Thảm Kịch Bí Ẩn Ở Styles - Agatha Christine (12 chương + 1 chương kết)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG XI: PHIÊN TÒA (Tiếp)

      Poirot quả là nhà tiên tri. Tôi vào chi tiết của buổi thẩm vấn của viện công tố, bởi vì như thế kéo theo những lặp lại chán ngắt. Tôi chỉ thêm John Cavendish hoãn việc bào chữa của mình lại và bị tống giam trong khi chờ đợi phiên tòa.
      Vào tháng chín, chúng tôi lại tụ họp đông đủ ở London. Mary mướn căn nhà ở Kensington và Poirot có mặt đầy đủ ở các buổi họp mặt của gia đình. Tôi cũng xin được chân ở Bộ Quốc Phòng và như thế có thể gặp mặt bạn bè thường.
      Các tuần lễ càng trôi qua nóng nảy của Poirot lại càng tăng lên. Cái “mắt xích cuối cùng” mà ông đến vẫn còn thiếu. Riêng tôi, tôi rất mong cho ông tìm được nó, bởi vì tương lai dành cho Mary hạnh phúc như thế nào, nếu như John được tha bổng?
      Ngày mười lăm tháng chín, John Cavendish ra trước vành móng ngựa vì tội cố sát Emily-Agnés Inglethorp. vẫn mực kêu oan.
      Ngài Ernest Heavywether, vị cố vấn nổi tiếng của Nhà Vua, được giao nhiệm vụ bào chữa cho John.
      Ông Philips, công tố của Nhà Vua, mở đầu cuộc tranh tụng.
      Ông tuyên bố: Vụ giết người có toan tính trước và được thực cách thản nhiên. Đó là việc đầu độc phụ nữ cả tin và đáng bởi đứa con chồng, người đối với ta còn hơn là bà mẹ nữa. Bà đùm bọc từ thuở . và vợ sống ở Styles Court trong giàu sang thừa thãi, trong quan tâm và chăm sóc của bà. Bà là ân nhân của .
      Ông đề nghị cho mời các nhân chứng ra để chứng minh là John kiệt quệ về tài chánh và theo đuổi mối quan hệ bất chính với bà Raikes, vợ nông dân ở gần đấy. Bà mẹ kế biết được kiện đó buộc tội vào buổi trưa trước khi bà chết. Và tiếp theo sau đó cuộc cãi vả nổ ra mà phần được nghe thấy. Hôm trước, bị can đến mua Strychnin ở hiệu thuốc trong làng, cải trang để mong đổ tội cho người đàn ông khác, nghĩa là cho chồng của bà Inglethorp. Rất may là ông Inglethorp có thể đưa ra bằng chứng vô can thể bác bỏ được.
      Trưa hôm mười bảy tháng bảy, viên công tố của Nhà Vua tiếp, bà Inglethorp viết tờ di chúc mới ngay sau cuộc cãi vã với đứa con chồng. Người ta tìm thấy tờ di chúc đó bị đốt cháy trong lò sưởi của phòng ngủ vào sáng hôm sau, nhưng sau đó người ta phát được bằng chứng cho rằng tờ di chúc đó được lập thuận lợi cho chồng nạn nhân. Bà lập tờ di chúc thuận lợi cho chồng trước đám cưới nhưng (và ở đây ông Philips lúc lắc ngón trỏ cách đầy ý nghĩa) bị cáo biết đến chi tiết này. thể biết được lý do nào khiến cho nạn nhân lập tờ di chúc mới, trong khi cái cũ vẫn tồn tại. Bà luống tuổi và có thể quên mất diện của tờ di chúc trước. Hoặc giả, và điều này có vẻ hợp lý hơn dưới mắt ông Philips, có lẽ bà tưởng rằng tờ di chúc còn giá trị nữa từ sau cuộc hôn nhân của mình, vì được nghe về vấn đề này. Phụ nữ thường được rành lắm về pháp lý. Khoảng năm về trước, bà lập di chúc thuận lợi cho bị cáo. Ông Philips định cho gọi những nhân chứng để chứng minh rằng rốt cuộc chính bị cáo là người đem tách cà-phê đến cho mẹ kế vào buổi tối định mệnh ấy. Sau đó ta đột nhập vào phòng để thủ tiêu tờ di chúc mà vắng nó, biết, khiến cho tờ di chúc thuận lợi cho trở nên hợp lê.
      Bị cáo bị bắt giữ sau khi thám tử Japp, viên cảnh sát rất giỏi, phát ra lọ Strychnin mà viên dược sĩ trong làng bán cho người được xem là ông Inglethorp, trước hôm xảy ra vụ án. Việc quyết định xem những kiện vừa rồi có tạo nên bằng chứng luận tội thể chối cãi được đối với bị cáo hay là việc của Bồi Thẩm Đoàn.
      Và, sau khi tế nhị ám chỉ thể tin được là Bồi Thẩm Đoàn quyết định như thế, ông Philips ngồi xuống và lau trán.
      Những nhân chứng buộc tội đầu tiên phần lớn đều là những người được gọi ra ở buổi thẩm vấn, trước tiên là các bác sĩ.
      Ngài Ernest Heavywether, nổi tiếng khắp nước về cách làm cho nhân chứng bị bối rối, chỉ đặt hai câu hỏi thôi.
      - Theo như tôi hiểu, bác sĩ Bauerstein ạ, Strychnin là loại độc dược có công hiệu rất nhanh.
      - Vâng.
      - Và trong trường hợp đặc biệt này ông thể giải thích được chậm trễ?
      - Đúng vậy.
      - Xin cám ơn.
      Ông Mace nhận dạng chiếc lọ mà viên công tố đưa ra đúng như là chiếc lọ ông bán cho ông Inglethorp. Bị thúc ép, ông thừa nhận ông chỉ biết mặt ông Inglethorp thôi. Ông chưa bao giờ chuyện với ông ấy cả. Nhân chứng bị hỏi thêm gì nữa.
      Alfred Inglethorp, bị gọi ra, chối phăng việc mua độc dược. Ông cũng bác bỏ việc cãi nhau với vợ. Nhiều nhân chứng xác nhận lời khai của ông ta là chính xác.
      Sau đó người ta nghe lời khai của những người làm vườn về chuyện tờ di chúc, rồi đến lượt Dorcas được gọi ra.
      mực trung thành đối với “các cậu chủ” của mình, Dorcas kịch liệt nhận bà nghe thấy giọng của John và kiên quyết tuyên bố, mặc dù điều này trái ngược với hiển nhiên, rằng chính ông Inglethorp có mặt trong thư phòng. nụ cười khá u buồn thoáng gương mặt của bị cáo. thừa biết rằng can thiệp dũng cảm của Dorcas là vô ích, bởi vì chính luật sư bào chữa cũng định bác bỏ kiện này. Dĩ nhiên là bà Cavendish thể được gọi ra để làm chứng chống lại chồng mình.
      Sau khi hỏi vài câu về những vấn đề khác, ông Philips hỏi:
      - Vào tháng sáu vừa rồi, bà có nhớ rằng có bưu kiện được hãng Parkson gửi đến cho ông Laurence Cavendish ?
      Dorcas lắc đầu.
      - Tôi nhớ nữa. Có thể là có đấy, nhưng ông Laurence vắng nhà hầu như là suốt tháng sáu.
      - Trong trường hợp có bưu kiện gởi đến cho ông ta trong lúc vắng người ta làm gì?
      - Người ta đem để trong phòng của cậu ấy hoặc trả lại người gởi.
      - Có phải bà làm nhiệm vụ đó ?
      - , thưa ông. Tôi chỉ đem nó đặt chiếc bàn trong tiền sảnh thôi. Howard mới làm chuyện đó.
      Evelyn Howard được gọi ra và sau khi được hỏi về những vấn đề khác, vấn đề gói bưu kiện được đặt ra với .
      - Tôi nhớ nữa. Có nhiều bưu kiện được gởi đến lắm. Tôi thể nhớ riêng gói nào được.
      - biết nó có được gởi tiếp đến xứ Galles cho ông Laurence, hoặc bỏ trong phòng ông ta sao?
      - Tôi cho rằng nó được gởi tiếp . Nếu tôi nhớ rồi.
      - Nếu như bưu kiện nào gởi cho ông Laurence Cavendish mà sau đó bị biến mất có nhận thấy mất mát đó ?
      - , tôi nghĩ là . Tôi cho là người nào khác nhận lãnh nó.
      - Howard ạ, hình như chính phát ra tờ giấy màu nâu này phải?
      Ông giơ tờ giấy đầy bụi bặm mà Poirot và tôi xem xét trong phòng khách ở Styles.
      - Vâng, chính tôi.
      - Làm thế nào mà lại tìm nó chứ?
      - Viên thám tử người Bỉ đảm nhận vụ án này nhờ tôi tìm hộ.
      - tìm thấy nó ở đâu?
      - đầu… tủ gương.
      - đầu tủ của bị cáo, phải ?
      - Tôi… tôi chắc thế.
      - Chính tìm thấy nó ư?
      - Vâng.
      - Thế phải biết tìm thấy nó ở đâu chứ?
      - Vâng. đầu tủ của bị cáo.
      - Như thế tốt hơn đấy.
      nhân viên bán hàng ở chỗ Parkson, hiệu quần áo đóng tuồng, xác nhận rằng ngày mười chín tháng sáu họ giao bộ râu đen cho ông L. Cavendish như ông này đặt mua. Đơn đặt hàng là bức thư có kèm theo tấm ngân phiếu. . Họ giữ lại bức thư, vì tất cả các đơn đặt hàng được lưu vào sổ. Họ gửi bộ râu theo như chỉ dẫn, đến cho L. Cavendish Esq., Styles Court.
      Ngài Ernest Heavywether nặng nề đứng lên.
      - Bức thư từ đâu đến vậy?
      - Từ Styles Court.
      - Cùng địa chỉ với nơi ông phải gởi bưu kiện ư?
      - Vâng.
      Heavywether lao đến ông ta như con thú vồ mồi.
      - Làm sao ông biết được?
      - Tôi… tôi hiểu?
      - Làm sao ông biết được bức thư được gởi đến từ Styles Court? Ông có để ý đến con dấu của bưu điện ?
      - … nhưng…
      - À! Ông để ý đến dấu bưu điện sao? Thế mà ông lại khẳng định nó được gởi đến từ Styles. Suy cho cùng đó có thể là bất cứ con dấu nào chứ?
      - Vâng.
      - cho cùng bức thư, mặc dù được viết giấy có nhãn của Styles Court, nó vẫn có thể được bỏ ở bưu điện bất cứ nơi đâu. Ở xứ Galles chẳng hạn?
      Nhân chứng thừa nhận rằng có thể là trường hợp đó và ngài Ernest tỏ vẻ hài lòng.
      Elisabeth Wells, người hầu phòng thứ hai ở Styles Court, xác nhận rằng sau khi nằm, bà chợt nhớ cài then cánh cửa ra vào thay vì chỉ khóa bằng chìa khóa như ông Inglethorp dặn. Do đó bà trở xuống để sửa chữa sai lầm đó. Bà nghe thấy tiếng động bên cánh trái và, liếc nhìn dọc theo hành lang, bà trông thấy ông John Cavendish gõ cửa phòng bà Inglethorp.
      Ngài Ernest nhanh chóng lèo lái bà ta theo ý mình và, bằng những câu hỏi dồn dập và thương tiếc của mình, ông dẫn bà ta đến chỗ phải tự mâu thuẫn với chính mình. Rồi ông ta ngồi xuống với nụ cười hài lòng.
      Sau lời chứng của Annie về vết sáp tấm thảm và về việc trông thấy bị cáo đem cà-phê vào thư phòng, phiên tòa được hoãn lại đến hôm sau.

      * * *
      Prunus Ngọc thích bài này.

    2. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG XI: PHIÊN TÒA (Tiếp)

      đường trở về nhà, Mary Cavendish cay đắng kêu ca về viên công tố của nhà vua.
      - con người đáng ghét biết mấy! Ông ta tìm cách giăng bẫy xung quanh John đáng thương của tôi. Với khôn khéo quý phái, ông ấy biến đổi từng kiện , hòng mang lại cho nó dáng dấp phù hợp với ý muốn của mình.
      - Thế ngày mai phải trái ngược lại - tôi để an ủi bà.
      - Phải - Bà mơ màng đáp.
      Rồi bất ngờ bà xuống giọng.
      - Ông Hastings này, ông có cho rằng Laurence có thể là thủ phạm ? Ồ! đâu! thể như thế được!
      Chính tôi cũng rất thắc mắc và, ngay khi còn lại mình với Poirot, tôi hỏi ông ấy mục đích của ngài Ernest là gì.
      - Ồ! - Poirot bảo - Ngài Ernest là con người rất thông minh.
      - Ông có cho rằng ông ta tin Laurence là thủ phạm ?
      - Tôi cho rằng ông ta chẳng tin gì cả. . Ông ta chỉ tìm cách tạo ra rất nhiều rối ren trong đầu óc của các bồi thẩm, nhằm làm cho họ làm sao biết được ai trong số hai em là thủ phạm nữa. Ông ta tìm cách chứng minh những bằng chứng buộc tội Laurence cũng nhiều bằng những chứng cớ bất lợi cho John và tôi dám chắc ông ta thất bại đâu.

      * * *

      Hôm sau, lúc bắt đầu phiên tòa, người chứng đầu tiên được gọi lên là thanh tra Japp. Ông khai trước tòa hết sức ngắn gọn. Sau khi trình bày những kiện đầu tiên, ông tiếp:
      - Tiếp theo vài thông tin, Summerhaye và tôi lục soát phòng của bị cáo trong lúc vắng mặt ngắn ngủi của này. Trong ngăn tủ quần áo, giấu dưới chồng quần đùi và áo lót, thoạt tiên chúng tôi tìm thấy cặp kiếng kẹp mũi gọng vàng, giống như của ông Inglethorp (cặp kiếng được đưa ra trình) và thứ hai nữa là chiếc lọ này đây.
      Chiếc lọ được người dược sĩ nhận diện: chiếc lọ xíu bằng thủy tinh màu xanh, trong đựng vài hạt bột màu trắng và nhãn ghi:
      Strychnin-clorat
      Độc dược.
      Từ sau buổi hỏi cung, các thám tử tìm ra bằng chứng mới: mảnh giấy thấm dài, gần như mới toanh. Họ tìm thấy nó trong cuốn séc của bà Inglethorp và, đặt nó trước tấm gương, người ta thấy những chữ sau: “Tôi để lại những gì thuộc sở hữu của tôi cho người chồng quý của tôi: Alfred Ingl…”. Điều này cho thấy đích thực tờ di chúc bị thiêu hủy được lập với thuận lợi dành cho chồng của nạn nhân. Sau đó Japp đưa ra mẩu giấy cháy đen tìm thấy trong lò sưởi, cái mà, cùng với phát của bộ râu nhà kho bổ sung cho lời khai của ông.
      Nhưng luật sư của bị báo lại hỏi thêm ông vài câu:
      - Ông lục soát phòng của thân chủ tôi vào hôm nào?
      - Thứ ba, hai mươi bốn tháng bảy.
      - Đúng tuần sau vụ án?
      - Phải.
      - Ông rằng tìm thấy hai món đồ đó trong tủ quần áo. Vậy ra ngăn kéo khóa ư?
      - .
      - Ông thấy việc người vừa mới gây án lại cất giữ bằng chứng buộc tội mình trong ngăn kéo khóa, mà người đầu tiên đến có thể lấy được, là phi lý sao?
      - Có thể vội vã trong khi cất giấu.
      - Nhưng ông vừa bảo rằng nguyên tuần lễ trôi qua từ sau vụ án kia mà. Do đó ta có thừa giờ để đem chỗ khác và hủy chúng chứ?
      - Có thể.
      - còn phải nghi ngờ điều đó nữa. ta có giờ để đem chỗ khác và hủy chúng , có hay ?
      - Có.
      - Chồng quần đùi và áo lót dưới đó những đồ vật này được cất giấu dày hay mỏng?
      - Khá dầy.
      - cách khác, đó là những quần áo mùa đông. Như vậy rất có thể bị cáo mở đến ngăn tủ đó chứ?
      - Có thể là ?
      - cầu ông trả lời đúng vào câu hỏi của tôi. Việc bị cáo, trong tuần lễ nóng nhất của mùa hè, lại có thể mở ngăn kéo đựng quần áo của mùa đông ra là có thể xảy ra hay ?
      - .
      - Trong trường hợp đó, có thể nào những vật ấy được người thứ ba nào đó đặt vào đấy mà thân chủ hay biết gì ?
      - Điều đó tôi thấy khó mà xảy ra.
      - Nhưng có thể chứ?
      - Vâng.
      - Thế thôi.
      Những lời khai thác tiếp theo sau lên những khó khăn về tài chính của bị cáo vào cuối tháng bảy, và quan hệ của ta với bà Raikes. Tội nghiệp Mary! Tự ái của bà phải chịu thử thách nặng nề biết mấy! Evelyn Howard có lý phần nào, nhưng lòng thù hận của ta đối với Alfred Inglethorp khiến kết luận quá vội vã rằng chính ta là người đàn ông đó.
      Sau đó Laurence Cavendish được gọi ra. khẽ trả lời những câu hỏi của ông Philips và chối rằng hề đặt mua gì ở cửa hàng Parkson vào tháng sáu. Quả vậy, hôm mười chín tháng sáu, ở xử Galles.
      Đúng lúc đó, ngài Ernest tiến đến, chiếc cằm đưa ra đầy vẻ công kích.
      - Ông nhận đặt mua bộ râu màu đen ở chỗ Parkson sao?
      - Tôi nhận.
      - Ồ! Hãy cho tôi biết ai thừa hưởng Styles Court trong trường hợp có chuyện gì xảy đến cho của ông?
      thô bạo của câu hỏi đó khiến cho Laurence đỏ mặt. Viên chánh án khẽ phản đối và, ở ghế bị cáo, John chồm ra phía trước với vẻ tức tối.
      Nhưng Heavywether màng đến tức giận của bị cáo.
      - Hãy trả lời tôi, xin ông.
      - Tôi cho rằng đó là tôi - Laurence bình thản đáp.
      - Ông muốn gì qua “tôi cho rằng”? của ông có con. Như vậy chính ông thừa hưởng, phải ?
      - Phải.
      - À! Có thế chứ! Heavywether với nụ cười dữ tợn. Và ông cũng thừa hưởng cả khoản tiền lớn, phải ?
      - Ngài Ernest ạ - viên chánh án phản đối - những câu hỏi đó quả là đúng lúc.
      Ngài Ernest nghiên đầu và tiếp:
      - Hôm thứ ba, mười bảy tháng bảy, ông có đến tham quan bệnh xá của Hội Chữ Thập Đỏ ở Tadminster cùng với người bạn, phải ?
      - Vâng.
      - Và, tình cờ có mình trong phòng ít lâu, ông mở tủ đựng độc dược và xem xét vài chai lọ?
      - Tôi… có thể tôi làm như vậy.
      - Tôi chắc chắn ông làm chuyện đó.
      - Vâng.
      Câu hỏi tiếp theo của ngài Ernest rít lên như phát súng:
      - Ông có đặc biệt xem xét chiếc lọ nào ?
      - , tôi cho rằng .
      - Hãy coi chừng, ông Cavendish ạ. Tôi muốn chiếc lọ đựng Hydro-Clorat Astrychnin.
      Laurence xanh mặt.
      - , tôi tin chắc đụng đến nó.
      - Thế làm sao ông giải thích được việc người ta tìm thấy dấu tay của ông đó chứ.
      Với tính cách như của Laurence biện pháp mạnh rất có hiệu quả.
      - Tôi cho rằng tôi đụng đến chiếc lọ.
      - Tôi cũng nghĩ như vậy. Ông có lấy bớt phần những gì chứa trong đó ?
      - Chắc chắn là .
      - Thế tại sao ông lại đụng đến nó.
      - Trước kia tôi có học y khoa. Và tất nhiên là những thứ đó khiến tôi chú ý.
      - À! Như vậy đó, những độc dược “tự nhiên là gây chú ý” của ông, phải nào? Thế mà ông lại đợi khi chỉ có mình để thỏa mãn chú ý đó?
      - Đó chỉ là tình cờ mà thôi. Tôi cũng hành động như vậy nếu như những người khác có mặt ở đó.
      - Thế nhưng họ lại có ở đó, phải ?
      - Vâng, nhưng…
      - Quả là như vậy, suốt cả buổi chiều ông chỉ ở mình trong hai phút mà thôi, và chính trong hai phút đó, ông cảm thấy “ chú ý tự nhiên” đối với chất Hydro-clorat Strychnin sao?
      Laurence ấp úng cách thảm hại:
      - Tôi… tôi…
      Ngài Ernest nhận xét với vẻ hài lòng:
      - Tôi còn gì để hỏi ông nữa cả, ông Cavendish ạ.
      Cuộc hỏi cung chặt chẽ đó được mọi người chăm chú theo dõi. Trong đám đông, những phụ nữ quý phái còn bắt đầu chuyện to đến độ ông chánh án bực bội hăm dọa cho giải tán căn phòng ngay lập tức nếu như im lặng hoàn toàn được tôn trọng cách nghiêm ngặt.
      Sau đó rất ít lời khai nào khác. Những chuyên viên về chữ viết được gọi ra để xem xét chữ ký của Alfred Inglethorp sổ mua độc dược của ông dược sĩ. Họ đều nhất trí tuyên bố đó là chữ ký giả, hoặc là chữ viết được biến đổi của bị cáo. Được hỏi ngược lại, họ nhìn nhận răng đó có thể là giả mạo khéo léo của bị cáo.
      Ngài Ernest Heavywether mở đầu phần bào chữa của mình bằng bài diễn thuyết ngắn, được phát biểu dưới mạnh bạo cố hữu của mình. Ông tuyên bố rằng suốt bao nhiêu năm kinh nghiệm của mình, ông chưa bao giờ thấy lời buộc tội nào lại dựa những bằng chứng sơ sài đến như thế. Bằng chứng những chỉ dựa những vật mà hầu hết chúng còn mong manh nữa. Bồi thẩm đoàn nên ghi lại những lời khai nghe và xem xét cho kỹ, vô tư. Người ta tìm thấy chất Strychnin trong ngăn tủ của bị cáo. Ngăn tủ đó khóa, như ông đưa ra nhận xét, và ông quả quyết rằng có vật gì chứng minh chính thân chủ ông giấu độc dược ở đó. vậy, đó là hành động khôn khéo của người thứ ba để đổ tội cho bị cáo. Người ta thể chứng minh chính ta là người đặt mua bộ râu đen ở chỗ Parkson. Vụ cãi vã xảy ra giữa bị cáo và bà mẹ kế, những khó khăn về tài chánh của bị cáo được thổi phồng lên cách thô lỗ. Ông bạn trứ danh của ông (và ngài Ernest thờ ơ hất đầu về phía Philips) bảo rằng nếu như bị cáo vô tội ta phải nhanh nhẩu tuyên bố ở buổi hỏi cung răng chính mình, chứ phải Inglethorp, là nhân vật của cuộc cãi vã. Ngài Ernest cho rắng các kiện được cố ý hiểu sai . như thế này đây: chiều hôm thứ ba sau khi trở về Styles Court, bị cáo gặp người nào đó quả quyết với ta ông bà Inglethorp cãi nhau kịch liệt. giây phút nào bị cáo có ý nghĩ người ta có thể lầm tưởng giọng của mình thành ra giọng của ông Inglethorp, và kết luận cách tự nhiên mẹ kế mình cãi nhau hai lần chiều hôm đó.
      Lời buộc tội quả quyết, hôm thứ hai ngày mười bảy tháng bảy ông John Cavendish bước vào hiệu thuốc trong làng, cải trang thành ông Inglethorp. Thế nhưng, vào lúc đó bị cáo lại ở nơi vắng vẻ có tên gọi là Marston Spinney, nơi mà cái thư nặc danh cầu đến: Bức thư nặc danh đó hăm dọa tiết lộ với vợ vài hành động của nếu như vâng theo. Do vậy đến nơi chỉ định và chỉ quay về nhà sau khi mất công chờ đợi vô ích trong vòng nửa tiếng. Rất tiếc là gặp ai, cả lượt lẫn lượt về, để có thể xác nhận lời khai của mình, nhưng may thay giữ lại bức thư mà người ta đưa ra làm bằng chứng.
      Còn về lời khai liên quan đến việc tiêu hủy tờ di chúc, bị cáo trước đây hoạt động trong lĩnh vực pháp lý, thể biết bức di chúc lập cách đó năm thuận lợi cho tự động mất giá trị do việc kết hôn của bà mẹ kế. Ngài Ernest đề nghị cho gọi các nhân chứng để xác định ai tiêu hủy tờ di chúc, và biết đâu những lời khai này có thể đem lại ánh sáng gì mới cho vụ án.
      Sau hết, ông khuyến cáo bồi thẩm đoàn rằng còn có những bằng chứng buộc tội nhiều người khác hơn là John Cavendish. Ông hướng chú ý của họ vào những kiện, những bằng chứng buộc tội ông Laurence Cavendish cũng mạnh mẽ bằng, nếu muốn là mạnh hơn, những bằng chứng buộc tội người .
      Đến đây ông nhường lời cho bị cáo.
      John thực vai trò của mình khá thành công. Dưới chỉ đạo khéo léo của ngài Ernest, kể lại câu chuyện của mình cách rất . Bức thư nặc danh mà nhận được đưa ra cho bồi thẩm đoàn xem xét. kiện John nhanh nhẹn nhận những khó khăn về tài chánh của mình và cuộc cãi vã với bà mẹ kế càng nhấn mạnh thêm giá trị lời phản cung của mình.
      Cuối cuộc hỏi cung, do dự lúc rồi thêm:
      - Tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề. Tôi lấy làm tiếc và hoàn toàn phản đối những lời ám chỉ của ngài Ernest Heavywether đối với em trai tôi. Tôi tin chắc em tôi cũng vô can đối với vụ án như chính tôi vậy.
      Ngài Ernest mỉm cười và bằng cái nhìn sắc, ông nhận thấy phản kháng của John tạo được ấn tượng tốt ở bồi thẩm đoàn.

      * * *
      Prunus Ngọc thích bài này.

    3. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG XI: PHIÊN TÒA (Tiếp)

      Rồi đến phần hỏi cung của phía công tố.
      - Nếu như tôi hiểu đúng - ông Philips - ông xác nhận bao giờ nghĩ rằng những nhân chứng ở buổi hỏi cung lại có thể tưởng lầm giọng của ông thành ra giọng của Inglethorp sao?
      - Vâng. Người ta bảo với tôi rằng xảy ra cuộc cãi vã giữa mẹ tôi và ông Inglethorp và tôi luôn luôn tin là như thế.
      - Ngay cả khi bà Dorcas nhắc lại vài mẩu đối thoại mà lẽ ra ông phải nhận ra sao?
      - Tôi nhận ra.
      - Trí nhớ của ông kém đấy.
      - , nhưng cả hai chúng tôi đều rất nóng và những câu của chúng tôi, theo tôi nghĩ, vượt qua khỏi suy nghĩ của chúng tôi. Tôi mấy để ý đến những lời của mẹ tôi.
      Cái khịt mũi đầy hoài nghi của ông Philips đắc thắng của tài khéo léo của luật pháp. Ông chuyển sang vấn đề của bức thư.
      - Ông đưa văn kiện này ra đúng lúc.. Chữ viết có vẻ quen thuộc đối với ông sao?
      - Theo tôi biết .
      - Ông thấy nét tương tự rất với chính chữ viết của ông… bị biến đổi cách vụng về hay sao?
      - , tôi nghĩ như vậy.
      - Tôi cho đó chính là chữ viết của ông.
      - Tôi phản cung.
      - Tôi cho rằng, với ý muốn đưa ra chứng cứ thuận lợi cho mình, ông nảy ra ý nghĩ về cuộc hẹn tưởng tượng và khá vô lý, và ông tự viết cho mình bức thư này để khẳng định cho lời khai của mình.
      - đúng như thế.
      - Có phải đúng vào lúc ông tuyên bố đợi ở nơi vắng vẻ ra ông lại có mặt ở hiệu thuốc ở Styles Saint-Mary, nơi ông mạo danh ông Inglethorp để mua Strychnin ?
      - . Đó là lời dối.
      - Tôi cho rằng, mặc bộ quần áo của ông Inglethorp và đeo bộ râu giả màu đen như của ông ta, ông có mặt ở chỗ ông dược sĩ và ký tên vào sổ của ông này.
      - Điều đó hoàn toàn sai.
      - Trong trường hợp đó, tôi nhường cho bồi thẩm đoàn xem xét tương tự nét giữa chữ viết trong bức thư, trong cuốn sổ và chữ viết của ông.
      Ông Philips và ngồi xuống với vẻ của người làm tròn trách nhiệm của mình và cảm thấy bất bình trước những lời phản cung trắng trợn đến như vậy.
      * * *

      Phiên tòa được dời đến ngày thứ hai do hết giờ.
      Tôi nhận thấy Poirot có vẻ rất nản chí. Ông nhíu mày với vẻ quá quen thuộc đối với tôi.
      - Có chuyện gì vậy, ông Poirot? - Tôi hỏi.
      - Này! bạn ạ, mọi chuyện đều xấu , rất xấu.
      Ngoài ý muốn của mình, tim tôi đập mạnh vì nhõm. Quả là có nhiều hy vọng để John Cavendish được tha bổng.
      Về đến nhà, Poirot từ chối lời mời tách trà của Mary.
      - , cảm ơn bà. Tôi về phòng nghỉ đây.
      Tôi theo ông. Vẫn lo lắng, ông tiến về phía bàn giấy và cầm lấy bộ bài. Rồi ông kéo chiếc ghế đến bên bàn, và trước kinh ngạc của tôi, ông trịnh trọng xếp các lá bài thành tòa lâu đài.
      Có lẽ tôi có vẻ ngạc nhiên lắm, bởi vì ông vội :
      - , ạnh bạn ạ, tôi còn trẻ con đâu. Tôi làm dịu thần kinh đấy thôi. Việc này cần đến khéo tay. Mà khéo tay lại đòi hỏi đầu óc minh mẫn. Và bao giờ tôi lại cần đến nó bằng lúc này đây.
      - Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi.
      Bằng cú đấm mạnh lên bàn, Poirot phá hủy công trình cẩn thận dựng lên.
      - Thế đấy, bạn ạ. Tôi có thể xây tòa lâu đài cao bảy tầng bằng các lá bài, thế mà tôi làm sao tìm được cái mắt xích cuối cùng ấy.
      biết gì nên tôi thận trọng giữ im lặng và ông lại từ từ dựng lên kiến trúc mong manh khác, vừa trò chuyện bằng những câu ngắt quãng.
      - Người ta làm như thế đấy, bằng cách đặt lá bài này lên lá kia, với chính xác của toán học.
      Tòa lâu đài bằng các lá bài ra dưới tay ông, tầng này nối tiếp tầng kia, ông hề do dự. Có thể đó gần như là trò ảo thuật vậy.
      - Đôi tay của ông vững biết mấy - tôi nhận xét - Tôi cho rằng chỉ trông thấy ông run tay có lần mà thôi.
      - Có lẽ đó là lúc tôi điên tiết đấy - Poirot thản nhiên .
      - Ồ, đúng vậy! Ông phát điên lên. Ông có nhớ ? Đó là lúc ông phát ra ổ khóa của chiếc rương của bà Inglethorp bị phá. Ông đứng bên lò sưởi và theo thói quen của mình, ông táy máy đến những đồ vật trưng bày đó, và tay ông run lẩy bẩy. Tôi phải rằng…
      Nhưng tôi chợt im bặt. Bởi vì lêu lên tiếng khô khan và thành lời, Poirot lại phá hủy tòa lâu đài bằng các lá bài của mình và, lấy tay che mắt, ông đong đưa người từ trước ra sau, như bị xâm chiếm bởi lo âu khủng khiếp nhất.
      - Chúa ơi! Poirot, có chuyện gì vậy? - Tôi kêu lên - Ông có bệnh đấy?
      - , … Chỉ… chỉ có điều là tôi vừa thoáng có ý nghĩ.
      - Ồ! - Tôi kêu lên nhõm - ý nghĩ của ông.
      - À! đâu! - Poirot thẳng thắn cãi - Lần này ý nghĩ vĩ đại cơ đấy. Đáng kinh ngạc! Và chính là nhờ , nhờ đấy, bạn ạ.
      Ông chợt ôm chầm lấy tôi, nồng nhiệt hôn lên má tôi. Rồi, trước khi tôi kịp thoát ra khỏi ngạc nhiên của mình, ông lao ra khỏi phòng.
      Đúng lúc đó, Mary Cavendish bước vào.
      - Ông Poirot làm sao thế? Ông ta vừa chạy vừa xô đẩy tôi và kêu to: “ tiệm sửa xe! Làm ơn chỉ cho tôi tiệm sửa xe!”. Trước khi tôi kịp trả lời, ông ta vọt ra ngoài đường.
      Tôi chạy đến bên cửa sổ. vậy, tôi thấy Poirot, đầu để trần, lao xuống đường, vừa khoa tay. Tôi quay sang Mary và phác cử chỉ tuyệt vọng.
      - Ông ta bị bắt mất thôi. Kìa! Ông ta biến mất ở khúc quẹo rồi.
      Chúng tôi nhìn nhau.
      - Có chuyện gì mới được chứ?
      Tôi lắc đầu.
      - Tôi cũng biết nữa. Ông ta xây lâu đài bằng các lá bài, bỗng kêu lên ông vừa có ý nghĩ, thế rồi ông chạy vụt , như bà thấy đấy.
      - Thế ông ta quay về vào buổi tối chứ? - Mary .
      Nhưng đêm buông xuống mà Poirot vẫn chưa quay về.

    4. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG XII: MẮT XÍCH CUỐI CÙNG

      ra bất ngờ của Poirot khiến tất cả chúng tôi đều thắc mắc. Sáng chủ nhật trôi qua mà ông ta vẫn chưa trở về. Nhưng, vào khoảng mười lăm giờ, tiếng còi xe to và dài bên ngoài thúc giục chúng tôi chạy đến bên cửa sổ, và chúng tôi thấy Poirot từ xe bước xuống, cùng với Japp và Summerhaye. Người đàn ông bé thay đổi hoàn toàn. Trông ông rạng rỡ hẳn lên vì hài lòng. Ông kính cẩn nghiêng mình cách quá đáng trước Mary Cavendish.
      - Thưa bà, tôi xin phép được triệu tập cuộc họp ở phòng khách. Tất cả mọi người nhất thiết phải có mặt.
      Mary mỉm cười buồn bã.
      - Ông thừa biết, ông Poirot ạ, ông toàn quyền được hành động dưới mọi hình thức.
      Vẫn tươi rói, Poirot đẩy chúng tôi vào phòng khách và kéo ghế cho chúng tôi.
      - Howard ạ, mời ngồi xuống đây. Cynthia, chỗ này, xin . Ông Laurence. Bà Dorcas và Annie. Được rồi. Chúng ta chỉ còn phải đợi ông Inglethorp lát thôi. Tôi viết cho ông ta mấy chữ.
      Thế là Howard nhổm dậy.
      - Nếu người đàn ông đó đặt chân vào nhà này tôi ngay.
      - ! !
      Poirot đến bên . Cuối cùng Howard đồng ý ngồi xuống và lát sau, Alfred Inglethorp ra bậc thềm.
      Mọi người có mặt đông đủ, Poirot đứng dậy và lịch chào mọi người.
      - Thưa quý ông, quý bà, như tất cả mọi người biết, tôi được ông John Cavendish mời đến để làm sáng tỏ vụ án này. Tôi liền quan sát phòng ngủ của bà Inglethorp mà theo lời các bác sĩ, được khóa trái. Do vậy, nó còn nguyên trong tình trạng như lúc xảy ra thảm kịch. Thoạt tiên, tôi tìm thấy mẩu vải xanh, thứ hai là vết ẩm ướt tấm thảm, gần cửa sổ, thứ ba là hộp bột brô-mua trống.
      Hãy xem xét mẩu vải xanh . Tôi tìm thấy nó kẹt trong ổ khóa cửa ăn thông giữa phòng ngủ của bà Inglethorp và phòng của Cynthia. Tôi giao mẩu vải đó cho cảnh sát nhưng họ mấy quan tâm đến nó. Họ nhận ra xuất xứ của nó: mảnh vải rách từ bộ quần áo làm vườn màu xanh lá cây.
      làn sóng kích động liền nổi lên trong phòng.
      - Thế nhưng, ở Styles Court, chỉ có người làm công việc vườn tược thôi: bà Cavendish. Vậy bà Cavendish phải là người vào phòng người chết bằng cánh cửa ăn thông sang phòng Cynthia.
      - Nhưng cánh cửa đó bị khóa trái từ bên trong kia mà! - Tôi kêu lên.
      - Phải, nhưng là khi tôi xem xét căn phòng cơ. Về vấn đề này chúng ta chỉ có khẳng định của bà Cavendish thôi, vì chính bà thử mở cánh cửa đó và sau đó tuyên bố rằng nó bị khóa. Trong hỗn loạn lúc bấy giờ, bà có thể cài then lại mấy khó khăn. Tôi lợi dụng dịp may đầu tiên để kiểm tra lại phỏng đoán của mình. Thoạt tiên, mảnh vải phù hợp với vệt rách ở áo của bà Cavendish. Sau đó, ở buổi hỏi cung, bà Cavendish khai rằng từ phòng mình bà nghe thấy tiếng chiếc bàn kê cạnh giường bà Inglethorp đổ xuống. Ngay khi có dịp, tôi kiểm tra lại chính xác của lời khai đó. Tôi để ông bạn Hastings ở bên cánh trái ngôi nhà, ngay trước cửa phòng bà Cavendish. Đích thân tôi cùng các viên cảnh sát đến phòng nạn nhân và tôi giả bộ lỡ tay xô đổ chiếc bàn . Ông Hastings khẳng định với tôi là hề nghe thấy gì cả. Điều này càng xác định với tôi rằng bà Cavendish khai đúng khi tuyên bố vào lúc thảm kịch xảy ra, bà thay quần áo trong phòng mình. vậy, tôi tin chắc, thay vì ở trong phòng mình, bà Cavendish lại có mặt trong phòng người chết, lúc báo động xảy ra.
      Tôi liếc nhanh về phía Mary. Trông bà rất xanh xao nhưng vẫn tươi cười.
      - Tôi lý giải giả thiết đó - Poirot tiếp - Bà Cavendish có mặt trong phòng bà mẹ chồng, ta hãy cho rằng bà ấy tìm kiếm thứ gì đó mà chưa thấy. Bất ngờ, bà Inglethorp tỉnh dậy, vì bị cơn đau dữ dội. Bà vung tay xô ngã chiếc bàn và kéo chuông cách tuyệt vọng. Bà Cavendish hoảng hốt, làm rớt cây nến, do đó mới có vết sáp vương vãi tấm thảm. Bà nhặt lên, vội rút lui về phòng Cynthia và đóng cửa lại. Bà vội chạy ra hành lang, vì nên để đám gia nhân tìm thấy bà ở đó. Muộn mất rồi! có tiếng chân vang lên trong hành lang nối liền hai cánh. Bà có thể làm gì đây? Bà bước nhanh vào phòng thiếu nữ và tìm cách đánh thức này. Hàng lang bị gia nhân và các người khác trong gia đình chiếm giữ. Tất cả mọi người đều dốc sức ra để phá cánh cửa phòng của bà Inglethorp. ai có ý nghĩ rằng bà Cavendish đến cùng lúc với những người khác, nhưng, và điều này rất có ý nghĩa, tôi thể tỉm được người nào trông thấy bà ấy đến từ cánh bên kia.
      Ông nhìn Mary Cavendish.
      - Tôi như thế có đúng , thưa bà?
      Bà nghiêng đầu.
      - Hoàn toàn đúng, thưa ông. Chắc ông cũng hiểu nếu như tôi nghĩ có thể giúp ích được gì cho chồng mình khi tiết lộ những kiện tôi do dự làm chuyện đó. Nhưng tôi thấy chúng chả có liên quan gì đến việc ta có tội hay vô tội.
      - Trong chừng mực nào đó điều đó đúng, thưa bà, nhưng chúng có thể giúp tôi loại trừ được rất nhiều sai lầm trong ý nghĩ và thấy được nhiều điều khác với ý nghĩa thực của chúng.
      - Thế còn tờ di chúc sao? - Laurence kêu lên - Vậy ra, chính chị, chị Mary ạ, chị thiêu hủy nó sao?
      Bà lắc đầu và Poirot cũng bắt chước.
      - - ông thản nhiên - Chỉ có người mới có thể thiêu hủy tờ di chúc đó thôi. Đó chính là bà Inglethorp.
      - thể như thế được! - Tôi phản đối - Bà ta mới chỉ vừa lập nó vào buổi chiều kia mà.
      - Tuy nhiên, bạn ạ, đúng là bà Inglethorp thiêu hủy nó. Nếu giải thích được tại sao bà Inglethorp ra lệnh đốt lò sưởi trong phòng mình vào trong những ngày nóng nhất trong năm.
      Tôi kêu lên tiếng khàn đục. Chúng tôi quả là ngu ngốc vì để ý đến chi tiết đó. Poirot lại .
      - Quý vị hãy nhớ lại, hôm đó nhiệt độ là ba mươi độ trong nhà. Thế mà bà Inglethorp lại đòi đốt lò sưởi. Tại sao vậy? Bởi vì bà muốn hủy cái gì đó mà thể nghĩ được cách nào khác để thực việc đó. Quý vị cũng biết, do việc tiết kiệm trong thời chiến, ở Styles, tờ giấy nào bị vứt bỏ cả. Do đó, còn cách nào khác để hủy văn kiện dầy như tờ di chúc. Ngay khi biết được lò sưởi trong phòng bà Inglethorp được nhóm, tôi suy ra ngay là để hủy bỏ giấy tờ gì quan trọng, có thể là tờ di chúc. Bởi vậy việc phát ra mẩu giấy cháy đen khiến tôi ngạc nhiên. Tất nhiên là vào lúc đó tôi biết rằng tờ di chúc chỉ mới vừa được lập trong buổi chiều thôi, và tôi phải thừa nhận là tôi mắc phải sai lầm lớn khi biết được kiện này. Bởi vì tôi kết luận bà Inglethorp quyết định hủy bỏ tờ di chúc sau khi cãi vã trong buổi chiều, và do vậy việc cãi vã phải xảy ra sau chứ phải là trước khi viết di chúc.
      Như chúng ta đều biết, về điểm này tôi lầm và tôi buộc phải từ bỏ ý nghĩ đó ngay. Tôi lại nhìn việc dưới góc độ mới. Lúc mười sáu giờ, Dorcas nghe bà chủ giận dữ bảo: “Đừng tưởng rằng e ngại về vụ tai tiếng giữa vợ chồng có thể ngăn cản tôi”. Tôi giả sử, và có cơ sở, những lời đó dành cho ông John Cavendish chứ phải cho chồng bà ta. Lúc mười bảy giờ, tức tiếng đồng hồ sau, bà lại dùng những từ gần giống như thế, nhưng ý của bà lại khác. Bà thú nhận với Dorcas: “Tôi biết phải làm gì nữa! vụ tai tiếng giữa vợ chồng điều khủng khiếp!”. Lúc mười sáu giờ bà giận dữ nhưng rất tự chủ. Đến mười bảy giờ, bà rơi vào tuyệt vọng tột cùng và tuyên bố mình bị cú sốc lớn.
      Nhìn việc dưới góc độ tâm lý học, tôi suy ra kết luận với tính chính xác chắc chắn. “Vụ tai tiếng” thú hai mà bà đến giống như vụ thứ nhất có liên quan đến chính bản thân bà.
      Chúng tôi xác lập lại việc: lúc mười sáu giờ, bà Inglethorp cãi nhau với con trai và dọa tố cáo ta với vợ, bà này, nhân đây cũng nên , bà Dorcas nghe thấy phần lớn cuộc đối thoại này. Lúc mười sáu giờ ba mươi, nhân cuộc đối thoại về giá trị của các tờ di chúc, bà Inglethorp lập tờ di chúc mới thuận lợi cho chồng mình, với chữ ký của hai người làm vườn làm nhân chứng. Lúc mười bảy giờ, Dorcas bắt gặp bà chủ trong trạng thái kích động cực độ và cầm trong tay tờ giấy, theo Dorcas đó là bức thư. Chính lúc đó bà ra lệnh đốt lò sưởi trong phòng mình. Do đó người ta có thể giả định rằng giữa mười sáu giờ ba mươi và mười bảy giờ xảy ra chuyện gì đó khiến tình cảm của bà thay đổi, bởi vì lúc bấy giờ bà muốn thiêu hủy tờ di chúc cũng như trước đó muốn lập nó. Thế chuyện gì xảy ra chứ?
      Theo những gì chúng ta biết bà chỉ ở mình trong vòng nửa tiếng đồng hồ đó. ai bước vào thư phòng và cũng ai từ đó ra cả. Do đâu mà có quyết định bất ngờ đó?
      Người ta chỉ có thể đặt ra những giả thiết, nhưng tôi cho rằng cái của tôi là lô-gich. Bà Inglethorp có tem bàn giấy. Chúng ta biết điều đó bởi vì sau đó bà bảo Dorcas cho người mua. Thế nhưng, trong góc phòng đối diện, có chiếc bàn giấy của chồng bà, được khóa lại. Bà rất muốn tìm thấy tem, và theo ý tôi, bà thử mở khóa bằng chìa của mình. Tôi biết rằng có chiếc mở được. Do vậy, bà mở ngăn tủ ra và trong lúc tìm tem bà lại thấy thứ khác: tờ giấy mà sau đó Dorcas nhìn thấy trong tay bà. Và chắc chắn là nó để dành cho bà đọc. Mặt khác, bà Cavendish lại tin chắc tờ giấy đó là bằng chứng về phản bội của chồng mình. Bà cầu bà Inglethorp đưa lại cho mình nhưng bà này cam đoan, cách trung thực, văn kiện đó liên can gì đến bà Cavendish cả. Bà Cavendish nghĩ rằng bà Inglethorp bao che cho con trai mình. Nhưng bà lại là người rất cương quyết và vẻ kín đáo của bà che giấu ghen tuông dữ dội. bà nhất quyết phải lấy cho bằng được tờ giấy đó và gặp may. Bà vô tình tìm được chiếc chìa khóa của chiếc rương mà bà Inglethorp đánh mất ngay trong buổi sáng. Và bà biết rằng bà mẹ chồng luôn luôn giữ những giấy tờ quan trọng của mình trong chiếc rương đó. Bà Cavendish sắp đặt kế hoạch của mình chỉ như phụ nữ bị lòng ghen tuông dồn đến bước đường cùng có thể làm. Buổi tối, bà mở then cài cánh cửa ăn thông sang phòng Cynthia. Có lẽ bà cất công tra dầu mỡ vào các bản lề, bởi vì sau đó tôi nhận thấy cánh cửa mở ra mà gây tiếng động nào cả. Cẩn thận hơn, bà đợi đến gần sáng để hành động, bởi vì đám gia nhân quen nghe thấy bà lại trong phòng ngay từ lúc hừng sáng. Bà mặc bộ đồ làm vườn và rất nhàng, lẻn vào phòng bà Inglethorp qua ngã phòng của Cynthia.
      Poirot ngưng lại lát và Cynthia ngờ vực kêu lên:
      - Nhưng tôi tỉnh giấc ngay nếu như có ai lại ngang qua phòng mình.
      - đâu, nếu như bị ngủ mê, thưa .
      - Ngủ mê ư?
      - Vâng! Quý vị có nhớ, Cynthia ngủ suốt lúc ồn ào trong phòng bên ? Điều này có hai giả thiết: hoặc là giấc ngủ của là giả tạo, điều này tôi tin, hoặc là hôn mê của ta do tác động của những phương pháp nhân tạo.
      Bị thúc đẩy bởi linh tính đó, tôi xem xét kỹ tất cả những tách cà-phê, nhớ ra chính bà Cavendish, hôm trước, mang cà-phê đến cho Cynthia. Tôi lấy trong mỗi tách vài giọt cà-phê và đem phân tích nhưng kết quả. Tôi cẩn thận đếm các tách. Ở phòng khách, số trong chúng bị xê dịch. Có sáu người dùng cà-phê, và quả là tôi tìm thấy sáu cái tách. Tôi đành phải nhìn nhận sai lầm của mình.
      Rồi tôi phát ra mình có thiếu sót lớn. Người ta phục vụ cà-phê cho bảy người chứ phải là sáu, bởi vì bác sĩ Bauerstein đến chơi trong buổi tối. Điều này làm thay đổi hẳn cục diện của vấn đề, bởi vì giờ đây thiếu mất cái tách. Đám gia nhân nhận thấy điều gì cả, bởi vì Annie, người hầu phòng đem cà-phê đến, biết rằng ông Inglethorp bao giờ dùng cà-phê cả, còn Dorcas, người dọn tách vào sáng hôm sau, tìm thấy sáu cái tách như mọi khi, hay đúng hơn là bà tìm thấy năm cái, cái thứ sáu là cái được tìm thấy trong phòng bà Inglethorp, bị vỡ vụn.
      Tôi tin chắc cái tách thiếu là cái của Cynthia. Và lòng tin của tôi được củng cố bởi kiện là trong tất cả các tách tìm thấy ở dưới nhà đều có đường, trong khi Cynthia bao giờ dùng cà-phê với đường cả. Câu chuyện của Annie về “chất muối” tìm thấy chiếc khay đựng ca-cao mà mỗi tối đem lên phòng bà Inglethorp khiến tôi chú ý. Do đó tôi lấy mẩu chất ca-cao đó và đem cho phân tích.
      - Nhưng ông bác sĩ làm việc đó rồi kia mà - Laurence kêu lên.
      - hẳn là như thế. Ông ta chỉ cầu kiểm tra xem ca-cao có chứa Strychnin hay thôi. Nhưng ông cho phân tích như tôi đây, để tìm ra chất thuốc ngủ.
      - Để tìm thuốc ngủ ư?
      - Phải. Đây là báo cáo của nhà hóa học. Bà Cavendish cho bà Inglethorp và Cynthia dùng thứ thuốc ngủ hoàn toàn vô hại nhưng mạnh. Và rất có thể là bà ấy phải trải qua phen thất kinh. Hãy tưởng tượng xúc cảm của bà ta khi bà mẹ chồng bỗng bị đau mà chết , ngay sau đó bà nghe đến từ “độc dược” quanh mình. Thế mà bà cứ ngỡ rằng thuốc ngủ hoàn toàn vô hại. Chắc chắn trong lúc hãi hùng, bà lo ngại rằng mình là thủ phạm về cái chết của bà Inglethorp. Bà sợ hãi lao vội xuống nhà, bỏ chiếc tách cà-phê và đĩa của Cynthia vào chiếc độc bình bằng đồng, nơi sau này ông Laurence tìm thấy chúng. Bà dám đụng đến phần ca-cao còn lại bởi vì có quá nhiều cặp mắt hướng về phía mình. Hãy nghĩ đến nhõm khi nghe người ta về Strychnin, thế là bà phát ra, dù sao nữa mình cũng phải chịu trách nhiệm về tấn thảm kịch.
      Bây giờ chúng ta có thể giải thích được tại sao những triệu chứng ngộ độc do Strychnin gây ra lại bộc lộ chậm đến như vậy. Chất thuốc ngủ được uống cùng với Strychnin làm chậm tác dụng của độc dược trong vài giờ.
      Poirot ngừng lại. Mary đỏ mặt nhìn ông.
      - Tất cả những gì ông đều hoàn toán chính xác, ông Poirot ạ. Đó là giây phút khủng khiếp nhất trong đời tôi. Tôi bao giờ quên được. Nhưng ông là đáng kinh ngạc. Bây giờ tôi hiểu…
      - … tôi muốn gì khi tôi khẳng định bà có thể thú tội mà sợ bị nguy hiểm với pông Poirot chứ gì? Nhưng bà lại dám đặt lòng tin vào tôi.
      - Bây giờ tôi thấy rồi - Laurence - Chất thuốc ngủ trong ca-cao làm chậm tác dụng của độc dược bỏ trong cà-phê.
      - Đúng vậy. Nhưng trong cà-phê có độc dược hay ? Ở đây chúng ta đứng trước khó khăn , bởi vì bà Inglethorp hề uống cà-phê.
      - Sao?
      Mọi người đều ngạc nhiên kêu lên.
      - Vâng. Quý vị có nhớ, tôi đến vết bẩn tấm thảm trong phòng bà Inglethorp ? Vết bẩn đó có vài đặc điểm riêng. Nó còn ẩm ướt, nó hắt ra mùi cà phê nồng và, cắm sâu trong chất len của tấm thảm, tôi tìm thấy vài mảnh sành. Tôi hiểu ngay những gì xảy ra, bởi vì, đầy hai phút trước đó, tôi đặt chiếc ví của mình lên chiếc bàn ghê gần cửa sổ và, do bị khập khiễng, nó hất chiếc ví xuống đất, đúng vào chỗ có vết bẩn. Hôm trước, khi về phòng, có lẽ bà Inglethorp cũng đặt tách cà-phê lên bàn và cũng bị vố y như vậy.
      Tôi thể đoán được điều gì xảy ra sau đó, nhưng tôi cho rằng bà Inglethorp nhặt chiếc tách vỡ và đặt lên bàn kê cạnh giường. Cảm thấy cần chất bổ dưỡng, bà hâm ca-cao và uống liền tức khắc. Thế nhưng qua kiện đó, chúng ta lại đứng trước vấn đề mới. Chúng ta biết rằng ca-cao chứa Strychnin. Thế mà chất Strychnin phải được hấp thu vào giữa mười chín và hai mươi mốt giờ.
      Nhưng vấn đề vẫn còn y nguyên: Strychnin được hấp thụ bằng cách nào để cho vị đắng của nó bị nạn nhân phát ?
      Poirot nhìn quan rồi tự trả lời cách đắc thắng:
      - Chai thuốc của bà ấy!
      - Ông muốn rằng thủ phạm bỏ Strychnin vào chai thuốc bổ của bà ấy sao? - Tôi kêu lên.
      - cần phải bỏ vào, bởi vì trong đó có sẵn rồi. Chất Strychnin giết hại bà Inglethorp chính là thứ được bác sĩ Wilkins kê toa. Để làm sáng tỏ vấn đề này, tôi đọc cho quý vị đoạn trích từ cuốn sách về cách pha chế các loại thuốc mà tôi tìm thấy trong bệnh xá của Hội Chữ Thập Đỏ ở Tadminsters.
      Công thức sau đây nổi tiếng trong các sách vở:
      Sun-phát Strychnin……………………. 5 centigram
      Brô-mua Pôtassium…………………… 18 gam
      Nước cất……………………………… 25 gam
      Hỗn hợp này trong vài giờ làm lắng phần muối Strychnin dưới dạng những hạt Brô-mua trong và hòa tan. phụ nữ, ở , chết sau khi uống thứ hỗn hợp tương tự này. Chất Strychnin lắng xuống đáy chai và, bằng cách đó, người bệnh uống gần như là cả lượng độc dược trong chai khi dùng liều cuối cùng.
      Thế nhưng, trong toa thuốc của bác sĩ Wilkins tất nhiên là có Brô-mua, nhưng quý vị cũng nhớ cho tôi đến hộp Brô-mua trống. hoặc hai nhúm bột đó bỏ vào chai thuốc cũng đủ để làm cho chất Strychnin lắng xuống, và như thế nó được hấp thu trọn vẹn trong liều thuốc cuối cùng. Sau đây quý vị được biết rằng người rót thuốc cho bà Inglethorp luôn luôn cẩn thận lắc chai thuốc, hầu đừng làm hòa tan chất lắng đóng dưới đáy chai.
      Trong quá trình điều tra, tôi có được những bằng chứng cho thấy mọi việc được sắp xếp để cho thảm kịch xảy ra vào tối hôm thứ hai. Hôm đó, dây chuông của bà Inglethorp bị cắt đứt, còn Cynthia ngủ lại tại nhà bạn, do đó bà Inglethorp chỉ có thân mình bên cánh trái, hoàn toàn cách biệt khỏi mọi giúp đỡ và có lẽ bà ấy chết trước khi người ta kịp gọi bác sĩ. Nhưng trong lúc vội dự lễ trong làng, bà Inglethorp quên uống thuốc và hôm sau bà ăn bữa trưa tại nhà bạn bè. Như vậy, liều thuốc cuối cùng, liều thuốc định mệnh, chỉ được uống muộn hơn tiên liệu của kẻ giết người là hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Và chính nhờ vào kỳ hạn này mà bằng chứng chung cuộc, chiếc mắt xích cuối cùng, mới lọt vào tay tôi.
      Thế rồi, giữa im lặng đầy căng thẳng, Poirot cho chúng tôi xem ba mảnh băng giấy.
      - Các bạn ạ, đây là bức thư do chính tên giết người viết. Nếu như lời lẽ trong bức thư đó ràng hơn có thể bà Inglethorp được báo động kịp thời và thoát chết. Nhưng mặc dù ý thức được mình bị nguy hiểm đe dọa, bà vẫn hiểu được thực chất của đe dọa đó.
      Giữa im lặng như tờ, Poirot nối các mảnh giấy lại, và sau khi khẽ tằng hắng, ông đọc:
      “Evelyn thân ,
      Em rất lo lắng vì nhận được tin tức. Tất cả đều tốt đẹp, nhưng là tối nay cơ, thay vì là hôm qua. cuộc đời mới chờ đợi chúng ta, khi bà già ấy chết. ai có thể gán cho tôi tội ác đó. Em có sáng kiến hay khi đề nghị dùng bột Brô-mua. Nhưng chúng ta phải thận trọng, cái sẩy chân…”
      - Bức thư dừng ở đây, thưa các bạn. Có lẽ tác giả bị gián đoạn trong lúc viết. Nhưng còn lạ gì về tung tích của nữa. Tất cả chúng ta đều biết chữ viết này và…
      tiếng kêu giống hệt tiếng hét xé tan im lặng.
      - Đồ quỷ sứ! Làm thế nào mà ông lấy được bức thư đó?
      chiếc ghế đổ, Poirot nhàng nhảy sang bên và bằng cử chỉ nhanh nhẹn, quật ngã địch thủ.
      - Thưa quý ông, quý bà - Poirot với vẻ đắc thắng - cho phép tôi giới thiệu với quý vị tên giết người, ông Alfred Inglethorp!
      Prunus Ngọc thích bài này.

    5. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG KẾT: POIROT GIẢI THÍCH

      - Poirot, tên láu cá, tôi rất muốn bóp cổ ông - Tôi - Tại sao ông lại đíanh lừa tôi như thế?
      Chúng tôi ngồi trong phòng đọc sách. Chúng tôi vừa trải qua nhiều ngày sóng gió. Ở dưới nhà, John và Mary sum họp trở lại, trong khi Alfred Inglethorp va Howard vào tù. Cuối cùng tôi cũng tóm được Poirot và tranh thủ để thỏa mãn tò mò chính đáng của mình.
      Poirot trả lời tôi ngay, nhưng cuối cùng ông bảo:
      - Tôi thể đánh lừa , bạn của tôi ạ. Cùng lắm tôi chỉ cho phép tự đánh lừa mình thôi.
      - Phải, nhưng tại sao?
      - Này nhé, điều đó cũng khó mà giải thích được. hiểu chứ, bạn, có bản chất lương thiện và gương mặt của trong suốt đến độ làm sao che giấu cảm xúc của mình được. Nếu như tôi tiết lộ suy nghĩ của mình cho ngay lần đầu tiên gặp ông Inglethorp, tên tinh ranh này chắc chắn đánh hơi thấy điều gì đó. Và như thế chúng ta đánh mất dịp để tóm cổ .
      - Tôi cho rằng mình khôn khéo hơn là ông nghĩ đấy - Tôi nhận xét, hơi bị xúc phạm.
      - bạn của tôi ơi - Poirot khẩn khoản - Xin đừng bực mình, tôi van . giúp đỡ của có ích cho tôi nhiều. Chỉ tại bản chất tốt đẹp của mà tôi thể tiết lộ với đấy thôi.
      - Thôi được - tôi bảo, hơi nguôi giận - nhưng lẽ ra ông cũng phải cho tôi vài lời chỉ dẫn chứ?
      - Tôi làm như vậy đấy chứ, bạn. Nhiều lần nữa là khác. Nhưng đâu chịu nghe theo. Hãy nghĩ kỹ , tôi có bao giờ bảo tôi nghĩ là John Cavendish có tội nào? Hay là ngược lại tôi tuyên bố gần như chắc chắn ta được tha bổng?
      - Phải, nhưng…
      - Và sau đó tôi chẳng về khó khăn khi đưa tên giết người ra pháp luật sao? hiểu rằng tôi đến hai người hoàn toàn khác nhau sao?
      - , tôi chẳng hiểu tí nào cả.
      - Và sau đó - Poirot tiếp - tôi chẳng nhắc nhắc lại nhiều lần, ngay từ đầu vụ án, tôi muốn ông Inglethorp bị bắt lúc bấy giờ sao? Điều đó lẽ ra phải giúp đúng hướng chứ?
      - Vậy ra ông nghi ngờ ta từ lâu đến thế sao?
      - Phải. Thoạt tiên, ngoài lợi lộc mà những người khác có thể rút ra từ cái chết của bà Inglethorp, ràng chồng bà ta là người lợi nhất. Khi tôi đến Styles cùng với , ngay ngày đầu, tôi hề có ý nghĩ gì về cách thức vụ án được gây ra. Nhưng, từ những gì tôi biết về ông Inglethorp, tôi đoán rất khó mà tìm thấy dấu vết gì có thể buộc tội ông ta trong vụ này. Khi tôi đến lâu đài, tôi hiểu ngay rằng chính bà Inglethorp đốt tờ di chúc. Về vấn đề này, thể kêu ca gì cả, bạn ạ, bởi vì tôi làm tất cả để hiểu ý nghĩa của việc đốt lò sưởi ấy trong phòng ngủ, vào giữa mùa hè.
      - Phải, phải - tôi nóng nảy bảo - Cứ tiếp tục .
      - Này nhé, bạn của tôi ạ, ý kiến của tôi về tội trạng của Inglethorp rất bấp bênh. Có quá nhiều bằng cớ chống lại ông ta đến độ tôi phải nghĩ rằng ông ta vô can.
      - Khi nào ông mới thay đổi ý kiến?
      - Khi tôi nhận ra tôi càng cố công bào chữa cho bao nhiêu càng làm đủ mọi cách để cho mình bị mắc bẫy bấy nhiêu. Và tôi càng tin chắc hơn nữa khi tôi phát ra rằng Inglethorp hề quan tâm đến bà Riakes, mà chính John Cavendish mới có quan hệ với người phụ nữ ấy.
      - Nhưng, tại sao?
      - Vì lý do sau đây: trong trường hợp Inglethorp có quan hệ với bà Raikes im lặng của là hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng khi tôi phát ra cả làng đều biết John bị thu hút bởi bà chủ trại xinh đẹp ấy im lặng của Inglethorp lại có thể được hiểu khác . rất phi lý khi cho rằng sợ bị tai tiếng, bởi vì dư luận nào có thể chạm đến được. Thái độ của khiến tôi suy nghĩ nhiều, và dần dần tôi đến kết luận rằng Alfred Inglethorp muốn mình bị bắt. Thế là từ đó tôi quyết định để cho bị bắt.
      - Khoan , tôi hiểu tại sao lại muốn bị bắt.
      - Bởi vì, bạn của tôi ạ, theo luật của nước , khi được xử tha bổng người ta bao giờ có thể bị kết án trở lại vì cùng tội trạng như trước đó. À! Ý nghĩ của hay đấy! Chắc chắn đó là người đàn ông có phương pháp. Này nhé: biết rằng trong tình trạng của mình bắt buột bị nghi ngờ. bèn nảy ra sáng kiến thông minh là tích cho mình nhiều bằng cớ bất lợi. muốn bị nghi ngờ. muốn bị bắt giữ. Bởi vì sau đó đưa ra bằng cớ thể chối cãi được của mình và được yên thân cho đến cuối đời mình.
      - Thế nhưng tôi vẫn chưa hiểu tại sao lại có thể vừa tạo bằng cớ vô can cho mình vừa đến chỗ ông dược sĩ.
      Poirot nhìn tôi ngạc nhiên.
      - Có thể như thế sao? bạn đáng thương ạ! còn chưa hiểu chính Howard đến hiệu thuốc tây sao?
      - Howard ư?
      - Chứ sao? Còn ai khác nữa? Đối với ấy rất dễ dàng. ta khá cao, giọng trầm và đầy nam tính, hơn nữa đừng quên rằng Inglethorp và ta là họ hàng nên họ khá giống nhau, nhất là trong dáng . Quả là đơn giản thôi. À! Cặp đó là xuất chúng.
      - Tôi vẫn chưa nắm bắt được tác dụng của Brô-mua.
      - Nào! Tôi cố gắng diễn lại vụ án. Tôi tin rằng Howard là người đề xuất ra mưu giết người này. có nhớ là có hôm ta với chúng ta bố ấy là bác sĩ ? Có lẽ ta giúp ông ấy pha chế thuốc men. Hoặc giả ta tìm ra ý nghĩ ấy ở trong nhiều cuốn sách vương vãi trong nhà vào lúc Cynthia chuẩn bị cho cuộc thi của mình? Dù sao ta cũng biết rằng nếu cho thêm Brô-mua vào hỗn hợp có chứa Strychnin chất độc lắng xuống. Có thể sáng kiến đó bất ngờ nảy sinh trong ta. Bà Inglethorp có hộp bột Brô-mua, mà thỉnh thoảng buổi tối bà vẫn dùng. Việc hòa tan hoặc nhiều liều vào lọ thuốc bổ lúc ông dược sĩ mới giao hàng là rất dễ dàng. Gần như là chẳng hề có nguy cơ bị phát gì cả. Thảm kịch chỉ xảy ra mười lăm ngày sau thôi. Nếu như có ai đó vô tình trông thấy ta đụng vào lọ thuốc đến lúc đó người ta cũng quên mất rồi. Howard giả bộ cãi nhau và rời bỏ Styles . Khoảng thời gian mười lăm ngày đó và vắng mặt của đánh tan mọi nghi ngờ. Phải, mọi việc được sắp đặt chu đáo. Về nếu như hai tên tòng phạm nghĩ đến chuyện sửa đổi chút ít cái sáng kiến vĩ đại ấy có lẽ thể nào gán cho họ vụ giết người ấy được. Nhưng họ cảm thấy hài lòng. Họ muốn mình quá giỏi và đó chính là nguyên nhân thất bại của họ.
      Poirot rít hơi thuốc rồi, mắt dán lên trần nhà, ông :
      - Họ vạch kế hoạch để đổ tội cho John Cavendish bằng cách đến mua Strychnin ở chỗ ông dược sĩ trong làng và bằng cách giả chữ viết của ta.
      - Lẽ ra bà Inglethorp phải uống liều thuốc cuối cùng vào hôm thứ hai. Do vậy, hôm thứ hai, Alfred Inglethorp sắp xếp để nhiều người trông thấy nơi cách xa làng. Trước đó, Howard bịa ra câu chuyện về bà Raikes và để thuyết minh cho im lặng mà sau đó phải dùng đến. Lúc mười tám giờ, Howard cải trang thành Alfred Inglethorp, bước vào hiệu thuốc tây, kể câu chuyện về con chó cần phải giết, mua được Strychnin và giả chữ viết của John mà cẩn thận nghiên cứu để ký tên Alfred Inglethorp vào sổ đăng ký.
      Nhưng cũng cần thiết để cho John có thể đưa ra được bằng chứng vô can, thế nên viết cho bức thư nặc danh, vẫn bằng cách giả chữ viết của ta, và do đó ta đến nơi vắng vẻ và xa, nơi ta ít hy vọng gặp được người nào.
      Cho đến đây tất cả đều trôi chảy, Howard trở về Middlingham, còn Alfred Inglethorp về Styles. có gì có thể buộc tội họ được, bởi chính Howard nắm trong tay Strychnin, chất độc này, dù sao nữa, chỉ dùng để đổ tội cho John Cavendish mà thôi.
      Nhưng lại xuất trở ngại : bà Inglethorp uống thuốc vào tối hôm đó. Dây chuông bị cắt đứt, vắng mặt của Cynthia (được Inglethorp sắp xếp qua trung gian của vợ mình) còn sử dụng vào đâu được nữa. Và chính vào lúc đó sẩy chân.
      Trong khi bà Inglethorp ra ngoài, ngồi viết cho tòng phạm của mình; người mà theo ý lo lắng trước thất bại kế hoạch của họ. Có thể bà Inglethorp về sớm hơn dự định. Bị bắt gặp trong lúc viết, bối rối, vội khóa ngăn tủ lại. Rồi ngại rằng bà Inglethorp thắc mắc hỏi những câu khó trả lời, bước ra dạo trong rừng, ngờ rằng bà Inglethorp có thể mở ngăn tủ và bắt gặp bức thư viết dở.
      Quả là điều đó đả xảy ra, như chúng ta biết. Bà Inglethorp đọc được bức thư đó, biết được gian xảo của chồng mình và Evelyn Howard. Tiếc rằng câu về Brô-mua giúp bà thấy . Bà biết rằng mình gặp nguy nên viết thư cho luật sư, cần ông đến gặp mình vào sáng hôm sau. Bà cũng quyết định hủy ngay tờ di chúc mà bà vừa lập và giữ lại bức thư định mệnh ấy.
      - Như vậy, chính vì muốn lấy lại bức thư đó mà chồng bà ta bẻ khóa chiếc rương ư?
      - Phải, và nguy cơ mà phải liều cho thấy biết tầm quan trọng của nó đến mức ngoài. Bởi vì bức thư ấy là bằng chứng duy nhất về tội ác của .
      - Nhưng tôi hiểu tại sao lại thủ tiêu nó ngay khi tìm thấy ?
      - Hãy đặt mình vào vị trí của . Tôi khám phá ra chỉ có năm phút ngắn ngủi để tìm bức thư đó, năm phút ngay trước khi chúng ta đến. Bởi vì trước đó Annie quét cầu thang và trông thấy bất cứ ai bén mảng đến phía cánh phải. Hãy thử tưởng tượng cảnh đó xem sao: Inglethorp bước vào căn phòng nơi xảy ra vụ án, lao vội về chiếc rương và thấy rằng nó bị khóa trái. Nhưng sẵn sàng liều mình để lấy lại cái bằng chứng thể bác bỏ ấy nên vội vã bẻ ổ khóa bằng con dao nhíp và lục lọi trong đống giấy tờ cho đến khi tìm thấy bức thư nguy hại ấy. Lúc đó ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. dám giữ tờ giấy đó trong mình. cần phải hành động nhanh. Giấu tờ giấy nguy hại ấy ở đâu? Người ta có thể bắt giữ ngay khi bước ra khỏi phòng và lục soát người . Nếu người ta tìm thấy bức thư lâm nguy. Có thể lúc đó nghe thấy tiếng của ông Wells và John trong thư phòng. Chắc chắn người ta lục soát giỏ rác. có cách gì để tiêu hủy bức thư cả. liếc nhìn quanh mình và trông thấy… hãy đoán xem cái gì, bạn?
      Tôi lắc đầu.
      - Trong giây lát xé bức thư thành những dải băng dài và cuộn tròn lại rồi vội vàng nhét vào giữa những que diêm trong chiếc bình lò sưởi.
      Tôi kêu lên tiếng khan.
      - ai nghĩ đến việc lục tìm ở đó cả - Poirot tiếp - và có thể dễ dàng trở lại sau đó hủy vết tích duy nhất về tội của .
      - Thế ra bằng chứng lại nằm ngay trong phòng bà Inglethorp dưới mắt chúng ta - tôi kêu lên.
      Poirot gật đầu.
      - Phải, bạn của tôi ạ. Chính ở đấy tôi phát chiếc mắt xích cuối cùng của mình, và chính nhờ mà tôi mới có dịp may ấy.
      - Nhờ tôi ư?
      - Phải. có nhớ với tôi rằng tay tôi run rẩy trong khi sắp xếp lại những đồ vật trưng bày lò sưởi ?
      - Nhưng, nhưng tôi hiểu…
      - Vâng. Nhưng tôi lại hiểu. bạn ạ, tôi nhớ ra khi chúng ta có mặt trong phòng bà Inglethorp lúc sáng sớm, tôi đặt ngay ngắn các đồ vật trưng bày lò sưởi rồi. Và bởi chúng được sắp xếp rồi cần phải đụng đến nữa, nếu như, trong khoảng thời gian vừa qua, có ai xê dịch chúng.
      - À! - Tôi - Té ra đó là lời giải thích cho thái độ lạ lùng của ông. Ông chạy ngay đến Styles và tìm thấy tờ giấy đó.
      - Phải… và tôi phá kỷ lục chạy nước rút.
      - Thế nhưng tôi hiểu tại sao Inglethorp lại khờ khạo đến độ tìm cách hủy cái bằng chứng ấy từ sau cái đêm bất hạnh ấy.
      - À! Nhưng tôi để cho có dịp làm như vậy. Tôi đánh động về việc đó.
      - Ông ư?
      - Phải. có nhớ trách tôi tại sao lại tiết lộ bí mật cho cả nhà ?
      - Đúng vậy…
      - Này, bạn ạ, tôi hiểu rằng chỉ còn có mỗi hy vọng thôi. Tôi chưa chắc chắn rằng Inglethorp là thủ phạm, nhưng nếu đúng là tôi biết rằng có bức thư trong người mà tìm cách giấu ở đâu đó. Bằng cách thu phục cảm tình của đám gia nhân, tôi có thể ngăn cản hủy bức thư đó. Sẵn người ta nghi ngờ , bằng cách công khai hóa chuyện đó ra, tôi đảm bảo được cho mình giúp sức của khoảng mười thám tử nghiệp dư ngừng canh chừng . Nhận biết được nhiệt tình của họ, dám hủy bức thư. Do đó buộc phải rời bỏ Styles và để nó lại giữa các que diêm.
      - Phải. Nhưng Howard chắc chắn có nhiều dịp để giúp .
      - Phải, nhưng Howard biết đến bức thư đó. Trung thành với kế hoạch của họ, bao giờ chuyện với Inglethorp. Họ được mệnh danh là kẻ thù đội trời chung và cả người này lẫn người kia đều dám liều lĩnh gặp nhau cho đến khi John Cavendish bị chính thức kết án. Tất nhiên, tôi cho theo dõi ông Inglethorp với hy vọng ngày nào đó dẫn tôi đến chỗ giấu. Nhưng quá thông minh để liều lĩnh bất cứ việc gì. Bức thư được cất ở nơi chắc chắn. Bởi vì ai nghĩ đến việc lục tìm trong bình đựng diêm quẹt trong vòng tuần lễ đầu tiên, nên chưa chắc gì người ta làm như thế sau này. Nếu có ý nghĩ may mắn của bao giờ chúng ta có thể tóm được .
      - Bây giờ tôi hiểu hết rồi. Nhưng ông bắt đầu nghi ngờ Howard từ lúc nào?
      - Khi tôi phát rằng ta dối ở buổi hỏi cung về vấn đề bức thư bà Inglethorp gửi cho ta.
      - Sao? Vấn đề gì?
      - có trông thấy bức thư đó ? còn nhớ hình thức của nó ?
      - Ít nhiều có.
      - Thế nhớ rằng bà Inglethorp có chữ viết rất đặc biệt và luôn luôn để những khỏang cách lớn giữa các chữ. Nhưng nếu nhìn vào ngày tháng ghi bên bức thư có thể nhận thấy điểm lạ lùng.
      - Điểm gì?
      - Mặc dù đề ngày mười bảy tháng bảy, bức thư lại được viết, phải vào hôm mười bảy mà là vào hôm bảy tháng bảy, sáng hôm sau ngày Howard ra . Số được viết thêm vào trước số bảy để biến thành ngày mười bảy.
      - Với mục đích gì?
      - Đó chính là điều tôi tự hỏi. Tại sao Howard lại loại bỏ bức thư thực được viết vào hôm mười bảy và thay vào đó lại đưa ra bức thư viết hôm mười bày bằng cách thay đổi ngày viết? Bởi vì ta muốn cho xem bức thư ngày mười bảy. Ngay lập tức, nghi ngờ len lỏi vào đầu óc tôi. có nhớ rằng tôi có với nên đề phòng những người ?
      Tôi lêu lên phẫn nộ:
      - Thế mà sau chuyện đó ông lại cho tôi biết hai lý do khiến Howard thể gây ra án mạng được.
      - Và đó là những lý do vững chắc - Poirot - Chúng là những trở ngại lớn đối với tôi, cho đến khi tôi sực nhớ đến kiện rất có ý nghĩa: Howard và ông Inglethorp là em họ. ta thể mình gây ra vụ án, nhưng điều đó thể ngăn ta là tòng phạm. Và còn thù hằn quá đáng che giấu những cảm xúc khác nữa. Chắc chắn phải có mối liên hệ giữa họ trước khi Alfred Inglethorp đến Styles. Họ xây dựng kế hoạch ti tiện đó. phải kết hôn với người phụ nữ già và giàu có, nhưng hơi ngốc nghếch ấy. thuyết phục bà ta lập di chúc thuận lợi cho và sau đó họ đạt được mục đích nhờ vụ giết người được sắp đặt rất khéo léo. Nếu như mọi việc đều xảy ra như mong muốn, có lẽ họ bỏ nước và sống yên ổn với tiền bạc của nạn nhân đáng thương của mình.
      Bởi vì họ là cặp hề chùng bước trước việc gì cả. Trong khi mọi nghi ngờ đều hướng về ta thản nhiên sắp đặt những bằng chứng giải oan cho . ta từ Middlingham đến với đầy đủ những vật nguy hại trong tay mình. ai để ý đến lại của . giấu lọ Strychnin và cặp kiếng trong phòng của John. đặt bộ râu giả vào chiếc rương nhà kho. Và làm mọi cách để người ta phát ra những thứ ấy đúng lúc.
      - Tôi hiểu tại sao họ lại tìm cách gieo nghi ngờ lên John - tôi nhận xét - Đổ tội cho Laurence dễ hơn cho bọn họ.
      - Đúng vậy. Nhưng những bằng chứng chống Laurence chỉ là do tình cờ ngẫu nhiên mà có thôi, và hai tên đồng phạm ấy là những người đầu tiên bị bối rối.
      - Thái độ của ta quả là rất vụng về - tôi mơ màng nhận xét.
      - Phải. Có lẽ cũng biết vì sao chứ?
      - .
      - hiểu rằng ta nghĩ Cynthia là thủ phạm sao?
      - thể như thế được! - Tôi kêu lên kinh ngạc.
      - đâu. Chính tôi suýt nữa cũng có ý nghĩ đó. Tôi nghĩ đến điều đó khi đặt cho ông Wells câu hỏi đầu tiên về tờ di chúc. Và rồi còn có bột Brô-mua mà ta pha chế, khéo léo của ta khi cải trang và đóng vai những nhân vật nam, như Dorcas kể cho chúng ta nghe nữa. vậy, có nhiều bằng chứng chống lại ta hơn bất cứ ai khác.
      - Ông đùa đấy chứ, Poirot?
      - Ồ! ! Tôi co rằng, vào buổi tối hôm ta nhìn thấy mẹ mình vật lộn với đau đớn, mà ta hiểu ra là những dấu hiệu bị ngộ độc, khi liếc nhìn qua vai , ta trông thấy then cửa phòng của Cynthia được để mở…
      - Nhưng ta khẳng định cánh cửa đó bì cài then kia mà.
      - Đúng thế! - Poirot mỉa mai đáp - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng nó được cài then. ta tìm cách che chở cho Cynthia.
      - Nhưng tại sao ta lại che chở cho Cynthia chứ?
      - Bởi vì ta ấy.
      - Này, Poirot, ông lầm to rồi. Bởi vì tôi biết chắc, thay vì ấy, ta lại có ác cảm đối với ta.
      - Ai với như thế, bạn?
      - Chính Cynthia.
      - Tôi nghiệp bé. ta có lấy thế làm buồn ?
      - ta khẳng định với tôi ta bất cần chuyện đó.
      - Thế chuyện đó khiến ta đau buồn lắm đấy - Poirot nhận xét cách đầy triết lý - Phụ nữ thường như vậy đấy!
      - Những gì ông về Laurence khiến tôi ngạc nhiên hết sức - tôi nhận xét.
      - Tại sao? Điều đó rất ràng. Ông Laurence chẳng nhăn mặt mỗi khi Cynthia cười với ông sao? ta cho rằng ấy phải lòng mình. Khi ta bước vào phòng mẹ kế và thấy bà này bị ngộ độc, nghĩ rằng có lẽ Cynthia có những giây phút tuyệt vọng và mất tự chủ. Chính ta cũng hoảng hốt. Rồi ta trông thấy chiếc tách cà-phê và dẫm nát nó dưới gót giày, bởi vì ta nhớ ra rằng hôm trước lên lầu cùng với mẹ , muốn ngăn cản người ta phân tích những gì chứa đựng trong chiếc tách đó. Và cũng từ đó ta giữ vững cách quyết liệt và vô ích nữa là khác, giả thiết về “cái chết do những nguyên nhân tự nhiên”.
      - Hãy giải thích cho tôi biết ý nghĩa của “chiếc tách cà-phê bị thiếu”.
      - Tôi gần như tin chắc bà Cavendish giấu nó , nhưng cần phải biết chính xác. Ông Laurence hoàn toàn biết tôi muốn gì, nhưng sau khi suy nghĩ, ông kết luận rằng nếu như mình tìm thấy ở đâu đó chiếc tách cà-phê khác người phụ nữ thân của mình tránh được khỏi bị nghi ngờ. Và ta hoàn toàn có lý.
      - Còn điều nữa. Những lời cuối cùng của bà Inglethorp có ý nghĩa ra sao?
      - Tất nhiên đó là lời buộc tội chồng mình.
      - Poirot ạ - tôi thở dài - thế là ông giải thích được tất cả. Tôi lấy làm sung sướng là việc được kết thúc cách tốt đẹp đến như vậy. Ngay cả John và vợ ta cũng hòa hợp trở lại với nhau.
      - Nhờ tôi đấy.
      - Ông muốn gì? Nhờ ông ư?
      - bạn thân mến ạ, thấy rằng chính và chỉ có phiên tòa mới làm cho họ xích lại gần nhau sao? Tôi tin chắc rằng John còn vợ mình và bà ấy cũng ta. Nhưng họ rời xa nhau sau hiểu lầm nghiêm trọng. ta biết rằng bà ấy lấy mình mà hề có tình . Đó là con người dễ xúc động, theo cách của mình. Và ta muốn tự áp đặt mình cho bà ấy nếu như bà mình. ta càng rút lui tình của ta đối với vợ càng tha thiết. Thế nhưng cả hai người đều rất liêu hãnh và tự ái chia cách họ. ta buông thả mình trong quan hệ với bà Raikes, còn về phía mình, bà ấy cũng tìm kiếm bầu bạn ở bác sĩ Bauerstein. có nhớ hôm John Cavendish bị bắt , bắt gặp tôi suy nghĩ xem có nên chọn lấy quyết định quan trọng ?
      - Phải. Và tôi hiểu nổi băn khoăn của ông.
      - Xin lỗi bạn, chẳng hiểu gì cả. Tôi thử suy nghĩ xem có nên giải oan cho John Cavendish ngay . Tôi có thể làm như thế, nhưng việc đó ảnh hưởng đến việc bắt giữ những tội phạm . Cho đến phút cuối, chúng vẫn biết được suy nghĩ của tôi, và đó cũng là phần nào nguyên nhân thành công ủa tôi.
      - Tôi có phải hiểu rằng ông có thể ngăn cản người ta bắt giữ John Cavendish ?
      - Phải, bạn của tôi ạ. Nhưng tôi quyết định, cơ sở cân nhắc hạnh phúc của người phụ nữ. Chẳng có gì, ngoại trừ nguy hiểm to lớn mà họ vừa trải qua, có thể kéo hai tâm hồn cao cả ấy đến với nhau.
      Tôi nhìn Poirot với kinh ngạc lặng lẽ. Người đàn ông hỏ bé ấy cả gan . Còn ai, ngoại trừ Poirot ra, có thể nghĩ rằng phiên tòa xử việc giết người lại có thể là cách chắc chắn nhất để tái lập lại chung thủy trong quan hệ vợ chồng chứ?
      - Tôi đọc được những suy nghĩ của , bạn ạ - Poirot mỉm cười - ai, ngoại trừ Hercule Poirot ra, lại dám dấn thân vào cuộc phiêu lưu như thế. sai lầm khi lên án việc đó. Hạnh phúc của người đàn ông và phụ nữ là điều cảm động nhất đời này.
      Những lời của ông khiến tôi nghĩ đến những biến cố xảy đến trước cuộc chuyện của chúng tôi. Tôi nhìn thấy Mary, tái mét và mệt mỏi, nằm ghế dài… Bà lắng tai nghe… lắng nghe. Tiếng chuông vang lên ở dưới nhà. Bà nhỏm dậy ngay. Poirot mở cửa và, bắt gặp cái nhìn lo âu của bà, ông khẽ gật đầu trấn an: “Phải, thưa bà, tôi đem ông ấy về cho bà đây”. Ông và tránh sang bên. Lúc tôi bước ra khỏi phòng, tôi thấy mắt Mary sáng lên trong khi John Cavendish ôm bà trong vòng tay mình.
      - Có lẽ ông có lý đấy, Poirot ạ - tôi khẽ - Đó là điều đẹp nhất đời này.
      Có tiếng gõ cửa rồi Cynthia ló mặt qua khe cửa.
      - Tôi… tôi…
      - Mời vào - tôi đứng lên và .
      bước vào nhưng ngồi xuống.
      - Tôi chỉ muốn với các ông điều này…
      - Gì thế?
      Cynthia do dự lúc rồi bỗng kêu lên:
      - Quý vị đáng !
      ôm hôn cả hai chúng tôi, trước tiên là tôi, rồi đến Poirot, và chạy ra khỏi phòng.
      - Thế là nghĩa lý gì cơ chứ? - Tôi hỏi, rất ngạc nhiên.
      Quả là rất dễ chịu khi được Cynthia ôm hôn, mặc dù lộ liễu của cử chỉ đó hơi làm giảm thích thú của tôi .
      - Thế nghĩa là ta phát ra rằng ông Laurence đến nỗi ghét mình như ta vẫn tưởng đâu - Poirot long trọng tuyên bố.
      - Nhưng…
      - ta đây rồi.
      Đúng lúc đó, Laurence ngang qua trước cánh cửa.
      - Này! Laurence! - Poirot kêu lên - Thế ra cũng phải chúc mừng ông nữa, phải nào?
      Laurence đỏ mặt và mỉm cười bối rối. người đàn ông quả là cảnh tượng khôi hài. Ngược lại, Cynthia rất đáng xúc động của mình.
      Tôi thở dài.
      - Có chuyện gì thế, bạn?
      - có gì cả - tôi buồn bã - Đó là hai người phụ nữ tuyệt vời.
      - Thế mà cả người này lẫn người kia đều dành cho ? - Poirot - Ồ! sao nào? Hạy tự an ủi . Có thể chúng ta lại cùng nhau săn nữa? Ai biết được? Và lúc đó…

      HẾT
      Prunus Ngọc thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :