Chương 8 ai để mất thời gian. Hines và Finn cùng với các con chó lên đường thẳng về trại cũ được hai ngày rồi. Họ phải nhịn ăn bớt. Vào trưa ngày thứ ba Elijah tới chỗ họ báo cho biết là thấy bóng dáng con hươu nào cả. Ðêm đó Ánh Sáng Ban Ngày cũng tới với cùng nội dung báo cáo như thế. Ngay khi tới chỗ trại cũ, họ liền bắt tay vào việc sàng lọc chỗ tuyết xung quanh khu vực cất giấu thực phẩm cách hết sức cẩn thận. Công việc quả là khó, bởi vì họ thấy những hạt đậu nằm vung vãi cách chỗ cất giấu đến cả trầm thước. Cả ngày hôm sau, họ cũng tiếp tục công việc đó, nhưng kết quả đáng buồn. Bản lĩnh của bốn người được chứng minh qua việc phân chia cái số thực phẩm ít ỏi mà họ vừa vớt vát được. Tuy nhoi nhưng phần lớn số thực phẩm đó được dành cho Ánh Sáng Ban Ngày và Elijah. Hai người ra với bầy chó, ngược lên và xuôi xuống dòng Stewart, như thế tiếp cận với nguồn lương thực cách mau chóng hơn. Hai người ở lại phải cố sống sót cho đến khi họ trở về. Hơn nữa, dù đám chó có phải chạy chậm vì mỗi ngày mỗi con chỉ được mấy ounce đậu để ăn nữa khi cần họ vẫn có thể giết chó mà ăn thịt, còn những người ở lại khi cần cũng chẳng đào đâu ra thịt mà ăn. Chính vì lý do này mà Ánh Sáng Ban Ngày và Elijah tình nguyện chịu phần bấp bênh hơn đó. Họ thể tỏ ra kém cỏi, mà họ thực cũng chẳng muốn tỏ ra kém cỏi nữa. Ngày cứ thế trôi qua và mùa đông bắt đầu - cách khó nhận biết được - lẫn vào trong mùa xuân phương Bắc lúc nào cũng đến cách hết sức bất ngờ. Mùa xuân năm 1896 đến dần. Mỗi ngày qua là mặt trời mọc ở phương nam hơi nghiêng về phía đông, ở lại bầu trời lâu hơn rồi lặn hơi chếch về phía tây chút. Khi tháng Ba chấm dứt và tháng Tư bắt đầu, Ánh Sáng Ban Ngày và Elijah lúc này rất gầy guộc và đói ăn, bắt đầu tự hỏi hiểu chuyện gì xảy ra với hai người bạn kia. Cho dù họ có phải bị trễ vì bất kỳ lý do gì chăng nữa lẽ ra họ phải trở về đây lâu rồi. còn nghi ngờ gì nữa, họ phải trở về đây lâu rồi. còn nghi ngờ gì nữa, họ gặp phải tai hoạ rồi. Họ dự kiến trước trường hợp người bị nạn nên phái hai người hai hướng khác nhau. là tuyệt vọng nếu cả hai người ấy đều bị nạn. Trong lúc vừa chờ đợi vừa hy vọng mong manh, Ánh Sáng Ban Ngày và Elijah cố tìm cách tồn tại cho bằng được. Tuyết chưa bắt đầu tan nên họ có thể hớt tuyết ở chỗ thực phẩm vung vãi lúc trước cho vào nồi, vào xô, vào chậu để đãi để đun cho lỏng ra. Ðợi cho nước lắng lại rồi gạn họ thu được lớp keo mỏng bám ở đáy nồi và chậu. Trong lớp keo bột này, đôi khi lẫn cả lá chè hoặc bã cà phê, cũng có bám cả đất và rác. Tuyết ở càng xa chỗ giấu thực phẩm càng chưa ít bột hơn, và khi họ đun nó lên chỉ thu được lớp keo ngay càng mong. Elijah lớn tuổi hơn nên là người đầu tiên ngã quỵ, hầu như suốt ngày nằm chết dí trong tấm áo đắp bằng lông thú. Thỉnh thoảng họ bắn được con sóc và nhờ nó mà họ kéo dài sống. Việc săn bắn này đổ cả lên Ánh Sáng Ban Ngày, và chuyện này cũng chẳng dễ dàng gì. Vì chỉ còn có ba mươi vòng đạn nên dám bắn trật phát nào. Mà khẩu súng của thuộc loại 45-90 nên muốn hạ được thú phải bắn vào đầu chúng, và cũng chỉ bắn được thú mà thôi. Thú rất hiếm, và có khi trong nhiều ngày liền thấy bóng dáng con nào. Mỗi khi phát được con là hết sức cẩn thận. bám theo nó đến hàng giờ đồng hồ. Có đến hàng chục lần yếu tay run rẩy nên chỉ ngắm vào con vật mà dám bóp cò. Chỉ khi nào chắc chắn tuyệt đối mới bắn. Mặc cho cái đói và dòng ham muốn cái khối sinh vật lúc nào cũng lít chít phập phồng kia có hành hạ đến thế nào chăng nữa, cũng chịu bắn phiêu phát đạn. Là kẻ sinh ra để đánh bạc, lúc này đây chơi canh lớn. Tiền đặt là sinh mạng của , các con bài là các viên đạn, và chơi như chỉ có những tay đại cờ bạc mới dám chơi, hết sức cẩn thận, hề sức cẩn thận, hết sức cảnh giác, và hết sức suy xét Kết quả là chưa bao giờ bắn trật. Cứ mỗi phát đạn là con sóc, và tuy có nhiều ngày liền chẳng có gì để bắn, song phương châm bắn của vẫn thay đổi. Họ bỏ thứ gì trong con sóc bắn được ngay cả da cũng được nấu thành nước xúp, còn xương được giã thành mảnh để nhai và nuốt. Ánh Sáng Ban Ngày cũng lùng trong tuyết và đôi lúc cũng bắt gặp ba vạt dâu rêu. Những quả tốt nhất chứa hạt và mọng nước, bên ngoài có lớp vỏ thô bao bọc. Nhưng những quả dâu rêu mà tìm được lại là những quả mọc từ năm trước, bây giờ khô héo quắt queo, và chất dinh dưỡng của chúng coi như chẳng còn gì. Tốt hơn chút là những vỏ cây non đem hầm trong tiếng đồng hồ, sau đó phải nhai lâu trước khi nuốt. Khoảng cuối tháng Tư mùa xuân đến. Ngày dài ra. Dưới sức nóng của mặt trời, tuyết bắt đầu tan trong khi đó từ phía dưới những dòng nước bắt đầu rỉ lên. Gió từ đèo Chinoot thổi về suốt trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Những chú chim tuyết mình trắng toát từ phương nam bay về, dừng lại đó ngày, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình về phương Bắc. Phía dưới chân bờ sông Ánh Sáng Ban Ngày tìm thấy bụi liễu tí hon đơm nụ. Những nụ này khi đem hầm lên hình như có thể nuôi sống con người được. Elijah hơi hơi hy vọng, nhưng liền thất vọng ngay khi biết Ánh Sáng Ban Ngày còn tìm được bụi liễu nào nữa. Cây cối thêm nhựa sống, và hàng ngày những dòng nước rỉ lên nghe càng trong lúc mặt đất lạnh cũng sống lại. Tuy vậy, dòng sông vẫn cứ bị băng xiềng cứng. Trong những tháng dài, băng bị đóng cứng ở đó rồi, thể ngày ngày hai mà mùa xuân có thể phá nổi. Vào khoảng ngày 10 tháng Năm, băng đóng dòng Stewart, sau tiếng rắc dữ dội, bị tách khỏi bờ và nâng cao lên ba foot, băng ở hạ nguồn sông Yukon chỗ dòng Stewart chảy vào bị tách ra khỏi bờ và trôi trước. Vào ngày 12 tháng Năm, hai người bắt đầu băng xuôi theo dòng sông, mang theo áo đắp, cái xô, cái búa và khẩu súng quý báu. Mục đích của họ là đến cho được nơi cất giấu chiếc xuồng chống bằng sào mà họ thấy lúc trước để khi sông hết đóng băng họ có thể cho xuồng trôi theo dòng đến trại Sáu Mươi Dặm. Họ rất chậm chạp và khó nhọc, bởi vì người yếu sức mà lại thiếu lương ăn. Elijah cứ vấp ngã luôn đứng dậy nổi. Ánh Sáng Ban Ngày phải dùng hết sức dựng dậy, vậy mà cũng chỉ loạng choạng được đoạn như kẻ mất hồn rồi lại vấp ngã lần nữa. Vào cái ngày mà đúng ra họ phải đến chỗ giấu xuồng, Elijah hoàn toàn ngã quỵ. Khi Ánh Sáng Ban Ngày dựng dậy lại ngã ngay. bèn cố dìu , nhưng sức cũng yếu lắm rồi nên cả hai lại cùng ngã vật ra. Kéo Elijah lại gần bờ sông. Ánh Sáng Ban Ngày dựng tạm cái lều rồi bắt tay ngay vào việc săn lùng sóc. Bây giờ cũng hay vấp ngã. Ðến tối bắt gặp con sóc đầu tiên, nhưng thể nhắm cho chính xác được vì trời quá tối. Với kiên nhẫn của những người sơ khai, đợi cho đến ngày hôm sau, và sau tiếng đồng hồ rình ngắm, hạ được nó. dành phần lớn thịt con sóc cho Elijah, còn mình chỉ ăn xương và các phần khó ăn khác. Song chuyển biến hoá học của sống kỳ diệu nên khi họ ăn xong sinh vật bé đóm cái cục thịt tí teo biết nhúc nhích đó truyền vào thân thể họ cái khả năng cử động, và giúp họ có thể loạng choạng hết những chặng đường còn lại Khi vừa đến chỗ giấu chiếc xuồng, cả hai người cùng ngã gục và cứ thế nằm bất động trong thời gian rất lâu. Ðối với con người khỏe mạnh việc hạ chiếc xuồng từ chỗ cất giấu xuống mặt đất phải là vấn đề khó, nhưng Ánh Sáng Ban Ngày phải mất mấy giờ liền mới làm được chuyện ấy. Rồi lại phải bỏ ra nhiều giờ nữa, hết ngày này qua ngày khác, vừa lê mình quanh chiếc xuồng vừa dùng rêu để trét lại cho kín những mép nổi bị hở. Khi mọi việc xong, băng đóng sông vẫn chưa chịu thoát . Nó dâng cao thêm nhiều foot, nhưng theo dòng thoát ra biển được. Trong lúc chờ đợi, còn việc khác phải làm, đó là chuẩn bị cho chiếc xuồng hạ thuỷ. Ðể làm việc này, Ánh Sáng Ban Ngày, dù vững và vấp ngã liên tục, cũng phải cố bò trong tuyết lạnh hay mặt băng về đêm, cốt tìm bắn cho được con sóc nữa, hy vọng cái sức giúp con sóc nhảy nhót và kêu chí choé được chuyển thành sức lực giúp nàng và kéo chiếc xuồng đến bên mép băng bên bờ sông sẵn sàng chờ dịp hạ thuỷ. Nhưng thất vọng. Ðến tận ngày 20 tháng Năm băng đóng sông mới chịu chuyển dịch. Vào năm giờ sáng, các tảng băng bắt đầu trôi xuôi dòng ra biển, hết va vào bờ sông lại bật ra, làm bật rễ những thân cây đưa được chiếc xuồng lên chỗ đỉnh bức tường băng, mũi xuồng hơi nghếch ra ngoài song chắc chắn. Sau đó phải bò bằng cả hai tay lẫn hai chân, lấy tấm áo đắp bằng da thỏ, khẩu súng và cái xô đem chất lên xuồng. bận tâm về cái búa, bởi vì như vậy phải bò thêm hai mươi foot rồi về nữa. Mà cũng chẳng cần gì đến nó nữa, bởi vì nếu có khi nào cần phải dùng đến búa, cũng chẳng là còn đủ sức để sử dụng nó. Việc di chuyển Elijah khó khăn hơn là dự kiến. Mỗi lúc vài inches rồi lại nghỉ lấy sức, cuối cùng cũng kéo được qua phần đất bằng, ngược lên đống băng vỡ đến cạnh chiếc xuồng. Nhưng làm sao đưa được vào xuồng. Cái thân hình mềm oặt của Elijah khó nhấc lên hơn so với vật cùng trọng lượng và kích thước nhưng rắn cứng. Ánh Sáng Ban Ngày nâng lên được bởi vì thân người cứ thụng xuống ở quãng giữa giống y như bao ngô được nén chặt. Ánh Sáng Ban Ngày phải trèo vào trong xuồng rồi ra sức kéo Elijah lên nhưng vô vọng. chỉ có thể đưa được phần đầu và vai của lên được mép xuồng. Nhưng khi buông ra, đưa tay định nắm phần dưới của để kéo tiếp vào người Elijah lại gãy gập lại và đổ ập xuống mặt băng. Thất vọng. Ánh Sáng Ban Ngày bèn thay đổi chiến thuật. giơ tay tát vào mặt . - Lạy chúa, cậu là thằng đàn ông đấy chứ? - hét lớn - Tớ bảo này, mẹ kiếp, nghe hử? Cứ mỗi lần "hử" như vậy là lại giơ tay tát vào má, vào mũi, vào mồm Elijah, hy vọng cái đau làm linh hồn lịm của tỉnh táo lại và ý chí lạc mất của trở về. Mắt của hấp háy mở ra. - Nghe đây này! - Ánh Sáng Ban Ngày la lên giọng khàn khàn - Khi tớ kéo được đầu cậu lên mép xuồng cậu phải rán bám lấy nó. Nghe chưa? lấy răng mà ngoạn vào ổ chèo cũng được nhưng phải bám lấy. Mắt Elijah hấp háy rồi khép lại. Ánh Sáng Ban Ngày biết là nghe. lại cố kéo đầu và vai đặt lên mép xuống. - Bám lấy nào! Mẹ kiếp, cứ ngoạm chặt lấy ổ chèo ấy! - vừa hét vừa đưa vội tay nắm lấy phần dưới của . bàn tay của Elijah tuột khỏi ổ chèo. Những ngón tay của bàn tay kia cũng bắt đầu nới lỏng nhưng Elijah vẫn tuân lệnh có dùng răng cắn chặt lấy ổ chèo. Khi Ánh Sáng Ban Ngày kéo lần thứ hai, mặt chà lên mép xuồng về phía trước, mũi, môi, cằm bị thớ gỗ cạo trợt cả da. Cứ thế, mặt chúc xuống, được Ánh Sáng Ban Ngày kéo dần vào cho đến khi nằm vắt vẻo ngang ổ chèo, hai chân lòng thòng bên ngoài. Như vậy là chỉ còn đôi chân nữa mà thôi, và Ánh Sáng Ban Ngày dễ dàng hất chúng vào trong xuồng. Vừa thở hồng hộc vừa lật cho cho nằm ngửa lại rồi đắp tấm áo ngủ lên mình . Thế là chỉ còn có mỗi việc cuối cùng, đó là việc hạ thuỷ chiếc xuồng. Đây là công việc cần nhất mà cũng nặng nề nhất vì buộc phải để Elijah nằm ở phía sau xuồng để xuồng khỏi lật nhào. Như vậy muốn nhấc xuống phải rán hết sức bình sinh. Ánh Sáng Ban Ngày gồng người lên và bắt đầu. Có cái gì đó trong chợt đứt tung, bởi vì dù biết đó là cái gì, ngay sau đó biết là mình nằm vắt ngang người đuôi xuồng nhọn cạnh. Lần đầu tiên trong đời hiểu là mình bị kiệt sức hoàn toàn, còn cử động gì được nữa. Mà lạ thay, thấy mình cũng dửng dưng với tất cả chuyện ấy. Những ý niệm sắc cạnh như những lưới thép, và những hình ảnh ràng như ra trước mắt . Chính , kẻ từng coi khinh cuộc sống trần trụi này, lại chợt thấy rằng từ trước đến giờ chưa lúc nào lại chứng kiến cái trần trụi của cuộc sống nhiều đến như vậy. Lần đầu tiên trong đời đâm ra nghi ngờ cái bản chất tuyệt vời của mình. Trong lúc cuộc sống đâm ra phân vân và quên cả dối. Ngẫm cho cùng cũng chỉ là con mọt đất bé, hệt như những con mọt đất khác vậy, hệt như con sóc mà ăn thịt, hệt như những người khác mà từng thấy thất bại rồi chết, như Joe Hines và Henry Finn ràng là thất bại hoặc chết rồi, hoặc như Elijah nằm kia thất bại hoặc chết rồi, hoặc như Elijah nằm kia, dưới đáy xuồng, mặt trầy trụa và mặc kệ đời. từng thấy người và vật chết. Bây giờ những cái chết đó, có đến hàng chục hàng chục, ra trong óc . thấy lại những cái chết này hệt như lúc chúng mới xảy ra ấy, vậy mà chúng vẫn làm thấy rùng mình. Có gì đâu nào? Họ chết rồi, chết lâu rồi, mà họ nào có bận tâm về việc đó đâu. Họ đâu còn phải nằm gác bụng lên chiếc xuồng mà chờ chết. Chết dễ chịu dễ chịu hơn tưởng nhiều, và, vì cái chết lúc này rất gần nên khi nghĩ đến nó lại thấy vui vẻ. Trong đầu , hình ảnh khác lại ra. thấy cái thành phố nhộn nhịp trong mơ của mình, cái đô thị vàng của miền Bắc Cực, nằm phía sông Yukon, bờ cao và chạy dài suốt dải đất bằng ấy. thấy những con thuyền chạy bằng hơi nước được neo dọc theo bờ, cứ mỗi chỗ là ba chiếc xếp từ trong ra ngoài. thấy những xưởng cưa hoạt động, và những toán chó nhiều con, kéo theo sau những chiếc xe trượt lớn gấp đôi, chuyên chở đồ tiếp tế ra những chỗ đào vàng. Rồi thấy cả những nhà chứa bài, ngân hàng, thị trường chứng khoán, rồi tất cả những hàng hoá và tiền, những miếng thẻ thay tiền lúc chơi bài, những vận hội của canh bạc lớn hơn tất cả những vận hội của canh bạc lớn hơn tất cả những . bạc mà từng thấy. là địa ngục, nghĩ, khi cái linh cảm kia ngày hơn, khi chắc chắn có rất nhiều vàng đào được mà lại phải ở ngoài cuộc chơi. Cuộc sống như run lên, như cục cựa trong người khi nghĩ đến điều đó. Nó lại bắt đầu cất lên cái tiếng lừa dối cũ kỹ. Trong lúc chờ đợi điều đó phải rán vận sức lên. biết tình trạng của mình. Nếu như nỗ lực đầu tiên thất bại những nỗ lực sau chắc chắn cũng thất bại. phải gom hết tàn lực vào nỗ lực duy nhất, lấy hết sức đến độ còn gì cho những nỗ lực sau nữa. nâng đuôi xuồng lên, nâng với cả tâm hồn lẫn thể xác, sẵn sàng huỷ hoại chính bản thân , cả tâm hồn lẫn thể xác, trong cái nỗ lực đó. Chiếc xuồng nhích lên. có cảm giác là sắp ngất, nhưng vẫn cố nâng. cảm thấy chiếc xuồng trượt , bắt đầu lao theo bờ băng dốc. Bằng tàn lực cuối cùng, lao nhanh vào chiếc xuồng rồi rớt xuống cách thảm hại trúng vào đôi chân của Elijah. gượng dậy được nữa, và trong lúc nằm đó, nghe và cảm thấy chiếc xuồng lướt mặt nước nhàng thoải mái. Ánh Sáng Ban Ngày tỉnh lại và hiểu rằng thiếp . Nhìn mặt trời biết là ngủ được nhiều giờ rồi. Trời lúc này về chiều. lê mình về phía đuôi xuồng và ngồi dậy. Chiếc xuồng lúc này trôi lênh đênh giữa dòng. Hai bờ sông phủ băng lấp lánh và có cây mọc, lướt qua trước mắt . Gần chỗ có cây thông to lớn bị bật gốc trôi. chuyển đổi của dòng nước mang chiếc xuồng lại sát thân cây thông. Bò ra phía trước, lấy sợi dây neo ở mũi xuồng buộc vào nhánh rễ. Thân cây thông, chìm sâu lưới mặt nước, trôi nhanh hơn chiếc xuồng, và sợi dây neo căng ra cùng lúc chiếc xuồng bị kéo hất về phía trước. Sau khi nhìn khắp chung quanh lượt để thấy bờ sông ngả nghiêng xiêu vẹo và mặt trời đánh đu như con lắc ở ngang trời, Ánh Sáng Ban Ngày đưa tay kéo chiếc áo đắp bằng ba thỏ lên người, nằm ngả xuống đáy xuồng và thiếp . lại lại vào những giấc mơ và suy nghĩ của , liên tục bị ngắt ngang bởi những khoảng trống trong đó ngủ, ngất mà cũng nhận biết được gì cả. có cảm giác như các mẩu răng bánh xe trượt trong đầu mình vậy. Cứ như thế, lúc nghĩ được lúc , duyệt lại tình hình. vẫn còn sống, và hình như chắc được cứu sống, nhưng thế tại sao lại chết khi nằm vắt mình ở đuôi xuồng khi còn ở bức tường băng nhỉ? nhớ lại cái nỗ lực to lớn cuối cùng mà mình làm. Mà tại sao lại làm như thế chứ? tự hỏi. Chẳng phải là sợ chết. sợ điều đó, chắc chắn thế. Rồi nhớ đến cái linh cảm và cái số vàng lớn lao mà tin là tìm thấy, và hiểu rằng bị thôi thúc bởi cái ước muốn được chơi tay trong canh bạc lớn đó. Mà tại sao như vậy? Giả dụ như có được triệu đô-la nữa cũng để làm gì? cũng chết thôi, cũng hệt như những kẻ chỉ kiếm đủ vàng để trang trải phí tổn đào vàng mà thôi. Vậy tại sao nhỉ? Ðến đây suy nghĩ của bị cắt ngang bởi những khoảng trống càng lúc càng nhiều đến nỗi đành đầu hàng cái mệt mỏi dễ chịu lan dần khắp cơ thể. Rồi tự ngồi bật dậy. Có cái gì đó thầm vào tai là phải thức vậy ngay. Ngay lúc đó nhìn thấy trại Sáu Mươi Dặm, cách xuồng đầy trăm foot. Dòng nước đưa đến ngay cổng trái. Nhưng cũng dòng nước đó kéo trôi tiếp về vùng hoang dã phía cuối sông. trông thấy ai cả. Ngoài cột khói từ ống khói bếp bốc lên, hẳn là chỗ này bị bỏ hoang. cố thử gọi, nhưng hết hơi rồi. tiếng rít khàn khàn lạ lùng lúc lúc lại hờ hờ thoát khỏi cổ họng. đưa tay mò mẫm lấy khẩu súng, tựa bá lên vai và bóp cò. Báng súng giật ngược làm toàn thân đau nhừ như bị ai nện cho hàng ngàn cú. Khẩu súng rớt xuống nằm ngang đầu gối . cố nhấc nó lên vai lần nữa nhưng được. biết rằng phải hành động mau lẹ, và cảm thấy như mình sắp ngất . Cứ để khẩu súng nằm như vậy, bóp cò. Khẩu súng giật lui rớt ra ngoài mạn xuồng. Nhưng ngay trước khi mắt tối sầm lại, kịp thấy cánh cửa bếp mở ra và người đàn bà nhìn ra ngoài từ căn nhà ghép bằng những thân gỗ to lớn, lúc này như nhảy loạn trong rừng cây xung quanh. Chương 9 Mười ngày sau, Harper và Joe Ladue có mặt ở trại Sáu Mươi Dặm. Ánh Sáng Ban Ngày tuy còn hơi yếu, vẫn còn đủ sức để tuân theo thôi thúc của linh cảm, đổi phần ba chỗ đất của mình ở sông Stewart lấy phần ba đất ở sông Klondike của Harper và Joe Ladue. Họ tin là có vàng ở vùng phía Bắc, và Harper rời trại Sáu Mươi Dặm xuôi dòng theo chiếc xà lan chở đầy dụng cụ để đựng cái trạm ở cửa sông Klondike. Trước khi chia tay khuyên Ánh Sáng Ban Ngày: - Sao cậu thử tìm ở chỗ sông Indian coi? Chỗ đó có nhiều ngòi rạch lắm, và vàng đợi mình đến đãi đấy. Tớ có linh cảm như thế. Thế nào cũng tìm được nhiều vàng ở đó và con sông đó cũng chẳng còn xa xôi gì nữa đâu. - Mà lại có nhiều hươu nữa chứ, - Joe Ladue thêm - Bob Henderson cũng lên đó được ba năm nay rồi. thề có chuyện lớn xảy ra, suốt tháng chỉ sống bằng thịt hươu và mò tìm như thằng điên vậy. Ánh Sáng Ban Ngày quyết định thử "chơi ván" sông Indian, theo cách của . Nhưng thuyết phục nổi Elijah theo mình. Cái đói huỷ hoại tâm hồn rồi, và cứ nghĩ đến phải chịu đựng như vậy lần nữa là lại thấy sợ. - Mình chẳng thể rời thức ăn ra được, - giải thích - Mình biết như vậy chẳng khác gì thằng ngốc, nhưng mình đừng được. Ðiều duy nhất mình làm được lúc này là rời bàn ăn khi biết mình no đến căng bụng chẳng còn có thể chứa thêm được nữa. Mình về thị trấn Vùng Cực náu thời gian cho đến khi cơn bệnh sợ đói này khỏi hẳn . Ánh Sáng Ban Ngày nấn ná thêm ít ngày nữa cho lại sức và để thu xếp số đồ đạc ít ỏi của mình. dự tính gọn , tự mình vác bao đồ khoảng bảy mươi lăm cân, cả năm con chó cũng phải mang như vậy, theo kiểu thổ dân, mỗi con chịu ba mươi cân. Theo lời Ladue khuyên, dự tính bắt chước Bob Henderson và chỉ sống bằng thịt săn được Khi chiếc tàu kéo chở trại cưa của Jack Kearns từ Hồ Linderman ghé lại trại Sáu Mươi Dặm, Ánh Sáng Ban Ngày gói ghém đồ đạc và đưa chó lên tàu, chuyển giấy xin chủ quyền đất mà chọn cho Elijan nhờ vô sổ giùm. Cùng ngày hôm đó, đáp tàu xuống cửa sông Indian. Về phía sông khoảng Bốn Mươi Dặm ở chỗ mà nghe người ta gọi là Lạch Thạch , phát ra dấu vết của Bob Henderson, rồi ở Lạch Úc Châu cách đó ba mươi dặm cũng thế. Nhưng hết tuần này sang tuần khác, Ánh Sáng Ban Ngày vẫn gặp được . Tuy vậy, lại gặp rất nhiều hươu, và cùng bầy chó được vỗ béo bằng thịt hươu. số doi đất nổi, chỉ đãi được vàng đủ để trả công lao động mà thôi, nhưng khi thảy đất sỏi ở số con lạch có lẫn rất nhiều vàng bụi tin là còn rất nhiều vàng thô ở dưới đất chỉ đợi người đào lên mà thôi. hay đưa mắt nhìn về rặng đồi phía bắc và tự hỏi hiểu vàng có từ đó mà đến . Cuối cùng lần ngược Lạch Thuộc Ðịa đến tận đầu nguồn rồi băng qua vách đá chắn xuống đến phụ lưu sông Klondike mà sau này người ta gọi là Lạch Hunker. Lúc còn ở vách đá, nếu cứ theo hướng mỏm đồi lớn nằm ở phía bên phải xuống được đến khu mà Bob Henderson đặt tên là Ðáy Vàng và gặp được ta ở đó, đãi được mẻ vàng lớn đầu tiên dòng Klondike. Thay vì vậy, Ánh Sáng Ban Ngày tiếp tục qua Lạch Hunker đến khu đánh cá mùa hè của thổ dân bờ sông Yukon. nghỉ lại nơi đây ngày với người da trắng có vợ thổ dân tên Carmack và vợ là Skookum Jim, sau đó mua chiếc xuồng, chất bầy chó lên rồi cho chạy xuôi dòng Yukon về trại Bốn Mươi Dặm. Tháng Tám sắp qua , ngày bắt đầu ngắn lại và mùa đông về. Tuy vậy, vẫn tin vào linh cảm của mình là vàng sắp xuất rất nhiều vùng đất phương Bắc, và dự định rủ bốn, năm người, hoặc tệ lắm cũng người cùng chống xuồng ngược dòng trước khi mặt nước bắt đầu đóng băng để tìm vàng trong mùa đông. Nhưng dân ở trại Bốn Mươi Dặm chàng ai tin tưởng gì ở cái vùng đất phương Bắc ấy cả. Ðối với họ những chỗ đào được vàng về phía Tây cũng tốt chán rồi. Thế rồi tự nhiên chàng Carmack, Skookum Jim vợ , và Cultus Charlie, thổ dân khác xuồng. đến trại Bốn Mươi Dặm đến thẳng chỗ nhân viên phụ trách đất đai mỏ xin đăng ký chủ quyền ba mảnh đất và chỗ tìm được vàng ở Lạch Thịnh Vượng. Ðêm đó, tại Quán Dân Kỳ Cựu, họ giở vàng thô ra cho đám người ở đó xem. Họ chỉ lắc đầu, nhe răng cười tỏ vẻ tin tưởng. Trước kia họ chứng kiến những vụ lường gạt như thế nào rồi. Ðây ràng là ý đồ của Harper và Joe Ladue muốn dụ dỗ dần tìm vàng đổ xô đến vùng phụ cận của khu đất họ đăng ký chủ quyền và có trạm mua bán của họ. Mà Carmack là người như thế nào kia chứ? Chỉ là chàng da trắng có vợ thổ dân. Mà có ai nghe thấy người như vậy tìm thấy vàng bao giờ chưa? Và Lạch Thịnh Vượng là cái gì? Chỉ là cánh đồng hươu ăn, đổ ra chỗ sông Klondike đoạn và được những dân thổ công ở đây biết đến với cái tên Lạch Con Thỏ. Nếu như chính Ánh Sáng Ban Ngày hoặc Bob Henderson đăng ký đất và cho họ thấy vàng thô họ tin ngay là có gì đây rồi. Nhưng đó lại là Carmack, tên da trắng có vợ thổ dân, Skookum Jim và Cultus Charlie. , thể được! Như vậy là bắt họ tin tưởng cách quá đáng. Chính Ánh Sáng Ban Ngày cũng tin, mặc dù nghi ngờ gì cả là vùng đất phía Bắc có vàng. Chẳng phải là chỉ mấy ngày trước đây thôi thấy Carmack lang thang với mấy người bạn thổ dân của , và có cả đến cái ý nghĩa tìm vàng đấy sao? Thế nhưng vào mười giờ đêm, lúc ngồi ở mép giường tháo dây ủng, ý nghĩ chợt đến với . mặc áo và đội nón vào rồi trở lại Quán Dân Kỳ Cựu, Carmack vẫn còn ở đó, vẫn để vàng lóng lánh tay cho mọi người xem. Họ vẫn chẳng tin tưởng gì, Ánh Sáng Ban Ngày bước lại bên Carmack và dốc cả túi vàng của vào ống thử. xem xét hồi lâu. Rồi lấy trong túi của mình ra ít ounce vàng tìm thấy ở thị trấn Vùng Cực và trại Bốn Mươi Dặm, bỏ nó vào ống thử khác. Rồi lại xem xét và so sánh hồi lâu. Cuối cùng bỏ phần vàng của mình vào túi, đưa trả lại Carmack chỗ vàng của rồi giơ tay ra hiệu cho mọi người im lặng. - Tớ muốn với các cậu chuyện. Vàng nguồn sông xuất rồi đấy. ràng và chắc chắn là như vậy. Chưa bao giờ vàng bỏ vào ống thử của vùng này lại giống như vậy. Vàng này là loại vàng mới. Nó có nhiều bạc hơn. Các cậu cứ nhìn màu của nó biết. Chắc chắn là Carmack tìm thấy vàng rồi. Bây giờ có cậu nào đủ tin để theo tớ nào? ai tình nguyện cả. Thay vào đó chỉ có những tiếng cười chế giễu. - Chắc cậu cũng có đất ở đấy chứ gì? - có ai đó hỏi. - Dĩ nhiên là có, - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời - Tớ còn có phần ba số đất của Harper và Ladue nữa kìa. Rồi cậu thấy vạt đất của tớ bán ra cũng còn được giá hơn tất cả cái số vàng gà bới của cậu ở vùng Lạch Bulô cho mà xem. - Thôi cũng được , - người tên Curly Parson xen vào, vẻ xoa dịu - Bọn này biết là cậu nổi tiếng ngay thẳng. Nhưng cậu cũng có thể bị lường gạt như ai với cái trò bày đặt của những kẻ lang thang như vậy. Tớ hỏi thẳng cậu vậy chứ thằng cha Carmack này tìm vàng lúc nào vậy? Cậu có là nằm ườn với bọn thổ dân trong trại câu cá hồi, mà mời ngày kia đây thôi chứ nào có lâu la gì. - Ánh Sáng Ban Ngày đúng đó, - Carmack cắt ngang cách nóng nảy - Mà tôi cũng , Kinh Thánh ấy. Tôi tìm vàng. Chẳng khi nào tôi có ý nghĩ ấy. Nhưng khi Ánh Sáng Ban Ngày rồi hôm đó Bob Henderson chiếc bè chở đồ đạc tới. ấy về phía trại Sáu Mươi Dặm, dự tính ngược dòng Indian rồi vác cả bè lẫn đồ đạc vượt qua vách đá chắn ngang Lạch Thạch và Ðáy Vàng… - Ðáy Vàng là chỗ quỹ nào vậy? - Curly Parson hỏi. Ở phía bên kia Lạch Thịch Vượng, tức là Lạch Con Thỏ đấy, - Carmack tiếp tục - Nó là cái lạch lớn đổ vào sông Klondike ấy mà. Ðó là con đường bọn tôi lên, nhưng lúc xuống lại băng qua vách đá, dọc máy dặm theo mỏm núi rồi xuống lạch Thịnh Vượng. Bod Henderson bảo tôi: "Ði theo tớ , Carmack, mà xí phần. Lần này tớ đào trúng rồi, ở chỗ Ðáy Vàng ấy. Tớ tìm được bốn mươi lăm ounce vàng rồi đây này Thế là tôi xí ba mảnh đất ở Ðáy Vàng. Rồi bọn tôi theo Lạch Thịnh Vượng trở về xem có kiếm được con hươu nào . Bọn tôi có ngừng lại ở cái lạch đó để nấu ăn. Sau đó tôi lăn ra ngủ còn Skookum Jim tự nhiên muốn thử kiếm vàng chơi. Chẳng là ấy thấy Bok Henderson làm rồi nên thử bắt chước. ấy đến gốc cây bulô. ấy xúc đầy đất vào chậu rồi đãi được đô-la vàng. ấy liền gọi tôi dậy và tôi cũng đặt tên con lạch là Thịnh Vượng, cắm bảng tìm thấy vàng rồi quay về đây để đăng ký chủ quyền. Carmack lo lắng nhìn xung quanh xem có ai tin mình , nhưng chỉ thấy xung quanh mình hoàn là những gương mặt nghi ngờ, trừ có mỗi Ánh Sáng Ban Ngày. Trong khi kể chuyện để ý quan sát vẻ mặt rất kỹ. - Harperr và Ladue trả cho mày bao nhiêu để phịa chuyện này ra vậy? - có ai đó hỏi. - Hai người đó chẳng biết gì về chuyện này cả, - Carmack trả lời - Tôi có Chúa chứng giám. Tôi đãi được ba ounce vàng trong vòng có giờ đồng hồ. - Và tại số vàng đó kia kìa, - Ánh Sáng Ban Ngày - Tớ với các cậu rồi, ở cái xứ này chưa bao giờ có loại vàng như thế. Cứ nhìn màu của nó biết. - Có hơi tối hơn , - Curly Parson - Nhưng chắc thằng Carmack để chung vàng với mấy đồng đô-la bằng bạc chứ gì. Vả lại, nếu có gì tại sao Bob Henderson tạt về đẻ đăng ký chủ quyền chứ? - ấy còn ở khu Ðáy Vàng mà, - Carmack giải thích - Còn bọn tôi kiếm được ấy lúc quay trở lại. Thay cho lời tán thưởng là cả tràng cười chế giễu. Ánh Sáng Ban Ngày : - Có cậu nào mai canh ty với tớ chống xuồng ra Lạch Thịnh Vượng nào? Cũng chẳng có ai xung phong cả. - Vậy ai làm cho tớ, lương trả tiền mặt và trả trước, mai chống xuồng chuyển giùm tớ khoảng ngàn cân thực phẩm nào? Curly Parson và người nữa tên Pát Monaha nhận làm. Ánh Sáng Ban Ngày, theo cái thói quen làm liều của mình, trả lương trước cho họ và đặt mua những đồ dùng cần thiết. Thế là chẳng còn đồng nào dính túi. Khi bước ra đến cửa Quán Dân Kỳ Cựu để về, bỗng quay trở lại quầy rượu. - Lại có thêm linh cảm nào mới nữa hả? - có tiếng người hỏi. - Ðúng vậy. Mùa đông năm nay dòng Klondike giá bột mì lên rất cao. Cậu nào có thể cho tớ mượn ít tiền nào? Ngay lập tức cả chục người trước kia từ chối theo đuổi ngỗng trời lúc này vây quanh chìa các túi vàng ra: - Cậu muốn mua bao nhiêu bột mì nào? - tay thủ kho của Công ty Thương mại Alaska hỏi. - Khoảng hai tấn. Ðám người chìa túi vàng ra cho Ánh Sáng Ban Ngày mượn rụt tay lại, nhưng họ vẫn ngăn nổi chuyện phá lên cười khi nghe vậy. - Cậu làm gì cần đến những hai tấn vậy?- tay thủ kho hỏi. - Chú bé ơi, - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời - Chú chưa sống ở cái xứ sở này đủ lâu để hiểu hết mọi ngóc ngách của nó đâu. Tớ tính mở xưởng làm kim chỉ và dầu gội đầu đấy. quay sang mượn tiền hết bên này rồi bên kia. Xong, lại thuê thêm sáu người nữa, trả tiền ngay, để nhờ chuyển số bột mì chất lên ba chiếc xuồng chống bằng sào nữa. Lần này những túi cạn sạch mà còn nợ ngập đầu nữa. Curly Parson gục đầu xuống bàn với vẻ tuyệt vọng. - Ðiều tớ thắc mắc, - rền rĩ, - là biết cậu làm gì với cái đống bột mì ấy đây chứ? - Ðể tớ cho các cậu nghe theo thứ tự A, B, C hoặc 1, 2, 3 cho dễ hiểu đây này, - Ánh Sáng Ban Ngày đưa ngón tay lên cao và bắt đầu đếm: Linh cảm thứ nhất: Vàng sắp xuất rất nhiều ở vùng đất phía Bắc. Linh cảm thứ hai: Carmack lần ra nó rồi. Linh cảm thứ ba: Chẳng phải linh cảm gì ráo. Nó là điều chắc chắn phải đến. Nếu linh cảm và hai đúng giá bột mì vọt lên đến tận trời. Linh cảm và hai mà đúng linh cảm ba cũng đúng nên tớ phải theo; mà nếu tớ đúng mùa đông năm nay bột mì và vàng trị giá ngang nhau bàn cân. Tớ cho các cậu hay, khi các cậu đá có linh cảm phải chơi cho đến cùng. Vận may là cái gì nếu các cậu biết tóm lấy nó? Mà khi tóm lấy nó rồi phải lợi dụng nó cho đến cùng. Tớ ở đây bao năm nay rồi chỉ để chờ cái linh cảm này đến đấy thôi. Mà giờ nó đến rồi. Hà hà, tớ phải chơi cú này cho đến cùng. Thôi tớ chào các cậu đây. Xin chào. Chương 10 Người ta vẫn tin là tìm thấy vàng. Khi Ánh Sáng Ban Ngày cùng với các xuồng bột đỗ lại chỗ cửa sông Klondike, thấy cả dải đất bằng rộng lớn đó vẫn hoang vắng. Ở sát mé sông, gặp thủ lĩnh Isaac và bộ lạc của ông ta hạ trại cạnh những giàn phơi cá hồi. Có nhiều tay đào vàng kỳ cựu cũng ở chung với họ. Sau khi làm xong việc đào vàng mùa hè ở Lạch Mười Dặm, họ theo dòng Yukon tính trở về thị trấn Vùng Cực. Nhưng lúc còn ở trại Sáu Mươi Dặm, họ nghe phong phanh về chuyện phát được vàng ở vùng này nên ghé lại để xem. Lúc họ quay trở về xuồng Ánh Sáng Ban Ngày tới nơi. Và bốc dỡ bột mì. Họ báo lại với vẻ rất bi quan. - Cái cánh đồng hươu quỷ này ấy mà, - người tên Long Jim Harney và ngừng lại để thổi cho nguội nước trà đựng trong cái ca bằng thiếc - Cậu chẳng nên dây vào nó mà làm gì, Ánh Sáng Ban Ngày ạ. là thối, bọn chúng tính đánh lừa mình đấy mà. mưu này là của bọn Harper và Ladue. Thằng Carmack cò mồi cho bọn chúng. Có ai từng nghe đến chuyện tìm vàng ở cánh đồng hươu rộng nửa dặm giữa hai bờ đá lộ thiên mà chỉ có Chúa mới biết được phải đào sâu bao nhiêu mời tới được mặt đá ngầm bao giờ đâu? Ánh Sáng Ban Ngày vừa gật đầu tỏ vẻ thông cảm vừa ngẫm nghĩ lúc. Sau cùng hỏi: - Thế các cậu thử đãi mẻ nào chưa? - Ðãi cái con khỉ?- người kia bực mình trả lời - Bộ cậu tưởng tớ là con nít sao chớ? Chỉ có mấy thằng chân ướt chân ráo ngốc nghếch mới chịu khó quanh cái cánh đồng ấy vét cho đầy rổ đất mà đãi thử. Tớ chẳng làm cái chuyện ngốc nghếch ấy đâu. Chỉ cẩn nhìn qua tớ cũng đủ biết vùng này chẳng có cái quái gì hết. Sáng mai bọn này trở về thị trấn Vùng Cực đây. Tớ chẳng tin tưởng gì ở cái vùng đất phía Bắc này cả. Ðối với tớ mấy nhánh thượng nguồn sông Tanana(l) là tốt quả rồi. Các cậu nghe tớ này, nếu vàng có xuất nó xuất ở vùng hạ lưu sông kia. Thằng Johnny này đây cũng đăng ký mảnh đất phía dưới chỗ bọn Carmack cắm bảng tìm thấy vàng có , hai dặm thôi mà nó cũng chẳng tìm thấy gì ráo. Johnny nghe thấy thế tỏ vẻ bẽn lẽn. - Tớ cũng chỉ đăng ký chơi thôi mà, - giải thích - Tớ sẵn sàng đổi mảnh đất chỗ vùng lạch đó để đổi lấy cân thuốc lá hiệu Ngôi Sao đấy. - Thế tớ đổi cho cậu vậy, - Ánh Sáng Ban Ngày ngay - Mà nếu tớ có đào lên được hai ba mươi ngàn đô-la ở chỗ đó cũng đứng đến mè nheo đấy nhé. Johnny toét miệng cười vui vẻ. hỏi: - Thế thuốc đâu đưa đây. - Ước gì tớ cũng đăng ký miếng đất ở cạnh đó nhỉ, - Long Jim thở ra cách buồn bã. - Cũng chưa muộn đâu mà - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời. - Nhưng từ đây đến đó cũng phải đến hai mươi dặm chứ bộ chơi à. - Ðể mai tớ lên tớ xí phần cho cậu, - Ánh Sáng Ban Ngày đề nghị - Rồi cậu lại đổi nó cho tớ giống như thằng Johnny làm nhé. Các cậu đến thằng Tim Logan mà lấy thuốc. Bây giờ nó trông quầy rượu ở Quán Dân Kỳ cựu ấy. Cứ bảo nó cho tớ vay mấy cân thuốc. Rồi các cậu ghi tên các cậu vào tờ đăng ký đất, đề là nhượng lại cho tớ rồi nộp lại cho thằng Tim là xong. - Vậy làm cho tớ nữa nhé, - người thứ ba trong bọn Long Jim Harney cũng đề nghị theo. Vậy là với ba cân thuốc lá nhãn hiệu Ngôi Sao, Ánh Sáng Ban Ngày mua được ba mảnh đất, mỗi mảnh rộng năm trăm foot ở vùng Lạch Thịnh Vượng. Bản thân có thể đăng ký xin mảnh riêng cho mình nữa, vì ba mảnh kia chỉ là đất nhượng lại. - Về cái khoản thuốc lá đó, phải là cậu chơi phóng tay , - Long Jim cười - Bộ cậu có hãng thuốc lá ở đâu đó hả? - . Mình chỉ có linh cảm thôi! Ánh Sáng Ban Ngày ở căn lều riêng của mình Joe Ladue bước đến. vừa mới từ Lạch Thịnh Vượng về. Lúc đầu chẳng lộ vẻ quan tâm gì đến chuyện Carmack tìm thấy vàng cả, nhưng sau đó hơi sinh nghi. Cuối cùng, đề nghị chia cho phần đất với giá trăm đô-la. - Tiền mặt chứ? Ánh Sáng Ban Ngày hỏi. - Dĩ nhiên là tiền mặt. Ðây này. Vừa Ladue vừa móc túi vàng ra. Ánh Sáng Ban Ngày cầm túi vàng trong tay như để xem nặng cách lơ đãng, rồi cùng với vẻ lơ đãng đó cởi dây buộc và đổ ít vàng bụi ra lòng bàn tay. Cũng giống như vàng của Carmack, vàng của Ladue xẩm màu hơn bất kỳ thứ vàng nào mà thấy. bỏ vàng vào túi, cột lại và đưa trả cho Ladue. - Tớ nghĩ cậu cần vàng đó hơn mình, - Ánh Sáng Ban Ngày thăm dò. - Chẳng cần đâu. Tớ còn nhiều đây này - Ladue vội trấn an . - Cậu đào dược ở đâu vậy? Ánh Sáng Ban Ngày hỏi như thể tình cờ vậy thôi. Ladue nghe câu hỏi mà vẫn làm mặt tỉnh queo như thổ dân vậy. Nhưng ngay lúc ấy cả hai người nhìn thẳng vào mặt nhau, và từ toàn bộ con người của Ladue như nhợt loé lên cái gì đó rất khó nhận biết. Thế nhưng Ánh Sáng Ban Ngày như nhận biết điều đó và đánh hơi thấy có gì bí trong mắt kẻ đối diện. - Cậu biết về vùng lạch đó rành hơn tớ, - - và nếu như với những điều cậu biết về mảnh đất của tớ mà cậu ra giá trăm đô-la tớ cũng dám ra cái giá tương tự dù tớ chưa biết gì về nó cả. - Vậy ba trăm đô-la chịu ?- Ladue đề nghị với vẻ tuyệt vọng. - Tớ cũng vẫn chỉ với cậu như vậy thôi. Cậu có ra giá nào nữa mảnh đất đó cũng trị giá với tớ ngay như vậy mặc dù tớ chưa biết tí gì về nó cả. Cuối cùng Joe Ladue phải chịu thua. dẫn ra xa khỏi chỗ trại có bọn Long Jim Harney đứng và tiết lộ với mọi việc. Sau cùng kết luận: - Chắc chắn là có vàng đó. Tớ chẳng cần dùng rá sàng mà cũng chẳng cần đến máng đãi gì cả. Tớ chỉ hốt đất ở chỗ bờ đá lộ thiên cho vào rổ đãi mà được cả túi vàng đấy. Mới hôm qua thôi chứ nào phải lâu la gì. Tớ cam đoan với cậu là cứ nhổ bật gốc cỏ lên mà lắc cũng ra vàng nữa đấy. Nếu mà đào đến mặt đá ngầm vàng nhiều. Nhưng cậu cứ im lặng mà dò xem chỗ nào có vàng, bởi vì cũng còn tuỳ từng khoảnh đất. Tớ ngạc nhiên nếu như vài khoảnh chứa đến cả năm chục ngàn đô-la vàng. Chỉ chết có nỗi là đất bị chiếm hết rồi. tháng trôi qua mà Lạch Thịnh Vượng vẫn yên lặng. Có số người cũng đến đó cắm đất nhưng phần lớn sau khi cắm đất xong lại quay về trại Bốn Mươi Dặm hay thị trấn Vùng Cực cả. Cái số ít ỏi còn lại tin chắc là tìm thấy vàng ở đó lại bận lo đốn gỗ cất nhà phòng mùa đông tới. Họ lui cui làm việc với nhau cách lặng lẽ, hỏi han ai mà cũng chẳng thổ lộ điều gì với ai cả. Ánh Sáng Ban Ngày thử đãi ở chỗ bờ lạch thuộc khu đất của Carmack và giũ rễ cỏ ra vàng thô, nhưng cả trăm lần thử khác suốt vách đá dọc Lạch Thịnh Vượng lại chẳng thấy gì cả. Bởi vậy lúc này rất muốn biết xem dưới mặt đá ngầm có gì . chú ý thấy bọn bốn người kia đào hố sát bên bờ lạch và nghe tiếng họ xẻ gỗ để làm máng đãi. đợi được mời cũng có mặt ở chỗ họ vào ngày họ đãi lần đầu tiên. Trong cái số đất mà người trong bọn họ đào lên sau năm tiếng đồng hồ; họ thu được tất cả mười ba ounce rưỡi vàng. Ðó lấ vàng thô, có cục như đầu kim, có cục lớn trị giá đến mười hai đô-la. Tất cả số vàng đó đều từ mặt đá ngầm mà ra. Ngày hôm đó trận tuyết mùa thu bắt đầu rơi, và mùa đông Bắc Cực thế là gần kề, nhưng Ánh Sáng Ban Ngày chẳng để ý gì đến vẻ ảm đạm xám xịt và lạnh lẽo của cái mùa thu ngắn tàn đó cả. chỉ mải nghĩ đến điều tưởng tượng trước kia của nay thành : suốt dải đất bằng này rồi đây mọc lên thành phố vàng trong tuyết. Vàng được phát mặt đá ngầm. Ðiều đó rất quan trọng vì nó khẳng định điều Carmack trước kia. Ánh Sáng Ban Ngày cắm khoảnh đất cho riêng mình tiếp giáp với ba miếng đất mà trước kia đổi bằng ba cân thuốc lá. Sở hữu của bây giờ là mảnh đất liền nhau chạy dài hai ngàn foot và rộng suốt từ bờ đá lộ thiên bên này sang bờ đá lộ thiên bên kia. Tối hôm đó, khi trở về trại của mình dựng bên cửa sông Klondike, thấy Kama, gã theo dân mà bỏ lại ở Dyea. Kama xuồng đến chở theo chuyến thư cuối cùng trong năm. có khoảng hai trăm đô-la vàng bụi và Ánh Sáng Ban Ngày mượn ngay so tiền đó. Ðể đáp lại, hứa cắm mảnh đất riêng cho , và chỉ việc đăng ký khoảnh đất đó khi ghé vào thị trấn Bốn Mươi Dặm. Sáng hôm sau, khi Kama lên đường, Ánh Sáng Ban Ngày giao cho lố thư đề gửi cho những tay đào vàng kỳ cựu ở phía dưới sông. Trong những lá thư này, hối thúc họ hãy mau mau lên chỗ này mà cắm đất. Mấy người khác vùng Lạch Thịnh Vượng cũng gửi theo Kama nhưng lá thư có nội dung tương tự. - Rồi người ta đổ xô về đây cách vội vã như chưa từng bao giờ như vậy cho mà xem, - Ánh Sáng Ban Ngày vừa cười khanh khách vừa hình dung cái cảnh dân ở trại Bốn Mươi Dặm và ở thị trấn Vùng Cực nhón nháo lên lên xuồng đua nhau vượt hàng trăm dặm ngược Sông Yukon lên đây, bởi vì biết rằng mọi người tin lời cách thắc mắc. Với những người đầu tiên đổ xô tới, khu Lạch Thịnh Vượng như sống dậy, và thế là cuộc đua đường dài giữa bốc phét và bắt đầu, trong đó có những lời bốc phét dù có nhanh đến mấy chăng nữa cũng vẫn bị bắt kịp và qua mặt. Những kẻ trước kia nghi ngờ chuyện Carmack đãi được bằng đó. Nhưng cũng chính họ lại bốc phét đó chẳng bao lâu được chỉ ounce mà đến năm ounce. Họ lại lập tức bốc phét là được đến mười ounce. Rồi khi họ đãi cho mọi người xem đúng sai thế nào họ lại thu được đến hai mươi ounce. Cứ thế họ mạnh dạn bốc phét, nhưng lại muôn lượt vượt quá bốc phét của họ. hôm vào tháng Chạp, Ánh Sáng Ban Ngày hốt đầy rổ đất ở chỗ mặt đá ngầm thuộc phạm vi đất của và đem về lều. Tại đây đốt đống lửa để giữ cho nước đựng trong chiếc túi may bằng vải bố khỏi bị đông đặc. ngồi xổm trước cái túi vải đựng nước đó và bắt đầu đãi. Trong rổ đãi hình như chỉ có đất và sỏi. Khi huơ rổ vòng, những vật hơn trôi ra khỏi thành rổ. Lâu lâu lại đưa tay cào cào vào rổ để hốt từng nắm sỏi cho ra ngoài. Ðống đất cất trong rổ vơi dần. Khi chỉ còn ít bám ở đáy rổ, lắc mạnh cái rổ, nhắc lên cho ráo nước và nhìn qua xem có gì . Toàn bộ đáy rổ như được phủ lớp bơ. Càng lắc bao nhiêu nước bùn trong rổ càng cạn bấy nhiêu, và vàng càng hơn, lóng lánh. Ðống vàng đó gồm vàng bụi, vàng thô, vàng cục cả lẫn lớn. Lúc đó chỉ có mình trong lều. đặt chiếc rổ đãi xuống và suy nghĩ hồi lâu. Sau đó rửa cho sạch và đem cân thử số vàng. Nếu cứ tính mười sáu đô-la ăn ounce chiếc rổ đó chứa tới bảy trăm đô-la có lẻ. là quá sức tưởng tượng của trước kia tính cao lắm cũng chỉ đãi được khoảng hai mươi đến ba mươi ngàn đô-la mảnh đất là cùng. Bây giờ hoá ra mảnh đất như vậy cũng cho được ít nhất là nửa triệu đô-la, dù cho vàng có nằm phân tán chăng nữa. Cả ngay hôm sau và ngày hôm sau nữa cũng thèm quay lại đãi tiếp vàng ở chỗ đất của mình. Thay vào đó, đội mũ, găng tay vào và đeo lưng bộ đồ dùng đường bao gồm cả tấm áo đáp bằng da thỏ, rồi ra lang thang hết ngày nay qua ngày khác, qua đèo lội suối để khảo sát toàn bộ vùng đất xung quanh đó. Cứ ở mỗi con lạch là có quyền cắm mảnh đất, nhưng chọn lựa rất cẩn thận. Chỉ khi đến con Lạch Hunker là chọn mảnh. thấy suốt từ nguồn trở xuống con Lạch Thịnh Vượng bị cắm hết rồi, ngay cả những rãnh, những khe đổ ra con lạch đó cũng đều bị chiếm cả. ra ít hy vọng gì ở những rãnh và khe này. Chỉ những ai kiếm nổi chỗ Lạch Thịnh Vượng mới phải đành đến căm đất ở đó. Trong tất cả những rãnh và khe này chỗ được người ta chuộng nhất là rãnh Adams, còn rãnh người ta ít tra nhất là Eldorado chảy vào Lạch Thịnh Vượng ngay phía phần đất của Carmack. Ngay cả Ánh Sáng Ban Ngày khi nhìn thấy nó cũng chẳng ưa gì, song tuân theo linh cảm của mình, cũng sẵn sàng bỏ ra nửa bao bột mì để mua lại nửa mảnh đất ở đó. tháng sau, mua luôn cả phần đất tiếp giáp nó với giá tám trăm đô-la. Ba tháng sau, để nới rộng phần đất của mình, bỏ ra bốn trăm đô-la để mua thêm mảnh thứ ba. Rồi chẳng bao lâu sau, chẳng ai ngờ nổi, phải bỏ ra trăm năm mươi ngàn đô-la để mua thêm phần đất thứ tư ở chính ngay cái rãnh mà rất ít người ưa chuộng. Trong suốt quãng thời gian kể từ cái ngày đãi rổ đất được bảy trăm đô-la và ngồi xổm nghĩ ngợi rất lâu đo, chẳng đụng đến cuốc xẻng nữa. Cũng vào chính cái đêm đãi vàng kỳ diệu đó, với Joe Ladue: - Joe này, từ nay tớ chẳng thèm đãi vàng làm chi cho khổ sở. Tớ muốn dùng đầu óc tính toán hơn. Tớ trồng vàng. Chỉ cần cậu có đầu óc và có ít lưng vốn gọi là để làm hạt giống cậu làm cho vàng đẻ ra vàng ngay. Lúc tớ thấy ở đáy rổ có bảy trăm đô-la, tớ hiểu ngay rằng thế là tớ có đủ hạt giống rồi. Lúc đó Joe Ladue hỏi: - Vậy chứ cậu tính trồng ở đâu? Ánh Sáng Ban Ngày khoát tay chỉ vào toàn bộ khu vực và những khe lạch nằm cả ở bên kia các vách đá: - Ở kia kìa, - - Rồi các cậu cứ chống mắt mà xem. Có cả hàng triệu triệu đô-la ở đó cho những ai có thể thấy được chúng. Hồi chiều nay tớ thấy được chúng khi bảy trăm đô-la đó từ đáy rổ nhìn lên tớ mà hét lên rằng "Vậy là Ánh Sáng Ban Ngày cuối cùng tới". Chú thích: (1) Tanana: con sông dài 475 dặm ở phía Ðông và Trung tâm Alaska, chảy về phía Tây Bắc đổ vào sông Yukon.
Chương 11 Trước kia, khi Carmack chưa phát ra vàng, Ánh Sáng Ban Ngày là người hùng của vùng sông Yukon mới được khai phá. Giờ đây lại là người hùng của cuộc tìm vàng. Dọc ngang suốt dải đất đó mọi người đều biết về chuyện có linh cảm như thế nào và lợi dụng nó ra sao. lợi dụng nó triệt để đến nỗi giá trị đất chứa vàng của năm người may mắn nhất cộng lại cũng bằng giá trị đất chứa vàng mà sở hữu. Vậy mà vẫn tiếp tục lợi dụng nó tạo bạo kém gì từ trước đến nay. Những kẻ khôn ngoan chỉ biết lắc đầu và tiên đoán là mất tất cả số tiền kiếm được cho đến ounce cuối cùng. Họ cho rằng cứ mua đất đầu cơ theo kiểu này trừ trường hợp đất là vàng kể, còn cái điệu chỉ có phần vàng lẫn trong đất như vậy chỉ có lỗ mà thôi. Tuy vậy sở hữu đất của vẫn được ước tính đến hàng triệu đô-la và cũng có những kẻ lạc quan cho rằng chắc chắn thắng. Ðằng sau phóng tay coi tiền như rác của vẫn là tính toán, óc tưởng tượng và tầm nhìn thực tiễn đến nghiệt ngã, thấy trước được những cái mà bằng chính mắt thường của cũng thấy và quyết chơi theo kiểu được ăn cả ngã về . : - Có quá nhiều vàng ở Lạch Thịnh Vượng này nên thể bảo nó là nơi duy nhất được. Chắc chắc là còn có mạch chủ ở đâu đó. Ở các vùng lạch khác rồi cũng phát ra vàng. Các cậu chú ý khu vực sông Indian . Cả những con lạch chảy vào sông Klondike ở phía bờ bên kia nữa, rồi cũng có vàng như mấy con lạch bên này cho mà coi! ủng hộ ý kiến của chính mình bằng cách cung cấp lương thực, dụng cụ cho khoảng sáu toán người vượt bờ đá lớn qua vùng sông Indian để tìm vàng. Với những người kém may mắm trong việc cắm được đất tốt, thuê họ làm việc cho những phần đất sở hữu Lạch Thịnh Vượng. trả công cho họ rất hậu, mỗi người làm ca tám tiếng được mười sáu đô-la ngày, và chia họ ra làm ba ca. Những tay chủ mỏ khác cũng phải trả công cho thợ mười lăm đô-la ngày, nhưng là người đầu tiên thuê thợ và ngay từ đầu trả cho họ mười sáu đô-la ngày nên thợ của toàn là những tay giỏi. Vả lại, ngoài tiền công cao ra họ còn có lợi nhiều mặt khác nữa. Khi mùa đông bắt đầu và băng xuất , chơi cú mà ai cũng cho là điên. Khi hàng trăm kẻ đổ xô tìm vàng cắm đất ở những vùng lạch khác hơn Lạch Thịnh Vượng nhưng đành thất vọng trở về trại Bốn Mươi Dặm và thị trấn Vùng Cực, Ánh Sáng Ban Ngày liền đem cầm đống đất vàng ở Lạch Thịnh Vượng cho Công ty Thượng mại Alaska. Sau khi đút tấm chi phiếu vào bọc, thắng chó vào xe trượt và vượt băng về trại Bốn Mươi Dặm và thị trấn Vùng Cực với tốc độ mà chỉ có mình mới đạt nổi. Lúc , thuê thổ dân, lúc về lại thuê người khác và sử dụng đến bốn đàn chó. Ở hai nơi vung tiền mua lại hàng chục phần đất. Có những phần đất ràng là vô giá trị, nhưng cũng có ít sau này lại cho ra nhiều vàng hơn bất kỳ phần đất nào sở hữu Lạch Thịnh Vượng. Ai bán cũng mua, có phần đất chỉ phải trả có năm mươi đô-la nhưng cũng có những phần đất phải trả đến năm ngàn. mua miếng đất đắt giá nhất này tại Quán Tivoli. Phần đất này thuộc về phía Lạch Eldorado. Lúc đồng ý mua nó với cái giá đó Jacob Wilkins, cũng là tay kỳ cựu, vừa xem qua cái cánh đồng hươu ở khu đó đột nhiên đứng dậy rời phòng và : - Này Ánh Sáng Ban Ngày, tớ biết cậu được bảy năm rồi, và lúc nào cũng thấy cậu tỉnh táo. Thế mà lúc này cậu lại để cho hết thằng này đến thằng nọ ăn cướp của cậu. là trò như vậy đấy - trò ăn cướp. Năm ngàn đô-la để đổi lấy khoảnh đất ở cái cánh đồng hươu quỷ quái đó đúng là lường gạt. Tớ thể nào ở lại trong phòng này để nhìn cái cảnh cậu bị lường gạt như vậy. - Tớ cho cậu hay, - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời - Wilkins à, điều Carmack phát rất quan trọng và to lớn. Mình chưa nhìn thấy hết tầm to lớn của nó đâu. Vậy đành phải chơi xổ số. Mà thế nào rồi cũng có vé trúng giải đặc biệt. Jacob Wilkins, lúc này ra đến cửa, đứng lại hít hít tỏ vẻ tin. Ánh Sáng Ban Ngày tiếp: - Wilkins này, giả dụ như cậu biết là trời mưa ra súp cậu làm gì nào? Dĩ nhiên là phải mua muỗng ngay thôi. Vậy lúc này đây tớ cũng mua muỗng. Ðâu đó dòng Klondike trời mưa ra súp, Lúc đó kẻ nào chỉ có nĩa thôi chẳng vớt vát được gì. Wilkins nghe đến đây bước ra khỏi cửa và đóng lại đánh rầm cái. Ánh Sáng Ban Ngày cũng ngắt ngang để quay qua tiếp tục mua đất. Trở về khu Dawson, Ánh Sáng Ban Ngày giữa đúng lời hứa trước kia với Ladue, đụng tới cuốc xẻng. Tuy vậy, vẫn cặm cụi làm việc. bếp lửa của luôn luôn có ngàn cây que sắt và chúng làm bận rộn suốt ngày. Việc làm ăn phải nhờ tới người đại diện rất tốn kém nên phải đích thân hết vùng lạch này đến vùng lạch khác để xem xét và quyết định xem phần đất nào nên bỏ và phần đất nào nên làm tiếp. Là kẻ chuyên tìm mỏ vàng trước khi đến vùng Alasks này nên lúc nào cũng mơ tưởng đến chuyện tìm ra được mỏ chính. Ở những chỗ vàng lẫn trong đất như vầy chỉ khai thác lúc là hết, duy có mỏ chính là lâu bền, nên thuê hàng chục người tìm trong hàng tháng trời. bao giờ tìm thấy cái mỏ vàng chính đó, và nhiều năm sau này khi tính lại thấy mình tốn năm mươi ngàn đô-la vào công việc đó. Nhưng lúc này đây nhất định phải chơi canh bạc lớn. tiêu nhiều nhưng thu vào cũng lắm. sẵn sàng liều, vung tiền ra mua lại nửa phần đất của người khác, cung cấp dụng cụ và lương thực cho những kẻ tìm vàng để chia lời và cắm đất. Ngày cũng như đêm, lúc nào bầy chó của cũng ở tư thế sẵn sàng và thuộc loại chạy nhanh nhất. Cứ nghe ở đâu vừa phát ra vàng là phóng trước, bất kể đêm dài lạnh lẽo và luôn luôn dành được phần đất ngay kề chỗ vàng vừa được phát . Bằng cách này hay cách khác, bên cạnh rất nhiều những con lạch vô giá trị, còn sở hữu được rất nhiều đất những vùng lạch tốt như Lạch Lưu Huỳnh, Lạch Thuộc Ðịa, Lạch Excelsis, Lạch Siwash, Lạch Cristo, Lạch Alhambra và Lạc Doolittle. Cứ mỗi ngàn đô-la bỏ ra là lại thu vào hàng chục ngàn. Dân ở trại Bốn Mươi Dặm vẫn kể kể lại chuyện hai tấn bột mì của và tính rằng nó cũng đem lại cho từ nửa triệu đến triệu đô-la. Ai cũng biết là nửa phần đất ở Lạch Eldorado mà mua lại với giá nửa bao bột mì đem lại cho đến năm trăm đô-la. Tuy vậy người ta cũng biết chuyện về nàng Freda, vũ nữ, từ phía bên kia mấy dãy đèo xuồng vượt băng đóng dòng Yukon đến hỏi mua mười bao bột mì với giá ngàn đô-la mà ai chịu bán. Nghe thấy thế, Ánh Sáng Ban Ngày liền gửi đến cha cố mười bao bột mì để cha tiếp tục đeo đuổi việc dựng bệnh viện đầu tiên ở trong vùng. rộng rãi của kể ra cũng quá mức. Những người khác cho rằng điên. Vào cái thời điểm mà cố phất lên, mà nửa bao bột mì cũng đem lại cho năm trăm ngàn đô-la việc phóng tay cho vũ nữ và cha cố hai chục bao bột mì là gì nếu phải là điên rồ. Nhưng đó là cung cách xử của . Tiền bạc đối với chỉ là thước đo. Ðối với chỉ có cuộc chơi là đáng kể mà thôi. Việc sở hữu hàng triệu đô-la cũng chẳng làm thay đổi. Có chăng là nó khiến lao vào cuộc chơi cách nhiệt thành hơn. Là con người luôn luôn điều độ trừ những trường hợp hiếm hoi, bây giờ tuy có đủ điều kiện để nhậu nhẹt thoả chí vào bất kỳ lúc nào, lại càng uống rượu ít . Cái thay đổi triệt để nhất bây giờ là, ngoại trừ những lúc phải bám đường, còn tự nấu ăn nữa. tay thợ mỏ hết thời bây giờ sống cùng với trong căn phòng làm bằng gỗ ghép của và nấu ãnh cho . Nhưng thức ăn vẫn thế, vẫn thịt muối, đậu, bột, mận, quả khô và gạo. Ngay cách ăn mặc cũng vẫn như xưa, vẫn quần bảo hộ, vớ Ðức, ngày da đanh kiểu thổ dân, áo sơ mi dạ, nón lông thú và áo choàng may bằng vỏ chăn. Trong mùa đông năm 1896 đó, khu Dawson phát triển rất nhanh. Tiền đổ vào túi Ánh Sáng Ban Ngày nhờ việc bán những lô đất mà trước kia mua với giá rẻ để dân đổ về đây dựng nhà. Có tiền trong tay, lập tức đầu tư nó vào chỗ khác để sinh lợi. ra việc dùng hết tiền mới kiếm được đầu tư cả vào những chuyện khác để sinh lời như vậy đất nguy hiểm, nhất là ở vùng có mỏ mà chỉ và có vàng lẫn trong đất như vậy. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày lao vào cuộc chơi mà mắt vẫn mở to. - Các cậu cứ đợi cho đến khi ngoài kia biết tin trong này khai quật được vàng, - với mấy người bạn cố cựu lúc ngồi trong quán Sừng Hươu - Ðến mùa xuân năm sau tin đó mới lọt được ra ngoài. Lúc đó thiên hạ đổ xô về đây làm ba đợt. Ðợt mùa hè, họ người ; đợt mùa thu, họ đem theo dụng cụ lỉnh kỉnh, và đợt mùa xuân vào năm sau nữa có khoảng năm mươi ngàn người. Các cậu chẳng còn thấy được phong cảnh ở đây nữa, vì lúc đó dầy đặc những dân mới đến. Trước mắt có đợt mùa hè và mùa thu năm 1897. Lúc đó các cậu làm gì nào? - Còn cậu làm gì nào?- người bạn hỏi lại. - Chẳng làm gì cả,- Ánh Sáng Ban Ngày đáp - Vì tớ làm tất cả mới thứ rồi. Tớ mướn cả chục toán thợ cho rải suốt dọc phía sông Yukon để đốn gỗ. Khi băng sông bắt đầu vỡ bè của họ chở gỗ về đây. Nhà cửa. Ðó là thứ mà người ta cần mua với giá cao vào mùa thu tới. Và gỗ nữa, giá nó cao vọt. Tớ cho chở hai trại cưa qua đường đèo. Khi băng hồ tan, người ta chuyển chúng về đây, Nếu các cậu có nghĩ đến việc mua gỗ lúc này tớ sẵn sàng ký giao kèo với các cậu. Cứ ba trăm đô-la ngàn cây chưa xẻ. Mùa đông năm ấy Ánh Sáng Ban Ngày bán những lô đất ngóc ngách thuộc những khu thuận lợi cũng được từ mười đến ba mươi ngàn đô-la. nhắn tin cho những người tính vượt đèo vào khu này đem theo bè chở gỗ vào. Kết quả là mùa hè năm 1897 đó hai xưởng cưa của hoạt động liên tục theo ba ca, vậy mà vẫn còn dư gỗ để dựng nhà. Cứ mỗi căn như vậy tính luôn đất giá từ bốn mươi đến năm mươi ngàn đô-la. Số tiền ngày càng lớn này lại lập tức được đem đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác. Vàng của quay vòng rất nhanh, và cứ hễ đụng đến cái gì cái đó lập tức biến thành vàng. Nhưng cũng vào cái mùa đông đầu tiên của cơn sốt vàng ngay sau phát của Carmack đó cũng học được nhiều thứ. Mặc dù bản chất tiêu hoang, vẫn cố giữ được chừng mực. quan sát phung phí quá độ của những tay triệu phú mới mọc lên như nấm ở đây mà tài nào hiểu được họ. Theo bản chất và cách nhìn của việc tiêu hết số tiền ban đầu trong đêm ăn chơi là chuyện thường. Chính cũng làm như vậy trong cái đêm đánh bài xì phè ở thị trấn Vùng Cực. mất hết năm mươi ngân, tất cả vốn liếng có lúc đó. Nhưng luôn luôn coi đó như là số tiền mình phải mất để được tham dự vào cuộc chơi mà thôi. Ðến lúc trong tay có hàng chục triệu bạc lại là chuyện khác. Số tiền lớn đó là để chơi canh bạc lớn, chứ phải để đem vung vãi bàn nhậu - vung vãi theo nghĩa đen, từ những chiếc túi da hươu của những tay triệu phú say sưa đến độ mất hết ý thức về quân bình. Ví dụ như tay McManu chẳng hạn, tiêu lúc hết ba mươi tám ngàn đô-la trong quán rượu. Hoặc Jimmie Coc chẳng hạn, sống phóng đãng ồn ào trong suốt bốn tháng trời, mỗi tháng tiêu bay trăm ngàn đô để đến nỗi vào đêm tháng ba kia vì say mà ngã vùi xuống tuyết và bị lạnh cứng cho đến chết. Hoặc như thằng Bill Nước Cuốn chẳng hạn, bán mất cả ba khoảnh đất chứa nhiều vàng để có tiền trác táng. Ðến lúc trắng tay, bèn mượn em ba ngàn đô-la để bỏ xứ đó mà , nhưng khi biết được nhân tình cũ phụ bạc mình thích trứng, bèn ra chợ Dawson lùng mua hết trứng, trả hai mươi bốn đô-la chục, rồi lấy cả ngàn quả trứng đó đem cho chó ăn. Tuy vậy, vào những dịp đặc biệt, vẫn bỏ tiền tổ chức những đêm vui chơi ầm ĩ. làm như vậy vì nhiều lý do. Thứ nhất, mọi người trông đợi ở điều đó, vì đó là cái lệ đối với trước kia. Kế đó, vì có thể đài thọ được. Nhưng, để tâm nhiều đến cái cách tiêu khiển đó nữa. Bây giờ trong có ao ước quyền lực. Ðiều đó trở thành đam mê. Tuy là người giàu nhất vùng Alaska rồi, vẫn muốn giàu thêm. Ðây là canh bạc lớn, và thích nó ri bất kỳ canh bạc nào khác. theo cách nào đó chơi rất sáng tạo, bởi vì làm được cái gì đó. mặt tính cách mới của được khơi dậy; và việc khai thác được cả triệu đô-la vàng ở Eldorado còn làm sung sướng bằng việc đứng ngắm hai trại cưa của mình hoạt động và những chiếc bè gỗ lớn xuôi dòng cho đến khi tròng trành cập bến phía vùng Núi Da Hươu giữa con nước xoáy. Vàng, ngay khi đặt bàn cân, dầu sao cũng vẫn chỉ là thứ trừu tượng. Nó tượng trưng cho những thực thể và quyền lực hành động đó. Còn trại cưa lại là chính những thực thể đó, cụ thể và rệt. Hơn nữa, chúng còn là phương tiện để thực thêm nhiều việc khác nữa. Chúng là những thực thể đó, cụ thể và rệt. Hơn nữa, chúng còn là phương tiện để thực thêm nhiều việc khác nữa. Chúng là những ước mơ nay thành , là thực tuy khó nhọc nhưng thành công, những phiêu diêu cổ tích như trong truyện thần tiên. Cùng với dòng người đổ xô về đây vào dịp hè còn có những phóng viên đặc biệt của các tờ báo và tạp chí lớn. Tất cả bọn họ viết rất nhiều về Ánh Sáng Ban Ngày đến độ mọi người ở thế giới bên ngoài(l) đều biết về như nhân vật có tầm cỡ nhất vùng Alaska. Dĩ nhiên khi cuộc chiến tranh Tây Ban Nha nổ ra nhiều tháng sau đó, mọi người bị thu hút vào cuộc chiến tranh đó nên quên bẵng , nhưng nội trong vùng sông Klondike vẫn là nhân vật nổi bật nhất. Khi phố, mọi người đều quay lại, nhìn , và trong các quán rượu, những tay tìm vàng mới đến đều ngắm cách nể sợ và rời mắt khỏi khi vẫn còn trong tầm nhìn của họ. chỉ vì là người giàu nhất vùng mà còn vì là Ánh Sáng Ban Ngày, kẻ tiên phong, kẻ dám vượt đèo Chilcoot va thả bè theo dòng Yukon để gặp những người hùng tìm vàng kỳ cựu hơn như Al Mayo và Jack McQuestion khi vùng này còn hoang dã. là Ánh Sáng Ban Ngày, kẻ thực hàng chục cuộc phiên lưu mạo hiềm, kẻ dám vượt vùng đất hoang đại bóng cây đến tận Bắc Băng Dương để nhắn tin cho đoàn tầu đánh cá voi bị kẹt băng ở đó, kẻ chạy thơ từ thị trấn Vùng Cực đến Salt Water rồi quành trở về chỉ trong sáu mươi ngày, kẻ cứu giúp toàn thể bộ lạc Tanana khỏi bị diệt vong trong mùa đông 1891. tóm lại, là kẻ cuốn hút trí tượng tượng của dân mới đến mạnh bằng mười kẻ khác gộp chung lại. có khả năng tự quảng cáo. Bất kỳ điều gì làm, dù là ngẫu nhiên hay tuỳ hứng cũng đều được mọi người cho là đáng kể. Ðiều mà vừa làm xong luôn luôn nằm cửa miệng mọi người, từ việc là kẻ đầu tiên trong cuộc đổ xô về Lạch Damsh để tìm vàng hay việc giết con gấu mặt trắng khổng lồ ở Lạch Lưu Huỳnh, đến việc chiếm giải nhất trong cuộc đua thuyền đơn vào ngày kỷ niệm sinh nhật của Nữ Hoàng, sau khi bị buộc phải tham gia vì dân tìm vàng kỳ cựu ở đây ai chịu đại diện bị thi đấu cả. đêm kia, tại Quán Sừng Hươu, lại gặp Jack Kearns trong canh bạc phục thù mà họ hứa hẹn lâu. Lần này họ tố thẳng cánh và cùng hẹn đến tám giờ sáng hôm sau ngừng. Khi ván bài chấm dứt, Ánh Sáng Ban Ngày thắng hai trăm ba mươi ngàn đô-la. Ðối với Jack Kearns, lúc này giàu nứt đố đổ vách, số tiền thua đó đáng kể. Nhưng số tiền đó cũng khiến cho mọi người ở vùng đó phải giật mình, và có đến cả chục tay phóng viên viết những bài báo giật gân về kiện đó. Chú thích: (1) Chỉ thế giới ngoài vùng Alaska Chương 12 Dù có rất nhiều nguồn thu lợi, song việc tái đầu tư luôn luôn làm cho Ánh Sáng Ban Ngày bị kẹt tiền mặt trong suốt mùa đông đầu tiên. Số đất chứa vàng được làm tơi ra ở mặt đá ngầm khi được đem lên đến mặt đất liền bị đông cứng lại. Bởi vậy những đống đất đó, tuy chứa đựng hàng triệu đô-la, hoá ra đem ra sử dụng được. phải chờ cho đến mùa hè, khi mặt trời làm tan đất và biến băng thành nước để rửa, mới có thể sử dụng được số vàng đó. Lúc này lại dư vàng và đành phải đem gửi vào hai ngàn hàng mới mở. Lập tức bị những người hoặc những nhóm người bao vây đề nghị đầu tư vốn của mình vào công việc làm ăn của họ. Nhưng chọn lối chơi riềng của mình. chỉ tham gia các tổ chức khi chúng nhằm mục đích bảo vệ hoặc tấn công. Theo cách này, mặc dù tiền công trả cho thợ thuộc loại cao nhất, vẫn tham gia vào Hội Chủ Mỏ, tổ chức những kế hoạch chống lại người làm công và thành công trong việc kìm hãm bất trị ngày càng tăng của họ. Thời thế đổi thay, những ngày xưa cũ qua rồi. Ðây là thời đại mới, và Ánh Sáng Ban Ngày, lúc này là ông chủ mỏ giàu có, luôn trung thành với những ràng buộc giai cấp của mình. Quả là để cho những người bạn tìm vàng thời xưa làm cai trông coi cái đám người tìm vàng mới đến để tránh cho họ khỏi bị Hội Chủ mỏ áp bức; song đối với đấy là vấn đề của con tim hơn là của khối óc. Trong thâm tâm quên những ngày xưa cũ, nhưng trong đầu túc nào cũng muốn chơi canh bạc kinh tế theo những phương pháp mới nhất và thực tế nhất. Ngoài Hội Chủ mỏ bóc lột đó, ràng buộc mình vào bất kỳ ai cả. chơi lớn và chơi mình, và cần tiền của mình để làm chỗ dựa. Cái thị trường chứng khoán mới thành lập rất thu hút chú ý của . Trước đây chưa từng thấy tổ chức như thế, song nhanh chóng hiểu được tác dụng của nó và lợi dụng nó. Nó cũng như canh bạc, và trong nhiều trường hợp, chẳng phải là để làm lợi cho việc làm ăn của mình, sẵn lòng "chơi" cho nó cú, theo cách của , để chơi hoặc để thoả mãn cái tính bất trị của mình. - Bụng dạ cha con tụi nó đánh lôtô hết?- hôm sau khi làm cho đám đầu cơ chứng khoán ở Dawson phải điên ruột trong suốt tuần lễ bằng cách hết nâng lại hạ giá chứng khoán. Trong cái trò nghịch ngợm này, mất hẳn số tiền mà đối với kẻ khác là cả gia tài. Thường những người khác sau khi kiếm được số vàng kha khá rồi đều quay trở về Hiệp Chủng Quốc để tránh cuộc vật lộn khốc liệt vùng Bắc Cực. Nhưng khi người ta hỏi Ánh Sáng Ban Ngày bao giờ bỏ cười lớn và rằng chỉ khi nào chơi xong canh bạc. cũng thêm là chỉ có đứa ngốc mới nghỉ chơi khi thắng lớn. Hàng ngàn người trong số dân tìm vàng mới đến rất tôn sùng thần tượng và cho là Ánh Sáng Ban Ngày chẳng sợ cả. Nhưng Bettles, Dan McDonald và những tay kỳ cựu khác nghe thấy thế chỉ lắc đầu rằng có thứ sợ đó là đàn bà. Mà họ rất đúng. sợ đàn bà ngay từ khi mới mười bảy tuổi khi Queen Anne ở Juneau chòng ghẹo bằng cách tỏ tình công khai. Vấn đề này chẳng biết gì. Sinh trưởng trong khu mỏ nơi mà đàn bà rất hiếm và là điều bí mật, có chị em, mẹ lại mất khi mới là đứa bé chập chững, nên chưa bao giờ được tiếp xúc với họ. Ðúng là sau khi chạy trốn khỏi Queen Anne gặp những người đàn bà khác ở vùng sông Yukon và làm quen với họ. Ðây là những người đàn bà tiên phong theo gót những người đầu tiên đến vùng này tìm vàng. con cừu non khi với con sói cũng sợ hãi và run rẩy bằng lúc sóng đôi với họ. Việc với họ ra cũng chỉ là vấn đề tự ái đàn ông, và ráng giữ tư thế của mình đến nỗi tồi. Thế những đàn bà đối với vẫn là quyển sách đóng kín, và thích chơi bài xô lô hoặc bài bảy nút(1) bất cứ lúc nào có dịp. Ngay lúc này đây, khi là Vua của vùng sông Klondike và còn được biết đến với nhiều biệt hiệu vương giả khác như Vua vùng Eldorado. Vua vùng Lạch Thịnh Vượng. Ông chủ gỗ, ông hoàng của những kẻ tìm vàng, ấy là chưa kể đến tên gọi vinh dự nhất. Cha của những dân kỳ cựu, lại sợ đàn bà hơn bao giờ hết. Họ sẵn sàng giang rộng vòng tay vẫy gọi , và ngày càng có nhiều đàn bà đổ về đây. Bất cứ ở đâu, khi ngồi ăn tối ở nhà người phụ trách việc đăng ký mỏ, khi gọi rượu cho những người nhảy trong quán, hoặc khi được nữ ký giả của báo Mặt Trời ở Nữu Ước phỏng vấn, tất cả đám đàn bà đó đều giang tay mời gọi . Tuy vậy vẫn có ngoại lệ. Ðó là Freda, vũ nữ, người mà trước kia gởi tặng bột mì. là người duy nhất mà khi ở gần cảm thấy thoải mái, bởi vì bao giờ giang tay mời gọi . Vậy mà chính lại là người làm kinh hoảng (chỉ kém kinh hoảng của đối với những người đàn bà khác chút). Chuyện xảy ra vào mùa thu năm 1897. Lúc đó đường về sau khi kiểm tra vùng Lạch Henderson đổ vào sông Yukon phía dưới sông Tewart. Mùa đông ập đến nhanh, và phải cố vượt bảy mươi dặm dòng Yukon bằng chiếc canô mảnh mai giữa lúc nước bắt đầu đóng băng xốp và đẩy từng tảng trôi lềnh bềnh theo dòng nước. Sau khi men theo bờ bang cứng dọc theo mép sông, phóng canô qua chỗ sông Klondike đổ vào sông Yukon, cố tránh những tảng băng đổ về. Ngay lúc đó, thấy gã đàn ông đứng bờ băng cứng ở mép sông hốt hoảng chỉ tay xuống dòng nước và chìm dần trong lúc các tảng băng đổ tới. Lợi dụng lúc vùng nước xoáy ở cửa sông hơi lặng chút, vội phóng canô lại cửa sông hơi lặng chút, vội phóng canô lại chỗ đó, đưa tay nắm vai ta kéo lên canh cách gượng . Người phụ nữ ấy chính là Frenda. Mọi chuyện tưởng thế là xong, nào ngờ khi tỉnh dậy, quắc đôi mắt xanh và hỏi cách giận dữ: - Sao làm vậy? Trời ơi, sao lại làm như vậy chứ? Câu hỏi đó làm hết sức băn khoăn. Trong những đêm sau đó, thay vì quay ra ngủ liền theo thói quen? nằm thao thức, tưởng tương lại nét mặt và tia nhìn giận dữ của , suy nghĩ mãi về những lời . Những lời đó đầy vẻ thành , và trách móc của phải là giả dối. muốn những gì . cứ suy nghĩ mãi về điều ấy. Lần sau, khi gặp lại , quay cách giận dữ và khinh bỉ. Nhưng sau đó lại đến xin lỗi , và bóng gió về người đàn ông nào đó, ở đâu đó và vào lúc nào đó - tuy đầu đuôi ra sao cả - làm cho còn thiết sống nữa. Lời thẳng thắn nhưng thiếu mạch lạc, và cũng chỉ mang máng hiểu ra rằng câu chuyện đó - biết là chuyện như thế nào - xảy ra cách đó nhiều năm rồi. cũng mang máng hiểu rằng người đàn ông đó. Ðấy mới là vấn đề: tình . Nó rắc rối. Nó kinh khủng hơn cả cái đói và cái lạnh. Ðàn bà cũng được thôi, bởi vì họ cũng đáng và ưa nhìn. Thế nhưng lại có thêm cái nón tình này nữa. Nó làm cho họ héo hắt đến tận xương, làm cho họ trở thành vô lý đến độ chẳng ai có thể hiểu được là họ làm cái gì nữa cả. Cái người đàn bà tên Freda này chẳng hạn, tuyệt vời, thân hình tròn lẳn, xinh đẹp và chẳng u mê gì. Thế rồi tình đến và làm chua chát với mọi thứ đời, đưa đẩy đến Klondike, rồi buộc nhất quyết phải tự vẫn đến độ đâm ra căm ghét ngay cả người cứu mình. Từ trước tới nay, lẩn tránh tình như lẩn tránh bệnh đậu mùa vậy. Ấy thế mà nó vẫn có mặt ở đó, lây lan như bệnh đậu mùa, và có phần còn tệ hại hơn cả bệnh đậu mùa nữa. Nó bắt người ta - đàn ông cũng như đàn bà - phải làm những chuyện đáng sợ và nghịch lý. Nó cũng y như bệnh bị ma men hành, có điều còn tệ hại hơn nữa. Nếu , Ánh Sáng Ban Ngày, vướng vào nó cũng trở thành tệ hại như bao người khác mà thôi. Tột cùng của tình chỉ là điên loạn - điên loạn hoàn toàn - và là tréo ngoe. Ðã có đến cả nửa tá đàn ông phát điên lên vì Freda. Ai cũng đều muốn cưới làm vợ. Ấy thế mà lại điên lên vì gã đàn ông nào khác ở thế giới bên ngoài, và chẳng màng gì đến cái đám đàn ông ở thế giới trong này cả. Song chính Mộng Trinh mới là người làm cho kinh hoảng hoàn toàn. buổi tối người ta phát nàng nằm chết ở trong phòng. viên đạn xuyên qua đầu giết chết nàng. Nàng để lại bức thư hoặc lời giải thích nào cả. Rồi mọi người bắt đầu bàn tán. Có những kẻ hóm hỉnh khi phát biểu thay cho mọi người, cho rằng đó là trường hợp "quá mê" Ánh Sáng Ban Ngày. Nàng tự kết liễu đời mình vì . Tất cả mọi người đều hiểu và như vậy. Mấy tay phóng viên liền viết những bài thêu dệt, và lần nữa Ánh Sáng Ban Ngày, vua của vùng Klondike, lại được đến cách hết sức giật gân trong các tờ phụ trương Chủ nhật ở khắp Hiệp Chủng Quốc. Các bài báo rằng Mộng Trinh tu tỉnh - mà đúng như vậy. Từ khi từ thị trấn Vùng Cực đến đây, nàng bao giờ bước vào phòng nhảy trong vùng. Trước tiên nàng kiếm sống bằng cách giặt thuê. Sau đó nàng mua chiếc máy khâu và may áo trùm đầu cho đàn ông, mũ đông thú và bao tay da hươu. Rồi nàng xin vào làm kế toán trong ngân hàng đầu tiên ở Yukon. Tất cả những điều này và nhiều điều khác nữa được kể lại. Tuy nhiên những bài báo đều thống nhất ở điểm là, dù Ánh Sáng Ban Ngày là nguyên nhân về cái chết của người phụ nữ ấy, vẫn hoàn toàn vô tội về cái chết hợp lúc này. Ðiêu tệ hại nhất với Ánh Sáng Ban Ngày là biết rằng chuyện đó có . nhớ mãi cái đêm cuối cùng gặp nàng. Lúc đó chẳng nghĩ gì cả. Nhưng bây giờ nhìn lại, những chi tiết nhặt nhất của buổi gặp gỡ đó vẫn ám ảnh . Từ lúc xảy ra tấm thảm kịch này, hiểu hết mọi hiểu cái lặng lẽ, cái vẻ chắc chắn thầm lặng toát ra từ con ngươi nàng như thể tất cả những vấn đề rắc rối được dàn xếp và gác qua bên, hiểu cái dịu dàng như có lẫn tình mẫu tủ trong tất cả những lời và cử chỉ của nàng. nhớ lại cách nàng nhìn , cách nàng cười khi thuật cho nàng nghe về sai lầm của Mickey Dolan khi cắm khoảnh đất ở Thung lũng Skookum. Nụ cười của nàng có vẻ vui tươi nhưng thiếu vắng cái mạnh mẽ của những ngày xưa cũ. Chẳng phải nàng buồn hoặc muốn làm cho việc nghiêm trọng. Trái lại, ràng nàng rất hài lòng và tâm hồn nàng còn bị điều gì khẩy động nữa. Nàng vừa được , bởi vì quá ngốc nghếch. Thế mà lại tưởng rằng cái tình cảm nàng dành cho qua rồi, và vui vẻ nghĩ rằng từ nay về sau giữa họ chỉ còn có tình bạn và bị tình chen vào làm phiền nữa. Thế rồi khi đứng ở ngưỡng cửa, nón trong tay và chào nàng để về, vừa bối rối vừa buồn cười khi nàng cúi xuống hôn vào tay . Lúc đó có cảm giác như mình ngớ ngẩn lắm, nhưng lúc này khi hồi tưởng lại chuyện ấy rùng mình cảm thấy như làn môi của nàng còn đọng lại tay mình. Ðó là lúc nàng muốn lời vĩnh biệt với , thế mà đoán ra. Vào giây phút đó cũng như suốt buổi tối, lạnh lùng và cẩn thận như biết nàng trước kia, nàng quyết quyên sinh. Giá như lúc đó biết chuyện ấy? Tuy bị căn bệnh đương hành hạ, cũng cưới nàng nếu như biết chút ít gì về điều nàng suy nghĩ. Tuy vậy, cũng biết là nàng rất kiêu hãnh đến độ bướng bỉnh, và chắc chắn chịu cho cưới nếu đó chỉ là hành động vì nhân đạo. Vậy chẳng có cách gì cứu nàng được nữa. Cơn bệnh tình chụp trúng nàng và ngay từ đầu số phận định là nàng chết vì nó. Cơ hội duy nhất để cứu nàng là chính Ánh Sáng Ban Ngày cũng bị cơn bệnh tình chung trúng. Nhưng lại thoát được. Hơn nữa, nếu có bị vướng vào nó nữa, cũng vướng vào nó vì Frenda hay vì phụ nữ nào khác. Cũng như Dartworthy, chàng sinh viên cắm được khoảnh đất có nhiều vàng ở Lạch Thịnh Vượng phía khoảnh đất của Carmack. Mọi người đều biết rằng Bertha, con của lão Doolittle đến phát điên lên; thế mà khi vướng phải cơn bệnh tình , lại nhằm ngay đúng mụ vợ của lão Ðại tá Walthstone, chuyên gia đào vàng thuộc công ty Guggenhammer mà . Kết quả là có ba trường hợp điên loạn: Dartworthy bán tống bán tháo miếng đất vàng của mình chỉ lấy phần mười giá trị thực của nó; người đàn bà đáng thương hy sinh tự trọng và địa vị vững vàng trong xã hội để trốn với người tình con thuyền phong phanh xuôi dòng Yukon; cuối cùng là lão Ðại tá, miệng đe doạ là giết hết và phá hết, rượt theo họ chiếc thuyền khác. Toàn bộ tấn thảm kịch chỉ đợi giờ nổ ra đó trôi dọc theo dòng Yukon bùn lầy, vượt qua trại Bốn Mươi Dặm, qua cả thị trấn Vùng Cực, rồi biến mất vào vùng hoang dã phía trước. Mà đó cũng lại là tình đấy. Nó phá hoại cuộc sống của cả đàn ông lẫn đàn bà, đẩy họ vào chỗ chết và tận diệt, làm đảo lộn tất cả những thứ hợp lý và tất lành, biến những người đàn bà đạo đức thành dâm phụ hoặc đẩy họ vào chỗ tự tử, và biến tất cả những người đàn ông ngay thẳng chính trực thành những tên vô lại hoặc những kẻ giết người. Lần đầu tiên trong đời. Ánh Sáng Ban Ngày bị mất tinh thần. hoảng hốt cách tệ hại trông thấy. Ðàn bà là những sinh vật kinh khủng và xung quanh họ dầy đặc vi trùng . Mà họ lại quá bạo dạn, chẳng biết sợ là gì. Chuyện xảy ra với Mộng Trinh chẳng làm họ hốt hoảng. Họ lại càng giang rộng vòng tay mời gọi cách quyến rũ hơn bao giờ hết. Ngay cả khi chỉ xét về khía cạnh là người đàn ông, vừa quá tuổi ba mươi, khỏe mạnh, đẹp trai và hoà nhã, và đả động gì đến gia tài của , cũng đủ là miếng mồi để phần lớn các bà bình thường tranh nhau giành giật. Vậy mà thêm vào những nét đẹp mà trời ban cho lại còn có cả những giai thoại hào hùng và cả cái gia tài đồ sộ kia nữa cũng dễ hiểu tại sao tất cả những người đàn bà độc thân nào khi gặp cũng đều ve vuốt bằng đôi mắt sung sướng và thán phục, ấy là chưa kể có nhiều bà có nơi có chỗ mà cũng làm như vậy. Như những người khác có lẽ bị điều đó làm hư hỏng hoặc phát rồ lên rồi, nhưng chỉ thấy càng kinh hoảng hơn mà thôi. Kết quả là từ chối mọi lời mời đến nhà chơi nếu biết rằng ở đó có thể chạm mặt với đàn bà và chỉ lui tới chỗ của mấy chàng độc thân, hoặc lai vãng đến Quán Sừng Hươu, quán rượu có phòng nhảy. Chú thích: (1) Những lối chơi bài của người Mỹ
Chương 13 Vào mùa đông năm 1897, có sáu người làm việc ở vùng Dawson. Công việc khai mỏ dọc các con lạch tiến triển mau lẹ, và ở phía bên kia đường đèo còn khoảng trăm ngàn người nữa đợi mùa xuân đến kéo vào. Vào buổi chiều ngắn ngủi, đứng các bờ lạch cạn giữa Ðồi Pháp và Ðồi Skookum, ý nghĩ lớn lao chợt nảy ra trong đầu Ánh Sáng Ban Ngày. Phía dưới là vùng đất nhiều vàng nhất thuộc Lạch Eldorado, còn Lạch Thịnh Vượng trải dài hàng dặm trước mắt . Toàn bộ cảnh vật điêu tàn, cây cối các ngọn đồi bị đốn trụi, sườn đồi trần trụi lỗ chỗ những hố, nhiều đến độ tuyến phủ hết được. Phía dưới , trong mọi ngóc ngách là nhà ở, nhưng thấy có mấy người ở đó. màn khói phủ trùm khắp thung lũng biến cái ánh sáng xám của ngày thành màn tranh tối tranh sáng ảm đạm. Khói thoát lên từ hàng ngàn miệng hố đào tròng tuyết. Nơi đó, sâu trong lòng đất chỗ mặt đá ngầm, người ta bò lết, vừa cào vừa đào những lớp đất sỏi bị đóng băng, rồi lại đốt thêm lửa đế đất mềm ra. Ở những nơi người ta đào bố mới, lửa bỏ bập bùng. Những hình người từ trong hố bò ra, hoặc lại bò vào mất hút. Những người khác đứng các bục gỗ dùng tay quay ròng rọc kéo những xô đất sỏi được đốt nóng cho tơi ra từ đáy hố lên bờ. Ðám đất đó vừa lên đến mặt hố là đông cứng lại tiền. Khắp nơi đều ngổn ngang những đụng cụ đãi vàng được sử dụng trong mùa xuân vừa qua: hàng đống máng đãi, từng mảng bờ dẫn nước đắp cao, những bánh xe quạt nước khổng lồ - tất cả những thứ mà cả đạo quân săn vàng điên rồ bỏ lại. - cứ như chuột chũi đào hầm ấy, - Ánh Sáng Ban Ngày chợt to mình. nhìn những ngọn đồi trọc và nhận ra rằng biết bao nhiêu gỗ bị phí phạm. Nội cái chuyện nhặt này thôi cũng giúp hiểu được cái hỗn loạn khủng khiếp của việc đào bới điên cuồng của những người ở đây. Ðó là cả bất hợp lý lớn lao. Mỗi người chỉ lo làm cho mình nên kết quả là hỗn loạn. Trong cái vùng lắm vàng nhất này, để đãi được hai đô-la phải mất hết đô-la, và cứ mỗi đô-la lấy được bằng phương pháp đào như mê sảng và tính toán này lại có đô-la phải vùi xuống đất mà có hy vọng lấy lại. Chỉ cần năm nữa thôi, khi hầu hết các mảnh đất được khai thác xong, số vàng lấy lên ngang với số vàng bỏ lại. quyết định ngay là cần phải tổ chức lại. Trí tưởng tượng mau lẹ của liền hình dung cả vùng Lạch Eldorado, từ nguồn đến cửa sông, từ bờ núi bên này đến bờ núi bên kia, khi nằm trong những bàn tay điều hành có năng lực. Lúc đó ngay cả việc dùng hơi nước để làm mềm đất cũng chỉ là tạm bợ. Ðiều cần làm là dùng sức nước đẩy đất ở sườn đồi và các bờ lạch cạn cho rớt xuống lòng lạch rồi dùng tàu vét bùn đó lên mà đãi lại theo phương pháp mà nghe được áp dụng ở California. Vậy là còn dịp để khai thác vàng rất lớn. Trước kia tự hỏi hiểu tại sao công ty Guggen-hammer và các công ty khác lại phát chuyên gia lương cao vào vùng này. Hoá ra kế hoạch của họ là vậy. Ðó là lý do tại sao họ cứ gạ bán lại cho họ những khoảnh đất khai thác hết. Họ sẵn sàng để những tay chủ mỏ cò con đục khoét được tí nào hay tí nấy, bởi vì chắc chắn còn cả triệu triệu đô-la nằm lại trong lòng đất. Khi ngắm nhìn cái hoả ngục đầy khói mà con ngươi đào vàng cách thô sơ đó, hình dung được ván bài mà sắp chơi, trong đó mình đối chọi lại công ty Guggenhammer và tất cả các công ty khác. Tuy nhiên cùng với niềm vui trong cái kế hoạch mới này lại là mệt mỏi. chán ngấy những năm tháng dài dằng dặc ở vùng Bắc Cực này và bắt đầu tò mò vế thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chỉ nghe người khác kể lại và chẳng hiểu biết gì về nó cả. Hẳn là ở đó cũng có những canh bạc để cho được tham gia. Canh bạc lớn hơn nhiều, và chẳng có lý do nào lại tham gia vào đó khi trong tay có hàng triệu đô-la. Vì thế cho nên, chính vào buổi chiều đó, khi đứng đồi Skookum, quyết định ra khi chơi xong ván bài cuối cùng này ở Klondike. Công việc cũng mất nhiều thời gian. phái những nhân viên đáng tin cậy bám sát gót những chuyên gia, và ở bất kỳ vùng lạch nào họ mua đất là cũng mua. Mỗi khi họ tính độc quyền vùng lạch nào đó được khai thác xong họ lại thấy ngáng đường họ bằng cách chiếm lấy những vùng đất lớn hoặc những khoảng đất rời rạc nhưng được tính toán cách khéo léo để phá hỏng ý đồ của họ. - Tôi thắng các , phải ? - như vậy trong phiên họp căng thẳng với họ. Tiếp sau đó là chiến tranh, hoà hoãn, nhượng bộ, những chiến thắng và những thất bại. Vào năm 1898 ở Klondike có tất cả sáu mươi ngàn người và tất cả công việc làm ăn cũng như tài sản của họ phải bị điêu đứng hoặc ảnh hưởng ít nhiều bởi những cuộc chiến tranh mà Ánh Sáng Ban Ngày chủ động. Càng lao vào cuộc càng bị kích thích. đấu với công ty Guggehammer và thắng, thắng lớn. Trận căng nhất có mẽ là trận tranh chấp về vùng đất Ophir, cánh đồng hươu mà đất ở đó chứa ít vàng đến độ nó quý giá chỉ vì nó rộng lớn. Ở đây là có sẵn bảy khoảnh đất nằm chung khối và do đó có thế để đối địch với công ty Guggenhammer. Hai bên dàn xếp êm thắm được. Khi họ gửi tối hậu thư cho bảo rằng đủ sức mua đứt cả vùng đất rộng lớn như vậy, liền vung tiền ra mua nó với giá mà công ty Guggenhammer cũng dám trả. Kế hoạch khai thác là của , nhưng cũng thuê những tay kỹ sư có năng lực từ Hiệp Chủng Quốc đến giúp thực . Cách vùng đất Ophir tám mươi dặm có hồ nước Rinkabilly. biến nó thành bể chứa, và cho dựng đường dẫn nước bằng gỗ suốt từ đó về vùng đất Ophir. Số tiền dự chi cho bể chứa và đường dẫn nước là ba triệu đô-la, nhưng sau đó thực chi lên đến bốn triệu. ngừng lại ở đây, mà còn xây thêm nhà máy điện để chạy máy và thắp sáng. Những tay đào vàng kỳ cựu, tuy lúc này giàu quá mức họ mơ ước, cũng lắc đầu bi quan cho ràng phá sản và từ chối đầu tư vào kế hoạch phiên lưu và tốn kém như vậy. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày chỉ mỉm cười và bán hết các lô đất trong tỉnh còn lại để lấy tiền bán đúng lúc vì cơn sốt tìm vàng lên đến điểm cao nhất. Bởi vậy chẳng cần ai giúp cả, cũng có đủ tiền để làm đường dẫn nước, đóng tàu, tậu máy móc và lập tức làm cho vàng ở vùng Ophir phải xuất . Chính , người mà năm năm trước đây còn từ sông Indian vượt vách núi ngăn và lầm lùi bước trong cả vùng đất hoang vu lạnh lẽo, cả người lẫn chó đều mang vác theo kiểu thổ dân và sống nhờ thịt hươu như thổ dân, bây giờ cũng cũng chính lại nghe thấy tiếng còi hú gọi hàng trăm người ra làm cho , và thấy họ lao động trong ánh điện huỳnh quang chói sáng. Nhưng khi công việc xong, liền chuẩn bị rời bỏ vùng đất đó. Lúc bắn tiếng là ra ngoài, công ty Guggenhammer và các công ty , Pháp khác liền tranh nhau mua lại vùng đất Ophir và nha máy điện. Công ty Guggenhammer trả giá cao nhất. Tính ra với cái giá đó được lời chẵn triệu đô-la. Người ta truyền miệng nhau là lúc này phải có khoảng hai mươi đến ba mươi triệu đô-la. Chỉ mình mới biết là, sau khi bán khoảnh đất cuối cùng và nghỉ ngơi để đếm bạc, trong toàn bộ tời gian tuân theo linh cảm của mình thu được hơn mười triệu đô-la. Việc ra của cũng như những việc khác mà làm vào lịch sử của vùng sông Yukon. Toàn bộ dân vùng đó là khách của , và thị trấn Dawson là trung tâm của hoạt động vui chơi. Vào đêm cuối cùng đó có vàng của ai là có giá trị cả trừ vàng của . Rượu bán cho ai hết, mà được phục vụ tự do. Hết tốp phục vụ này đến tốp phục vụ khác thay nhau rót rượu mười khách. Ở tất cả các quán đều như thế. Bất kỳ ai từ chối hảo ý này và khăng khăng đòi trả tiền đều bị cả chục người phê bình. Ngay cả những kẻ mới chân ướt chân ráo đến đây tìm vàng cũng sẵn sàng đứng lên phản đối từ chối bất lịch đó để bảo vệ tên tuổi của Ánh Sáng Ban Ngày. Ðêm đó là đêm mà thị trấn Dawson chưa từng thấy. Ánh Sáng Ban Ngày muốn mọi người phải nhớ nó, và thành công. Ðêm đó hầu hết dân ở Dawson đều say khướt. Tuy trời vẫn còn độ tiết thu và vùng sông Yukon chưa đóng băng nhưng nhiệt độ cũng xuống đến hai mươi lăm độ dưới và còn xuống thấp hơn nữa. Cần phải tổ chức những đội tuần tra đường phố để lượm những kẻ quá say bị ngã lăn xuống tuyết. Nếu cứ để họ nằm như vậy trong tuyết chỉ giờ sau là họ chết ngay. Tuy Ánh Sáng Ban Ngày có ý muốn làm cho cả trăm ngàn người phải say, song chính lại là người đưa ra sáng kiến tổ chức những đội tuần tra đó. muốn cả thị trấn Dawson phải vui chơi đêm đó, nhưng là con người bản chất vốn thận trọng và quá trớn, cố gắng để xảy ra tai nạn nào cả. Ngày hôm sau, khi bình minh vừa hé rạng, cả thị trấn Dawson ra tiễn chân Ánh Sáng Ban Ngày. Dọc theo bờ sông là hàng ngàn người đầu đội mũ kín cả tai và tay đeo găng. Nhiệt độ xuống đến ba mươi độ dưới . Dọc bờ sông băng bắt đầu đóng cứng và dòng sông có những khối băng xốp trôi lềnh bềnh. Ðứng boong tàu Seattle, Ánh Sáng Ban Ngày vẫy thay chào từ biệt. Khi tháo dây cáp neo tàu và con tàu quay đầu ra giữa sóng những người đứng gần thấy mắt ứa lệ Theo cách nào đó, chia tay với quê hương của , vùng Bắc Cực, tuy khắc nghiệt nhưng lại là vùng đất duy nhất mà quen biết. giơ mũ ra vẫy vẫy: - Xin chào các bạn! - hét to - Xin chào tất cả các bạn! PHẦN II - Chương 1 Việc Ánh Sáng Ban Ngày đến San Francisco được đón chào nồng nhiệt. Chẳng phải chỉ riêng mà cả vùng Klondike cũng bị đưa vào quên lãng. Người ta bận chú ý đến những chuyện khác nên câu chuyện săn vàng ở Alaska, giống như cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, trở thành chuyện xưa tích cũ. Từ đó đến nay có quá nhiều chuyện xảy ra. Tin giật gân diễn ra hàng ngày, mà mặt báo chí có hạn. Việc bị quên lãng như vậy dẫu sao cũng có tác dụng kích thích. Việc nhân vật tầm cỡ trong canh bạc vùng Bắc Cực như , với quá khứ đầy huyền thoại và nằm trong tay cả mười triệu đô-la, lại được ai chú ý đến lên điều là ở nơi đây canh bạc còn lớn hơn nhiều. Ánh Sáng Ban Ngày thuê phòng ở khách sạn Thánh Francis. được vài phóng viên cò con chuyên săn tin về các khách sạn phỏng vấn và được nhắc đến lần vài tờ nhật báo bằng vài dòng ngắn gọn. chỉ cười thầm về chuyện đó và bắt đầu làm quen với trật tự mới. có vẻ rất vụng về song cũng rất trầm tĩnh. Cộng thêm vào cái vẻ chững chạc của người biết rằng mình nắm trong tay mười triệu đô-la là tự tin mạnh mẽ. gì có thể làm bối rối. lộng lẫy, nếp văn hoá và quyền lực xung quanh làm hoảng sợ. Ðối với , tất cả những điều ấy cũng chỉ là kiểu hoang vu mới mà phải học để nhận biết các dấu hiệu của nó, đâu là đường , đâu là hố nước, nhằm tìm ra đâu là vùng đất săn tốt và để tránh khỏi sa vào bãi lầy. Cũng như trước kia, vẫn ngại đàn bà. vẫn sợ họ cách thảm hại và dám quan hệ mật thiết với những sinh vật bóng bẩy hào nhoáng mà mười triệu đô-la cho phép tiến lại gần. Họ nhìn cách thèm muốn, nhưng che đậy nhút nhát của mình tài tính đến nỗi mọi người cứ tưởng rất tỉnh. Mà chẳng phải chỉ có gia tài thu hút họ. rất đàn ông, giống như những người đàn ông khác. Còn trẻ chưa đầy ba mươi sáu tuổi, rất đẹp trai, khỏe mạnh và tràn trề nam tính, bước phúng túng rất lạ với các vỉa hè, ánh mắt đen láy gợi nhớ về các vùng trời bát ngát chứ mỏi mệt như ánh mắt của thị dân sống cuộc đời tù túng, tất cả những điều ấy khiến đám phụ nữ cứ phải ngoái cổ nhìn theo cách tò mò. thấy tất cả những cái nhìn đó, nhưng chỉ cười thầm, và coi chúng như những hiểm nguy mà phải dè chừng bằng vẻ lạnh lùng còn hơn là khi đối phó với cái đói, cái rét và lụt lội. đến Hiệp chủng Quốc là cốt để chơi canh bạc của những người đàn ông, chứ phải để gió hớt với đàn bà. Thế mà vẫn chưa hiểu bọn đàn ông ở đây. Họ lam ngạc nhiên vì vẻ mềm yếu - mềm yếu về thể chất, nhưng đoán bên trong cái vẻ mềm yếu đến độ khúm núm đó là tính toán khắc nghiệt. Họ cũng làm ngạc nhiên vì vẻ bất ổn như mèo. Khi gặp họ trong các hội quán, tự hỏi biết cái tình thân mà họ biểu lộ đến mức nào và biết lúc nào họ giương vuốt nhanh mà cào mà xé - Ðấy mới là vấn đề cần bàn, thường tự nhủ - Họ làm gì đây khi cuộc chơi đến hồi quyết liệt. cảm thấy nghi ngờ họ mà sao giải thích được - Nhất định là họ rất khôn khéo, - kín đáo đánh giá họ như vậy. Từ những điều nghe lỏm được, biết là mình đánh giá đúng. Tuy vậy, nhìn bề ngoài họ vẫn có vẻ đàn ông và thẳng thắn trong luật chơi, tính cách gắn liền với đàn ông. Họ có thể cào xé cách hết sức tự nhiên, nhưng vẫn cảm thấy rằng dẫu sao họ cũng cào xé theo đúng luật chơi. Ðấy là ấn tượng có về họ, khái quát hoá đạt được sau khi loại số phần trăm bọn vô lại lẫn lộn trong đám họ. Nhiều tháng trôi qua ở San Francisco. Trong suốt thời gian đó, nghiên cứu cuộc chơi và luật chơi để chuẩn bị tham gia. cũng kín đáo học lại tiếng và thành công trong việc tránh những lỗi tệ hại nhất, tuy rằng trong những khi cao hứng vẫn sai ngữ pháp như trước. cũng học cách ăn, mặc, cách đứng theo lối thị thành. Tuy thế, dưới cái lớp vỏ đó vẫn là , quá coi trọng và lệ thuộc vào ý kiến của người khác, và luôn mạnh dạn gạt qua bên những ước thúc xã hội quá tinh tế đến độ gò bó tới mức có nhiều người cũng phát bực vì . Khác với những người yếu đuối từ những vùng xa xôi hẻo lánh đến đây, chẳng thèm tôn sùng những thần tượng bằng thiếc mà các bộ lạc người văn minh thường tôn sùng. Trước kia thấy nhiều vật tổ rồi, và đánh giá chúng đúng với bản chất của chúng. Chán làm kẻ ngoài cuộc, bèn đến Nevada, nơi mà con sốt khai thác vàng bắt đầu lên cao điểm, mục đích là để - theo cách dùng từ của - chơi cho nó cú. Cú chơi của ở Thị trường Chứng Khoán Tonopah chỉ kéo dài có mười ngày. Trong thời gian đó, vung tiền ra chơi loạn và đè bẹp các tay chơi quy củ khác. Cuối cùng sau khi mua đứt vùng mỏ Floridel, bán nó và thu về được đúng nửa triệu đô-la tiền lời. Sau khi chép miệng như vừa ăn xong bữa ngon lành, trở về khách sạn Thánh Francis ở San Francisco. Cú chơi vừa qua rất mỹ mãn và càng muốn được chơi thêm nhiều cú khác. lần nữa, các báo lại đăng những bài giật gân về . Cái tên Ánh Sáng Ban Ngày lại được in bằng chữ khổ lớn. Người ta đổ xô đến để phỏng vấn. Những chồng báo và tạp chí cũ lại được giở ra xem lại, và cái chàng Elam Harnish hào hùng, kẻ phiêu lưu trong băng tuyết, Vua của vùng Klondike, cha của những dân đào vàng kỳ cựu lại chễm chệ bàn ăn sáng sủa hàng triệu gia đình cùng với bánh mì nướng và các thức ăn khác. Ngay lúc bản thân còn phân vân bị quẳng vào cuộc chơi rồi. Các nhà tài chính và các tay cổ đông cũng như tất cả các tay đầu cơ cặn bã khác đổ xô vào cái đống mười triệu đô-la của . Ðể tự bảo vệ, buộc phải mở văn phòng giao dịch. làm bọn họ ngồi thẳng dậy mà chú ý đến . Bây giờ họ chia bài đòi tham gia cuộc chơi dù muốn dù cũng phải dự phần. Vậy chơi và cho họ biết tay, mặc dù có nhiều tờ báo, sau khi mô tả như kẻ tóc quăn, có dáng vẻ rừng rú và cách chơi quê mùa thô lậu của , lại cao hứng tiên đoán là chẳng mấy chốc bị lột sạch. Trước tiên, đầu tư vào những chuyện làm ăn nhặt - Phải chơi thời , - như thế với Holdsworthy, người bạn mới quen ở câu lạc bộ Alta-Pacific. Chính Hodlsworthy tiến cử làm hội viên của câu lạc bộ đó. Ánh Sáng Ban Ngày rất cẩn thận, bởi lẽ cũng hoảng khi thấy quanh mình có quá nhiều tay đại tài phiệt mà gọi là "con cá mập cạn". hiểu các ý đồ của chúng, và tự hỏi sao bằng đó tay cá mập lại có thể tìm đủ mồi. Tính đểu cáng và khó tin của chúng lộ đến nỗi hiểu tại sao lại có người bị chúng lừa được. Càng ngày càng thấy có nhiều tay tài phiệt cá mập hơn. Holdsworthy đối đãi với như người em hơn là chỉ thuần tuý như người cùng hội. ta để ý cho , khuyên bảo và giới thiệu với các bậc đàn trong giới tài chính địa phương. Gia đình Holdsworthy sống trong căn nhà tầng xinh xắn có hiên rộng ở ngần công viên Menlo(1) Ánh Sáng Ban Ngày thường đến đây vào các ngày cuối tuần để hưởng cái khí ấm cũng của đời sống gia đình mà chưa bao giờ tưởng tới. Holdsworthy rất hoa và khá say mê việc nuôi gia cầm để tranh giải. Ánh Sáng Ban Ngày cảm thấy vui vui mỗi khi ngắm nhìn say mê thích này của chủ nhà, bởi vì những điểm yếu đáng này chứng tỏ lành mạnh của ta và ngày càng kéo hai người lại gần nhau hơn. Ánh Sáng Ban Ngày nhận xét ta là nhà kinh doanh thành công và khá giả nhưng có tham vọng lớn, là người dễ dàng bằng lòng với những canh bạc cò con và đủ sức chơi những canh bạc lớn. Vào ngày cuối tuần nọ. Holdsworthy giới thiệu với chuyện làm ăn , lò gạch trong thung lũng Ellen. Ánh Sáng Ban Ngày chăm chú nghe mô tả vị thế của lò gạch. Ðó là chuyện làm ăn rất hợp lý và Ánh Sáng Ban Ngày chỉ phản đối mỗi điểm là nó có tính chất cò con và nằm quá xa ngoài các dự định làm ăn của mình. đồng ý tham gia vào chuyện đó chỉ vì tình bạn. Holdsworthy rằng bản thân ta cũng có phần hùn trong đó và nghĩ rằng, vì nó mang lại lợi nhuận, ta buộc được Ánh Sáng Ban Ngày phải bớt ra chút đỉnh tiền từ các hướng đầu tư khá để tham gia vào chuyện này. Ánh Sáng Ban Ngày bỏ ra năm mươi ngàn đô-la. Sau này khi về chuyện ấy, vừa cười vừa giải thích: "Ðúng là tôi bị lừa, nhưng phải Holdswothy mà là những con gà và những bông hoa quỷ quái của lừa tôi. Dẫu sao đó cũng là bài học hay dạy rằng trong thế giới làm ăn thể cả tin nhau được". Ngay cả tin tưởng đơn giản giữa những người cùng ngồi chung mâm với nhau cũng biến mất khi họ cần lừa nhau để đổi cái trại gạch bỏ lấy năm mươi ngàn đô-la. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cho rằng bọn cá mập lớn có có chỉ nằm bề mặt mà thôi. Ở sâu phía dưới vẫn là bền vững và tính nhất quán. Bởi vậy vẫn quyết định là mình cần phải làm việc chung với các tay lãnh đạo công nghiệp và tài chánh cỡ bự đó, vì dù sao tính chất của việc làm ăn lớn buộc họ phải chơi ngay thẳng. có chỗ cho những trò lưu manh vặt vãnh. Dĩ nhiên là có những tay làm ăn cò con sẵn sàng làm hàng giả như để lừa bán cho bạn bè như trong vụ cái lò gạch bỏ kia, nhưng trong giới kinh doanh cao cấp, những mánh khoé đó mang lại nhiều lợi lộc. Canh bạc của những kẻ tham gia vào việc mở mang đất nước, tổ chức đường xe lửa, khai mỏ lấy quặng nhất định phải lớn và cần ổn định - Ðương nhiên họ dám áp dụng chiến thuật lường gạt - Ánh Sáng Ban Ngày kết luận như vậy. Bởi vậy quyết định tránh giao dịch với bọn cò con kiểu Holdsworthy. Tuy vẫn vui vẻ với họ, kết thân với ai cả. Chẳng phải là ghét gì bọn họ, kiểu những người trong Câu lạc bộ Alta-Pacific chẳng hạn. chỉ chọn họ làm kể chung hùn vốn với mình trong canh bạc lớn tính chơi mà thôi. Canh bạc này như thế nào vẫn chưa biết. đành chờ đợi, và trong khi chờ đợi, đành đầu tư vào những kế hoạch nho chẳng hạn như việc cải tạo đất cằn cỗi và mở mắt chờ cơ hội làm ăn lớn đến là chụp lấy ngay. Rồi , gặp John Dowsett, cái lão Jonh Dowsett nổi tiếng đó. ràng đây chỉ là chuyện tình cờ, và Ánh Sáng Ban Ngày cũng biết như vậy. Lúc còn ở Los Angeles, nghe có giống cá ngừ California dư cư về vùng đảo Santa Catalina nên ghé lại đó thay vì thẳng về San Francisco như dự tính. Ở đây gặp John Dowsett, lúc này nghỉ lại đó vài ngày giữa chuyến bay về miền Tây. Dĩ nhiên Dowsett cũng nghe về ông Hoàng vùng sông Klondike độc đáo và tin đồn về số bạc ba mươi triệu đô-la của rồi. Hai người làm quen với nhau, và Dowsett rất chú ý đến Ánh Sáng Ban Ngày. Vào những ngày mới quen này, trong đầu Dowsett chợt nảy ra ý định, nhưng lão vội về nó mà có ý đợi đến lúc nó tự chín muồi. Do đó lão chỉ trao đổi những chuyện chung chung, và cố tỏ ra đáng mến để tranh thủ tình cảm của Ánh Sáng Ban Ngày. Dowsett là nhân vật có tầm cỡ đầu tiên mà Ánh Sáng Ban Ngày được thực diện. như bị mê hoặc và lấy làm thích thú. Ở con người đó có vẻ tốt bụng thương người và dân chủ hoà đồng đến nỗi khó mà nhận ra được đấy chính là John Dowsett, người đứng đầu của loạt ngân hàng và hà ng bảo hiểm đồng minh của những đại diện công ty xăng dầu và công ty Guggenhammer. Cứ nhìn lão cũng đủ biết lão là người như thế nào. Thể chất của lão đảm bảo tất cả những gì Ánh Sáng Ban Ngày biết về lão. Tuy tuổi lục tuần và tóc bạc trắng, lão vẫn bắt tay cách mạnh mẽ thân tình. Lão có vẻ già yếu, dang nhanh gọn, bước nào ra bước nấy. Nước da lão hồng hào khỏe mạnh, và đôi môi mỏng thanh biết nhếch lên cách chân tình khi nghe câu đùa. Mắt lão màu xanh nhạt, ngay thẳng, núp dưới hai hàng lông mày rậm luôn chiếu vào người đối diện những tia nhìn chăm chú, thẳng thắn. Ðầu óc lão rất trật tự và có kỷ luật, chính xác như cái bẫy thép đến nỗi Ánh Sáng Ban Ngày phải kinh ngạc. Lão chính là người biết việc phải làm và thèm nguỵ trang kiến thức của mình bằng những thứ tình cảm hoa hoè hoa sói vớ vẩn. Trông lão là người quen ra lệnh, mỗi lời hay cử chỉ đều toát lên vẻ uy quyền. Thêm vào tất cả cái đó là tính thông cảm và khéo léo, và Ánh Sáng Ban Ngày có thể dễ dàng phân biệt lão với những kẻ có tính cách kiểu Holdsworthy. cũng biết cả tiểu sử của lão, thuộc gốc người Mỹ lâu đời và từng tham gia chiến tranh, biết bố của lão từng là cột trụ vững chắc cho nghiệp của Mỹ Quốc, làm Thiếu tướng Hải Quân trong cuộc chiến tranh năm 1812, sau lên Ðại tướng tiếng tăm lừng lẫy, và ông nội lão là điền chủ có nô lệ thuộc vùng New England thuở xưa. - Ông ấy mới là thứ thiệt, - Ánh Sáng Ban Ngày về sau với trong những hội viên Câu lạc bộ Alta-Pacific khi ở phòng hút thuốc - cho cậu biết Gallon ạ, ông ta làm tớ giật mình. Tớ vẫn biết những tay làm ăn lớn phải như thế, nhưng tớ phải tận mắt nhìn mới hiểu hết họ như thế nào. Ông ta là con người hành động. Cứ nhìn ông ta là biết liền. ràng là trong cả ngàn người mới kiếm được người như vậy, tất đáng để mình cộng tác. Canh bạc mà ông ta chơi biết đâu là giới hạn. Cậu có thể cuộc chắc là ông ta chơi theo lối được ăn cả ngã về . Ðược hoặc thua lúc năm, bảy triệu đô-la cũng làm ông ta chớp mắt. Gallon cứ bập bập điếu xì gà, và sau khi Ánh Sáng Ban Ngày kết thúc lời ngợi khen John Dowsett, đưa mắt nhìn cách tò mò. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày quay qua gọi ly rượu cocktail nên chú ý đến cái nhìn đó. Gallon : - Chắc với lão ta tham gia vào chuyện gì rồi phải ? - , tớ nghĩ đến chuyện ấy. Chỉ thuần tuý là cảm thông nhau mà thôi. Tớ chỉ muốn giải thích cho cậu hiểu là tớ khám phá những tay sừng sỏ đó làm ăn như thế nào mà thôi. Cậu biết , ông ta cho tớ cảm giác là ông ta hiểu biết mọi chuyện đến độ tớ phải phát thẹn - Sau hồi trầm ngâm, tiếp: - Nếu có phải điều khiển xe trượt tuyết tớ cũng chỉ dẫn lại cho ông ta ít nhiều. Mà nếu có khi đánh bài, hoặc đãi vàng, hoặc chèo thuyền chắc chắn ông ta khốn đốn vì tớ mất. Mà cũng có thể cuộc chơi ở đây khó khăn bằng cuộc chơi mà tớ tham dự ở phương Bắc. Chú thích: (1) Menlo Park (Công viên Menlo): thành phố ở phía Tây của bang California, phía Ðông Nam của thành phố cảng San Francisco. Chương 2 Sau đó ít lâu, Ánh Sáng Ban Ngày Nữu Ước John Dowsett vừa gửi thư cho . Lá thư đánh máy vỏn vẹn có vài dòng nhưng làm phấn kích cách kỳ lạ. nhớ lại phấn kích của mình lúc còn là cậu bé mười lăm tuổi non nớt khi nghe Tempas Butte, vì thiếu tay chơi thứ tư là Tom Galsworthy, với : "Ngồi vào chơi , " - phấn kích đó lúc này sống lại trong . Nhận dòng chữ đánh máy trần trụi như chứa đựng những điều kỳ bí: "Ông Howison ở chỗ chúng tôi đến gặp ông tại khách sạn. Ông ta là người đáng tin cậy. Chúng ta tiện gặp nhau công khai. Ông hiểu mọi chuyện sau khi chúng ta trao đổi". Ánh Sáng Ban Ngày đọc đọc lại mấy dòng chữ ấy. Vậy là cuộc chơi lớn xuất , và hình như người ta giang tay mời tham dự. Nếu phải vì chuyện đó người chẳng khẩn cấp cầu người khác phải làm chuyến dài băng ngang đại lục như vậy. Họ gặp nhau - nhờ có ông Howison "ở chỗ chúng tôi" - trong ngôi nhà nghỉ mát lộng lẫy ở miền quê phía sông Hudson. Theo lời chỉ dẫn, Ánh Sáng Ban Ngày đến đó bằng chiếc ô tô riêng mà người ta cho mượn. biết chủ xe là ai, mà thậm chí ngay cả chủ nhân ngôi biệt thự với những thảm cỏ bát ngát có những hàng cây cao đó cũng biết nốt. Khi đến chơi, Ánh Sáng Ban Ngày thấy Dowsett và người đàn ông khác đợi sẵn ở đó. Chẳng cần giới thiệu cũng biết người đàn ông ấy là ai. Ðó chính là Nathaniel Letton. thấy hình ông ta cả chục lần báo chí và đọc nhiều bài viết về vị trí của ông ta trong giới tài phiệt và về ngôi trường Ðại học ở Daratona do ông ta tài trợ. Vẻ quyền lực toát lên từ con người của ông ta cũng gây ấn tượng mạnh trong , nhưng hơi bối rối khi thấy rằng giữa ông ta và Dowsett chẳng có gì giống nhau cả. Trừ cái vẻ sạch - sạch đến tận những tế bào trong người - còn ngoài ra hai người khác nhau về mọi phương diện. Thân hình gầy ốm xanh xao, trông ông ta như ngọn lửa nguội lạnh, bí mật, loại lửa hoá học, thế nhưng người ta lại có cảm giác là sau lớp vỏ băng giá đó toát ra sức nóng của hàng ngàn mặt trời. Chính đôi mắt xám mở to của ông ta khiến người ta có cảm giác ấy. Chúng như cháy bỏng giữa khuôn mặt gần như của người chết, gầy guộc, nước da trắng như sáp, đục lờ lờ trông kinh khủng. Tuy chưa đến năm mươi tuổi nhưng mái tóc lưa thưa màu xám thép làm ông trông già hơn Dowsett đến mấy lần. Nhưng Nathaniel Letton rất tự chủ. Ánh Sáng Ban Ngày thấy điều đó. Ông ta là người khắc kỷ, mặt xương xương, thầm lặng đến yếu đuối, trông hệt như hành tinh lỏng nằm dưới lớp băng liên lục địa. Ánh Sáng Ban Ngày có ấn tượng mạnh nhất về cái vẻ sạch đến kinh khủng của ông ta. Trong người ông ta có cặn bẩn, như thể ông ta được gột sạch bằng lửa vậy. Ánh Sáng Ban Ngày có cảm tưởng là ngay tiếng chửi thề lành mạnh làm ông chối tai như lời phạm thánh. Họ uống rượu. Nathaniel Letton dùng nước khoáng do người hầu trong nhà rót từ chiếc máy bấm nút rất êm. Dowsett dùng rượu Scotch pha xô đa, còn Ánh Sáng Ban Ngày uống ly cocktail. ai chú ý đến rượu Martini bất thường vào lúc nửa đêm này, dù rất muốn thấy điều ấy. Ðã từ lâu biết rằng chỉ nên uống các loại rượu Martini vào những nơi và giờ nhất định. Nhưng rất thích loại rượu Martini, và vốn là con người thoải mái nên cố tình uống theo sở thích của mình. Những người khác đều chú ý thấy thói quen lạ lùng đó của , nhưng Dowsett và Letton . thầm nghĩ trong đầu là giá mà có gọi ly rượu tinh chất nặng họ cũng chẳng buồn chớp mắt. Lúc họ uống rượu Leon Guggenhammer đến. ta cũng gọi ly Scotch. Ánh Sáng Ban Ngày chăm chú quan sát ta. Ðây là thành viên của gia đình Guggenhammer nổi tiếng, tuy còn trẻ nhưng vẫn là trong những kẻ mà từng đọ sức ở phương Bắc. Leon Guggenhammer cũng quên chuyện cũ. ta ngợi khen dũng khí của : "Tiếng vang của vụ Ophir đến tận chỗ chúng tôi và tôi phải thú nhận, thưa ông Ánh Sáng Ban Ngày… À thưa ông Elam Harnish, là ông quay cho chúng tôi mẻ ra trò". Tiếng vang! Ánh Sáng Ban Ngày khỏi giật mình khi nghe Leon Guggenhammer dùng những từ đó. Trận đánh mà tầm cỡ đó chỉ là cuộc tập kích mà họ hạ cố nhận là có nghe tiếng vang của nó - Hẳn là cuộc chơi ở đây phải rất lớn, - kết luận như vậy, và đồng thời cảm thấy vui vì được mời dự phần vào chính cuộc chơi đó. Trong thoáng tiếc rằng những lời đồn đại đúng là chỉ có mười triệu đô-la chứ phải ba mươi triệu. Mà cũng sao, thẳng thắn về chuyện đó. bảo cho họ biết khả năng của chỉ mua được bao nhiêu tấm thẻ chơi bài. Leon Guggenhammer còn trẻ và mập mạp, đúng ba mươi tuổi, gương mặt ta trừ hai vệt thâm quầng nằm dưới mắt, láng mướt vết nhăn như mặt của cậu thanh niên. ta cũng cho người khác cảm tưởng về sạch . Người ta khỏe mạnh hồng hào. Chỉ nhìn làn da cạo nhẵn thín và tì vết cũng đủ thấy điều đó. Có nước da như vậy cái chuyện mập mạp và phệ bụng là tự nhiên. Thân thể ta được cấu tạo để phát phì, giản dị vậy thôi. Sau khi Guggenhammer về cuộc đua thuyền quốc tế sắp tới và chiếc thuyền lộng lẫy của ta, chiếc Electra, tuy mới được trang bị máy mà hoá ra cổ lỗ rồi, câu chuyện bắt đầu bàn về việc làm ăn. Dowsett về kế hoạch chung, hai người kia lâu lâu lại xen vào. Còn Ánh Sáng Ban Ngày chỉ lo hỏi. Bất kỳ kế hoạch làm ăn gì nữa cũng cần phải mở to mắt. Họ bày ra trước mắt tất cả cái viễn tưởng thực tế của những điều họ có trong đầu. - Họ tưởng tượng nổi là ông cộng tác với chúng tôi, - Guggenhammer chen vào, như để khái quát hoá lại vấn đề sau khi bàn xong, đôi mắt đẹp Do Thái của ta ánh lên vẻ nhiệt tình - Họ nghĩ là ông chơi lẻ theo kiểu hải tặc. Nathaniel Letton cũng , vẻ nghiêm trọng: - Mong ông hiểu cần thiết phải giữ tuyệt mật quan hệ giữa chúng ta. Ánh Sáng Ban Ngày gật đầu. - Và cũng mong ông hiểu cho là chúng ta chỉ có lợi, - Letton tiếp - Mọi chuyện đều đúng đắn và hợp pháp. Chỉ có những đứa đầu cơ chứng khoán mới bị thiệt mà thôi. Chuyện này dính dáng gì đến chuyện phá rối thị trường cả. Việc ông nâng giá chứng khoán có lợi cho những kẻ đầu tư lương thiện. - Vấn đề chính là ở chỗ đó, - Dowsett - Nhu cầu về đồng tiền thị trường tăng. Mỏ đồng ở thung lũng Ward cùng tất cả những gì liên quan đến nó, mà như tôi vừa với ông, cung cấp phần tư sản lượng thế giới, là vấn đề lớn. Lớn như thế nào ngay cả chúng tôi ủng khó mà ước đoán nổi. Chúng tôi tính toán cả rồi. Vốn chúng tôi cũng có sẵn, nhưng chúng tôi vẫn muốn có thêm. Vả lại, cổ phần mỏ đồng nằm quá nhiều trong tay người ngoài, phù hợp với những kế hoạch tại của chúng ta. Như vậy chỉ bằng phát đạn là chúng ta có thể giết cả hai con chim… - Và các ông dùng tôi làm phát đạn đó chứ gì? Ánh Sáng Ban Ngày vừa cười vừa chen vào. - Ðúng thế. Ông chỉ đầu cơ nâng giá cổ phần mà còn mua gom các cổ phần đó nữa. Ðiều này có lợi vô kể đối với chúng tôi, mà ông cũng có phần. Vả lại, như ông Letton vừa , chuyện làm ăn này cũng ngay thẳng và hợp pháp thôi. Vào ngày mười tám này, ban giám đốc họp và thay vì tuyên bố mức lãi cổ phần như thường lệ, họ tuyên bố nâng gấp đôi mức lãi đó. - Mà nhắm có đứa nào chịu bán chứ!- Leon Guggenhammer nóng nảy hỏi. - Bọn chuyên đầu cơ bán khi thấy ta chịu mua cao giá, - Nathaniel Letton giải thích - Ðó là những tay cờ bạc ăn xổi ở của phố Wall. Những người đầu tư đứng đắn chẳng mất mát gì. Hơn nữa, cứ theo như kế hoạch của chúng ta mà tiến hành dạy cho bọn chúng phải biết tin tưởng vào Công ty đồng thung lũng Ward. Với tin tưởng đó, chúng ta dễ dàng thực các dự án phát triển mà chúng tôi vừa trình bày với ông. - có nhiều tin đồn đấy - Dowsett cảnh giác Ánh Sáng Ban Ngày trước - Nhưng xin ông đừng hoảng hốt. Nhiều khi chính chúng tôi tung ra những tin đồn đó. Rồi ông hiểu vì sao. Chỉ mong ông đừng bận tâm đến chúng. Ông là người trong cuộc. Việc ông cần làm là thu mua, thu mua từ nay cho đến khi ban giám đốc tuyên bố nâng mức lời cổ phần lên gấp đôi. Sau thời điểm đó, giá cổ phần đồng thung cũng Ward vọt cao, mua có lợi - Ðiều chúng tôi muốn, - Letton phụ hoạ, sau khi cố ý ngừng lại nhấp ngụm nước khoáng - Ðiều chúng tôi muốn là thu lại phần lớn các cổ phần nằm trong tay người ngoài. Dĩ nhiên chúng tôi có thể làm chuyện này cách dễ dàng bằng cách kềm giá làm cho họ phát hoảng. Làm theo cách đó rất rẻ. Nhưng chúng tôi làm chủ tình thế và muốn sòng phẳng bằng cách mua lại cổ phần đồng khi giá lên. Chẳng phải chúng tôi nhân đạo gì, song chúng ta cần họ đầu tư thêm cho công cuộc phát triển sau này. Vả lại chúng ta cũng bị thiệt cách trực tiếp đâu. Ngay sau khi quyết định của ban giám đốc được công bố, giá cổ phần vọt đến tận trời. Như vậy bằng cách bất hợp pháp chúng ta cũng moi được của bọn đầu cơ số tiền lớn. Nhưng đấy chỉ là chuyện tình cờ, và, như cũng hiểu đấy chỉ là chuyện chẳng đặng đừng. Mà cho ngay, chúng ta cũng thể để bọn đầu cơ thao túng mãi được. Chúng là những con bạc dĩ nhiên thể hưởng cái mà chúng đáng được hưởng. - Còn điều này nữa, thưa ông Harnish,- Guggenhammer - Nếu số tiền bỏ ra mua cổ phần vượt quá số tiền ông có, hoặc vượt quá số mà ông định bỏ ra cho việc này mong ông đừng quên cho chúng tôi biết. Mong ông nhớ cho rằng chúng tôi luôn ở sau ông. Dowsett cũng lập lại: - Ðúng thế. Chúng tôi luôn luôn ở sau ông. Nathaniel Letton cũng gật đầu xác nhận. - Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề nâng giá lời 200 cổ phần gấp đôi vào ngày mười tám sắp tới - Dowsett vừa vừa rút từ quyển sổ tay mảnh giấy và sửa lại gọng kính - Tôi xin cung cấp cho ông vài con số. Ðây, ông hãy xem… Ðoạn lão giải thích về lịch sử thành lập và những vấn đề liên quan đến lợi nhuận và việc phân chia lợi nhuận theo cổ phần trong Công ty đồng thung lũng Ward. Toàn bộ cuộc họp kéo dài quá tiếng đồng hồ. Trong suốt khoảng thời gian này Ánh Sáng Ban Ngày như sống ở đỉnh cao của cuộc đời mình. Ðây là những tay làm ăn tầm cỡ, rất có thế lực. biết họ chưa thuộc về vòng trong, chưa thể xếp ngang hàng với những tay kiểu Morgan và Harriman. Tuy vậy họ cũng thường tiếp xúc với những tay khổng lồ đó, và bản thân họ cũng là những tay khổng lồ cấp thấp hơn. cũng rất bằng lòng với thái độ của họ đối với thái độ vị nể, chứ theo kiểu ban ơn. Ðó là thái độ vị nể giữa những người ngang bằng, và Ánh Sáng Ban Ngày cảm thấy tự ái được ve vuốt, bởi vì cũng hiểu rằng so về kinh nghiệm lẫn tài sản họ vượt xa . - Chúng ta làm rung chuyển toàn bộ thế giới đầu cơ - Lon Guggenhammer hí hửng tuyên bố khi họ đứng dậy ra về - Mà ông chính là người làm chuyện đó, thưa ông Harnish. Họ tưởng bở là ông đơn thương độc mã làm việc này và mài kéo để thịt ông như thịt các tay mới đến khác. - Chắc chắn họ nhầm - Letton đồng ý, cặp mắt sáng kỳ quái sáng lên giữa những nếp gấp lớn của chiếc khăn choàng khổng lồ mà ông ta quấn kín cổ lên đến tận tại - Họ chỉ có thể suy luận theo những vết mòn. Những cái bất ngờ làm đảo lộn tất cả tính toán theo công thức cho sẵn của họ, dù là cơ cấu mới, yếu tố lạ hoặc biến chuyển lạ. Ông là tất cả những cái đó đối với họ, thưa ông Harnish. Tôi xin nhắc lại, họ chỉ là những con bạc và rất đáng gánh chịu tất cả những gì xảy đến với họ. Họ gây trở ngại cho chuyện làm ăn chính đáng. Ông thể tưởng được bọn đó quấy rầy chúng tôi đến mức nào đâu. Ðôi khi, bằng những mánh khoé cờ bạc của họ, họ đảo lộn ngay cả những kế hoạch hay ho nhất, và cả những cơ chế vững chãi nhất. Dowsett và chàng Guggenhammer chung xe, còn Letton có xe riêng. Ánh Sáng Ban Ngày, đầu óc vẫn nhớ như in những chuyện vừa xảy ra cách đây tiếng đồng hồ, bị ấn tượng mạnh bởi quang cảnh lúc họ từ giã nhau. Ba chiếc ô tô đậu ngay lối cổng có mái che, dưới trải sỏi, và được thắp sáng, nằm ngay chân chiếc cầu thang rộng lớn trông như ba con quái vật kỳ dị trong đêm. Trời tối, và những ngọn đèn pha ô tô cắt đứng màn đêm sắc như những lưỡi dao xắn vào vật thể. Tên người hầu khúm núm, cái gã khổng lồ biết cử động trong ngôi nhà thuộc về bất kỳ ai trong số ba người đó, sau khi giúp họ vào trong xe, đứng lặng im như pho tượng điêu khắc. Dáng những người tài xế mặc áo lông thú lờ mờ ghế ngồi của họ. Từng chiếc , những chiếc xe như những con ngựa được giật cương, lao nhanh vào màn đêm, rẽ theo khúc quanh ở lối ra vào rồi mất hút. Xe của Ánh Sáng Ban Ngày ra sau cùng. Khi nhìn ra, thấy ngôi nhà đèn đóm to như vách núi sừng sững trong đêm. Của ai vậy nhỉ? tự hỏi. Sao họ lại có thể sử dụng nó cho cuộc gặp gỡ bí mật này được? hiểu tên người hầu có thể cho mình biết được chăng? Còn mấy gã tài xế nữa, hiểu họ có đáng tin cậy như ông Howison "ở chỗ chúng tôi", nhỉ? Bí mật ư? Toàn bộ câu chuyện này bí mật. Và cùng với bí mật là quyền lực. ngả lưng ra sau ghế và rít hơi thuốc lá. Canh bạc lớn bắt đầu. Các lá bài được dự phần. nhớ lại ván xì phè chơi với Jack Kearns và bật cười to. Vào những ngày đó, ăn thua bạc ngàn, còn bây giờ ăn thua bạc triệu. Nghĩ đến hôm mười tám, khi số tiền lời cổ phần tăng gấp đôi được công bố, bỗng cười khoái trá khi hình dung ra cảnh hoảng loạn của những kẻ trong lúc này mài kéo để chuẩn bị thịt - Ánh Sáng Ban Ngày.
Chương 3 Trở về khách sạn, tuy gần hai giờ sáng, thấy đám ký giả chờ đợi để phỏng vấn . Ðến sáng hôm sau còn nhiều hơn nữa. Như vậy báo chí thay cho kèn trống để chào đón đến Nữu Ước và lần nữa hình cùng những lời tán dương ầm ĩ lại được đăng suốt các trang báo. Vua của Vùng Klondike, vị hùng vùng Bắc Cực, nhà triệu phú ba mươi triệu đó la của phương Bắc, đến Nữu Ước cũng như vét tiền của trị trường Chứng khoán Tonopan ở Nevada chăng? Giới tài phiệt của Phố Wall tốt nhất là nên cẩn thận, bởi vì con người bạt mạng của vùng sông Klondike xuất rồi. Hoặc cũng có thể Phố Wall vét sạch túi biết bao tay bạt mạng rồi. Rồi ra số phận của cũng như thế chăng? Ánh Sáng Ban Ngày chỉ cười, đưa ra những câu trả lời lập lờ. Tất cả những điều đó có lợi cho công việc của , và lại mỉm cười khi nghĩ rằng phố Wall cũng phải vỡ nợ ít nhiều trước khi có thể vét sạch túi của . Dư luận được chuẩn bị để đón nhận những bước của , và khi có tượng thu mua các cổ phần đồng ở thung lũng Ward, người ta nhanh chóng nhận ra chính là tác giả. Giới tài phiệt xì xầm bàn tán. Vậy là lại tấn công công ty Guggenhammer lần nữa rồi. Câu chuyện về vụ Ophir lại được thuật lại cách giật gân đến độ chính Ánh Sáng Ban Ngày cũng khó nhận ra nó. Tuy vậy, cứ vào lưới là cá rồi. Ðám đầu cơ chứng khoán là bị lừa. Họ bán cổ phần ra ào ào đến độ tuy mỗi ngày Ánh Sáng Ban Ngày thầm cách vui vẻ khi chứng kiến cái cảnh xáo trộn mà gây ra. Báo chí cứ đoán già đoán non, và Ánh Sáng Ban Ngày bị cả tiểu đoàn phóng viên liên tục bám sát. Những bài phỏng vấn được mọi người đọc đọc lại. Khi thấy báo chí vui sướng ghi nhận những thành ngữ lạ tai mình dùng, lại càng hay theo kiểu địa phương và dùng cả những cụm từ mà nghe dân vùng biên thuỳ sử dụng, đôi khi lại tự chế thêm vài từ mới. Suốt tuần lễ trước ngày thứ năm 18 đối với là nhộn nhịp. phải chỉ vì lý do đánh bạc như trước kia, mà còn đánh canh bạc lớn hơn trước kia, mà còn đánh canh bạc lớn nhất thế giới và ăn thua nhau những số tiền lớn tới mức ngay cả những kẻ quá quen với chuyện này đến độ nhàm chán cũng phải ngồi dựng dậy để theo dõi. Mặc dù số cổ phần được bán ra vô hạn định, thung lũng Ward dần dần lên cao. Gần đến ngày Thứ năm tình hình rất căng thẳng, chắc chắn là có kẻ phá sản. Tay cờ bạc vùng sông Klondike này mua được bao nhiêu cổ phần? Khả năng có thể mua được bao nhiêu? Lúc này Công ty Ðồng thung lũng Ward làm gì để đối phó? Ánh Sáng Ban Ngày rất hài lòng với những bài phỏng vấn họ, bởi vì chúng bình thản và vô thưởng vô phạt đến độ đáng mừng. Leon Guggenhammer đưa ý kiến là có lẽ chàng khổng lồ vùng Bắc cực sai lầm. Nhưng họ chẳng thèm quan tâm đến việc đó, John Dowsell giải thích thêm như vậy. Mà họ cũng chẳng phản đối. Họ bảo là tuy chưa hiểu ý đồ của , song họ có thể chắc chắn điều là đẩy giá cổ phần đồng thung lũng Warrd lên. Nhưng họ cũng chẳng màng đến chuyện đó. cần biết chuyện gì xảy ra với và với việc làm của . Công ty Ðồng thung lũng Ward vẫn cứ vững như bàn thạch. , xin cám ơn, họ bán cổ phần nào của họ cả. Cái biến động giả tạo của thị trường này rồi cũng mau chóng qua , và cơn sốt điên rồ về giao dịch chứng khoán này cũng chẳng làm Công ty đồng thung lũng Ward thay đổi chút nào. Letton : - Chúng tôi chẳng muốn dính dáng và cũng chẳng muốn để tâm đến chuyện ấy làm gì. Trong suốt thời gian này, Ánh Sáng Ban Ngày vẫn thường xuyên gặp gỡ những tay chung hùn với mình, lần với Guggenhammer, lần với John Dowsett, và hai lần với ông Howison. Ngoài những lời ngợi khen ra họ chẳng có gì phải bàn cả, bởi vì, theo lời họ với , mọi chuyện diễn biến hết sức tốt đẹp. Tuy vậy, vào sáng Thứ Ba, có tin đồn làm Ánh Sáng Ban Ngày mất tinh thần. Tin đó sau lại được đăng Nhật báo phố Wall, mục đích là để thông báo nội bộ, rằng đến Thứ Năm này, ban giám đốc công ty họp, và thay vì tuyên bố mức lời chia cho cổ phần như mọi khi, họ tuyên bố công ty bị phá sản. Lần đầu tiên Ánh Sáng Ban Ngày khựng lại. hoảng hốt nhận ra rằng nếu đúng như vậy bị phá sản. cũng nhận ra rằng từ trước đến giờ toàn bỏ tiền túi ra để mua lại các cổ phần. Dowsett. Guggenhammer và Letton chẳng bỏ ra đồng nào cả. Tuy cơn hoảng hốt của chỉ thoáng qua nhưng cũng làm nhớ đến vụ Holdsworthy và cái lò gạch và buộc phải ngưng ngay việc mua gom và cầm lấy ống điện thoại. - Có gì đâu, chỉ là tin đồn ấy mà, - giọng khán khàn của Leon Guggenhammer vang lên trong ống nghe. Nathaniel Letton : - Ông biết đó tôi là thành viên trong ban giám đốc, nếu có chuyện như vậy tôi phải biết chứ. John Dowsett cũng : - Tôi báo trước với ông là đừng tin những lời đồn đại ấy rồi mà. có tí nào trong tin đồn ấy cả, có gì cả. Tôi xin lấy danh dự của người quân tử mà với ông như thế. Hổ thẹn vì chuyện mất bình tĩnh vừa qua, Ánh Sáng Ban Ngày lại tiếp tục việc thu mua. Việc đột ngột ngừng thu mua các cổ phần vừa rồi làm Sở giao dịch chứng khoán náo loạn cả lên. Những tay đầu cơ có liên quan đến vụ này tưởng mình bị phá sản đến nơi. Riêng về giá cổ phần đồng ở thung lũng Warrd, vì chịu ảnh hưởng trực tiếp nên tụt hẳn xuống đến mức còn gì, Ánh Sáng Ban Ngày lặng lẽ tăng gấp đôi sức thu mua. Suốt ngày thứ Ba. Thứ Tư, và Thứ Năm, tiếp tục thu mua và đẩy giá cổ phần đồng Thung lũng Ward lên cao cách đáng kiêu hãnh. Vậy mà cổ phần cứ tiếp tục được bán ra và cứ tiếp tục mua với số lượng vượt quá khả năng tài chính của đến nhiều lần. Sau hết là chuyện bàn giao chính thức. sao nào? Hôm nay người ta công bố tăng gấp đôi số lời chia cho các cổ phần, tự trấn an như thế. Bàn giao chính thức xong rồi bọn người bán cổ phần cho thấy họ bị thiệt và đến điều đình với cho mà xem. Và rồi sấm chớp nổ ra. Ðúng như tin đồn, Công ty đồng thung lũng Ward tuyên bố vỡ nợ. Ánh Sáng Ban Ngày tung hai tay lên trời. xem lại bản báo cáo rồi vứt nó . Những tay bán cổ phần ra lúc trước thắng lợi. Họ kềm được giá, những của các cổ phần đồng thung lũng Ward mà còn của tất cả các chứng khoán khác nữa. Ánh Sáng Ban Ngày chẳng màng quan tâm xem giá cổ phần đồng thung lũng Ward xuống hay xuống đến mức chót rồi hay chưa. Trong khi cả phố Wall như phát rồ lên Ánh Sáng Ban Ngày rút lui khỏi thị trường để suy ngẫm về toàn bộ chuyện ấy, bàng hoàng cũng hoang mang. Sau khi hội ý với những nhân viên thu mua cổ phần của mình, trở về khách sạn, đường tiện tay mua mấy tờ báo buổi chiều và liếc nhìn các hàng tít lớn: Ánh Sáng Ban Ngày hết nhẵn túi; Ánh Sáng Ban Ngày nhận lãnh số phận của mình; thêm người miền tây nữa thất bại trong việc làm giàu, đọc thấy như vậy. Khi bước vào khách sạn, tờ báo phát hành trễ hơn lại công bố vụ tự tử của chàng trẻ tuổi non nớt bắt chước việc mua cổ phần như . Ánh Sáng Ban Ngày làu bàu bình luận: "Mẹ kiếp, sao nó lại tự tử nhỉ?". lên phòng, gọi ly rượu cocktail, cởi giày và ngồi suy nghĩ. Sau nửa giờ, với tay lấy ly rượu uống. Khi men rượu ấm nóng lan toả khắp nhân thể, gương mặt giãn ra và môi từ từ nở nụ cười lòng nhưng đầy ý. cười nhạo chính mình: "Mẹ kiếp, đúng là bị lừa rồi". Nụ cười tắt hẳn. Gương mặt trở lại vẻ nghiêm trang cách lạ lùng. Gạt qua bên các phần hùn trong các công trình khai hoang bị đánh thuế rất nặng, mất tất cả. Nhưng bị thương tổn hơn hết là lòng kiêu hãnh của . quá dễ dãi. Bọn họ lừa , vậy mà có gì để chứng minh điều đó. Ngay nông dân khờ khạo nhất cũng phải đòi giấy tờ chứng cứ, vậy mà chẳng có gì ngoài đồng ý của con người quân tử, mà lại là lời đồng ý cửa miệng. đồng của người quân tử! đáng phỉ nhổ. Giọng của John Dowsett lại vang lên trong tai , hệt như khi nghe nó qua máy điện thoại: "Xin lấy danh dự của người quân tử". Chúng nó là những tên ăn cắp vặt, những tên lừa đảo. Bản chất của chúng là như thế và chúng chơi trò lường gạt . Báo chí đúng. đến Nữu Ước là để cho thiên hạ làm thịt , và các quý ông Dowsett, Letton, và Guggenhammer làm điều đó. chỉ là chú cá con, và họ bỏ ra mười ngày để nuốt gọn và cả số mười triệu đô-la của . Dĩ nhiên là trong suốt quãng thời gian đó họ liên tục lột tiền của . Bây giờ họ mua lại các cổ phần đồng Thung lũng Ward dễ như ăn cườm sườn trước khi thị trường ổn định trở lại. Có lẽ là Nathaniel Letton dùng phần tiền cướp được của để dựng thêm vài cơ sở cho trường đại học của ; Lon Guggenhammer mua thêm mấy động cơ mới cho chiếc du thuyền của . Còn tên quỷ Dowsett làm gì biết chắc - có lẽ là xây thêm loạt ngân hàng mới. Ánh Sáng Ban Ngày ngồi uống rượu và ôn lại cuộc đời của ở Alaska, sống lại những tháng năm gian khổ mà phải chiến đấu để có được mười triệu đô-la. Trong thoáng, cái ý đồ sát nhân gậm nhấm trái tim , những ý tưởng ngông cuồng và những kế hoạch vội vã nhằm giết cho được những kẻ phản bội loé lên trong đầu . Chính đấy mới là điều cái chàng trẻ tuổi cần làm thay vì tự tử. Lẽ ra ta phải bắn chết hết bọn chúng. Ánh Sáng Ban Ngày mở chiếc va li lấy ra khẩu súng lục tự động - khẩu Coll 44 to. mở khoá an toàn và xoay ổ đạn. Tám viên đạn theo nhau chạy ra. lại lắp đạn vào, cho viên lên nòng, kéo cần mổ lên, rồi đóng khoá an toàn lại. đút khẩu súng vào túi trong của chiếc áo khoác, đứng lên gọi ly Martini nữa rồi lại ngồi phịch xuống ghế. nghĩ ngợi liên tục trong suốt tiếng đồng hồ, lần này cười nữa. Mặt nhăn nheo lại, và trong những nếp nhăn ấy có thể thấy được cái gian khổ của phương Bắc, cái lạnh cắt da, tất cả những cái mà đạt được và chiu đựng - những tuần lễ bám đường tưởng chừng như vô tận, bờ biển Point Barrow lạnh lẽo, hoang vắng và có lấy bóng cây, những tảng băng kẹt cứng nghiến vào nhau dòng Yukon, những cuộc đấu tranh với người và vật, những ngày đói rét đến mòn người, những tháng ngày dài dằng dặc chịu muỗi cắn dòng Koyokuk, công việc đào bới nặng nhọc, những vết sẹo, vết thương do dây ràng quất vào người để tải đồ gây ra, những bữa cả người và chó chỉ ăn thịt sống cùng quãng đời hai mươi năm cật lực lao động đến vã mồ hôi. Lúc mười giờ, đứng dậy và tìm quyển sách hướng dẫn về thành phố để đọc. Ðoạn xỏ giày, gọi tắc xi và biến vào bóng đêm. đổi xe hai lần, rồi cuối cùng dừng lại văn phòng làm việc về đêm của sở mật thám. tự tay điều khiển lấy công việc, bỏ ra số tiền lớn ứng trước, chọn sáu người cần và chỉ dẫn cho họ việc phải làm. Chưa bao giờ họ được trả công hậu hĩ như thế để làm việc quá đơn giản như vậy, bởi vì, ngoài số tiền công mà họ được hưởng, mỗi người còn được thưởng thêm tờ giấy bạc năm trăm đô-la kèm theo lời hứa cho thêm tờ nữa nếu thành công. tin rằng sớm muộn, nội nhật ngày hôm sau, ba tên hùn thạp thầm đặng của họp lại. Cứ hai thám tử phải bám sát người trong bọn họ. Các tay thám tử phải báo được cho thời gian và địa điểm họ gặp nhau. - Các phải đạp bằng mọi trở ngại, - nhắc lại lần cuối với họ như vậy - Tôi phải có tin tức về việc đó. Dù các có làm gì, dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng theo các . đường trở về khách sạn, lại đổi xe như lúc . Khi lên đến phòng, uống thêm ly rượu cocktail rồi lên giường ngủ. Buổi sáng, khi thức dậy, mặc quần áo, cạo râu, gọi người phục vụ dọn bữa điểm tâm và đem lên vài tờ báo, và ngồi đợi. uống rượu, khoảng chín giờ, chuông điện thoại reo vang, các thám tử gửi tin tức về. Nathaniel Leiton đáp tàu hoả ở Tarrytown. John Dowsett tàu điện ngầm đến. Lon Guggenhammer ra khỏi nhà mặc dù chắc chắn là có trong nhà. Cứ theo cách đó, với tấm bản đồ thành phố trải rộng trước mặt, Ánh Sáng Ban Ngày theo dõi hành động của ba người tiến lại gần nhau. Nathaniel Letton đến phòng làm việc của ở cơ sở Mutual-Solander. Kế đó Guggenhammer xuất . Dowsett vẫn còn ở lại văn phòng riêng của . Nhưng đến mười giờ, các thám tử báo về là cũng xuất . Mấy phút sau, Ánh Sáng Ban Ngày ngồi trong thiếc ô tô thuê phóng hết ga đến sở Mutual-Solander. Chương 4 Nathaniel Letton cánh cửa đột nhiên mở tung. vội ngừng bặt và, cùng hai người kia cố nén hoảng hốt, đưa mắt nhìn Ánh Sáng Ban Ngày lúc này bước những bước dài vào phòng. Ðó ràng là cái dáng lúc lắc, phóng khoáng của kẻ từng bám đường, tuy bản thân cố ý. ra cảm thấy hình như dưới chân lại là mặt đường vùng Bắc Cực. - Mạnh giỏi chứ quý ông, mạnh giỏi chứ và phớt lờ cái việc khác thường là họ lên tiếng chào đáp lại. tiến đến bắt tay từng người, tay nắm tay họ chặt đến nồi Nathaniel Letton phải rùn người lại vì đau. Sau đó Ánh Sáng Ban Ngày ném mình vào chiếc ghế bành to lớn và vườn người ra cách lười biếng như thể mỏi mệt lắm. Chiếc vali da mà xách theo được đặt xuống sàn cạnh bên cách cẩu thả. - Ðã ? Trúng mánh lớn rồi, - thở hắt ra - Chúng ta chặt họ đẹp. Ngọt sớt ấy. Gần đến cuối cuộc chơi, tôi mới thấy mưu kế của các ông tuyệt vời. Chỉ cần cú thôi là xong hết. Nhìn thấy bọn họ ngã ngửa ra đời. Cái nét vui vẻ trong giọng kéo dài lười lĩnh của dân miền Tây của làm họ bình tĩnh trở lại. Dẫu sao cũng chẳng có gì đáng sợ lắm. Dù rằng lọt qua được các nhân viên ngồi ở phòng ngoài, những kẻ được Letton dặn kỹ là cho vào, nhưng vẫn chưa có dấu hiệu là làm toáng lên hoặc dùng biện pháp mạnh bạo. - Kìa, - Ánh Sáng Ban Ngày hỏi cách vui vẻ - Bộ các ông ngợi khen kẻ hùn hạp với các công được tiếng hay sao? Hay là vì quá tháo vát nên các ông ngạc nhiên đến lặng chăng? Letton khẽ tằng hắng. Dowset ngồi im chờ đợi trong khi Leon Guggenhammer cố lắm mới lên tiếng được: - Ông chuyện gì lại làm nổi. Ðôi mắt đen láy của Ánh Sáng Ban Ngày lên vẻ mãn nguyện. - Chứ à - la lên cách hứng khởi - Chúng ta mà lừa được bọn ngốc nghếch ấy sao? Chính tôi cũng ngạc nhiên quá đỗi, ngờ chuyện đó lại dễ ăn đến thế, - ngừng chút rồi vội tiếp, cố làm cho câu chuyện được tự nhiên, - Mà thôi bây giờ chúng ta hãy thử quyết toán lại xem. Chiều nay tôi phải đáp chuyện tàu hoả Thế Kỷ hai mươi về miền Tây rồi. nhấc chiếc vai lên, mở ra và thọc cả hai tay vào trong đó - Nhưng các ngài đừng quên rằng chừng nào các ngài muốn lừa bọn phố Wall cú nữa cử với tôi tiếng. Tôi thoả mãn các ông ngay. rút tay lên, ôm theo từng đống cùi chi phiếu và giấy biên nhận để ùn lên mặt chiếc bàn lớn, rồi lại thọc tay vào vali lấy ra nốt những thứ giấy còn lại và cũng để gom chung với đống trước. Ðoạn rút trong túi áo khoác ra mảnh giấy, nhìn rồi đọc to lớn: - Mười triệu hai mươi bày ngàn bốn mươi hai đô-la sáu mươi tám xu. Theo tính toán của tôi tôi bỏ ra ngần ấy. Dĩ nhiên số tiền này phải được hoàn lại cho tôi trước khi ta chia đều số lời. Các ông tính toán chưa? Tiền lời hẳn phải lớn lắm nhỉ. Ba người kia nhìn nhau ngơ ngác. Hoặc là ngốc hơn họ tưởng, hoặc là bày ra trò mà họ hiểu gì cả. Nathaniel Letton đưa lưỡi liếm môi và : - Cũng phải mất vài tiếng đồng hồ trước khi có thể kết toán được, ông Harnish ạ. Ông Howison tính toán chuyện ấy. Chúng tôi - Ờ - như lời ông , tiền lời đúng là lớn . Tôi đề nghị chúng ta cùng ăn trưa và bàn qua chuyện ấy luôn thể. Tôi cho nhân viên làm việc nghỉ trưa để ông có đủ giờ đón tàu hoả. Dowsett và Guggenhammer lộ vẻ vui mừng vì thoát nạn. Tình hình có vẻ sáng sủa ra. bất tiện trong hình hình như vầy mà lải bị nhốt chung trong phòng với tên mọi rợ có bắp thịt săn chắc mà họ vừa hè nhau cướp. Họ nhớ lại cách thoải mái những chuyện kể về sức mạnh và tính bạt mạng của Ánh Sáng Ban Ngày. Nếu Letton có thể dùng kế hoãn binh để họ có thể qua cánh cửa văn phòng đến với thế giới có cảnh sát ngoài kia mọi chuyện ổn cả. Ánh Sáng Ban Ngày có vẻ như chấp thuận đề nghị của Letton. - Tôi rất mừng được nghe ông thế,- - Tôi muốn lỡ tàu. Các ông cho tôi niềm tự hào khi kéo tôi vào việc này. Tôi rất đội ơn các ông mà biết thế nào cho phải đạo. Có điều tôi hơi tò mò, thưa ông Letton, tôi rất muốn biết tiền lời của chúng ta theo tính toán của quý ông là bao nhiêu. Ông cho tôi con số ước đoán cũng dược. Nathaniel Letton tuy đưa mắt cầu cứu hai người bạn của , song họ cũng cảm thấy ràng là muốn họ đỡ lời. Dowsett, nghiêm túc hơn mấy tay kia, bắt đầu đoán có lẽ tên vùng Klondike này dở trò. Nhưng hai người kia vẫn cứ nghĩ là ngây thơ lắm: - là, ừ, khó quá - Leon Guggenhammer bắt đầu - ông thấy đấy, giá cổ phần đồng Thung lũng Ward lên xuống bất thường quá… - Ðến mức khó có thể tính trước được chúng ta lời bao nhiêu, - Letton bổ xung. - Cứ ước chừng thôi. Cứ ước chừng đại nào, - Ánh Sáng Ban Ngày gợi ý cách vui vẻ - Hơn kém triệu đô-la chẳng ăn nhằm gì. Sau khi tính toán lại ta biết chính xác thôi. Nhưng chưa biết ngay được con số phỏng chừng tôi còn ngứa ngáy khó chịu lắm. Các ông thử xem nào. Dowsett đột nhiên hỏi cách lạnh lùng: - Tại sao cứ vòng vo mãi như vậy. Chúng ta hãy thẳng ra với nhau nào, ông Harnish đây hiểu nhầm, và chúng ta cần giúp ông ấy hiểu đúng vấn đề trung canh bạc này. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày ngắt ngang lời . có quá nhiều kinh nghiệm chơi xì phè nên hiểu giá trị của yếu tố tâm lý. gạt ngang lời của Dowsett để đóng vở tuồng của cho đến đoạn kết. - đến canh bạc tôi lại nhớ đến ván xì phè mà tôi chứng kiến ở Ren vùng Nevada. Ðó chẳng phải là canh bạc ngay thẳng. Bọn chơi với nhau đó toàn là phường bịp bợm. Lúc ấy có tay mơ, mà người ta quen gọi là những tên bò sữa, đứng lớ ngớ sau tay cái. thấy tay cái tự chia cho mình bốn con ách rút lén từ dưới bộ bài ra. hoảng quá bèn vội vòng lại phía tay chơi ngồi đối diện với tay cái và thầm: - Này, tôi thấy nó chia lén cho chính nó bốn con ách đấy - sao nào? - tay chơi bài hỏi lại. - Tôi cho biết vì đoán rằng cần biết thế thôi,- tay mơ trả lời - Tôi thấy ràng là chia lén bốn con ách cho đấy. - Này thôi, thưa ông,- tay chơi bài - Tốt nhất là ông cút ra ngoài kia . Ông chẳng hiểu gì về luật chơi cả. Ðó là phiên của chia mà, phải nào? Ba người kia tán thưởng câu chuyện bằng mấy tiếng cười khan, cười vì phải cười chứ lòng. Ánh Sáng Ban Ngày vờ như chú ý đến điều đó. Dowsett cách châm chọc: - Ông kể chuyện ấy hẳn phải có ý gì. Ánh Sáng Ban Ngày nhìn vẻ thơ ngây và trả lời. quay sang Nathaniel Letton cách vui vẻ: - nào. Cho con số phỏng chừng cũng được mà. Tôi rồi, hơn kém triệu cũng chẳng can hệ gì. Số tiền lời lớn lắm mà. Lúc này Letton cũng bắt chước thái độ cứng rắn của Dowsett. trả lời ngay lập tức và rành rọt: - Thưa ông, Harnish, tôi e là ông lầm lẫn đấy Chẳng có tiền lời nào để chưa cả đâu. Xin ông chớ vội nổi nóng. Tôi chỉ cần bấm cái nút này là… Ánh Sáng Ban Ngày nổi nóng. làm bộ kinh ngạc đến đờ người ra. thẫn thờ đưa tay vào túi áo gilê lấy diêm đánh lửa, rồi nhận ra là mình chưa có thuốc lá. Ba người kia rình chăm chú như những con mèo. Bây giờ mọi chuyện sổ toẹt ra rồi và họ biết rằng những giây phút sắp tôi rất căng thẳng. - Các ông làm ơn lập lại xem, - Ánh Sáng Ban Ngày - Hình như tôi. nghe lắm phải. Có phải các ông vừa rằng… hau háu nhìn vào miệng Letton cách đau khổ. - Tôi là ông lầm lẫn. Ðúng vậy đấy, ông Harnish ạ. Ông đánh bạc với chứng khoán, và ông thua sạch. Nhưng Công ty đồng thung lũng Ward này, cũng như tôi hay các người ngồi đây chẳng thấy phải mắc nợ gì ông về chuyện ấy cả. Ánh Sáng Ban Ngày đưa tay chỉ vào đống biên nhận và và cùi chi phiếu bàn hỏi: - Tất cả đống giấy tờ này phải đổi bằng mười triệu hai mươi bảy ngàn bốn mươi hai đô-la sáu mươi tám xu tiền mặt. Bộ chúng chẳng có giá trị gì cả sao? Letton mỉm cười nhún vai. Ánh Sáng Ban Ngày quay qua Dowsett : - Cuối cùng tôi cũng phải cho là câu chuyện lúc nãy có ý đấy, - cười khăng khắc - Từ trước tới giờ là phiên các ông chia. Và các ông chia khá lắm. Tôi chẳng phản ứng làm gì. Tôi cũng như cái tay chơi bài trong ván xì phè đó. Phiên các ông chia các ông muốn làm gì tuỳ ý. Và các ông thắng, lột sạch sành sanh của tôi rồi. - nhìn chằm chằm vào đống giấy tờ bàn với vẻ mụ mẫm. - Tất cả cái đó giờ bằng đống giấy lộn. Mẹ kiếp, các ông còn có thể dùng chúng để chơi ván nữa khi có dịp. Mà thôi, tôi chẳng hạch sách gì các ông đâu. Phiên của các ông chia nên các ông có lột sạch của tôi tôi cũng đành chịu. Làm ầm ĩ khi phiên người khác chia chẳng đáng mặt nam nhi chút nào. Thế nhưng bây giờ ván bài chất dứt, các quần bài lật ngửa bàn rồi, và các ông cũng hết phiên chia… Ánh Sáng Ban Ngày thọc nhanh tay vào túi trong áo khoác và rút ra khẩu súng Colt tự động khổ lớn. - Như tôi vừa , các ông hết phiên chia. Giờ đến lượt tôi, và tôi chờ xem có chộp được bốn con ách nào, - Cất tay ra nào cái xác trắng nhợt kia - thét lên đanh gọn. Bàn tay của Nathaniel Letton lò mò đến cái nút bấm bàn khứng lại. - Ðổi xe nào, - ra lệnh - Ðem cái ghế lại phía đằng kia nào, cái thằng có lá gan thối kia. Nhanh lên, mẹ kiếp, tao lại nã cho mày thủng lỗ chỗ đến độ thiên hạ tưởng bố đẻ của mày là cái máy nước, còn mẹ mày là chiếc xe phun nước đường bây giờ. Còn mày nữa, Guggenhammer, mày cũng kéo ghế theo thằng kia nào. Thằng Dowsett cứ ngồi yên đó mà nghe tao giải thích qua về đặc tính của khẩu Cold tự động này. Súng này được lắp đạn để dùng vào những canh bạc lớn. Nó nổ tám phát đấy. Bắt đầu khạc là hết băng đấy. Thôi mào đầu như vậy đủ rồi, bây giờ tao bắt đầu chia đây. Hãy nhớ rằng hồi chúng mày chia tao chả phàn nàn tí gì đấy nhé. Bọn chúng mày chơi rất đểu, nhưng sao. Bây giờ đến lượt tao chia tao chơi bẩn cũng kệ tao. Trước hết, chúng mày biết tao rồi đấy. Tao là Ánh Sáng Ban Ngày - hiểu chứ? Chẳng sợ trời, chẳng sợ quỷ, chẳng sợ chết, cũng chẳng sợ ai hại cả. Bốn con ách của tao như thế đó, cũng đủ chọi lại bọn chúng mày rồi chứ. Nhìn cái bộ xương động đậy kia kìa. Letton, mày chắc chắn là sợ chết. Mày run lên đến độ xương đụng vào nhau nghe lộp cộp kìa. Nhìn cả thằng Do Thái mập kia nữa kìa. Cái món vũ khí này chắc chắn phải là tim biết sợ Chúa. Còn Dowsett, mày trầm tĩnh lắm. Mặt mày cũng chẳng cháy mà tóc mày cũng chẳng rung. Ấy là vì mày giỏi toán lắm nên mới có thể bình tâm như vậy. Mày lo tính toán xem có được bao nhiêu tiền, và biết chắc trước sau gì tao cũng lột của mày. Mày hiểu là tao chẳng sợ làm bất cứ việc gì nên mới tính sẵn, và biết rằng mày chết nếu đừng muốn chết. - Rồi mày bị treo cổ, - Dowsett đốp lại. - Cặp mắt bẩn thỉu của mày thấy được cảnh đó đâu Khi cuộc vui bắt đầu, mày là thằng bị tao nã trước tiên. Tao có bị chết treo bọn chúng mày cũng chẳng còn sống để mà chứng kiến. Chúng mày ngỏm tức khắc và ngay trong căn phòng này, còn tao đợi cái luật pháp lề mè ở đây xử cho xong rồi mới chết. Hiểu ? Khi ngỏm rồi, xác chúng mày mọc cỏ, và chúng mày chẳng biết được lúc nào tao mới bị treo cổ. Còn tao chắc chắn còn sống khá lâu để tự an ủi là cũng chỉ tại bọn chúng mày buộc tao phải làm chuyện đó. Ánh Sáng Ban Ngày ngừng lúc. - giết chúng tôi chứ?- Letton hỏi, giọng khẽ kháng kỳ lạ. Ánh Sáng Ban Ngày lắc đầu. Giết chúng mày đắt quá. Chúng mày đáng cái giá đó. Tao chỉ muốn chúng mày hoàn tiền lại cho tao. Tao đoán rằng chúng mày muốn hoàn tiền lại cho tao hơn là muốn vào nhà xác. Tiếp theo đó là im lặng kéo dài. - Tao chia bài rồi đấy! Tuỳ chúng mày muốn chơi sao chơi. Có điều trong khi chúng mày tính toán, tao muốn cảnh cáo chúng mày việc Nếu cánh cửa đó mở ra mà bất kỳ thằng nào trong số chúng mày lộ vẻ gì bất thường tao nã đạn ngay lập tức. có linh hồn nào ra khỏi căn phòng này được trừ phi bằng cẳng đưa ra trước. Liền sau đó là cuộc họp kéo dài ba tiếng đồng hồ. Yếu tố quyết định phải là cái khẩu Colt tự động to tướng ấy mà là hiểu biết chắc chắn rằng Ánh Sáng Ban Ngày sử dụng nó. Chẳng chỉ riêng ba gã kia biết như thế, mà ngay cả Ánh Sáng Ban Ngày cũng tin chắc như vậy. Ánh Sáng Ban Ngày tin chắc như vậy. quyết giết bọn này nếu chúng xì tiền ra trả cho . dễ gì ngay lúc gom đủ mười triệu đô-la bạc giấy, nên công việc cứ bị ngưng trệ cách bực mình. Lão Howison và tay thư ký trưởng bị điệu vào phòng cả chục lần. Vào những lúc như vậy Ánh Sáng Ban Ngày để khẩu súng lên lòng, lấy tờ báo che lại, rồi vờ như mải cuốn thuốc châm hút. Nhưng sau cùng công việc cũng chấm dứt. tay thư ký xuống chiếc ô tô của đợi phía dưới mang lên cái va li và sau đó xấp tiền cuối cùng được bỏ vào, đóng nó lại. Ra đến cửa, còn ngoái lại mấy lời cuối cùng: - Có ba việc tao muốn với chủng mày. Khi tao bước qua cánh cửa này rồi, chúng mày tự do hành động, nhưng tao cũng muốn báo cho chúng mày biết là phải làm gì. Việc đầu tiên là đừng gọi cảnh sát bắt tao, hiểu chưa? Tiền này là tiền của tao, chứ phải tiền ăn cướp của chúng mày. Nếu biết chuyện chúng mày lừa tao như thế nào và bị tao trả đũa ra sao thiên hạ cười chúng mày, cười cho thối óc ra đấy. Chúng mày chắc chẳng muốn bị cười như vậy. Hơn nữa, sau khi lấy lại được tiền mà chúng mày ăn cướp của tao rồi, nếu chúng mày cho người bắt tao và mưu cướp của tao lần nữa, tao lùng chúng mày để giết. Chắc chắn là tao tóm được chúng mày thôi. Loại tôm tép như chúng mày cũng vẫn thua. Chắc chắn có vài đám tang bất ngờ trong thành phố này. Nhìn thẳng vào mắt tao nào, và chúng mày hiểu là tao chẳng đùa. Cái đống biên nhận và cuốn chi phiếu kia là của chúng mày đấy. Thôi xin chào. Khi cánh cửa vừa khép lại sau lưng , Nathaniel Letton nhào đến bên chiếc máy điện thoại, nhưng Dowsett liền ngắn lại. - Ông làm gì thế - Dowsett gặng hỏi. - Gọi cảnh sát. Nó ăn cướp của mình trắng trợn. Tôi chịu nổi. Các ông hiểu là tôi chịu nổi điều đó. Dowsett mỉm cười nghiêm nghì, nhưng cùng lúc lại kéo tên tài phiệt mảnh khảnh đó ấn ngồi xuống ghế. - Ðể chúng ta bàn lại xem nào, - . Leen Guggenhammer cũng đồng tình trong lo lắng. Sau đó chẳng có gì xảy ra cả. Toàn bộ câu chuyện được cả ba người giữ bí mật. Ánh Sáng Ban Ngày cũng hé môi gì về chuyện ấy, mặc dù chiều hôm ấy, ngồi ngả người trong toa xe hạng nhất của con tàu Thế Kỷ Hai Mươi, chân giày đặt gác lên ghế, và cứ buồn cười mãi về chuyện ấy. Cả thành phố Nữu Ước mãi mãi chẳng hiểu câu chuyện như thế nào, mà cũng chẳng thể đưa ra lời giải thích nào thoả đáng cả. Theo lẽ thường Ánh Sáng Ban Ngày phải phá sản, vậy mà người ta được tin lập tức xuất lại San Francisco với số vốn còn nguyên như trước. Ðiều này được chứng minh bằng những công việc kinh doanh lớn lao mà lao vào, chẳng hạn như Công ty dịch vụ Bưu Ðiện Panama. Bằng cách tung tiền ra và bằng khả năng kiểm soát của mình, giật khỏi tay Sheftly quyền kiểm soát công ty này, và trong vòng hai tháng bán nó lại cho công ty Harriman để hưởng số lời mà thiên hạ đồn là kếch xù.
Chương 5 Trở về San Francisco, tiếng thăm của Ánh Sáng Ban Ngày tăng nhanh. Theo nghĩa nào đó, tiếng tăm này cũng chẳng có gì đáng thèm muốn. Người ta sợ . được đến như kẻ gây hấn, con quỷ, con hổ dữ. Lối chơi của chỉ máng lại tan hoang đổ vỡ, và chẳng ai đoán nổi là đòn kế tiếp của giáng vào đâu, như thế nào. Luôn luôn là bất ngờ. dừng lại ở những chuyện lường trước, và vì mới từ miền Bắc Cực hoang vu tới đây, đầu óc chưa nhiễm phải lối suy nghĩ theo đường mòn, có khả năng lạ lùng trong việc sáng chế ra những mánh khoé, mưu mẹo. khi thắng cuộc rồi, dấn tới cách thương tiếc. "Tàn bạo như tên Mọi Da Ðỏ". người ta về như vậy Mặt khác, cung nổi tiếng là sòng phẳng. Lời miệng của cũng có giá trị như bản hợp đồng, tuy rằng bản thân lại chẳng tin lời của ai cả. tối kỵ những lời đề nghị làm ăn dựa danh dự của người quân tử. Bất kỳ ai trong khi làm việc với mà hay đưa ra cái danh của người quân tử trước sau gì cũng bị làm cho khốn đốn. Mà Ánh Sáng Ban Ngày cũng chẳng bao giờ mở miệng hứa hẹn điều gì, trừ phi nắm đằng chuôi. Người bạn làm ăn kia có chịu hay cũng kệ. Trong các canh bạc của Ánh Sáng Ban Ngày có chỗ cho việc đầu tư hợp pháp. Ðiều đó trói buộc tiền vốn của , và làm giảm tính liều mạng. Chỉ có khía cạnh cờ bạc của việc làm ăn làm hấp dẫn được mà thôi, và cái lối chơi ào ạt bất ngờ của bắt buộc lúc nào cũng phải có sẵn tiền trong tay. bao giờ để bị kẹt vốn, trừ trường hợp trong thời gian ngắn. luôn quay vòng vốn, kiếm lời chỗ này rồi nhảy liền qua chỗ khác, hành động như tay cướp biển tài chính. Tiền lời bảo đảm năm phần trăm chẳng hấp dẫn được . Vậy mà may rủi cả triệu đô-la trong các cuộc đụng độ ác liệt, được ăn cả ngã về , đối với lại làm cho cuộc sống thú vị. Ðương nhiên vẫn chơi đúng luật, nhưng chơi rất tàn nhẫn. khi đốn ngã được người nào hoặc tập đoàn làm ăn nào dù cho họ có kêu nài đến đâu cũng chẳng nương tay. Những van xin ân huệ về tài chính cũng giống như nước đổ lá môn. là kẻ tự do, bị ràng buộc bởi bất cứ hội làm ăn nào. Ðôi khi giữa và các người khác cũng có liên kết, nhưng đó chỉ vì họ hợp với các ý đồ của mà thôi. cho rằng nhũng kẻ cộng tác này lường gạt và tiêu diệt khi có thời cơ. Mặc dù vậy, vẫn trung thành với họ, trung thành ở mức độ họ còn là đồng minh với . phản bội họ, mà cứ để họ phản bội trước, đến lúc đó hãy coi chừng Ánh Sáng Ban Ngày. Giới làm ăn và tài phiệt vùng bờ biển Thái Bình Dương bao giờ quên bài học của Charles Klinkner và Công ty Tín dụng California & Altamont. Klinkner làm chủ tịch công ty. liên kết với Ánh Sáng Ban Ngày bất ngờ tấn công Công ty Liên Tỉnh San José. Khi Công ty Thuỷ Ðiện đầy thế lực nhảy vào vòng chiến để cứu nguy cho Công ty Liên tỉnh San Jose. Klinkner tưởng thời cơ đến, bèn cấu kết với phe cánh quật lạ; Ánh Sáng Ban Ngày giữa lúc trận chiến đến hồi quyết liệt. Ánh Sáng Ban Ngày thất bại và mất trắng ba triệu đô-la. Nhưng trước khi chịu thua, cũng làm cho Công ty Tín Dụng California & Altamont phải tan hoang và chủ tịch Klinkner phải tự sát trong tù đại hình. phải chỉ ngưng tấn công Công ty Liên tỉnh San José mà thôi, còn bị thiệt hại nặng nề nữa. Những người đủ thẩm quyền để nhận định rằng lẽ ra có thể dàn hoà và với vát lại với Công ty Liên Tỉnh San José và Công ty Thuỷ Ðiện và, lúc mà ai cũng nghĩ là bỏ cuộc, quay sang giáng cho Klinkner đòn chí tử, đột ngột như kiểu của Napoleon. biết Klinkner bao giờ ngờ đến điểm đó. cũng biết rằng Công Ty Tín Dụng California & Altamont là cơ sở rất vững chãi, nhưng lúc đó nó ở trong tình trạng rất bấp bênh vì Klinkner dùng toàn bộ số tiền của công ty đó để đầu cơ. hiểu rằng nếu để thêm vài tháng nữa chính các hoạt động đầu cơ của Klinkner làm cho công ty đó vững vàng hơn bao giờ hết. Bởi vậy nếu muốn tấn công nó phải tấn công ngay lúc này. - Tôi mất nhiều tiền đáy, - về sau về lỗ lã của mình như vậy - Nhưng đó là bảo đảm cho tương lai. Từ nay về sau kẻ nào hùn hạp với tôi phải nghĩ cho kỹ trước khi định lừa gạt tôi. Sở dĩ dữ dằn như vậy là vì coi khinh những kẻ mà cùng làm ăn. tin rằng trong cả trăm người cũng có lấy người sòng phẳng. Còn đối với những người sòng phẳng, tiên đoán rằng nếu cứ tiếp tục tham dự vào canh bạc bịp bợm này rồi cũng thất bại và phá sản mà thôi. Kinh nghiệm ở Nữu Ước mở mắt cho . xé bỏ cái ảo tưởng che đậy lên canh bạc làm ăn và nhìn vào trần truồng của nó. khái quát hoá về nền công nghiệp và xã hội như xã hội được tổ chức như trò lừa đảo. Có nhiều người sinh ra thiếu năng lực, tuy quá yếu đến mức phải đem nhốt vào nhà thương dành cho những kẻ ngớ ngẩn, nhưng cũng chẳng đủ khỏe để làm cái gì khác hơn là thân phận tôi đòi Ngoài ra còn có những thằng khùng luôn luôn quan niệm cách đứng đắn về cái trò lừa đảo có tổ chức đó, trân trọng, tán dương nó. Bọn này chỉ là những con mồi ngon cho những kẻ nhìn được bản chất và đánh giá cái trò lừa đảo đó theo đúng giá trị của nó. Còn lao động, lao động hợp pháp, là nguồn gốc của mọi của cải. Ðiều này có nghĩa là, dù là bao khoai tây, cây dương cầm vĩ đại, hoặc cái xe du lịch bảy chỗ ngồi, tất cả đều do lao động mà có. Sau khi được lao động sản xuất ra, chúng được phân phối, và đây là lĩnh vực mà trò lừa đảo mon men vào. Ánh Sáng Ban Ngày chẳng bao giờ thấy những đứa con của chai phồng có đàn dương cầm để chơi và có ô tô để . Chuyện này chỉ có thể dùng cái trò lừa đảo mới giải thích được thôi. Có cả mười ngàn hoặc cả trăm ngàn người thức suốt đêm trường để nghĩ kế làm sao chen vào được giữa người thợ và sản phẩm do ta làm ra. Bọn này chính là lũ thương gia. Khi mà họ chen vào giữa người thợ và sản phẩm, họ thu được phần tiền lời. Phần tiền lời lớn hay khống tuỳ thuộc vào luật công bằng, mà tuỳ thuộc vào sức mạnh và bẩn thỉu của họ. Luôn luôn là cái kiểu lập luận "bọn lao động chịu đựng được mà". thấy tất cả bọn thượng gia ai cũng nghĩ như vậy. hôm, cảm thấy vui vui sau bữa ăn trưa đầy đủ và mấy ly rượu cốc tay, bắt chuyện với tay điều khiển thang máy tên Jones. Jones gầy guộc, đầu tóc bù xù, vóc dáng ra vẻ người lớn, luông luôn có vẻ muốn gây gổ với khách. Chính điều này làm Ánh Sáng Ban Ngày chú ý đến ta, và chẳng bao lâu tìm hiểu được tại sao ta lại như thế. Theo xếp loại có tính chất gây hấn của ta ta vốn là người vô sản muốn kiếm sống bằng nghề viết lách. Bị các tạp chí từ chối, buộc lòng phải tìm cái ăn chốn ở trong thung lũng ở Petacha cách Los Angeles đầy trăm dặm. Ban ngày ta lao động, ban đêm ta học thêm và viết lách chút ít. Nhưng bọn chủ công ty hoả xa bòn rút của ta theo cái kiểu "bòn lao động chịu đựng được mà". Petacha là thung lũng hẻo lánh, chỉ sản xuất được ba thứ: bò, củi và than đốt. Giá cước chuyên chở bò mỗi toa là tám đô-la. Jones giải thích là vì bò có chân, nếu thuê người chăn đến Los Angeles mất số tiền công bằng với tiền chuyên chở xe lửa. Nhưng củi lại có chân nên bọn chủ hoả xa lấy đúng hai mươi bốn đô-la tiền cước trở củi mỗi toa. tính toán như vậy kể cũng được, bởi vì sau mười hai tiếng đồng hồ lao động cật lực mỗi ngày và trừ tiền cước chuyên chở củi đến Los Angeles ra, thợ đốn củi còn lời được đúng đô-la sáu mươi xu. Jones tính qua mặt công ty hoả xa bằng cách biến gỗ thành than. Theo tính toán của ta như vậy lời hơn. Nhưng bọn chủ hoả xa cũng tính toán và ra giá cước chuyên chở toa than là bốn mươi hai đô-la. Sau ba tháng, Jones tổng kết lại và thấy rằng ta cũng chỉ kiếm được đúng đô-la sáu mươi xu ngày. - Thế là tôi bỏ cuộc, - Jones kết luận - Tôi làm công lang thang suốt năm trời, sau quay về chơi cho công ty hoả xa vố. Bỏ qua những cái đáng giá, tôi vượt qua dãy núi Sierras hiểm trở vào mùa hè rồi châm que diêm vào dãy nhà trú tuyết. Ngọn lửa đó thôi, chỉ làm cho công ty hoả xa thiệt có ba mươi ngàn đô-la. Tôi nghĩ rằng tôi với họ như thế là huề. - Này chú bé, bộ chú sợ khi với tôi điều ấy ư? - Ánh Sáng Ban Ngày nghiêm giọng hỏi. - Có gì mà sợ, - Jones đáp - Họ chẳng chứng minh được điều đó. Ông có thể mà điều ấy, như vậy bồi thẩm cũng chẳng biết đâu mà mò. Ánh Sáng Ban Ngày trở về căn phòng ngồi suy nghĩ. Ðúng là cái luận điệu "bọn lao động chịu đựng được mà". Từ thượng tầng đến hạ tầng, luật chơi là như vậy. Cái làm cho trò lừa đảo có thể tiếp tục được là vì cứ mỗi phút lại có thêm thằng ngốc ra đời. Nếu cứ mỗi phút lại có người như Jones được sinh ra cái trò lừa đảo đó ắt là tồn tại được lâu. may cho đám chủ là công nhân giống Jones. Những trò lừa đảo còn có ở cấp khác, cao rộng hơn. Những tay thương gia, chủ tiệm cò con và những hạng đại loại như vậy kiếm lời sản phẩm của người công nhân. Nhưng cho cùng chính những tay làm ăn cá mập nhờ những tay cò con ấy mà tổ chức lại công nhân. Khi mọi việc xong thợ thuyền - những người như Jones lúc còn ở thung lũng Petacha - chẳng nhận được gì ngoài số tiền công trích từ số lợi nhuận của bọn chủ. Như vậy thân phận của họ cũng chỉ là những thân phận của những kẻ làm thuê. Rồi nữa, lại còn những tay cá mập lớn hơn nữa. Họ dùng những phương tiện phức tạp to lớn để kiếm lợi nhuận theo quy mô cộng hơn, chen vào giữa hàng trăm ngàn công nhân và sản phẩm của họ. Những tay cá mập lớn này chỉ là những tên ăn cướp mà còn là những tay cờ bạc nữa. Vì là phường cờ bạc nên khi thoả mãn với số tiền bòn rút được trực tiếp của người công nhân, chúng quay qua cướp của nhau. Chúng gọi việc này là nền tài chính phỗng tay . Chủ yếu vẫn là cướp của thợ thuyền, nhưng thảng hoặc chúng lại thành lập tập đoàn để cướp tiền lời tích trữ của nhau. - Ðiều này giải thích tại sao Holdsworthy cướp của năm mươi năm ngàn đô-la cũng như Dowsett, Letton và Guggenhammer cướp của mười triệu. Khi tấn công Công ty Dịch Vụ Bưu Ðiện Panama, cũng làm chuyện giống hệt như thế. Vậy , kết luận, cướp của kẻ cướp vẫn là lành mạnh hơn cướp của đám công nhân nghèo khổ và ngu muội. Theo cách , Ánh Sáng Ban Ngày, tuy chẳng hiểu biết gì về triết học, dành cho mình địa vị và cách làm ăn của siêu nhân thể kỷ hai mươi. nghiệm ra rằng có noblesse oblige(1) giữa những siêu nhân về chuyện làm ăn và tài chính cả, ngoại trừ số rất ít trường hợp bí hiểm. Có du khách thông minh ghé lại Câu Lạc Bộ Alta-Pacific, và sau bữa ăn tối phát biểu như sau: "Có trọng vọng nhau giữa những tên trộm cướp, và điều này phân biệt chúng với những người lương thiện". Ðúng thế. ta trúng phoóc, những tên siêu nhân đại là hạng đầu trộm đuôi cướp dám muối mặt truyền giảng cho nạn nhân của chúng đạo lý đúng sai mà bản thân chúng chẳng tuân theo. Ðối với chúng lời của người chỉ có giá trị khi người đó bị bắt buộc phải giữ nó. Ðiều răn "người được ăn cắp" chỉ để đem áp dụng cho những công dân lương thiện mà thôi. Họ, những siêu nhân đứng những lời răn đó. Họ cứ việc ăn cắp để được những kẻ cùng hội cùng thuyền trọng vọng nhiều ít tuỳ theo số tiền họ đánh cắp được. Ánh Sáng Ban Ngày cùng tham gia vào cái trò lừa bịp đó càng hiểu tình hình hơn. Mặc dù bọn cá mập vẫn cứ cướp bóc lẫn nhau khi có cơ hội, tổ chức của chúng vẫn vững vàng. Chúng vẫn kiểm soát được guồng máy chính trị của xã hội, từ tay chính khách của khu vực đến tay nghị sĩ của Hiệp Chủng Quốc. Chúng thông qua những luật lệ cho chúng được quyền cướp bóc. Chúng buộc người ta phải tuân thủ các luật lệ này bằng cảnh sát, bằng cai ngục, bằng quân đội dự bị và thường trực, và bằng toà án. Tất cả những cái đó cho họ cơ hội làm tiền… Mối hiểm nguy lớn nhất đối với siêu nhân chính là những siêu nhân đồng loại của chúng. Cái đám quần chúng ngu xuẩn kia đáng kể. Họ được cấu tạo bằng loại đất sét hạ đẳng đến độ chỉ khéo léo chút là có thể lường gạt được họ ngay. Bọn siêu nhân điều khiển trò chơi, và khi nào chúng thấy chuyện cướp của công nhân quá nhàm hoặc quá chậm chạp chúng lại nhảy xổ vào cướp lẫn nhau. Ánh Sáng Ban Ngày vẫn triết lý, tuy chưa phải là triết gia. chưa bao giờ đọc sách. Là người cứng đầu và thực tế, việc đọc sách là cái gì quá xa vời. sống cuộc đời giản đơn, và trong cuộc đời đó sách chẳng giúp hiểu thêm được gì về nó. Cuộc đời mà sống đây tuy là rắc rối song cũng lại giản đơn kém. hiểu thấu được những giả dối ma mã của nó, và thấy nó cũng thô thiển như cuộc sống ở vùng Yukon ngày trước. Con người ở đâu cũng vậy. Họ có cúng đam mê và tham vọng. Tài chính chỉ là loại bài xì phè quy mô to lớn hơn: Kẻ ngồi vào chơi là kẻ có tiền. Công nhân là những người làm thuê cật lực để kiếm cái ăn. thấy cuộc chơi này cũng lại theo những luật lệ muôn đời mà thôi, và cũng tham gia vào cuộc chơi. Cái vô ích to lộn của bọn đầu trộm đuôi cướp tổ chức xã hội rồi lại làm cho nó rối tung lên chẳng làm cho ta ngạc nhiên chút nào. Ðó là lẽ thường. Thực tế mà mọi nỗ lực của con người đều vô ích. chứng kiến những điều đó quá nhiều rồi. Những người công ty với dòng sông Stewart chết vì đói. Hàng trăm người tìm vàng thuộc loại kỳ cựu chẳng cắm được mảnh đất có vàng nào ở Lạch Thịnh Vượng và Lạch Eldorado, ấy vậy mà bọn chân ướt chân ráo đến vùng đồng cỏ hươu ăn đó lại nhắm mắt cũng kiếm được cả triệu đô-la. Ðời là thế, khá lắm nó cũng chỉ là đề nghị làm ăn dã man. Con người văn minh cướp bóc lẫn nhau vì họ được tạo nên để làm chuyện đó. Họ cướp bóc cách tự nhiên như là loài mèo phải cào xé, cái đói phải làm chết người, và cài lạnh phải làm cho da tê buốt. Vậy là Ánh Sáng Ban Ngày trở thành tay tài phiệt thành công. lường gạt bọn làm thuê. những thuê. Nhưng đành lòng làm thế mà còn cảm thấy như vậy chẳng có gì là thú vị. Dân lao động quá dễ dãi, quá ngu dốt. Cướp của họ cũng giống như giết những con gà lôi béo mập nuôi trong sân nhà nghe ở nước người ta thường hay làm thế. Giống như chàng Robin Hood thuở xưa; Ánh Sáng Ban Ngày đánh cướp của bọn giàu có rồi, theo cách nho nào đó, chia lại cho kẻ khó. Song tốt bụng theo cách riêng của . Cái khổ đau to lớn của nhân loại chẳng có nghĩa gì với cả, bởi vì đấy là phần của trật tự muôn đời. chịu nổi những tổ chức từ thiện cũng như những kẻ bán rao từ thiện chuyên nghiệp. Mặt khác, cái mà cho cũng chẳng phải để lương tâm đỡ cắn rứt. chẳng nợ nần ai cả nên chẳng nghĩ tới việc hoàn trả. Cái mà cho là quà tặng, tự nguyện vì muốn cho ai cho. Thường cho những kẻ xung quanh mình. Chẳng bao giờ đóng góp vào quỹ cứu giúp nạn nhân động đất ở Nhật Bản hoặc vào quỹ câu lạc bộ ngoài trời của thành phố Nữu Ước. Thay vào đó, trợ cấp cho Jones, chàng thanh niên gác thang máy, liên tục trong năm để ta có thể viết cuốn sách. Khi nghe báo là vợ của người phục vụ cho tại Khách Sạn Thánh Francis bị mắc bệnh lao phổ, liền gửi bà ta đến Arizona để chữa chạy. Sau khi bác sĩ bảo rằng trưởng hợp của bà còn hy vọng cứu chữa cũng gửi ông chồng đến đó để săn sóc vợ cho đến khi bà ta xuôi tay nhắm mắt. Cũng vậy mua bộ dây cương đan bằng lông ngựa của tội nhân thuộc trại cải tạo ở miền Tây. này đâu cũng về chuyện ấy cho đến lúc có gần phân nửa số tội nhân ở đó làm dây cương ngựa để bán cho . mua tất cả, trả mỗi bộ dây như cương vậy từ hai mươi đến năm mươi đô-la. Những bộ dây cương này đẹp và do sức lao động lương thiện tạo ra nên dùng chúng để trang hoàng phần tường còn lại trong phòng ngủ của mình. Cuộc sống khắc nghiệt ở Yukon làm Ánh Sáng Ban Ngày chai đá. Chỉ có nền văn minh mới làm trở thành như vậy. Trong cuộc chơi dã man, dữ dội mà tham dự, cái thói quen hoà nhã biến dần khỏi mà chẳng ngờ, cũn như cái giọng kép dài nguyên lười lĩnh kiểu miền Tây của vậy. Giọng của trở nên sắc bén và gấp gáp, đầu óc cũng thế. Cuộc chơi biến chuyển lẹ làng khiến còn giờ để quan tâm giúp đỡ kẻ khác nữa. biến chuyển này lại đấu ấn gương mặt của . Vẻ mặt trơ nên nghiêm nghị hơn. Hiếm còn bắt gặp vành môi cong lên vui nhộn hoặc nụ cười ở đuôi mắt có nếp nhăn. Ngay cả đôi mắt đen lấp lánh như mắt thổ dân cũng toát lên vẻ độc ác và ý thức tàn tạo là mình có quyền lực. Sức mạnh vô song vẫn còn, và toát ra từ bộ con người . Nhưng sức mạnh này bây giờ là sức mạnh của con người mới, con người chinh phục chà đạp lên người khác. Những đấu tranh của chống lại thiên nhiên sơ khai. Những đấu tranh của tại là toàn với giống đực thuộc chủng loại của . Cái gian khổ leo đèo lội suối, chịu đựng băng giá làm hỏng nhiều bằng cái gay gắt cay đắng của việc vật lộn với đồng loại. Ðôi lúc vẫn còn giữ được tính hoà nhã vui vẻ, nhưng điều đó chỉ xảy ra theo cơn và tự nguyện, thường là sau khi uống vài ly rượu cocktail trước bữa ăn. Khi còn ở phương Bắc, uống nhiều nhưng đều. Bây giờ uống có hệ thống và kỷ luật. Tuy đây là thói quen tự giác song nó là kết quả của trạng thái tinh thần và thể xác. Những ly rượu cocktail có tác dụng hạn chế bớt. Dù nghĩ ngợi hoặc lý luận gì về chuyện ấy, cũng biết rằng căng thẳng khi ở văn phòng, kết quả của những cú làm ăn táo tợn và bạt mạng, cần phải được hạn chế lại, hoặc làm cho quên . Qua năm tháng khám phá rằng những ly rượu đem lại cho điều này. Chúng tạo ra bức tường đá. uống rượu vào buổi sáng hay trong giờ làm việc. Nhưng khi rời văn phòng lập tức dùng rượu tạo quanh mình bức tường cảm này. Lúc đó, chuyện làm ăn biến ngay thành chuyện khép kín, còn tồn tại nữa. Vào buổi chiều, sau bữa ăn trưa, chuyện làm ăn lại sống lại thêm hoặc hai giờ đồng hồ nữa, để rồi, khi rời văn phòng, lại dựng lên bức tường cản đó lần nữa. Đương nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Những khi phải ăn tối hoặc dự họp với kẻ thù hoặc người cùng cánh để bàn về những chiến dịch làm ăn, những lúc ấy tuân thủ kỷ luật và uống rượu, lại quay về với tiếng réo gọi muôn đời của ly rượu Martini, với số lượng gấp đôi rót vào cái ly dài hơn. Chú thích: (1) Tiếng Pháp trong nguyên văn: Hành động đúng địa vị. Chương 6 cách lặng lẽ, Dede Mason len lỏi vào cuộc sống của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc đầu chấp nhận diện của nàng như cá nhân riêng biệt, mà như phần của đồ đạc trong văn phòng, như chú bé giúp việc, như chàng Morison, người nhân viên trưởng đáng tin cậy duy nhất, cũng như tất cả các vật cần thiết khác cho nơi làm ăn có tính cờ bạc của siêu nhân. Trong những tháng nàng mới vào làm, nếu có ai bất chợt hỏi đến, cũng thể nổi mắt nàng màu gì. Tóc nàng vốn màu vàng hoa, vậy mà trong tiềm thức của mình, lại lờ mờ nghĩ rằng nàng gầy, song lại chẳng biết là nàng có mập hay . Về cách ăn mặc của nàng lại càng mù tịt. Mắt được tinh lắm về những chuyện ấy, vả lại cũng chẳng quan tâm. cho rằng đương nhiên nàng phải ăn mặc theo cách nào đó, bởi vì chưa bao giờ có ấn tượng ngược lại cả. biết rằng nàng đánh máy có vẻ nhanh và chính xác. Cảm giác này cũng chẳng ràng lắm, bởi vì chẳng có kinh nghiệm gì với các đánh máy khác, và luôn quan niệm đánh máy nào cũng lanh lẹ và chính xác cả. sáng nọ, khi ký tên mình dưới các bức thư, chợt bắt gặt hai chữ I shall(1). vội liếc qua toàn bộ trang giấy để tìm xem còn đâu có những chữ đó nữa , nhưng chỉ thấy toàn những chữ I will mà thôi. Hai chữ I shall đó đứng đơn độc, nổi bật hẳn lên. bấm chuông gọi hai lần, và lát sau Dede Mason bước vào. - Tôi có đọc như vậy , Mason? - hỏi, chìa bức thư ra và chỉ vào hai chữ phạm lỗi ấy. Mặt nàng thoáng lộ vẻ bực hội, nhưng đành chịu để bị buộc tội. - Ðấy là lỗi của tôi, - nàng - Xin ông hãy thứ lỗi. Nhưng viết như vậy sai, ông cũng biết điều đó mà. - Sao lại sai?- Ánh Sáng Ban Ngày hỏi, giọng thách thức - Theo tôi viết như vậy nghe được. Lúc này nàng ra đến cửa, nhưng phải quay người lại, tay còn cầm bức thư phạm lỗi. - Nhưng nó vẫn cứ đúng như thường. - Ðúng thế, - nàng bạo dạn trả lời - Thế tôi có phải thay hai chữ ấy ạ? "Tôi (2) đến đó xem xét lại việc này vào ngày thứ hai" Ánh Sáng Ban Ngày to giọng lập lại câu ấy trong bức thư. lập lại cách nghiêm trang trịnh trọng, vừa lắng tai nghe giọng của chính mình. Rồi lắc đầu : - Nghe chẳng ra sao cả, Mason ạ. Nghe được chút nào cả. Chưa có ai viết cho tôi như thế. Ai cũng I will, kể cả vài người có học nữa. Ðúng nào? - Thưa ông, đúng ạ! Nàng gật đầu công nhận, rồi rời phòng về bàn máy đánh chữ sửa lại hai chữ ấy. Tình cờ đúng vào ngày hôm ấy, ngồi ăn trưa với mấy người, trong đó có tay kỹ sư mỏ trẻ tuổi người . Vào lúc nào khác chẳng để ý, nhưng vì vừa mới tranh luận với thư ký nên rất ngạc nhiên bởi cách dùng những chữ I shall của tay kỹ sư này. Trong suốt bữa ăn, hai từ này cứ được lập lại nên Ánh Sáng Ban Ngày nghi ngờ là mình lầm nữa. Sau bữa ăn chiêu đãi đó, kéo Mcintosh ra góc, bởi vì là trong những người học qua đại học. biết thế bởi vì rất nổi tiếng về đá bóng. - Nghe này, bạn, - Ánh Sáng Ban Ngày hỏi - "Tôi (I shall) đến đó xem xét lại việc này vào ngày Thứ Hai" với lại "Tôi (I will) đến đó xem xét tại việc này vào Thứ Hai" câu nào đúng? Người cựu đội trưởng bóng đá suy nghĩ rất lung trong lúc. - Chịu thôi, - thú nhận - Thường tôi hay như thế nào nhỉ? - Ồ dĩ nhiên là cậu I will. - Nếu như vậy cách kia đúng hơn. Ngữ pháp của tôi bết lắm. đường trở về văn phòng, Ánh Sáng Ban Ngày ghé vào hiệu sách mua quyển ngữ pháp. Ngồi gác chân lên bàn, đọc hết trang này qua trang khác cách khó nhọc trong tiếng đồng hồ. - Nếu bé ấy đúng cứ đem đầu mình ra mà chặt, - to lên như vậy sau khi đọc xong. Lần đầu tiên nhận ra rằng có cái gì đó trong thư ký đánh máy của mình. Từ trước đến giờ, xem nàng như giống cái, món đồ trong văn phòng của mình. Nhưng giờ đây, sau khi nàng tỏ ra biết nhiều về ngữ pháp hơn nhưng dân làm ăn và dân đại học, đối với nàng trở thành cá nhân. Trong ý thức của , nàng nổi bật lên, y như hai chữ I shall nổi bật trang giấy đánh máy. bắt đầu chú ý đến nàng. Chiều hôm đó, được nhìn thấy nàng rời khỏi văn phòng. Lần đầu tiên nhận ra rằng thân hình nàng cân đối và cách ăn mặc của nàng trông hợp mắt. biết gì về y phục phụ nữ, và chẳng nhận thấy được chi tiết là cái áo ôm gọn lấy và bộ đồ khoác ngoài của nàng được may khéo chỉ thấy được những nét chung chung và nhận biết là nàng trông cũng được, bởi vì chẳng thấy có gì sai trái hoặc trật chìa cả. - là bé ưa nhìn, - kết luận như vậy khi cánh cửa văn phòng bên ngoài đóng lại phía sau nàng. Sáng hôm sau, lúc đọc cho nàng đánh máy, công nhận là thích cách nàng chài tóc, mặc dù thà chết chứ sao diễn ra được. chỉ biết là kiểu tóc đó trông được, thế thôi. Nàng ngồi giữa và chiếc cửa sổ, và chú ý thấy tóc nàng màu nâu sáng, có vẻ gần như màu vàng chói của đồng. Ánh Sáng Ban Ngày của mặt trời xuyên qua ô cửa sỏ chiếu lên mái tóc vàng ấy làm nó rực lên trông rất là hay. nghĩ là buồn cười vì từ trước đến nay chú ý đến tượng đó. Lúc đọc đến đoạn giữa bức thư, gặp phải cái cấu trúc hôm trước gây rắc rối. nhớ lại cuộc vật lộn với quyển ngữ pháp nên bèn đọc: - Trong việc làm ăn này, tôi (I shall) gặp ông vào khoảng giũa… Mason ngay lập tức đưa mắt nhìn . Cử chỉ này hoàn toàn do phản xạ và, ra, cũng có phần do ngạc nhiên. Nhưng ngay lập tức nàng lại nhìn xuống, chờ đọc tiếp. Trong cái giây phút ngắn ngủi mà nàng ngước lên nhìn đó, chú ý thấy mắt nàng màu xám. Về sau, lại chú ý thấy cũng đôi mắt xám ấy lâu lâu lại loé lên những ánh màu vàng rực. Nhưng bây giờ, chỉ bằng đó điều quan sát thấy cũng đủ làm ngạc nhiên lắm rồi, bởi vì chợt nhận ra rằng từ trước tới nay vẫn cứ ngỡ rằng tóc nàng có màu nâu xẩm và mắt nàng cũng màu nâu theo lẽ thường tình. - Lần trước rất đúng, - thú nhận như vậy với nụ cười bẽn lẽn trông chẳng thích hợp với gương mặt thổ dân nghiêm khắc của cho lắm. lần nữa lại được ban thưởng cái ngước mắt nhìn lên và nụ cười ngụ ý nàng nghe . Lần này xác nhận thêm là ánh mắt nàng màu xám. - Nhưng tôi nghe nó vẫn cứ làm sao ấy, - phàn nàn. Nghe vậy nàng bật cười lớn. - Xin ông thứ lỗi cho, - nàng vội chữa lời, nhưng rồi lại thêm câu có tác dụng ngược lại ông buồn cười. Ánh Sáng Ban Ngày bắt đầu cảm thấy mình cũng có phần kỳ quặc. Ánh mặt trời vẫn cứ làm cho tóc nàng vàng rặc hẳn lên. - Tôi có đầu có muốn tự làm cho mình trông có vẻ buồn cười, - . - Chính điều đó khiến tôi bật cười đấy. Nhưng câu ông vừa độc rất đúng ngữ pháp. Ðúng hoàn toàn. - Thôi được, - thở ra, - "Trong việc làm ăn này tôi (I shall) gặp ông vào khoảng giữa..." đánh máy đến đó chưa? Ánh Sáng Ban Ngày lại tiếp tục đọc cho nàng đánh máy. Ðôi lúc có việc gì làm, chú ý thấy nàng hay đọc sách và tạp chí hoặc ngồi đan lát thêu thùa như những phụ nữ khác thường làm. Có lần, khi ngang bàn làm việc của nàng, gặp tập thơ của Kipling(3) bèn cầm lên đọc qua vài trang mà hiểu gì cả. - thích đọc sách lắm nhỉ, Mason? - vừa vừa đặt tập thơ xuống bàn. - Thưa vâng, - nàng đáp - Rất thích ạ. Lần sau lại thấy quyển Những bánh xe xủa thời cơ của Wells(4). - Nó về gì thế - hỏi. - Dạ, đó chỉ là quyển tiểu thuyết. truyện tình thôi ạ. Nàng chỉ có thế, nhưng Ánh Sáng Ban Ngày vẫn đứng như chờ đợi nên nàng buộc phải tiếp: Truyện kể về nhân viên trong hiệu vải thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội ở Khu Ðông Luân đôn(5). ta nghỉ hè bằng xe đạp, rồi đem lòng có địa vị xã hội cao hơn ta nhiều. Mẹ của là nhà văn rất nổi tiếng. Tình tiết của truyện rất ly kỳ, buồn lắm. Ông có muốn đọc ạ. - Thế rồi chàng kia có lấy được ? - Ánh Sáng Ban Ngày hỏi. - Thưa, . Vấn đề là ở chỗ đó. ta . ta lấy được . - Bộ đọc cả trăm trang giấy như vậy chỉ để biết được điều đó thôi ư? - Ánh Sáng Ban Ngày lẩm bẩm, vẻ kinh ngạc. Mason vừa bực mình vừa thấy buồn cười. - Vậy chứ ông chả đọc tin tức về hầm mỏ và tài chính cả giờ đồng hồ là gì đấy, - nàng trả đũa. - Nhưng điều đó đem lại lợi lộc cho tôi. Ðó là chuyện làm ăn nên khác hẳn. Tôi có thể hái ta tiền nhờ những tin tức đó. Còn thu được cái gì từ mấy quyển sách nào? - Ðược những quan điểm, ý tưởng mới, cuộc đời. - Chẳng đáng xu tiền. - Nhưng cuộc đời đáng giá hơn tiền bạc, - nàng cãi lẽ. - Thôi cũng được, - đấu dịu theo kiểu dễ dãi của những người đàn ông - Nếu thấy thích cung chẳng sao cả. Ðiều quan trọng là ở chỗ đó, phải ? Sở thích cá nhân thể được. Dù có mặc cảm tự tôn, Ánh Sáng Ban Ngày vẫn nghĩ rằng nàng biết rất nhiều, và thoáng có cảm giác của kẻ mọi rợ khi đối mặt với chứng cứ của nền văn hoá lớn. Ðối với văn hoá là thứ bỏ , tuy vậy, vẫn hoàn toàn an tâm vì cảm thấy rằng trong văn hoá còn có cái gì đó mà tưởng tượng ra được. lần nữa, lúc ngang qua bàn của Dede Mason, lại gặp quyển sách rất quen thuộc với . Lần này dừng lại bởi vì nhận ra bìa sách. Ðây là quyển sách do tay phóng viên của tờ tạp chí viết về vùng sông Klondike, chủ yếu là viết về và có đăng hình . còn biết là quyển sách đó có chương về vụ tự tử của phụ nữ do "quá mê Ánh Sáng Ban Ngày" mà ra. Sau lần đó, chuyện với nàng về sách vở nữa. tưởng tượng đến những kết luận sai lầm mà nàng rút ra từ chương sách ấy và thấy đau nhói vì chúng xứng đáng với . Trong tất cả những chuyện thêu dệt về , Ánh Sáng Ban Ngày - lại được tặng cho cái danh hiệu là người bóp nát trái tim phụ nữ! phụ nữ tự tử vì quá ! cảm thấy mình là kẻ bất hạnh nhất đời. tứ hỏi hiểu số mệnh run rủi làm sao mà trong hàng ngàn quyển sách đúng quyển sách đó lại rơi vào tay người nữ thư ký của mình. Trong suốt mấy ngày sau đó, hễ lần nao gặp hoặc đứng gần có Mason lại cảm thấy mình có tội, và rất lấy làm khó chịu vì chuyện ẩy. còn quả quyết là có lần nàng nhìn cách chăm chú tò mò, như thể muốn tìm hiểu xem thuộc hạng người nào. dò hỏi Morison, người nhân viên trưởng. Như được dịp, chàng này phun ra những lời than phiền cá nhân về Dede Mason trước khi chịu kể lại cho nghe số tin tức ít ỏi mà ta biết về nàng. ấy quê ở Hạt Siskiyou. Làm việc chung với ấy rất thính, nhưng ấy hơi kiêu hãnh, thưa ông. - Làm sao biết chuyện đó?- Ánh Sáng Ban Ngày hỏi. - ấy tự nghĩ về bản thân quá cao nên chịu hoà đồng với những đồng nghiệp của mình. Ở văn phòng này cũng vậy, ấy chẳng qua lại với bất kỳ ai cả. Tôi nhiều lần mời ấy chơi, xem hát hoặc trượt tuyết, nhưng lần nào ấy cũng từ chối. ấy viện lý do nào là cần phải ngủ, được thức khuya, rồi nào là nhà xa, ở mãi Berkeley(3) lận. Nghe Morison thuật lại đến đấy, Ánh Sáng Ban Ngày có vẻ rất hài lòng. Nàng giống với hạng tầm thường, chắc chắn như vậy. Nhưng Morison lại thêm khiến hơi buồn: - Mà ấy chỉ làm bộ làm tịch vậy thôi. ấy hay giao dịch với học viên. giờ ấy vẫn thế. ấy bảo cần phải ngủ nên thể xem hát với tôi được vậy mà ấy có thể nhảy nhót với cái lũ sinh viên hàng mấy giờ liền. Chính tai tôi nghe là ấy tham dự mọi cuộc nhảy nhót của bọn chúng. Kể ra ấy hơi quá kiêu kỳ so với địa vị thư ký. Mà ấy lại có cả con ngựa nữa chứ. Ngồi cưỡi ngựa chàng hãng y như đàn ông ở khu đồi ngoài kia kìa. Có lần, vào ngày chủ nhật tối thấy ấy cưỡi ngựa đấy. Ôi, ấy ham với cao quá, mà tôi chẳng hiểu ấy đào đâu ra tiền để sống như vậy. Lương sáu mươi lăm đô-la tháng có nhiều nhạnh gì, mà lại còn phải đèo thêm cả cậu em đau ốm nữa chứ. - ấy sống với gia đình chứ? - Ánh Sáng Ban Ngày hỏi. - , ấy chẳng còn ai cả. Nghe trước kia gia đình ấy cũng thuộc loại khá giả. Chắc đúng như vậy, nếu cậu em của ấy chẳng học ở Ðại học California được. Bố ấy có trại chăn nuôi bò lớn lắm, nhưng hiểu vì sao lại quay qua nghề đào vàng để rồi phải phá sản mà chết. Mẹ ấy chết trước đó khá lâu. Còn cậu em làm tốn khá bộn tiền. Trước kia cậu ấy to con lắm, chơi bóng đá, giỏi về săn bắn và leo núi. Có lần cậu ấy bị ngã ngựa, thế rồi chứng phong thấp hay là chứng bệnh quái quỷ gì đó nhập vào người. Bây giờ chân của cậu ấy bị teo lại và ngắn hơn so với chân kia, đến mức phải bằng nạng. Có lần tôi thấy hai chị em với nhau ở bến đò. Bác sĩ cứu chữa cho cậu ấy mấy năm nay rồi đấy. Nghe đâu cậu ấy nằm bệnh viện Pháp phải. Tất cả những tin tức bên lề này càng làm cho Ánh Sáng Ban Ngày chú ý đến nàng nhiều hơn. Song, tuy rất muốn, vẫn làm quen được với nàng. có ý định mời nàng ăn trưa, nhưng đó chỉ là kết quả của lòng hào hiệp bẩm sinh của người sống ở vùng biên thuỳ mà thôi, nên rốt cuộc ý định đó cũng chẳng đến đâu. hiểu người sòng phẳng, tự trọng bao giờ được đưa thư ký của mình ăn trưa. Những chuyện đó phải là xảy ra. có nghe các hội viên trong câu lạc bộ của xì xào rất gay gắt về những chuyện như thế. Bản thân chẳng thèm để ý đến loại đàn ông kiểu đó và cảm thấy rất tiếc cho mấy . có quan niệm hơi kỳ lạ là người ta có ít quyền đối với những người họ thuê mướn hơn là đối với những kẻ quen biết hoặc khách lạ. Giá như Mason này phải là nhân viên của tin là có thể mời nàng ăn hoặc xem hát bất cứ lúc nào. cho rằng người chủ mang tiếng là xử ép nếu sau khi mua những giờ làm việc của nhân viên mình rồi mà còn muốn sử dụng thêm thời gian còn lại của họ dù theo cách nào nữa. Làm như thế chẳng khác nào ăn hiếp và công bằng, là lợi dụng việc người nhân viên đó phải dựa vào mình để mà kiếm sống. Người nhân viên có thể vì sợ mất lòng chủ mà chiều ý ông ta, chứ phải do tự nguyện. Riêng trường hợp của làm như vậy càng thô bỉ vì chẳng phải là nàng đọc cái quyển sách về vùng Klondike do tên phóng viên đáng nguyền rủa ấy viết rồi đó sao? người con kiêu kỳ cả với chàng Morison đẹp trai lịch lãm như thế hẳn phải nghĩ về chẳng mấy hay ho gì. Hơn nữa, ngoài các lý do còn có lý do là nhút nhát. Cái duy nhất mà sợ trong đời là đàn bà. Suốt đời sợ họ. Mà cũng chẳng dễ dàng thoát khỏi cái tính nhút nhát đó, dù là bây giờ trong bắt đầu nhen nhúm lòng khát khao phụ nữ. Bóng ma của việc kiêng kỵ sợ dây tạp dề vẫn cứ ám ảnh , và giúp có cớ để tiến thêm bước nào nữa trong quan hệ giữa và Dede Mason. Chú thích: (l) I shall và I will đều có nghĩa tiếng Việt: Tôi . Theo ngữ pháp tiếng truyền thống chữ shall được dùng với ngôi thứ 1 số ít (l) và ngôi thứ I và số nhiều (We) để cấu tạo tương lai. Chữ will chỉ được dùng với ngôi thứ 2 số ít và số nhiều (You), và ngôi thứ 3 và số ít và số nhiều (He, She, It, They) Dede Mason muốn là Ánh Sáng Ban Ngày dùng sai ngữ pháp tiếng (2) Tôi trong nguyên văn là I shall (3) wipling, Rudyard (1865-1936): nhà viết tiểu thuyết và nhà thơ . Giải thưởng Nobel năm 1907 (4) Wells, Herbert George (1966-1946): nhà văn (5) Thành phố Luân Ðôn được chia thành hai khu có cuộc sống trái ngược hẳn nhau: Khu Tây Luân Ðôn (West End) là khu nhà ở sang trọng của những người giàu có, và Khu Ðông Luân Ðôn (East End) là khu nhà ở tồi tàn của những người nghèo khổ (6) Berkeley: thành phố cảng ở phía Tây của bang California, nằm Vịnh Sơn Francisco. Ở phía Bắc Oakland