ngũ, ban đầu mọi người cũng tin, thế nhưng tất cả chứng cớ ràng, người này chỉ có thể là hoàng đế Thuận Trị. - Vừa chị vừa chỉ vào những kết luận pháp y. - Thời gian hình thành xác khô cách đây khoảng ba trăm hai mươi đến ba trăm ba mươi năm, đúng vào năm 1675 đến 1685, và khi chết người này ở độ tuổi bốn mươi mốt. Còn hoàng đế Thuận Trị sinh vào năm 1638, mất năm 1661, vậy là ông qua đời vào năm hai mươi ba tuổi. Theo như giả thiết ông mất, mà còn sống thêm mười tám năm nữa, tức là vào năm 1679, điều này hoàn toàn ăn khớp với độ tuổi của cái xác. Lão thử nghĩ xem, từ dáng vẻ tới trang phục của người này hẳn phải là hoàng đế, nhưng lại phải Khang Hy, vậy ngoài Thuận Trị còn có thể là ai khác?
      Mặc dù những con số chị Giai Tuệ đến quá nhiều khiến tôi lâm vào trạng thái mơ mơ hồ hồ, nhưng nghĩ kĩ tôi thấy cũng khá chính xác, xem ra xác chết đó chính là hoàng đế Thuận Trị . Nghĩ đến việc từng tiếp cận xác hoàng đế, rồi chính tay mình còn động vào đó, tôi có cảm giác lâng lâng khó tả, nếu như kể chuyện này với người khác, chắc họ nghĩ tôi bị thần kinh mất.
      Lão Ngũ vẫn ngồi cạnh tôi, miệng lẩm nhẩm tính toán với vẻ mặt hết sức khó hiểu, cuối cùng lão cũng thốt lên:
      - Mẹ kiếp, ngờ mình còn được đá hoàng đế cái, chuyện này… hay đấy, hay đấy! - Xem ra, cuối cùng lão cũng bị thuyết phục bởi điều này.
      Thấy mọi người có vẻ hiểu ý câu vừa rồi của Lão Ngũ, nên chị Giai Tuệ kể lại việc Lão Ngũ giơ chân đá cái xác khô để mọi người cùng nghe, sau khi vỡ lẽ tất cả đều cười vang, khiến bầu khí nhõm rất nhiều.
      Lão Ngũ vẫn ngừng lầm bầm:
      - Mẹ nó chứ, đá lên thi thể nhà vua, nếu chuyện này lộ ra ngoài ta nổi danh khắp thiên hạ.
      Đợi cho mọi người cười xong, La Hoán Văn mới tiếp tục câu chuyện:
      - Đó chỉ là phát quan trọng đâu, nó thậm chí còn khiến ta phải sửa lại lịch sử, và thêm điểm đáng giá nữa, nó chính là lời giải đáp cho những nghiên cứu bị bỏ dở.
      rồi, ông cúi xuống mở chiếc hộp da để dưới chân, từ từ nhấc mảnh sắt hành tam giác của cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập ra, nhàng đặt lên mặt bàn rồi chỉ vào chữ “Hận” màu xanh.
      - Khi nghe Giai Tuệ , mọi người mở được cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập với bảy chữ “Hận” mỗi mảnh, tôi thầm đoán rằng, liệu đây có phải là bảy nỗi uất hận của Nỗ Nhĩ Cáp Xích?
      Nghe đến điều này, thói tò mò của tôi thực bị kích thích, lập tức lên tiếng hỏi bảy nỗi uất hận đó là gì?
      La Hoán Văn chậm rãi giải thích:
      - Năm 1618, Nỗ Nhĩ Cáp Xích chính thức tuyên bố chiêu binh lật đổ nhà Minh. Bảy nỗi uất hận của ông ta chính là bảy lần nhà Minh thẳng tay đàn áp bộ tộc Kiến Châu Nữ Chân. Mặc dù điều này đều là nhưng những học giả sau này đều cho rằng đó thực ra chỉ là cái cớ để khởi binh, vì sợ rằng sau này có chứng cớ gì. Sau đó, quân của Nỗ Nhĩ Cáp Xích liên tục thắng trận và dời đô tới Liêu Ninh vào năm 1621, tiếp đó ông ta mang quân đánh chiếm vùng Quảng Ninh thuộc phía Tây tỉnh Liêu Ninh, ngày nay gọi là thành phố Bắc Chân trực thuộc tỉnh Cẩm Châu. Nỗ Nhĩ Cáp Xích lấy Bắc Châu làm bàn đạp, định tiếp tục tiến quân vào sâu bên trong, nhưng ông gặp đúng đối thủ khét tiếng là Viên Sùng Hoan, nên đành phải dừng quân tại Bắc Chân mà mở thêm được phần đất nào mới. Thời gian tại Bắc Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích làm được việc rất trọng đại, đó là quyết định dời đô tới Thẩm Dương, lịch sử cũng ghi nhận thay đổi vô cùng lớn trong giai đoạn này.
      Ngay sau khi dời đô đến Thẩm Dương, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lên kế hoạch xây dựng Cố Cung. Nhưng có điều bất ngờ xảy ra, khi ông ta cho triệu họp các trung thần và đưa ra quyết định dời đô đến Thịnh Kinh (ngày nay là Thẩm Dương), rất nhiều thân vương và triều thần kịch liệt phản đối nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn quyết giữ ý kiến của mình. Về lý do Nỗ Nhĩ Cáp Xích dời đô tới Thẩm Dương, lịch sử đều ghi chép lại rằng: “Nỗ Nhĩ Cáp Xích đặc biết tin vào phong thủy. Thẩm Dương nằm bên bờ sông Hỗn Giang, thông với sông Liêu Hà, Liêu Hà chảy thẳng tới biển, nên về phong thủy đây được coi là vùng đất quý; hơn nữa nhìn vào các triều đại trước khi dựng đô, đều xem phong thủy là việc đặt lên hàng đầu”.
      Nỗ Nhĩ Cáp Xích đưa ra quyết định vào buổi sáng, đến buổi chiều lập tức lên kế hoạch cho việc dời đô, sau khi đến Thẩm Dương, ông liền bắt tay vào việc xây dựng Cố Cung. Mọi việc diễn ra hết sức cấp bách nên khiến càng trở nên khó hiểu hơn, và điều này cho tới tận ngày nay chúng ta vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Bây giờ chúng ta lại có giả thuyết khác về việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích dời đô, có lẽ Cố Cung chỉ là bức màn che của địa cung để cất giấu báu vật trong chiếc khóa tuyệt môn lục bát thuật phía sau cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập. Cho dù bên trong đó rốt cuộc cất giấu thứ gì, nhưng cánh cửa Thiên Tập lẫn khóa tuyệt môn lục bát thuật bị mở chứng tỏ điều vật đó hề tầm thường, và có liên quan trực tiếp tới việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích chống lại triều Minh. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đóng đô tại Thẩm Dương đến năm thứ hai, tức là năm 1626, thất bại trong trận đánh với Viên Sùng Hoan, ông bị trúng đạn pháo khi chiến đấu, do vết thương quá nặng thể chữa trị nên cuối cùng qua đời. Lúc bấy giờ có người khuyên Hoàng Thái Cực nên dừng việc xây Cố Cung lại, lí do là thời gian này, cuộc chiến với nhà Minh vẫn chưa chấm dứt, nếu tiếp tục xây dựng tiêu hao nhiều tiền của và sức lực binh sĩ. Nhưng Hoàng Thái Cực đồng ý và quyết tâm hoàn thành tâm nguyện của cha. Do đó, ông mặt tiếp tục cuộc chiến đấu với nhà Minh, mặt vẫn ngừng đẩy nhanh tiến độ xây dựng Cố Cung dang dở. Việc Hoàng Thái Cực mực thực di chúc của phụ thân càng chứng tỏ rằng vật phía dưới địa cung có mối quan hệ đặc biệt và vô cùng quan trọng tới quyền lực của triều Thanh, thậm chí còn có thể là bí mật kinh thiên động địa.
      Mặc dù, nay vẫn chưa thể đoán ra, nhà vua Thuận Trị mình xuống dưới Cung ngầm và bị giết hại, hay là cùng đoàn người hộ tống xuống rồi mới bị giết hại. Thế nhưng khi bị giết, chắc chắn là ông xuống Cung ngầm để tìm hoặc cố giữ bí mật của tổ tiên mình. Vật báu thực bị tráo đổi, nhưng nếu ta tiếp tục lần theo manh mối là chiếc đĩa sứ này, dần dần cũng tìm ra…
      đến đây, La Hoán Văn bỗng dưng đứng dậy, mắt nhìn thẳng về phía chúng tôi, giọng run run:
      - Các đồng chí, những bí mật của lịch sử bày ra trước mắt chúng ta. Tôi dành cả cuộc đời để nghiên cứu, còn may mắn trở thành giám đốc Viện bảo tàng Cố Cung, nếu như có thể giải đáp được bí mật quốc gia này, chỉ có tôi… mà tất cả các bạn, đều vào lịch sử.
      Ông thở dốc, hai tay chắp ra sau, liên tục qua lại trong phòng, rồi hướng đôi mắt như van nài về phía tôi, nhìn chớp mắt, giống như tôi chính là hung thủ sát hại vua Thuận Trị nên đương nhiên nắm tất cả những bí mật vậy.
      Mặc dù tôi hiểu biết nhiều về lịch sử, nhưng cũng vô cùng phấn khích, toàn thân nóng bừng lên. Cứ nghĩ đến việc mình có thể tìm ra bí mật quốc gia, trong lòng tôi lại trào lên cảm giác bồi hồi khó tả, hay cũng có thể là hưng phấn của tuổi trẻ bồng bột.
      Lão Ngũ cũng thở hắt ra rồi đứng lên, tuyên bố:
      - Mẹ kiếp, nếu như việc này thành công coi như lão già này cũng mở mày mở mặt. Được! Ta theo đến cùng. Hay đấy, hay đấy, hay đấy… - Lão Ngũ liên tục nhắc nhắc lại câu cửa miệng đến bảy tám lần, xem ra lão cũng vô cùng phấn khích.
      Trưởng phòng Tư, chị Giai Tuệ và La Hoán Văn ràng phải là vừa mới biết nhưng vẫn hết sức phấn chấn, Tôn Ngọc Dương cũng nắm chặt tay tôi, mặt mũi đỏ bừng. Mọi người đều dồn ánh mắt vào tôi, như thể chỉ chờ cái gật đầu của tôi nữa thôi.
      Tôi cũng suy nghĩ gì thêm, đứng bật dậy, rành rọt :
      - Cháu… đồng ý! Cháu là đoàn viên, lại rất muốn trở thành cảnh sát, cháu nhất định cống hiến cho đất nước.
      Sau này, khi nhớ lại cảnh tượng lúc bấy giờ, tôi mới thấy mình sao lại hồn nhiên ngây thơ đến thế, nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh và bầu khí đó, có lẽ ai cũng có tâm trạng giống như tôi.
      xong câu ngốc nghếch đó, tôi chợt nghĩ tới ông nội, liền thêm câu nữa:
      - Nhưng.. nhưng cháu còn phải tìm ông nội.
      La Hoán Văn gần như nghe thấy câu sau cùng, ông tiến tới nắm chặt lấy tay tôi, cảm kích :
      - Cháu , cảm ơn cháu, lịch sử nhất định quên cháu đâu.
      Chị Giai Tuệ tiến tới đặt tay lên eo tôi vỗ về, chị :
      - Lan Lan, em yên tâm, mọi người nhất định giúp em tìm ông nội.
      Mọi người vẫn tiếp tục phấn khích lúc lâu rồi mới chịu ngồi xuống bàn, cùng nhau bàn bạc tìm bước tiếp theo. Mặc dù các phân tích đều rất hùng hồn và ràng, thế nhưng bây giờ đến nguồn gốc của chiếc khay sứ cũng tìm thấy biết bước tiếp như thế nào đây?
      Lão Ngũ bỗng nhiên lên tiếng, thời gian còn lang bạt giang hồ lão cầm tay ít đồ gốm sứ quý hiếm, và có quen biết với người thợ sứ ở trấn Cảnh Đức, Giang Tây. Người này tên là Hứa Liên Tăng, nổi tiếng với những sản phảm sứ sắc sảo và có hồn, hơn nữa ông ta lại rất am hiểu gốm sứ, nếu như tìm được người này rất có thể có thêm nhiều phát mới về chiếc khay sứ. Chỉ có điều biết người này còn sống hay chết.
      Trưởng phòng Tư liền , vấn đề này rất đơn giản, chỉ cần dùng hệ thống điều tra của cảnh sát là có thể biết ngay. Chị Giai Tuệ lập tức mở laptop đăng nhập vào mạng công an nội bộ, rồi dựa vào độ tuổi của Hứa Liên Tăng mà Lão Ngũ cung cấp, chỉ trong nháy mắt, thông tin về những người đàn ông tên là Hứa Liên Tăng ra màn hình. Vừa mở tư liệu về người thứ nhất ra xem, Lão Ngũ lập tức vỗ đùi tuyên bố:
      - Khỏi tìm nữa, hóa ra tên trùng thối này vẫn chưa chết.
      Tôi chạy tới nhìn vào màn hình, đó là người đàn ông khoảng bảy mươi tuổi, mái tóc bạc phơ, khuôn mặt hồng hào, lông mày rậm rì rất đạo mạo. Bức ảnh chụp lúc người này mỉm cười, ánh mắt như ngầm với chúng tôi rằng:
      - Đến , đến , đến tìm ta là đúng người rồi…
      Bàn bạc thêm lúc nữa trời sắp sáng, do mọi người rất hào hứng nên ai thấy mệt mỏi mà chỉ thấy đói bụng. Phía dưới chưa có hàng quán nào mở, nên chúng tôi phải lái xe tới quán KFC gần đó để ăn sáng.
      Lúc đó, trong cửa hàng KFC chưa có bóng vị khách nào, nhân viên phục vụ nhìn thấy chúng tôi đoàn cả già lẫn trẻ cùng bước vào, cười tươi tỉnh, nên rất ngạc nhiên. Đặc biệt là La Hoán Văn, ông vừa vừa cười ầm, nên tôi đoán đám nhân viên chắc nghĩ chúng tôi bị thần kinh.
      Sau khi ăn sáng xong, mọi người tạm biệt nhau để Tôn Ngọc Dương đưa tôi và Lão Ngũ về ngôi biệt thự. Tôi nằm giường, thao thức mãi ngủ được, trong đầu chỉ chăm chăm nghĩ về bí mật kia. Tôi cũng ngừng nghĩ về ông nội, biết giờ này ông ở đâu, có phải ông cũng thoát được ra ngoài, nhưng tại sao lại liên lạc với tôi? Tôi cứ mơ mơ màng màng và chìm vào giấc mơ lúc nào hay.
      Đêm hôm đó, chị Giai Tuệ lại tới đưa chúng tôi đến Cục Cảnh sát. Trưởng phòng Tư với chúng tôi rằng, để tránh rò rỉ thông tin ra ngoài, từ giờ trở công việc tìm kiếm do chị Giai Tuệ, Lão Ngũ và tôi thực , Cục Cảnh sát cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Do từ Thẩm Dương tới trần Cảnh Đức có chuyến bay thẳng nên chúng tôi phải chuyển chặng ở Nam Xương. Quy định của hàng quốc gia cho phép mang theo súng lên máy bay nên chị Giai Tuệ phải liên lạc trước với công an tỉnh Giang Tây, để khi tới Nam Xương, chúng tôi nhận được trợ giúp kịp thời.
      Sau ba ngày làm công tác chuẩn bị, sáng sớm ngày thứ tư, Trưởng phòng Tư, La Hoán Văn, Trần Đường và Tôn Ngọc Dương và vài người khác đưa chúng tôi ra tận sân bay Đào Tiên ở Thẩm Dương, dặn dò kĩ lưỡng trước khi đưa chúng tôi vào phòng kiểm tra an ninh.
      Đó là lần đầu tiên tôi được máy bay, nhìn những đám mây trắng muốt trôi lững lờ sát ngoài cửa sổ, tôi hồi hộp vô cùng, chỉ sợ bị rơi xuống đất lúc nào biết. Lúc đầu, tôi dám rời khỏi chỗ ngồi, nhưng chỉ lúc sau, khi quen với mọi thứ tôi mới dám ngó nghiêng và khám phá mọi thứ xung quanh.
      Lão Ngũ cũng tò mò kém, lão nhìn chớp mắt những tiếp viên hàng , rồi lẩm bẩm mình:
      - Lão già này phải tu mấy kiếp mới được bay lên trời cùng các trẻ trung, xinh đẹp thế này. Hay đấy, hay đấy! - Rồi lão quay sang nhìn chị Giai Tuệ, gật gù rồi , - Giai Tuệ xinh đẹp như vậy, nếu làm nữ tiếp viên cũng được đấy!
      Tôi tò mò chen ngang:
      - Lão Ngũ, thế còn cháu?
      Lão Ngũ liền lắc lắc đầu và :
      - Mi thôi. Người lùn, mặt tròn phèn phẹt, trông chán chết!
      Thấy tôi có vẻ vui, chị Giai Tuệ liền vỗ vai tôi, an ủi:
      - Lan Lan lớn thêm mấy tuổi nữa, chắc chắn cũng rất xinh đẹp đấy.
      Nghe vậy, tôi cũng thấy vui lên phần nào.
      đến ba tiếng sau, chúng tôi tới sân bay Xương Bắc của thành phố Nam Xương, sau đó bắt taxi tới Cục Cảnh sát tỉnh Giang Tây tại số 133 đường Dương Minh. Đúng như lời chị Giai Tuệ , cảnh sát dù ở đâu cũng là , họ rất nhiệt tình, những đưa cho chị Giai Tuệ khẩu súng ngắn và chiếc xe Jeep, mà còn thu xếp cho chúng tôi nghỉ tại nhà khách của công an tỉnh.
      Cả đêm hôm đó ai với ai câu nào, cho tới ngày hôm sau, trời vừa sáng chúng tôi dậy trả phòng, và lái xe tới trấn Cảnh Đức.
      Đây là thành phố lớn lắm, lần theo địa chỉ của Hứa Liên Tăng, chúng tôi nhanh chóng tới trước cổng tứ hợp viện[1] với vẻ bề ngoài rất riêng. Vừa xuống xe, Lão Ngũ nhanh như chớp, lao thẳng tới trước cổng, gọi toáng lên:
      - Trùng thối! Mau ra đây ngay!
      [1] dạng nhà cổ của người Trung Quốc.
      Chỉ lúc sau, từ trong nhà bước ra ông cụ tóc bạc phơ, thân hình cao to, đó đích thị là “Trùng thối” Hứa Liên Tăng mà Lão Ngũ vẫn gọi, người này vừa bước vừa lẩm bẩm:
      - Đứa nào đấy? - Ngẩng đầu lên thấy Lão Ngũ, thoạt đầu ông ngớ người trong giây lát, sau đó mới nhanh chân bước tới mở cổng, miệng liến thoắng. - Mẹ mày chứ, vẫn chưa chết à? - Rồi bắn thêm tràng dài tiếng Giang Tây khiến chúng tôi ù hết cả tai.
      Lão Ngũ rảo bước tới trước, đấm lên vai Hứa Liên Tăng cái rồi :
      - Mẹ cái thằng này, rủa thế chứ rủa nữa ta đây cũng chết được đâu.
      rồi, hai người ôm chầm lấy nhau cười lớn, khiến bầu khí trở nên vô cùng rôm rả.
      Lúc sau, Hứa Liên Tăng quay sang giải bày với chúng tôi, thấy bên ngoài có người gọi “trùng thối”, ta biết ngay là người quen, nhưng ngờ rằng lại là tên Hắc còi này, rồi ông hỏi Lão Ngũ tại sao lâu lắm nghe thấy động tĩnh gì, có phải bị người ta tóm, giữ tay còng chân rồi ?
      Lão Ngũ cười phá lên, cũng giải thích gì thêm, chỉ rằng chuyện dài thể sớm chiều kể hết được.
      Vừa bước vào trong nhà, tôi thấy nóng bức ngột ngạt vô cùng, giống như trong cái lò hơi, biết vì sao lại như vậy nhưng vì phép lịch , tôi đành nín nhịn thắc mắc vào lòng. Lão Ngũ sau khi giới thiệu mọi người với nhau, thẳng vào vấn đề, thà mục đích chuyến viếng thăm lần này. Nghe đến đồ sứ quý hiếm, Hứa Liên Tăng lập tức hào hứng hẳn lên, bắt chúng tôi phải lấy ngay chiếc khay đó ra.
      Chị Giai Tuệ đặt balô xuống, cẩn thận lôi chiếc khay ra, bỏ lớp vải bọc bên ngoài rồi mới nhàng đặt nó lên mặt bàn.
      Hứa Liên Tăng vừa nhìn thấy chiếc khay thất vọng :
      - Đây phải là đồ sứ Thanh Hoa thời Khang Hy, nhưng khoan , hình như có điều gì đó rất kì lạ ở đây!
      Sau khi cầm chiếc đĩa trong tay, sắc mặt ông lập tức thay đổi, đăm chiêu suy nghĩ rồi lại say sưa cúi xuống ngắm nhìn và mân mê bức tranh sơn thủy trong lòng đĩa. Khi nhìn thấy dòng chữ “Mặc Văn đường tạo” dưới đế, hai tay ông run run, mắt mở to, tròn xoe, gần như dán chặt vào chiếc khay, khó nhọc nuốt nước bọt, rồi mới ngẩng đầu lên, giọng đầy vẻ kích động:
      - Tuyệt vời, hết sức hoàn hảo! Mọi người biết đây là cái gì ? Đây chính là Điệp trong Điệp. Cả đời theo nghề gốm sứ, đây là lần đầu tiên tôi được tận tay cầm vật quý hiếm như thế này đấy! - Với lời khẳng định chắc nịch của Hứa Liên Tăng, tôi chắc chắn ông biết rất nguồn gốc chiếc khay sứ này.
      Quả đúng như thế, sau hồi xoay ngang xoay dọc chiếc khay sứ để quan sát, Hứa Liên Tăng vui vẻ giải thích cho chúng tôi:
      - Điệp trong Điệp chính là loại sứ lồng sứ, tức là các lớp sứ được chồng lên nhau cách khéo léo, tinh xảo. Xuất từ thời nhà Minh, để sản xuất được loại sứ này đòi hỏi nghệ thuật rất phức tạp, cầu cực kì khắt khe; hơn nữa do kỹ thuật này sớm bị mai , nên những sản phẩm sứ lồng sứ còn lại đều được xem là quốc bảo hiếm có. Bản thân tôi cả đời sống với nghề gốm sứ, có thể được coi là có chút tiếng tăm trong nghề, nhưng cũng chỉ nhìn thấy tận mắt quá ba báu vật loại này, trong đó, cái là chiếc lọ vạn niên từ thời nhà Minh, cái là chiếc độc bình thời Sùng Trinh, cái thứ ba là Tam thể nhân tượng thời Khang Hy.
      Chưa để cho Hứa Liên Tăng hết, Lão Ngũ bực bội chen ngang:
      - Mẹ kiếp, chưa già lẩn thẩn, toàn lảm nhảm cái gì đâu đâu, mau xem rốt cuộc nó là gì.
      Hứa Liên Tăng cười ha hả:
      - Cái lão khỉ đột này, lúc nào cũng sồn sồn lên, để ta cho các người xem bảo bối. - rồi, lão quay người, nhấc vài viên gạch đặt bên cạnh bục sưởi dưới kháng lên, thò tay vào trong rồi lấy ra cái hộp gỗ vuông vức màu vàng đậm, to gần bằng chiếc hộp đựng giầy.
      ra lò sưởi vẫn đốt lửa, thảo nào trong phòng nóng hừng hực, ông già này giữa mùa hè mà còn đốt lò sưởi, xem ra cũng bình thường chút nào. Thế nhưng, tôi lại nghĩ đến chiếc hộp gỗ màu đỏ mà ông nội trao cho tôi, hồi đó nó cũng được ông giấu bên trong chiếc kháng, xem ra tất cả những người già đều có chung thói quen là nhét tất cả những đồ quý hiếm ở ngay dưới chỗ mình nằm. Nhắc đến chiếc hộp, tôi mới nhớ ra, với khả năng tại, tôi chắc có thể mở được nó, đợi khi trở về tôi nhất định phải mở ra để xem ông nội cất bảo bối gì trong đó mới được.
      Hứa Liên Tăng đặt chiếc hộp lên mặt bàn, rồi nhấc nắp ra, quả nhiên đó là chiếc hộp trơn chạm khắc hay khảm đính thứ gì, chỉ là hai mảnh gỗ úp lại với nhau. Bên trong hộp phủ lớp vải nhung đỏ, bên đặt chiếc đĩa sứ, viền ngoài màu vàng, mép đĩa hơi uốn lượn giống như bông hoa cúc. Phía dưới đế là màu trắng, lòng đĩa vẽ bốn mĩ nhân thời cổ đại rất xinh đẹp, màu sắc sống động, từ ánh mắt đến cơ thể đều toát lên vẻ quyến rũ, giống y hệt người , thậm chí đứng ngoài cùng bên trái có nét mặt gần giống với chị Giai Tuệ.
      Hứa Liên Tăng cẩn thận nhấc chiếc đĩa ra, rồi vừa nâng niu nó tay vừa kể rằng chiếc đĩa này gọi là Dương Ám Bình Phanh Hoa Khẩu Ngũ Sắc Mĩ Nữ. Cái tên vừa dài vừa khó hiểu, ngoài từ “mĩ nữ” ra, những từ khác tôi biết nó mang ý nghĩa gì.
      Chị Giai Tuệ liền tò mò hỏi lại:
      - Tại sao ông lại phải cất chiếc đĩa vào trong lò sưởi ạ?
      Hứa Liên Tăng lim dim mắt giải thích: Đồ sứ về bản chất là đất sét do nung qua lửa mà thành, dựa vào nguyên lí tương sinh trong ngũ hành là hỏa sinh thổ, nên tất cả những đồ sứ quý hiếm luôn phải được nuôi dưỡng trong môi trường nhiệt độ cao, như vậy mới có thể kéo dài tuổi thọ và giữ nó toàn vẹn như mới. Thậm chí đến chiếc hộp này cũng phải làm bằng gỗ tùng, vì đồ sứ quý hiếm ngày xưa thường được nung bằng loại gỗ tùng núi mới giữ được nhiệt cao. Tôi ngỡ ngàng lắng nghe, xem ra làm đồ sứ cũng thực rất cầu kì.
      Hứa Liên Tăng cầm chiếc đĩa Dương Ám Bình Phanh Hoa Khẩu Ngũ Sắc Mĩ Nữ trong tay, tiếp tục giải thích:
      - Kỹ thuật nung gốm sứ thời nhà Thanh đạt tới phát triển vượt bậc, do kế thừa kĩ thuật tinh xảo từ thời nhà Minh, kết hợp với tiến bộ ngừng nghỉ, những nghệ nhân lúc bấy giờ sáng tạo ra loại sứ ghép và sứ lồng. Chiếc đĩa tôi cầm chỉ là ví dụ của loại sứ ghép. Đầu tiên là trải qua bốn công đoạn nung khác nhau để nung thành hình bốn , sau đó mới khéo léo vẽ màu sắc lên đó, rồi ghép lên mặt đĩa và cuối cùng nung lại lần nữa để trở thành tác phẩm hoàn chỉnh. Trong đó phải sử dụng thành thạo những kĩ thuật vẽ tay như dương, sáng tối; kĩ thuật nung gồm có bình, lập, tạp, xuyến… Vì vậy mới gọi là Dương Bình Phanh. Bốn trong lòng đĩa chính là tứ đại mĩ nhân của Trung Quốc, từ trái qua phải lần lượt là: Điêu Thuyền, Tây Thi, Vương Chiêu Quân và Dương Ngọc Hoàn (Dương Quý Phi).
      Tôi nghĩ thầm trong bụng, ra trông chị Giai Tuệ rất giống Điêu Thuyền, đúng là mĩ nhân.
      Hứa Liên Tăng say sưa kể, vật chúng tôi mang đến gọi là khay, mà gọi là đĩa, tất cả những khay tròn hạng cao cấp đều thống nhất gọi là đĩa; hơn nữa đây còn là điển hình của loại sứ lồng. Loại này lại có quy trình ngược lại với loại sứ ghép, đầu tiên là nung hoàn thiện phần đáy, sau đó mới tạo hình sơn thủy bên , rồi tiếp tục nung phủ thêm lớp vỏ bên ngoài. Do lớp sứ phủ bên ngoài cực kì mỏng và trong suốt, nên ta có thể nhìn thấy bức tranh sơn thủy phía dưới, nên mới gọi là Dương Minh Gian Sáo Thanh Hoa Sơn Thủy Hoa Khẩu Điệp.
      Nhắc đến kỹ thuật lồng sứ, Hứa Liên Tăng còn thêm, sau khi đồ sứ thành hình, phần kỹ thuật phủ lớp vỏ ngoài vô cùng khó, nhưng khi phủ thành công các lớp men dính kết lại với nhau vĩnh viễn, cho nên vào thời nhà Minh, trong phương ngữ của Bắc Kinh có câu “chưa quen dần dần trở nên khăng khít như sứ lồng” và nguồn gốc chính là từ đây ra.
      Tôi ngỡ ngàng, lẽ nào những kỹ thuật nung gốm sứ tinh xảo và thần kỳ như thế từ thời cổ đại có rồi sao? Vậy tại sao từ trước đến nay tôi chưa từng được nghe đến?
      Thấy chúng tôi ngơ ngác và liên tục đặt câu hỏi, Hứa Liên Tăng ngửa cổ cười sảng khoái, rồi :
      - Đây đều là những bí mật trong nghề, người ngoài làm sao có thể biết được. - Ông khẽ quay người sang, đầu ngón tay miết lên dòng chữ “Mặc Văn đường tạo”, đầu liên tục gật gù, rồi xúc động thốt lên. - Cuối cùng cũng có người mang nó đến cho ta thưởng thức, quả là Mặc Văn đích thực!
      Hứa Liên Tăng như vậy chứng tỏ ông rất am hiểu ý nghĩ của bốn chữ “Mặc Văn đường tạo”. Điều đó khiến chúng tôi càng thấy tò mò hơn, chị Giai Tuệ cũng sốt ruột liên tục đặt câu hỏi.
      Hứa Liên Tăng cũng giấu giếm gì, ông từ tốn kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện đậm màu sắc liêu trai. ngờ, bốn chữ “Mặc Văn đường tạo” lại cất giữ trong nó loại hình nghệ thuật thần bí cổ xưa đến như thế. Và cũng ngờ rằng, nhờ bốn chữ này mà tôi được gặp trẻ rất xuất chúng, chúng tôi cùng nhau tìm ra những bí mật kinh thiên động địa về sau này.
      Hứa Liên Tăng chậm rãi lần đầu ngón tay khắp mặt đĩa, nháy mắt rồi tiết lộ với chúng tôi bí mật kì lạ:
      - Mọi người biết đấy thôi, lớp bên trong chính là hình xăm đấy!
      Hình xăm?! Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình nghe nhầm, vội quay sang bên phía chị Giai Tuệ và Lão Ngũ, khuôn mặt hai người cũng hết sức bất ngờ.
      Hứa Liên Tăng như sợ mọi người chưa hiểu, liền dùng động tác vẽ tay lên người, cố gắng với giọng điệu nghiêm túc hơn:
      - Hình xăm, là hình xăm, mọi người có biết ?
      Thấy thần sắc và dáng vẻ của ông, tôi lờ mờ hiểu ra, bên trong chiếc đĩa xíu kia, chắc chắn có đặt mảnh da người, nếu sao lại gọi là hình xăm. Tưởng tượng ra cảnh da thịt người được cấy vào chiếc đĩa, tôi thấy rùng cả mình, vậy ai đặt mảnh da người đó vào đây?
      Lão Ngũ lắc đầu ra chiều tin rồi chửi thề câu:
      - Trùng thối, mi lẩn thẩn rồi hả? năng phải nghĩ chứ? Mẹ kiếp!
      Chị Giai Tuệ cũng chau mày hỏi lại:
      - Lão tiền bối, cháu vẫn chưa hiểu lắm, tại sao trong đĩa sứ lại có cả da người?
      Hứa Liên Tăng cười khoái chí, ông xua tay, :
      - Đừng nóng, đừng nóng, nó chính là kỹ thuật khắc hình đấy! - Rồi ông kể, cũng giống như những người phái Đạo môn hay như những cao nhân mở khóa phái Kiện môn, những người chuyên xăm hình trong giới giang hồ cũng có phái riêng gọi là Mặc môn, hay còn gọi là Văn môn. Trong đó, kỹ thuật cao nhất trong Mặc môn là trổ hình, nghệ thuật này chỉ xăm hình cơ thể con người, mà còn có thể xăm lên cả bề mặt của đồ vật. Trước đây người ta gọi là trổ hình, nhưng sau này người ta lại đổi thành khắc hình. Qua những phán đoán của ông, bức tranh phong cảnh sơn thủy trong lòng đĩa áp dụng nghệ thuật tinh xảo nhất của Mặc môn chính là thuật khắc hình. Đặc biệt là với bốn chữ ở mặt sau “Mặc Văn đường tạo”, chắc chắn điều này thể nhầm được.
      Tôi nghe mà thấy hỗn độn khó hiểu. Xăm trổ tôi có thấy, nhưng dám tin đời này lại có loại nghệ thuật xăm hình đồ gốm sứ.
      Lão Ngũ xoắn xít mấy sợi râu dưới cằm, rồi hoài nghi :
      - Mẹ kiếp, Mặc Văn! Ta đây cả đời tung hoành trong giới giang hồ tại sao cũng chưa lần nào nghe thấy? Chuyện này mà đúng, ta tính sổ với mi đấy!
      Hứa Liên Tăng thèm đáp lại lời đe dọa trẻ con của Lão Ngũ mà vẫn từ tốn kể tiếp, Mặc môn cũng chia làm hai phái lớn ở hai miền Bắc Nam là Nam Từ và Bắc Đường. Do đặc thù và kỹ thuật khác nhau, vì đa phần người của giới Mặc môn đều là họa sĩ hoặc thư pháp gia có tiếng tăm, lại thêm việc bị các phe phái khác đe dọa vì thời bấy giờ việc xăm trổ vẫn bị coi là kiêng kị, nên rất ít người trong giới giang hồ biết đến. Cuối thời nhà Thanh, nghe nghệ nhân tay nghề lão luyện tên là Đường Vũ Lâm, xăm hình gì cũng sống động như . Lúc bấy giờ, tri huyện Cảnh Đức trấn muốn tặng nhà vua món quà, nên đích thân nhờ Đường Vũ Lâm làm chiếc ly khắc hình đôi rồng uốn lượn. Hình ảnh hai con rồng màu xanh đậm dưới đáy chiếc ly sứ trắng, nếu đặt dưới ánh trăng rằm, quả chẳng khác nào đôi rồng vờn nhau. Chính vì thế nó được coi là tuyệt tác của mọi tuyệt tác và luôn được cất giữ cẩn thận ở vườn Nguyên Minh. Sau này liên quân Pháp đổ bộ vào Bắc Kinh và đốt hết khu vườn này, chiếc ly quý cũng bị chúng lấy mất đem về Hồ Lô cung tại Pháp.
      Nghe tới đây, chị Giai Tuệ bỗng cười khúc khích:
      - Là Lô Phù cung[2] chứ ạ.
      [2] Phiên tên cung điện Louvre của Pháp.
      Hứa Liên Tăng gật gật đầu, vừa xoa cằm vừa tiếp tục :
      - Gì cũng bị bọn Pháp cướp mất rồi, giờ thấy tin tức gì về nó nữa. đáng tiếc!
      Mặc dù tôi hiểu “Hồ Lô cung” và “Lô Phù cung” khác nhau ở điểm gì, nhưng bây giờ tôi biết bức tranh sơn thủy này là được xăm trong đáy đĩa chứ phải vẽ tay như bình thường. Nhìn kĩ lại hơn cũng thần kì, bề mặt đĩa trơn nhẵn như vậy mà hề có vết xước, chẳng lẽ những hình xăm đó lại được khắc từ bên trong? Lại còn thêm chuyện Mặc môn cũng được phân thành hai dòng Nam Bắc, xem ra lịch sử môn phái này cũng khác gì Kiện môn chúng tôi.
      Hứa Liên Tăng tiếp, dù là sứ lồng, nhưng hai lớp trong và lớp ngoài đều được nung lần lượt từng phần riêng biệt, bức tranh phong cảnh này có lẽ là được khắc ở lớp trong, nếu như tách được lớp ngoài ra, chắc chắn biết được rất nhiều bí mật khác. Chị Giai Tuệ liền gặng hỏi xem có cách nào để tách chúng ra ?
      Ông già họ Hứa suy nghĩ lúc rồi rút từ ngực áo ra vật mỏng dẹt màu trắng, rất giống mũi dao, trịnh trọng :
      - Đây là chiếc dao sứ được làm từ bạc trắng và đất sét, dùng gỗ bồ đề để nung nung lại vài lần mới được, đây là vật dụng bắt buộc phải có của thợ sứ. Phàm những vật cao cấp và quý hiếm như chiếc đĩa sứ này nhất định phải dùng vật dụng có thuộc tính tương đồng mới có thể phán đoán và tìm hiểu ngọn nguồn bên trong, thế nên người trong nghề mới có câu “dùng gốm sửa gốm, dùng sứ thử sứ”. Chiếc dao sứ này là do tổ tiên ta để lại, cũng thuộc loại bảo bối vô giá nên có lẽ bì được với chiếc đĩa này.
      Tôi tò mò đưa tay sờ thử lưỡi dao sứ, cảm thấy vô cùng mát lạnh, trơn mịn; lưỡi dao mỏng tang, nhưng lại dễ làm đứt tay.
      Hứa Liên Tăng nhấc chiếc đĩa lên, dùng chiếc dao sứ cào nhàng. Những tiếng lạo xạo liên tục phát ra từ lòng đĩa, đế đĩa, cho đến cả viền đĩa cánh hoa. Bỗng nhiên, ông dừng tay rồi khẽ cười, ngón tay út chỉ vào mép giữa hai viền cánh hoa:
      - Đây rồi, đây rồi, mắt khí đây rồi!
      ra, mặc dù kỹ thuật sứ lồng tinh tế và sắc sảo như thế nữa nhưng khi hai lớp sứ ép lại với nhau, rất khó tránh khỏi những bọt khí li ti; cho nên đồ sứ loại này bắt buộc phải có mắt khí, rồi dùng sức lửa dồn hết bọt khí ra ngoài hai lớp sứ mới hoàn toàn dính chặt vào nhau tạo thành sản phẩm hoàn mĩ.
      Hứa Liên Tăng dựng đứng chiếc đĩa lên, dùng mũi dao xuyên thẳng vào vị trí mắt khí, lớp bột sứ mịn ngừng rơi ra. Sau chừng ba đến năm phút, liền có tiếng “cách” khe khẽ, mũi dao khoét được lỗ bằng hạt vừng đúng tại vị trí mắt khí. Ông già bỗng cười vang, rồi đưa chiếc đĩa sứ cho chúng tôi:
      - Việc của ta đến đây là xong, tiếp theo như thế nào là tùy vào mọi người đấy.
      Lão Ngũ đưa tay nhận lại chiếc đĩa, nheo mắt nhìn vào bên trong mắt khí lát, sau đó cáu kỉnh chuyển cho tôi:
      - Mẹ kiếp, tối thui thế này nhìn thấy gì. Lan Lan, mi thử nhìn xem!
      Quả mắt khí quá , hơn nữa lại trong suốt nên ánh sáng vào được, ngó nghiêng mãi cũng vẫn là khoảng tối đen như mực. Tôi dừng lại suy nghĩ lúc rồi bước tới bên cửa sổ, đeo chiếc kính lúp chuyên dụng vào bên mắt, sau đó đặt mảnh bạc trắng ở góc độ hợp lí nhất để lấy ánh sáng phản chiếu vào bên trong mắt khí.
      Vừa ghé mắt nhìn vào mắt khí, tôi giật mình kêu lên đầy kinh ngạc, hóa ra trong đó khác gì chiếc khóa đĩa siêu cả.
      Ánh sáng khuếch tán với cường độ mạnh khiến lòng đĩa sáng bừng lên, giúp tôi nhìn thấy nét từng vòng móc, bánh răng hay ốc vít… nhưng chúng phải làm bằng kim loại thường thấy, mà hoàn toàn là sứ, ăn khớp với nhau, và được sắp xếp vô cùng tinh vi, giống hệt mê cung huyền bí. thể ngờ được rằng người ta lại có thể tạo ra được tầng khóa phức tạp đến thế trong mắt khí của chiếc đĩa sứ, loại hình sáng tạo này thực tôi chưa từng biết đến.
      Chị Giai Tuệ trong lúc chờ đợi tôi, liên tục qua lại phấn khích cách khác thường, Lão Ngũ còn tỏ ra rối trí hơn, lão cứ vân vê cằm và lẩm bẩm mình:
      - Mở ra, mở ra, mau mở ra… bên trong đó nhất định có bảo bối. Hay, hay đấy!
      Tôi cầm chiếc đĩa, loay hoay lúc mà vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt của chiếc khóa. Ông nội tôi từng dạy rằng, nếu như toàn bộ ổ khóa cùng dùng chất liệu đồng nhất người ta gọi đó là khóa nhất khí. Chiếc đĩa sứ này được nung từ đất nên phải áp dụng nguyên lí ngũ hành tương khắc mới mở được. Lúc ở dưới địa cung, tôi từng dùng trâm Quý Phi để mở chiếc khóa Bá Vương có cấu tạo tương tự như vậy, nhưng cái khóa này lại nằm gọn trong mắt khí chỉ to bằng hạt vừng còn trâm Quý Phi lại quá to so với nó, tôi biết làm thế nào đây?
      Thấy tôi vậy, Lão Ngũ bèn đập mạnh vào tay ông bạn già Hứa Liên Tăng, ra lệnh:
      - Trùng thối, dùng dao tách hẳn chúng ra cho ta.
      Tôi lập tức lắc đầu phản đối, bởi cái khóa siêu bé đó có cấu tạo từ bốn mươi lăm sợi dây sứ mảnh chăng qua những vòng móc, cứ chín sợi lại xâu thành cụm, tổng cộng cái khóa có năm cụm tất cả, với ý nghĩa “Cửu cung tung hoành, ngũ lôi thiên phạt”. Nếu như cố dùng ngoại lực tác động để phá khóa những sợi dây kia lập tức co rút lại và tự động phá vỡ kết cấu bên trong lõi đĩa.
      trong lúc hoang mang, tôi chợt thấy chiếc dao sứ của Hứa Liên Tăng đặt mặt bàn, ý nghĩ vụt qua đầu, theo như lời ông già ấy vừa , dùng sứ thử sứ, nếu như áp dụng nguyên tắc này
      Cát bay! Tôi lập tức nghĩ tới thứ bảo bối bé ấy. Cát bay và đất sét cùng thuộc hành Thổ, hơn nữa nó lại rất , nên có thể chui qua lỗ khí kia và tự do chuyển động ở bên trong, nếu như kết hợp thêm sợi dây da lừa việc mở khóa phải là thể làm được.
      Tôi kể tóm tắt ý tưởng của mình cho mọi người nghe, rồi lập tức lấy hạt cát bay nằm gọn trong lỗ sẹo ở lòng bàn tay ra, nhàng nhét nó vào lỗ khí. Tiếp theo đó, tôi lấy ra sợi dây da lừa ngắn và mảnh, đầu nhét vào lỗ sẹo, đầu còn lại gắn chặt vào hạt cát bay. Tôi khẽ khàng xòe bàn tay ra, từ từ ấn sợi dây để đẩy hạt cát vào sâu bên trong.
      Từ cảm nhận truyền qua khớp xương, tôi phát ra bên trong là lõi khóa hình tròn, với bốn mươi lăm sợi dây cuốn quanh tạo thành mạng lưới, nên phải hết sức thận trọng khi thao tác. Tôi lắc sợi dây da lừa, khiến hạt cát chuyển động cọ xát lên sợi dây sứ.
      Hạt cát ngừng chuyển động sang phải sang trái rồi tăng tốc vun vút, di chuyển được mấy nghìn vòng, chỉ nghe có tiếng lách cách ngừng phát ra. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy đầu ngón tay khẽ rung , từ trong lòng đĩa cũng vọng ra thanh khá lớn, có thể là do các bộ phận bên trong bắt đầu thay đổi.
      Thực tình trong lòng cũng có chút hoang mang nên tôi dám cầm chiếc đĩa tay nữa, mà đặt nó ngay ngắn xuống mặt bàn. Những thanh kì lạ vẫn ngừng phát ra, chiếc đĩa sứ lúc này giống như vật sống, mặc dù chuyển động lắm, nhưng vẫn gõ xuống mặt bàn côm cốp.
      - Mẹ kiếp, phải là nó sắp nổ đấy chứ? - Lão Ngũ lẩm bẩm mình rồi lập tức kéo tôi và chị Giai Tuệ lùi ra sau vài bước. Chúng tôi ai nấy đều rất căng thẳng, mở to mắt nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa sứ.
      Khoảng vài chục giây sau, chiếc đĩa bỗng dưng dừng lại, rồi ngay sau đó bề mặt đĩa lập tức xuất những đường ngang dọc chằng chịt như được phủ bằng lớp mạng nhện. Những đường vân nhanh chóng tách ra, trông chúng hơi giống thủy tinh bị vỡ vụn.
      Lão Ngũ bước tới gần, phủi sạch những mảnh vụn, rồi nhấc lên mảnh sứ tròn ở giữa lòng đĩa lên, bức tranh sơn thủy đúng là được khắc ở lớp bên trong. Lão đưa lên nhìn kĩ hơn, lật qua lật lại hồi rồi :
      - Mẹ kiếp, chẳng có gì ở đây cả. Hay đấy, hay đấy!
      Mấy người chúng tôi loay hoay hồi lâu mà vẫn tìm ra ý nghĩa của nó, đến cả người sành đồ sứ như Hứa Liên Tăng cũng phải lắc đầu chào thua. Vậy bên trong này chứa đựng bí mật gì? Có lẽ phải tìm đến người của Mặc môn mới biết được điều này.
      Chị Giai Tuệ quan sát lúc lâu rồi lên tiếng phán đoán:
      - Đế đĩa sứ có khắc chữ “Tạo”, ràng là cố tình phạm húy hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích, nhưng phần lòng đĩa lại khắc tranh sơn thủy, trong động dưới lòng địa cung lại có kênh Thiết Trân, hơn nữa vua Thuận Trị lại bị sợi dây da lừa xiết cổ, hay là…
      Lão Ngũ vỗ mạnh vào đùi, cất giọng sang sảng tiếp lời:
      - cần nữa, ta hiểu rồi! Người phái Đạo môn đào kênh Thiết Trân, người phái Kiện môn xiết cổ nhà vua, Văn thân đánh tráo bảo bối trong hộp khóa tuyệt môn lục bát thuật. Xem ra chúng tụ thành bang hòng tạo phản… - Dừng lại lúc, lão đột ngột đứng phắt dậy, quay về phía chị Giai Tuệ rồi chắp hai tay trước ngực, vừa vừa cười khoái chí, - Giai Tuệ à, tam môn phái Đạo môn, Kiện môn và Mặc môn chúng ta hợp sức đánh bại tổ tiên của mi, lại còn lấy cắp quốc bảo nữa chứ. Lão già này thay mặt tổ tiên tạ lễ với mi. Ha ha ha… Hay đấy, hay đấy!
      Lão Ngũ ràng là đùa chị Giai Tuệ nên chị cũng chỉ vui vẻ cười theo, nhưng mắt vẫn nhìn xoáy vào chiếc đĩa sứ, đôi mày hơi chau lại như suy nghĩ mông lung điều gì đó.
      Chuyến đến trấn Cảnh Đức tuy chưa tìm ra bí mật của chiếc đĩa sứ, nhưng dù sao chúng tôi cũng nắm trong tay những thông tin cần thiết để tiếp tục lần theo dấu vết. Chúng tôi nghỉ lại nhà “Trùng thối” Hứa Liên Tăng đêm hôm đó, đến sáng sớm hôm sau, lập tức trở về Nam Xương. Chị Giai Tuệ hoàn lại súng và xe cho Sở cảnh sát rồi muốn mất thêm thời gian, ngay chiều hôm đó chúng tôi đáp chuyến bay sớm nhất trở về Thẩm Dương.
      Trưởng phòng Tư và mọi người đợi sẵn chúng tôi tại phòng, ông hỏi han chúng tôi vài câu rồi kéo chị Giai Tuệ tới thầm to gì đó. Tôi quan sát thấy chị ngừng gật gật đầu, sắc mặt hết sức nghiêm trọng. Trong bụng có chút tò mò, nhưng tôi tiện hỏi giữa lúc đông người. Sau đó Tôn Ngọc Dương đưa tôi và Lão Ngũ trở về căn biệt thự kia, Trưởng phòng Tư và chị Giai Tuệ gấp gáp ra .
      Chiều hôm sau, chị Giai Tuệ tới tìm chúng tôi, rằng theo quyết định của cấp , tôi tới học tại Học viện Cảnh sát Yên Sơn.
      Tôi khỏi ngỡ ngàng, phải tôi là trường hợp được đặc cách hay sao, vì sao vẫn phải học? Tôi ngập ngừng hỏi lại chị:
      - Em học đâu, có phải mọi người cần em nữa, đúng ?
      Lão Ngũ cũng chêm vào:
      - Mẹ kiếp, đây có phải là cuộc thi tìm kiến tài năng đâu, việc gì phải phức tạp hóa thế?
      Chị Giai Tuệ mỉm cười trấn an tôi và rằng, nay theo quy định hành của luật công nhân viên chức bắt buộc phải thi tuyển, dù tôi có là trường hợp được đặc cách chăng nữa cũng phải tới Học viện Cảnh sát để tham gia huấn luyện, học hỏi những kiến thức và nghiệp vụ mới, như vậy sau này mới trở thành cảnh sát giỏi được. Hơn nữa, hôm qua Trưởng phòng Tư cũng với chị rằng, tại Thiết Lĩnh vụ trọng án, nên cấp cử chị lập tức tới đó tiến hành điều tra. Còn chuyện về Cố Cung, tạm thời dừng lại thời gian, vì trước mắt cũng phải tìm người của phái Mặc môn mới được bí mật giấu trong lòng đĩa sứ.
      Tôi biết nhiều về Thiết Lĩnh, chỉ biết rằng đó là quê hương của Triệu Bổn Sơn[3], và là thành phố tương đối lớn thuộc tỉnh Liêu Ninh. Khi đó, tôi cũng hiểu ở đó xảy ra vụ án gì, mãi về sau tôi mới biết, ở Thiết Lĩnh xảy ra vụ bê bối rất lớn, rất nhiều người dính líu đến đường dây vụ án, thế nhưng giờ những chuyện đó vào dĩ vãng.
      [3] Tên đạo diễn kiêm diễn viên hài nổi tiếng của Trung Quốc.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 15: Thanh Nham Thánh cảnh





      Trong thời gian chị Giai Tuệ Thiết Lĩnh phá án, tôi phải tới Học viện Cảnh sát Yên Sơn học, Lão Ngũ được mãn hạn tù, nên lão vẫn ở lại ngôi biệt thự để đợi hai chị em tôi trở về. Nghĩ đến việc phải chia tay hai người ấy, tôi thấy lưu luyến vô cùng, nhưng cũng thể làm khác được.
      Dưới thu xếp của Cục Cảnh sát tỉnh Liêu Ninh, tôi được chuyển thẳng tới Học viện Yên Sơn để tham gia lớp đào tạo cảnh sát. Năm 2009, cả hệ thống cảnh sát tỉnh chỉ tuyển có ba trăm hai mươi sáu học viên, và tôi là trường hợp duy nhất được tuyển thẳng phải thi. Bao nhiêu năm học, giờ quay lại với việc học hành khiến tôi có cảm giác rất mới mẻ, nhưng chỉ trong thời gian đầu thôi chứ nếu kéo dài mãi cũng ngán ngẩm. Ngày nào cũng thế, lên lớp lại ra thao trường, cứ nhìn thấy mấy quyển sách luật dày cộp là tôi lại thấy mắt díp cả lại, nhưng nghĩ đến lời dặn dò của chị Giai Tuệ tôi lại cắn răng ôn luyện. Có duy nhất điều khiến tôi thích thú là chiều thứ năm hàng tuần, chúng tôi đều được tập bắn súng. Ước mơ trở thành nữ cảnh sát oai hùng như chị Giai Tuệ khiến tôi càng có thêm động lực để dồn sức cho bộ môn này, vì vậy tôi thường xuyên đạt điểm cao nhất trong môn bắn súng.
      Thời gian ở trong học viện, tôi cũng kết bạn với vài người, khi biết tôi được đặc cách tuyển thẳng, thậm chí còn có sẵn vị trí trong Cục Cảnh sát tỉnh, họ đều tỏ ra ngưỡng mộ và ghen tị, thường xuyên thầm sau lưng tôi là con ông nọ bà kia chạy vào trường. Thấy vậy, tôi cũng chẳng thèm giải thích, vì dù sao lương tâm tôi trong sạch, lại có cống hiến to lớn cho đất nước.
      Tháng Mười năm đó, tôi tốt nghiệp học viện cảnh sát cách thuận lợi, rồi được điều về công tác tại phòng cảnh sát điều tra và nhận luôn hàm bậc ba với số hiệu là 664623. Mặc người bộ cảnh phục, tôi đưa tay mân mê chiếc huy hiệu sáng lấp lánh, lòng chợt se lại, nếu như ông được nhìn thấy tôi trong bộ cảnh phục này, ông hạnh phúc biết nhường nào. Nhưng giờ này ông ở đâu?
      lâu sau đó, chị Giai Tuệ từ Thiết Lĩnh trở về, người gầy rộc trông thấy, nhưng đôi mắt vẫn hừng hực khí thế. Tôi sốt ruột hỏi chị ở đó xảy ra vụ án gì, nhưng chị chỉ cười và rằng đó là vụ án vô cùng phức tạp, nay vẫn trong quá trình điều tra nước rút, nhưng nhiệm vụ của chị hoàn thành nên được về trước. Sau đó chị đưa tôi lấy chiếc hộp càn khôn gửi ở ngân hàng năm về trước.
      Tôi ôm chặt chiếc hộp trong lòng, nhớ như in những lời dặn dò của ông nội, sau này tôi có đạt được cấp Thiên giới hay còn phải dựa vào cơ duyên của tạo hóa. Tôi ngẫm thấy khả năng của mình giờ tiến bộ vượt bậc, nên cũng muốn thử phen xem sao.
      Đêm hôm đó, sau khi ăn cơm xong, dưới ánh mắt quan sát của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, tôi hạ quyết tâm mở chiếc hộp gỗ bí đó ra.
      Chiếc hộp gỗ thuộc dạng kết cấu khảm, bên ngoài là lớp gỗ màu đỏ, bên trong lại là lớp kim loại, chúng được gắn kết với nhau bằng những đinh móc bằng đồng tại ba mươi sáu điểm đối xứng. Chiếc đinh tại vị trí chính giữa mặt gỗ phía gọi là Định tâm cầu, nối trực tiếp vào ốc vít của chiếc hộp kim loại bên trong, nên bắt buộc phải dựa vào số vòng ren của ốc vít để tiến hành tháo gỡ.
      Nhìn, nghe, bắt mạch. Tôi thực xong những bước thăm dò và bước đầu xác định được đúng hướng , đầu tiên phải dùng sợi dây da lừa dò đếm số vòng ren của chiếc vít nối với Định tâm cầu, tôi phải tẩn mẩn thao tác nửa tiếng đồng hồ mới tháo được nó ra, phía sau vị trí đó là mắt khóa bằng đầu ngón tay sâu hoắm. Tôi tiếp tục dùng mũi kim móc lùa sợi dây da lừa vào sâu bên trong, dò tìm từng vị trí của hệ thống đinh móc bên trong, rồi dùng chiếc hộp tích lực cắt vài lần.
      Tất cả gồm có hai trăm mười sáu chiếc đinh móc cần được cứa đứt từng cái nên rất mất thời gian. Tôi phải hi sinh tới hơn hai mươi sợi dây lừa và mất trọn đêm mới mở được chiếc hộp ra. Khi nhìn lên, trời cũng rạng sáng, nhưng chúng tôi ai cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ.
      Cho tới khi nghe thấy thanh quen thuộc của những chiếc vòng xích chuyển động, tôi mới chắc chắn rằng chiếc hộp được mở ra, trong lòng phấn khích vô cùng, bàn tay tôi run lên vì hồi hộp, biết trong đó rốt cuộc cất giấu thứ gì.
      Lão Ngũ vỗ vỗ vai tôi, mặt mày rạng rỡ, :
      - Khá lắm, nhóc con, cuối cùng cũng chinh phục được chiếc hộp lì lợm này, coi như mi cách Thiên giới còn xa nữa đâu, hãy để cho lão già này được mở mang tầm mắt nhé. Hay đấy, hay đấy!
      Tôi khẽ mỉm cười, thấy lòng nhõm phần nào, đưa tay sờ lên phần nắp hộp. Cả ba chúng tôi cùng chụm đầu lại nhìn chăm chăm vào mảnh vải nhung đỏ, trong đó có đặt tấm biển màu đen.
      Tấm biển đó to gần bằng thẻ chứng minh nhân dân, dầy chừng phân, bốn góc được mài nhẵn nhụi, bề mặt khắc hoa văn chi chít. Tôi hiếu kì đưa tay nhấc nó lên, cảm thấy khá nặng tay khác gì miếng gỗ. Những đường hoa văn được chạm khắc rất tinh xảo với hình sóng nước uốn lượn, chính giữa là ba chữ phồn thể vuông vắn.
      Chữ đầu tiên tôi nhận ra ngay, chính là chữ “Sở”; chữ thứ hai hơi khó chút, trông nó có vẻ giống chữ “Khinh”, nhưng dám chắc; còn chữ thứ ba tôi hoàn toàn biết. Lật lại mặt sau thấy ở đó có khắc khuôn mặt , đường nét khá đơn giản nhưng lại rất có thần, đặc biệt là dải tóc tết phía sau lưng, nhưng sao càng nhìn càng thấy có nét hao hao giống tôi?
      Tôi bắt đầu thấy chuyện này thú vị, liền quay sang hỏi Lão Ngũ:
      - Lão Ngũ, đây là cái gì, khắc ở mặt sau sao trông giống…
      Chưa hết câu, tôi im bặt, hiểu sao Lão Ngũ và chị Giai Tuệ lại nhìn tôi chằm chằm, khuôn mặt biểu lộ thần sắc khó hiểu.
      Thấy thái độ của hai người rất kì quái, tôi vội vàng hỏi họ có chuyện gì.
      Lão Ngũ vân vê mấy sợi râu thưa, chỉ vào tấm biển trong tay tôi, giọng trầm hẳn xuống:
      - Nhóc con, ba từ đấy chính là tên của mi đấy!
      Tôi lập tức ngẩn người, đầu óc ong ong trống rỗng, mắt như dán vào ba chữ khắc đó, điều này… điều này… sao lại có thể như vậy chứ?
      Lão Ngũ cầm lấy tấm biển loay hoay nhìn ngắm hồi, bỗng lão trợn mắt:
      - Mẹ kiếp, hay đấy! Ít nhất cái này cũng phải có dưới bốn mươi năm, ra lão Sở cũng biết đường chuẩn bị trước.
      Tôi khó nhọc nuốt nước bọt, cảm giác ớn lạnh bao phủ lên người, bốn mươi năm trước làm gì có tôi, tại sao ông nội lại phải làm trước tấm biển này? Tôi lập tức liên tưởng tới chiếc đĩa sứ mang hình sơn thủy, hình như nó cũng là vật xuất vào thời điểm rất nên xuất . Thế nhưng nguyên do xuất của chiếc đĩa sứ kia được tìm thấy, đó là bị người khác đánh tráo, vậy còn tấm biển mang tên tôi giải thích thế nào đây, chẳng nhẽ cũng bị người ta đánh tráo nốt?
      Chị Giai Tuệ hơi chau mày, rồi bỗng nhiên thốt lên:
      - Độ nông sâu của chiếc hộp có gì đó là lạ, chắc phải còn lớp nữa, Lan Lan, em nhìn lại chiếc hộp xem.
      Tôi nhìn vào lòng hộp, quả nhiên, chúng tôi mới mở được phần ba, đây chẳng qua chỉ là lớp đáy giả mà thôi. Tôi lập tức nhấc lớp đáy ra, phía dưới lại là lớp vải nhung khác, bên đặt mảnh trúc màu vàng xanh, chiều dài vừa đúng đốt. Hai đầu mảnh trúc được vạt nhẵn, qua màu sắc và thớ trúc, có lẽ nó được đặt vào đây từ rất lâu rồi. Ông nội từng dặn, bên trong chiếc hộp này đều là bảo bối của Kiện môn, lẽ nào mảnh trúc này cũng là trong số đó?
      Tôi lan man suy nghĩ, Lão Ngũ nhanh tay nhấc lớp đáy thứ hai lên. Phía dưới cùng đặt cuốn sách mỏng tang màu xanh nhạt, mép hơi quăn và sờn rách, xem ra nó rất cũ, trang bìa có khoảng trắng ghi Giải kiện tập lục bằng lối chữ Khải vuông vắn. Nhìn dòng tên sách, nếu tôi đoán nhầm đó là cuốn sách bí truyền ghi lại những kinh nghiệm mở khóa vi diệu mà tổ tiên truyền lại.
      Tôi đặt tấm biển đen, mảnh trúc cùng cuốn Giải kiện tập lục lên mặt bàn, đờ đẫn nhìn chúng hồi lâu, tại sao tấm biển đen lại khắc tên tôi, và mảnh trúc kia tượng trưng cho điều gì?
      Lão Ngũ thò tay cầm cuốn Giải kiện tập lục lên, liếc nhìn tôi rồi :
      - Nhóc con, nhìn đủ chưa, để lão già này đọc trước xem thế nào nhé!
      Tôi chưa kịp trả lời lão cầm cuốn sách lật giở qua loa vài trang. Tôi tiến lại gần lão, trang sách chi chít những chữ phồn thể to bằng hạt đậu tương, phân hàng lối, nên nội dung bên trong viết cái gì. Trang cuối cùng của cuốn sách là hình hai bàn tay xòe ra, lòng bàn tay và mười đầu ngón tay chằng chịt những vết sẹo. Có những vết kéo dài, có vết hình tròn, hình tam giác, hình móng ngựa, còn vài đường rãnh to khác nhau, đặc biệt chúng được phân bổ theo trật tự quy củ, nhưng mỗi tay là hình khác biệt…
      Nhìn hình ảnh đó, tim tôi bỗng đập thình thịch, chỉ vào hình ảnh bàn tay trong sách rồi la toáng lên đầy phấn khích:
      - Đây chính là sơ đồ sẹo tay, giống y hệt của ông nội cháu, chính mắt cháu nhìn thấy rồi mà.
      Lão Ngũ liếc đôi mắt dài và ti hí sang tôi, gật gù :
      - Tay chân chi chít sẹo thế này, mẹ kiếp, cũng thảm !
      Chị Giai Tuệ cầm tấm biển đen lên, chậm rãi phân tích:
      - Chiếc hộp càn khôn này là vật gia truyền của nhà họ Sở, bên trong cất giấu cuốn sách bí truyền có gì đáng , nhưng còn tấm biển đen và mảnh trúc thể hiểu nổi. Lão Ngũ, lão thấy sao?
      - Để ta xem lại , khéo bên trong đó còn giấu bí mật khác. - Lão Ngũ lên tiếng.
      Chị Giai Tuệ như muốn tránh những nghi ngờ đáng có, nên tự động đứng dậy ra ghế sofa ngồi chờ.
      Lão Ngũ lật giở kĩ càng từng trang sách, vẻ mặt cũng rất lạ, lúc chau mày, lúc lẩm bẩm điều gì đó trong miệng, hai con ngươi liên tục đảo từ xuống dưới, như muốn lục tìm lại điều gì đó hết sức quan trọng trong kí ức.
      Tôi sốt ruột ngồi đợi bên cạnh, nhưng cũng dám cắt ngang, đành cố kiềm chế và chăm chú nhìn lão, chờ đợi câu trả lời.
      Mất đúng tiếng đồng hồ, Lão Ngũ mới giở tới trang cuối cùng rồi gập lại để lên mặt bàn, nét mặt vô cùng hào hứng:
      - Mẹ kiếp, này nhóc con, ba chúng ta đúng là lũ chuột, thỏ ăn hại. Giờ phải cất công tới động Lão Mậu chuyến rồi. Ha ha ha… hay đấy, hay đấy!
      Tôi ngỡ ngàng, hiểu vì sao mà Lão Ngũ tự dưng quay sang mạt sát cả ba người, lại còn phải tới động Lão Mậu, động đó nằm ở đâu chứ?
      Thấy tôi thắc mắc, Lão Ngũ chỉ cười và mắng tôi câu:
      - Chuột, thỏ, rùa[1] cùng đường. Đó là câu thành ngữ, mi hiểu được là đúng rồi.
      [1] Trong tiếng Trung chữ “quy” (rùa) đồng với chữ “đồ ăn hại”.
      Chị Giai Tuệ nhịn được cười khúc khích, đặt tay lên vai tôi, giải thích:
      - Câu thành ngữ đó là “thù đồ đồng quy”, có nghĩa là tuy cùng đường nhưng lại có chung đích đến. Lão Ngũ có ý chửi chúng ta đâu.
      Lão Ngũ bật cười khanh khách, vỗ vỗ lên vai tôi, trêu ghẹo:
      - Đúng, đúng, đúng, “thử thố đồng quy, thử thố đồng quy”. Lão già này da mặt dày, để ta làm kẻ ăn hại cũng sao. Hai đứa mi tự chia nhau làm chuột và thỏ .
      Tôi vân vê túm tóc, khẽ gật đầu ra vẻ hiểu, nhưng thực ra trong lòng lại nghĩ tới câu chuyện Rùa và Thỏ mà tôi từng nghe lúc , nhưng trong đó chỉ đến cuộc thi chạy giữa rùa và thỏ chứ có nhắc đến chuột nào đâu.
      Tôi hỏi tiếp Lão Ngũ, cuốn Giải kiện tập lục đó rốt cuộc viết về cái gì? Lão đó đều là phương pháp tu luyện kĩ thuật của phái Kiện môn, sau đó lão đưa tấm biển màu đen lên ngang miệng, hà hơi rồi vừa lau vào tay áo vừa cho tôi biết đây chính là Kiện bài làm từ loại ngọc Hắc Mộc hiếm có, thường sinh trưởng ở gốc cổ thụ, được nuôi dưỡng bằng linh khí, mang thuộc tính của cả đất và đá nên độ quý hiếm của nó có thể sánh ngang với loại ngọc Lam Điền Bạch Thủy, miếng bé thế này thôi cũng đủ mua được cả căn nhà…
      Thấy lão lại bắt đầu lan man sang chuyện khác, tôi liền ngắt lời, hỏi lại lão Kiến bài là gì? Lão Ngũ cáu kính trả lời:
      - Kiến kiến cái con khỉ ấy, là Kiện bài! Trong quyển sách này có rằng, mỗi truyền nhân của Bắc phái đều có miếng Kiện bài do chính tay trưởng môn nhân trao cho, rồi phải đích thân đưa nó tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn để quy tông nhập vi, khi đó mới chính thức được trở thành người mở khóa.
      Bây giờ tôi . ra là động Lão Mẫu, chứ phải là động lão Mậu! Tôi có cảm giác tên địa danh này quen quen, nhưng giờ thể nhớ ra nó ở đâu. Ngoài ra, lẽ nào ông nội đặt tên cho tôi trước cả khi tôi sinh ra, còn khắc tên lên miếng Kiện bài nữa? Nhưng đúng! Từ trước đến nay vật này đều truyền cho nam chứ truyền cho nữ, chẳng phải ngay lúc đầu ông nội cũng có ý định truyền nghệ cho tôi còn gì.
      Tôi vắt óc suy nghĩ mãi nhưng thể nào đoán ra được. Chị Giai Tuệ cầm miếng Kiện bài lên, hỏi Lão Ngũ:
      - Lão Ngũ, nghe lão vậy, chắc là lão cũng định tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn đúng ạ?
      Lão Ngũ gật gật đầu, khệnh khạng qua lại vài bước, vân về chỏm râu, :
      - Thực ra cũng định cho hai đứa bay biết đâu, nhưng giờ ba chúng ta trở thành chuột, thỏ, rùa rồi nên cũng giấu hai đứa nữa. Mùa xuân năm sau, Lão Ngũ ta phải tới Lư Sơn, Bắc Trấn để Luận Đạo.
      Tôi thấy lão kì quặc quá liền thắc mắc giờ đều là chuột, thỏ, rùa rồi còn tự chui vào lư[2] làm gì, Lão Ngũ phải luận cái gì Đạo mới được chứ?
      [2] Con lừa Hán Việt là “Lư”, gần với chữ “Lữ”
      Chị Giai Tuệ vội giảng giải cho cái tai lòi của tôi, Bắc Trấn cũng giống như vùng sản sinh ra cát bay Lăng Hải, đều nằm phía dưới thành phố Cẩm Châu thuộc tỉnh Liêu Ninh. Trung Quốc có năm huyện lớn nằm núi đó là Đông Trấn Thanh Châu Nghi Sơn, Tây Trấn Ung Châu Ngô Sơn, Trung Trấn Ký Châu Lộ Sơn, Nam Trấn Dương Châu Kim Kê Sơn, Bắc Trấn Y Vu Lư Sơn, gọi tắt là Lư Sơn. Lư Sơn có ngôi chùa Thanh Nham hoàn toàn bằng đá tự nhiên ở thôn Thường Hưng, thuở ban đầu nó thuộc nước Bắc Ngụy. Bên trong thiền viện có cái động tự nhiên thời “Lão Mẫu nghiêng đầu” - trong ba mươi hai phép hóa thân của Quan Thế Bồ Tát. Số lượng Quan ở đây nhiều vô kể, cho dù là tượng đứng hay tượng ngồi khuôn mặt đều nghiêng về phía nên gọi là “Lão Mẫu nghiêng đầu”. Nghe đến đây cầu tài cầu tự đều rất thiêng, nên hương khói nghi ngút quanh năm. Hai năm trước, Cục Cảnh sát tổ chức nghỉ mát ở đây nên chị được hướng dẫn viên du lịch giảng giải rất kĩ càng.
      Lão Ngũ nhìn chị Giai Tuệ, gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
      - Giai Tuệ sai. - Rồi lão quay sang bên tôi, - Nhóc con, mi có biết Lão Mẫu Quan Thế chính là sư tổ của Đạo môn và Kiện môn chúng ta ?
      Tôi đương nhiên là thể nào tin nổi, làm sao Quan Bồ Tát lại là sư tổ của Đạo môn và Kiện môn, nên vội vàng hỏi lại lão thực hư nguồn gốc câu chuyện.
      Lão Ngũ nheo nheo đôi mắt, tay vỗ lên cuốn Giải kiện tập lục, :
      - Đạo môn của Trung Quốc kể từ triều nhà Đường trở về sau, tôn Quan làm sư tổ, điều này có nghĩa Quan Thế cũng là kẻ trộm cắp mà bà chỉ liên quan đến truyền thuyết. Vừa xong Giai Tuệ rồi, Quan có ba mươi hai phép hóa thân, trong những phép đó là biến thành Phật bà Quan nghìn tay nghìn mắt, mỗi lòng bàn tay là con mắt, nghìn mắt tượng trưng cho khả năng phổ quát nhân gian. Nhưng từ nhà Đường trở , nghìn con mắt của Quan còn nằm trong lòng bàn tay nữa. Nghe các bậc tiền bối kể lại rằng, những năm đầu đời Đường, Bả Thế Gia Hậu Lão Thất trong lần trộm đồ vô tình đánh mất báu vật của tổ tiên để lại, nên cho rằng cuộc đời mình coi như từ đây chấm dứt, và nảy sinh ra ý định tự tử, ông trèo lên chùa Thanh Nham núi Lư Sơn để tự vẫn. ngờ, Phật Bà Quan bỗng nhiên giáng thế, rằng cuộc đời lão chuyên cướp của kẻ giàu chia cho người nghèo, làm việc thiện phải chết, nên bà tặng con mắt trong lòng bàn tay cho Hậu Lão Thất, rồi khuyên ông hãy lấy lại danh dự cho mình.
      Hậu Lão Thất khóc như mưa và nguyện bái Quan làm sư tổ, ông còn thề rằng cả đời bao giờ làm điều ác. Khỏi phải , sau khi có được con mắt của Phật Bà Quan , Hậu Lão Thất như có sức mạnh phi thường, tung hoành khắp sáu mươi ba tỉnh từ Bắc tới Nam, trở thành Hiệp Đạo Bá vương thời bấy giờ. Đặc biệt là, ông nắm trong tay thuật mở khóa, nên đưa nó vào Đạo môn, lập thành chi phái và tự phong mình là Kiện môn khai sơn đại tông sư.
      Do lúc bấy giờ Đạo - Kiện đều chung nhà, nên hai phái cùng tôn Quan làm sư tổ, đặt trước tượng phật bà lư hương và sớm tối thành tâm cúng bái. Do nghìn cánh tay thiếu con mắt, nên cánh tay thiếu mắt đó gọi là Diệu thủ. Người ta hay gọi những thuật siêu phàm của Đạo môn là “Diệu thủ ”, nguyên nhân cũng là từ đây.
      Tôi thấy mình như vừa đến được chân trời mới, ra Đạo môn lại có nguồn gốc lịch sử hào hùng như vậy. Tôi cũng từng được nghe ông nội kể về nguồn gốc của Kiện môn, và cũng có nhắc đến Hậu Lão Thất. Hơn nữa, ông nội cũng đặt bức tượng Quan bằng vàng trong phòng, ngày nào cũng dâng hương lạy tạ với thái độ hết sức thành kính, vậy câu chuyện này chắc chắn là có rồi. Thế nhưng tôi vẫn khỏi thắc mắc, Lão Ngũ phải tới Lư Sơn để Luận Đạo là việc gì?
      Thấy tôi thắc mắc, Lão Ngũ khẽ gật đầu và tiếp:
      - Đạo môn, Kiện môn đều tôn Lão Mẫu làm sư tổ nên chùa Thanh Nham núi Lư Sơn theo lẽ tự nhiên cũng phân thành hai thánh địa. Mi có còn nhớ ta từng , trong Đạo môn ngoài quan hệ sư phụ và đệ tử ra, tất cả mọi người đều dựa vào tài năng để phân cao hạng. Bả Thế càng cao tên tuổi càng lớn, cụ thể thế nào còn rất nhiều điều thú vị.
      Ngày mười chín tháng Hai lịch hàng năm được coi là ngày đản sinh của Lão Mẫu, nên tất cả em trong Đạo môn đều tới đây dâng hương mừng thọ. Mi nghĩ xem, cao nhân từ khắp nơi đổ về, tuy cùng phái nhưng có người nọ người kia, tránh khỏi những khác biệt về cách nghĩ và lối sống thậm chí cả những bất hòa. Nhưng khi tới đây, ai ai cũng cố gắng kiềm chế cùng bái Tổ. Cho tới tận tới Nam Tống, xảy ra việc rất hệ trọng. Bả Thế Gia Phùng Lão Thất ở Nam Thất tỉnh và Bả Lão Gia Tống Lão Thất ở Bắc Lục tỉnh chỉ vì việc phân chia vai vế mà gây ẩu đả tại động Lão Mẫu, tất cả đệ tử dưới quyền hai người cùng xông trận. Nghe , cuộc chiến lúc đó diễn ra hết sức căng thẳng, có rất nhiều người phải đổ máu, thậm chí phải đánh đổi cả tính mạng, đỉnh núi Lư Sơn lúc đó như nhuộm trong màu máu tươi, trong mười tám thuật của Đạo môn là Nhuyễn cốt xuyên sơn cũng bị thất truyền từ đấy.
      Nghe tới đây, tôi cũng thấy lòng buồn tê tái, vội hỏi Lão Ngũ:
      - Lão Ngũ, vậy cuối cùng ai thắng?
      Lão Ngũ thở dài, giọng đầy hận thù:
      - Thua với thắng cái mẹ gì… Phe của Tống Lão Thất giành ưu thế, ông ta giáng chưởng khiến Phùng Lão Thất hộc cả máu mồm. Trước khi xuống núi, Phùng Lão Thất cắn ngón tay, chỉ lên trời cao mà thề rằng, từ nay về sau Đạo môn Nam phái bao giờ bước chân tới động Lão Mẫu trừ khi đánh bại Bắc phái…
      Chị Giai Tuệ bỗng chen vào câu:
      - Lão Ngũ, vậy sau này Bả Thế Gia Thôi Lão Cửu thống nhất Đạo môn như thế nào ạ?
      Lão Ngũ dựa lưng vào tường, mắt mơ màng hồi tưởng:
      - Lúc ở dưới địa cung, ta chưa kịp cho hai đứa nghe. Thực ra Đạo môn tồn tại cho tới ngày hôm nay trải qua ba giai đoạn thăng trầm. Giai đoạn thứ nhất là cuộc đổ máu giữa hai phái Bắc Nam tại núi Lư Sơn, dẫn đến việc hai phái hoàn toàn chấm dứt quan hệ đồng môn, ai thèm để ý đến ai. Cho tới khi Thôi Lão Cửu luyện tới cấp chín, mới thống nhất được hai phái Đạo môn, tạm thời sóng yên biển lặng. việc sau đó hai đứa cũng biết, đó chính là giai đoạn thứ hai. Còn về giai đoạn thứ ba…
      tới đây, Lão Ngũ bỗng dưng im bặt, hàm răng cắn chặt lên môi như cố kìm nén nỗi đau đớn nào đó, nhưng đôi mắt lại toát lên vẻ hận thù sâu sắc. lúc sau, lão mới lắc đầu rồi nghiến răng câu khó hiểu:
      - Giai đoạn thứ ba cần nhắc đến nữa. Mẹ kiếp, người thân thích có nghề, nghề chín vẫn còn tổ sư. Mẹ kiếp… cho vào dĩ vãng…
      Thấy thái độ căm thù tột độ của lão, tôi cũng dám nhắc đến nữa, chỉ cảm thấy rất lạ, giai đoạn thứ ba chắc chắn phải có mối liên quan mật thiết đến cuộc đời của Lão Ngũ.
      Lão Ngũ thở hắt ra, im lặng lúc lâu rồi mới tiếp tục :
      - Hai đứa phải biết rằng, tu luyện Đạo thuật vô cùng khổ luyện, có khi mất đến hàng chục năm trời mà vẫn nâng được cấp, cho nên từ xưa đến nay hội đặt ra quy tắc, cứ đúng mười năm tổ chức lần Luận Đạo Bả Thế đại hội tại động Lão Mẫu. Cũng có thể rằng, đấy là dịp Bả Thế Gia cao nhất trực tiếp kiểm tra trình độ và bản lĩnh của môn nhân. Tổng cộng có bốn phần thi, nếu như qua tất cả bốn phần được tăng lên cấp, còn nếu , xin lỗi, mười năm sau hãy quay trở lại.
      Lão Ngũ vừa xoa cằm vừa với giọng hết sức nghiêm túc:
      - Tính ra, Lão Ngũ ta cũng tham gia ba lần đại hội, đó là vào năm 1970, năm 1980 và năm 1990. Bản lĩnh của ta quả thực cũng tồi, ngay lần đầu tiên ứng thí đạt đến cấp năm, nghe sư phụ , ta có cái gì đó rất giống Thôi Lão Cửu, câu này làm ta vô cùng tự hào. Sau này sư phụ còn nữa, hai lần Luận Đạo sau đó, ta đều là người đứng ra chủ trì. Nhưng trong hai mươi năm liền chỉ nâng cấp cho vài tên Lão Tam, đến tên Lão Tứ cũng có. Sau đó, ta lại bị tống vào tù, nên đại hội năm 2000 tham gia. tròn mười năm trôi qua… ha ha ha… Mẹ kiếp, ta vẫn muốn xem xem bản lĩnh của lũ nhóc con giờ như thế nào. Hay đấy, hay đấy…
      Nghe những lời của Lão Ngũ, tôi có cảm giác như mình được nghe học giả Thiện Điền Phương bình truyện. Khi Lão Ngũ giảng giải về đại hội Luận Đạo, trong đầu tôi lại nghĩ đến cảnh luận kiếm ở Hoa Sơn, nơi diễn ra các cuộc đấu nảy lửa giữa các cao thủ võ lâm, biết là hay giả đây. Nếu đúng như những lời lão , lần này có rất nhiều vua trộm tụ hội tại Lư Sơn để phân tài cao thấp, chắc chắn rất náo nhiệt. Cứ nghĩ đến ngày mười chín tháng Hai sắp tới, tôi lại thấy ngứa ngáy tay chân, thực rất muốn tới đó lần để mở mang đầu óc.
      Thấy tôi nghe có vẻ say sưa, Lão Ngũ liền vỗ lên vai tôi, :
      - Đây toàn là nội của Lão Ngũ ta, mi nghe để biết thôi đấy, giờ là đến tấm Kiện bài của mi.
      Tôi sực tỉnh ra, thầm trách bản thân chút xíu nữa quên mất việc chính, liền giỏng tai nghe Lão Ngũ tiếp.
      Lão Ngũ lật từng trang cuốn Giải kiện tập lúc xem qua lần nữa rồi tiếp tục kể cho chúng tôi nghe, động Lão Mẫu thực ra là lối bí mật vào lòng núi Lư Sơn, nhưng giờ bị phong tỏa, muốn vào phải có chìa khóa mới được. Bên trong đó là tảng đá có tên là Kiện môn Quy vị, theo những gì trong cuốn sách này , người kế thừa của Kiện môn phái phải tự mình đặt tấm Kiện bài vào tảng đá Quy vị, như vậy mới chính thức được công nhận là trưởng môn nhân. Sau này, kể cả khi già vẫn phải tìm cho ra mảnh ngọc Hắc Mộc khác, khắc tên người kế tục lên đó, coi như là chính thức truyền vị cho thế hệ tiếp theo. Thế nhưng loại ngọc Hắc Mộc này vô cùng hiếm có, tìm được hay còn phải xem bản lĩnh của người đó…
      Những điều Lão Ngũ kể giúp tôi vỡ ra nhiều điều, thế nhưng tấm Kiện bài khắc tên tôi thực vẫn là câu đố bí . Nếu như ông nội thực muốn tôi kế nhiệm tại sao truyền dạy thuật mở khóa cho tôi từ khi còn , và giải thích cặn kẽ về những chuyện liên quan? Tại sao dạy tôi cách mở chiếc hộp càn khôn? Những nghi vấn đó thực khiến tôi day dứt và khó hiểu.
      Thấy tôi có vẻ băn khoăn, Lão Ngũ đưa cuốn Giải kiện tập lục cho tôi, rồi :
      - Mặc kệ Lão Sở nghĩ gì, dù sao mi cũng mở được chiếc hộp và tìm ra tấm Kiện bài bằng gỗ Hắc Mộc rồi. Thế này , lão già này cùng mi tới Lư Sơn chuyến, coi như giúp mi khẳng định danh tính trong môn phái.
      Tôi khẽ gật đầu đồng ý, xem ra trước mắt chẳng có cách nào khá hơn thế, vả lại, có Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng, tôi cũng lo lắng gì lắm, coi như là du lịch chuyến vậy.
      Khi chúng tôi bàn bạc ổn thỏa cũng gần mười giờ trưa, chị Giai Tuệ xin phép ra về, còn tôi và Lão Ngũ ai về phòng nấy nghỉ ngơi. Tôi định chợp mắt chút cho đỡ mệt, nhưng trằn trọc mãi yên, đầu óc ngừng nghĩ ngợi về những điều Lão Ngũ vừa kể. Hàng tá câu hỏi lởn vởn trong đầu tôi, tấm Kiện bài quy vị như thế nào đây, đại hội Luận Đạo sắp tới ra sao, mảnh trúc vàng kia rốt cuộc có ý nghĩa gì, còn cả ông nội nữa, càng ngày tôi càng nhận ra ông giấu tôi rất nhiều điều, tất cả là vì cái gì đây, rốt cuộc giờ ông ở đâu…
      Ba ngày sau, chị Giai Tuệ mới lại đến căn biệt thự, đem theo tin hết sức bất ngờ: Qua quá trình điều tra nhân khẩu của công an tỉnh và Cục An ninh quốc gia, chị cùng Tôn Ngọc Dương tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng cũng tìm ra người kế vị của phái Mặc môn, hơn nữa người đó lại định cư ngay tại thành phố Thẩm Dương.
      Tôi mừng rỡ hỏi chị người đó là ai. Chị Giai Tuệ mỉm cười, vuốt tóc tôi và tiết lộ:
      - Người này cũng khá thú vị đấy, giống Lan Lan của chị, người này cũng là , tên là Đường Nhã Kỳ.
      Sau đó ngày, chị Giai Tuệ lái xe đưa chúng tôi tới chợ đồ cổ Lỗ Viên thuộc khu Hòa Bình thành phố Thẩm Dương. Nơi đó có những con phố dài với vô số cửa hiệu sầm uất, người ra người vào hết sức náo nhiệt.
      Chị dừng xe trước cửa hiệu ở đầu phố, bên cửa hiệu treo tấm biển màu nâu đen có viết bốn chữ: Tiệm xăm Tiểu Đường. Hai bên cửa treo đôi câu đối: “Họa long họa hổ nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”.
      Chị Giai Tuệ hạ giọng thầm với chúng tôi, cửa hiệu này tuy nhưng rất nổi tiếng ở Thẩm Dương, nghe tay nghề của Đường Nhã Kỳ vô cùng thần diệu, đến cả những tay chị xã hội đen khét tiếng cũng phải lụy nhờ xăm hình cho. Chính vì thế nên tuy chỉ là nhưng ai dám bắt nạt . Tôi tò mò định hỏi lại thấy Lão Ngũ mở cửa xe, xăm xăm tiến vào cửa hiệu.
      Diện tích cửa hiệu lớn lắm, nhưng bên trong khá ấm áp, những thứ trang trí trong phòng đều là cổ vật quý giá. Ngồi sau chiếc bàn dài là trông khá nhắn, mặc chiếc áo len cổ lọ màu hồng nhạt, cắm cúi dùng miếng da lừa lau chùi chiếc kim màu bạc sáng loáng, đó chắc chắn là truyền nhân mà chúng tôi tìm - Đường Nhã Kỳ.
      Nghe thấy có tiếng động, Đường Nhã Kỳ từ từ ngẩng đầu lên. có khuôn mặt trái xoan và nước da trắng hồng, đôi mắt lanh lợi, có vẻ như cũng trạc tuổi tôi. đứng dậy, vòng qua chiếc bàn, nhìn chúng tôi lượt rồi mỉm cười, dịu dàng lên tiếng:
      - Xin chào, mọi người đến xăm hình đúng ạ? - Giọng của vừa trong trẻo vừa dễ nghe.
      Chị Giai Tuệ cũng vòng vo, sau khi chào hỏi xong, chị liền rút thẻ cảnh sát ra rồi giải thích lí do tới đây ngày hôm nay. Tôi nhìn qua tấm thẻ mới phát ra, tên đầy đủ của chị là: Tang Thượng Kỳ Ngải Giai Tuệ, nghe gần giống với tên người nước ngoài.
      Mãi sau này chị Giai Tuệ mới cho tôi biết, Tang Thượng Kỳ Ngải là họ đầy đủ của chị, Tang Giai Tuệ chỉ là tên viết tắt. Lúc đó, tôi cũng để tâm lắm, chỉ biết chị là người dân tộc Mãn. Nhưng về sau, qua những cuộc điều tra tôi mới dần phát ra thân thế của chị Giai Tuệ cũng rất phức tạp.
      Đường Nhã Kỳ cầm lấy lõi chiếc đĩa sứ, nhìn qua rồi tấm tắc tán thưởng:
      - Tuyệt, tuyệt, đúng là bảo vật hiếm có! - Khi lật ra sau đế, bỗng nhướn mày. - Cái này… tiện ra.
      Lão Ngũ lim dim mắt nhìn rồi ra đóng cửa lại, sau đó quay lại cười giòn giã:
      - Tiểu Đường, đều là người trong giới giang hồ với nhau, có gì phải giấu giếm cả. Ta là Hắc Lão Ngũ, là người… - Lão dừng lại, cong hai đầu ngón tay thành vòng tròn, rồi chỉ sang tôi. - Còn đây là Sở Khinh Lan, người của Bắc phái Kiện môn.
      Đường Nhã Kỳ liếc nhìn tôi, rồi khẽ mỉm cười, chắp hai tay trước ngực:
      - Ồ! ra là vua trộm vùng Đông Bắc, Hắc Lão Ngũ. - Sau đó lại quay sang tôi, nghiêng đầu duyên dáng - Xin chào chị Lan Lan!
      Nghe khẩu khí đó tôi đoán biết lai lịch của chúng tôi. Cũng hiểu vì sao, ngay từ lúc gặp Đường Nhã Kỳ, tôi luôn thấy thoải mái như người trong nhà. Tôi nhàng nắm lấy tay , thân thiết như chị em ruột.
      Bàn tay Đường Nhã Kỳ vừa mềm vừa mát, đầu ngón tay xinh khẽ động đậy khi nắm lấy tay tôi. Chợt ánh mắt sáng bừng lên, hân hoan nhìn vào mắt tôi:
      - Chị Lan Lan, chị quả là người mở khóa thiên bẩm. - Tôi chưa biết gì cho phải Nhã Kỳ lật bàn tay tôi lên, khẽ sờ năm đầu ngón tay, rồi lại chuyển sang cầm bàn tay trái của tôi lên. - Chà chà, những mười hoa tay, đúng là hiếm thấy!
      Tôi chẳng hiểu gì cả, cái gì mà năm hoa với chẳng mười hoa, việc này có liên quan gì tới chuyện mở khóa thiên bẩm chứ? Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng bước tới, nhìn tay tôi rồi quay sang hoài nghi nhìn Đường Nhã Kỳ.
      Nhã Kỳ liền giải thích với chúng tôi rằng, đường vân tròn đầu ngón tay gọi là hoa tay, người có mười hoa tay như tôi rất hiếm, vài trăm nghìn người mới có . còn , các bậc tiền bối ngày xưa kể lại rằng, người có mười hoa tay là người biệt tài mở khóa bẩm sinh, thực hư như thế nào lắm.
      Tôi ngửa hai lòng bàn tay lên, ngắm nghía lúc lâu nhưng thấy có điều gì khác biệt. Đường Nhã Kỳ nhìn tôi cười, khúc khích, nhưng cặp lông mày lại hơi nhíu lại, ánh mắt dường như chứa đựng điều gì đó.
      Lão Ngũ bỗng oang oang lên tiếng:
      - Tiểu Đường, thôi đừng hoa tay hoa chân gì nữa, mau xem giúp bọn ta trong chiếc đĩa này có gì cổ quái ?
      Đường Nhã Kỳ khẽ gật đầu, quay người vào trong phòng rồi lập tức ra với đôi bàn tay ướt sũng. lấy khăn sạch lau tay, sau đó nhàng cầm lõi đĩa sứ lên, miệng lẩm bẩm gì.
      Tiếp đó, đặt lõi đĩa lên mặt bàn, với tay sang bên cạnh lấy thanh gỗ cắm chi chít các loại kim bạc. Đầu ngón tay rê qua các mũi kim lượt, rồi nhanh chóng lấy ra cây kim dài chừng vài centimet, kẹp chặt vào giữa hai ngón tay.
      Tôi cứ thế ngẩn người ra nhìn đôi bàn tay trắng nõn với các ngón thuôn dài của Đường Nhã Kỳ. Chúng chuyển động hết sức khéo léo, ràng là hề nhanh nhưng lại rất thuần thục, đem lại cho người xem cảm giác say mê khó diễn tả thành lời. Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, vẻ mặt của hai người cũng rất khác lạ.
      Ngón trỏ trái của Đường Nhã Kỳ nhàng lướt qua lõi đĩa, còn hai ngón cái và ngón trỏ phải kẹp chặt lấy cây kim, chọc thẳng lên mặt lõi đĩa rồi kéo mũi kim theo đường dài, tiếng rin rít phát ra nghe ê cả tai. Dừng lúc rồi mũi kim lại chuyển động thoăn thoắt, nhưng chỉ có cổ tay chuyển động, còn cả cánh tay của Đường Nhã Kỳ vẫn giữ nguyên vị trí. tràng dài tiếng ken két vang lên, đầu mũi kim lóe sáng, thực thể biết được rốt cuộc phải cào bao nhiêu lượt.
      lớp men sứ trắng từ từ nổi lên vài đường xanh nhạt, sắc xanh đậm dần lên và nhích lại gần nhau tạo nên bốn chữ Khải: Thanh Nham thánh cảnh.
      Thấy bốn chữ lên nét, Đường Nhã Kỳ lập tức dừng lại, cắm cây kim vào lại thanh gỗ, rồi mỉm cười với chúng tôi:
      - Xong rồi!
      Tôi ngỡ ngàng nhìn , cảm thấy vừa kì diệu vừa nghi ngờ, mũi kim bạc xíu như thế tại sao lại có thể cào ra chữ? Tôi cúi xuống nhìn kỹ lõi đĩa, dòng chữ từ từ biến mất ngay trước mắt tôi, mọi thứ lại trở về trạng thái ban đầu, hoàn toàn còn vết xước.
      Đường Nhã Kỳ liền giải đáp thắc mắc của tôi, đỉnh cao của nghệ thuật xăm là xăm chìm vào bên trong, dù là cơ thể người hay là bất cứ đồ vật nào khác, từ bên ngoài ai có thể nhận thấy chút dấu vết nào. Bốn chữ này chính là kết quả của kĩ thuật đỉnh cao ấy, vừa xong phải dùng đến phương pháp Phản châm để ép cho chữ bên trong lộ ra. Chúng tôi ai nấy đều tròn xoe mắt nhìn như dám tin vào những gì vừa diễn ra, tất cả đều vượt quá sức tưởng tượng của chúng tôi.
      Lão Ngũ với lấy cái lõi đĩa, lật qua lật lại lúc lâu rồi với giọng hết sức lạ lẫm:
      - Mẹ kiếp, cái này hay đấy, hay đấy, hay đấy…! - Lão cứ thế lẩm bẩm đến bảy tám lần, sau đó mới tiếp, - Thanh Nham Thánh cảnh chính là chỉ động Lão Mẫu ở chùa Thanh Nham đấy!
      Tôi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác, phải mất lúc sau mới định thần lại được, mọi việc hết sức kỳ lạ. Dưới lòng Cố Cung có chiếc đĩa sứ khắc chữ “Thanh Nham Thánh cảnh”, còn trong chiếc hộp càn khôn là tấm Kiện bài có khắc tên tôi, kèm lời chỉ dẫn là phải đích thân đưa Kiện bài quay về động Lão Mẫu. Những việc trùng hợp đến kỳ lạ, và trung tâm của xâu chuỗi đó lại là tôi. Nghĩ tới đây, tôi chợt linh cảm đây hình như là kịch bản có từ trước để tôi lần theo dấu vết. Thậm chí kết cục cuối cùng ra sao, cũng thể nào dự đoán trước được.
      Vậy là bí mật bên trong đĩa sứ Thanh Hoa được mở ra, chúng tôi cảm ơn Đường Nhã Kỳ rồi chuẩn bị ra về. Nhã Kỳ chợt hỏi tôi:
      - Chị Lan Lan, nghe người trong phái Kiện môn đều phải khắc tay, tại sao chị lại có?
      Tôi ngẩn người, ngờ đến cả việc này mà cũng biết. Mặc dù trong lòng hơi nghi ngại nhưng tôi vẫn trả lời thành thực nguyên do, rồi cho Nhã Kỳ xem lỗ sẹo trong lòng bàn tay của mình. Cuối cùng, tôi lấy ra tập sách Giải kiện tập lục, giở tới trang cuối cùng để xem sơ đồ đường sẹo trong lòng bàn tay.
      Bây giờ nghĩ lại, tôi cũng hiểu tại sao lúc đó mình lại hề đề phòng Đường Nhã Kỳ, mà đem toàn bộ bí mật liên quan cho biết, cũng có thể là do giữa chúng tôi sớm có sợi dây liên hệ vô hình rồi. Nhưng dù thế nào nữa tôi cũng thể đoán ra, chúng tôi như thế là vì cùng liên quan đến người con khác, cũng là trưởng môn nhân với bản lĩnh hiếm có, khiến nội tình càng trở nên phức tạp và thần diệu hơn. Dĩ nhiên, đấy là chuyện sau này.
      Đường Nhã Kỳ nhìn hồi lâu, chớp chớp đôi mắt xinh đẹp rồi nhàng cầm tay tôi lên xem và :
      - Chị Lan Lan, hay là để em khắc sơ đồ này lên tay chị nhé, như vậy chị mãi mãi bao giờ quên được.
      Quả thực lúc đấy tôi có hơi do dự. Thứ nhất là vì sợ đau; thứ hai, nếu khắc toàn bộ sơ đồ bàn tay xấu vô cùng, nhưng quan trọng hơn cả là tôi chưa nghĩ đến việc sau này có tiếp tục rèn luyện đến cấp Thiên giới hay .
      Đường Nhã Kỳ cười khúc khích, rồi ôm lấy vai tôi mà :
      - đau chút nào đâu, em xăm chìm bên trong, nhìn bề ngoài thấy gì cả.
      Tôi lưỡng lự hồi lâu, quay lại thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều đồng ý nên cũng gật đầu chấp thuận.
      Đường Nhã Kỳ ấn tôi ngồi xuống ghế, rồi với tay lấy chiếc lọ sứ, đổ ra chút dung dịch màu xanh nhạt, bôi khắp lòng bàn tay tôi. Tôi hồi hộp và lo lắng vô cùng, tay trái nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ, thấy vậy chị nhàng vuốt tóc tôi như để trấn an.
      Đường Nhã Kỳ lấy ra cây kim, nghiêng đầu nhìn sơ đồ bàn tay trong sách, ngón tay miết chặt lên lòng bàn tay tôi như để định vị những chỗ phải khắc, rồi chọc thẳng mũi kim vào vị trí chính giữa ngón cái và ngón trở, cây kim cứ thế lún sâu vào da thịt, dung dịch màu xanh tại vị trí đó cũng lập tức biến mất. Nhã Kỳ ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười và dịu dàng hỏi:
      - Chị Lan Lan, chị có đau ?
      Thấy kỳ lạ, ràng là mũi kim chọc sâu vào lòng bàn tay mà tôi lại hề cảm thấy đau đớn gì cả, mà chỉ cảm thấy hơi tê mát như có giọt nước lạnh rỏ vào, hơn nữa cảm giác này từ từ lan rộng ra khắp bàn tay.
      Đường Nhã Kỳ nhoẻn cười, tay vẫn ngừng di chuyển mũi kim với tốc độ rất nhanh. Chỉ khoảng vài phút sau, tại vị trí giữa ngón cái và ngón trỏ xuất vết sẹo hình móng ngựa màu trắng, giống y hệt trong sách.
      Vẫn theo phương pháp đó, gần tiếng đồng hồ sau, Nhã Kỳ khắc xong sơ đồ lên bàn tay phải của tôi, rồi dùng chiếc khăn sạch lau qua, lòng bàn tay vẫn trắng nguyên mà hề nhìn thấy vết sẹo hay lỗ kim nào.
      Lão Ngũ gật đầu lia lịa :
      - Hay, hay, phương pháp này kì diệu. Ha ha ha… Hay đấy, hay đấy!
      Tiếp đó, Đường Nhã Kỳ tiếp tục xăm sang bàn tay bên trái, sau đó bôi loại chất lỏng trong suốt lên hai bàn tay tôi, phủ lớp nilông bọc rồi cẩn thận dặn dò:
      - Chị Lan Lan, trong ba ngày tới chị được chạm tay vào nước, cũng được ăn hải sản đâu nhé!
      Tôi giơ hai tay lên ngắm nghía, lòng có chút lo lắng, biết những đường khắc này có hoàn toàn vào trong như lời Đường Nhã Kỳ ?
      đường trở về, Lão Ngũ ngừng lẩm bẩm, Tiểu Đường quả hề đơn giản, đặc biệt là phương pháp khắc chìm của Đường Nhã Kỳ, càng nhìn càng thấy thú vị. Tôi đáp lại, chỉ cúi đầu nghĩ ngợi lung tung, tôi luôn có cảm giác Đường Nhã Kỳ có bí mật gì đó rất kinh khủng, nhưng lại thể nào giải thích được lí do vì sao có cảm giác đó.
      Buổi tối ngày sau đó, chị Giai Tuệ đột ngột dẫn Đường Nhã Kỳ đến căn biệt thự, và việc hết sức kì quặc. Sau khi mọi người ngồi vào vị trí, Đường Nhã Kỳ bắt đầu kể lại: Buổi sáng ngày hôm nay, có trẻ giọng Cẩm Châu tới cửa hàng, đem theo miếng gỗ hồng mộc bên khắc hình rồng nhờ xem hộ. Lúc đó, vừa liếc qua ấy nhận ra, hình rồng tấm gỗ đó là sản phẩm của thuật khắc hình, hơn nữa cũng rất cũ, sau khi đó rời khỏi cửa hàng, gọi điện luôn cho chị Giai Tuệ.
      Nghe những lời kể của Đường Nhã Kỳ, tất cả chúng tôi đều cảm thấy hết sức ngạc nhiên, tại sao lại đột nhiên xuất thêm vật khắc hình nữa chứ? Liệu hai vật này có mối quan hệ gì với nhau , đó rốt cuộc là ai? Để tiện cho việc trao đổi và bàn bạc, chị Giai Tuệ thuyết phục Đường Nhã Kỳ ở lại với chúng tôi.
      Hai ngày sau đó, tôi và Đường Nhã Kỳ ban ngày dính nhau như hình với bóng, say sưa kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện trời dưới biển; tối đến ngủ cùng phòng, cảm giác như thân thiết với nhau từ rất lâu rồi. Khi biết chuyện tôi từng xuống lòng Cố Cung Thẩm Dương, Nhã Kỳ tỏ ra rất ngưỡng mộ, và rằng sau này có cơ hội nhất định phải tới đó lần cho biết.
      Đến tối ngày thứ ba, Đường Nhã Kỳ giúp tôi bóc lớp nilông hai bàn tay ra, kiểm tra lại và tự hào tuyên bố mọi thứ rất hoàn hảo. còn với tôi, sau này nếu như cần dùng tới nó, chỉ cần miết mạnh lên lòng bàn tay, màu mực dần dần lên, thậm chí còn có thể đục lỗ lên đó, thế nhưng thời tiết rất lạnh, trong thời gian đầu tốt nhất là nên đeo bao tay.
      Đúng lúc này, chị Giai Tuệ đẩy cửa bước vào, dáng vẻ rất vội vã, thậm chí còn kịp thay giầy, chị hớt hải thông báo với chúng tôi tin cực kì sốt dẻo:
      - Mau với chị, tìm thấy cầm mảnh gỗ rồng đó rồi!
      Chị Giai Tuệ lái xe đưa chúng tôi tới nhà chị, rồi vội vàng ra ngoài, lúc sau, chị trở về dẫn theo trạc tuổi chị. Chị Giai Tuệ giới thiệu với chúng tôi, đây là người bạn học từ hồi ở Học viện Cảnh sát của chị, tên là Tiêu Vy, chị ấy công tác tại phòng cảnh sát điều tra thành phố Cẩm Châu, trước đây lâu cũng gặp việc hết sức kì lạ.
      Lúc đó, tôi hoàn toàn hình dung được việc kì lạ mà Tiêu Vy gặp phải lại có mối liên quan trực tiếp tới tôi, thậm chí cả Đường Nhã Kỳ cũng tránh khỏi liên lụy, đồng thời nó còn gây ra rất nhiều việc kì bí khác nữa.
      Chiếc đĩa sứ Thanh Hoa và mảnh gỗ rồng chắc chắn là có liên quan đến nhau và là manh mối duy nhất liên quan đến bí ở địa cung. Tuy chúng tôi cố vắt óc liên kết những việc bí với nhau, nhưng vẫn tuyệt nhiên thể lần ra sợi dây xuyên suốt để đưa ra lời giải thích hợp lí. Càng tìm hiểu càng thấy rối rắm.
      lúc sau, chúng tôi quay trở về ngôi biệt thự. Theo chỉ thị của cấp , giờ chúng tôi cần suy nghĩ để ghép nối mọi chuyện lại với nhau và kiên nhẫn đợi đến ngày mười chín tháng Hai lịch để đến động Lão Mẫu ở Bắc Trấn.
      Chị Giai Tuệ có rất nhiều việc phải giải quyết ở Cục Cảnh sát, nên cách ba đến năm ngày mới tới thăm chúng tôi lần. Lão Ngũ cũng ở bên ngoài cả ngày, mấy khi chịu ngồi yên ở nhà, tôi thực lão bận rộn chuyện gì. Tôi ở nhà cả ngày biết làm gì, liền lôi bản phôtô của Giải kiện tập lục mà chị Giai Tuệ phiên dịch cho tôi, càng đọc tôi càng thấy trong đó có rất nhiều điều kì diệu mà trước đây ông nội vẫn chưa kịp dạy cho tôi.
      Thời gian trôi qua nhanh, chớp mắt cái tới ngày mười bốn tháng Hai lịch. Tối ngày hôm đó, Trưởng phòng Tư, Trần Đường và Tôn Ngọc Dương cùng tới thăm chúng tôi. Sau khi ăn cơm xong, Trưởng phòng Tư mới thông báo, hai ngày nữa chúng tôi lên đường tới Bắc Trấn, để bảo đảm an toàn, cấp quyết định để chúng tôi bằng tàu hỏa, tới nơi có cảnh sát Bắc Trấn phối hợp bảo vệ.
      Nghĩ đến việc sắp quy vị được tấm Kiện bài để trở thành người mở khóa thực thụ, tôi thấy vô cùng phấn khích, chỉ tiếc mọc được cánh để bay tới đó ngay bây giờ.
      Khi mọi người về hết, Lão Ngũ kéo tôi và chị Giai Tuệ vào phòng. Lão lôi từ dưới gầm giường ra bọc vải, bên trong lại là chuỗi vòng Ô Kim, gương Dạ Minh, lưỡi gươm mỏng và vài thứ cổ quái khác mà tôi biết tên.
      Tôi trợn tròn mắt ngạc nhiên vô cùng, những vật này phải bị mất ở dưới lòng địa cung rồi hay sao, tại sao chúng lại nằm trong tay Lão Ngũ?
      Tôi sực nghĩ rằng, có thể Lão Ngũ giấu chúng tôi để tới địa cung lần nữa.
      Thấy chúng tôi vẫn ngơ ngác chưa hiểu gì, Lão Ngũ ngửa cổ cười ha hả, rồi rằng gương Dạ Minh gồm có hai chiếc, ngày xưa sư phụ trao lại cho lão và em trai lão là Hắc Lão Tam. Mấy ngày trước lão đến mượn em trai, lần đến động Lão Mẫu này nhất định phải dùng đến.
      Tôi khẽ gật đầu, trong lòng tự nhủ, Lão Tam chắc chắn cũng là nhân vật khá lợi hại, nhưng vẫn thấy khó hiểu, tại sao Lão Ngũ lại rất ít khi nhắc đến ông ấy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :