Thảm Kịch Bí Ẩn Ở Styles - Agatha Christine (12 chương + 1 chương kết)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG III: BUỔI TỐI XẢY RA THẢM KỊCH

      Bằng cửa B, người ta có thể đến các phòng của đám gia nhân. Các phòng này ăn thông gì với cánh phải, nơi có phòng của vợ chồng Inglethorp.
      Nửa đêm tôi bị Laurence đánh thức. cầm cây nến tay và xúc động khuôn mặt thuyết phục được tôi ngay rằng có chuyện gì khác thường xảy ra.
      - Có chuyện gì vậy? - tôi hỏi , vừa ngồi dậy giường vừa cố gắng tập trung suy nghĩ của mình.
      - Chúng tôi e rằng mẹ tôi bị bệnh nặng. Bà ấy bị lên cơn đau. Khổ thay, bà ta lại khóa chặt cửa phòng.
      - Tôi đến ngay.
      Phóng ra khỏi giường, tôi choàng chiếc áo ngủ và bước theo Laurence dọc hành lang đến cánh phải của ngôi nhà.
      John Cavendish đến bên chúng tôi, và tôi trông thấy các gia nhân với vẻ sợ hãi và kinh ngạc. Laurence quay sang chúng tôi:
      - Phải làm gì đây?
      Tôi chưa bao giờ thấy ta do dự như lúc này. John lay mạnh tay nắm cửa phòng bà Inglethorp nhưng vô hiệu. Cánh cửa ràng bị khóa trái hoặc cài then. Từ phía trong phòng, chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu đáng lo ngại. Cần thiết phải hành động ngay.
      - Hãy thử vào bằng lối cửa phòng của ông Inglethorp - Dorcas kêu - Ồ! Tội nghiệp cho bà chủ.
      Tôi bất chợt nhận ra rằng Alfred Inglethorp có mặt bên chúng tôi, và chỉ có mình thấy xuất . John mở cửa phòng ra: căn phòng chìm trong bóng tối. Nhưng Laurence theo sau với cây nến, và nhờ ánh sáng leo lét ấy, chúng tôi nhận thấy rằng giường có người. Chúng tôi đến bên cánh cửa ăn thông sang phòng bên cạnh ngay. Nó cũng bị khóa trái hoặc cài then từ phía bên trong. Làm gì đây?
      - Ồ! Lạy Chúa, thưa ông! - Dorcas rên tỉ, vừa vặn vẹo tay chân - Làm sao đây?
      - Cần phải phá cửa. Nhưng dễ dàng đâu. Hãy sai người hầu phòng nào bảo Bill cho tìm ngay bác sĩ Wilkins. Trong khi chờ đợi, chúng ta thử phá cửa xem sao. Nhưng này, có phải còn có cánh cửa ăn thông từ phòng mẹ tôi sang phòng Cynthia ?
      - Vâng, thưa ông, nhưng nó bị cài then rồi.
      - Thế chúng ta vẫn có thể thử xem sao?
      John chạy vội đến phòng Cynthia. Mary Cavendish ở đó, tìm cách đánh thức , này có lẽ ngủ say cách đặc biệt.
      quay lại ngay với chúng tôi.
      - Cánh cửa đó cũng bị cài then rồi. Phải phá cửa này thôi, vì nó có vẻ kém chắc chắn hơn cửa ăn thông ra hành lang.
      Tất cả chúng tôi đều dồn sức đè lên cánh cửa, nó chắc chắc và cưỡng lại cố gắng của chúng tôi hồi lâu, nhưng cuối cùng cũng bung ra trong tiếng ầm to lớn.
      Chúng tôi ùa vào phòng, Laurence vẫn cầm cây nến tay. Bà Inglethorp nằm dài giường, toàn thân bị chấn động bởi những cơn co giật mạnh, trong những lúc đó có lẽ bà làm đổ chiếc bàn cạnh giường. Nhưng, đúng lúc chúng tôi bước vào, chân tay bà duỗi ra và bà buông mình xuống gối.
      John vội băng qua phòng và mở hơi đốt. Quay sang Annie, trong những người hầu phòng, sai ta lấy rượu -nhắc. Rồi, đến bên mẹ, trong khi tôi mở cửa ăn thông ra hành lang.
      Tôi quay sang Lawreance định bảo rằng tôi lui về phòng mình nếu như ta cần đến giúp đỡ của tôi nữa, nhưng lời tan biến môi tôi. Tôi chưa bao giờ trông thấy khuôn mặt đàn ông nét hãi hùng nào như mặt ta vậy. Trông trắng bệch. Trong bàn tay run rẩy của , cây nến sáp tấm thảm, và cặp mắt kinh hãi của nhìn chằm chặp qua đầu tôi điểm nào đó bức tường đối diện. Tôi máy móc nhìn theo nhưng nhận thấy điều gì bất thường cả. Bởi vì khúc củi còn cháy ỉ trong lò sưởi và thành lò sưởi hoàn toàn có gì lạ cả.
      Côn đau của bà Inglethorp dường như dịu lại. Bà có thể bằng những câu ngắt quãng:
      - Tôi khỏe rồi, bất ngờ… ngu xuẩn vì khóa cửa phòng.
      chiếc bóng đổ dài giường. Ngẩng đầu lên, tôi trong thấy Mary Cavendish đứng gần cửa, tay choàng qua vai Cynthia. Bà ta có vẻ như đỡ , trông này như sắp gục xuống. Khuôn mặt ta rất đỏ, và ngừng ngáp.
      - Tội nghiệp Cynthia, ấy rất sợ hãi - bà Cavendish .
      Tôi nhận thấy rằng bà ta mặc chiếc áo làm vườn người. Như thế là muộn hơn tôi cứ nghĩ. Tôi trông thấy vệt sáng yếu ớt của ngày mới len lỏi qua màn cửa và chiếc đồng hồ lò sưởi chỉ gần năm giờ.
      tiếng kêu phát ra từ chiếc giường khiến tôi giật mình. Người phụ nữ đáng thương ấy lại bị cơn đau nữa. Những cơn co giật mạnh khủng khiếp. tình trạng bối rối tột độ bao trùm ngay lúc đó. Chúng tôi vây quanh bà, bất lực trước nỗi đau đớn của bà. cơn co giật cuối cùng nhấc bổng bà lên khỏi giường và dường như chỉ có đầu và gót chân của bà chạm xuống giường thôi và cả thân hình bà cong hẳn lên cách kỳ quặc. Mary và John làm mọi cách để bà uống hớp -nhắc nhưng vô ích. Thân hình bà lại uốn cong lần nữa.
      Đúng lúc đó, bác sĩ Bauerstein lách người vào cách cương quyết. Ông đứng chết lặng lúc, mắt dán vào bóng người nằm giường, rồi bà Inglethorp hét lên bằng giọng tắc nghẽn, mắt nhìn chằm chằm ông bác sĩ.
      - Alfred! Alfred!
      Rồi bà buông người xuống gối, bất động.
      Viên bác sĩ đến bên giường, nắm lấy tay bà Inglethorp và lắc mạnh, thực cái mà tôi đoán là hô hấp nhân tạo. Ông ra lệnh ngắn gọn cho gia nhân. Bằng cửa chỉ đầy uy quyền, ông đuổi tất cả chúng tôi ra đến cửa. Chúng tôi nhìn ông như bị mê hoặc, mặc dù mỗi người trong chúng tôi đếu thầm đoán rằng quá muộn và còn gì để có thể làm nữa cả. Tôi thấy, qua nét mặt của ông, rằng ngay cả ông bác sĩ cũng ít có hy vọng gì.
      Cuối cùng ông ngưng công việc ấy, vừa trịnh trọng lắc đầu. Đúng lúc đó, chúng tôi nghe thấy những tiếng chân trong hành lang, và bác sĩ Wilkins, vị bác sĩ quen thuộc của bà Inglethorp, người đàn ông thó mập mạp và có vẻ quan trọng, bước vào, vẻ bận rộn.
      Bằng vài lời, bác sĩ Bauerstein giải thích rằng ông ngang qua cửa rào Styles đúng vào lúc xe hơi chạy ra, và nhanh chân chạy vào nhà trong khi người ta gọi bác sĩ Wilkins. Ông đưa tay chỉ chiếc giường.
      - đáng buồn! đáng buồn! - Bác sĩ Wilkins khẽ - Tội nghiệp cho người phụ nữ đáng mến. Bà ta luôn luôn làm việc quá sức, quá mức, và ngược mọi lời khuyên của tôi. Tôi báo trước với bà ấy. Tim bà ta còn lâu mới khỏe mạnh. Hãy từ từ thôi, tôi như thế với bà ấy. Từ từ thôi. Nhưng , hăng say của bà đối với những công việc từ thiện quá to lớn. Thiên nhiên cưỡng lại. Thiên nhiên cưỡng lại.
      Tôi nhận thấy rằng bác sĩ Bauerstein nhìn viên bác sĩ miền quê chăm chăm.
      - Những cơn co giật mạnh cách đặc biệt, bác sĩ Wilkins ạ. Tôi tiếc rằng ông đến được đúng lúc để quan sát. Chúng có tính chất hoàn toàn… giống như bệnh uốn ván.
      - Ồ! - bác sĩ Wilkins kêu lên.
      - Tôi muốn hội ý riêng với ông - bác sĩ Bauerstein .
      Quay sang John:
      - Ông thấy bất tiện chứ?
      - Tất nhiên là .
      Tất cả chúng tôi bước ra hành lang, để hai người bác sĩ ở lại với nhau và tôi nghe thấy tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa sau lưng chúng tôi.
      Chúng tôi từ từ bước xuống nhà. Tôi bị căng thẳng thần kinh đến cực độ; tôi phải tự hào rằng mình có khả năng suy luận, và thái độ của bác sĩ Bauerstein làm nảy sinh trong đầu óc tôi cả loạt những lời phỏng đoán điên rồ. Mary Cavendish đặt tay lên cánh tay tôi. Tôi quay nhìn bà.
      - Bà có biết tôi nghĩ gì ? - Tôi hỏi.
      - Gì thế?
      - Hãy nghe đây này.
      Liếc nhìn quanh chúng tôi, tôi nhận thấy những người khác ở ngoài tầm nghe. Tôi hạ thấp giọng và khẽ .
      - Tôi cho rằng bà ấy bị đầu độc đấy. Tôi tin chắc là bác sĩ Bauerstein cũng nghi ngờ điều đó.
      - Sao?
      Bà lùi dần về phía tường, mắt mở to vì sợ hãi. Rồi hét lên tiếng khiến tôi lo sợ, bà hung hăng bảo:
      - ! ! thể như thế! thể như thế!
      Và, gạt tôi sang bên, bà bỏ chạy lên cầu thang. Tôi chạy theo, sợ bà bị đau. Tôi tìm thấy bà dựa vào thành cầu thang, trông bà tái mét như xác chết, và bà gạt tôi cách nóng nảy:
      - ! ! Hãy để tôi yên! Tôi muốn ở mình. Hãy để tôi yên lát. Hãy tìm những người khác .
      Tôi miễn cưỡng làm theo lời bà. John và Laurence ở trong phòng khách và tôi nhập bọn với họ. Chúng tôi đều giữ im lặng nhưng họ cho rằng tôi lên suy nghĩ của mọi người khi, cuối cùng, tôi phá tan im lặng và .
      - Ông Inglethorp đâu nhỉ?
      John lắc đầu:
      - ta có trong nhà.
      Ánh mắt của chúng tôi gặp nhau. Alfred Inglethorp ở đâu mới được chứ? vắng mặt lạ lùng và thể nào giải thích nổi. Tôi nhớ lại những lời cuối cùng của bà Inglethorp. Chúng có ý nghĩa gì? Bà ta gì nữa nếu như còn đủ sức?
      Cuối cùng các bác sĩ cũng bước xuống. Bác sĩ Wilkins có vẻ trịnh trọng và che giấu bồn chồn bên trong bằng chiếc mặt nạ lạnh lùng.
      Bác sĩ Bauerstein giữ vai phụ, khuôn mặt nghiêm trọng của ông thay đổi. Bác sĩ Wilkins mở lời. Ông với John:
      - Ông Cavendish ạ, tôi cầu ông đồng ý cho khám nghiệm tử thi.
      - Có cần thiết ? - John nghiêm túc hỏi, trong khi khuôn mặt nhăn nhó vì đau khổ.
      - Tuyệt đối cần thiết - bác sĩ Bauerstein .
      - Ông muốn rằng việc đó…
      - Cả bác sĩ Wilkins lẫn tôi đều thể ký giấy phép liệm người chết trong những tình huống này.
      John cúi đầu.
      - Trong trường hợp đó tôi thể chọn lựa và đành chấp nhận thôi.
      - Cám ơn - bác sĩ Wilkins vội - Chúng tôi đề nghị khám nghiệm tử thi vào chiều mai, hay đúng hơn là chiều nay - ông liếc nhìn ra ngoài cửa sổ soi sáng bởi những tia nắng ban mai đầu tiên và chữa lại - Với những tình huống này, chúng ta thể nào, tôi e vậy, tránh được cuộc điều tra của nhà chức trách, những thủ tục này là cần thiết, nhưng tôi xin quý vị đừng lo âu quá đỗi.
      Ông ngừng lại, bác sĩ Bauerstein rút từ túi áo ra hai chiếc chìa khóa và trao cho John.
      - Đây là chìa khóa của hai căn phòng. Theo ý tôi, nên khóa chúng lại trong lúc này là tốt hơn cả.
      đến đây, các bác sĩ bỏ .
      Từ nãy giờ, tôi lập lập lại ý nghĩ trong đầu và cho rằng đến lúc biểu lộ ra.
      Tuy nhiên tôi hơi ngần ngại. Tôi biết rằng John rất sợ tai tiếng và lạc quan cách vô tâm. Do đó rất có thể khó thuyết phục được về tính hợp lý của ý định của tôi. Tôi nghĩ, có thể tin vào đồng tình của Laurence vì ta có nhiều trí tưởng tượng hơn.
      - John - tôi bảo - tôi đề nghị với việc này.
      - Sao cơ?
      - còn nhớ tôi có với về ông bạn Poirot của tôi ? Cái ông người Bỉ ở trong làng ấy? Trước đây ông ta viên thám tử nổi tiếng.
      - Vâng.
      - Thế này nhé, tôi muốn cho phép tôi mời ông ta đến để điều tra về vụ này.
      - Sao cơ? Bây giờ ư?
      - Phải… Thời gian là lợi điểm, nếu như… nếu như đó là vụ giết người.
      - là bậy - Laurence tức giận kêu lên - Theo ý tôi, tất cả chuyện này chỉ là cái tin vịt do Bauerstein bịa ra. Wilkins hề nghĩ như thế trước khi Bauerstein nhồi vào đầu ông ta điều đó. Nhưng Bauerstein bị méo mó nghề nghiệp như tất cả những nhà chuyện môn khác. Độc dược là nghề của ông ta, thế nên bạ đâu ông ta cũng trông thấy nó cả.
      Tôi phải thừa nhận rằng thái độ của Laurence làm tôi ngạc nhiên bởi vì rất hiếm khi ta tỏ ra kịch liệt với bất cứ vấn đề gì.
      John do dự.
      - Tôi hiểu nổi tình cảm của cậu, Laurence ạ - . Tôi rất muốn để cho Hastings hoàn toàn tự do hành động, mặc dù tôi thích chờ đợi ít lâu nữa. Chúng ta muốn bị tai tiếng cách vô ích.
      - Tất nhiên thôi! - Tôi vội kêu lên - Đừng ngại gì về vấn đề đó cả: Poirot chính là tất cả kín đáo.
      - Thế , hãy hành động theo ý mình. Tuy nhiên, theo tôi, việc rất ràng, nếu như điều chúng ta nghi ngờ là chính xác. Nhưng Chúa hãy tha tội cho tôi nếu như tôi phán đoán mạnh dạn quá.
      Tôi nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ sáng. Tôi quyết định để phí giờ. Tuy nhiên, tôi cũng ra hẹn cho mình năm phút: trong năm phút đó tôi lục lọi thư viện, cho đến khi tìm được cuốn sách y học tả ngộ độc do chất Strychnin gây nên.
      snowbell thích bài này.

    2. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG IV: POIROT MỞ CUỘC ĐIỀU TRA

      Căn nhà của những người Bỉ nằm rất gần tường rào của khuôn viên. Người ta có thể đến đó bằng con đường xuyên qua cỏ cao, điều đó có thể tránh cho người ta khỏi phải vòng lối đường cái. Do đó khi tôi dùng con đường này và đến chỗ người gác dan ở trông thấy bóng đàn ông lao về phía tôi. Đó là ông Inglethorp. Ông ta từ đâu đến? Ông ta làm thế nào để giải thích được vắng mặt của mình?
      Ông ta vội ngay:
      - Chúa ơi! việc khủng khiếp biết bao! Bà vợ đáng thương của tôi! Tôi chỉ vừa mới biết tin thôi!
      - Ông đâu vậy? - Tôi lạnh lùng hỏi.
      - Denby giữ tôi ở lại rất khuya. Khi chúng tôi tính toán xong, hơn giờ sáng rồi. Lúc đó tôi chợt nhận ra rằng mình bỏ quên chìa khóa. Do tôi muốn đánh thức cả nhà dậy nên Denby cho tôi mượn chiếc giường.
      - Làm thế nào mà ông biết được tin? - Tôi hỏi tiếp.
      - Wilkins đánh thức Denby để báo tin. Emily đáng thương của tôi! Với tính tình cao quý biết mấy!
      nỗi ghê tởm mơ hồ xâm chiếm lấy tôi. Inglethorp ra trước mắt tôi như tên giả dối quá mức.
      lúc sau, tôi gõ cửa biệt thự Leastways. thấy ai trả lời, tôi nóng nảy lập lại cử chỉ đó. cánh cửa sổ được cẩn thận đẩy ra và đích thân Poirot thò đầu nhìn xuống đường. Ông ta kêu lên kinh ngạc khi nhận ra tôi. Tôi kể vắn tắt tấn thảm kịch cho tôi nghe và bảo rằng tôi đến cầu giúp đỡ của ông.
      - Khoan , bạn ạ, tôi mở cửa cho vào và kể hết đầu đuôi câu chuyện trong khi tôi sửa soạn.
      Ông mở cửa ngay và tôi theo ông đến tận phòng ngủ. Ở đó, ngồi vào chiếc ghế bành, tôi kể hết mọi chuyện cho ông nghe, giấu diếm và cũng chẳng bỏ sót điều gì cả, trong khi ông sửa soạn cách tỉ mỉ.
      Tôi cho ông biết về những lời cuối cùng của bà Inglethorp, về vắng mặt của chồng bà ta, về trận cãi vã hôm trước, về mẩu đối thoại mà tôi nghe thấy giữa Mary và mẹ chồng, về bất hòa giữa bà Inglethorp và Evelyn Howrad trước đó và về những lời dặn dò của này.
      Tôi được hoàn toàn ràng như mong muốn. Tôi phải nhắc nhắc lại nhiều lần, và thỉnh thoảng phải gợi nhớ lại chi tiết bị bỏ quên. Poirot mỉm cười đầy hảo ý với tôi.
      - hơi xúc động phải ? Tự nhiên thôi. Nhưng hãy từ từ, bạn ạ. Sau này, khi chúng ta bình tĩnh hơn, chúng ta sắp xếp lại các kiện cách có hệ thống, cái nào vào chỗ nấy. Chúng ta xem xét và chọn lựa. Chúng ta để sang bên cái nào mà chúng ta cho là quan trọng. Còn những cái khác … phù! (ông gồng gương mặt trẻ con của mình lên và thổi cách khá nực cười), chúng ta cho chúng bay mất.
      - Tất cả những thứ đó hay - tôi bảo - nhưng ông làm sao phân biệt được cái nào là quan trọng và cái nào là chứ? Việc đó đối với tôi luôn luôn rất khó.
      Poirot lắc đầu mạnh mẽ. Ông xoắn bộ râu của mình với chăm chút lão luyện.
      - đâu, này nhé. kiện này dẫn đến kiện khác, và chúng cứ tiếp tục như thế. Cái kế tiếp có phù hợp với cái trước ? cách tuyệt vời. Được rồi! Chúng ta có thể tiếp tục. Thiếu mắc xích trong sợi dây ư? Chúng ta xem xét. Chúng ta tìm hiểu về cái kiện bé kia, cái kiện vô nghĩa có vẻ như phù hợp với những cái khác; chúng ta đặt đây này.
      Ông phác cửa chỉ.
      - Quan trọng lắm đấy! Tiên quyết đấy!
      - Vâng… vâng!...
      - À!
      Poirot chỉ tay đe dọa tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi phải lùi lại.
      - Hãy coi chừng! Người thám tử mà : “Đó là kiện chút quan trọng. Nó phù hợp với những cái khác, tôi quên nguy hiểm lắm đấy. hờ hững đó đưa đến hoang mang. Bởi vì tất cả, tất cả đều có tầm quan trọng của nó.
      - Tôi biết điều đó. Ông vẫn bảo với tôi như thế. Bởi vậy tôi ghi lại tất cả những chi tiết của vụ này, dù cho chúng có quan trọng hay nữa dưới mắt tôi.
      - Và tôi rất hài lòng về . có trí nhớ tốt và liệt kê cho tôi cách trung thực. Tôi như thế về thứ tự theo đó giới thiệu chúng cho tôi, bởi vì là đáng phàn nàn. Nhưng tôi hiểu rằng bị xúc động. Bởi thế tôi tha thứ cho quên mất kiện quan trọng bậc nhất.
      - kiện nào? - Tôi ngạc nhiên hỏi.
      - cho tôi biết bà Inglethorp tối qua ăn có ngon miệng ?
      Tôi nhìn ông chằm chặp, kinh ngạc. Quả là chiến tranh làm cho đầu óc ông bị lệch lạc. Ông mải mê cẩn thận chải bộ vét trước khi mặc vào người và tỏ ra hoàn toàn chăm chú vào việc đó.
      - Tôi nhớ nữa - tôi đáp - Dù sao nữa, tôi thấy…
      - Ông thấy ư? Nhưng nó là cốt yếu đấy!
      - Tôi hiểu - tôi đáp, hơi bị xúc phạm. Nhưng, nếu ký ức tôi chính xác bà ấy chả ăn bao nhiêu. ràng là bà ta rất rối trí và thấy ngon miệng. Tự nhiên thôi.
      - Phải - Poirot nhắc lại, trầm tư - Rất tự nhiên.
      Ông mở ngăn kéo, lấy chiếc ví và quay sang tôi.
      - Đây này, tôi sẵn sàng. Chúng ta đến lâu đài để xem xét việc ngay tại chỗ. Hãy tha thứ cho tôi, bạn ạ, nhưng mặc đồ vội vã và chiếc cà-vạt của bị xộc xệch. Cho phép tôi.
      Bằng cử chỉ chính xác, ông sửa lại.
      - Nào, ta hãy thôi.
      Chúng tôi vòng qua ngôi nhà và ngang qua nhà người gác da, bước vào khuôn viên. Poirot ngừng lại lát vẻ đau đớn nhìn ngắm khu vườn trải rộng còn lấp lánh dưới sương sớm.
      - Tất cả những thứ này đẹp biết mấy, thế mà gia đình ấy lại phải chìm trong đau khổ.
      Vừa ông vừa nhìn tôi dò xét, và tôi nhận ra mình đỏ mặt dưới cái nhìn sắc của ông.

      * * *

      Gia đình có bị quỵ xuống vì đau thương ? Nỗi đau do cái chết của bà Inglethorp gây nên có to lớn ? Tôi nhận ra khí ở Styles dường như chả có vẻ gì là bị nhuốm đầy xúc động cả. Người chết có khả năng làm cho mình được mến. Cái chết của bà là tai họa và cú sốc lớn, nhưng ai nuối tiếc bà nhiều lắm.
      Poirot có vẻ như theo dõi dòng suy nghĩ của tôi. Ông trịnh trọng gật đầu bảo:
      - giống như nếu họ có quan hệ máu mủ với nhau vậy. Bà ta tỏ ra rất tốt bụng và rộng lượng đối với những người thuộc dòng họ Cavendish ấy, nhưng lại phải là máu ruột của họ. Máu mủ cũng quan trọng đấy, hãy nhớ lấy điều này, máu mủ cũng quan trọng đấy.
      - Poirot, ông cho tôi biết, tại sao ông muốn biết bà Inglethorp tối qua có ăn nhiều hay ? Tôi lật lật lại cái ý nghĩ đó trong đầu mãi mà chả thấy nó liên quan gì đến việc này cả.
      Ông im lặng lúc trong khi chúng tôi vẫn bước , nhưng cuối cùng ông cũng trả lời tôi.
      - Tôi rất muốn cho biết, mặc dù tôi có thói quen, như biết đó, đưa ra bất cứ lời giải thích nào trước khi đạt đến đích. Giả thuyết nay là bà Inglethorp chết do ngộ độc bởi chất Strichnin được bỏ vào cà-phê của bà ta.
      - Vâng…
      - Thế , cà-phê được phục vụ vào giờ nào?
      - Khoảng tám giờ tối.
      - Vậy bà ta uống vào giữa tám giờ và tám giờ ba mươi. Chắc chắn rằng lâu hơn sau đó. Thế nhưng Strychnin là độc dược có tác động khá nhanh, có lẽ là tiếng đồng hồ sau. Tuy nhiên, trong trường hợp của bà Inglethorp, những triệu chứng chỉ bộc lộ ra vào lúc năm giờ sáng hôm sau, nghĩa là chín tiếng đồng hồ sau. Thế nhưng, bữa ăn thịnh soạn hấp thụ cùng lúc với độc dược có thể làm chậm công hiệu của nó , nhưng lâu đến như thế. Tuy vậy, đó cũng là khả năng đáng lưu ý đến. Thế mà, theo bà ta ăn khá ít, nhưng triệu chứng vẫn chỉ xuất vào sáng hôm sau. Đó là trường hợp khá lạ lùng, bạn ạ. Có thể cuộc khám nghiệm soi sáng cho chúng ta thêm. Trong lúc chờ đợi, đừng quên chi tiết đó.
      Khi chúng tôi đến gần ngôi nhà, John bước ra đón chúng tôi. Gương mặt trông thất thần và mệt mỏi.
      - Đây là việc khủng khiếp, ông Poirot ạ - - Hastings có lẽ cho ông biết, chúng tôi muốn tiết lộ nó ra ngoài.
      - Tôi hoàn toàn hiểu ý ông.
      - Ông thấy đấy, cho đến nay chỉ là nghi ngờ thôi. Chúng ta có những đầu đề chính xác.
      - Đúng vậy. Chỉ cần thận trọng thôi.
      John quay sang tôi, lấy điếu thuốc trong hộp thuốc và châm lửa.
      - biết rằng Inglethorp quay về rồi chứ?
      - Vâng. Tôi gặp .
      John vứt cây diêm vào luống hoa gần đó, cử chỉ này làm cho Poirot, vốn rất ngăn nắp, phải bực bội. Ông nhặt nó lên và cẩn thận vùi sâu xuống đất.
      - Quả rất khó mà biết phải đối xử với ra sao.
      - khó khăn đó kéo dài lâu đâu - Poirot thản nhiên tuyên bố.
      John tỏ ra băn khoăn, vì hiểu ý nghĩa của câu tối nghĩa ấy. trao cho tôi hai chiếc chìa khóa mà bác sĩ Bauerstein đưa cho .
      - Hãy cho ông Poirot xem tất cả những gì ông ấy muốn xem.
      - Các căn phòng đều được khóa trái cửa hết sao? - Poirot hỏi.
      - Bác sĩ Bauerstein cho rằng điều đó là tốt hơn hết.
      Poirot gật đầu, trầm ngâm.
      - Thế ông ta phải chắc chắc lắm với đánh giá của mình. Điều này chỉ làm cho mọi việc đơn giản hơn đối với chúng ta thôi.

    3. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG IV: POIROT MỞ CUỘC ĐIỀU TRA (Tiếp)

      Chúng tôi cùng lên phòng nơi xảy ra thảm kịch. Để tiện hơn nữa, tôi thêm vào đây sơ đồ của căn phòng đó với những đồ đạc chính có ở đấy.
      Phòng ngủ của bà Inglethorp:

      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/62903/588F91EF1C0C40E9A0A526A0AFA2D509.JPG[/image]

      A: cửa ăn thông ra hành lang
      B: cửa ăn thông sang phòng ông Inglethorp
      C: cửa ăn thông sang phòng Cynthia Murdoch.
      Poirot khóa cửa lại từ bên trong và bắt đầu lục soát tỉ mỉ. Ông chạy từ vật này sang vật khác với nhanh nhẹn của con dế. Tôi đứng gần cửa, sợ làm mất dấu vết nào đó. Nhưng Poirot có vẻ như mấy tán thành tế nhịn này của tôi.
      - sao thế, bạn? Đứng như thế cứ như, sao đây, à, phải rồi, cứ như con heo nhồi rơm vậy.
      Tôi bảo với ông rằng tôi sợ xóa mất dấu chân nào đó.
      - Những dấu chân! Ý nghĩ hay . có đến cả đạo quân dẫn vào phòng này rồi. Chúng ta có thể tìm thấy những dấu chân nào đây? , hãy đến đây giúp tôi trong việc tìm kiếm. Tôi đem cất chiếc ví của mình cho đến khi nào lại cần đến nó.
      Ông đặt nó lên chiếc bàn tròn kê gần cửa sổ, nhưng đó chỉ là cử chỉ vô ý, vì phần của chiếc bàn có thể xê dịch được, ông đứng lên và chiếc ví rơi xuống sàn nhà.
      - Quả là chiếc bàn kỳ cục! - Poirot kêu lên - À! thấy đấy, phải những ngôi nhà lớn là có nhiều tiện nghi nhất đâu.
      Và sau câu luân lý khôi hài đó, ông tiếp tục công việc của mình.
      chiếc rương màu tím với chiếc chìa khóa cắm trong ổ khóa, đặt bàn giấy, khiến ông chú ý lúc. Ông rút chìa khóa ra và đưa tôi xem. Tôi thấy gì là đặc biệt cả. Đó là chiếc chìa khóa bình thường, thuộc loại Yale và có đoạn dây thép cong queo được xỏ qua chiếc vòng.
      Sau đó ông quan sát cánh cửa mà chúng tôi phá để tin chắc rằng nó có bị khóa hay . Rồi ông tiến đến bên cánh cửa đối diện, ăn thông sang phòng của Cynthia. Như tôi kể, cánh cửa đó cũng được cài then. Tuy vậy, ông cũng cất công đẩy chốt, mở và đóng cửa nhiều lần liên tục; khi làm việc này, ông tìm đủ mọi cách để khỏi gây tiếng động. Bất thình lình, có cái gì đó ngay trong ổ khóa làm ông chú ý. Sau cuộc kiểm tra nghiêm túc, ông lấy từ chiếc túi đựng đồ nghề của mình ra chiếc kẹp và gắp từ ổ khóa ra mảnh xíu mà ông cẩn thận nhét vào chiếc phong bì
      chiếc tủ ngăn, trong chiếc khay, có cái bếp cồn và cái xoong. Trong đáy xoong còn lại ít chất lỏng đen đen. Ngay gần đó là chiếc tách và cái đĩa mà, tất nhiên là, người ta dùng đến.
      Tôi tự hỏi làm sao mình lại có thể lơ đãng đến độ chú ý đến chúng. Đó là dấu vết quan trọng. Poirot thận trọng nhúng ngón tay vào chất lỏng và nếm. Ông nhăn mặt.
      - Ca-cao pha với rượu rum.
      Sau đó ông quay sang những mảnh vụn vương vãi sàn nhà, chỗ chiếc bàn đặt cạnh giường bị lật đổ. chiếc đèn để bàn, vài cuốn sách, vài cây diêm quẹt, xâu chìa khóa và những mảnh vỡ của chiếc tách cà-phê còn vương vãi đây đó.
      - À! Điều này lạ lùng đây! - Poirot .
      - Tôi phải thú nhận rằng tôi thấy điều gì đặc biệt lạ cả.
      - ư? Hãy nhìn chiếc đèn kia. Kính bị vỡ làm hai mảnh nằm ngay chỗ nó rơi xuống. Nhưng hãy coi đây, chiếc tách cà-phê lại hoàn toàn vỡ nát.
      - Như thế có lẽ có ai đó đạp lên nó rồi.
      - Đúng vậy - Poirot bằng giọng lạ lùng - Có ai đó đạp lên nó.
      Ông đứng lên và từ từ tiến đến bên lò sưởi, ở đó ông hờ hững nghịch những vật trưng bày và sắp đặt chúng lại cho ngăn nắp, thói quen của ông khi bị bối rối.
      - bạn ạ - ông quay sang tôi - Có ai đó dẫm lên chiếc tách này và làm vỡ tan nó ra vì trong hai lẽ sau đây: hoặc là vì nó có chứa chất Strychnin, hoặc là; và điều này nghiêm trọng hơn nhiều; vì nó hề chứa chất đó.
      Tôi trả lời ông. Tôi sửng sốt, nhưng tôi biết là vô ích khi đòi ông giải thích. lúc sau, ông lấy lại bình tĩnh và tiếp tục tìm kiếm. Ông nhặt xâu chìa khóa ở dưới đất lên và, xoay tới xoay lui trong tay, cuối cùng ông chọn lấy chiếc mới toanh và thử vào ổ khóa của chiếc rương màu tím. Nó vừa khít và ông mở chiếc rương ra, nhưng sau lúc do dự, ông khóa nó lại và đút xâu chìa khóa cùng chiếc chìa khóa mà chúng tôi tìm thấy cắm ở ổ khóa chiếc rương vào túi.
      - Tôi được phép đọc những văn kiện này nhưng cũng cần phải làm điều đó chút chậm trễ.
      Sau đó ông xem xét các ngăn kéo của chiếc bàn kê cạnh giường. Khi băng qua phòng để đến bên cửa sổ phía bên trái, vệt tròn, gần như thể trông thấy được tấm thảm màu nâu sẫm có vẻ như làm ông đặc biệt chú ý. Ông quỳ xuống xem gần và còn ngửi nữa.
      Cuối cùng ông rót vài giọt ca-cao vào ống nghiệm và đậy nắp cẩn thận. Rồi ông rút từ túi áo ra cuốn sổ.
      - Trong phòng này chúng ta phát được sáu điều lý thú - ông vừa viết nhanh vừa bảo - có muốn tôi liệt kê chúng ra, hay muốn tự làm?
      - Ồ! Ông cứ - Tôi vội đáp.
      - Được lắm. Trước nhất là: chiếc tách cà-phê bị đạp vỡ nát. Thứ hai: chiếc rương với chiếc chìa khóa cắm ở ổ khóa. Thứ ba: vết dơ tấm thảm…
      - Có thể nó có ở đó từ lâu rồi - tôi cắt ngang.
      - đâu, vì ràng là nó còn ẩm và có mùi cà-phê. Thứ tư: mảnh vải màu lục đậm, hoặc hai sợi thôi, nhưng rất dễ nhận.
      - Ồ! - Tôi kêu lên - Đó chính là cái mà ông cất vào chiếc phong bì ư?
      - Phải. Có thể chúng ta khám phá ra đó chỉ là chiếc áo của bà Inglethorp mà thôi, và dấu vết này mấy quan trọng. Hãy đợi xem. Thứ năm: cái này đây!
      Và bằng cử chỉ đầy kịch tính, ông chỉ vết sáp tấm thảm gần chiếc bàn giấy.
      - Vết này mới có từ hôm qua thôi, nếu bất cứ hầu phòng giỏi giang nào cũng xóa ngay với tờ giấy thấm và chiếc bàn ủi nóng. hôm, trong những chiếc nón tốt nhất của tôi… nhưng bỏ qua thôi, việc đó dính dáng gì đến vụ này cả.
      - Vết sáp này có lẽ có từ tối hôm qua. Chúng tôi đều rất xúc động. Hoặc giả chính bà Inglethorp đánh rơi cây nến.
      - Quý vị đem theo cây nến vào phòng ư?
      - Vâng, Laurence Cavendish cầm cây tay. Nhưng ta rất hoảng loạn. Hình như ta trông thấy cái gì đó ở đằng kia (tôi đưa tay chỉ chiếc lò sưởi) làm cho ta hoàn toàn bị tê liệt.
      - Điều đó đáng quan tâm đấy - Poirot sôi nổi - Phải, nó có thể có ý nghĩa (và cái nhìn của ông bao trùm diện tích của cả bức tường) nhưng, phải cây nến của ta làm nên cái vệt lớn này đâu, bởi vì có thể nhận thấy rằng ở đây là sáp trắng. Còn cây nến của ông Laurence, còn đặt bàn phấn, lại màu hồng. Hơn nữa, bà Inglethorp có cây cắm nến trong phòng, mà chỉ có cái đèn để bàn thôi.
      - Ông suy ra điều gì thế?
      Nhưng ông bạn tôi chỉ đưa ra câu trả lời dễ chọc giận, ông ấy xin tôi hãy dùng đến những năng khiếu tự nhiên của mình.
      - Còn điều khám phá thứ sáu? - Tôi hỏi - Đó là theo như tôi phỏng đoán, mẩu chất ca-cao chứ gì?
      - - Poirot trầm ngâm đáp - Tôi có thể gom nó vào điều thứ sáu, nhưng tôi làm. , tôi giữ khám phá thứ sáu cho riêng mình, ít ra là trong lúc này.
      Ông vội nhìn quanh phòng.
      - Tôi cho rằng còn gì để làm ở đây nữa, trừ phi (ông nhìn đám tro tàn trong lò sưởi hồi lâu). Lúa cháy, cháy… và thiêu hủy… Nhưng có thể, vô tình, còn sót lại cái gì đó. Hãy cứ xem nào.
      Nhanh nhẹn, ông quỳ xuống và lục lọi trong đống tro, lôi chúng từ lò sưởi ra bằng cái chắn lửa, cẩn thận bới chúng lên. Bỗng ông bật kêu lên:
      - Chiếc kẹp, Hastings ạ!
      Tôi vội trao nó cho ông ngay và ông khéo léo moi ra mảnh giấy bị cháy mất phân nửa.
      - Đây này, bạn ạ. nghĩ gì về cái này?
      Tôi quan sát mảnh giấy. Đây là bức họa lại chính xác.
      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/62903/4A3C7D1B09F04854B8E5618BED3785C5.JPG[/image]
      Tính hiếu kỳ của tôi bị khơi dậy. Tờ giấy dày và khác hẳn giấy viết thư bình thường. Bất ngờ tôi nảy ra ý nghĩ.
      - Poirot - tôi kêu lên - Đây là mảnh của bức di chúc.
      Đúng thế.
      - Điều đó làm ông ngạc nhiên sao?
      - - ông trịnh trọng - Tôi chờ đợi điều đó.
      Tôi trao lại cho ông mảnh giấy, ông cất nó vào ví với chăm chút vối có của ông đối với mọi thứ. Đầu óc tôi bị cuốn hút vào cơn gió lốc. Tờ di chúc đó có ý nghĩa gì? Ai thiêu hủy nó? Tất nhiên là người để lại vệt sáp tấm thảm rồi. Nhưng người đó làm thế nào để đột nhập vào phòng khi mà mọi cánh cửa đều cái then từ bên trong.
      - Bây giờ, bạn ạ - Poirot hăng hái bảo - chúng ta rút lui. Tôi muốn đặt vài câu hỏi với bà hầu phòng… Bà ta tên là Dorcas phải ?
      Chúng tôi ngang qua phòng Alfred Inglethorp và Poirot nán lại ở đó khá lâu để xem xét. Chúng tôi ra bằng cánh cửa đó và Poirot khóa cửa phòng lại, cả phòng của bà Inglethorp nữa.
      Tôi dẫn ông ta đến thư phòng, theo ý muốn của ông, rồi đích thân tìm Dorcas. Nhưng khi tôi trở lại thư phòng với bà ta căn phòng bỏ trống.
      - Poirot, ông ở đâu? - Tôi kêu lên.
      - Tôi đây, bạn ạ.
      Ông ra ngoài bằng cánh cửa sổ lớn và đứng lặng mà ngắm những luống hoa với đủ mọi hình dáng.
      - Tuyệt vời - ông khẽ . Tuyệt vời! Cân xứng làm sao ấy. Hãy nhìn xem, những hình lưỡi liềm này, đường nét ràng của chúng trông mát mắt. Và khoảng cách giữa các mặt phẳng cũng hoàn hảo nữa. Tất cả những thứ này đều mới được làm xong, phải ?
      - Vâng, tôi cho rằng chúng mới được làm vào lúc trưa hôm qua. Nhưng, hãy đến đây, Dorcas kia rồi.
      - Nào, nào… Đừng tước mất của tôi giây phút đầy thú vị.
      - Vâng, nhưng vụ này quan trọng hơn.
      - Làm sao biết được những bông thu hải đường này lại quan trọng bằng?
      Tôi nhún vai. Quả là vô ích để tranh cãi với ông ta khi ông dùng cái giọng đó.
      - đồng ý… Nào, ta vào hỏi chuyện Dorcas vậy.
      Dorcas đứng trong thư phòng, hai tay khoanh trước ngực, mái tóc bạc uốn lượn dưới chiếc mũ trắng. Đó là tuýp người hầu già thuở xưa. Bà đứng trước mặt chúng tôi, trong thái độ ngờ vực, nhưng Poirot đánh ta dè dặt của bà. Ông kéo chiếc ghế cho bà.
      - Xin bà hãy ngồi xuống đây.
      - Cám ơn ông.
      - Bà giúp việc cho bà chủ lâu rồi, phải ?
      - Mười năm rồi, thưa ông.
      - Đó là thời gian dài và nó chứng tỏ được lòng trung thành phục vụ của bà. Tôi cho rằng bà rất quyến luyến bà chủ, phải ?
      - Bà ấy luôn luôn tốt bụng đối với tôi, thưa ông.
      - Vậy từ chối trả lời vài câu hỏi. Tôi đặt chúng ra cho bà với tán đồng hoàn toàn của ông Cavendish.
      - Ồ! Tất nhiên rồi, thưa ông.
      - Vậy tôi bắt đầu hỏi bà về những biến cố xảy ra lúc trưa hôm qua. Bà chủ cãi nhau, phải ?
      - Vâng, thưa ông. Tôi biết có nên…
      Dorcas do dự.
      Poirot ném cho bà cái nhìn sắc.
      - Bà Dorcas tốt bụng ạ, tôi cần thiết phải biết tất cả những chi tiết của cuộc cãi vã ấy. Đừng cho rằng bà tiết lộ những bí mật của bà chủ. Bà ấy chết, và chúng tôi cần phải biết tất cả, nếu như chúng tôi muốn trả thù cho bà ấy. có cái gì có thể làm cho bà ấy sống lại được, nhưng chúng tôi hy vọng, nếu như đó là vụ án mạng, đem được tên sát nhân ra trước pháp luật.
      - Được rồi - Dorcas bằng giọng hung hãn - Tôi nêu tên ai cả nhưng tôi cho là trong nhà này có người mà ai trong chúng tôi có thể chịu đựng nổi. Cái ngày mà ta bước chân vào nhà này lần đầu tiên quả là ngày đau buồn.
      Poirot đợi cho cơn giận của bà ta nguôi bớt, rồi ông lại với giọng quan chức:
      - Và bây giờ, về vấn đề cuộc cãi vã ấy mà, bà nghe đến nó lần đầu tiên vào lúc nào?
      - Hôm qua, lúc tôi ngang qua hành lang…
      - Lúc đó là mấy giờ…
      - Tôi thể cách chính xác được thưa ông, nhưng phải trước lúc dùng trà khá lâu. Có lẽ là mười sáu giờ hay hơn chút. Như tôi , tôi ngang qua hành lang nghe thấy những giọng ở ngay đây này, rất to và có vẻ như giận dữ. Tôi có ý định nghe lén, nhưng thế đấy. Tôi đứng lại. Cửa đóng nhưng bà chủ tôi rất to và rất , và tôi nghe những gì bà : “ dối tôi và làm tôi thất vọng”. Tôi nghe thấy câu trả lời của ông Inglethorp. Ông ta hơn bà ấy nhiều; nhưng bà ta lại bảo: “Sao dám cả gan? Tôi đùm bọc , nuôi ăn mặc. phải biết ơn tôi về tất cả. Và trả ơn tôi như thế đấy. Bằng cách ném vào mặt tôi xấu hổ”. Lại lần nữa tôi nghe thấy ta trả lời gì, nhưng bà ấy tiếp: “Tất cả những gì có thể với tôi cũng làm thay đổi gì được. Tôi thấy trách nhiệm của mình. Tôi quyết định rồi. Đừng tưởng e ngại dư luận và vụ tai tiếng giữa vợ chồng có thể ngăn cản được tôi đâu”. Lúc đó tôi cho rằng họ sắp bước ra và tôi vội vã bỏ .
      - Bà có chắc bà nghe thấy chính giọng của Inglethorp ?
      - Ồ! Có chứ, thưa ông. Còn ai vào đây nữa chứ?
      - Sau đó chuyện gì xảy ra?
      - Lát sau tôi quay lại hành lang nhưng tất cả đều yên tĩnh. Lúc mười bảy giờ, bà Inglethorp nhấn chuông gọi tôi và bảo tôi đem đến thư phòng cho bà tách trà, cần đến bánh ngọt. Trông bà ấy thảm hại, nhợt nhạt và rụng rời: “Dorcas, bà bảo tôi, tôi vừa bị cú sốc lớn”. “Tôi lấy làm tiếc cho bà, tôi , nhưng bà khá hơn sau khi dùng tách trà nóng”. Bà ta cầm trong tay tờ giấy. Tôi biết đó có phải là bức thư , dù sao đó có chữ viết, và bà nhìn tờ giấy đó chăm chăm, cứ như bà tài nào hiểu nổi những gì bà đọc thấy ở đó. Bà khẽ , như quên mất diện của tôi: “Chỉ vào chữ thôi, và tất cả thay đổi”. Rồi bà bảo tôi: “Đừng bao giờ đặt lòng tin vào đàn ông, Dorcas ạ. Họ xứng đáng đâu”.
      Tôi bước ra và lấy cho bà tách trà đậm, và bà cảm ơn tôi, thêm rằng bà khá hơn sau khi uống nó. “Tôi biết phải làm gì, vụ tai tiếng giữa vợ chồng là điều khủng khiếp. Tôi rất muốn làm ngơ cho rồi, nhưng thể được”. Vừa lúc đó bà Cavendish bước vào, và bà chủ vội im bặt.
      - Bà ấy còn cầm tay bức thư hoặc tờ giấy ?
      - Còn, thưa ông.
      - Sau đó bà ta có thể làm gì với nó nhỉ?
      - Tôi biết, thưa ông, nhưng tôi cho rằng có lẽ bà ấy cất nó vào chiếc rương màu tím ấy mà.
      - Bà ấy thường cất giấy tờ quan trọng ở đấy, phải ?
      - Vâng, thưa ông. Mỗi buổi sáng, bà ấy đều xách nó xuống và lại đem nó lên vào mỗi buổi tối.
      - Bà có biết bà ấy đánh mất chìa khóa vào lúc nào ?
      - Bà ta phát việc ấy vào lúc ăn trưa. Bà nhờ tôi tìm phụ. Hơn nữa bà tỏ ra rất bực bội vì mất mát này.
      - Nhưng bà ấy còn có chiếc chìa khóa thứ hai nữa, phải ?
      - Ồ, vâng, thưa ông!
      Dorcas nhìn Poirot với tò mò cực độ, và tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng vậy. Câu chuyện xoay quanh chiếc chìa khóa mất ấy là thế nào?
      Poirot mỉm cười:
      - Đừng thắc mắc, bà Dorcas ạ. Nghề nghiệp của tôi đòi hỏi phải biết số điều. Có phải chiếc chìa khóa mất đây ?
      Ông rút từ túi áo ra chiếc chìa khóa tìm thấy trong ổ khóa của chiếc rương, lầu, trong phòng người chiếc.
      Dorcas mở to mắt.
      - Đúng rồi, thưa ông. Đúng nó rồi. Ông tìm thấy nó ở đâu thế? Tôi tìm khắp nơi rồi.
      - À, đó là vì hôm qua nó ở cùng chỗ với hôm nay. Bây giờ, để thay đổi vấn đề, bà chủ của bà có chiếc áo nào màu sẫm ?
      Dorcas hơi sợ hãi trước câu hỏi bất ngờ ấy.
      - , thưa ông.
      - Bà có chắc ?
      - Ồ, chắc chứ, thưa ông.
      - Trong nhà này, ai có chiếc áo màu xanh lục sao?
      Dorcas suy nghĩ.
      - Cynthia có chiếc áo dạ hội màu lục.
      - Xanh nhạt hay xanh đậm?
      - Xanh nhạt, thưa ông, bằng lụa mỏng.
      - À, đó phải là cái mà tôi . Bà thấy ai khác có quần áo màu xanh lục sao?
      - , thưa ông.
      Gương mặt Poirot lộ vẻ gì ông có thất vọng hay . Ông chỉ bảo:
      - Thôi được, hãy để đấy và tiếp tục. Bà có lý do gì để tin rằng bà Inglethorp dùng thuốc ngủ bằng bột tối qua ?
      - Tôi biết rằng tối hôm qua bà ấy dùng thuốc ngủ, thưa ông.
      - Tại sao bà lại chắc chắn chứ?
      - Vì chiếc hộp trống trơn. Bà ấy dùng liều cuối cùng cách đây hai hôm, và từ đó chưa mua hộp khác.
      - Bà hoàn toàn chắc chắn về điều đó chứ?
      - Hoàn toàn.
      - Thế việc đó sáng tỏ. Mà này, hôm qua bà chủ có nhờ bà ký tên vào tờ giấy ?
      - Ký tên vào tờ giấy ư? , thưa ông.
      - Chiều qua, khi ông Hastings và ông Laurence trở về, hai ông ấy trông thấy bà ấy viết thư. Tôi cho là bà có thể cho tôi biết tí gì về những người nhận những bức thư đó chứ?
      - Tôi e rằng , thưa ông. Tối qua tôi được nghỉ phép. Nhưng có lẽ Annie có thể cho ông biết đấy, mặc dù ta khá cẩu thả. ta dọn cả những tách cà-phê dùng tối hôm qua nữa đấy. Đấy, chuyện xảy ra như thế khi tôi có mặt để trông chừng mọi việc.
      Poirot giơ tay ra.
      - Nếu như ta quên, bà Dorcas ạ, xin bà đừng đụng đến. Tôi muốn xem xét chúng.
      - Được lắm, thưa ông.
      - Tối qua, bà ra ngoài lúc mấy giờ?
      - Khoảng mười tám giờ, thưa ông.
      - Cám ơn, bà Dorcas, đó là tất cả những gì tôi muốn hỏi bà.
      Ông đứng lên và hờ hững tiến đến bên cửa sổ.
      - Tôi chiêm ngưỡng những luống hoa này đây. À này, ở đây có bao nhiêu người làm vườn thế?
      - Bây giờ chỉ có ba người thôi. Trước chiến tranh, khi mà khu đất được chăm sóc đúng như lãnh địa của vị quý tộc phải được, có đến năm người. Ồ! Giá như ông thấy nó vào lúc đó, thưa ông. Quả là tuyệt vời. Nhưng nay chỉ có ông lão Manning, cậu William và người làm vườn nữ mặc quần áo ngắn thôi. Ôi, quả là chúng ta sống trong thời kỳ hãi hùng.
      - Thời vàng son trở lại, bà Dorcas ạ. Ít ra chúng ta cũng có thể hy vọng. Bây giờ, hãy gọi Annie hộ tôi.
      - Vâng, thưa ông. Cám ơn ông.

      * * *

    4. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG IV: POIROT MỞ CUỘC ĐIỀU TRA (Tiếp)

      - Làm sao ông biết được bà Inglethorp dùng thuốc ngủ bột? - Tôi hết sức tò mò hỏi, trong khi Dorcas bước ra khỏi phòng - Và làm thế nào mà ông đoán được câu chuyện về chiếc chìa khóa bị mất và chiếc chìa khóa thứ hai?
      - Từng chuyện thôi. Về thuốc ngủ bột, tôi đoán được nhờ cái này đây.
      Ông cho tôi xem chiếc hộ bằng cạc tông, giống như tất cả các hộp mà các dược sĩ dùng để đựng thuốc bột.
      - Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?
      - Trong ngăn kéo bàn phấn, trong phòng bà Inglethorp. Đó là điều thứ sáu của bộ sưu tầm của tôi đó.
      - Nhưng tôi cho rằng cái đó mấy quan trọng, vì liều thuốc cuối cùng được dùng cách đây hai ngày rồi kia mà?
      - Có thể là . Nhưng thấy cái gì lạ trong vẻ bề ngoài của chiếc hộp sao?
      Tôi xem xét.
      - , chẳng có gì lạ cả.
      - Hãy nhìn cái nhãn.
      Tôi chăm chú đọc: “Dùng liều khi ngủ nếu cần, bà Inglethorp”.
      - , tôi thấy gì là bất thường cả.
      - Cả việc cái tên dược sĩ nào đó nữa sao?
      - Ồ! - tôi kêu lên - Quả là kỳ lạ.
      Tôi rất lấy làm thắc mắc. Nhưng Poirot trấn an tôi bằng cách bảo:
      - Tuy vậy, là đơn giản. Đừng lo lắng, bạn ạ.
      tiếng chân báo hiệu có mặt của Annie, do đó tôi giờ trả lời.
      Annie là khỏe và đẹp, bị nung nấu bởi kích thích mạnh, và lấy làm bực bội vì dính líu vào vụ việc.
      Poirot thẳng vào vấn đề với hăng say nghề nghiệp.
      - Tôi cho gọi , Annie ạ, vì tôi cho rằng có thể cho chúng tôi biết điều gì đó về những bức thư bà Inglethorp viết chiều qua. Có bao nhiêu bức tất cả? Và có thể cho chúng tôi biết chúng được gởi cho ai ?
      Annie suy nghĩ.
      - Có bốn lá thư, thưa ông. cái cho Howard, cái cho ông luật sư Wells. Tôi nhớ hai cái còn lại. A, phải rồi… cái cho ông Ross, bán hàng ở Tadminster. Còn cái thứ tư tôi nhớ nữa.
      - Hãy nghĩ kỹ - Poirot nài nỉ.
      Annie cố moi óc cách vô hiệu.
      - Tôi rất tiếc, thưa ông, tôi hoàn toàn quên mất. Có lẽ tôi chú ý đến nó.
      - sao - Poirot bảo, để lộ thất vọng nào cả - Tôi muốn hỏi chuyện khác nữa. Trong phòng của bà Inglethorp có cái xoong đựng ca-cao. Có phải tối nào bà ấy cũng dùng thứ đó ?
      - Vâng, thưa ông, mỗi buổi tối nó được đem đến phòng cho bà ấy và bà ấy hâm nóng lại trong đêm, khi bà ta muốn uống.
      - Đó là cái gì thế? Ca-cao thôi ư?
      - Vâng, thưa ông, pha với sữa, muỗng đường và hai muỗng rượu rum.
      - Ai đem đến cho bà ấy?
      - Tôi, thưa ông.
      - Luôn luôn ư?
      - Vâng, thưa ông.
      - Vào giờ nào?
      - Thường là vào lúc tôi kéo màn cửa.
      - đem thẳng từ nhà bếp lên ư?
      - , thưa ông. Ông hiểu cho, bếp ga có nhiều chỗ do đó bà nấu bếp pha sớm, trước khi đặt rau lên luộc cho bữa tối. Tôi có thói quen đem nó lên để chiếc bàn gần cửa phục vụ. Tôi chỉ đem đến phòng bà chủ sau đó thôi.
      - Cửa phục vụ nằm bên cánh trái, phải ?
      - Vâng, thưa ông.
      - Tối qua, đem lên lúc mấy giờ?
      - Khoảng mười chín giờ mười lăm, có lẽ vậy, thưa ông.
      - Và khi nào đem vào phòng bà Inglethorp?
      - Khi tôi lên làm giường, thưa ông. Khoảng hai mươi giờ. Bà Inglethorp lên nằm trước khi tôi làm xong.
      - Vậy giữa mười chín giờ mười lăm và hai mươi giờ ca-cao được đặt bàn, bên cánh trái, phải ?
      - Vâng, thưa ông.
      Annie càng lúc càng đỏ mặt, và bỗng kêu lên:
      - Và nếu như trong đó có muối đó phải là lỗi tại tôi, thưa ông. Tôi bao giờ cho muối vào đó.
      - Điều gì khiến nghĩ rằng trong ca-cao có muối chứ? - Poirot hỏi.
      - Tôi thấy có chiếc khay, thưa ông.
      - nhìn thấy có muối khay ư?
      - Vâng, giống như muối bọt dùng ở nhà bếp vậy. Tôi thấy có khi đem khay lên, nhưng khi tôi đến lấy để đem vào phòng bà chủ tôi thấy có. Lẽ ra tôi phải đem ca-cao trở xuống và bảo bà nấu bếp pha cái mới. Nhưng tôi vội, vì bà Dorcas nghỉ phép, và tôi tự nhủ có lẽ ca-cao vẫn ngon, còn muối chỉ rơi khay mà thôi. Thế là tôi lau và đem chiếc khay vào phòng bà chủ.
      Tôi phải cố lắm mới che giấu được nóng nảy của mình. Vô tình, Annie cung cấp cho chúng tôi dấu vết thực quan trọng. ấy ngạc nhiên biết mấy nếu biết được rằng muối bọt dùng ở nhà bếp của chính là chất Strychnin, trong những thứ độc dược mạnh nhất mà người ta được biết. Tôi cảm phục điềm tĩnh của Poirot. tự chủ của ông đáng ngạc nhiên. Tôi nóng lòng chờ đợi câu hỏi tiếp theo, nhưng nó làm tôi thất vọng.
      - Khi bước vào phòng bà Inglethorp, cánh cửa dẫn sang phòng Cynthia có cài then hay ?
      - Ồ! Có chứ, thưa ông. Nó luôn luôn như thế. Nó chả bao giờ được mở ra cả.
      - Còn cánh cửa dẫn sang phòng ông Inglethorp? có nhận thấy nó cũng được khóa hay ?
      Annie do dự.
      - Tôi biết nữa, thưa ông. Cửa đóng, nhưng tôi thể quả quyết nó có được khóa trái hay .
      - Khi bước ra khỏi phòng, bà Inglethorp có khóa cửa lại sau lưng ?
      - , thưa ông, lúc đó . Nhưng có lẽ sau đó bà ta khóa lại. Bà ta thường khóa cửa buổi tối. Ít ra cũng cánh cửa ăn thông ra hành lang.
      - có để ý đến vết sáp dưới đất, khi dọn phòng hôm qua ?
      - vết sáp ư? Ồ, , thưa ông. Bà Inglethorp dùng nến, mà chỉ có chiếc đèn ngủ thôi.
      - Thế cho rằng nếu có vết sáp tấm thảm nhận thấy ư?
      - Phải, thưa ông, và tôi xóa bằng tờ giấy thấm và chiếc bàn ủi nóng.
      Lúc đó, Poirot đặt lại câu hỏi đặt cho Dorcas.
      - Bà chủ có bao giờ có chiếc áo màu xanh lục ?
      - , thưa ông.
      - Hay là chiếc áo khoác, chiếc áo choàng, hoặc… người ta gọi đó là cái gì nhỉ - chiếc áo vét thể thao?
      - có cái nào màu xanh cả, thưa ông?
      - Và ai trong nhà có quần áo màu xanh sao?
      - , thưa ông.
      - có chắc ?
      - Hoàn toàn.
      - Thôi được. Đó là tất cả những gì tôi cần. Cám ơn nhiều.
      Annie bỏ với tiếng cười ngắn. Ngay lập tức, nóng nảy đè nén trong tôi bộc phát ra.
      - Poirot - tôi kêu lên - tôi khen ông đấy. Đó là khám phá lớn.
      - Cái nào?
      - Chính trong ca-cao mới có chất độc chứ phải trong cà-phê. Điều đó giải thích tất cả. Tất nhiên rồi, thuốc độc có công hiệu trước buổi sáng, vì ca-cao chỉ được uống vào lúc nửa đêm mà thôi.
      - Thế ra, Hastings ạ, cho rằng ca-cao - hãy nhớ kỹ những gì tôi đây - ca-cao có chứa chất Strychnin sao?
      - Dĩ nhiên, nếu thí chất muối rơi vãi khay có thể là cái gì mới được chứ?
      - Chất muối! - Poirot lạnh lùng lập lại.
      Tôi nhún vai. là vô ích, nếu muốn tranh cãi với ông ta khi ông ta sắp sửa dùng cái giọng ấy. Ý nghĩ thoáng qua đầu tôi, và đây phải là lần đầu tiên, rằng Poirot đáng thương già mất rồi.
      Và tôi tự nhủ với riêng mình, ông ta sung sướng khi có người cộng tác với đầu óc nhanh nhẹn hơn trong việc này.
      Poirot nhìn tôi với vẻ thản nhiên và thích thú.
      - được mấy hài lòng về tôi, phải bạn?
      - Ông Poirot thân mến ạ - tôi lạnh lùng đáp - tôi phải là người chỉ huy ông đâu. Ông có quyền có quan điểm của mình, cũng như tôi có cái của tôi.
      - tinh thần đáng phục - Poirot nhận xét và đứng bật dậy - Thế đấy, tôi xong việc với căn phòng này rồi. À này, chiếc bàn giấy kiểu Mỹ trong góc kia của ai vậy?
      - Của ông Inglethorp.
      - À!
      Ông thử mở ra.
      - Khóa mất rồi. Nhưng có lẽ trong những chiếc chìa khóa của bà Inglethorp có thể mở được chăng?
      Ông thử nhiều cái, xoay xoay cách điêu luyện và cuối cùng ông kêu lên đắc thắng.
      - Đây rồi - ông - phải đúng chìa của nó nhưng vẫn có thể mở được.
      Ông bỏ qua phía bên bàn giấy và liếc nhìn những tờ giấy sắp đặt gọn gàng. Trước ngạc nhiên của tôi, ông thèm xem đến chúng, chỉ gật gù nhận xét.
      - Cái ông Inglethorp quả là người đàn ông ngăn nắp.
      Và, đối với Poirot, ngăn nắp, đó là lời khen lớn nhất. Lúc đó tôi hiểu ra rằng ông bạn của tôi còn như trước nữa, khi mà lời tiếp theo của ông ăn nhập vào đâu cả.
      - có tem trong bàn giấy của ông ấy, nhưng rất có thể có, phải nào? Có thể có đấy. Phải… (ông nhìn quanh phòng) thư phòng này còn cho chúng ta điều gì nữa. có kết quả gì mấy, ngoại trừ cái này.
      - Ông rút từ túi áo ra chiếc phong bì dán kín và ném cho tôi. Đó là tái lạ lùng. chiếc phong bì cũ kỹ tầm thường, rất bẩn, có có viết vài chữ như vô tình. Đây là bản sao:
      [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/62903/025E450A28CD4B05A6021B6005CCEB03.JPG[/image]

    5. piipp

      piipp Well-Known Member

      Bài viết:
      1,619
      Được thích:
      566
      CHƯƠNG V:
      HÃY CHO TÔI BIẾT PHẢI CHẤT STRYCHNIN CHỨ?


      - Ông tìm thấy cái này ở đâu vậy? - Tôi hết sức tò mò hỏi Poirot.
      - Trong giỏ rác. nhận ra chữ viết của ai ?
      - Có. Của bà Inglethorp. Nhưng nó có ý nghĩa gì?
      Poirot nhún vai.
      - Tôi biết, nhưng khá lý thú đấy.
      Tôi chợt có ý nghĩ điên rồ. Có thể nào đầu óc của bà Inglethorp bị loạn trí rồi ? Bà ta nung nấu ý nghĩ quái đản về việc bị quỷ ám ? (Sở hữu: tiếng Pháp là Posséder, còn có nghĩa là bị quỷ ám). Và, trong trường hợp đó, có thể nào bà ta tự sát ?
      Tôi định trình bày những ý nghĩ của mình cho Poirot những lời của ông khiến tôi chú ý.
      - Ta hãy xem xét các tách cà-phê .
      - Ông Poirot thân mến ạ! Cần gì, khi mà bây giờ chúng ta chắc chắn về chất ca-cao rồi.
      - Ồ! Cái chất ca-cao khốn khiếp ấy! - Poirot nhàng kêu lên.
      Ông bật cười, vẻ như rất thích thú, giơ tay lên trời cách tuyệt vọng và khôi hài, cử chỉ đó, theo tôi phải lúc.
      - Dù sao nữa - tôi tiếp, ràng là rất lạnh lùng - bà Inglethorp cũng đem cà-phê vào phòng, và tôi thấy ông có thể phát được điều gì trừ phi ông cho rằng tìm thấy gói Strychnin chiếc khay.
      Poirot lấy lại giọng nghiêm túc:
      - Nào, nào, bạn, xin đừng nổi nóng. Hãy cho phép tôi quan tâm đến những tách cà-phê của tôi. Còn tôi, tôi tôn trọng ca-cao của . Thế đấy. Đồng ý nhé.
      Ông có vẻ hối hận cách khôi hài đến nỗi tôi buộc phải phì cười. Chúng tôi cùng đến phòng khách, ở đó các chiếc tách vẫn còn đặt chiếc khay, ngay chỗ chúng tôi đặt chúng tối hôm qua.
      Poirot bảo tôi tả lại cảnh tượng hôm qua, rất chăm chú nghe tôi và kiểm tra lại vị trí của mội cái tách.
      - Vậy ra bà Cavendish đứng gần chiếc khay và rót cà-phê. Được lắm. Rồi bà ta đến bên cửa sổ nơi Cynthia ngồi. Phải. Đây là ba cái tách. Còn cái tách vơi phân nửa kia, lò sưởi, có lẽ là của ông Laurence Cavendish. Còn cái khay?
      - Của John Cavendish. Tôi trông thấy ta đặt nó ở đấy.
      - Thôi được. , hai, ba, bốn, năm. Nhưng, trong trường hợp đó, tách của ông Inglethorp đâu?
      - Ông ta bao giờ dùng cà-phê.
      - Như thế mỗi cái tách đều được sử dụng… Khoan , bạn.
      cẩn thận, ông lấy hay hai giọt trong đáy mỗi chiếc tách và để riêng trong những ống bằng thủy tinh, quên nếm cà-phê lấy được mỗi lần. thay đổi lạ lùng bất ngờ làm khuôn mặt ông biến dạng: ông có vẻ ngơ ngác, nhưng lại hơi nhõm.
      - Được rồi - cuối cùng ông bảo - Tất nhiên thôi. Tôi có ý nghĩ, nhưng ràng là tôi lầm. Phải, hoàn toàn lầm. Tuy vậy, quả là lạ lùng. Thôi, mặc kệ vậy.
      Và, nhún vai cách đặc biệt, ông xua khỏi ý nghĩ của mình điều làm ông lo lắng. Tôi rất muốn cho ông biết rằng nỗi ám ảnh của ông về vấn đề cà-phê dẫn đến đâu cả, nhưng tôi ngăn được mình. Vì, sau rốt, dù có già nữa, Poirot cũng vẫn là người đàn ông nổi tiếng.

      * * *

      - Bữa trưa được dọn lên - John Cavendish từ hành lang đến và thông báo - Ông dùng bữa với chúng tôi chứ, ông Poirot?
      Poirot đồng ý. Tôi quan sát John. gần như lấy lại được quân bình sau cú sốc của các biến cố hồi đêm. ta ít có óc tưởng tượng, trái ngược hẳn với cậu em, người mà có lẽ lại có quá nhiều.
      Từ tờ mờ sáng, John rất bận bịu để gửi những bức điện (cái đầu tiên là cho Evelyn Howard), để viết những lời cáo phó cho các báo và lo đến tất cả các nghĩa vụ nặng nề.
      - Tôi có thể hỏi ông xem cuộc điều tra của ông có tiến triển ? Những cuộc tìm kiếm của ông có cho thấy là mẹ tôi chết cách tự nhiên, hay… chúng tôi phải nghĩ đến cái tệ hại nhất?
      - Tôi cho rằng, ông Cavendish ạ - Poirot đáp cách nghiêm trọng - ông nên tự lừa phỉnh mình bằng những hy vọng giả tạo. Ông có thể cho tôi biết những người khác trong gia đình nghĩ gì ?
      - Cậu em Laurence của tôi quả quyết, chúng ta làm ầm ĩ lên vì việc đáng gì. Cậu ta tuyên bố rằng tất cả đều muốn chứng tỏ đấy chỉ đơn giản là cơn đau tim thôi…
      - À! Ra thế đấy! Điều này đáng quan tâm đấy. - Poirot khẽ - Còn bà Cavendish?
      đám mây thoáng qua khuôn mặt John.
      - Tôi biết gì về ý kiến mà vợ tôi có thể có đối với việc này.
      Câu trả lời này gây nên thoáng bối rối. John phá tan im lặng có nguy cơ kéo dài cách nặng nề bằng cách cố gắng :
      - Tôi cho ông hay rằng ông Inglethorp trở về, phải ?
      Poirot gật đầu.
      - tình thế khó xử đối với tất cả chúng tôi. Dĩ nhiên, phải đối xử với như mọi khi, nhưng phải ngồi chung bàn với tên bị nghi ngờ giết người là dễ nổi loạn đấy.
      Poirot gật đầu đầy thiện ý.
      - Tôi hiểu điều đó lắm. Đó là tình thế rất khó khăn đối với ông, ông Cavendish ạ. Nhưng tôi cũng muốn hỏi ông câu. Nếu như tôi lầm ông Inglethorp viện lý do để vắng mặt lâu đến như thế, rằng ông ta bỏ quên chìa khóa cửa ra vào, có đúng như thế ?
      - Vâng.
      - Tôi đoán chừng ông chắc chắn là ông ta bỏ quên chìa khóa, ông ta có nó người chứ?
      - Tôi hề biết, vì nghĩ đến việc kiểm chứng lại. Chúng tôi luôn luôn để chìa khóa trong ngăn kéo ở tiền sảnh. Tôi xem lại ngay đây.
      Poirot đưa tay lên và nở nụ cười yếu ớt.
      - , , ông Cavendish ạ. Bây giờ muộn lắm rồi. Tôi tin chắc ông tìm thấy nó ở chỗ mọi khi. Nếu như ông Inglethorp lấy nó , ông ta cũng có đủ thời gian để cất lại.
      - Nhưng ông cho rằng…
      - Tôi chả nghĩ gì cả. Nếu như vô tình sáng nay có ai đó trông thấy chiếc chìa khóa trong ngăn tủ, đó bằng chứng thuận lợi cho ông ta. Thế thôi.
      John có vẻ rất phân vân.
      - Xin ông đừng lo lắng - Poirot lại nhàng bảo - Tôi cam đoan rằng ông nên lo nghĩ về điều đó. Nào, ta hãy ăn trưa , khi mà ông có nhã ý mời tôi.
      Mọi người đều tụ họp trong phòng ăn… Do những tình huống, đó phải là cuộc họp mặt vui vẻ. phản ứng sau cú sốc bao giờ cũng nặng nề, và tôi cho rằng chúng tôi đều rất đau buồn. Những nghi thức và giáo dục tốt buộc chúng tôi phải tỏ ra tự nhiên hết sức, thế mà tôi thể nào tự hỏi xem bình thản có là khó ngụy tạo hay ? Tôi hề trông thấy những cặp mắt sưng đỏ vì nước mắt, cũng hề thấy dấu hiệu nào của nỗi đau thầm kín. Và tôi phải thừa nhận là tôi có lý khi cho rằng bà Dorcas là người duy nhất bị thương tổn nặng nề.
      Tôi đến Alfred Inglethorp làm gì, sắm vai người đàn ông góa rầu rĩ với cái mà tôi cho là giả dối rất đáng công phẫn. Tôi tự hỏi biết có biết rằng mình bị nghi ngờ . Dĩ nhiên, thể nào biết được, bất chấp những cố gắng của chúng tôi để che giấu tình cảm của mình đối với . có cảm thấy sợ hãi cách kín đáo ? Hay tin tưởng tội lỗi của bị trừng phạt?
      Nhưng có phải mọi người đều nghi ngờ ? Về phần bà Cavendish sao? Bà ngồi đó, ở cuối bàn, duyên dáng, yên bình, khó hiểu. Trong chiếc áo màu xám với những nếp xếp tổ ong rũ xuống và đôi tay mềm mại của mình, trông bà đẹp. Nhưng, khi bà muốn, gương mặt của bà có thể trở nên khép kín như gương mặt của con người khó hiểu. Trông bà rất nghiêm trang và bà hề hé môi, thế nhưng, tôi cảm thấy cách lạ lùng sức mạnh của tính cách con người bà chế ngự tất cả chúng tôi.
      Còn bé Cynthia? có nghi ngờ gì ? Tôi thấy ta có vẻ nhợt nhạt và mỏi mệt. Tôi hỏi xem ta có bệnh hoạn gì , và thành bảo:
      - Vâng, tôi đau đầu kinh khủng luôn.
      - Hãy dùng tách cà-phê, thưa - Poirot ân cần - Nó chữa khỏi cho . có thứ gì bằng cái đó để trị đau đầu.
      Ông nhổm dậy và cầm lấy chiếc tách của ta.
      - đường - Cynthia .
      - đường ư? bỏ dùng đường từ khi có chiến tranh, có phải ?
      - , tôi chả bao giờ dùng cà-phê có đường cả.
      - Chúa ơi! - Poirot khẽ rủa, vừa đem tách cà-phê đầy đến cho ta.
      Tôi là người duy nhất nghe thấy và, tò mò nhìn ông, tôi thấy gương mặt ông nhăn nhó vì nóng nảy và đôi mắt ông xanh biếc như mắt mèo vậy. Có lẽ ông nghe thấy hoặc trông thấy điều gì khiến ông bị xúc động tột độ; nhưng điều gì vậy? Tôi cho mình thường hay ngu muội, nhưng tôi phải thừa nhận mình chả nhận thấy điều gì khác lạ cả.

      * * *
      snowbell thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :