Mất hồn Mất hồn, tục ngữ còn gọi là rơi mất hồn, việc này chỉ xảy ra sau khi gặp chuyện gì quá kinh hãi. Cũng chính là muốn , con người sau khi gặp phải chuyện kinh sợ, hoặc hồn lìa khỏi xác, hoặc ngẩn ngơ, hoặc hôn mê,… về mặt y học cho rằng họ bị bệnh động kinh, còn dân gian lại cho rằng có nguyên do khác, những người này bị như vậy là kết quả của việc mất hồn. Trong mắt họ, linh hồn của con người giống như con ngựa bị động kinh, tuột dây cương nên giằng chạy khỏi thể xác, và nhất thời thể nào khôi phục được bình tĩnh, chạy nhảy khắp nơi, tìm được nơi về, thế là chỉ còn lại thể xác có linh hồn “ ngờ nghệch” vì sợ hãi. Nhưng đây chỉ là tình trạng hết sức bình thường, còn trong những câu chuyện về thế giới u minh có rất nhiều những tình tiết bình thường, thậm chí là bất thường. Có câu chuyện kể rằng, con người mất linh hồn, thể xác vẫn hoạt động bình thường, như trong U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh đời Nam Triều có ghi lại việc linh hồn của Thạch Thị Nữ bỏ nhà đến nhà tình nhân ở, còn thể xác vẫn ở lại nhà cùng mẹ làm việc như mọi ngày, có gì khác thường. Cho đến khi hai người gặp nhau, linh hồn đột nhiên biến mất. Ghi chép trong Linh quái Lục của Trương Tiến đời Đường, nội dung tương tự, thậm chí có phần sinh động hơn. Cuối năm Thiên Bảo, Trịnh Sinh ứng cử vào kinh, đến ngoại ô phía tây của Trịnh Châu, ở trọ nhà người, ngờ người này lại chính là bà họ của Trịnh Sinh. Hỏi ra mới biết Trịnh Sinh chưa lấy vợ, lão thái thái : “Vừa hay cháu ngoại ta cũng ở đây, nó họ Liễu, cha làm huyện lệnh ở Hoài Dương. Ta thấy gia cảnh hai người rất môn đăng hộ đối.” Trịnh Sinh dám từ chối, tối hôm đó liền thành thân với Liễu Thị. Phu thê ân ái qua mấy tháng, bà họ với Trịnh Sinh: “Cháu hãy đưa dâu mới của mình đến Hoài Dương, nhận cha mẹ vợ .” Đến nhà họ Liễu ở Hoài Dương, Trịnh Sinh vừa thông báo, cả nhà họ Liễu thất kinh, bởi con họ vẫn ở trong thâm khuê, sao lại có thể đưa chàng rể từ ngoài về được? Hai vợ chồng họ Liễu vội vàng chạy ra cửa xem tình, chỉ thấy nương ngồi xe giống hệt con mình. nương đó xuống xe, từ từ bước đến giữa đình, còn trong đình nghe tin, chỉ cười hi hi ra gặp mặt, hai gặp nhau giữa đình, liền hợp lại thành . ra, lão thái thái là vong hồn ở dưới đất, ngôi nhà ở ngoại ô phía tây Trịnh Châu là mộ của bà lão, người mà bà lão gả cho Trịnh Sinh chính là linh hồn của cháu ngoại. Nhưng vị tiểu thư ngày đêm giam mình ở thâm khuê, cũng vẫn sống bình thường, thiếu hồn nhưng cũng có bộ dạng kỳ quái, ngốc nghếch. Nó giống như truyện Độc dị ký trong Vi (quyển 35 Thái bình quảng ký (ngay sau Độc dị chí của Lý Cang)… Cũng là sau khi hồn rời khỏi xác, mạnh ai nấy sống, cứ như có được thuật phân thân của thần tiên vậy. Nhưng những câu chuyện này bỏ qua những kiến thức về việc hồn và xác thể tách rời, chỉ cần hai bên đều vui vẻ, lạ có lạ, nhưng thiếu rất nhiều những tình tiết thú vị của các câu chuyện mất hồn, sau đời Đường cũng còn bắt gặp những câu chuyện kiểu này nữa. Nguyên nhân cụ thể của việc mất hồn rất nhiều, cách thể cũng rất khác nhau, còn việc linh hồn thoát ra khỏi thể xác, chạy đâu, làm những gì cũng có nhiều cách khác nhau, đồng thời cũng sản sinh ra rất nhiều tình tiết kỳ quái làm đề tài bàn tán. Chuyện kể rằng, có người sau khi ngã, cố gắng đứng dậy được hồn rời khỏi xác. Trong Tử bất ngữ của Viên Mai, truyện Trang Sinh, quyển mười lăm , Trang Sinh sau khi rời khỏi nhà Trần Thị, lúc qua cầu trượt chân ngã, sau đó liền “vội vàng đứng dậy về nhà, gõ cửa thấy có ai trả lời, bèn quay lại nhà Trần Thị. em Trần Thị vẫn vui vẻ, thả bộ ở đình viện”. Những hành vi lúc này là của linh hồn rồi, còn thế giới mà ta ngao du còn giống ở nhân thế nữa. ta nhìn thấy vườn hoa lớn, ra là vườn rau nhà chủ nhân. “Thấy thai phụ ở cữ trong đình nghỉ chân, gương mặt xinh đẹp, ra đấy là lợn mẹ sinh con trong chuồng. ta lại qua thư phòng, em Trần Thị đánh cờ, để ý tới ta, tự thấy buồn chán, liền tiến tới chêm vào vài câu, thấy mọi người lờ như nghe thấy, ta lại dùng tay vẽ lên bàn cờ, sắc mặt chủ nhân đột nhiên hoảng hốt tột độ, như vừa nhìn thấy ma, vội vàng chạy vào phòng. Trang Sinh cảm thấy buồn chán vô cùng, bèn quay về nhà. đến đầu cầu, ta lại trượt chân ngã. Đứng dậy, về nhà gõ cửa, người trong nhà nghe thấy ra mở cửa cho ta. ra, cú ngã sau là linh hồn ta ngã, cú ngã đó khiến linh hồn quay về với thể xác, thể xác của ta khi ấy nằm hôn mê, bất tỉnh ở đầu cầu. Khi Trang Sinh nhìn thấy thai phụ ở cữ, cũng may biết giữ lễ mà rút lui, nếu ta lại gần nhìn trộm, có thể vô tình phải đầu thai thành lợn, “rơi vào kiếp súc sinh”. Nhưng điều khiến người ta hiểu là, ta quên lời thánh dạy “ nam nữ thụ thụ bất thân”, cho thấy ta vẫn rất tỉnh táo, nhưng sao có thể nhìn con lợn nái thành người đẹp được nhỉ? Nhưng có người sau khi trượt chân, thân thể những trở thành thây ma mà linh hồn cũng rơi vào trạng thái hôn mê, tìm được đường về nhà. Trong truyện Đa tiền phong, quyển bốn, Dạ đàm tuỳ lục do Nhàn Trai Thị người đời Thanh viết, kể về Đa Nhị Gia, học cưỡi ngựa, bắn cung ở bên ngoài thành Đông Trực Môn, do bất cẩn nên ngã ngựa, bị hôn mê bất tỉnh, may có bạn dìu đỡ về nhà. “Về nhà ngay lập ức, thấy bị thương chỗ nào, nhưng mắc chứng tâm thần, cười như bình thường được.” ra linh hồn của ta ở lại bên ngoài thành, những bị mất phương hướng, thậm chí còn biết nhà mình ở đâu, đành lại lại ở nơi bị ngã, đợi người nhà ra đón. Nhưng người nhà chỉ nghĩ rằng ta mắc căn bệnh kỳ quái, vội vàng hỏi thầy hỏi thuốc, chứ nghĩ đến chuyện ta bị mất hồn. Cũng may, con ma vì treo cổ mà chết là Vương Lão Tây, giờ nắm trong tay quyền cai quản trị an vành đai thế giới u minh thấy Đa Nhị Gia vòng vòng ở đó, biết là về được nhà, con ma này kiếp trước chịu ơn huệ của Đa Nhị Gia, vội vàng chạy về nhà họ Đa Lão, nhập vào người bà lão trong nhà để báo tin. Thế là người nhà mang theo thân thể của Đa Nhị Gia, đến nơi ta ngã ngựa, gọi tên để chiêu hồn, cuối cùng, cũng giúp ta tỉnh lại, nhưng linh hồn này loanh quanh bên ngoài thành cũng phải hơn nửa tháng. Từ đó có thể thấy, thể xác có linh hồn ràng ổn lắm, linh hồn rời khỏi thể xác cũng chưa chắc giữ được sáng suốt. Thế là đột nhiên nghĩ đến câu : “Suy nghĩ là linh hồn”, đột nhiên hốt hoảng. lầm đường lạc lối của linh hồn này là bởi nó thể “suy nghĩ”, nếu suy nghĩ, chẳng phải tìm được đường về nhà sao, cũng có thể mất hoặc lạc mất. Giáo viên môn chính trị năm đó nếu kể mấy câu chuyện mất hồn này chẳng phải mọi người đều hiểu cả hay sao? Còn loại nữa, đó là câu mà chúng ta thường hay nghe thấy: “Sợ tới mức hồn bay phách lạc.” Nhưng câu chuyện loại này rất nhiều, tìm câu chuyện cực đoan nhất, là người bị áp giải đến pháp trường, đao phủ tay cầm cây đao lớn, chuẩn bị chặt đầu ta, nỗi kinh sợ đó bất giác khiến linh hồn con người phải thoát khỏi xác. Trong bút ký của những người đời Minh bàn đến “chuyện bị lãng quên” ở thời Thái tổ cao hoàng đế của họ, có thể thấy trước mặt chủ nhân uy nghiêm, linh hồn của những kẻ tôi tớ yếu đuối biết bao. viên thái giám bị thái tổ gia giáng chỉ, lôi ra ngoài chặt đầu, tội danh là “quét nước rượu theo phương pháp”, quét nước rượu dưới đất lẽ nào còn có phương pháp này kia hay sao? Có lẽ chắc vì thái tổ gia ngồi sau long án suy tính việc quốc gia đại , nhất thời xuất thần, bị thái giám xuất trước mắt làm cho giật mình. Vị thái giám này đến “quần áo thái giám” cũng kịp thay, bị lôi ra giữa chợ Kim Lăng Thành, chuẩn bị chặt đầu. Người thành Nam Kinh thích náo nhiệt, đặc biệt là khi nghe hoàng đế muốn giết chính nô tài của mình, thấy trước mắt vị thái giám quỳ chờ chết còn có người nữa đứng, cách ăn mặc và hình dáng giống hệt vị thái giám quỳ, ai nấy đều thấy lạ. Đúng lúc đó, thái tổ gia lại đột ngột ra thánh chỉ, giết nữa. Mọi người mới hiểu, vị đó chính là hồn của người thái giám nọ, do sợ quá mà xuất ra ngoài! Đôi lúc thái tổ gia cũng hài hước đùa: “Ngươi doạ ta lần, ta cũng doạ ngươi lần.” Chuyện này có thể đọc được ở Đô công đàm toản của Đô Mục và Canh dĩ biên của Lục Sán, cái được mô tả là đại thể tương đồng, phiên bản này có hơi khác khi đọc Dã ký của Chúc Sung Minh, trong đó rằng thái giám thụ hình sợ tới mức hồn bay lên nóc nhà, từ nhìn xuống thấy chính mình bị quàng qua cổ trói giật khuỷu tay. Từ đó có thể biết, đến pháp trường xem người ta thụ hình cũng là trong những thú vui của cư dân thành thị ngày đó, những đứng tràn khắp đường khắp chợ, trần nhà cũng trở thành khán đài quan sát. Còn về việc người bị giết là người nào, có phải đồng loại, đồng đảng của mình hình như ảnh hưởng gì tới họ, chỉ cần hay là được, cho dù người bị giết là mình có khi vẫn xem cách rất thích thú. vô cảm và vô tâm của “khán khách” luôn luôn như vậy. Lục Dung người đời Đường có ghi chép lại chuyện người lúc chuẩn bị thụ hình được tha bổng trong quyển ba Thục viên tạp ký, trong đó, vị tiên sinh rất có tố chất của ký giả cho mục giải trí đặt câu hỏi với người đàn ông may mắn còn chưa kịp hoàn hồn kia: “Khi chờ đao chém xuống, giây phút ấy có suy nghĩ gì? Tình cảm gì và nguyện vọng gì? ra cho chúng tôi nghe xem.” Người đàn ông đó trả lời: “Lúc ấy sợ hãi tới muốn xỉu, làm gì có cảm nghĩ với nguyện vọng! Chỉ là sau đó, lúc hoảng hốt, ngồi nóc nhà bên cạnh pháp trường, nhìn thấy giữa pháp trường người bị trói, đó chắc chắn là người bị chém, tôi thấy rất buồn, vợ con tôi, họ hàng thân thích, bạn bè của tôi vây quanh ta để làm gì?” Số linh hồn vì sợ hãi mà xuất ra khỏi thể xác ở pháp trường là bao nhiêu , nhưng có điều cần phải nghi ngờ, đó là đại đa số những linh hồn đó thể quay lại với thể xác. Khi họ xuống ghế khán giả, cuối cùng cũng hiểu ra người sắp bị rơi đầu kia có liên quan tới mình, có lẽ trong đầu có rất nhiều cảm nghĩ, đáng tiếc là có phóng viên nào kịp tới đó để phỏng vấn. Nhưng vẫn còn vài chuyện kỳ quái có thể làm tư liệu, vài linh hồn cá biệt sau khi rời khỏi thể xác lại nghiêm túc đứng bên theo dõi, trong lòng biết mình may mắn, phải chạy khỏi kiếp nạn này ngay. Quyển mười lăm Đồng kỳ giác trong Tử bất ngữ của Viên Mai ghi chép về nhân vật Lý Tư, tên chuyên đào trộm mộ, cầm xẻng chống lại người thi hành công vụ, liên tiếp đả thương hai người, phải ra pháp trường chịu án chém đầu. Khi bị trói đưa đến cửa chợ, ta ra sức giằng co và chạy thoát. Có người tên là Phó Cửu, ra khỏi Chính Dương Môn về phía tây, vừa qua cầu cảng , nhìn thấy có người chạy thục mạng từ phía trước lại, kịp tránh nên tông vào nhau, và hợp thành . ra, người chạy tới chính là linh hồn của Lý Tư, nhưng lại nhập vào thể xác của Phó Cửu. Còn về thể xác của ta, sớm bị chém rồi. Phó Cửu đáng thương rơi vào cảnh chim khách bị tu hú chiếm tổ, linh hồn của mình vất vưởng, lang thang có chỗ trú chân tạm thời , mà thể xác của ta cũng phải chịu giày vò. Đầu tiên là “đột nhiên có cảm giác cơ thể như bị giội nước, liên tục rùng mình”, rồi chạy đến cửa hàng bán lụa, ngồi xuống, đột nhiên hét lớn: “Ngươi cản đường ta, đáng ghét, đáng ghét!”, thế là ra sức tát vào miệng mình, giật râu mình… ràng là do linh hồn của Lý Tư tác quái, nhưng nhìn thấy thể xác của mình bị linh hồn kẻ khác thao túng là điều bất hạnh biết bao! Quyển năm, Sinh hồn vong tử trong Dực quynh bại biên của Thanh Dụng, gần như cải biên lại từ quyển hai, Quỷ hồn tụ phụ trong Vọng vọng lục, nhưng địa điểm từ Phúc Kiến chuyển đến Bắc Kinh: “Có kẻ vì thuê người giết người khác mà bị xử tội chém đầu. Kẻ này lại quen biết đao phủ, dùng tiền để đút lót, : “Xuống đao nhanh chút để ta phải chịu nhiều đau đớn.” Đao phủ nhận lời. Khi hành hình, đao phủ lên tiếng nhắc khẽ: “Sắp xuống đao rồi, mau !” Kẻ này ra sức vùng vẫy, linh hồn liền rời khỏi thể xác, thoát khỏi pháp trường, hơi chạy xa trăm dặm, đến đất huyện Hà Bắc Hùng, tìm quán ăn xin hùn vốn làm chung. Trước kia ta vốn mở quán rượu, chỉ cần thể tay nghề của người thành phố, chủ tiệm vui mừng như bắt được vàng, cuối cùng lại nhận ta làm con rể và cho ở rể. Năm sau nhạc phụ qua đời, ta liền trở thành chưởng quỹ. Hơn năm sau, tên đao phủ đó đến huyện Hùng thăm họ hàng, vừa hay vào quán của kẻ mình chém đầu năm xưa. Kẻ này vừa gặp lại tên đao phủ liền dập đầu tạ ơn. Tên đao phủ nhất thời chưa nhận ra, hỏi: “Ngươi là ai?” ta : “Tôi là xxx, chẳng phải ngài tha cho tôi ở pháp trường đó sao?” Đao phủ liền : “Chắc ngươi lầm rồi, kẻ đó chịu hình ở pháp trường.” ta nghe thấy vậy, lập tức trợn mắt, lè lưỡi, ngã vật xuống đất, rồi biến mất, đất chỉ còn lại bộ quần áo.” Nhân vật chính trong hai câu chuyện này đều bị mất hồn trước, sau đó làm ma, được coi là chuyện “mất hồn” chính thống, chỉ là kiểu tương tự, bàn đến để tư liệu thêm phong phú mà thôi. Ngoài ra, giang hồ còn có loại tà thuật gọi là “gọi hồn”, hoặc gọi là thuật bắt hồn, ngoài ra còn có những cách gọi khác như quan hồn, chí phách… cũng là trong những nguyên nhân dẫn đến vài người bị mất hồn. Việc “gọi hồn”, hiểu mặt chữ nghĩa là gọi hồn của người sống ra ngoài. Người đường, đột nhiên nghe thấy có ai đó gọi tên mình từ đằng sau, nếu như buột miệng trả lời hoặc quay đầu lại nhìn có khả năng bị trúng tà thuật, hồn bị gọi mất. Mà có hai mục đích khi gọi hồn người khác, là khiến người đó mất hồn, mơ mơ hồ hồ, chỉ có thể nhìn được hai bờ, hoặc là sóng lớn cuồn cuộn, đáy sâu nhìn thấu của vách núi cheo leo, chỉ có thể con đường trước mặt, nhưng theo “dẫn dắt” của nhân, bị đưa đến nơi hoang vắng, “bị khám khắp người” lấy sạch đồ trong túi, nặng đến quần áo cũng bị lột sạch rồi ném xuống nước. (Xem quyển hai, nhân trong Tam cương thước lược của Đổng Hàm người đời Thanh.) Kiểu này giống như trò dùng gậy đánh người khác ngất rồi cướp tiền bạc trong đêm tết Nguyên tiêu vậy. Còn mục đích thứ hai lại giống như bắt cóc nhưng người họ muốn bắt phải là cái xác mất hồn kia mà là linh hồn vừa bị gọi ra của người đó. Họ dụ linh hồn đó theo, nhốt ở nơi nào đó, sau đó đến gặp người nhà đòi tiền chuộc. Nếu ngoan ngoãn trả cho thầy cúng món tiền họ thả hồn ra, người đó từ từ tỉnh lại như sau khi bị hôn mê. Nếu người nhà chịu bỏ tiền chuộc sống chết của người đó rất khó , nặng trở thành vật để tế thần, bị bỏ mặc ai thèm nhòm ngó đến, ít nhất cũng ngẩn ngơ cả đời. Kiểu “gọi hồn” này ngoài gọi tên họ của người đó ra, còn có cách khác là cắt tóc của người đó hoặc lén xé mảnh quần áo, cũng có thể bắt hồn của đối phương . (Học giả Kuhn người Mỹ có tác phẩm Gọi hồn – 1976, năm khủng hoảng của nền thuật Trung Quốc, quyển sách chuyên điều tra những vụ án gọi hồn lớn chấn động cả nước, có thể tham khảo). Tệ hơn nữa là sử dụng thuật phù thuỷ, dùng kim châm vào hình nhân thế mạng, xua đuổi tà ma bắt sinh hồn, như thế chỉ là bắt hồn nữa mà là lấy mạng rồi. Giống như nhân Trương Kỳ Thần trong quyển tám của Tử bất ngữ có : “Có thể dùng thuật để bắt hồn người”, nhưng thuật này dùng cách là cắt hình nhân bằng giấy, gửi hồn mình hoặc hồn con trai vào hình nhân đó, người giấy này hoá thành hung thần ác quỷ, đến nhà kẻ thù tác oai tác quái, tóm bắt hồn của kẻ ấy. Nhưng thuật này vẫn luôn “ ứng với người khác mà ứng vào chính mình”. Trương Kỳ Thần gặp phải tiên sinh họ Ngô tin vào tà thuật, dùng Dịch Kinh để giải tà thuật khiến hung thần ác quỷ kia biến thành người giấy, nếu để người giấy này ở trong nhà tới hôm sau chính nhân sử dụng tà thuật đó mất mạng. Trong quyển tám, Đạo sĩ mất mạng vì sử dụng tà thuật và quyển mười, Đánh thi thể của đầu sách cùng loại đều kể về đạo gửi hồn vào búp bê hoặc thậm chí là cương thi, nguyền rủa để lấy hồn người khác, mưu đoạt tài sản, cuối cùng lại khiến chính mình thiệt thân. Kỳ lạ là, loại nhân đạo này lại có thể thịnh hành suốt thời gian dài, dùng thuật giữa ban ngày ban mặt, lại thu hút được rất nhiều kẻ si mê, sùng bái! Thế là trong số những linh hồn bị loại nhân này bắt , có nhóm là những tín đồ tự nguyện tìm đến nộp mình. Nguyên nhân là những người đó tư chất bình thường nhưng chí hướng lại cao, cũng may được làm danh công danh mẫu nên mặc định mục tiêu tiếp theo là trở thành thần tiên . Bởi vì trong các loại hình thần tương ly có loại gọi là “xuất thần”, đó là trò mà chỉ thần tiên mới làm được, giống như trường hợp của đại pháp sư La Công Viễn mang hồn thần của Đường Minh Hoàng đến nguyệt cung nghe Nghê thường vũ y khúc. Còn ưu điểm lớn nhất của kiểu “xuất thần” đó chỉ là thần du bát biểu, có thể uống nước cây Phù Tang [1] , ăn bít tết trong mộ mà là đợi đến thời khắc vô thường, thần xuất khỏi xác, tìm nơi nào đó để trốn, khiến quỷ sứ tìm thấy, phải quay về chịu đòn. Mấy lần như thế, Diêm Vương cũng hết cách, liền tích dấu lên tên kẻ đó trong sổ, thế là người tu hành ít nhất cũng có thể thành địa tiên, vừa chìm đắm trong tửu sắc, lại có thể trường sinh bất tử. Nhưng muốn được như thế phải tu luyện tiên đạo tới mức độ nào đó mới có thể khống chế được xuất nhập của hồn thần, nếu hồn ra khỏi xác rồi tìm được đường về, rớt vào cống thoát nước, hoặc vào nhầm hang chuột, người xui xẻo nhất quên đường về, hoá thành sương khói tản mạn khắp nơi, đáng thương [2] . Vì vậy, nếu muốn thành tiên, ít nhất cũng nên tìm thần tiên sống để bái làm sư phụ, tu luyện thêm bảy, tám năm. Nhưng buồn nỗi tất cả những “thần tiên sống” tự xưng đời này đều là giả, giống như trò lừa gạt, thay đổi, biến hoá những quy luật mấu chốt trong đạo xuất thân cũ, chỉ có thể biến những “tài tử tài nữ” bình thường thành bệnh nhân tâm thần cấp hai, mắt sáng quắc khác thường, năng linh tinh, cho cùng, linh hồn đó trúng “tư tưởng” giả mạo đạo thuật rồi. [1] Phù Tang: loại cây dâu và còn dùng để chỉ nước Nhật. [2] Quyển bốn trong ‘Động linh tụ chí’ của Quách Tắc có viết về viên quan về hưu, cư tại gia, tu học đạo thuật, ngày ngày ngồi thiền. Sau thời gian dài, chốt cửa của nguyên khí dần nới lỏng, đứa bé chui ra nhưng chỉ có thể bay lượn trong phòng. ngày nọ, bị tiếng mèo kêu bắt chuột làm cho thất kinh, thể quay lại thể xác, rồi dần tan biến. Lại có người tên Uông Sinh, cuối đời rồi vẫn chưa lấy vợ, chỉ chuyên tâm luyện đạo. Trong lúc ngồi thiền, đứa bé đẩy cửa bước ra, ngồi cửa sổ, chỉ lởn vởn nóc nhà, đến trưa xuống khỏi mái nhà, theo đường cửa sổ lần vào cửa, nhà người đó có người hầu mới, truyền gọi cơm trưa, tiếng hơi to chút, đứa bé thất kinh, quay lại mái nhà quên đường về, thời gian sau hoá thành làn khói bay khắp nơi, và Uông Sinh chết.
Gọi hồn Gọi hồn ở chương này có ý nghĩa trái ngược với gọi hồn ở chương trước. Khái niệm về gọi hồn ở chương trước là kiểu tà pháp của vu thuật (trò phù thuỷ), gọi hồn của người sống ra khỏi thể xác của họ, còn khái niệm gọi hồn ở chương này là gọi những linh hồn bị mất, bị lạc đường quay về, ngoài cách gọi là “gọi hồn” ra, người địa phương còn có những cách gọi khác như hoán hồn, chiêu hồn, thu hồn, bắt hồn, cướp hồn, khiêu mao sơn [1] ,… Công dụng của hai loại gọi hồn này tương phản nhau, nhưng về bản chất có gì khác biệt, cùng dùng vu thuật để thu hồi linh hồn con người. [1] Chỉ hoạt động nhảy múa của đạo sĩ để trừ ta ma… Về mặt lịch sử, thuật chiêu hồn sớm xuất trong Tang đại ký của Lễ ký kinh điển của Nho gia, còn cả trong “chiêu hồn” được cho là truyền thuyết của Tống Ngọc trong Sở Từ mà chúng ta đều rất quen thuộc, nhưng truy ngược lại thời gian có lẽ thuật này còn xuất xa xưa hơn nữa, chỉ là trong những tiết mục trong tang lễ. Cái gọi là “chiêu hồn, phục hồn” chính là chiêu hồi những linh hồn thoát khỏi thể xác, tương hợp với phách lúc này vẫn còn ở trong cơ thể, mục đích cuối cùng là giúp con người hồi sinh, đó chính là ý nghĩa chủ yếu khi sử dụng thuật này của tổ tiên. Còn với vu thuật nguyên thuỷ, thực ra cũng là trong những loại y thuật nguyên thuỷ, thuật chiêu hồn được dùng rộng rãi khi có người bị ngất, mê loạn, mắc bệnh hiểm nghèo, chết lâm sàng,… được coi là ở vào tình trạng mất hồn. Người chết là người thể chiêu hồn về được, nhưng những người chiêu được hồn về có thể chết. Đạo lý này cũng giống như cách tuyên truyền “chỉ có thể chữa bệnh, thể làm người chết sống lại” trong những bệnh viện đại nhất. Vì vậy, thuật chiêu hồn và tục chiêu hồn vẫn được lưu truyền cho tới ngày nay, còn những người chết vì thể chiêu hồn kia được các nhà Nho biến thành trong những trình tự trong tang lễ, nhưng đó còn là chiêu hồn phục sinh nữa mà là chiêu hồn nhập tang rồi. Những gì được ghi chép trong sách Nho được coi là khái niệm “phục” trong tang lễ, tức là chiêu hồn để hồn quay lại với phách: “Khí tuyệt tắc khốc, khốc nhi phục, phúc nhi bất tô, khả dĩ vi tử .” Về mặt ý nghĩa, ban đầu cũng là chiêu hồn để cứu sinh, người còn khí nữa khóc gọi, khóc gọi mà hồn quay lại dùng thuật chiêu hồn để gọi hồn về với phách, nếu dùng thuật chiêu hồn mà người vẫn sống lại, lúc ấy có thể cử hành tang lễ. Cách chiêu hồn trong tang lễ này, từ cổ tới kim chưa thấy có ngoại lệ nào, nhờ đó mà sống dậy, còn đối với cách chiêu hồn của các thầy phù thuỷ, tỷ lệ thành công tương đối cao. Điều này rất đơn giản, người là người chết, người là người bệnh, cũng giống như bây giờ chúng ta đều biết nên đưa người nào tới bệnh viện còn người nào vào nhà tang lễ vậy. Mặc dù cách mà họ chiêu hồn khác nhau nhiều, đều cầm quần áo, vật dụng cũ của người mất hồn (hoặc mới chết/ chết lâm sàng) trèo lên nóc nhà vái tứ phương, hô gọi, nhưng trong Nho gia lại coi đó là “lễ”, trở thành “văn hoá cần có” trong quá trình cử hành tang lễ, phát triển gì thêm, còn cách của các thầy phù thuỷ mặc dù bị coi là mê tín dị đoan, nhưng lại có quan hệ “sống còn” với dân chúng, so sánh hai thứ, ràng là có sức sống lâu hơn, thậm chí còn lôi cả hoà thượng và đạo sĩ vào, sinh ra rất nhiều dạng, kiểu khác nhau. Đương nhiên, trong những điểm mấu chốt, những thuật này với vu thuật thời xưa có gì khác. Cách gọi hồn thông thường nhất là gọi hồn của trẻ con. biết bây giờ thế nào, tôi chỉ biết vào nửa thế kỷ trước, vẫn thường thấy tượng này ở thành phố. Trẻ con phát sốt, hôn mê bất tỉnh, cách đơn giản nhất là người mẹ ôm con, xoa xoa đầu, gọi tên ở nhà: “Con mau quay về” hay đại loại thế. Nếu thấy có hiệu quả nên dùng những thủ đoạn hơi mang tính vu thuật. Và thuật thu hồn ở các địa phương giống nhau, có những điểm đặc sắc riêng. Trong quyển hai, Thu hồn của Dực Quynh bại biên, Thanh Dụng người đời Thanh có viết: Bình thường khi gặp cảnh con trẻ bị hoảng hốt, giữa đêm ngủ an giấc, lập tức cho áo của đứa trẻ đó vào trong cái đấu, sau khi thắp hương cúng khấn bàn thờ xong, người ôm cái đấu gọi tên của đứa trẻ, người đáp lại: “Về đây.” Đây là cách thu hồn trong dân gian ở Giang Tô, Thường Châu, còn ở Nam Kinh cách đó xa, lại có chút khác. Trong quyển hạ viết về Giang Tô của cuốn Phong tục tập quán đất nước Trung Hoa, Hồ Phan An có viết như sau: Trẻ con tình cờ bị ốm, mà có thể là đến nơi nào đó chơi rồi sợ hãi đến phát ốm, mất hồn ở nơi ấy. có người cầm quần áo của đứa trẻ, treo áo lên cán cân, người cầm đèn lồng đến nơi khác, dọc đường rắc rượu và lá chè, gọi tên đứa trẻ đó ( hô ứng) quay về, như thế là gọi hồn. Những gì ở đây tương đối đúng, tức là chưa cần thầy phù thuỷ đến xác nhận có đúng là người đó mất hồn hay , chỉ cần trẻ con “tình cờ bị ốm”, người lớn sợ linh hồn nó chạy mất, điều này cũng xuất phát từ nguyên nhân hơi thở của trẻ con yếu ớt, linh hồn dễ bị những du thần dã quỷ thuộc nơi khác bắt mất. Quần áo mà đứa trẻ từng mặc chính là đạo cụ cơ bản nhất, có thể có “giao cảm” đối với linh hồn bị mất của đứa trẻ, giúp cho linh hồn tìm được đường về với thể xác, nhập lại vào đó. Còn về cái đấu và cân, là vì chúng có công năng trừ tà, hai là lúc này có thể dùng để tải hồn về, còn gạo, lá trà là những vật phát ra chút “ vật”, có thể dùng để đổi lấy linh hồn mà bị những du thần dã quỷ bắt . Thực ra, loại vu thuật này khi áp dụng cho người trưởng thành cũng có thay đổi gì lớn. Cách chiêu hồn ở thời kỳ Tiên Tần, thể tách rời khỏi “cố phục”, “phục trang” trong tang lễ cũng là “ trong những loại quần áo dùng để chiêu hồn phục phách”. Trong truyện Lý Cập của Quảng dị ký, kể về việc hồn phách của Lý Cập bị quỷ sứ bắt nhầm, khi thả ra lại đưa về tận nhà, kết quả là tự mình tìm về nhà rồi nhưng do người nhà đứng chắn ở cửa nên vào được, đành chạy đến nhà bố vợ lánh tạm. Cũng may vợ ông ta “như có linh cảm”, lúc này mới “cầm theo quần áo và vật dụng của Lý Cập, dọc đường để chiêu hồn của chồng. Lý Cập theo vợ về đến nhà, thấy thi thể mình giường, liền nhập vào và sống lại”. A Bảo trong Liêu trai chí dị cũng viết: Tôn Tử Sở đơn phương, linh hồn chạy đến phòng của tình nhân A Bảo, thể xác ở lại nhà dở sống dở chết. Người nhà đến nhà A Bảo để chiêu hồn, thầy phù thuỷ cũng phải “cầm theo quần áo cũ, đệm cỏ trước kia”. Truyện Chu Ông trong quyển bảy, Chỉ vẫn lục do Dung Nột cư sĩ viết về phong tục ở huyện Ngân, tỉnh Chiết Giang như sau: “Nếu có người ốm đau thời gian dài, họ cho rằng hồn người đó còn ở trong xác nữa, chuẩn bị đồ tế lễ, đến miếu Thành Hoàng cúng thần, dùng con gà trống, khoác chiếc áo của người bị bệnh lên thân con gà, hô hoán gọi tên của người bệnh, hồn theo tên gọi về.” Áo mà người mất hồn từng mặc, đệm cỏ mà họ từng nằm, đồ mà họ từng dùng đều giống nhau, tác dụng cũng giống nhau, hồn của người đó nhận ra mùi của những đồ vật thuộc về mình. Con gà trống cũng giống như cái cân hay cái đấu, là vật trừ tà kiêm thu hồn. Linh hồn của con người có mối liên hệ mật thiết khác thường đối với quần áo, theo cách khác là bộ quần áo đó có sức hấp dẫn với linh hồn. Những câu chuyện về tượng này rất nhiều, thậm chí còn ly kỳ, cổ quái, phần sau, khi kể đến vấn đề ma quỷ mặc quần áo thuật lại những chuyện này. Nhưng có quần áo, đồ vật cũ cũng được, tìm thấy quần áo, đồ vật cũ cũng sao, có điều thể thiếu hành động “gọi” trong gọi hồn, đó chính là miệng phải ngừng gọi lớn tên người chết. Giọng to, linh hồn nghe thấy, đương nhiên cũng nên gọi to tới mức khiến linh hồn sợ hãi mà chạy mất. Gọi tiếng được, tiếng mất khiến linh hồn nghe thấy mà cảm thấy mông lung, tìm được đúng phương hướng, vì vậy phải gọi liên tục đứt đoạn. Ngoài ra, nếu linh hồn của người bị du thần nào đó giữ chặt chịu thả tiếng gọi cũng có tác dụng kéo linh hồn ra. Việc này giống như bị bạn kéo đánh mạt chược, cả đêm về, vợ đứng ngoài cửa và ngừng gọi tên mình, tới mức đám bạn bài bạc thấy chán ngán, thả cũng được. Trần Thiệu người đời Đường trong Thông u lục ghi lại chuyện Lô Toản nửa đêm lăn ra chết, cháu trai Lô Trọng Hải thấy tim người này vẫn còn ấm, liền nghĩ “có cách chiêu hồn để vong về”, “thế là gọi to tên Lô Toản, liên tục ngừng nghỉ, phải đến cả vạn lần”, cuối cùng khiến thúc phụ sống lại. Sau khi thúc phụ tỉnh lại, ông ta bị vị quan mời uống rượu, rượu thịt đầy bàn, vui vẻ triền miên, uống nhiều quá, đến mức quên cả việc phải về nhà. Đột nhiên nghe thấy tiếng cháu trai réo gọi, vừa gấp gáp vừa bi thương, trong lòng cảm động, mới cáo từ chủ nhân ra về. “Chủ nhân ra sức níu kéo, ta cáo nhà có việc gấp, chủ nhân mới tạm tha cho về.” Nhưng lâu sau, linh hồn của Lô Toản lại bị mời , Trọng Hải đành phải gọi tiếp, giọng ai oán, cấp thiết hơn lần trước, tới tận khi trời sáng mới gọi thúc phụ sống dậy, sau đó hai chú cháu vội vàng chạy khỏi nơi ma quỷ hiếu khách này. Tất cả những chuyện kể mặc dù đều có thể quy cho thuật phù thuỷ, nhưng trở thành “món mỳ ăn liền gia đình” mà dân gian quen gọi, cần mời thầy phù thuỷ, tự mình có thể thao tác. Nhưng nếu làm vậy mà vẫn vô hiệu, gia đình người bệnh lại hoàn toàn còn tin tưởng vào thầy thuốc nữa đành phải mời thầy phù thuỷ đến dùng phép thuật chuyên nghiệp. Nhưng phép thuật chuyên nghiệp này cũng có khác nhau về độ nông sâu, khó dễ. Hồ Phác An ghi chép về phong tục tập quán của Giang Tô, trong trường hợp người bệnh nóng lạnh lâu thấy giảm, y dược vô hiệu, liền cho rằng người này bị mất hồn. Thế là mời thầy phù thuỷ về để “bắt hồn”, đại khái là rượu mừng uống muốn uống rượu phạt, ngươi chịu ngoan ngoãn quay về phải dùng thủ đoạn cưỡng chế. Nhưng cũng phải dùng đến quan binh nơi địa phủ, chỉ cần chạy ra giữa cánh đồng, gặp bất kỳ con côn trùng nào liền coi nó là linh hồn của người bệnh, bắt mang về nhà, đặt lên giường của người bệnh, miệng lẩm bẩm những câu thần chú mà ai có thể hiểu được, nếu khỏi bệnh coi như thầy phù thuỷ đó có bản lĩnh, nếu khỏi mà người bệnh chết luôn thầy phù thuỷ cũng chịu bất cứ trách nhiệm nào. Linh hồn đương nhiên hoá thành côn trùng, chỉ tầm gửi thân côn trùng thôi, giống như linh hồn của Tôn Tử Sở gửi vào trong con chim két, con chim bay về Tôn gia, vừa vào cửa là lăn ra chết, còn Tôn Tử Sở nằm hấp hối giường lại sống dậy. Đặt con côn trùng đó lên giường người bệnh cũng là có ý muốn cho thể xác và linh hồn được giao tiếp với nhau. Còn về việc giao tiếp có thành công hay là việc của người đó, thầy phù thuỷ cũng can thiệp được nhiều. Còn kiểu khác được gọi là “cướp hồn”, trong quyển năm của Hữu đài tiên quán bút ký mà Du Việt ghi chép cướp hồn là trong những phép thuật được lưu hành ở Nam Xương Phủ, Giang Tô. Nơi đó, thôn xóm nào cũng có miếu, trong miếu thờ vị thần gọi là “thái tử”, mặt trắng, khuôn miệng cười, người mặc giáp, đầu đội mũ mâu, tay cầm cờ, tay cầm kiếm. Những người mắc bệnh nặng thể chữa được, liền dùng chiếc “kiệu kêu” rước thái tử về nhà người bệnh. Cái gọi là “kiệu kêu” có nghĩa là khi khiêng chiếc kiệu lên, nó phát ra những tiếng leng keng. Đây phải thanh thái tử thích nghe, mà là muốn để chiếc kiệu này phát ra những tiếng kêu vui tai như thế cần phải khiến nó rung rung lắc lắc, thế là người được khiêng có cảm giác như mây gió. Thần về đến nhà người bệnh, đầu tiên là đốt tiền vàng, coi như lễ gặp mặt thái tử, đạo sĩ theo sau, lại có hơn mười người cầm đuốc tháp tùng, đến đồng trống mênh mông, lượn ba vòng, đồng thanh hét gọi, sau đó nhanh chóng quay trở về. Vừa vào đến cửa, liền lớn tiếng gọi tên người bệnh, trong nhà, người nhà phải bố trí người đứng đó đáp lại: “Có”, sau đó mới khiêng thái tử vào trong nhà, bắt đầu cung phúng. Ba, bốn ngày sau, đạo sĩ là người cung tiễn thái tử về lại miếu, còn việc người bệnh đó có thuyên giảm bệnh tình hay , đạo sĩ quay lại hỏi thăm. Từ quá trình có thể thấy, thực khó có thể nhìn được linh hồn kia ở nơi nào và cướp nó về bằng cách nào. Trong quyển sách này còn đề cập đến cách “hoàn hồn” ở Quảng Đông, hay còn gọi là người “khiêu mao sơn”, đấy chính là môn võ nghệ náo nhiệt nhất. Cách này dùng vài đạo sĩ, bố trí trai đàn, treo tượng thần… giống mọi nghi lễ bình thường khác. Sau khi chuẩn bị xong, sắp xếp đạo cụ cầu thang, mỗi bậc buộc con dao găm, đầu nhọn phải hướng lên , đạo sĩ dùng chân đá con dao này để nhảy lên từng bậc. Cứ làm như thế mấy lần được gọi là “thượng đao sơn”. Sau đó lại dùng miếng sắt, dây xích, ném vào trong lửa cho đỏ rực lên, đạo sĩ miệng ngậm miếng sắt đỏ hồng, tay quấn xích sắt đỏ rực, lúc sau mới ngâm vào trong nước lạnh, nước như được đun sôi đột ngột trào lên, dùng nước này cho người bệnh rửa mặt. Đạo sĩ lại tự chích tay mình cho chảy máu, bôi vào huyệt hai bên thái dương và hai lòng bàn tay của người bệnh, để trừ nội tà, đối hai bó đuốc, vào trong phòng người bệnh, cả phòng đầy ánh lửa, thế gọi là “phát hoả phấn” để trừ ngoại tà. Cuối cùng vẫn dùng con gà trống, thanh trúc, lấy áo người người bệnh, vào phòng và gọi tên người đó, gọi là hoán hồn. Khi hoán hồn, nếu đúng lúc ấy có bò, cừu, hoặc gà, chó đến thể chữa được bệnh cho người ốm. Nhìn toàn bộ quá trình , dường như chỉ có tiết mục cuối cùng là cầm áo vào phòng, gọi tên người đó mới là tiết mục chính của “hoán hồn”, những thứ còn lại đều là các kỹ năng biểu diễn kỳ dị. là biểu diễn nhất định thu hút hàng xóm láng giềng tới xem. Người ta bỏ tiền ra mời người về khám bệnh cho người sắp chết, người khác lại coi đó như vở kịch, về tình về lý đều thấy ổn, thế là xuất lời cảnh cáo: “Người nào nhìn thấy tất chết” để những người rỗi việc đến làm phiền. “Thượng đao sơn”, vài năm trước vẫn được trình chiếu ti vi, là buổi biểu diễn của dân tộc thiểu số ở Vân Nam, thậm chí còn thêm tình tiết “quá hoả hải”, tức là phải bước qua giàn sắt đỏ rực. Chỉ có điều, khi ấy chi tiết này có quan hệ gì trong việc chữa bệnh, cũng vào phòng mà hô, chỉ đây là nghi thức tôn giáo nguyên thuỷ để trừ tà cầu phúc. Nếu những gì Khuất Nguyên tiên sinh thuật lại sai chiêu thức “hoán hồn” ở Quảng Đông chắc cũng bắt nguồn từ thuật phù thuỷ biến hoá, đương nhiên cũng có khả năng là trong thuật phù thuỷ chiêu hồn phục phách sử dụng nghi thức tôn giáo của dân tộc thiểu số. Còn thuật phù thuỷ và tạp kỹ có quan hệ với nhau là do thuật phù thuỷ pha trộn vào tạp kỹ, hay là tạp kỹ được tách ra từ thuật phù thuỷ, điều này ai . Nhưng do hai tiết mục biểu diễn đó có độ khó tương đương, vì vậy tiền thu được cũng khá. Hoán hồn đối với bán gia mặc dù phải chuyện , nhưng những chuyện như thế này mang tính khoa trương nhiều hơn. Quyển mười lăm trong Hữu đài tiên quán bút ký còn ghi lại loại “thuật gọi hồn”, tức là gọi hồn người sống ở nơi đất khách quê người về. Ở Hồ Bắc có gia đình nông dân, thời loạn lạc nên người chồng bị bắt lính, mãi thấy về. Có người mách với mẹ người đó rằng: “Có thể lấy giày mà con trai bà đặt dưới gầm giường, buộc hai chiếc giày quay mặt vào nhau, sau đó đêm nào cũng gọi tên con trai bà con trai bà có thể trở về.” Lại có chuyện, là do con dâu của Du Việt kể, chị ta từng ở nhà họ Chu để lánh nạn binh đao, đứa con trai độc nhất của nhà hàng xóm bị giặc bắt , có người mách mẹ cậu ta là xin dầu và bấc đèn của bốn mươi chín nhà, cứ đến đêm đốt, sau đó gọi tên con bốn mươi chín lần, đêm nào cũng làm như vậy, phải gọi tha thiết. Mấy tháng sau, đứa con đó đúng là thoát khỏi giam giữ của bọn giặc mà về, theo lời kể của cậu ta, đêm nào cũng nghe thấy tiếng mẹ gọi mình. Mặc dù những linh hồn được hoán về này chưa rời khỏi thể xác, nhưng nó có thể nghe thấy tiếng hô tiếng hoán, cảm nhận của những linh hồn trong thuật phù thuỷ chiêu hồn là giống nhau. Chuyện cuối cùng thể , đó là từ thời Minh – Thanh có rất nhiều phong tục ở các địa phương, gặp phải chuyện “mất hồn”, khi chiêu hồn, còn phải đến miếu Thành Hoàng hoặc thổ địa đốt hương cúng bái. Đoán rằng chỉ có thể là trong hai nguyên nhân dưới đây. là, sau thời Minh, miếu Thành Hoàng của châu huyện trở thành phủ được địa phương hoá, trước kia, những linh hồn bị phủ chiêu về, đều phải gặp Diêm Vương, bây giờ chỉ cần đến gần những kẻ do thần Thành Hoàng cai quản là được. Người chết, linh hồn bị giam trong miếu Thành Hoàng, trong gian gặp phải vụ kiện nào cần bắt người sống về làm chứng, có chuyện gì phải kéo sinh hồn mới có hiệu quả lệnh bắt hồn đó cũng là do Thành Hoàng phê chuẩn. Vì vậy, nếu có người bị mất hồn khả năng là bị Thành Hoàng tạm thời bắt , lúc này đến miếu thắp hương cầu khấn cũng chính là cách để thăm dò tình hình thực tế, cầu xin lão gia giơ cao đánh khẽ, nhanh chóng thả sinh hồn bị giam giữ về. Nguyên nhân thứ hai là, cho dù Thành Hoàng ở châu huyện hay miếu thổ địa thôn xóm, trong mắt mọi người đều có trách nhiệm bảo vệ cho các sinh linh của địa phương, vậy khi quỷ tốt tuần, gặp phải những sinh hồn lạc lối, về lý họ có nghĩa vụ phải thu nạp những linh hồn ấy. Nếu là sinh hồn của những gia đình giàu có, Thành Hoàng, thổ địa nghĩ cách tìm ra gia chủ, cung kính đưa sinh hồn đó trở về phủ, còn bách tính thường dân quá nhiều, thể để ý hết được, nên đành để thân nhân của những linh hồn đó vất vả đến miếu, dâng hương bẩm báo, rồi mang sinh hồn của gia đình mình về. Đạo lý này cần chắc mọi người cũng hiểu, giờ con cái hoặc người thân nhà ai bị mất tích, việc đầu tiên mà thân nhân người đó làm chẳng phải cũng là chạy đến đồn công an để báo án sao?
Các kiểu thoát khiếu [1] [1] Khiếu ở đây là lỗ. Trong các cuốn tiểu thuyết, bút ký, thường gọi việc linh hồn rời khỏi thể xác là “lý khiếu” (trong truyện Thang Công ở quyển ba của Liêu trai chí dị), linh hồn quay lại thể xác gọi là “nhập khiếu” (trong truyện Sinh hồn nhập thai, thai phụ sinh nở của Tục tử bất ngữ do Viên Mai viết). Càng kỳ lạ hơn, hồi còn , khi nghe người già kể những câu chuyện kiểu này, họ liền gọi những linh hồn thoát khỏi thể xác trong giấc mơ là “khiếu”, cách nghe có vẻ hơi “trẻ con”. Khi về già nghĩ lại chuyện này, đột nhiên cảm thấy từ “khiếu” này có thể viết nhầm của từ “xác”, bởi vì từ “xác” và từ “khiếu” trong tiếng Trung là từ đồng khác nghĩa. Như trong truyện Bào hải la phu ở quyển bảy trong Động linh tục chí của Quách Tắc Vân viết cũng gọi là “xuất xác”. Nhưng cũng có khả năng khác, tức là từ “khiếu” này muốn đến “khổng khiếu” [2] người. Bởi vì cũng có cách , đó là linh hồn rời khỏi thể xác liền coi lỗ hổng đó là đường thoát. Là từ “xác” hay từ “khiếu”, cho dù có làm về ý nghĩa cũng khác nhau nhiều, đều là nơi cơ thể để linh hồn rời khỏi và quay lại thể xác, nhưng từ đó chúng ta liên tưởng tới chuyện rất khi linh hồn rời khỏi cơ thể: Linh hồn thoát khỏi thể xác như thế nào? Điều này lại khiến chúng ta thể nghĩ đến vấn đề về hình dạng của linh hồn là to hay . [2] Khổng khiếu: lỗ hổng. Theo cách nhìn thông thường trong nhân gian, linh hồn của người có hình dạng giống hệt như thể xác của người đó, về mặt trọng lượng có thể có khác biệt, nhưng dài ngắn, béo gầy giống hệt nhau. Trong câu chuyện về Liễu Thiếu Du ở trước, linh hồn và thể xác hoàn toàn giống nhau, khiến người bên cạnh còn phân biệt được ai là chủ, ai là khách. Đây có lẽ là kiến thức thường thấy của chúng ta trong quan niệm về thế giới u minh, thử đọc loạt những câu chuyện về linh hồn, những người tình trong giấc mơ, những sinh hồn do sai bắt , Diêm Vương tra khảo, và những linh hồn hiển linh trong nhân gian dường như đều giống hệt thể xác của người đó. Chỉ cần suy nghĩ chút là có thể hiểu ngay, nếu linh hồn và thể xác khác nhau chẳng phải thế giới phủ đại loạn hay sao? chỉ đại loạn mà hoàn toàn sụp đổ! Tôi có suy nghĩ thế này, nếu quỷ có thể gặp người mà người thể gặp quỷ mối quan hệ giữa hai thế giới dương được bình đẳng cho lắm, điều này cũng là trong những nguyên nhân khiến rất nhiều người cho rằng ma quỷ có khả năng siêu phàm, có thể biết những thứ mà con người biết, làm những việc mà con người thể làm. Người thể nhìn thấy quỷ, nếu quỷ muốn người nhìn thấy, muốn người cảm nhận thấy phải trở thành “vật phụ thuộc”, quan niệm này mặc dù phổ thông lắm, nhưng đúng là tồn tại trong vài ghi chép của các học giả. Chẳng hạn như mảnh ván quan tài thể thành tinh, cái phất trần hỏng thể tác quái, lý do chúng bị con người cho rằng có thể trở thành tinh quái vẫn là vì có vật tinh quái đính kèm mà thôi. Tuy nhiên, nếu người nào đó có thể nhìn thấy quỷ, giả sử ta phải là thuật sĩ có thể nhìn thấy quỷ, hoặc đứa trẻ có đôi mắt tinh tường nhiều khả năng ta có vấn đề về mặt tinh thần, nghiêm trọng hơn có lẽ thành phần quỷ người ta tương đối nhiều, cũng có thể ta sắp chết. Giống như câu trong bộ phim Constantine [3] của Mỹ: “Khi bạn nhìn thấy họ họ cũng nhìn thấy bạn rồi.” Mặt khác, nhìn từ góc độ của ma quỷ họ vốn nhìn thấy con người, thứ mà họ nhìn thấy chỉ là linh hồn của con người, phương thức mà họ và con người có thể giao lưu với nhau là thông qua giấc mơ, ảo giác nhất thời (tức là tạm thời ngao du giữa hai thế giới và dương). Những gì mà sai có thể nhìn thấy có lẽ cũng giống như thế, do đó, thứ mà chúng bắt cũng chỉ có thể là hồn mà phải là “người”, khi chúng cầm dây quấn vào cổ “người”, thực ra là quấn vào cổ hồn của người đó. Những đối tượng ra cách bất thường, khi tỉnh lại người đầm đìa mồ hôi, run rẩy đó phải là người bệnh nằm giường mà là linh hồn của người đó. Ở đây tôi muốn bàn luận quá nhiều về vấn đề này, chỉ muốn mượn nó để điều, thường , nếu linh hồn của người ta bị nhìn thấy, về lý giống hệt với thể xác của người đó, đến cả khác biệt xíu giữa hai em sinh đôi có lẽ cũng có. [3] Người đến từ địa ngục. Khi linh hồn như thế phải rời khỏi thể xác, nếu phải thể hình tượng tôi cảm thấy hình ảnh thần xác phân ly trong bộ phim Ghost [4] của Mỹ là hợp lý nhất: Khi người chết ngã xuống, hình ảnh có hình dạng giống hệt người đó cùng lúc tách ra khỏi cái xác, từ từ đứng dậy, lơ lửng bay , hoặc lên thiên đàng, hoặc xuống địa ngục. Nhưng kiểu phân ly khỏi thể xác như thế rất ít được miêu tả trong những câu chuyện ma của chúng ta, mà là những người đồng ý với cách nhìn này cho rằng đó là chuyện hết sức bình thường, có gì phải bàn cãi. Như truyện Sinh hồn vong tử trong Dực quynh bại biên mà chúng ta đề cập ở chương Mất hồn cũng là kiểu linh hồn cố gắng thoát khỏi thể xác. Còn có rất nhiều những câu chuyện về việc linh hồn nhập lại thể xác, hoặc linh hồn lao vào trong thể xác, hoặc linh hồn và thể xác gặp nhau rồi nhập lại thành … Nếu có ai đó cầu phải miêu tả giống như khi chơi búp bê Nga, từ từ nhấc con bên ngoài ra rồi lại nhấc tiếp con bên trong đúng là làm khó người kể chuyện rồi. Trong Phong thần diễn nghĩa [5] , động tí là lại : “ linh hồn nữa chạy về đài phong thần rồi”, ba trăm sáu mươi lăm linh hồn chết đột tử là tách ra khỏi những cái đầu bị đánh vỡ toác hay thoát ra từ chỗ cơ thể bị đứt làm đôi, có chỗ nào . Xem ra Hứa Trọng Lâm cũng khó có thể , nên đành ỡm ờ cho qua. Mà việc này vốn cũng thể truy cứu tới từng chi tiết, nếu gặp phải những người thích tranh cãi, họ hỏi: Nếu như hình dạng của quỷ và thể xác giống hệt nhau, cho dù là người có bị chém thành hai đoạn nữa linh hồn của ta khi bay về đài phong thần cũng phải chia thành hai đoạn mà bay sao? Nhưng ở đây chúng ta đến quỷ, vì vậy cũng cần tranh cãi. [4] Hồn ma. [5] ‘Phong thần diễn nghĩa’ của Hứa Trọng Lâm Nhưng cổ nhân có vị tiên sinh khi gặp phải cảnh bế tắc, cảm giác như linh hồn thoát xác, phải giống như con tằm thoát khỏi kén, ve sầu thoát xác vậy, cần có cái lỗ mới chui ra được. Đương nhiên, theo như điển tích mà Nho học , linh hồn chỉ là khói, là khí, có thể dễ dàng tưởng tượng, chỉ cần thoát ra khỏi cơ thể người như toát mồ hôi vào mùa hè, khí lạnh vào mùa đông, sau đó “phát dương ư thượng, vi chiêu minh, hôn hao, thê sảng” [6] , giống như mây khói bay lên, tản ra, có là “làn khói hương hồn” của Tiêu Tương tiên tử cùng đám hồn ma cũng thể làm gì được nó. Nhưng trong các câu chuyện ma, chỉ có khi linh hồn bị đạo sĩ bắt vào trong hồ lô, khi thả ra mới biến thành làn khói đen, uốn lượn bay ra, chứ chưa từng thấy thân người thoát ra làn khói đen bao giờ. Còn chuyện làn khói đen bay ra từ thân thể con người, sau đó làn khói này liền tụ lại thành hình người, từ tới lớn, chuyện như thế cũng là thần thoại, tiểu thuyết hóa rồi. [6] Xem chú giải ở trang 18. Còn vị tiên sinh gặp phải cảnh bế tắc nên chuyện ma quỷ lại nhận định rằng linh hồn là thực thể có thể tích, trọng lượng ràng, đương nhiên cũng chấp nhận thuyết linh hồn mong manh như làn khói của Nho học rồi. Bọn họ thà linh hồn biến thành thứ đồ nào đó, cũng cho phép linh hồn tan vào hư . Linh hồn vừa có thể se thành sợi mì, nặn thành bánh trôi, hoặc là ruồi nhặng, con dế, như thế mặc dù dễ dàng trong việc thoát xác, nhưng đa phần là do văn nhân múa bút hoặc những người già nhàn rỗi buôn chuyện, được coi như những tư tưởng kỳ lạ, nên cần phải hỏi nhiều. Dễ dàng di chuyển và giản tiện nhất là cứ để linh hồn giữ nguyên tỷ lệ hình dáng và có thể tùy ý biến lại, tới mức có thể chui ra từ chỗ nào đó cơ thể, mà sau khi chui ra rồi đến nỗi khiến cơ thể xẹp lại thành đống. Cách linh hồn hơn thể xác mặc dù quá phổ biến, nhưng thỉnh thoảng cũng bắt gặp trong những bài tùy bút và tiểu thuyết. Trong truyện Kiếp trước của Lô Hân Ngộ trong quyển mười của cuốn Dị kiên chí bổ của Hồng Mại, kể về Triệu Thị Tứ mười chín tuổi, chăn bò trong núi, trời mưa nên trượt chân xuống vách núi chết. Nhưng linh hồn của ta biết là mình chết ra sức đứng dậy, sau đó mới nhìn thấy bên cạnh có thi thể nằm, thậm chí cũng nghĩ ngay ra rằng đó chính là thi thể của mình, mà là thi thể của người khác. Lúc này, linh hồn của ta cũng có kích cỡ giống như thể xác, nhưng sau đó, khi bố mẹ ta tới nhặt xác, trong mắt ta, bố mẹ lại “cao lớn bất thường”, dùng tỷ lệ của thể xác để suy đoán linh hồn của ta chỉ bằng nửa so với thể xác thôi. Ngoài ra, tiểu thuyết ở thời Minh - Thanh cũng có ít câu chuyện liên quan đến mức độ to của linh hồn, cũng có vài chuyện linh hồn chỉ cao hơn thước. Như truyện Chùy Ngộ Tai trong quyển thượng của cuốn Minh bảo lục do Lục Kỳ viết linh hồn và thể xác của người đó khi phân tách, phách cao lớn như cơ thể người, nhưng hồn lại chỉ cao hơn thước. Nhưng điều này cũng được coi là độ co quá lớn, có vài câu chuyện khác về việc thoát xác, trong những câu chuyện đó, linh hồn trở thành những “người ” như côn trùng, muỗi bọ vậy, chúng có thể chui ra chui vào cơ thể từ lỗ hoặc chỗ nào đấy. Quan niệm coi hồn là người có lẽ bắt nguồn từ rất sớm, thuyết “thân thần” của Đạo giáo có lẽ cũng bị ảnh hưởng từ quan niệm này. Đạo sách cho rằng lục phủ ngũ tạng, tứ chi ngũ thể, gân cốt, đầu óc, da và mạch máu của con người giúp cho các lỗ được tuần hoàn, đều có thần linh chi phối, hơn ba vạn sáu nghìn thứ, những thứ bé đó có thể to bao nhiêu? Tam thi thần mà các đạo sĩ thường đọc đó, hằng ngày ra vào cơ thể ba lần, vậy cửa tiện lợi nhất chính là lỗ và lỗ dưới rồi. (Trong những câu chuyện rất quen thuộc như Người trong lỗ tai, Đồng nhân ngữ trong Liêu trai chí dị chắc độc giả cũng có thể nhận ra được ảnh hưởng của sách Đạo giáo.) Nhưng quan niệm “thân thần” này ngược lại cũng ảnh hưởng đến nhận thức về linh hồn của con người, thứ mà người ta dễ coi là thứ bé nhất chính là “mộng hồn”. Trong truyện Hồn người chu du trong quyển bốn của Canh dĩ biên do Lục Sán viết, kể về câu chuyện xảy ra ở quê hương ông ở Tô Châu. Tên lý trưởng vì muốn thu tiền nha dịch, từ sớm đem theo tiểu nô từ trước Phong Môn đến Tề Môn, đường vì mệt mỏi, liền vào mái hiên của nhà nghỉ ngơi. Trong lúc mơ màng sắp ngủ, tên tiểu nô bên cạnh ngủ từ lâu, thế là chủ nhân “trong lúc mơ màng thấy tên tiểu tử nhảy múa bên cạnh tiểu nô của mình, ngã xuống đất” cũng chính là linh hồn lìa khỏi thể xác. Đáng tiếc vị chủ nhân đó bỏ lỡ giây phút mà linh hồn của tên tiểu nô thoát xác, nhưng ông ta nhìn thấy linh hồn nhập vào thể xác như thế nào, có điều cũng rất mơ hồ, chỉ nhìn thấy linh hồn nhảy lên cái xác rồi biến mất. Linh hồn rời khỏi thể xác trong mơ này quanh vườn rau lượt, còn tên tiểu nô đó mơ thấy mình dạo quanh khu rừng, đám rau cỏ trong giấc mơ của ta biến thành những thân cây cao lớn. Câu chuyện này có rất nhiều phiên bản, hồi tôi thường nghe người lớn kể, có điều thêm thắt vài tình tiết thú vị khác, ví dụ như “cái xác” đó ăn mấy cục phân dê, tỉnh dậy lại mình ăn bàn đầy “bánh ga tô”… Từ đó cũng có thể nhìn ra quan hệ đối ứng giữa việc hồn chu du và các giấc mơ, cùng việc lý giải của con người đối với những giấc mơ đó. Ngoài ra còn phải chú ý thêm là, vị chủ nhân có thể nhìn thấy mộng hồn của tên tiểu nô kia ở trong trạng thái tỉnh táo, mà nửa tỉnh nửa mơ, nếu để tôi giải thích đó cũng là do mộng hồn của ông ta nhìn thấy, bởi vì nếu ở trạng thái bình thường có khả năng nhìn thấy linh hồn. Thế nào gọi là “nửa tỉnh nửa mơ”? Có những lúc chúng ta tỉnh dậy trong giấc mơ nhưng vẫn thể tỉnh táo ngay, hư hư thực thực, phải lúc sau mới ràng, đám vàng bạc châu báu vừa rồi xuất trước mắt chẳng qua là đống xương còn lại bàn ăn. Trong Liêu trai chí dị có câu chuyện Cống sĩ họ Trương, kể chuyện hồn của Trương cống sĩ thoát ra từ “ngực”, khi đó ông ta ốm, tất cả đều là tự mình nằm giường rồi nhìn thấu: “Đột nhiên thấy từ trong ngực có người thoát ra, cao tầm nửa thước, đội mũ mặc áo nhà Nho, dáng như con hát. Hát côn sơn khúc, điệu rất dễ nghe, lại tự tên họ, quê quán, giống hệt với mình. Những khúc người đó hát, bình sinh Trương mỗ từng nghe qua. Hát xong, ngâm thơ rồi biến mất.” Người bé này ràng là linh hồn của Trương cống sĩ. “Ngực” là bộ phận có lỗ, hồn vốn phải là thực thể, là ảo ảnh nên có thể tùy ý thoát ra ở bất cứ chỗ nào và có trở ngại gì, nhưng “ngực” gần tim nhất, căn cứ vào kiến thức phân tích về linh hồn của người xưa, tim là nơi linh hồn trú ngụ. Cái lỗ cách tim gần nhất chính là rốn, vì vậy trong quyển bốn của truyện Quỷ đống danh tính và tác giả đời Tống có kể, phủ sai con khỉ bắt hồn của Trần Sinh, viết: “Hồn của Trần Sinh thoát ra từ rốn.” Còn về nơi linh hồn gửi thần, đa phần các kiến giải cho rằng linh hồn trú ngụ ở đầu, vị trí cụ thể, nhưng có lẽ là ở dưới lớp xương sọ. Đầu của con người có bảy lỗ, ngoài hai hốc mắt được tiện lợi lắm, những con đường còn lại đều rất khang trang rộng rãi. Nhưng những linh hồn trong rất nhiều các câu chuyện kể đều ra từ con đường chính mà xuyên qua đỉnh đầu để ra. Trong Quảng dị ký của Đới Phu đời Đường có viết, quỷ sứ đuổi bắt Thôi Minh Đạt, “vẫn là bắt hồn người đó từ đầu ra”, trong truyện Thần du Tây Hồ, quyển năm của Di kiên chi mậu do Hồng Mại đời Nam Tống viết, nông dân Trần Ngũ sau khi chết rồi sống lại, kể rằng: “Khi mới chết, cảm thấy hồn phách ra từ não”, sau khi ra ngoài rồi, quay lại nhìn, “thấy thể xác nằm giường, vợ con kêu khóc, gọi tên mình thảm thiết, nhưng có ai trả lời”. Trong truyện Thông u pháp của quyển bảy trong Tục tử bất ngữ do Viên Mai viết kể về linh hồn của nông phu khi thoát xác: “Cảm thấy như hồn thoát ra từ đỉnh đầu, đau đớn vô cùng. Khi quay lại cũng vẫn từ đỉnh đầu vào, nhưng toàn thân dễ chịu, như trút được gánh nặng, như mệt mỏi quá mà phải thiếp .” Trong truyện Nhị Tác Nhân ở quyển của Vấn kiến dị từ [7] do Hứa Thu Xá viết về người luyện “xuất thần thuật”: “Khi thành công, thấy người cao tầm hai tấc thoát ra từ đỉnh đầu, những chuyện bên ngoài cần hỏi mà tự biết.” Trong truyện chết bảy ngày lại hồi sinh ở quyển bốn trong Dung am bút ký của Tiết Phúc Thành có viết: “Khi sắp chết, hồn chui ra từ đỉnh đầu, tách ra khỏi thân xác.” Còn trong chuyện ở quyển bốn Động linh tục chí của Quách Tắc Vân viết về vị quan “học đạo thuật ở tuổi trung niên, ngày nào cũng phải ngồi thiền. Lâu dần, nguyên khí tích tụ, thấy có đứa bé thoát ra từ đỉnh đầu”, lại có Uông Sinh, “chuyên tâm tu luyện, trong lúc ngồi thiền, đột nhiên thấy đứa trẻ thoát ra từ đỉnh đầu”. nhất phải kể đến Thuyết Linh. Minh báo lục của Lục Kỳ: “Khi trút hơi thở cuối cùng, lập tức nhìn thấy hồn từ đan điền dưới bụng dưới, hình dạng trông như viên bánh trôi, màu xanh ngọc bích, càng dâng càng cao, đến rốn khó thở, đến ngực thở gấp, khi dâng đến giữa cổ họng và đầu hai mắt trợn ngược, tắc ở đỉnh đầu, đè nén khá lâu, rồi vỡ tung như đá, hồn rời khỏi xác, phách tách khỏi hồn, trút hơi thở cuối cùng.” Đây là những cảm giác được kể lại từ người chết sau đó được hồi sinh, những có cảm giác mà kỳ lạ nhất là còn có thể nhìn thấy linh hồn ở trong bụng dưới giống như viên bánh trôi màu xanh ngọc bích, biết là dùng “thiên nhãn” gì để nhìn nữa. [7] Có nghĩa là những chuyện lạ tai nghe mắt thấy. Còn việc linh hồn ra vào từ lỗ nào đó, trong các câu chuyện cũng có ghi chép. Chuyện hồn thoát ra từ tai, chúng ta có thể xem trong cuốn Thuật dị ký của Lương nhân Nhậm Phưởng [8] , ghi lại chuyện của Mã Đạo Du thời Nam Tề: “Hai con quỷ vào từ tai, đẩy hồn ra, hồn rơi xuống chiếc dép gỗ.” [8] Lương nhân Nhậm Phưởng (460-50. Còn có thuyết về việc hồn ra từ lỗ mũi, mời đọc truyện Nhân hồn chu du ở quyển bốn của Canh dĩ biên do Lục Sán viết. Trong truyện này, khi linh hồn thoát khỏi thể xác biến thành con rắn , chui ra từ lỗ mũi, bơi lội trong hồ nước ngoài vườn vòng, còn chủ nhân lại mơ mình được bơi ngoài biển, linh hồn hóa thành rắn, có lẽ là do người này có tính cách độc ác như loài rắn rết. Từ đây có thể thấy, cổ nhân cho rằng linh hồn của con người nằm ở tim hoặc đầu. Nếu như linh hồn có nơi trú ngụ cụ thể trong cơ thể có lẽ cũng chỉ có thể tưởng tượng như thế, thể để nó trú ngụ ở ngón chân hay gót chân được. Nhưng cũng có linh hồn ra khỏi cơ thể người từ dưới háng. Trong truyện Từ tiên sinh, quyển sáu trong Tử bất ngữ có viết thế này: “Tên trộm họ Từ thân bị tù đày, khi biết mình sắp chết, với người quen cũ Thạch Tán Thần rằng: “Tôi chỉ sống được đến ngày mùng tháng Bảy thôi, huynh hãy đến tiễn tôi.” Đúng ngày, Tán Thần vào nhà lao, gặp tên họ Từ ở phòng tiếp đón, thấy dưới háng người đó xuất đứa bé, với họ Từ: “Nhìn là giết tôi! Nhìn là giết tôi!” Sau đó ngoẹo đầu, đứa trẻ biến mất.” Linh hồn này có lẽ ra từ lỗ sau, nơi đó mặc dù được nho nhã cho lắm nhưng lúc này tương đối kín đáo, người khác cũng khó nhìn thấy. Nếu đao phủ và những người đến thăm tù nhân xung quanh nhìn thấy người chui ra từ đầu hoặc từ trong bảy lỗ cơ thể phạm nhân, có lẽ lại trở thành chuyện cười cho họ sau này. Điều này cho thấy họ Từ kia khác với lão Q, thà ra từ cửa bẩn, chứ quyết muốn nhìn thấy những khuôn mặt bốc mùi của khách tới thăm. Trong những tình huống bình thường, dù là chết, hôn mê, hay mơ ngủ linh hồn đều rất tự nhiên, cần cưỡng bức cũng tách rời khỏi thể xác. Nhưng cũng có những linh hồn cần phải sử dụng thủ đoạn để cưỡng chế, chính là những trường hợp hồn thoát ra từ lỗ rốn hoặc từ tai kể . Trong truyện Chử sinh trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, nội dung của truyện phù hợp với giả thuyết cưỡng chế hồn lìa xác . Chử Sinh muốn tách linh hồn của Trần Sinh ra khỏi xác, hoặc cách khác là muốn chuyển xác của Trần Sinh ra chỗ khác để mình dễ bề nhập vào. Đến ngày thi, Chử Sinh đưa người đến gặp Trần Sinh, rằng là họ Lưu Thiên Nhược của mình, bảo Trần Sinh cùng họ đến hoa viên đẹp nào đó dạo chơi vài ngày. Trần Sinh đứng dậy, ra ngoài Chử Sinh kéo giật ta lại từ phía sau, khiến ta suýt nữa ngã dúi xuống đất. Lúc đó, Thiên Nhược vội vàng dùng tay kéo ta lại, rồi đưa ta . Người mà Chử Sinh kéo là xác của Trần Sinh, còn người mà Thiên Nhược dắt là linh hồn của Trần Sinh, kéo dắt nên linh hồn và thể xác tách khỏi nhau. Từ chuyện này chúng ta nghĩ, có vấn đề có lẽ cũng nên quan tâm, đó là vào thời khắc linh hồn thoát ra từ lỗ tai và rơi xuống bàn chân kia, liệu có phải nó nghĩ rằng ngã đau sa sẩm mặt này ? Khi len ra từ đỉnh đầu, liệu có đau tới mức méo miệng ? Những linh hồn này và cũng ai biết. Giống như câu chuyện ở Trần Sinh bị kéo suýt ngã dúi xuống đất, đấy cũng chỉ là cảm giác, nhưng nhiều hơn cả dường như bản thân mình biến thành thứ mong manh như làn khói trong suốt màu sắc. Nhân vật chính trong câu chuyện Thang công trong Liêu trai chí dị kể lại những gì mình được trải nghiệm: “Hơi nóng vẫn bốc lên ngùn ngụt, xuyên qua cổ, qua đầu, chui ra, linh hồn thoát khỏi lỗ và quên luôn thể xác.” Trong quyển ba của cuốn Duyệt vi thảo đường bút ký do Kỷ Quân viết về tượng hồn lìa khỏi xác của người treo cổ tự tử như sau: “Huyết mạch đau đớn, từng thớ da thớ thịt trong người như muốn nứt toác, đau đớn như bị cắt. Lục phủ ngũ tạng trong người nóng như lửa thiêu, thể chịu được.” Cảm giác này vừa hay đúng với nhận định của Viên Tử: “Cảm thấy như hồn thoát ra từ đỉnh đầu, đau đớn vô cùng.” (Thông u pháp của quyển bảy trong Tục tử bất ngữ do Viên Mai viết). Còn Du Việt lại tôn trọng thuyết của Nho học, cho rằng việc linh hồn thoát ra từ các lỗ cơ thể là “khí đó bay lên ”, vì vậy trong Hữu đài tiên quán bút ký có mấy chỗ đến cảm giác khi hồn rời khỏi xác, lúc “đột nhiên cảm thấy cơ thể bẫng như lông vũ”, lúc “cảm thấy cơ thể bay bay như mây trời”, lúc “bay bay theo gió, thể tự chủ.” Tổng hợp những điều kể , mỗi người mỗi ý, rốt cuộc là hồn thoát khỏi xác từ đâu có quy tắc nhất định, vì vậy, lại cả nửa ngày cũng bằng chưa . Cũng may khi độc giả còn chưa quan tâm nhiều đến chuyện này có bảy, tám quy định gì đó rồi, chẳng qua cũng chỉ là hình thức, mọi người phải đến bảy, tám mươi năm sau cũng tự lý giải theo cách của mình.
Chưa chết hồn khóc Trong Thông u lục do Trần Thiệu người đời Đường viết, huyện úy [1] huyện Thanh Hà. Khi ấy, trong thôn có bà lão đến thăm nhà sư ở ngôi chùa, đường qua nơi hoang dã, thấy người phụ nữ xinh đẹp mặc áo trắng giữa đám cỏ cây um tùm, khóc lóc rất thê lương. Dần dần người phụ nữ ấy đến gò đất , ôm lấy gò đất hoang đó mà khóc, sau đó quỳ xuống, dường như làm gì ở đó. Bà lão thấy lạ, liền đến gần để hỏi thăm, nhanh chóng về phía đó người phụ nữ ấy lập tức đứng dậy, chạy ra xa để tránh. Bà lão đành phải quay đầu bỏ , nhưng khi ngoảnh lại nhìn, người phụ nữ quay về chỗ cũ. Cứ như thế mấy lần, bà lão đoán có lẽ phải người sống, liền vội vàng bỏ . Hơn tháng sau, vợ Phòng Trắc là Trịnh Thị chết vì bạo bệnh, linh cữu được chôn gò đất hoang ấy. Mà dung mạo và quần áo khi chị ta chết giống hệt người phụ nữ mà bà lão nhìn thấy. [1] Huyện úy: chức quan, dưới huyện lệnh. Trịnh Thị lâm bạo bệnh mà chết, chứ phải là bệnh tật triền miên lâu năm, nhưng linh hồn của chị ta lại thoát khỏi thể xác trước khi chị ta lâm bệnh. Hơn nữa, sinh hồn này còn biết trước được rằng mình chết và nơi mình được chôn, đến nơi đó trước để viếng chính mình. Điều kỳ lạ là, nhận thức của linh hồn lại cho bản thân Trịnh Thị biết, hoàn toàn là hành vi độc lập của linh hồn, thậm chí cũng báo mộng cho Trịnh Thị. Quan niệm này dường như thấy rất nhiều ở đời Đường. Trong Triều dã thiêm tái [2] do Trương Trạc viết xuất sớm hơn cả Thông u lục, viết về thời của Võ Tắc Thiên, quan lang trung địa phương Châu Tử Cung mắc bạo bệnh chết, đến gian, bị đưa vào đại điện mà “đại đế ngồi điện, Bối Tử Nghi đứng hầu ở bên”. Đại đế chính là chồng của hoàng đế Tắc Thiên, là Đường Cao Tông Lý Trị qua đời, còn Bối Tử Nghi chính là phán quan Tịnh Châu [3] đương nhiệm. Cao Tông : “Người ta cần là Hứa Tử Nho, sao lại bắt Châu Tử Cung đến? Mau thả ông ta về !” Như thế Châu Tử Cung được trả về dương gian. Khi ấy, Hứa Tử Nho làm thiên quan đãi lang, tối hôm ấy đột nhiên chết, chắc chắn bị gọi đến chỗ của đại đế. Võ Tắc Thiên nghe tới chuyện này, thậm chí còn cảm thấy kỳ lạ, liền sai người về Tịnh Châu, xem xem có phải Bối Tử Nghi chết từ lâu rồi . ngờ sứ giả quay về báo cáo, rằng Bối Tử Nghi còn sống rất khỏe mạnh. Đương nhiên, sau đó Bối Tử Nghi vẫn phải chết nhưng trước khi ông ta chết, linh hồn đến phủ để hầu hạ chủ cũ rồi. Vậy người ở Tịnh Châu kia sao có thể “toàn hồn” vì nhân dân phục vụ đây! E rằng thể dùng thuyết ba hồn bảy phách để quấy quá, bởi vì thể có mấy hồn là có thể hầu hạ mấy chủ nhân được. [2] Là tập bút ký, tiểu thuyết đời Đường, ghi chép những chuyện xảy ra trong triều đình, đặc biệt là chuyện triều chính của Võ Hậu (Võ Tắc Thiên). [3] Tịnh Châu là tên gọi ngày xưa của chín châu. Tịnh (hay tính) còn có nghĩa là gộp, ghép, nhập. Tương truyền khi vua Vũ (đời nhà Hạ) trị hồng thủy, chia vùng đó ra làm chín châu. Việc này có xung đột lớn với quan niệm hồn khí thể phách nhưng lại được nhân gian chứng nhận, nên ai nghi ngờ tính khả năng của tình tiết . Và những câu chuyện có nội dung tương tự như thế xuất rất nhiều ở các đời sau, nhưng đa phần là cảnh cáo về tai nạn hoặc chuyện gì đó. Trong Tục huyền quái lục do Lý Phục Ngôn viết. Câu chuyện truyền kỳ này bắt đầu từ việc Trần Dần Khác [4] chú ý đến những lời bóng gió xa xôi về lịch sử thâm cung, sau đó được Chương Sĩ Chiêu và Biện Hiếu Huyên nghiên cứu, chân tướng đại khái cũng được hé lộ, ám chỉ việc Đường Thuận Tông lên ngôi chưa được năm phải bị bệnh chết mà là bị ám sát. Câu chuyện rất dài và cũng ngoắt ngoéo, trắc trở, ly kỳ, được giao cho Mai Lý Mỹ, cây bút lớn, đủ để viết thành tác phẩm nổi tiếng. Người bị ám sát rốt cuộc là Hiến Tông hay Thuận Tông, Thuận Tông trong lịch sử có phải bị ám sát mà chết hay , liên quan đến vấn đề này, ở đây chỉ muốn chỉ ra rằng, cho dù câu chuyện đó ám chỉ vị hoàng đế nào bị đầu độc, đều ở nơi khác, hay cách khác là ở “ gian đa chiều” khác “dự đoán” về huyết án giết vua, nhưng mưu giết vua này tiện “diễn tập” nên mà “dự đoán” về cái chết của vua này “xảy ra”. Nhưng khi hoàng đế ở đó bị giết rồi hoàng đế thân ở dương thế vẫn sống, thậm chí hoàn toàn biết đến vai diễn của mình ở gian đa chiều kia. (Những tình tiết cụ thể của câu chuyện này chúng ta trong phần sau: “Bắt hồn đường mòn rừng núi”.) [4] Trần Dần Khác (1890-1969): Nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc. Quyển ba trong tập Bắc mộng tỏa ngôn của Tôn Quang Hiến sống ở thời Ngũ Đại [5] , có ghi lại cuộc đời của Mã Hy Thanh - đế vương nước Sở, trong mười nước thời bấy giờ, trước khi vị hôn quân tàn bạo đoản mệnh này chết, đại tướng Chu Đạt từ Nam Nhạc Hành Sơn trở về, chưa đến Trường Sa “thấy đám mây mù sông ôm Hy Thanh ”. Mặc dù ông ta nhìn thấy ma quỷ gì, nhưng biết rằng linh hồn Sở Vương bị bắt rồi. Nhưng ông ta “im lặng dám ”. Tại sao lại thế? Bởi vì lúc này Mã Hy Thanh vẫn sống rất khỏe mạnh. Nhưng đến tối, nghe chỉ thấy “có vật gì đó đen sì đột nhập vào điện”, sau đó Mã Hy Thanh băng hà. Mã Hy Thanh mới lên kế vị được hai năm đột ngột qua đời, trong chính sử ghi lại bất kỳ điều gì, nguyên nhân cái chết lại đáng ngờ, vì vậy, trong Bắc mộng tỏa ngôn ghi lại những lời bóng gió thời đó, cái chết của Sở Vương nghe là do trượt chân thềm mà ngã, đầu đập vào vật cứng, nứt toác, gần như là bị thần vật đánh chết, thực ra muốn ám chỉ rằng Sở Vương bị mưu sát. Đây chính là trường hợp trước khi chết ngày, linh hồn bị bắt . [5] Ngũ Đại: tức Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Năm triều đại này kế tiếp nhau nắm chính quyền ở Trung Nguyên, Trung Quốc từ năm 907-960. Cùng trong quyển đó có ghi chép về cái chết của thế tử Tần Vương - Lý Tùng Vinh xảy ra muộn vài năm sau thời Đường Minh Tông, linh hồn của người này bị bắt trước mười hôm. Năm đó, có vị hòa thượng tinh thông chữ thảo là Văn Đại Sư Ngạn Tiêu, những năm trước khi ở Lạc Dương được Tần Vương hậu đãi, sau đó ông ta từ Nam Thiên chuyển đến Giang Lăng, tu tại chùa Tằng Khẩu. Hôm ấy, ông ta hoảng hốt khi thấy Tần Vương mang theo hơn hai mươi tên lính tới thăm. Ngạn Tiêu liền hỏi: “Đại vương sao lại đến đây?”, nhưng Tần Vương trả lời, sau đó đột nhiên biến mất như làn khói giữa đám binh lính. Ngạn Tiêu cảm thấy chuyện này bình thường, liền sai người dò la tin tức ở Lạc Dương, quả nhiên, vài ngày sau Tần Vương bị giết trong nội loạn. Tương tự như chuyện của Lý Tùng Vinh nhưng lại ly kỳ hơn là chuyện về Trương Trấn ở những năm đầu thời Nam Tống. Chuyện này có thể đọc trong Trương Trấn Phủ Cán ở quyển Di kiên chi giáp. Trương Trấn là người có xuất thân hiển hách, tổ tiên Trương Đảo làm tể tướng đương triều, cha Trương Duyên từng làm quan ở Thông Châu, giờ ở quê Đức Hưng, Giang Tây, còn bản thân ta cũng làm quan ở ty An Phủ, Triều Bắc. Mùa đông năm Thiệu Hưng thứ bốn, Trương Trấn lâm bạo bệnh rồi chết, trước khi chết có bất kỳ triệu chứng hay dự cảm nào, vẫn đến nhiệm sở tiếp khách như thường, nhưng thực ra mười ngày trước đó, linh hồn của ta rời khỏi thể xác rồi. Ngày hôm ấy, Trương Trấn sai tên lính [6] (chính là loại người bị mắng là “tặc phối quân” trong ‘Thủy hử’) mang phong thư và cái hòm vuông đan bằng trúc đến Đức Hưng. Tên lính này được nửa đường cảm thấy đồ vác vai đột nhiên nặng hơn, sau đó càng ngày càng thêm nặng, đè xuống khiến ta thể đứng thẳng được, liền ném nó xuống đất, mắng rằng: “Cứ như bên trong đựng đầu người chết vậy, sao lại thể vác được thế này?!”, nhưng đồ của trưởng quan thể vứt , đành phải cõng nó đến Đức Hưng. Đến gia phủ nhà họ Trương, tên lính giao cái hòm cho cha của Trương Trấn là Trương Duyên, mở hòm ra trước mặt ta, bên trong chỉ là phổi hươu mà thôi, có vật gì khác. Nhưng tên lính vừa quay trở người ra, liền cảm thấy như có thứ gì đó gõ mạnh vào đầu mình cái, trong trung có tiếng : “Sao ngươi dám mắng ta đường !” Đúng là giọng của Trương Trấn. Tên lính vội vàng liên hồi: “Tiểu nhân dám!”, rồi quay đầu chạy vào trong phủ, đến gặp bố mẹ của Trương Trấn, khóc lóc rằng: “Ngày chết định, có gì phải hối hận. Trấn chưa có con trai, vợ mới cưới khó lòng ở vậy, sau khi cử hành tang lễ hãy để nàng được về nhà…” Đó chính là giọng của Trương Trấn. Hồn Trương Trấn mượn thân thể tên lính sắp xếp việc hậu của mình xong, tên lính bèn ngã vật xuống đất, phải nửa ngày sau mới tỉnh lại. ra khi tên lính rời khỏi phủ của Trương Trấn ở Triều Bắc, hồn của Trương Trấn vào trong cái hòm. Linh hồn này đoán biết được cái chết của mình, nó liền rời khỏi thể xác, theo tên lính về quê, đó là ý chí của linh hồn hay “bản thân” Trương Trấn? Linh hồn này sau khi thăm bố mẹ xong có quay lại thể xác của mình hay ? Lẽ nào cần tên lính cõng ta quay về sao? Tất cả những khúc mắc đó đều có cách nào giải thích ràng được. Ngoài ra, linh hồn này những có trọng lượng mà còn ngày càng nặng hơn, đó cũng là điều kỳ lạ. [6] Những người bị quan phủ đóng ấn mặt Điều kỳ lạ nhất là trước năm khi người đó chết, linh hồn của người đó đến nơi mình được chôn để khóc lóc, rất hợp với câu thơ của Tô Đông Pha: “Chưa chết hồn khóc.” Trương Soái Chính người đời Tống có ghi chép trong quyển bốn, Lục Long đồ thuộc cuốn Quát dị chí rằng: “Năm Tống Yến Ninh thứ sáu, trong nội thành, binh lính tuần tra ban đêm thường “nghe thấy tiếng khóc rấm rứt vang lên, tìm khắp nơi, nhưng thấy ai”. Đến năm thứ bảy, thứ tám, người chết đói đầy đường, tiếp theo đó là bệnh dịch, người chết kể xiết, khiến vụ lúa thu có người gặt hái. Lần “thiên tai” có ảnh hưởng rất lớn đến chính cục thời ấy, lượng lớn người dân gặp nạn đều kéo về kinh sư, khiến Ảo Tướng Công [7] là người đưa ra “biến pháp” phải mất mặt, bất đắc dĩ từ chức. Trương Soái Chính cho rằng đây là “phách triệu chi tiên kiến”, phách triệu chính là dự đoán, vẫn là cách cũ trong Hồng Phạm ngũ hành của Nho học, nghĩa là chẳng có gì để .” [7] Ảo Tướng Công ở đây chính là Vương An Thạch (1021-1086): trong Đường Tống bát đại gia, tám tác giả thi ca nổi tiếng nhất Trung Quốc trong hơn sáu trăm năm, từ nhà Đại Đường đến Bắc Tống. Ông còn chủ trương cải cách Trung Quốc với những tư tưởng ngược trào lưu thịnh hành. Nhưng việc “biến pháp” của ông cứu được suy sụp của nhà Tống, bản thân ông gặp thất bại khác: Cuộc chiến với Đại Việt năm 1075. Những câu chuyện kiểu này tàn khốc mà khiến người cảm thấy kỳ quái nhất, phải kể đến câu chuyện trong quyển bảy của cuốn Động linh tục chí của Quách Tắc Vân: “Thành Bắc Kinh năm canh Tí (năm 1900), bắt đầu từ mùa hè, đầu tiên là ồn ào chuyện Nghĩa hòa đoàn [8] sau đó là tám nước liên quân, cả hai vấn đề này đều khiến rất nhiều người chết. Nhưng ngay mùa xuân năm đó xảy ra rất nhiều chuyện kỳ lạ. Khi ấy có bão cát liên miên dứt, có quan viên bộ sử là Vương Mỗ xe ngựa ra bên ngoài Tuyên Vũ Môn bị bạn bè kéo uống rượu đêm, đến tận canh bốn mới tan. Khi xe ngựa sắp đến cổng chợ, đột nhiên thấy thấp thoáng có ánh lửa, tiếng người xôn xao, dường như phía trước xảy ra chuyện gì rất lớn vậy. Khi xe đến gần, đột nhiên cơn gió mạnh thốc tới, thổi tắt đèn trong xe, con ngựa kéo xe kinh hãi hí vang, phu xe bị hất ngã xuống đất. Vương Mỗ nhìn qua khe cửa xe, chỉ thấy rất nhiều bóng đen lởn vởn, đếm được bao nhiêu, giống như chim trời, bay lượn vòng quanh, rất kỳ lạ. Cuối cùng có người to lớn, thân cao hơn trượng, lướt qua xe mà , đám đông kỳ quái khi ấy cũng về hướng tây. Trong nháy mắt, mọi thứ lại yên tĩnh như cũ và cơn gió lớn kia cũng ngừng thổi. Vương Mỗ lay phu xe tỉnh dậy, cho xe chạy về nhà, đường phu xe kể lại những gì mà ông ta trông thấy, đều là những con ma mất tay mất chân, thủng lỗ chỗ người, nên sợ quá mà ngất xỉu. Cổng chợ là pháp trường xử tử tù, những người “đứt đầu thủng chân, cụt tay thiếu chân” kia chính là những hồn ma chết thảm trong vài tháng sau. [8] Nghĩa hòa đoàn: đoàn thể chống đế quốc xâm lược của nhân dân miền Bắc Trung Quốc tự phát hồi cuối thế kỷ 19. Câu chuyện này nghe kinh khủng, nhưng còn có những chuyện còn đáng sợ hơn. Trong truyện Thân Mỗ ở quyển hai trong Túy trà chí quái của Lý Khánh Thần, có kể về Thân Mỗ, người nước Yên làm người phò tá trong mạc phủ, đêm cùng ba người bạn thân trong nha môn đánh bài, chơi xong, ai về phòng người nấy. Thân Mỗ về đến phòng của mình, thấy cửa đóng chặt, trong phòng lại có ánh đèn sáng rực. Ông ta cảm thấy kỳ lạ, liền nhìn vào phòng qua cửa sổ, thấy vị phu nhân có đầu, đầu đặt án sách, và hai tay bà ta chải tóc. Thân Mỗ sợ tới mức vội vàng quay lại nơi vừa chơi bài thấy ba người bạn ngồi chơi dưới ánh đèn. Thân Mỗ kể mạch những gì mình vừa nhìn thấy, bảo họ cùng mình xem. Ba người kia cười : “Thế có gì mà lạ, chúng tôi cũng làm được như thế”, sau đó cả ba người cùng đặt tay lên đầu, ngắt đầu mình ra, đặt lên bàn. Thân Mỗ kinh hãi, hồn bay phách tán, chạy mạch ra khỏi nha môn, tìm nhà dân ở nhờ qua đêm. Sau khi trời sáng, có cướp đến nha môn, tất cả người trong nha môn bị giết sạch, chỉ có Thân Mỗ là thoát được kiếp nạn đó. Ba người bạn kia may mắn bị giết chết, vì đêm đó họ đều quay về phòng ngủ, vậy ba người ngồi chơi bài dưới ánh đèn kia là ai? Tôi nghĩ có lẽ chính là linh hồn của họ thoát khỏi thể xác trước khi bị giết. Giữa thế giới u minh và thế giới thực trong con mắt của cổ nhân chỉ khác nhau về mặt gian mà về mặt thời gian cũng có khác biệt. Thuyết tương đối của Einstein đến đây cũng chính là phù thủy gặp phù thủy lớn, chỉ có so sánh giữa tiểu thuyết giả tưởng và truyền hình bây giờ, sau này chúng ta còn đến tồn tại giữa hai thế giới và dương có thể chồng chéo lên nhau, Thâm La điện của Diêm Vương còn có thể xuất ở bất kỳ nơi nào. đời vinh hoa đủ để đáp ứng giấc mộng, đảo lộn của thời gian càng dễ gặp ở bất kỳ đâu. Vì vậy, những câu chuyện có tư duy về việc thoát xác như “chưa chết hồn khóc” này chưa bao giờ bị đặt nghi vấn, thậm chí, nếu truy ngược lại có lẽ từ trước thời Tấn, thậm chí là thời Hán có những tư duy kiểu này rồi. Trong Sưu thần ký của Can Bảo có ghi chép lại truyền thuyết về việc bị chết đuối ở trường thủy thời Tần Thủy Hoàng. Thời ấy, đại hồng thủy dâng lên tận tường thành. Tri huyện sai nha dịch nhanh chóng báo cáo lên huyện lệnh, huyện lệnh nhìn thấy nha dịch thất kinh hỏi: “Sao ngươi lại biến thành cá thế này?” ( bản khác của câu chuyện này là, chỉ có đầu là đầu cá, còn thân vẫn là thân người, có vẻ hợp lý hơn.) Tên nha dịch cũng sợ hãi : “Minh phủ cũng biến thành cá rồi!” Lúc này thành trì còn chưa bị cơn hồng thủy nhấn chìm, người cũng chưa “hóa thành cá”, nhưng hóa thành hình cá, cũng chính là muốn khi sắp chết hình báo trước. Nhưng từ sau khi Phật giáo được truyền nhập vào, ràng khái niệm này lại có thêm bước phát triển mới. Bởi vì có thể loại còn cực đoan hơn cả câu chuyện ở chỗ, mặc dù người chưa chết, nhưng linh hồn của ta làm ma ở phủ. Trong Minh báo ký do Đường Lâm người đời Sơ Đường viết, Tạ Hồng Sưởng bị bệnh chết được bốn ngày lại sống lại, kể về những gì mình nhìn thấy ở phủ: “Phàm họ hàng thân thích, có người sắp chết, ba năm trước đều gặp ở gian rồi.” Còn trong Kỷ vấn của Ngưu Túc kể về Lưu Tử Cống đến thăm địa ngục: “Những người sống đều là ma cả.” Chi tiết cụ thể hơn , nhưng ý rất ràng, tức là linh hồn của những người sống này ở dưới địa ngục chịu trừng phạt cho những tội lỗi của họ. Những câu chuyện về linh hồn của người sống ở địa ngục chịu phạt xuất từ đời Đường rồi, khái quát lại chính là : “ hình dương thụ.” Đại khái chia làm hai loại, là người ác nào đó làm những việc nhẫn tâm, thất đức mà chịu cảnh tỉnh bị Diêm Vương bắt hồn , đánh cho năm trăm thiết trượng, khi ta trở về dương gian, mông đít nứt toác hết cả. Những câu chuyện kể về tượng xuống địa ngục chịu phạt, sau đó vẫn còn được quay về dương gian này tạm gác lại ở đây để sau khi bàn đến vấn đề địa ngục, chúng ta kỹ hơn. Ở đây chúng ta chỉ bàn đến loại hình “ hình dương thụ” khác liên quan đến vấn đề chính, đó chính là linh hồn của những kẻ thất đức này “thường xuyên” ở lại tào, chịu hình phạt dưới phủ, còn bản thân ta sắp phải chịu cảnh đau đớn nhưng ta lại hề biết đến chuyện ở giới. Loại thứ hai có thể đọc Tăng nghiệt [9] trong Liêu trai chí dị để biết thêm. Tác phẩm Liêu trai quá quen thuộc với độc giả rồi, kỹ nữa, ở đây tôi chỉ kể câu chuyện trong Thông u ký do Trần Thiệu đời Đường viết. [9] Tăng nghiệt: tội lỗi của nhà sư. Câu chuyện kể rằng Hoàng Phủ Tuân bị phủ bắt nhầm, lẽ đương nhiên là được thả về ngay, nhưng thím của ta cũng là nhân vật ở gian, muốn để ta mất công đến đây rồi lại phải về tay , bèn lệnh cho vị hòa thượng đưa ta thăm quan địa ngục, giấu ý định ban đầu, cũng là muốn qua vui chơi để dạy dỗ. ngờ vào trong tòa thành đen sì, lửa cháy đùng đùng, chỉ thấy vô số tội hồn bị cắt lọc da, hút máu, chặt đâm, nghiền nát, tiếng kêu ai oán, đau khổ vang khắp trung, thanh đó xé trời xé đất. Đột nhiên nhìn về phía bắc thấy có cánh cửa, lửa bùng bùng phóng ra từ đó, là trong những cánh cửa tàn khốc nhất nơi vô gian địa ngục. Lúc này, Hoàng Phủ Tuân chẳng còn tâm trạng lĩnh ngộ, sợ tới mức muốn rời khỏi đây ngay. Đột nhiên nghe thấy trong ngọn lửa có tiếng người gọi tên ta, là tăng nhân ngồi chiếc giường sắt bị ngọn lửa nung đỏ, đầu, từng chiếc đinh lớn đâm xuyên qua não, máu chảy lên láng dưới đất. Nhìn kỹ lại lần nữa, lại chính là “môn đồ tăng” của Hoàng Phủ Tuân - Hồ Biện (Những gia đình giàu có thường có tăng sư, đạo sĩ hành lễ tụng kinh sám hối cho, những tăng ni đạo sĩ này bị coi là “môn đồ” của thí chủ mình.) Kinh ngạc hỏi tại sao ông ta lại ở đây, Hồ Biện đáp: “Đều là kết quả của việc hằng ngày cùng thí chủ và những người khác ăn thịt, uống rượu mà ra, việc ngày hôm nay hối hận kịp nữa rồi!” Hỏi: “Có cách nào cứu ông ?” Tăng nhân đáp: “Chép bộ Quang Minh kinh, xây cột đá khắc kinh trong thành, được đầu thai làm súc vật.” Hoàng Phủ Tuân buồn bã hứa với tăng nhân. Được trở về dương gian, khoảng hơn tháng sau, đột nhiên sư Hồ Biện từ kinh thành đến, như chưa xảy ra chuyện gì, Hoàng Phủ Tuân vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng dám mời ông ta uống rượu nữa. Vị hòa thượng này được uống rượu trong lòng vui, Hoàng Phủ Tuân liền kể lại với ông ta những gì mình nhìn thấy ở địa ngục, Hồ Biện nghe rồi cười phá lên, đương nhiên là tin. lâu sau Hồ Biện đến Tín Châu, ở đó đầu ông ta mọc cái mụn đầu đinh rất to, nó vỡ rất nhanh và mấy ngày sau ông ta chết. Hoàng Phủ Tuân lập tức giữ lời hứa nơi địa ngục, xây cột đá chép kinh Phật ở trong thành. Cột vừa xây xong, trong thành liền có con lợn đẻ ra sáu con, trong đó có con màu trắng, tự đến dưới cột đá, vòng quanh đấy mấy ngày liền, mệt quá mà chết. Cột đá có khắc kinh Phật này giúp linh hồn của Hồ Biện được giải cứu khỏi vô gian địa ngục nhưng vẫn tránh khỏi kiếp đầu thai làm súc vật. hình và dương thụ trong câu chuyện này có chênh lệch về thời gian, tàn khốc nơi gian là dự báo cho người sống nơi dương gian, đứng ở góc độ của Hoàng Phủ, dường như còn có ý răn bảo, nếu sửa chữa sai lầm chuyện đó có thể xảy ra. Nhưng những câu chuyện tương tự như Trương Tam tiêu tiền, Lý Tứ thanh toán quá sức bí , vì vậy nhiều hơn cả là những câu chuyện như kiểu, cùng lúc với linh hồn nào phải ở gian chịu nhục hình dương thế cũng hoán gọi. Những câu chuyện kiểu này ban đầu thường thấy các vị hòa thượng là nhân vật chính, đa phần cũng là do hòa thượng hoặc những tín đồ Phật giáo thêu dệt, có thể thấy từ đó cho tới nay, hòa thượng giữ giới luật là vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Khi họ xây dựng những câu chuyện kiểu này, chỉ là muốn thực hóa thuyết báo ứng, ứng nghiệm càng nhanh càng tốt. Dùng sổ ghi chép thiện ác, còn phải đợi đến sau khi chết mới có thể tính sổ, những chuyện như thế này ai có kiên nhẫn để chờ đợi, để tranh thủ, có tội lỗi gì, tốt nhất là thể ngay để cho người phạm tội biết, thế báo bằng thực báo trước. Đương nhiên, đây cũng là xuất phát từ ý tốt muốn cảnh giới. Hồ Biện trong câu chuyện chịu tin, những tăng đồ ngoài câu chuyện liệu có tin ? Hơn nữa, mặt tuyên truyền rằng những hòa thượng bình thường chỉ cần uống chút “mễ trấp” (rượu) ngay lập tức phải xuống vô gian địa ngục làm xiên thịt để đưa lên bếp nướng, mặt lại tuyên truyền rằng những hòa thượng cấp cao có thể ăn thịt ăn cá thoải mái, ăn càng nhiều càng chứng minh rằng họ là La Hán chuyển thế, liệu có phải điều này linh hoạt quá mức thành tùy tiện rồi ? Sau khi giới thiệu rộng rãi câu chuyện này đến với tầng lớp nhân dân lao động, tính chất của nó lại ngày càng biến điệu. Truyện Mộng Lang trong Liêu trai chí dị, “linh hồn” tên ác quan Bái Giáp vừa tham lam vừa tàn bạo, bị lực sĩ dưới gian “dùng búa đập răng, răng rơi đầy dưới đất”, còn bản thân người này dương gian cũng “răng cửa rụng hết”, nhưng nguyên nhân lại là “bị ngã ngựa trong lúc say rượu”. Trong quyển năm của Hữu đài tiên quán bút ký do Du Việt viết có kể về tên ác bá trong làng, khi người khác nhìn thấy linh hồn của ta phải chịu đòn dưới địa ngục bản thân tên ác bá lúc này nằm giường bệnh rên khe khẽ, dưới phủ dùng dây sắt xuyên qua mũi của linh hồn , ở dương thế “đột nhiên hai dòng máu tươi phụt ra từ hai lỗ mũi, tắt thở mà chết!”. Trong quyển của Động linh tục chí ghi lại câu chuyện Tằng Thị Nữ ngao du gian, gặp sư huynh của mình dưới địa ngục bị treo ngược tường, chiếc đinh lớn đâm xuyên qua não, quỷ sứ cắt từng miếng thịt, máu chảy lênh láng, thảm kể xiết. Tằng Nữ hỏi: “Huynh tôi còn chưa chết sao lại chạy đến đây?” Người dưới gian đáp: “Diêm Vương thấy người này lòng dạ độc ác, hẹp hòi, coi thường luật pháp nên trừng phạt dưới gian để giày vò người này dương thế. Mặc dù chưa chết nhưng hồn ở địa ngục rồi.” ra sư huynh của Tằng Nữ dương gian, chỉ có treo ngược chân lên mới dễ chịu đôi chút, dần dần dẫn đến tứ chi thối rữa, khẽ cử động là đau như bị dao cắt, đúng như những gì Tằng Nữ nhìn thấy. Những kẻ ác bá này hành động bừa bãi, lộng hành, quan phủ dương thế những quản, thậm chí còn chống lưng cho chúng, nên bị báo ứng ở địa ngục, nghe cũng thấy là giận. Từ đó suy ra, mỗi khi đám quan phủ địa chủ xảy ra chuyện liên quan tới sức khỏe, chúng ta có thể tưởng tượng rằng bọn họ phải chịu trừng phạt dưới địa ngục, thế là hào hứng : “Ông trời có mắt.” Nhưng cũng từ đây chúng ta đặt ra câu hỏi lớn rằng, nếu ông quan nào đó mắc bệnh hoa liễu, phủ liền là do họ cắt mũi, tên nhà giàu nào đó mắc bệnh gan nhiễm mỡ dưới phủ liền là do họ bỏ người ta vào vạc dầu,… Dường như bọn họ chuyện gì cũng biết, thấy lũ người đó gặp báo ứng vui vậy, ai biết liệu có phải những quan viên dưới phủ này do muốn tăng công, nên khai láo hay ? Mà điều khiến người ta thể nghĩ là: “Nếu những người “cơ thể bất an” là bách tính của chúng ta sao đây?” Gặp họa gặp nạn, có bệnh có tiền chữa chạy đa phần đều rơi vào dân thường. Hoặc có lẽ vị tiên sinh đại nhân nghĩ ra câu chuyện này muốn bách tính trăm họ hiểu điều rằng, nếu ở nhân thế mà ngươi đâu đụng đấy là vì linh hồn của ngươi bị nung trong vạc dầu dưới địa ngục, ngươi chỉ cần hắt xì cái, cũng có nghĩa là linh hồn của ngươi bị phạt đứng trong địa ngục lạnh lẽo. Cái gọi là “chưa biết đến hình phạt nơi phủ phải chịu đựng trừng phạt nơi dương gian rồi”, người tốt nhất vẫn nên “trông coi” linh hồn của bản thân mình cho tốt!
Hoạt vô thường [1] [1] Hoạt vô thường: hoạt là công việc, ở đây muốn đến những việc vô thường. 1 Có loại hồn rời khỏi thể xác được gọi là “ về cõi ”, còn có cách gọi khác là xuống giới, về nơi vô thường. Tức là linh hồn của người sống tạm thời bị giới mời về, nhận chức ở dưới đó để xử lý công việc, sau khi làm xong có thể quay lại dương thế. Kiểu thoát xác này thỉnh thoảng mới xảy ra lần, nhưng đại đa số chức vụ đó là kiêm nhiệm, cứ cách năm ba ngày lại chuyến nên được gọi là “ về cõi ”, hơi giống với việc quen đường thuộc lối thăm họ hàng thân thích. Nhưng “ về cõi ” cũng được chia làm hai loại tùy thuộc vào thân phận của từng người, như “quân tử hóa thành vượn, thành thiên nga, còn tiểu nhân hóa thành côn trùng, đất cát”. Các tiên sinh đại nhân về cõi là “phán minh”, tức là xuống giới làm phán quan giải quyết mọi chuyện thay Diêm Vương, còn loại thảo dân chỉ có thể trở thành quỷ sứ bắt hồn. Chuyện của phán minh được bàn chi tiết hơn ở phần sau khi đến Diêm Vương, ở đây chúng ta chỉ đến những sai đại diện tạm thời hoặc hợp đồng, thực ra đa phần họ là sai đại diện có tính chất có nghĩa vụ, cách gọi của nó cũng khác nhau, tùy vào ngôn ngữ của từng địa phương, có nơi gọi là “hoạt vô thường”, hoặc “hoạt câu sai”, “dạ bài đầu” (thời cũ có nơi gọi những nha dịch này là “bài đầu”), mặc dù giữa chúng cũng có những khác biệt , nhưng cùng là chỉ cơ thể sống nhân thế, nhưng linh hồn của họ lại kiêm chức sai xuống địa phủ làm “quỷ vô thường”. Đối với tiên sinh quỷ “vô thường” này, Lỗ Tấn thu thập tất cả trong Vô thường ở tác phẩm Hồ hoa tịch thập [2] và được giới thiệu rất đầy đủ, ở đây tôi chỉ bổ sung câu. “Vô thường” chính là sai chuyên bắt sinh hồn, nhưng sai là danh từ được nhắc đến từ lâu, còn quỷ vô thường phải đến đời Nam Tống mới thấy xuất trong sách (Mời đọc truyện Châu Thái phủ ở quyển hai trong Di kiên chi mậu của Hồng Mại). Đến đời Minh, vô thường được nhắc đến nhiều ở Thủy hử và Tam ngôn nhị phác, những tiểu thuyết nổi tiếng ở đời Thanh càng được sử dụng nhiều và rộng rãi trong bút ký của các nhà văn, và hình tượng của nó cũng dần dần được định hình trong dân gian, đa phần là “thân cao hơn trượng”, kích thước thời cổ giống với bây giờ, mặc dù đến nỗi cao hơn ba mét nhưng cũng có thể sánh với những cầu thủ bóng rổ trong “Đội hình mơ ước [3] ” của Mỹ. người mặc áo vải gai màu trắng, sau này thường theo đôi đen trắng, lại thêm khái niệm về “Hắc vô thường” - quỷ mặc áo đen, đầu đội chiếc mũ làm từ giấy hoặc từ vải gai thô, cổ đeo chuỗi vòng bằng giấy, cũng có nơi là được vác vai. Luôn hai người, cũng giống như “ điều tra” ở nhân gian, cùng nhau làm việc và giám sát lẫn nhau. [2]. ‘Hồ hoa tịch thập’ là cuốn hồi ký duy nhất của Lỗ Tấn, tên cũ nhắc là ‘Nhắc lại chuyện cũ’. [3]. “Đội hình mơ ước” (tên tiếng là “Dream team”): tên gọi dành cho đội tuyển bóng rổ quốc gia Mỹ. Vì vậy, “hoạt vô thường” về cõi chính là vai diễn do người sống đảm nhiệm, ngôn ngữ Trung Quốc có tính suy ngẫm rất cao, từ “sống” kết hợp với danh từ chính, bản thân nó có nghĩa là “ phải là ”, đương nhiên bình thường điều này hoàn toàn có nghĩa xấu, nếu trong cuộc sống có “Lôi Phong sống”, sân khấu có “Tào Tháo sống”, ngay cả những ác bá cường hào bị bách tính lén gọi sau lưng là “Diêm Vương sống”, cũng được hảo hán ở thôn Thạch Kiết dùng làm tên gọi tếu. Mà phủ được miêu tả trong Ngọc lịch bảo sao cũng có “hoạt vô thường”, hoàn toàn phải là giả, “hoạt vô thường” này rất hợp với “chết có phần”, lấy ý nghĩa là “người sống vô thường, cuối cùng chết”, là đôi quỷ sứ ở tầng điện thứ mười, nhiệm vụ của chúng phải là bắt linh hồn người sống mà ngược lại, chúng thúc giục vong hồn đầu thai. Đây chính là khái niệm mới mà người viết Ngọc lịch bảo sao sáng tạo dựa những điều được lưu truyền trong nhân gian. Mặc dù chưa được dân gian công nhận, nhưng tên của đôi quỷ này được sử dụng rộng rãi, khi diễn kịch sân khấu dùng để gọi Bạch - Hắc y, nhưng vì có khái niệm “hoạt vô thường” về cõi trong dân gian rồi, đành phải đổi tên của vị quỷ sứ của phủ này thành cái tên nghe thuận chút nào “vô thường chết”. Những điều kể chỉ là muốn , ít nhất trước đời Tống, phải tất cả quỷ sứ bắt hồn đều áo gai mũ cao, thân cao hai trượng. Thực ra từ đời Minh - Thanh cho đến thời cận đại, chúng ta chỉ bắt gặp những hình tượng như thế trong tiểu thuyết, đa phần quỷ sứ bắt người đều khoa trương dọa người như thế, chẳng qua cũng giống nha dịch trong quan phủ ở nhân gian mà thôi, chỉ như thế mới dễ để người sống giả mạo thay thế. Còn “hoạt vô thường” mà chúng ta thường , chọn người cao lớn khoác lên người ta bộ áo vải gai mũ mạo cao sang để đóng giả, thường chỉ gặp trong các lễ tế thần, đón thần, do người sống đóng giả “vô thường”. Trong cuộc sống thực tế, ra rất ít gặp những hình dạng “hoạt vô thường” được miêu tả như trong Động linh tiểu chí ở phần sau. justify;" align=" 2 Những ghi chép sớm nhất về việc “ về cõi ” được tìm thấy trong cuốn Sưu thần ký của Can Bảo, nhưng câu chuyện trong đó là chuyện về nước Ngô thời Tam Quốc. Địa điểm là ở Phú Dương, Chiết Giang, theo như trào lưu đính kèm tên người nổi tiếng vào bây giờ nơi đây chính là quê gốc của “vạn tuế gia” Tôn Trọng Mưu [4] , người mà người cố chấp như Tào Tháo cũng muốn lấy làm hình mẫu để sinh con trai, và cũng là nơi khá nóng trong giới khảo cổ nay, đương nhiên còn điểm nữa đáng để nhắc đến là, thần Chương Liễu [5] - sản phẩm nổi tiếng ở đây. [4]. Tôn Trọng Mưu: tức Tôn Quyền, tự Trọng Mưu, người Phú Dương, Chiết Giang. Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc. [5]. Thần Chương Liễu: dụng cụ mà những nhà chiêm tinh học thường dùng. Nhân vật chính trong chuyện là vợ của Mã Thế, tên Tưởng Thị, trong thôn hễ ai sắp chết vì bị bệnh, Tưởng Thị đều tâm thần hoảng hốt, ngủ vùi qua ngày. Cho tới khi người bệnh đó chết rồi, chi ta mới tỉnh lại, người đó chết là do chị ta. Người khác tin, chị ta liền kể lại tỉ mỉ những chuyện kỳ quái vừa xảy ra ở nhà người chết, đó đều là những trò ma quái mà chị ta gây ra. Người khác liền điều tra để kiểm chứng, quả sai, ai cũng phải kinh ngạc, hãi hùng. Lần này lại có người mặc áo đen (hắc y nhân), chắc chắn là công vụ của phủ rồi, lệnh cho Tưởng Thị giết người trai lâm bệnh của chị ta. Chị ta lại thay trai xin xỏ, qua lại, quyết chịu ra tay. Khi tỉnh lại, chị ta liền với trai: “ sao rồi, chết nữa đâu.” Kết cục sau đó được đến, nhưng đương nhiên sau khi chị ta tự mình quảng cáo, giới thiệu, những công việc làm ăn như tới gặp chị ta xin niệm tình khi ra tay, hay “hối lộ” gian… bắt đầu phát triển. Câu chuyện rất đơn giản nhưng khái quát được hai đặc điểm chính của người chuyên về cõi sau này. là, bà Mã ở dương thế có lẽ là người phụ nữ làm chủ gia đình, làm gì , nhưng công việc kiêm nhiệm thứ hai mà chị ta làm là giúp phủ bắt người. Hai là, chính nhờ công việc kiêm nhiệm này, chị ta trở thành nhân vật có khả năng ra vào công môn nơi phủ, tiến hành vài giao dịch với phủ, giúp người dương thế cửa sau, nhờ việc này mà chị ta có thêm công việc kiêm nhiệm thứ ba, và có lý do để từ chối làm công việc đầu tiên của mình. Còn việc mỗi khi chị ta về cõi là người chị ta ở trạng thái ngủ vùi gần như bất tỉnh, khác nhiều so với những kẻ bị mất hồn khác, cho dù có nằm nhiều hơn người khác ba ngày, hai đêm cũng có gì khó, cùng lắm là lén ăn chút đồ ăn đêm để lót dạ là được. Những phán quan dưới trướng Diêm Vương ở địa phủ, đầu trâu mặt ngựa, Hắc - Bạch vô thường, quỷ sứ sai tổ chức thành hệ thống chấp pháp rất mạnh, tại sao còn phải mượn người ở dương gian để bắt hồn? Thường chỉ có lý do, đó là người ở địa phủ đủ. Trong Ngữ quái, Chúc Doãn Minh đời Minh viết: “Hoạt vô thường chủ yếu là giúp địa ngục bắt người, ngoài việc bắt người, có lẽ thỉnh thoảng còn làm vài việc như “nha dịch vận chuyển”, thế cũng vẫn là sai. Giờ chúng ta có thể hiểu được từ “nha dịch” trong thời cổ đại, trước nghĩ rằng đó giống như công an, cảnh sát chuyên trách, thực ra hẳn, trong nha môn có tôi tớ, sai dịch chuyên trách, nhưng cũng có vài “lao dịch” là dân thường và đây chỉ là công việc thời vụ. Những người làm công việc đối phó cũng có mà trực đêm cũng có, khi sai dịch chuyên trách đủ, cũng có thể làm công an tạm thời, những việc chuyên ngành quá thể làm được, nhưng những công việc cần đến sức như khi đánh phạm nhân dùng đùi kẹp đầu hoặc dùng tay giữ chân, có lẽ cũng vấn đề gì. phủ thường dùng “hoạt vô thường”, đương nhiên có liên quan đến những điều lệ trong quan phủ ở dương gian, nhưng nếu lấy đó làm lý do được đầy đủ lắm. phủ có thể lấy người từ nhân thế xuống làm sai dịch, nhưng khi những ông lớn dương thế cũng muốn mượn mấy kẻ đầu trâu mặt ngựa về làm người giữ cửa nha môn, để đề phòng bọn gian dân đến đưa cáo trạng Diêm Vương, liệu ngài có đồng ý hay ? Hơn nữa, những người làm nha môn dưới địa phủ chưa chắc là đủ, trong truyện Vương A Sinh ở quyển tám của cuốn Mộng quảng tạp trứ do Du Giao viết có ghi lại việc quỷ sử tới bắt hồn của sản phụ cái hồ, lại dùng đến cả chiếc thuyền lớn: “Đến trước tòa nhà, thuyền cập bến, từ tấm rèm màu trắng, cửa sổ trong thuyền có đến sáu, bảy người bay lên”, lúc sau chỉ thấy “bên trong cửa sổ có bóng người dựa vào mạn thuyền, dưới ánh trăng mờ tỏ, phân biệt được là nam hay nữ, nhảy xuống cùng đám người đó”, đây ràng là màn cướp đêm. Vì muốn bắt sản phụ sắp sinh, thế mà phải cần đến cả đội cảnh vệ, quá khoa trương, chẳng trách lúc nào cũng kêu đủ người! justify;" align=" 3 phủ mượn “hoạt vô thường” để bắt linh hồn người sống còn có lý do khác nữa, những người sắp chết thường có rất nhiều thân nhân vây quanh, dương khí quá mạnh, sai thể tiếp cận, vì vậy cần phải mượn linh hồn của người sống để làm tiên phong. Trong quyển bảy của Duyệt vi thảo đường bút ký có mượn lời của bà cụ vừa làm vô thường: Người bệnh chắc chắn có họ hàng thân thích vây quanh, ánh sáng dương gian quá mạnh, quỷ sứ khó tiếp cận. Cũng có thể là có chân quý nhân dương khí mạnh, hoặc chân quân tử, dương khí càng mạnh, thể tiếp cận, hoặc quan binh hình có sát khí, hung khí lại càng khó tiếp cận. Chỉ có thể xác ở dương gian mà linh hồn ở gian, cần phải lo lắng tới những điều này, nên mang chúng theo để giúp đỡ. như vậy tương đối hợp lý, hoạt vô thường chỉ là để dự bị, nhân vật chính vẫn là sai, nhưng trong rất nhiều câu chuyện, quỷ sứ sai đảm nhiệm chức vụ chính lại coi hoạt vô thường là những tên tay sai tàn nhẫn, còn mình hai tay chống nạnh đứng bên xem kịch miễn phí. Trong Liêu trai chí dị có ông lão là hoạt vô thường, bắt được hồn của lão già nào đó, còn phải cõng lão đầu thai, lão già đó nặng, suýt nữa đè bẹp ông lão là hoạt vô thường kia. Giống như những nhân viên có hợp đồng chính thức trong cơ quan ở dương thế, nhân viên hợp đồng thuê nhân viên thời vụ, cách khác việc biên tập lại do hiệu đính làm, việc của hiệu đính lại do công nhân xưởng in làm, như thế mọi chuyện chẳng ra sao. Trong chuyện Quỷ nhiều biến thành ruồi nhặng ở quyển bốn trong Tử bất ngữ do Viên Mai viết: “Có người phụ nữ họ Nhiêu làm sai cho địa phủ, lần về cõi là ngủ hai ngày hai đêm mới tỉnh dậy, sau khi tỉnh dậy người đầm đìa mồ hôi, thở hồng hộc, : “Người hàng xóm hung ác khó bắt, Diêm Vương sai ta bắt. ngờ ta trước khi chết còn hung hăng, giằng co với hồi, cũng may ta tung dây thừng trói được tay , mới có thể dắt .” Qua lời người phụ nữ này , có thể thấy dường như bà ta bị sử dụng như quỷ sai chính thức. Đây có lẽ là quỷ sai tuân thủ lời thánh dạy “nam nữ thụ thụ bất thân”, nữ tù nhân phải do cai ngục nữ quản thúc, nữ phạm nhân cũng phải do phụ nữ bắt, nhưng có lẽ bà Nhiêu này có tính khí khác người, muốn thành kiểu phụ nữ mạnh mẽ điển hình để thay cho bọn đàn ông con trai. Thế là bất giác nhớ lại thời xưa “vận động”, hỏa lực của “đội chiến đấu những bàn chân ” thực thể xem thường. phủ khi bắt người trong phủ quan, ngoài gặp phải cản trở của môn thần ở nha môn ra bên cạnh hoặc có người thân của họ, đặc biệt nếu người bị bắt lại là quý quan hoặc chính nhân quân tử, quỷ sứ cũng thể tự mình xông lên bắt họ được, lúc này cần đến giúp đỡ của linh hồn người sống. Trương Bồi Nhân người đời Thanh trong quyển mười cuốn Diệu hương thất tùng thoại dẫn câu chuyện trong cuốn Cần giới cận lục của Lương Kính Thúc, kể rằng: “ người vô thường sau khi nhập tỉnh lại, trông rất nhếch nhác, rằng có mười tên quỷ sứ đến, mời ta cùng bắt niết ti Tứ đại nhân. Vị niết ti này chính là an sát sử của công kiểm pháp tỉnh, chức quan hề , hơn nữa lại là “quan binh hình”. Khi đó Tứ đại nhân trở về dinh quan, khua chiêng mở đường, rầm rộ tới mức khiến mười tên quỷ tốt kia run cầm cập, nhưng hoạt vô thường lại thản nhiên như . Sau khi Tứ đại nhân vào dinh, sai định vào trong để bắt người, nhưng ngoài cửa có hai vị kim giáp môn thần chặn lại, giật gậy ném hết xuống đất, đám quỷ tốt thể chống đỡ được, bèn lấy từ trong người ra lệnh bài bắt người, lúc ấy mới có thể qua được cửa lớn để vào trong dinh thất. Khi đó Tứ đại nhân ngồi chuyện với khách, dương khí người khách vượng, đám quỷ tốt cũng dám xông lên, bèn đưa cho hoạt vô thường cuộn dây, để người này bắt Tứ đại nhân. Tứ đại nhân làm quan lớn, khi chuyện thường gật gù đắc ý quen rồi nên muốn tròng dây vào cổ cũng khó. Lúc này, quỷ tốt liền khua khua tấm lệnh bài trước mặt Tứ đại nhân, thế là đầu Tứ đại nhân dần dần gục xuống, lờ đờ như buồn ngủ, nhưng lệnh bài vẫn khua liên tục, Tứ đại nhân đột nhiên hắt xì cái to rồi kêu đau đầu. Lúc này hoạt vô thường liền đến, giật mũ của Tứ đại nhân xuống, sau đó tròng dây vào cổ ông ta. Thế là mười tên quỷ tốt cùng xông lên trước, cuối cùng bắt được sinh hồn của Tứ đại nhân .” Linh hồn của viên quan cấp tỉnh, mười tên quỷ sứ cầm theo lệnh bài của Diêm Vương cũng dám tiếp cận, xem ra nếu “thanh thế bức người” để hình dung về quyền thế, quan to khí thế lớn sai chút nào. Tên hoạt vô thường này chỉ là tên nô bộc ngu xuẩn của tiểu quan dương thế, sau khi nhập bắt người cũng thấy thông minh nhanh nhẹn hơn là bao, nhưng những việc cần kẻ xung phong đâm đầu vào nguy hiểm thế này cần đến loại người đó, giống như vài hoạt động cần đến những “phần tử dũng cảm” giơ đầu ra chịu trận vậy. Truyện Trương Ngũ, quyển trong Dạ đàm tùy lục do Nhàn Trai Thị người đời Thanh cũng viết về việc tạm thời mượn dùng hoạt vô thường Trương Ngũ, quỷ sứ muốn ta bắt huyện đại gia của huyện đó: “Lẻn vào trong phòng, tròng cái này lên cổ quan, giãy giụa lúc, rồi dắt ra ngoài”, nhưng Trương Ngũ vốn là thảo dân, ta : “Người ta là huyện đại gia, ta là cái gì, đến xông lên ta cũng dám.” Hai tên quỷ sứ đáp: “Tên này dù là quan lớn nhưng tham tài háo sắc, chém giết dùng hình tràn lan, hôm nay trở thành tội nhân, có gì phải sợ cả!” Nhưng giác ngộ của Trương Ngũ quá kém, nửa ngày cũng khai thông được, cuối cùng hai tên quỷ sứ đành ép ta đẩy cửa vào phòng, mới coi như hoàn thành nhiệm vụ. Những người thà như Trương Ngũ chắc chắn thể sử dụng như hoạt vô thường chính thức. justify;" align=" 4 bắt những kẻ mạnh dương gian cần có hoạt vô thường giúp sức, điều này nghe còn có lý, ở đời Đường còn có cách , cũng coi như là lý do chính thức, khi sứ giả phủ lên nhân gian bắt những linh hồn trẻ con, cũng cần dùng hồn người sống làm bạn đồng hành. Trong Quảng dị ký do Đới Phu viết có câu chuyện, kể về quỷ tốt muốn bắt linh hồn đứa trẻ, nhưng bố mẹ đứa trẻ đứng hai bên giường canh, quỷ tốt hất tay cái, bố mẹ đứa trẻ từ từ chìm vào giấc ngủ, sau đó để sinh hồn làm công thời vụ ôm đứa trẻ (đương nhiên là ôm linh hồn của đứa trẻ). Trong câu chuyện khác cùng cuốn sách này, quỷ tốt liền : “Ta nhận lệnh Diêm Vương bắt linh hồn trẻ con, cần có sinh hồn làm bạn đồng hành.” Thuyết này tới tận đời Thanh vẫn còn được nhắc đến trong những câu chuyện ma. Trong truyện Hoạt vô thường quyển bốn quyển Động linh tiểu chí của Quách Tắc Vân, viết về cử nhân cao chín thước, tạm thời lọt vào mắt hai tên sai chuyên bắt hồn, nên làm hoạt vô thường, sai ta bắt hai đứa trẻ bị bệnh đậu mùa trong phường làm đậu hũ. Nhưng tình tiết lại có những thêm thắt mới mẻ, chưa từng được nhắc đến trong những câu chuyện trước, đó chính là sai phải lột cả “mũ cao áo trắng” của mình cùng lệnh bài bắt hồn đưa cho người đại diện tạm thời này mặc vào, nếu ta thể bắt được hồn. Có điều cử nhân đó phải kẻ ngốc, bèn hỏi: “Tại sao ngươi tự mình bắt?” Quỷ sai đáp: “ khí quá lớn, thể tiếp cận.” Cử nhân vờ đồng ý, vào rồi lại ra, : “Ta rất sợ, nhưng phải vào lửa lớn, làm thế nào?” Cuối cùng ồn ào cả đêm cũng bắt được sinh hồn của hai đứa trẻ đó, vô thường đành đòi lại mũ áo của mình. dương khí của trẻ con vượng hơn cả dương khí của người trưởng thành, nghe hợp lý lắm, bởi vì từ xưa tới nay, trong rất nhiều những câu chuyện ma thời Ngụy - Tấn đều dương khí của trẻ con đủ, dễ bị trúng khí của ma quỷ, chừng còn mất mạng. Nhưng quy tắc dưới phủ thường khá giống với những gì được nhắc tới trong chuyện, có điều nguyên nhân trong đó khiến người ta khó giải thích. Còn có cách khác, tức là đôi khi sứ giả của phủ bắt hồn, cần phải nhờ người sống trực tiếp ra tay, mà chỉ cần mượn hơi “khí người sống” của người đó là có thể bắt được hồn rồi. Trong truyện Tốt bắt hồn, quyển mười bốn Tử bất ngữ, kể về người tên Dư họ Giả, người Tô Châu, đêm thu rời khỏi nha môn bắt dế mèn, quay về muộn, vào được trong thành. buồn rầu vì biết ăn ở đâu gặp hai người mặc áo xanh, mời ta về nhà mình, có rượu, có thịt, vừa ăn vừa uống khiến ta vô cùng cảm kích. Cho đến canh năm, hai người đó lấy ra bức văn thư, với lão Dư: “Nhờ huynh hà hơi lên tờ giấy này.” Lão Dư hiểu nguyên do, chỉ nghĩ hai người đó đùa, liền cười, hà hơi. “Hà hơi xong, hai người áo xanh vui mừng, nhảy lên nóc nhà. Dư thất kinh, định hỏi tại sao thấy hai người đó đâu nữa. Bên ngoài có tiếng khóc lớn vang lên. Dư biết hai người mình gặp phải người mà là quỷ bắt hồn.” Lão Dư này vô tình làm hoạt vô thường lần, tạm thời bị mượn, mà biết, xem ra rượu thịt của người lạ trong nha môn nuốt trôi. Nhưng ở đời Thanh, thuyết hà khí này dường như chỉ thấy ở mạn Tô Châu. Trong quyển mười của cuốn Hữu đài tiên quán bút ký do Du Việt viết về câu chuyện xảy ra ở Tô Châu, cũng giống như chuyện về lão Dư, nhưng cuối cùng lại bàn rằng: “Mặc dù có mang theo lệnh bài của địa phủ, nhưng lại cần người sống phải hà hơi, đạo lý này từ đâu mà ra? Hơn nữa, tại sao nhất định phải cần người sống hà hơi vào đó? Những chuyện xảy ra ở giới, là khó hiểu.” Thực ra, suy nghĩ chút là có thể thôi, hơi dương khí mà hoạt vô thường thổi vào đó chẳng phải là “bản mang theo” sao? Đây chỉ là do tạm thời việc bắt hồn được thuận lợi nên mượn hơi của người sống, chứ phải lệnh bài nào cũng cần được hà hơi. Tóm lại, hoạt vô thường làm người đồng hành theo, những gì có thể làm cũng chỉ đến thế, nhưng cũng có vài người về cõi ăn tục bậy. Giống như hòa thượng Giới Hiển ở triều Thanh, trong quyển năm cuốn Hiệu quả tùy lục có viết về hoạt vô thường trong trấn Mai Lý, thành phố Thường Thục (Tô Châu), ràng là cao thủ Nhi [6] , , có lẽ phải giống lão Tôn với cân đẩu vân ấy: “Người về cõi nhận lệnh được triệu đến địa phủ, bên ngoài cửa có cái giếng, ta ra đó mặc áo da, cầm gậy lớn, đeo mặt nạ, rồi lại soi mình xuống giếng, “thân bẫng, xuyên biển vượt núi, khắc cả ngàn vạn dặm. Tất cả những người vắt được đều móc lên gậy, vác lên vai mà bay, lúc gánh cả hai mươi người cũng vẫn như ”.” cây gậy có thể gánh hai mươi người, khiến những linh hồn bị bắt trước khi xuống địa ngục lần được hưởng cảm giác cưỡi mây đạp gió, thú vị , có điều khoác cũng nên tìm cách cho chặt chẽ, đừng để hổng lỗ lớn như thế, con đường thông giữa và dương vốn ở cùng gian, phải cứ ngồi máy bay hay tên lửa là đến được, cho dù có là Tề Thiên Đại Thánh, cái cân đẩu vân có thể bay tới tận Tây Thiên, nhưng cũng thể bay được xuống địa phủ. [6]. Nhi: nhân vật có tiếng được lưu truyền từ đời Đường. Còn trong quyển năm cuốn Hữu đài tiên quán bút ký của Du Việt còn đến hoạt vô thường họ Du, người này thậm chí còn có thể có hai “pháp bảo”: “Du kể lại rằng, mỗi lần về cõi , thần Thành Hoàng lại ban cho đôi giầy cỏ, và cái quạt. Đôi giày cỏ này khi lướt nhanh như bay, tâm muốn đâu nó đó, có trở ngại, dù là thành cao hào sâu cũng nhàng bay qua. Còn cây quạt mặt màu đỏ mặt màu đen, nếu dùng mặt màu đỏ quạt người khác cơ thể nóng hầm hập, dùng mặt màu đen quạt người khác lại lạnh run cầm cập.” Vị Du tiên sinh này là phần tử trí thức biết đọc biết viết, có lẽ bình thường đọc quá nhiều những loại tiểu thuyết thần ma, khi ngủ liền mang cả Tây du ký, Phong thần vào giấc mơ, nhưng lại nghĩ là mình về cõi , do đó những gì ông ta kể chỉ là kể cho người nhà đó, chứ tuyên truyền lời nhảm nhí này ra ngoài. Tạo hình của quỷ vô thường trong những lễ hội Thành Hoàng dân gian thường là trong tay có cầm chiếc quạt Ba Tiêu, nhưng cũng chưa chắc thần thông như thế. Nếu như để vô thường và giả có được hai pháp bảo này thế giới này bị quạt loạn cả lên, khiến người ta lúc nóng lúc lạnh, lúc phải lúc trái, bách tính cũng gặp nạn lớn. justify;" align=" 5 Trong truyện Lý Hoa Ninh của quyển thượng, cuốn Thuyết Linh. Minh báo lục, Lục Kỳ người đời Thanh kể về quỷ sứ ép người tốt thành hoạt vô thường như thế nào, đó là câu chuyện về tay sai nha môn phủ. Trong câu chuyện có môt vài chi tiết vụn vặt, nhưng có thể vạch bộ mặt của những tên quan phủ nhân gian sai quân kéo người ta xuống nước, do đó càng nên đọc. Lý Hoa Ninh là nông dân thà, chất phác ở thôn Tây Hương Thạch Đôn, huyện Hải Ninh, hôm ấy bị bệnh sốt rét, nằm giường thấy bên gối xuất hai sai, kẻ tự xưng là Sái Hữu Thành, tên kia là Thẩm Lượng, đưa ra lệnh bài, khua khua trước mặt lão Lý, : “Ông sắp chết rồi, này có tên của ông , phải bọn này muốn lừa ông . Nhưng lệnh bài này có tên của mấy chục người, bình thường bọn này thấy ông thà nên mới đến bắt ông sau cùng đấy.” Lão Lý bị bệnh nên mắt mờ mờ ảo ảo, cũng nhìn có đúng là tên mình hay , chỉ ra sức ngàn ơn vạn tạ. Sau khi hai tên quỷ sứ rồi, lão Lý liền bảo người nhà chuẩn bị hậu . Hai ngày sau, lão Lý nằm giường, đột nhiên bên gối lại xuất tiểu quỷ đầu vẫn còn để chỏm tóc, chắc khoảng bảy, tám tuổi thôi, rằng, cầm dây thừng thòng vào cổ lão, kéo thẳng đến miếu thổ địa, buộc vào cái cây lớn trước cửa miếu. lúc sau, lão thấy hai tên Sái, Thẩm trói dắt mấy chục người tới, thấy lão Lý cũng bị trói ở đó, liền quay sang mắng tên tiểu quỷ: “Ngươi là cái thá gì, sao dám mạo danh công sai bắt người?”, rồi xông lên cho tiểu quỷ cái bạt tai, đánh tiểu quỷ phải ôm đầu chạy vào hang chuột. Sau đó, hai tên quỷ sứ kia với lão Lý: “ tào địa phủ tư pháp tuy nghiêm nhưng những người có tên ở cuối danh sách vẫn có thể tìm cách lách luật để thoát khỏi cái chết. Bọn ta thấy nhà ngươi tội nghiệp nên bắt ngay, chính là vì muốn ngươi có cơ hội thoát khỏi cái chết đó. Nhưng ngờ tên tiểu tử khốn kiếp kia lại bắt hồn ngươi tới đây rồi! Ngươi mau tìm nơi nào lánh lát, sau khi chúng ta giao mấy chục linh hồn này cho thần thổ địa xong, đưa ngươi quay về.” Đọc đến đoạn này, tôi có cảm giác tên tiểu quỷ kia là do sai thuê đến để cùng bọn họ đóng kịch vậy. Dù sao bọn chúng cũng bắt linh hồn của người đáng lẽ phải chết đến đây rồi, có linh hồn, lão Lý tắt thở, thành thi thể, còn hồn của ông ta trở thành miếng thịt bị trói. Cuối cùng, hai tên quỷ sứ này cũng đành khai , : “Chúng tôi mỗi lần bắt sinh hồn, nếu tiến được về phía trước phải có quỷ dương dẫn đường. Dù sao cũng bắt nhầm rồi, vậy hãy giúp chúng tôi .” Lão Lý lúc này thể nhận lời, đành trở thành “hoạt vô thường”. Nhưng ngài Lý đại ngốc này quá thà, chỉ có thể trở thành tay sai của sai, thể trở thành người chủ lực bắt, trói linh hồn. Mỗi lần hai tên quỷ sứ Sái, Thẩm bắt hồn, ông ta lập tức ngủ vùi, sau đó thấy hồn thoát ra theo hai tên đó. Đến nhà nào, nếu người sắp chết có nhiều người thân vây quanh, tức là dương hỏa cao ngất, sai dám tiếp cận, liền sai lão Lý sang phòng bên cạnh giả làm tiếng mèo kêu đuổi bắt chuột, hoặc chạy làm đổ bình rượu, hoặc bát đũa, người thân của người đó phải tản , hai tên sai liền nhân cơ hội đó mà xông lên bắt hồn. Theo như lão Lý , dường như ông ta chỉ là giúp đỡ ở phần ngoài, thỉnh thoảng cũng ra vào cơ quan phủ nhiều lần, vì vậy ông ta có thể kể ra vài quy luật ở phủ, chưa từng thấy ở những cuốn sách khác, nên ghi lại ra đây để mọi người cùng biết: Thứ nhất, nếu người nhân thế khi sinh ra ở nơi, sau này trưởng thành lại di cư bất định lệnh bài của giới được gửi đến miếu thổ địa nơi người ta sinh ra trước, sau đó mới đến nơi người đó ốm bệnh nằm mà bắt hồn. Lý luận này còn có thể chấp nhận được ở thời xưa, nếu như bây giờ, gặp người sinh ra trong nước nhưng lại ốm chết ở nước ngoài sai phải vượt biển để đuổi bắt, khó khăn biết bao! Chắc có lẽ ngoài cách nhờ Diêm Vương của nước đó dẫn độ về nước cũng còn cách nào hay hơn! Quy luật thứ hai này càng khiến người ta khó hiểu. Lão Lý còn ông ta nhìn thấy những linh hồn sắp được hóa kiếp dưới địa ngục đều tròn tròn giống như viên bánh trôi nước, màu xanh lục, mỗi lần tiểu quỷ bê đĩa lên, đám linh hồn dưới giới lại nhao nhao xông lên, cướp lấy, nhận về làm con cháu mình khiến đám bánh trôi rơi xuống đất lăn lóc khắp nơi, còn đám linh hồn kia cũng lồm cồm bò tìm khắp nơi. Những điều này chưa thấy ai kể lại bao giờ, còn lão Lý thà tới mức thể thà hơn, có lẽ gặp phải đám quỷ đói tranh cướp màn thầu vào ngày Halloween nên nhầm lẫn mà kể như thế chăng? justify;" align=" 6 Bình thường, những kẻ làm hoạt vô thường ở phủ nên tìm những bách tính thà đến mức này, bởi vì hỗ trợ quỷ sứ bắt hồn dần dần trở thành chức năng thứ yếu của hoạt vô thường, thậm chí chỉ là đội cái mũ đầu dê mà thôi. Vậy chức năng chủ yếu của những người về cõi này là gì? Đó chính là làm cầu nối giữa người sống và phủ, cũng chính là những kẻ môi giới bàn điều kiện làm ăn dưới phủ. Hoạt vô thường là “trợ lý”, có quan hệ hợp tác với người dưới phủ, vì vậy cũng có nghĩa là có thể thay thế người sống liên lạc với phủ, cửa sau, đồng thời cũng có thể nhận phong bì, bạc nén của người sống giúp đám quan dưới địa phủ. Hơn nữa, bạn có biết đám sai dưới địa phủ là những ai ? Sinh thời, bọn họ chính là nha dịch trong nha môn của địa phương. Hai nhà ngang của miếu Thành Hoàng trước kia, thường có hai hàng “nha dịch” đứng hai bên, tức là kẻ tôi tớ dưới phủ, những kẻ tôi tớ bằng đất sét đó người còn có ghi tên tuổi, vì bọn họ chính là tôi tớ trong nha môn của huyện phủ ở địa phương trước kia. Địa vị của tôi tớ trong xã hội rất đặc biệt, bọn họ vừa là người của quan phủ, tầng lớp thấp kém nhất trong cơ quan nhà nước vừa là dạng thảo dân, nhưng quan hệ giữa họ và đám dân đen là quan hệ huyết nhục và tương khắc như lửa và nước. Quan hệ xã hội của họ đa phần là bách tính bình dân, nhưng lại có thể gặp gỡ và chuyện với quan phủ, địa vị đặc biệt đó khiến họ ngoài làm quan sai ra còn kiêm thêm chức vụ thứ hai là giúp người dân cửa sau. Nhưng nếu xuống dưới địa phủ, đám nha dịch chỉ có quan hệ đầu với bên phủ, còn bách tính dương gian lại muốn giao dịch với dưới đó, nhưng thiếu môi giới, hoạt vô thường có lẽ được sinh ra là vì lý do này, trở thành đại lý của “vô thường chết” dương gian. Là người môi giới giữa phủ và người sống, hoạt vô thường ngoài những lúc thuyết phục, hỗ trợ cho sai bắt hồn, còn có thể làm rất nhiều việc, nhưng việc thường thấy nhất là thay sai dò sổ tào. Ví dụ như tuổi thọ dài ngắn, có công danh gì hay , tiền đồ lớn , năm nay hung cát ra sao, nếu trong số tào đều có thành án chỉ cần hoạt vô thường đả thông khớp nối của sai là có thể dự đoán được ngày hóa kiếp của người đó. Đương nhiên, bất luận là đối với phủ hay người sống, hoạt vô thường cũng phải người làm công cao cấp của họ, bọn họ làm việc được trả lương, dù là do bên phủ khấu trừ lại hay tiền lễ cảm tạ của người sống, dù sao mỗi lần về cõi , eo lưng của hoạt vô thường được giắt từng túi, từng túi tiền. Còn về chi tiết và quá trình những món tiền, bạc cửa sau đó, chúng ta đến ở chương riêng, nhưng cũng có thể cần nhắc lại nữa, bởi vì hoàn toàn giống ở nhân gian, người đọc từng biết, tham gia việc khởi kiện nhân gian có lẽ cần phải tìm hiểu thêm nữa. Ở đây, tôi chỉ muốn hơn chút, sau khi những chế độ trong nha môn dưới địa phủ dần dần được thiết lập chặt chẽ hoạt vô thường là ngành nghề thể thiếu. Thậm chí, trong ngành này cũng có cạnh tranh, chỉ cần nhìn đám hoạt vô thường ra sức tâng bốc, nhiều tới mức thành ra linh tinh là đủ thấy tôn trọng của họ đối với nghề nghiệp mà mình làm. Phan Luân Ân đời Thanh có viết chuyện về “ vô thường”. Quyển tám, cuốn Đạo thính đồ thuyết kể về người có mười năm kinh nghiệm làm hoạt vô thường, người này họ Sái tên Ngoạn, ông ta làm nghề này nhiều tới mức chán ngấy rồi, muốn rửa tay gác kiếm. Nhưng phải muốn bỏ là bỏ được, muốn bỏ ông ta phải “cầu thần khấn Phật, tu Thủy lục đạo dương, hát bài Mục Liên cứu mẹ [7] , trăm phương nghìn kế, mới có thể thoát ra được nghề đó”. Theo như những gì ông ta tiết lộ: “Mục đích của tất cả những hoạt vô thường đều là lừa gạt, tâng bốc công trạng, muốn thêm vài năm tuổi trong sổ tào hoặc xin được bách niên giai lão trước mặt Diêm Vương.” Loại người này, nhân gian chuyện gì cũng ôm đồm. Ông ta : “Trong suốt những năm làm tay sai, đầy tớ ấy, chẳng qua cũng chỉ vì muốn tiền trạm cho chức quỷ dịch sau này mà thôi. Chỉ là mỗi tháng, đến trước mặt phán quan lần, khi chúc thọ vào tết Nguyên đán vào Thâm La điện lần, nhưng dù có gặp được Diêm Vương, cũng dám ngẩng đầu nhìn, chỉ vài ba vái rồi lui làm sao dám chuyện? Vì vậy, người nào đó trần gian đến tuổi hạn, đành đợi lệnh bài bắt hồn được giáng xuống. Cái gọi là dự đoán trước được ngày chết của kẻ khác chẳng qua là sai dịch ở dương thế khi vào ngang điện thẩm mới nghe được những lời phán xét mà thôi.” [7]. Mục Liên hay tên đầy đủ là Mục Kiều Liên, trong những đồ đệ thân tín nhất của Thích Ca Mâu Ni. Ông nổi tiếng về hiếu thảo với mẹ. ông tu luyện thành công nhiều phép thần thông, qua đó biết mẹ mình lâm kiếp ngạ quỷ, ông hỏi Phật Tổ về cách cứu mẹ. Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày Rằm tháng Bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó.” Theo lời Phật, mẹ ông được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đời. Theo những gì Sái Ngoạn hình như những hoạt vô thường có khả năng thông thiên, nhưng cũng có những hoạt vô thường được gặp “bộ trưởng bộ tư pháp”, vị trí này thể coi thường. Hơn nữa, ai cũng biết, muốn hỏi thăm về vụ án trong nha môn, dò la tin tức cũng thể cửa sau được, quy trình trong đó phải theo từng giai đoạn, thiếu giai đoạn nào cũng được, bởi vì đám già trẻ, lớn bé, từ xuống dưới trong nha môn ai chẳng phải ăn cơm. Vì vậy, những lời mà người này , biết có phải là lời tố cáo những kẻ đá mình ra khỏi ngành hay là muốn ba hoa, khoác lác về nghề cũ mình từng làm nữa, hoặc cả hai lý do đều có. Đương nhiên, về cõi cũng “đâu phải chuyện dễ dàng gì”, nguy hiểm phải ít. Khi hoạt vô thường về cõi , nhìn công việc đó tưởng chừng giống như người cơm no rượu say xong chổng ba chân bốn cẳng lên trời mà ngáy khò khò, nhưng khi tỉnh dậy mồ hôi đầm đìa, những khổ nhục đón chờ họ trong cửa nha môn, bưng trà rót nước, vất vả tới mức ngay bản thân chúng ta cũng thể hiểu được. Hơn nữa, trong lúc họ ngủ vùi, đôi giày dưới gầm giường đó phải cái ngửa cái úp, nếu ai đó phá đám, ngửa cả hai chiếc giày lên linh hồn của hoạt vô thường cho dù lúc đó làm việc gì cũng phải ba chân bốn cẳng quay về ngay, nếu cả hai đều úp càng nguy hơn, hoạt vô thường đó “chết chắc”. đến đây, có người hỏi: “Tôi thấy những gì mà , bao gồm cả cái gì mà nhân lực đủ, sợ dương khí, nên phải mượn hoạt vô thường từ dương gian xuống,… đấy chẳng qua chỉ là cái cớ mà bọn thầy phù thủy đưa ra để lừa tiền mọi người mà thôi!...” Nếu bạn muốn nghĩ như vậy cũng đành chịu thôi, nhưng tôi cho rằng nên phân tích quá kỹ mọi việc. Quan lớn đều xử án rồi, đám phù thủy về về gian để kiếm chút tiền sao!