Chương 16: Hoàng tuyền nhà trọ 1 Giang Vi, người nước Mân thời Ngũ Đại, vì giúp bạn trốn về nước mà ông ta phải chịu liên lụy. Trước khi bị xử tử, lời lẽ ông rất dứt khoát, rằng: “Muốn đánh đàn để tưởng nhớ Kê Khang vào ngày giỗ của người, nhưng thời gian đã còn nữa, nhưng ta vẫn kịp phú một bài thơ tặng người.” Nói rồi ông cầm bút lên viết: “Nha ̉ kinh nhân cấp. Tây khuynh nhạt dị tà. Hoàng tuyền vô lữ điếm. Kim dạ túc thùy gia?” [1] Ông chỉ nghĩ đến việc xuống phủ sẽ ở chỗ nào, dường như ông hề nghĩ tới việc đầu mình sắp lìa khỏi ̉. Tự như ông chăm lo cho viên đao phủ lau sạch lưỡi dao, để lát nữa tránh khỏi một lần làm rách gió vậy, bài thơ của ông khiến người ta tưởng như nặng nhẹ đã đổi chiều, họ nín nổi cười, nhưng thực ra cái mà ông viết chính là sự thong dong thư thái của nhà thơ, đương nhiên trong đó tất có chứa chất sự khinh miệt đối với những kẻ quyền thế, thích dương oai. [1] Nghĩa là: Trống phủ rợn kinh người, mặt trời nghiêng xuống núi, hoàng tuyền quán trọ, đêm nay nghỉ nhà ai? Đến triều Minh, năm Thái Tổ, nhà thơ Tôn Phần đề một bức họa tặng cho Lam Ngọc, khiến Chu Hồng Vũ vừa lòng, cho rằng lập trường của Tôn Phần có vấn đề, giáng chỉ lệnh chặt đầu ông. Trước khi chết AQ có hô khẩu hiệu hay quan trọng, nhưng thể trở thành nhà thơ khâm phạm của triều ̀nh được, bởi Thái tổ quá minh, nói gì, hóa ra lại là nhạo báng người. Vậy thì hô “vạn tuế”, hát “hoan lạc tụng” , nói cũng chỉ là những lời nói thật lòng, mang ý đả kích, nó còn ác độc hơn khi hô “lật đổ”. Thế là ông học Khổng Phu Tử, nói những gì người xưa nói, chứ dùng của mình, hai mươi chữ của Giang Vi [2] , ông xin “mượn tạm” một nửa, nói rằng: “Đà ̉ tam thanh cấp. Tây sơn nhật tựu hà. Hoàng tuyền vô khách xá. Kim nhật túc tùy gia.” [2] Giang Vi là nhân tài một thời, nhưng vận mệnh của ông được may mắn, chỉ phải chịu án chém đầu mà tất cả những bài thơ do ông sáng tác đều bị đốt hết. Ngoài cái đầu thì ngay cả những thứ như Bóng trúc đâm xiên mặt nước trong. Quế hương lay động ánh trăng non cũng bị người ta cướp sạch, điều đó lại càng khiến Giang Vi thêm nổi tiếng. Sau khi quan giám hình đã lo cho nhà thơ Tôn lên đường xong xuôi, Thái Tổ còn hỏi Tôn Phần có điều gì muốn nói trước khi bị hành hình , quan giám hình báo cáo lại y nguyên như vậy, ngờ Thái Tổ tức giận nói: “Có thơ hay vậy mà tấu, thế là thế nào?” Có phải ông ta tức giận quát: “Mau trả lại nhà thơ Tôn Phần cho ta!”, điều này cần nói cũng biết, và thực sự ông ta đã lệnh chặt đầu viên quan giám hình. Thái Tổ miệng nói bài thơ này hay, nhưng chắc ông ta có ý ̣nh lấy bài thơ này làm bản mẫu cho lớp thơ phong mới, bài thơ đó chẳng qua chỉ là mượn đề mục để đùa cợt với quyền thuật một chút mà thôi. Hiệu quả của quyền thuật là, những tên nô tài phạm tội sau này cứ nhắc đến việc này là họ nói, thực ra Thái Tổ rất quý thành phần trí thức. Đứa con trai ruột ăn chơi của Vạn Tuế gia càng quan tâm tới chuyện đó, chỉ nói câu của nhà thơ Tôn Phần: “Hoàng tuyền khách xá”, lúc đó nếu trau chuốt một chút, thì dù có là người dửng dưng cũng phải cảm thấy đau đơn. Thử nghĩ, cây đao sáng lóe tay tên đao phủ, chỉ cần hạ xuống là đã đưa nhà thơ từ pháp trường sang một thế giới khác, chỉ thấy có một vùng cỏ hoang ngút trời, sương đêm tứ phía bổ vây, chẳng phải nói người dưng đất lạ, mà có khi đến một bóng quỷ cũng chẳng nhìn thấy. Lúc đó, cần nói đến trạm đón khách hay nhà nghỉ, mà muốn tìm một nhà vệ sinh rách nát chắc cũng khó. Thế là lại nghĩ tới vấn đề nhà ở khi các hồn ma xuống phủ. Dưới thuyết ̣a ngục và thuyết luân hồi của Phật giáo, các hồn ma quan tâm đến vấn đề nhà ở, đương nhiên, người lạc quan cũng ́ gắng hiểu ở đó là “chế độ ăn ở bao cấp”. Dưới thể chế ấy, nơi quy tụ của các vong hồn sau khi thanh toán tất cả mọi tội lỗi và phúc phận được tích dồn khi còn sống chính là sáu đường luân hồi. Diêm phủ là “vùng đất sinh tử luân hồi, là cửa khẩu qua lại giữa hai giới và dương”, lại lại, đón đón tiễn tiễn, các vong hồn vào Diêm phủ đều tự mình sắp đặt tất cả, cũng cần thiết phải thu xếp nơi ở lâu dài. Nếu theo cách nói quen thuộc của Phật giáo dân gian Trung Quốc, ̣a ngục chỉ là một cơ quan của Diêm phủ, cũng giống như giam ngục được thiết kế bên dưới các nha phủ, vậy thì do tất cả các vong hồn đều bị giam vào đại lao, đồng thời tuyệt đối cho phép người thân, bạn bè tới thăm nom, nên họ cũng cần thiết phải lo lắng bên ngoài ̣a ngục có nhà trọ hoặc nhà ở hay . Nhưng trong vấn đề này, ý thức về phủ mà quan niệm đạo đức bản ̣a của Trung Quốc ủng hộ lại rất ngoan cường. Cụn Tri Đường trong quyển Thuyết vô quỷ từng nói rằng: “Ở Trung Quốc, khi nói đến “thuyết thần diệt” người ta còn có thể chịu yên, cái quan trọng ở đây là “thuyết vô quỷ”, bởi nó thuộc về tôn giáo, nhưng vẫn là vấn đề về luân lý, nói “ có quỷ” chính là công nhận tổ tong linh thiêng, tức là liên quan đến việc bất hiếu.” Câu chữ nhiều nhưng rất sắc xảo, rất nhiều các bậc đại Nho gặp phải vướng mắc khi phải lựa chọn trong mơ hồ về vấn đề thần quỷ, do đó họ đã nhận lấy lưỡi dao để giải thoát cho mình. Quan điểm “vô quỷ” là bất hiếu, nói thẳng ra là nhận tổ tông. Tương tự, nhận tổ tông rồi nhưng lại lo xem tổ tông có chỗ trú ẩn hay , như vậy chẳng phải bở rơi ông bà, bố mẹ ở nơi hoang vu hay sao? Vì thế, dù là các đệ tử Phật giáo hay các tín đồ Đạo giáo có biên soạn ra các loại sách thánh hiền thì người thân của người đã chết vẫn phải làm lễ siêu độ vong hồn, để tổ tiên sớm được hóa kiếp, như mỗi khi Tết đến xuân về, người ta vẫn phải cúng tổ tiên, vẫn phải tảo mộ, vẫn phải sửa từ đường, vẫn phải hóa tiền giấy… Xuất phát từ lòng hiếu thảo, họ phải tin rằng người thân của mình sống thoải mái dưới phủ. Chữ “hiếu” trong Nho giáo Trung Quốc vẫn phát huy được tác dụng chủ đạo trong văn hóa phủ. Như vậy, người đời thể lo cho cuộc sống của những người quá ́ dưới phủ, và việc trước tiên họ cần làm đó là sắp xếp ổn thỏa việc ăn ở cho người đã khuất. 2 Xét từ góc độ của các hồn ma, chỗ ở của họ dưới phủ mới là “thực thể”, nhưng “thực thể” này lại thể tách rời khỏi cái “hiện tượng giả” của người trần, đó chính là mộ phần, lăng tẩm, hoặc từ đường, miếu thần… Từ đường, miếu thần chỉ phù hợp cho những hồn ma của bậc vương công đại nhân, còn theo “những hiểu biết thế tục”, từ đường, miếu thần là nơi các vong hồn nhận hưởng sự thờ cúng, ăn uống xong, họ còn phải trở về lăng tẩm nghỉ ngơi. (“Những hiểu biết phi thế tục” về từ đường, thần miếu, xin xem phần Phụ ký ở cuối sách này). Nói tóm lại, mỗi hồn ma đều cần có một phần mộ ở dương gian, như vậy mới có thể bảo đảm chỗ ở tương ứng của họ ở dưới phủ. Nhưng tất cả mọi việc đều có trường hợp ngoại lệ, những hồn ma lang thang chết chỗ chôn giống như những kẻ vô gia cư tại chốn dương gian, một ngôi mộ hoang cũng là mong muốn xa xỉ của họ. Tuy nhiên, dù là hồn, hồn ma lang thang cũng đều mong muốn có một chỗ trú thân ổn ̣nh, vì thế trường hợp “ngoại lệ” này thực ra vẫn tách rời những phần mộ cho các vong hồn nương tựa. Chỉ cần linh hồn bị tiêu tan vào hư thì họ nhất ̣nh cần một nơi để gửi gắm. Quan niệm truyền thống của Trung Quốc cho rằng, linh hồn chết sẽ ám vào hài ́t, nếu hài ́t nằm trong mộ thì vong hồn cũng sẽ nằm trong mộ. Bởi mộ phần chính là nhà của họ, vong hồn của tổ tiên tuy xa cách dương với con cháu, nhưng nơi họ ở lại rất gần. Thế là dù nhận hưởng sự thờ cúng hay phù hộ cho con cháu, tất cả đều rất tiện cho họ. Nếu người chết ở nơi đất khách quê người, vậy cần phải nghĩ cách để đưa hài ́t của họ trở về quê hương. Những câu chuyện kể về việc con cháu vượt ngàn dặm xa xôi tìm kiếm người thân, hoặc tìm hài ́t của người thân đều được đời đời ca ngợi, đó cũng là việc bắt nguồn từ quan niệm này. Giả như chết ở nơi chiến trường, hơn nữa lại chết ở bên ngoài biên giới, những tìm thấy xác, mà có tìm thấy thì cũng chẳng thể phân biệt được đâu là người nhà, lúc đó chỉ có một cách duy nhất, đó là xây một ngôi mộ giả tại quê nhà, sau đó chiêu hồn về mai táng. Trương Đế thời Đông Hán có bài chiếu văn như sau: “Cha chết phía trước, con chết phía sau. Phụ nữ chân yếu tay mềm đứng nơi pháo đài, đứa bé mồ côi gào thét bên đường. Mẹ già vợ góa, xây mộ hờ thờ, nước mắt tuôn rơi, mong sao vong hồn nơi sa mạc tìm đường trở về, thật đau xót thay!” Có thể giải thích một chút, “đau xót” ở đây chính là để chiêu những vong hồn lang thang “nơi sa mạc” “trở về”. Tóm lại, linh hồn của người đã khuất phải được yên ổn trong mộ. Bởi linh hồn cũng cần có một ngôi nhà, chỉ ở đó linh hồn mới được sống một cuộc sống như người thường. Lục ́c trong Thanh dị lục có viết: “Chỗ đất mai táng gọi là nhà của vong hồn.” Điều này chứng tỏ mộ phần chính là nơi cư trú của các vong hồn. Những câu chuyện về vong hồn ở mộ được gặp nhiều trong các quyển tiểu thuyết thời Ngụy Tấn, trong đó tiêu biếu nhất chính là câu chuyện về con gái Ngô Vương tên Tử Ngọc trong Sưu thần ký của Can Bảo. Tử Ngọc và chàng thanh niên Hàn Trọng nhau, tự hẹn ước sẽ thành vợ chồng. Hàn Trọng theo học Tề Lỗ, trước khi lên đường, bố mẹ chàng mang lễ vật tới nhà Ngô Vương cầu hôn, nhưng bị bên nhà Ngô Vương cự tuyệt. Sau khi biết chuyện, Tử Ngọc uất ức mà chết, xác nàng được mai táng bên ngoài ̉ng làng. Hàn Trọng trở về, biết Tử Ngọc đã chết, chàng vô cùng đau đớn, nước mắt tuôn rời, mang tiền càng tới mộ cúng khấn. Lúc này, vong hồn của Tử Ngọc “bỗng xuất hiện bên cạnh mộ”, rồi nàng mời Hàn Trọng vào trong mộ, “hai người ăn uống cùng nhau, bên nhau ba ngày ba đêm, hoàn thành xong lễ kết vợ chồng.” Có thể ăn uống, có thể cùng chung chăn gối, ngôi mộ đó chỉ có vong hồn ở được, mà cả người sống (hồn sống) cũng ở được trong đó. Nhưng nghe nói chính Can Bảo cũng ́ch thân được trải nghiệm nó. Trong Sưu thần hậu ký, Đào Tiềm, người đời Tấn đã ghi lại câu chuyện về cha ruột của can Bảo, nói rằng sau khi chết cuộc sống dưới mộ của ông khác gì người thường. Câu chuyện hề bịa đặt, bởi có người làm chứng. Hóa ra vị lão tiên sinh này lúc còn sống có một người thiếp, ông rất chiều bà, vợ cả của ông liền đem lòng đó kỵ. Lúc chồng còn sống, bà ta giữ gìn đức hạnh, cho ai biết mình đố kỵ, bây giờ chồng đã chết, khi xác sắp được đưa chon, bà nói một câu như rất quen thuộc “đưa đến nghĩa ̣a chôn cùng”, bà ta đẩy người vợ bé xuống mộ rồi chôn sống người đó. Khi đó em Can Bảo còn nhỏ, mười năm sau, bà vợ cả cũng qua đời, Can Bảo đưa mẹ đến chôn cùng với cha, nhưng khi mở phần mộ của cha ra, ta phát hiện thấy người vợ nhỏ vẫn nằm sấp nắp quan tài, và kỳ lạ là bà vẫn còn thở. Can Bảo dùng xe đưa bà vợ bé của cha về nhà, chăm sóc một ngày bà mới tỉnh lại. Bà kể về cuộc sống của bà với chồng trong mộ, nói hai ông bà “ăn uống cùng nhau, ngủ cùng nhau, ân tình như khi còn sống”. Trong Tấn thư - Can Bảo truyện cũng nhắc tới sự việc này, còn nói một câu “dưới phủ chuyện đó có gì là xấu hổ cả”. Hơn mười năm, đến thứ tùy táng trong mộ cũng mục nát cùng thi thể, nhưng sở dĩ người vợ bé đó “ thấy xấu hổ” là vì bà đã cảm nhận được một thế giới khác, tất cả những đồ dùng, nhà ở đều có gì khác với dương thế. Những thứ đó người sống nhìn thấy, nhưng người vợ bé đó có thể đã bị ám một chút quỷ khí, nên bà có thể nhìn thấy những thứ mà chỉ ma quỷ mới nhìn thấy. Sau khi sống lại, năng lực siêu nhiên của ma quỷ trong bà cũng chưa hoàn toàn tiêu tan, vì thế bà còn có thể dự đoán cho người ta về những điều lành, điều dữ sẽ xảy ra, và tất cả đều rất linh nghiệm. Trong Sưu thần hậu ký còn có một chương kể về Phạm Khải tìm mộ người mẹ đã chết, ông chỉ thấy “những ngôi mộ nằm san sát nhau, rất khó phân biệt, biết đâu là mộ của mẹ mình”. Thế là ông tìm đến một người có thể nhìn thấy ma, người này đến chỗ bãi tha ma, nói có người trong mộ mặc quần áo, trang điểm như thế này như thế kia. Phạm Khải nghe thấy thế có vẻ đáng tin, bèn đào ngôi mộ đó lên, bên trong chỉ thấy một bộ áo quan rách nát, đất bám dày hàng tấc. chần chừ biết làm thế nào thì ông nhìn thấy một viên gạch bên trong chỗ đất đó, bên có khắc vài chữ “Phạm Kiên chi thê” (Vợ của Phạm Kiên). Như vậy, người nhìn thấy ma kia đã nhìn thấy vong hồn bà mẹ Phạm Khải, tuy người bình thường chỉ nhìn thấy hài ́t bên trong ngôi mộ hoang, nhưng thực ra vong hồn đó lại mặc quần áo chỉnh tề, sống trong một ngôi nhà lớn khang trang dưới lòng đất. Người Nam Triều từng nói như vậy, người Bắc Triều cũng nói như vậy. Trong quyển Đông Hoàng thực lực của Lưu Bính, người thời Bắc Ngụy có kể một câu chuyện như sau: “Sau khi đại tướng quân Bắc Ngụy Vương Phiền qua đời, ông cùng mấy “người” đánh bài, uống rượu trong mộ của mình. Một tên trộm mộ “ có mắt” đào mộ lên, hắn tròn mắt, đờ người khi nhìn thấy bên trong là cảnh đèn lửa sáng trưng. Vương Phiền sai tùy tùng đưa cho hắn một ly rượu, hắn dám uống, nhưng đúng lúc hắn ̣nh chuồn ra ngoài bỗng nhìn thấy một người dắt con ngựa đồng tùy táng ra phía cửa mộ. Hóa ra người này báo quan phủ, ta nhanh chóng đến trước ̉ng thành, nói với lính gác ̉ng thành rằng: “Ta là lính của tướng Vương Phiền, hôm nay có kẻ tới đào trộm mộ, ta đã dùng rượu nhuộm đen môi hắn, ngày mai hắn đến đây, hãy kiểm tra rồi bắt lại.” Khi tên trộm mộ đến ̉ng thành, người lính gác nhìn thấy môi hắn đen xì, liền tóm gọn giải . Mộ của Vương đại tướng quân giống hệt như phủ đệ của ông ở chốn dương gian, ở đó linh hồn của ông vẫn tiếp tục cuộc sống hưởng lạc và đầy uy nghiêm.” Còn mộ phần của người dân thường lại chính là ngôi nhà nhỏ xinh, hàng xóm vẫn thỉnh thoảng qua lại hỏi thăm nhau. Quyển Bác dị chí của ́c Thần Tử, người thời Đường có kể câu chuyện của một viên lại huyện Hứa Châu, tên là Lý Trú. Nửa đêm, khi Lý Trú đường, bỗng nhìn thấy ngôi mộ bên đường có một cái lỗ to bằng chiếc ̃a, trong đêm, từ khe lỗ đó lộ ra ánh sáng đèn. Ông lập tức xuống ngựa bước tới gần, từ bên ngoài nhìn vào, “thấy năm người phụ nữ mặc trang phục người Hán, họ tụm lại với nhau dưới ánh nến, tay ngừng khâu vá”. Cảnh tượng đó chẳng khác gì những gái thôn quê tập trung lại một chỗ để thêu thùa, vừa tiết kiệm dầu đèn vừa đỡ buồn tẻ. Nhưng Lý Trú đã phá vỡ khung cảnh đó, ông hắng giọng một tiếng, làm các gái sợ hãi biến mất, cuối cùng chỉ còn lại một màn đêm dày đặc. Nếu là một bãi tha ma, vậy thì đó đương nhiên là một làng hoặc một thị trấn. Trong cuốn Thanh tỏa cao nghị của Lưu Phủ, người đời Bắc Tống có một chương ghi chép về “nghĩa ̣a ký”: “Thư sinh Vương Xí, đêm hôm qua Từ Châu, trời tối đen như mực, ta bị lạc đường. Nhìn thấy phía xa xa có đốm lửa bập bùng, ta liền tiến về hướng có đốm lửa để tìm chỗ nghỉ đêm. Quả nhiên tìm thấy một làng nhỏ. Vương Xí xin ngủ nhờ trong nhà một ông lão, hỏi rằng: “Đây là nơi nào?” Ông lão trả lời rằng: “Thôn Tùng. Thôn này do một nhà giàu lập nên.” Ngày hôm sau, Vương Xí cáo từ, được một quãng thì gặp một người nông dân, lại hỏi: “Chỗ này từ bắc sang tây khoảng năm lý, có một làng nhỏ có chợ búa, nhà cửa, đó là chỗ nào?” Người nông dân trả lời: “Chỗ đó là bãi tha ma, có nhà cửa, chợ búa gì cả.” Vương Xí giật mình nhớ lại việc đêm qua mình ngủ trong nghĩa ̣a, nằm giữa đám mộ mà hề biết mình ở đâu. Có thể thấy, khi màn đêm buông xuống, những bãi tha ma chỉ là nơi trú ngụ của ma quỷ, mà còn có thể biến thành thị trấn, làng mạc trong mắt người dương. Những câu chuyện như thế tồn tại ít và được ghi chép lại trong các cuốn sách sử, nhưng vẫn làm cho người ta cảm thấy thỏa mãn, có lẽ bởi chúng cũng chỉ là những sự việc ngẫu nhiên, thường xuyên xảy ra. Cũng chính quan niệm này đã gợi ý cho tầng lớp thống trị trong xã hội phong kiến dùng những cách vô cùng tàn nhẫn và vô nhân đạo để đối với những ai chống đối chúng. Ngoài việc dồn kẻ thù vào chỗ chết, chúng còn phải đào hết mộ phần tổ tiên của họ lên, mang xương ́t vứt hết. Nếu vẫn cảm thấy chưa thỏa mãn, chúng còn đào một cái hố sau ngay chính mộ phần đó, rồi đổ đầy nước thải, ném thêm xác chó mèo chết vào đó, như vậy sẽ đuổi hồn ma ra khỏi mộ phần, từ đó còn chỗ dung thân nữa. Qua đây có thể thấy, việc chu di cửu tộc đối với những kẻ phản loạn vẫn thỏa mãn được lòng dạ độc ác, thói tàn nhẫn của các vị hoàng đế ngày xưa, mà họ còn thực thi triệt để những biện pháp trừng phạt tàn nhẫn đến cực điểm, chỉ khiến cho kẻ thù đoạn tử tuyệt tôn mà ngay cả tổ tiên đã mất của họ cũng chịu buông tha. Nhân đây cũng xin đưa ra một quan niệm khác cũng liên quan đến nơi trú ngụ của các linh hồn, nơi đó được mang tên “̣a phủ”. Đây là một nơi đô hội sầm uất, và trung tâm là đám nha môn của Diêm Vương. Nơi đó có sự xuất hiện của những ngôi làng, những mảnh vườn, hay những cánh đồng lúa bao la, bước vào ̣a phủ là chúng ta bước vào một cuộc sống mới, khiến cho người ta cảm thấy dường như đó mới chính là cuộc sống lý tưởng của mình. Tác gia nổi tiếng thời Tống, Lưu Nghĩa Khánh, trong cuốn U Minh ký có ghi lại một câu chuyện mang màu sắc Phật giáo rất rõ nét: “Ở huyện Ba Bắc có một thầy pháp sư tên là Thư Lễ bị chết, được thần Thổ ̣a áp giải đến Quân sở phủ Thái Sơn. đường , hai bên đường đều là nhà cửa, đếm sơ sơ cũng phải hàng nghìn ngôi nhà, “giai huyền trúc liêm, màn trời chiếu đất, nam nữ ở hai khu phân biệt. Người ca hát, kẻ ngâm thơ, vui vẻ vô cùng”. Những người sau khi chết lại được sống một cuộc sống vui vẻ, ấy đều là các tín đồ Phật giáo, nhưng thầy pháp sư kia lại nằm trong số đó nên đành chịu sự áp giải của đám đầu trâu mặt ngựa hành hình. Niềm vui bất tận của các linh hồn đó chỉ đơn giản là ăn cơm rồi tụng kinh, tụng kinh rồi lại ăn cơm, còn về cuộc sống của họ thì đương nhiên tồn tại khái niệm “gia ̀nh”, vì nam nữ được phép chung đụng. Đến đây lại khiến người ta nhớ đến chế độ Thiên triều của Hồng Tú Toàn với hai cung phân biệt, Nam Cung và Nữ Cung, hóa ra đây cũng hẳn là những dị giáo hoang đường, mà trong quan niệm dân gian Trung Quốc từ lâu đã mơ ước về một cuộc sống như thế. Nhưng nếu tưởng rằng sự xuất hiện của các khu ở tập thể nơi phủ đó là do chịu sự chi phối của chế độ tăng lieu từ các tự viện thì cũng hoàn toàn đúng. Tác gia đời Đường, Đới Phu trong Quảng dị ký có ghi chép về “Kiềm nhĩ Hàm Quang”, kể rằng vợ của Ngôn Hàm Quang chết khi còn rất trẻ, một lần lên chùa Trúc Sơn bái Phật, chàng tình cờ gặp được hồn của vợ mình là Lục Thị. Hai người gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng liền hỏi thăm tình hình của vợ, Lục Thị chỉ tay bảo chồng nhìn sang hướng bắc, thấy có một tòa thành lớn, đó chính là nơi ở của Lục Thị sau khi chết. Sau khi vào thành, “phòng ốc tráng lệ khác gì những tòa nhà lộng lẫy chốn nhân gian. Bên cạnh có một ngôi viện, trong viện về phía tây có mười gian phòng, Lục Thị sống ở căn phòng thứ ba”. Hai người chia tay nhau, ngày hôm sau Hàm Quang lại đến thăm vợ. ngờ ngồi còn chưa ấm chỗ thì một vị sử quan mặc áo gấm dẫn theo chục người hầu xông vào trong viện. Lục Thị vội vã bảo Hàm Quang chui xuống gầm giường để trốn. Nàng lắng nghe, thấy bên ngoài có tiếng thét lớn: “Lục Tứ Nương!” Lục Thị vội vã chạy ra. Lúc này trong viện có tất cả hai mươi tám gái, viên quan liền sai thuộc hạ giật hết búi tóc của họ ra, trói hai người một lại với nhau, ném vào nồi nước sôi sùng sục, cứ thế đun cho đến khi lửa tắt, đám quan sai mới rời . Các gái sau khi chịu xong hình phạt, liền lảo đảo ai về phòng người nấy. Có lẽ các bạn có thể nhận ra, đây cũng được coi là một khu nhà tập thể, nhưng nói một cách chính xác hơn, chỗ này khác gì một khu trại giam nữ. Vì thế, ̣a phủ, thực ra chỉ là sự cải tạo, thay đổi từ nhà ngục trần gian của Trung Quốc đối với thuyết ̣a ngục của Phật giáo mà thôi. ̣a ngục Thái Sơn quả thật là quá tàn khốc, trong tưởng tượng của tôi, nơi đó có những lò lửa cao ngất, san sát như rừng rậm, lửa trong lò lúc nào cũng đỏ rực, khó mù mịt khắp nơi, các linh hồn cứ lần lượt nối đuôi nhau vào trong lò chịu hình phạt, khắp gian ngập tràn những tiếng la hét, khóc than đau đớn. Cho nên, đôi lúc chúng ta cảm nhận được kiểu nhà tập thể này cũng đầy ắp tình người, chỉ có điều các linh hồn được tự do mà còn phải chịu sự giáo dục của quan sai, bị nấu trong lò lửa, đúng như ông A Tolstoy, người từng giành giải thưởng Stalin đã nói: “Nếu được ngâm trong nước tinh khiết ba lần, tắm trong máu ba lần, nấu trong nước muối ba lần thì chúng ta sẽ trở nên sạch sẽ đến mức thể sạch sẽ hơn được nữa.” Nhưng nàng Lục Thị đã được nấu trong lò lửa nửa năm nay, tính ra cũng đã hơn một trăm lần mà vẫn hết được tội nghiệt, nguyên nhân chỉ là vì trước lúc chết nàng đã quên viết bộ Kim quang minh kinh. Đối với những tôn giáo tà ma như vậy, chúng ta tin cũng chẳng sao. Vì thế, dân chúng vẫn mong muốn để cho những người thân quá ́ của mình được sống trong các ngôi mộ, là ngôi nhà dành riêng cho họ, cho dù như vậy sẽ có cảnh gia tộc đoàn viên như trong các câu chuyện. 3 Căn cứ để cho rằng mộ là nơi cư trú của các linh hồn chính là bởi các linh hồn trú ngụ trong hài ́t. Hài ́t của người chết ở đâu thì vong hồn của họ ở đó. Nếu người chết được mai táng, vậy thì linh hồn của họ cũng sẽ theo hài ́t phiêu bạt khắp nơi. Hiện tượng này xuất hiện rất nhiều ở thời ̉ đại, như trường hợp bị hổ báo, thú dữ ăn thịt, mất tích, chết ngoài chiến trường, chết trong chiến tranh loạn lạc, bị nhấn chìm bởi những cơn đại hồng thủy hay bị chôn vùi dưới các lớp đất đá… Đây đều là lý do khiến người chết mà vong hồn có chốn nương thân. Còn những người chết mà được mai táng, linh hồn sẽ lang bạt khắp nơi giống như những nạn nhân tha hương cầu thực vậy, chỉ làm những người thân trong gia ̀nh cảm thấy bất an mà còn khiến người đường cũng cảm thấy xót thương, trật tự trị an ở nơi đó cũng vì thế mà thêm phần phức tạp. Tác gia Đường Dật Danh cũng đã ghi chép về các vong hồn vì phải phục dịch tòng quân mà chết thảm nơi đất khách quê người, thỉnh thoảng may mắn kiếm được bữa no nhờ sự thương hại của những người qua đường. Khai nguyên lục niên, có người bơi thuyền qua sông Hà Mi, thấy có một xác khô bên bờ sông thì đặt cho ít đồ ăn, sau đó liền nghe văng vẳng bên tai tiếng cảm ơn, và thơ rằng: “Ngã bản Hàm Đan sĩ, chi dịch tử vu Hà Mi, bất đắc gia nhân khốc, lao quân hành lộ bi.” [3] [3] Dịch thơ: Tôi đây là tráng sĩ Hàm Đan, chết trận sông Hà Mi. được tiếng khóc tiếc thương của người thân, vất vưởng nhờ chút lòng thương của người quân tử qua đường. Đời nhà Tống trong cuốn Triệu Khang Thanh công vấn kiến lục có ghi lại việc Âu Dương Tu bơi thuyền qua sông Hán Giang, “đêm khuya tĩnh mịch vẳng nghe có tiếng khóc, tiếng ca làm náo loạn cả khúc sông”, nhưng khi đến gần thì thanh lại im bặt. Hỏi người làng, chỗ này có nghĩa ̣a ? Đều trả lời là . được hơn một dặm thì gặp tòa thành ̉ được xây dựng từ thời Chiến Quốc, có tên là Miện Thành. Những u hồn tử sĩ đã lưu lạc ở đây từ hơn nghìn năm nay. Đổng ́c, người đời Minh đã ghi chép về chuyến Nam Kinh của mình trong cuốn Bích lý tạp tồn rằng: “ đường có quá nhiều thứ quỷ quái, khiến người qua đường dám ”. Những hồn ma chết trận thời xưa đều biến thành quỷ hoang, giống như một lũ thổ phỉ, trải qua hàng nghìn năm vẫn siêu thoát, ngày đêm quấy nhiễu cuộc sống của người dân. Chu Nguyên Chương ̣nh đô ở Nam Kinh, quyết ̣nh này của ông được sáng suốt cho lắm, thiết nghĩ đám đại quân tử kia khi thấy các tú tài thì khí nóng trong xương tủy lại càng mãnh liệt, càng quấy nhiễu nhiều hơn. Bất luận thế nào thì những hồn ma hoang dại, nơi nương tựa cũng luôn là nỗi ám ảnh của những con người chốn dương gian, tuy nhiên vẫn có một số ít ngoại lệ. Sưu thần hậu ký có ghi chép về đội thuyền nhạc theo chiến quân của Tào Tháo bị chìm ở cửa Nhu Tu, u hồn đội nhạc kỹ từ đó mãi mãi được ngao du sông Giang Phủ, cũng giống như giếng Yên Chi núi Kê Minh ở Nam Kinh, từ đó nơi đây trở thành một thắng cảnh nổi tiếng với cảnh sắc nên thơ, tráng lệ. mặt sông lúc nào cũng nghe du dương tiếng đàn, tiếng sáo, lẫn trong mây nước là tiếng chèo thuyền của đoàn công Tào Công, thỉnh thoảng lại có tiếng quẫy của người cá, khi hoàng hôn buông xuống hay lúc đêm về thì tiếng đàn, tiếng sao nghe lại càng du dương, thánh thót. Hơn hai trăm năm trôi qua, trải qua bao thăng trầm lịch sử, thời đại cũng đã đổi thay, nhưng vẫn giữ được kiểu cách “quan thuyền”. Tào Mạnh Đức thất bại cửa sông Nhu Tu, biết bao nhiêu chiến thuyền đã gửi lại sông Trường Giang này, chỉ riêng những tướng sĩ bị nhấn chìm ở nơi đây đã lên đến mấy nghìn người, và từ đó họ tan biến vào hư vô, có những câu chuyện văn thơ làm chủ đề đàm đạo cho các hương thân phụ lão mỗi khi trà dư tửu hậu. Đều là những kẻ vô tội phải vùi thân dưới đáy Trường Giang, nhưng cái chết của các tướng sỹ và đội nhạc kỹ lại có những ý nghĩa khác biệt rõ rệt, thật khiến người ta cảm khái. Sự đảo lộn giá trị của người đời có lẽ cũng từ đó mà ra. Lại nhớ đến loạn An Sử, sau khi loạn An Sử nổ ra, hài ́t của người dân và quan binh vẫn phơi sương phơi gió ngoài đồng hoang, những cung nữ già liền học theo các nghệ nhân xưa, bắt đầu lưu truyền những câu chuyện kỳ quái nơi tam cung lục viện, những câu chuyện lấp lánh sắc màu quỷ quái, hư hư thực thực, nhưng dưới con mắt của kẻ nô tỳ thì tất cả đều vô cùng vĩ đại. Vậy là người nghe liền bị mê hoặc bởi những câu chuyện kỳ quái, tất cả những đau khổ đều tan biến, trận bạo loạn đảo lộn đất trời, với hàng ngàn, hàng vạn xác chết cũng bị một bàn tay vô hình che kín. Cho đến hàng trăm, hàng nghìn năm sau, những câu chuyện như thế vẫn chưa thể kết thúc. Nhưng nói cho cùng, nếu chúng ta lo lắng, quan tâm đến các hồn thì hãy an táng hài ́t của họ thật chu đáo, để linh hồn của họ có nơi an nghỉ, hơn nữa, hầu hết các hồn ma đều mong mình được trở về với đất. Người xưa sau khi chết đều được an táng trong khu mộ riêng của gia tộc mình, còn những kẻ chiến bại sa trường thì đành chôn mình nơi đồng nội, được trở về bên cạnh phần mộ của tổ tông, chết mà ai phúng viếng, nhưng vẫn phải dùng xe ngựa thô sơ kéo về, kiếm cho họ ̃ quan tài nhỏ làm chỗ an thân, cũng có nghĩa là cho họ quyền công dân nhưng cũng được cướp quyền sinh tồn của họ. Vương Sĩ Trân, đời nhà Thanh có đoạn ghi chếp về Lâm Tứ Nương trong Trì Bắc ngẫu đàm. Lâm Tứ Nương là cung nữ đời nhà Minh, sau khi triều Minh sụp đổ, vong hồn của phiêu dạt đất Bắc, đau thương kể lể nỗi ưu phiền của những u hồn lang thang. Cư sĩ đời Thanh, Thung Nột trong quyển hai, cuốn Chỉ văn lục có đoạn kể về “Trịnh tú tài”, có người thương nhân họ Ngô bị bọn cướp giết chết ngoài biển, vong hồn của ông liền hiện về, than thở rằng: “Tuy hài ́t tôi đã chìm dưới đáy biển sâu nhưng linh hồn này vẫn luôn hướng về nơi quê cha đất tổ.” Thử hỏi rằng, nỗi lòng nhớ quê hương, nhớ thương người thân da diết ấy có khác gì với cuộc sống của người trần! Đối với những hồn ma phiêu dạt tha hương thì phải đưa họ trở về quê hương bản xứ, chỉ cần di dời hài ́t của họ trở về quê hương thì vong hồn của họ tự khắc cũng sẽ trở về với họ tộc. Đây được gọi là “lữ quỷ tùy hài phản hương”. Đới Phủ, người đời Đường đã ghi lại chuyến cùng cha về nhậm chức ở Mật Châu trong cuốn Quảng dị ký, trong mơ ông thấy mình làm quen với một gái, ngày hôm sau lại mơ thấy gái đến từ biệt, giọng nói đầy vẻ thê lương: “Thiếp là con gái Trưởng sử trước, chết ở phía đông nam thành. trai thiếp ngày mai sẽ đến đón thiếp về an táng, ngày cuối cùng đến đây vĩnh biệt chàng, trong lòng quả thật vạn phần nỡ!” Hài ́t được đưa về quê hương, vong hồn gái từ đó cũng quay lại nữa, tuy tình cảm với người thương vẫn còn bịn rịn nỡ xa rời, nhưng còn cách nào khác, muốn cũng được. Những lữ quỷ gửi thân nơi đất khách, mặc dù bị trói buộc bởi chính hài ́t của mình, thể tự trở về quê hương, nhưng thỉnh thoảng cũng có thể về nhà thăm tình hình của cha mẹ, người thân. Những câu chuyện về các vong hồn có thể vượt ngàn gian khó về thăm gia ̀nh cực kỳ hãn hữu, cho dù minh giới có ràng buộc gì, nhưng vẫn có rất nhiều điều bất tiện. Hồng Mại trong quyển mười lăm Di kiên bính chí có đoạn kể về “thiếu phụ Nguyễn Lâm Châu”, nói rằng, những hồn ma từ nơi khác đến đều phải chịu sự quản giáo tạm thời của thổ thần ̣a phương, giống như thi thể của thiếu phụ họ Nguyễn được thác gửi nơi cửa Phật, chịu sự quản thúc của hộ pháp trấn giữ cửa chùa, “tuy có thể về nhà bất cứ lúc nào, nhưng khi có tiếng chuông sớm hoặc chuông chiều đều phải tức khắc trở về nhận lệnh, khổ cực vô cùng”. Họ được đối xử như phạm nhân vậy. Vì thế, cho dù có phải hỏa thiêu hài ́t thành tro bụi cũng nên nhanh chóng đưa họ về an táng tại quê nhà. Thanh Thành Tử, người nhà Thanh trong tác phẩm Chí dị tục biên của mình có đoạn bàn về thuyết “hài ́t là nơi cự ngụ của vong hồn” đã giải thích rằng, có một điều khá thú vị mà rất ít người biết là, nếu hài ́t hóa thành hư vô thì hồn tự nhiên cũng theo đó mà tan biến. 4 Mộ phần tuy có quy mô và kiểu cách khác nhau, nhưng tất cả các ngôi mộ đều có một điểm chung là, đều phải đào một cái hố mặt đất, đặt quan tài người chết vào đó, rồi lấp đất chôn. Đối với người sống, ngôi mộ đó dù là xây dựng nguy nga như cung điện dưới lòng đất, hay công trình thế kỷ nữa, thì nó cũng chỉ có một chỗ có tác dụng, đó là phần giữa ngôi mộ, nơi cất giữ thi thể người quá ́. Đới Tác, đời nhà Tấn có ghi chép một câu chuyện, một lần đêm bị lạc đường, ông nhìn thấy phía xa xa có đốm lửa sáng, dường như có nhà dân, liền chạy thục mạng về phía đó, quả thật là có một ngôi nhà, nhưng đến ngày hôm sau khi tỉnh dậy, bước ra khỏi nhà mới phát hiện đó chỉ là một ngôi mộ. Những câu chuyện tương tự như thế được lưu truyền rất nhiều trong dân gian. Cẩn Đào Tiềm trong Sưu thần hậu ký cũng ghi lại rất nhiều những câu chuyện như thế, như huyện sử đời Hán, Ngô Tường vì chịu nổi những phục dịch hà khắc chốn quan trường liền tìm cách bỏ trốn vào núi sâu. đến một con suối thì trời tối. Đến đây ông gặp một thiếu nữ, liền theo về nhà, ngôi nhà chỉ là một túp lều nát. Hôm sau, khi tỉnh giấc chỉ thấy một mình nằm giữa nghĩa ̣a. Trong Pháp uyển chu lâm cũng ghi lại một câu chuyện tương tự, Chu Mỗ người Nghĩa Hưng, đời nhà Tấn cưỡi ngựa ra ngoài dạo chơi, chưa về đến nhà thì trời đã tối, thấy bên vệ đường có một ngôi nhà cỏ nhỏ, một gái từ trong nhà bước ra. Những túp lều rách nát hay những că nhà nhỏ đơn sơ bên đường đều do những ngôi mộ nhỏ của những người dân lao động khốn khổ, hay những thiếu nữ bạc mệnh hóa thành. Nếu như bạn lạc vào một khu nghĩa ̣a lớn, thì những ngôi mộ ở đó tự nhiên sẽ mọc thành những tòa nhà nguy nga tráng lệ. Lưu Nghĩa Khánh trong U minh lục có ghi chép, có một thương nhân sống ở thời nhà Ngô, tên Trần Tiên đêm, qua một ngôi nhà trống, ̉ng rộng tường cao, sáng hôm sau nhìn lại hóa ra chỉ là một khu nghĩa ̣a. Thái bình quảng ký có dẫn một câu chuyện rằng, Hoằng Môn dẫn Trương Vũ qua Đại Trạch Trung, trời sẩm tối chợt thấy một ngôi nhà lớn ̉ng mở toang. Trương Vũ liền lên trước thăm dò, thấy có một nữ tỳ ra hỏi, ông ta liền ngỏ ý muốn ngủ nhờ qua đêm. Nữ tỳ vào báo xong, liền kêu Trương Vũ vào. Vào nhà, ông ta thấy có một phụ nữ tuổi trạc ba mươi ngồi trong màn, xung quanh có đến hai mươi người hầu hạ, y phục vô cùng diêm dúa. Người phụ nữ đó chính là con gái thứ hai của thái thú Trung Sơn nên mới được sống trong ngôi nhà nguy nga với hơn hai mươi kẻ hầu người hạ như thế. Những câu chuyện trích dân ở đều là truyện được những người của Lục triều ghi chép lại. Chuyện xảy ra dưới các đời Hán, Tấn, Tống… đều là các thời đại xa xưa thể khảo cứu, nhưng có nguồn gốc dân gian đại thể vẫn có những giá trị nhất ̣nh. Những câu chuyện như đã trở thành một mô típ, vẫn được người đời sau kế thừa như những tiểu thuyết truyền kỳ, quái dị từ Lục triều đến nhà Đường, nhà Thanh. Như Lục Huân, người đời Đường trong Chí quái lục có ghi chép về câu chuyện Tôn Thiệu Tổ gặp một nhà dân ven đường, chợt nghe trong nhà văng vẳng tiếng đàn. Đoàn Thành Thức trong cuốn mười ba Tây dương tạp trở kể về câu chuyện Thôi La Thập, người Thanh Hà, đêm khuya qua mộ phần của một vị phu nhân, thấy châu môn phấn bích, lầu son gác tía. Qua một đêm tình cảm mặn nồng, trời sáng mới phát hiện, hóa ra đây là khu nghĩa ̣a của một gia ̀nh danh gia vọng tộc. Minh thế vốn dĩ là cảnh tượng của người trần, là nơi diễn lại tất cả những gì xảy ra nơi trần thế. ̣a vị, đẳng cấp của các linh hồn được thể hiện rõ ở việc ăn ở. Ở cõi nhân gian có nhà cao cửa rộng, lầu son gác tía, nhưng cũng có những nhà tranh vách đất, lều cỏ đơn sơ, ở cõi cũng vậy. Thân phận cao sang hay nghèo hèn lúc sinh thời của các linh hồn vẫn được giữ nguyên ở cõi , vì thế mộ phần của họ cũng có những ranh giới, đẳng cấp khác nhau, thậm chí còn có quy ̣nh nghiêm ngặt hơn việc xây nhà ở cho người dương thế gấp bội phần. Những quy ̣nh cụ thể về việc xây mộ phần đều được ghi chép rất tỉ mỉ trong thể chế lễ pháp của các thời đại. Kích cỡ, chiều cao, chiều dài, số lượng tượng đá, ngựa đá đứng canh mộ đều được quy ̣nh rõ ràng, thậm chí cả những vật muốn chôn theo người chết xuống tào ̣a phủ cũng được tùy ý sắp đặt. Những điều này đều đáng để quan tâm, nhưng người ta vẫn cứ bắt mình phải tin, mộ phần được xây dựng nguy nga hay chỉ là một đám cỏ, chỉ có mối liên hệ chặt chẽ đến người chết, là ngôi nhà của các linh hồn, mà cũng khiến cho tâm hồn người sống được thoải mái hơn phần nào. Những quan niệm hoang đường này cũng là kết quả của sự bất lực về mặt tâm lý. Người ta thể xây cho người chết một tứ hợp viện dưới lòng đất, nhưng cũng đành lòng nhìn người thân của mình bị chôn vùi trong sáu mảnh gỗ, vì thế họ đành dằn lòng, tưởng tượng ̃ quan tài kia là một khu tứ hợp viện cho người chết, để yên lòng người quá ́ cũng là để an ủi bản thân mình. Vì thế, trong Duyệt vi thảo đường bút ký có đoạn, có người khi mai táng cho người chết, lỡ chân đạp vỡ một mảnh ván, đêm mộng thấy bị Thành Hoàng giải , nói có người kiện ta phá hỏng nhà của họ. Minh chứng thuyết phục nhất cho điểm này là câu chuyện vào thời Ngụy Tấn, kể về việc người sống có thể đến thăm nhà của người đã khuất, thậm chí có thể sống thử một đêm để tìm hiểu cuộc sống cõi . Theo lẽ thường, nơi ở của quỷ là chốn người phàm thể vào được, cũng như người sống thì thể vào trong mộ của người đã khuất, vì thế chỉ có phần hồn của người dương mới có thể đến được cõi , mà người ta thường gọi là quỷ sống. Như trong Quảng dị ký có phần Hà gian Lưu Biệt Giá, kể rằng Lưu Biệt Giá đường gặp một người đẹp, liền theo gái về nhà. Trằn trọc canh thâu, ra bất giác cảm thấy có điều gì đó khác lạ, nửa đêm nằm trong chăn ấm đệm êm mà toàn thân lạnh toát, cơ thể rã rời, trong lòng thầm nghĩ về những việc kỳ quái đã xảy ra. Sáng sớm hôm sau, vừa tỉnh dậy, cả gái và lầu ốc đều tan biến, còn mình nằm trong một khu vườn hoang. Trằn trọc cả đêm, chắc chắn Lưu Biệt Giá chỉ lăn qua lăn lại chiếc giường nhỏ, nhưng cho dù chàng đã thăm thú những đâu trong ngôi nhà ma quái đó thì ngôi nhà ấy cũng chỉ được gói gọn trong gian sáu mảnh ván của ̃ quan tài, và thể xác chàng Lưu thực chất vẫn nằm bãi cỏ hoang, thể vào trong ngôi nhà đó được. Vậy thì cái “chăn ấm đệm êm” mà chàng Lưu cảm nhận được chẳng qua là đám cỏ hoang (ở đây có lẽ là do khí biến thành), nên chàng mới cảm thấy lạnh lẽo, buổi sáng tỉnh giấc, thấy mình nằm giữa khu vườn bỏ hoang. Chương thứ mười lăm trong Duyệt vi thảo đường bút ký có ghi chép việc Mỗ Ất dẫn vợ đến Cam Châu, được khoảng mười dặm về phía đông thì bị lạc đường, đành trú lại ở một trấn nhỏ. Đường xa mệt mỏi, vừa đặt lưng hai người liền thiếp ngay. Sáng hôm sau tỉnh dậy, giật mình phát hiện mình ở giữa một cánh đồng hoang. Còn người vợ ngủ trong căn phòng khác, ngờ nửa đêm bị ma nam cưỡng hiếp, sáng ra thấy mình còn mảnh vải che thân, đầu tóc bù xù, quần áo bị mắc hết lên cành cao. Đây cũng là một minh chứng chứng tỏ rằng cơ thể người phàm thể vào trong mộ phần của người đã khuất. Trong truyện Liêu trai có kể câu chuyện về Trương Hồng Tiệm. Trong truyện có ngôi nhà của gia ̀nh hồ tiên chỉ hiện hình lúc đêm xuống, thực chất cũng là viết theo quy luật này mà thôi. Khi Trương Hồng Tiệm muốn ra ngoài dạo chơi, hồ tiên dặn dặn lại rằng, đợi khi trời tối mới được quay về. Chàng Trương nghe lời, sớm về muộn, trong vòng nửa năm cảm thấy mọi việc đều suôn sẻ. Nhưng một hôm, chàng về nhà sớm hơn bình thường thì chẳng thấy nhà cửa, làng xóm đâu. trong cơn hoảng hốt thì nhà cửa bỗng chốc mọc lên như có phép màu, bản thân chàng hề nhấc bước mà đã ở trong nhà từ lúc nào hay. Dường như sự thoắt ẩn thoắt hiện của ngôi nhà hồ tiên chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự hoang tưởng, nhưng đối với con người mà nói, đây chính là một vật thể có thật. Ngôi nhà cõi từ hư thành thực, rốt cuộc là sự biến đổi do khí tạo ra khi trời tối, hay chính là sự thể nghiệm đặc biệt của người dương sau khi bị rơi vào trạng thái của các linh hồn? Hư hư thực thực, huyền huyền ảo ảo, cái ranh giới mong manh đó quả thực khó mà vạch ra rõ ràng được. Vì vậy, hầu hết các câu chuyện ma quỷ đều có mối liên hệ chặt chẽ với các thực thể, những ngôi mộ đó chỉ có người dương mà cả các loài vật thân thiết với con người như lừa, ngựa cũng có thể đăng đường nhập thất, cùng con người trải nghiệm cuộc sống dưới cõi . Những câu chuyện như thế ở thời Hán - Ngụy nhiều kể xiết, cho đến đời Thanh, dân gian đều cho rằng đó là việc đương nhiên, hợp với lẽ thường. Liêu trai chí dị có một phần kể về Ái Nô, viết rằng, chàng thư sinh được quỷ mời về làm thầy dạy, chàng mơ hồ biết mình sống cùng quỷ trong ngôi mộ hoang. Trong một lần tức giân, chàng bỏ ra ngoài lúc trời sắp sáng. Vậy là phu nhân liền sai người hầu “tiễn chàng thư sinh rồi khóa chặt cửa nhà, cánh cửa vừa khép, chàng ta được mấy bước thì mặt trời chiếu rọi, mới thấy mình vừa bước ra từ bãi tha man. Chàng nhìn quanh tứ phía, toát mồ hôi lạnh, chỉ thấy sau lưng là một ngôi mộ ̉”. Một ngôi mộ ̉ mà người dương lại có thể tự do ra vào, tuy cũng có cửa đóng then cài, nhưng điều này vẫn hợp với lẽ tự nhiên. Tuy nhìn bên ngoài, đó chỉ là một ngôi mộ ̉, nhưng khi bước vào trong, ngôi mộ lại biến thành phủ đệ gia thế nguy nga, đêm xuống hiện nguyên hình một phủ đệ tráng lệ với cánh cửa lớn khắc hình hai con sư tử ở giữa, khi mặt trời lên thì lại kín ̉ng cao tường, điểm này thật khiến người ta khó mà lý giải. Có lẽ trong con mắt của người đương thời, điểm này cũng bị coi là chi tiết vô lý, nhưng câu chuyện vốn dĩ nên diễn ra theo hướng đó. Đối với ma quỷ, mộ phần chính là nơi ở, chín vì thế mà những đồ gốm sứ được mai táng theo người chết thường là đồ dùng gia ̀nh. Những câu chuyện ma quỷ ở các đời sau ít nhiều đã có những đổi khác, chú trọng nhiều hơn đến mối liên hệ nghiêm ngặt giữa các tình tiết truyện. Có những truyện với tình tiết diễn ra trong những giấc mơ của người dương thế, có truyện thì đào một lối riêng trong hầm mộ để tiện cho sự giao lưu giữa hai thế giới… Mặc dù các câu chuyện có những tình tiết gần gũi hơn với đời thường, nhưng dù thế nào cũng vẫn là những câu chuyện hoang đường, thể trọn vẹn được. Nhàn Trai Thị trong chương ba, Dạ đàm tùy lục kể về câu chuyện của Thiến Nhi: “Thiến Nhi mời chàng thư sinh về tệ xá chuyện trò, hai người xuyên qua rằng cây tùng một quãng thì đến một huyệt mộ. Chàng thư sinh bị Thiến Nhi kéo vào trong đó, chỉ cảm thấy cơ thế mình như bị thu nhỏ lại còn một tấc, vào trong mộ cơ thể chàng lại trở lại như bình thường, thấy bốn bức tường đều làm bằng gỗ, sơn tinh xảo, đẹp mắt.” Có thể thấy trí tưởng tượng của tác giả cũng thật phong phú, để chàng thư sinh có thể chui vào huyệt mộ, tác giả liền để cơ thể chàng thoắt nhỏ rồi thoắt trở lại hình dáng cũ. Thực chất điều này cũng do tác giả vẫn chịu lệ thuộc của các sự vật hiện hữu trong thực tế, vì thế có những tiểu tiết chưa hợp lý cũng là điều dễ hiểu.
Chương 17: Nhập thổ vẫn yên 1 Còn nhớ đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi theo bà nội đến Hương Sơn thăm người thân. Mặc dù triều đình Đại Thanh diệt vong từ nửa thế kỷ nay, nhưng ông cụ vẫn giữ túm tóc đuôi sam sau gáy, vì thế mọi người vẫn gọi ông là ông lão đuôi sam. Vừa vào trong nhà, mới chỉ trò chuyện qua loa đôi ba câu, ông lão vội vã dẫn bà tôi xem món đồ. Tôi cứ tưởng đó là món bảo bối quý giá gì liền lẽo đẽo theo sau, ngờ khi bước vào căn phòng trống đập vào mắt tôi là cỗ quan tài đen xì đặt ngay chính giữa. Sau đó ông lão giới thiệu cách đầy tự hào về cỗ quan tài quý giá của mình. Lúc đó tôi thể nào hiểu nổi vì sao ông lão lại cất giữ trong nhà thứ xui xẻo như vậy, hơn nữa còn coi như báu vật. Sau này tôi mới hiểu ra rằng, quan tài chính là nơi trú ngụ của các vong hồn, cũng giống như ngôi nhà của người sống ở chốn dương gian. Các vị hoàng đế khi vừa kế vị lập tức bắt tay vào việc xây dựng lăng mộ cho chính mình. Trong thời đại cũ, hầu hết các gia đình danh gia vọng tộc đều chuẩn bị trước hậu cho mình ngay từ khi còn sống. Nếu trong nhà có chuẩn bị trước, vậy đành đợi đến lúc đó, người nhà tự lo liệu, nhưng với những người cầu toàn và kỹ tính, cho dù thành hồn ma cũng yên tâm giao việc hậu cho người nhà, mà tự mình đến nơi bán quan tài để lựa chọn cho mình chiếc áo quan. Viện Mục trong chương hai mươi tư của Tử bất ngữ có ghi câu chuyện, có cậu con trai mua quan tài cho người cha khuất của mình, ông chủ tiệm quan tài hỏi: “Đêm qua, tôi thấy có ông cụ râu tóc bạc phơ ngồi mãi cỗ quan tài trong nhà, khi tôi cầm nến đến gần thấy ông lão đâu nữa.” Nghe tả về tướng mạo người cha khuất của , đúng là rất giống ông lão hôm qua đến. Thế là con trai liền chọn mua ngay cỗ quan tài hôm qua ông lão ngồi. Nhưng câu chuyện này nghe ra có vẻ hơi mờ ám, có lẽ chín mươi phần trăm là thủ đoạn bán hàng của người bán quan tài. Cứ thử nghĩ xem, nếu người chết muốn tự chọn đồ hậu cho mình tại sao chỉ đến mỗi hiệu quan tài để chọn áo quan, còn phải đến cả cửa hàng bán đồ khâm liệm, đèn nhang, hoa tươi… Như vậy, có lẽ trần gian của chúng ta biến thành chợ quỷ từ lâu rồi. Tuy nhiên, việc ma quỷ tự mình đến các cửa hàng để mua đồ cũng phải hoàn toàn có. Đương nhiên chỉ rơi vào số trường hợp đặc biệt. Đó là khi trong nhà có chuẩn bị trước, khi chết cũng có ai mua cho, đến lúc đó có lẽ chỉ còn nước chờ người ta đến thu lượm xác mà thôi. Từ Nhạc, đời nhà Thanh có câu chuyện mua áo quan ghi trong Kiến văn lục như sau: “Những năm cuối đời Sùng Trinh, nạn đói hoàng hành khắp Giang Nam, dịch bệnh tràn lan, người chết nhiều vô kể, trong đó Hàng Châu là vùng chịu hậu quả nặng nề nhất. Nhà họ Tiền tổng cộng có bảy người lần lượt chết vì bệnh, lúc đó vì sợ lây bệnh, hàng xóm ai dám đến phúng viếng. Hôm đó, có người đến tiệm quan tài đầu làng, hỏi mua bảy cỗ quan tài, nhưng mang đủ tiền, nên hẹn chủ tiệm cho người mang bảy cỗ quan tài về nhà rồi trả tiền đầy đủ. Khi về đến cửa nhà họ Tiền, chỉ thấy người đó vào trong hồi lâu mà thấy ra, chủ tiệm đứng ngoài gọi mấy tiếng liền mà có ai trả lời, đành đẩy cửa bước vào, thấy bảy thi thể nằm la liệt trong nhà, trong đó có người chính là người đến hỏi mua áo quan khi nãy, hơn nữa, bên cạnh cái xác đó có túi tiền, đếm ra vừa đủ số tiền mua bảy cỗ quan tài. Số tiền mua quan tài này là tiền . Còn trong Hứa tinh dương di cư đồ bạt có nhắc đến câu chuyện xảy ra ở Bắc Kinh trước khi Minh triều bị diệt vong, ma quỷ ào ạt vào thành, gõ cửa nhà dân đòi mua áo quan cho mình, nhưng tiền chúng dùng chỉ là tiền phủ. Quan tài là nơi trú ngụ của hồn ma, trước khi vào nằm trong đó có lẽ các hồn ma cũng để ý nhiều đến cỗ quan tài của mình, nhưng qua nhiều năm chôn vùi trong lòng đất, gỗ đá cũng mòn dần, nước mưa thấm qua ván, khiến các hồn ma thể nào yên nghỉ, cũng giống như mái nhà của con người dương thế, nhiều năm tu sửa ngày càng dột nát, chống đỡ nổi bão táp phong ba. Kiền Bảo có ghi chép về ngôi mộ bị ngập nước trong Sưu thần ký như sau: “Vào cuối thời Đông Hán, Văn Dĩnh nửa đêm canh ba mơ thấy có người quỳ trước mặt mình, : “Nay nước tràn vào trong mộ, ván gỗ hỏng, nước ngập đến nửa người, tôi ngày đêm phải chịu giá rét, mong người cứu giúp, chuyển mộ phần lên chỗ cao ráo tránh nước giúp tôi.” Hồn ma cho Văn Dĩnh xem bộ quần áo của mình, quả đều sũng nước, dường như căn nhà của ta bị biến thành cống nước vậy. Nghiêm trọng hơn nữa, nếu mộ phần bị thiêu hủy giống như nhà chúng ta bị hỏa hoạn, ma quỷ có chốn nương thân. Đới Phủ, người đời Đường có ghi lại trong cuốn Quảng dị ký câu chuyện về ngôi mộ bị thiêu hủy. Ngôi mộ của hồn ma có địa vị cao quý, sau khi ngôi mộ bị thiêu hủy, hồn ma về với bộ dạng thảm thương, mặt mũi phồng rộp, quần áo tả tơi, nơi nương tựa. Dù sao chúng ta vẫn còn may mắn hơn những hồn vì có nhà trọ, khách sạn để thuê phòng nghỉ qua đêm. Lại về điểm khác nhau giữa những ngôi nhà nơi trần gian và ngôi nhà của các hồn ma.Có thể thấy điểm khác nhau nhất đó là người giàu có ở chốn nhân gian có thể xây ngàn vạn ngôi nhà, sơn vàng dát ngọc, nhưng khi về với cõi tất cả đều như nhau, chỉ có ngôi nhà duy nhất là mộ phần của mình, cho dù mộ có to đẹp đến đâu. Vì thế, có lẽ ngay cả hoàng đế, e rằng cũng được phép coi thường. Quan điểm này cho rằng, con cháu có nghĩa vụ phải thường xuyên chăm sóc, trùng tu mồ mả ông bà tổ tiên, giống như xây sửa nhà cửa cho chính bản thân mình vậy. Điều này ra nghe rất đơn giản nhưng phải ai cũng làm được. Ngay cả những gia đình danh gia vọng tộc, trải qua bao thăng trầm của thời gian, thêm vào đó là thiên tai địch họa, chiến tranh loạn lạc, chia ly phân tán, mấy ai được trở về quê hương bản quán của mình, mà cho dù có tìm lại được gốc gác cũng quan tâm đến mộ phần bị bỏ hoang từ mấy đời trước, vậy những người dân đen thấp cổ bé họng lại càng cần nhắc đến nữa. Như câu chuyện về Lưu phu nhân trong Liêu trai chí dị kể rằng, Lưu phu nhân lúc sinh thời về làm dâu trong gia đình quyền quý, sau khi bà mất, căn phòng bà ở được trang hoàng thành phủ đệ lộng lẫy, nhưng hậu thế của bà đều là những kẻ vô tâm dốt nát, kết quả là ngay cả mộ phần của bà cũng bị con cháu mang cầm cố, thậm chí cây cố xung quanh mộ cũng bị người ngoài chặt phá làm gỗ xây nhà. Nhận thấy thể dựa giẫm vào con cháu, hồn của bà giúp chàng thư sinh nghèo được thỏa ước nguyện, ta trở nên giàu có, lại lấy được vợ đẹp. Chàng thư sinh vì ân đức đó, muốn báo đáp Lưu phu nhân, liền chuộc mảnh đất có phần mộ của bà, xây sửa lại, trồng thêm cây xanh bên mộ, ngày đêm khói nhang, chăm sóc, từ đó hồn của bà mới được an nghỉ, tránh được kiếp khổ. Nhưng trong đám ma quỷ, những người có trí tuệ như Lưu phu nhân quả là rất hiếm. 2 Ngoài ảnh hưởng từ môi trường tự nhiên như phong ba bão táp, còn có những mối đe dọa khác đối với ngôi nhà của những người mất. Mối đe dọa đó đến từ hai phương diện, thứ nhất là người ta đào trộm, thứ hai là xâm chiếm của các hồn ma khác. Những hiểm họa này còn ghê gớm hơn phá hoại của tự nhiên rất nhiều, bởi lẽ đó là phá hủy đến triệt để, chỉ nhà cửa tan hoang mà cả đến hài cốt cũng khó mà bảo toàn nguyên vẹn. Chúng ta hãy về vấn đề đào trộm mộ trước. Đối với phá hủy này, các hồn ma hầu như đều bất lực, nhiều nhất cũng chỉ có thể cầu cứu người dương qua những giấc mộng, cầu xin họ ra tay cứu giúp. Những câu chuyện như vậy quả thực rất nhiều, dưới đây xin được đưa ra hai ví dụ. Thứ nhất, các hồn ma có thể cầu cứu đến pháp luật, hồn báo mộng cho quan phủ, người có chức trách ở địa phương để họ ra tay ngăn chặn, nhưng đương nhiên bản thân mình phải có địa vị nhất định trong xã hội mới hy vọng nhận được giúp đỡ của quan phủ. Đào Tiềm trong Sưu thần hậu ký có ghi chép về người có tên là Thừa Kiệm, mười năm sau khi mất, ông về báo mộng cho quan huyện, mộ phần của mình bị kẻ gian đào trộm, mong quan phủ ra tay cứu giúp. Viên huyện lệnh cũng là người có trách nhiệm, lập tức dẫn trăm tên nha dịch đến trường. Lúc này, ba tên trộm chui vào trong mộ, chúng bị bắt ngay tại trận, nhưng hai tên hoa tiêu trốn mất. Đêm đó, hồn ma Thừa Kiệm lại về báo mộng cho quan huyện, miêu tả chi tiết khuôn mặt, vóc dáng của hai tên trộm bỏ trốn. Sáng hôm sau, viên quan huyện liền theo lời miêu tả của Thừa Kiệm bắt người, quả nhiên bắt được hai tên trộm đưa về quy án. Nhưng điều đáng ở đây là, ngôi mộ của Thừa Kiệm có thể chứa được ba tên trộm lúc, chứng tỏ đây là ngôi mộ tầm thường chút nào, sau khi phá được án, người nhà Thừa Kiệm chắc chắn mang ít vàng bạc châu báu đến cảm ơn huyện lệnh lão gia. Thứ hai, đôi khi có những hồn ma xử lý việc khá thông minh, đó là cầu xin và mua chuộc những tên trộm, để chúng nương tay. Trịnh Nguyên Hữu, người đời Nguyên ghi chép lại trong Toại xương tạp ký câu chuyện ở đầu đời nhà Nguyên, có tên trộm tên là Dương Liên Chân dạt xuống Giang Nam với mưu đào trộm lăng mộ vua Tống, rủ thêm cả người đồng hương là Phùng Mỗ cùng. Cha con Phùng mỗ đều là hòa thượng, chúng chia nhau mười ngôi mộ, đào hết sáu ngôi mộ, chiếm được vô khối của cải, châu báu. Ngày hôm sau, khi chuẩn bị đào nốt bốn ngôi mộ còn lại, hai cha con Phùng Mỗ mơ giấc mơ giống hệt nhau, thấy có vị tướng mặc áo gấm từ trong rừng ra, vái chào rồi van xin rằng: “Hai vị đào sáu ngôi mộ, kiếm được ít vàng bạc châu báu, còn chỗ này là nhà tôi ở lâu, cúi mong hai vị nể tình thương xót, tha cho tôi.” Năm đó nạn trộm cắp nổi lên như ong, cũng may hai tên trộm còn có chút tình người, được báo mộng xong liền bỏ , đào tiếp nữa. Nhưng cũng có chút những ngoại lệ, ma quỷ hình, làm bọn trộm kinh sợ mà chạy mất. Câu chuyện về vị tướng ở cũng là ví dụ. Còn có những hồn ma biết từ niên đại nào nhưng có đạo hạnh, như câu chuyện Tào Mạnh Đức sai người giữ vàng cho mình. Hồng Mại trong Di kiên chi giáp có ghi chép câu chuyện mộ bà Lý cũng là ví dụ khá điển hình. Tương truyền ở huyện Hạ Phi ( huyện thuộc tình Giang Tô) có ngôi mộ cổ, đó là mộ của bà Lý. Nghe đồn trong đó có chứa rất nhiều vàng bạc, châu báu. Có nhóm đạo tặc nhòm ngó ngôi mộ lâu, hôm, chúng kéo ba trăm người đến đào từ sáng sớm đến trưa mới đào được cỗ quan tài. Chỉ thấy xác bà lão, thân cao tầm bảy tấc, tóc trắng, da đen, hình dáng xấu xí, ngồi ngay ngắn trong quan tài. Đây dường như là lão hô phong hoán vũ. Đám người sợ hãi bỏ chạy, nhưng chạy cũng thể thoát khỏi pháp của lão , chỉ trong vòng mấy tháng, hơn ba trăm người đó đều chết bất đắc kỳ tử, đúng là tự mình chuốc vạ vào thân. Còn đối với mộ phần của những người dân thường, nếu như bị ép vào đường cùng, họ bao giờ dùng đến biện pháp tiêu cực đến thế. Chương hai, Di kiên chi mậu có viết về vợ của Tôn Đại như sau: “Tôn Đại sau khi chết để lại người vợ, hai con trai và năm con . Con cả chẳng may qua đời sớm, sau đó Triết Tây có đại dịch, người chết nhiều như ngả rạ, rồi con trai, con dâu và hai người con nữa lần lượt qua đời. Vợ Tôn Đại cho rằng vì mộ của con cả lành nên sau hai đứa cháu đào lên thiêu hủy. Hồn ma của con cả liền báo mộng, nhờ ni khuyên ngăn nhưng được. Thế là đành tự mình giải quyết, đợi hai người kia đến đào mộ, lúc khiêng quan tài lên, nguyên hình trong quan tài, gương mặt vẫn tươi tỉnh y như khi còn sống, nhìn tròng trọc vào hai người mà cười rũ rượi. Xác chết đột nhiên ngồi dậy, nhìn mình chăm chăm, lại cười rũ rượi những thanh ma quái, khiến hai người kia sợ đến mức hồn bay phách lạc, chết ngất ngay tại chỗ. Sauk hi tỉnh dậy, liền lập tức thắp hương tạ tội, rồi đắp lại mộ y như cũ. Những câu chuyện như cũng nhiều. Chúng ta cũng nhà họ Tôn dùng cách oan hồn nhập xác hay cách ma quỷ hình, nhưng ma nữ yếu đuối có thể đuổi được đám trộm mộ, ngoài việc ta có dũng khí còn phải xem vận may của ta nữa. Nếu như vận may đến kết quả chắc tốt đẹp như vậy. Đời nhà Tống, trong cuốn Triệu khang thanh công văn kiến lục có câu chuyện “khai mộ”, kể rằng ở Nam Kinh có người đào trộm ngôi mộ mới, nhưng thi thể người chết chịu hợp tác, liền giơ tay tát liên tục, đánh cho tên trộm trận tối tăm mặt mũi. ngờ tên trộm này cũng thuộc loại to gan sợ quỷ, thấy đối phương chỉ có chiêu bạt tai duy nhất, liền tức giận, chặt đứt hết chân tay của thi thể. Nếu như đặt mình vào địa vị đó, xác chết đó cũng khác gì phải chụi cựu hình ngũ mã phanh thây. Qua đây có thể thấy, người bị trộm nếu thể hoặc dám phòng vệ quá đáng chút, bản thân mình là người chịu thiệt thòi, chi bằng hãy ngoan ngoãn nghe theo lời chúng vậy. Hầu hết các câu chuyện đều kết thúc là ma quỷ thể tự bảo vệ mộ phần của mình, nhưng cũng bỏ qua cho những tên trộm mộ. Viên Mai trong Tử bất ngữ có kể câu chuyện về mộ phần của đại tư mã họ Lục. Lục Đại tư mã sau khi chết, người nhà ông đào mộ của đời trước lên làm mộ của Lục Đại tư mã. Hồn ma của kẻ bị đào mộ liền nhập vào thiếu gia nhà họ Lục, khiến cậu ta cứ liên tục tự vả vào má mình, sau đó Lục phu nhân và cả nhà phải mời tăng nhân về tụng kinh, đốt mười vạn vàng mã, cuối cùng vẫn đưa được hồn của Lục thiếu gia trở về. Những kẻ đào trộm mộ sớm muộn cũng phải chụi báo ứng, đây chẳng qua chỉ là lời nguyền bất lực mà thôi. Khả năng những ngôi mộ bị trộm hỏi thăm luôn tỷ lệ thuận với lượng khách đến chơi nhà của người chết lúc sinh thời. Cái đó được gọi là “nghèo ra đường chẳng ai thèm đếm xỉa, khi giàu họ hàng xa gần đều đến thăm”. Người nghèo suốt cuộc đời khổ cực, nay mới được an lành trong giấc ngủ ngàn thu, cũng chẳng có gì mang theo, có chăng cũng chỉ mang theo cái bát rách để kiếm cơm. Nhưng những kẻ lắm tiền nhiều của lại khác, sau khi chết người thân ở khắp nơi ùn ùn kéo về phúng viếng. Còn về nhà cửa dưới cõi của tầng lớp quý tộc, quan đầu triều hay những kẻ nhà giàu nứt đố đổ vách, chỉ đào mộ rộng hơn những người khác gấp chục lần mà họ còn được lập bài vị, trở thành văn vật của địa phương, được chăm lo cho cuộc sống hưởng thụ của họ nơi cõi , bên trong còn phải nhét đầy vàng ngọc, châu báu và những thứ quý giá khác. Vì vậy đương nhiên thu hút hỏi thăm của đám đạo tặc. 3 Bàn tiếp về xâm chiếm của các hồn ma. Tôi từng dẫn đoạn của Vương Sung trong Luật hành vào tác phẩm Cái chết của quỷ như thế này: “Giả sử như có quỷ, vậy từ thời vua Nghiêu, vua Thuấn, quỷ xuất được bao nhiêu năm? Chẳng phải “ mọi nẻo đường, mỗi bước chân người dương thế đều có bước chân của quỷ” sao?” Chuyện của cõi u minh có lẽ chúng ta thể tìm hiểu tường tận được, nhưng nếu giữ lại tất cả các linh hồn mất từ khi chúng ta biết ghi chép lịch sử, vậy các “mỗi bước chân của người dương thế đều có bước chân của quỷ” quả là quá đáng chút nào. Nhưng cũng may, con người thường nghĩ đến sống của bản thân trước, nếu phải đặt những ngôi nhà ở cõi ti ấy thẳng hàng con đường, chẳng thà hãy để cho chúng trùng khớp lại với nhau, hoặc là để cho những huyệt mộ đào thải ma cũ tiếp nhận ma mới. Điều này cũng dẫn đến những xung đột thể tránh khỏi về “quyền sử dụng đất” trong cõi u minh. Có lẽ những ngôi nhà dưới phủ của dân thường chẳng đáng để bàn ở đây làm gì. Cỗ quan dày ba tấc, mảnh đất con con, thậm chí khác gì những kẻ ăn xin, làm trâu làm ngựa cho người khác chỉ để khi trút hơi thở cuối cùng có nơi an nghỉ. Nhưng cũng được mãi mãi, cho dù con cháu vẫn còn nhưng phải coi sóc phấn mộ tổ tiên từ mấy đời trước, vì vậy, hàng trăm năm trôi qua, lớp này chồng lên lớp khác, biết có bao nhiêu ngôi mộ bị chồng lên nhau. Đối với những người có tiền hơi khác chút, lúc sinh thời được ở trong nhà cao cửa rộng, khi chết mộ phải cao tám thước, đất chiếm ba phần, rất ngông ngheeng bá đạo. Trước mộ còn phải lập bia đá, trong mộ còn đặt tảng đá lên là “mộ chi danh”, đây cũng được coi như “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của người . Nhưng thời gian trôi qua, con cháu lãng quên, bỏ bê việc chăm sóc lại có kẻ nhà giàu khác ngắm trúng mảnh đất đó, hoặc bỏ tiền ra mua lại, hoặc cố tình xâm chiếm. Còn về kẻ sở hữu mảnh đất từ mấy đời nay, lúc này đành phải dời , hoặc lại lang thang phiêu bạt nơi cỏ nội đồng hoang, dần dần bay theo những cơn gió làm đề tài cho các thi nhân. Đây là “hình tượng” được nhìn ở góc độ của người dương thế, còn đối với cõi u minh, việc xác định chủ nhân mảnh đất đương nhiên xảy ra tranh chấp rồi. Còn tranh chấp như thế nào, có phải mỗi người cầm tấm khế ước quyền sử dụng đất đem đến nhờ Diên Vương phân xử hay chúng ta thể nào biết được, nhưng những câu chuyện hồn ma cãi vã, đánh nhau, thậm chí dùng đến cả đao kiếm có được ghi chép lại trong các câu chuyện lịch sử. Trong Sưu thần hậu ký có ghi câu chuyện hồn ma của Lỗ Tiêu, đời Đông Tấn giữ nhà: “Nhà Vương Bá Dương sống ở Kinh Khẩu (nay là Trấn Giang), phía đông nhà có ngôi mộ lớn, tương truyền đó là mộ của Lộ Tiêu. Phu nhân của Vương Bá Dương xuất thân là con nhà quyền quý, năm đó lâm trọng bệnh qua đời, Vương Bá Dương liền san bằng ngôi mộ của Lỗ Tiêu, rồi chôn vợ mình vào đó. Mấy năm sau, hồn ma của Lỗ Tiêu mang mấy trăm binh mã xông thẳng vào phòng khách nhà Vương Bá Dương mà rằng: “Ta đây là Lỗ Tử Kính, sống ở đây hơn hai trăm năm, cớ làm sao mà người lại phá nhà của ta?”, ròi quát tiếng, ra lệnh đám lính ra tay. Đám quân ma quỷ liền lôi Vương Bá Dương xuống, lấy đao cứa vào cổ cho đến khi thấy Vương Bá Dương thở được nữa, mới dừng tay. Khi Vương Bá Dương tỉnh lại, những chỗ thịt bị dao của đám binh cứa đều thối rữa, chẳng bao lâu ông cũng qua đời.” Nhưng cũng có cách khác, cho rằng người chết phải là vợ của Vương Bá Dương mà chính là ông ta. Khi các con đào huyệt mai tang cho Vương Bá Dương đào được cỗ quan tài sơn màu đen, liền đem vứt lên Nam Cương. Đêm hôm ấy, con trai Vương Bá Dương mộng thấy Lỗ Tiêu về, tức giận quát: “Ta giết chết cha người.” Nhưng Vương Bá Dương lúc này chết rồi, nếu giết thêm lần nữa chẳng phải làm ma cũng được hay sao? lát sau, Vương Bá Dương cũng về báo mộng cho con trai, kể cho con nghe chuyện Lỗ Tiêu đòi mộ ra sao, nếu như đấu lại được ông ta, e rằng sau này hai cha con vĩnh viễn được nhìn thấy nhau nữa. Kết quả của trận đấu này là Vương Bá Dương bị giết, hôm đó linh tọa của ông ta đột nhiên chảy ra dòng máu đỏ tươi. Người ta tưởng rằng Lỗ Đại tướng quân trung hậu như Đàm Phú diễn trong Thảo nguyên mượn tên, ngờ sau khi chết ông lại trở nên hung hãn như vậy. Nhưng nghĩ cho cùng, người ta là bậc thiếu niên hùng, biết cưỡi ngựa, bắn tên, được mệnh danh là “đứa trẻ hoang dã”, sau đó còn kế nghiệp Chu Lang, đươc phong làm Đại đô đốc, dám vượt sông bắt tiệc của Quan đại gia, nhân vật có máu mặt như thế lại dễ tranh giành lắm sao? Vì vậy, nếu cứ coi những diễn trong tuồng, trong kịch là đúng là tự chuốc vạ vào thân. Những thứ cầu hiền như nắng hạn mong mưa, thương dân như con như hoàng đế Vĩnh Lạc hau Lưu Cẩn trong Pháp môn tự liệu có tin được ? Ngoài ra, nếu phải việc nhà mình mà mang hài cốt của người khác chôn nhần chỗ cũng tự chuốc họa vào thân. Trong chương ba trăm hai mươi ba, quyển Thái bình quảng ký có dẫn câu chuyện Thần quỷ lục, em Ngô Quân, Trương Thị mua được căn nhà mới, trong lúc dọn dẹp chợt đào được chiếc quan tài. Hai an hem liền mua cái chum sành, đặt bộ hài cốt vào đó, rồi đem chôn ở chỗ khác. ngờ đêm đó có con ma đến gõ cửa, hét lớn: “Tại sao hai vị lại phá hoại chỗ ở của người khác để làm chỗ ở cho mình?” Hai an hem lập tức hiểu ngay là chuyện gì liền đáp rằng: “Chúng tôi mai tang các hạ ở chỗ mới tử tế rồi, chúng tôi có gì sai chứ?” Con ma liền đáp: “Các người đưa tôi đến bên cạnh mộ Ngôi Đại tướng quân, tôi chỉ là kẻ thấp cổ bé họng làm sao đấu lại được với ông ấy chứ? Ngày nào ông ấy cũng mang quân đến đạp cửa đòi nhà. Nếu hai vị tin theo tôi khắc .” Hai em liền mơ màng ra khỏi nhà, khi ra đến phần mộ hôm trước, quả nhiên nghe thấy trong mộ có tiếng dao kiếm chém giết. Cõi u minh cũng giống như cõi trần, muốn được yên thân tốt nhất hãy tránh xa những gia đình quyền quý. Nhưng nếu gặp phải những kẻ lưu manh liều mạng cũng có những ngoại lệ. Câu chuyện tranh chấp mộ phần nổi tiếng nhất trong lịch sử phải kể đến câu chuyện của Phùng Mộng Long trong Du thế minh ngôn. Tác giả miêu tả trận chiến long trời lở đất, khốc liệt vô cùng giữa Kinh Kha và tên lưu manh Dương Giái Ai. Dương Giác Ai mai tang người em kết nghĩa của mình là Tả Bá Đào tại góc mộ Kinh Kha, ngờ hồn ma của Kinh Kha vô cùng hung dữ, hằng ngày đều dẫn quân xông vào mộ của Tả Bá Đào mắng rằng: “Người là tên nhãi chết đói chết rét đâu đường xó chợ, lại dám đặt mộ ngay vai ta, chắn hết phong thủy. Nếu mau chuyển ra chỗ khác, ta đây đào mộ vứt thây ra ngoài rừng hoang cho chó tha!” Tả Bá Đao biết thể chọc giận Kinh Kha liền báo mộng cho Dương Giái Ai, bảo Giác Ai nhanh chóng di dời mộ của mình ra chỗ khác để tránh điềm hung. Nhưng Dương Giác Ai chịu nhượng bộ, liền đốt mấy chục hình nhân bằng cỏ gửi xuống làm binh, hộ vệ huynh đệ của mình. Trận chiến hôm đó Kinh Kha lại có Cao Tiện Li đến trợ giúp, kết quả Tả Bá Đào thảm bại tháo chạy. Dương Giác Ai tức giận mà rằng: “Kinh Kha ngươi có tên Cao Tiện Li trợ sức, lẽ nào ta lại thể tương trợ cho huynh đệ của ta sao?” xong liền rút kiếm, cứa cổ tự vẫn, xuống phủ hỗ trợ cho huynh đệ của mình. “Canh hai đêm ấy chợt mưa gió ầm ầm, sấm chớp dữ dội, tiếng gào tiếng thét, tiếng gươm đao vang xa hơn mười dặm. Sáng hôm sau ra xem, thấy mộ của Kinh Kha bị sụt sâu như cái huyệt, xương cốt vương vãi đầy trước mộ, cây tùng bên mộ cũng bị đổ, bật hết cả gốc.” Câu chuyện miêu tả về mối thâm tình sinh tử của hai huynh đệ kết nghĩa, nhưng đọc xong vẫn khiến người ta cảm thấy thỏa mãi. Theo ý kiến cá nhân tôi, thương ngày áp bức, ức hiếp dân lành đều là những tên cường hào ác bá hoặc là những tên tiểu nhân mới phất, còn những người dám tuyên chiến với hôn quân bạo chúa luôn chung sống hòa bình với nhân dân, người tính tình khảng khái, là đấng hùng trượng phu sao có thể gây ra chuyện hoang đường như thế được? Hơn nữa Kinh Kha mưu sát Tần Vương thất bại, lẽ nào Tổ Long gia còn để cho ông được toàn thây? Tra lại nguyên tác của câu chuyện trong Liệt sỹ truyện, ra Kinh Kha vốn là Kinh tướng quân, tướng tài của nước Sở, sau bị những kẻ nhiều chuyện sửa bậy. Hơn nữa câu chuyện xảy ra vào thời Sở Bình Vương thời Xuân Thu, nhưng lại đưa thi thể của Kinh Kha mấy trăm năm sau bị ngũ mã phanh thây ở thành Hàm Dương về an táng ở Hà Nam, đúng là hoang đường, thể tin được. Những chuyện được biên soạn vô căn cứ, phỉ bang danh nhân để thu hút người đọc này là chuyện thường tình. Phùng Mã Long am hiểu lịch sử thời Xuân Thu, hơn nuawc lại phải người hay viết chuyện lừa thiên hạ, ông còn có cả tác phẩm để đời là Lân kinh chỉ nguyệt, lẽ ra ông nên mắc phải lỗi sai sơ đẳng này. Lại tra cứu tiếp về nhân vật Dương Giác Ai, hóa ra chuyện Dương Giác Ai quên mình vì bạn lại lấy từ Thanh bình sơn đường thoại của Hồng Biện, trong đó, tác giả cảm thấy để cho Sở Bình Vương Lễ Hiền chiếm đoạt con dâu là việc rất phi lý nên sửa lại thành Sở Bình Vương Lưu Giao thời Tây Hán, nhưng lại quên mất sửa thời Xuân Thu thành thời Tây Hán. như thế có nghĩa Kinh Kha là nhân vật dễ chọc. Nếu như đám ưng khuyển của Tần Thủy Hoàng đem mồ mả mà trấn áp lên đầu Kinh Kha cũng vẫn khuấy động cam qua, khi đó bè lẽ vây cánh Trần Thắng, Ngô Quảng lại móc ngoặc, hùa vào với nhau, đem xương cốt rải trước mộ, có lẽ là chuyện ngàn năm có . Phụ ký Dành đến hai phần để viết về vấn đề nhà ở cõi u minh, có lẽ những gì cần cũng hết cùng bạn đọc. Có lẽ chỉ còn điểm chưa nhắc đến đó là khu nhà hung, nhưng chỉ khi người và ma cùng chung sống dưới mái nhà mới thành nhà hung. Vấn đề này có lẽ tác giả bàn kỹ hơn ở phần riêng. Ngoài ra còn phần mà tác giả cố tình nhắc tới, mục đích phải là muốn giấu bạn đọc, mà là vì những quan điểm đó làm nhiễu những nội dung mà chúng ta ở . Vong hồn và hài cốt có mối quan hệ mật thiết, nhưng phải tất cả du luận trong xã hội đều thống nhất cho rằng hồn ma trú ngụ trong hài cốt đương nhiên có những chuyện kỳ quái ngoại lệ xảy ra cho dù được đa số quần chúng tiếp nhận, ví như trời bỗng chốc u, xám xịt, nổi phong ba, làm mặt nước mùa xuân phẳng lặng bỗng dưng dậy sóng, hơn nữa những kẻ khơi dậy những luận điểm này lại chính là các phần tử trí thức bậc cao. Dưới đây xin giới thiệu với bạn đọc hai luận điểm khác với cách nhìn nhận của đa số quần chúng, đều là những câu chuyện bắt đầu từ thời Ngụy Tấn cho đến ngàn năm sau vẫn có những tranh cãi dứt. Thứ nhất là về thuyết “hồn vô sở bất chi”. Trong Khổng Tử gia ngữ có kể câu chuyện như sau: “Cuối thời Xuân Thu, Quý Trát người nước Ngô sứ nước Tề, đường về nước, con trai ông chết ở giữa ấp Danh và ấp Bắc (tên hai ấp của nước Tề). Khổng Tử nghi tin liền : “Từng nghe Quý Tử là người hiểu lễ nhất nước Ngô, ta muốn xem xem ông ta lo liệu việc ma chay thế nào.” rồi liền tới nơi đó xem, thấy Quý Trát mang thi thể con trai đưa về nước Ngô, mà liệm bằng quần áo thường, rồi chôn ngay ở nơi đất khách quê người, huyệt sâu, mả cao, mà rằng: “Thi thể trở về đất, âu cũng là số mệnh, nhưng còn vong hồn bị trói buộc.” Khổng Tử nghe vậy ca ngợi hết lời: “Quý Tử đúng là người hiểu biết, xử lý rất hợp tình hợp lý.” Tại sao Quý Trát đưa thi thể con trai mình về nước Ngô, bởi vì ông cho rằng, dù xương cốt bị chôn vùi trong đất nhưng linh hồn bị chôn vùi theo mà là “vô bất chi”. Khổng Tử gia ngữ được viết thành sách ở thời Ngụy Tấn, tương truyền tác giả chính là Vương Tiêu, hầu hết những câu chuyện được viết lại trong đó đều là hư cấu. Quan điểm của Quý Tử có lẽ chính là đại diện cho quan niệm của bộ phận tri thức thời bấy giờ. Nhưng Khổng Tử ở đây phải nhân vật trong ngụ ngôn của Trang Tử, khẳng định của ông đối với quan điểm của Quý Trát là lấy căn cứ từ Nho học. Trong Lễ ký, Khổng Tử ủng hộ quan niệm “cổ bất tu mộ”, cho dù mưa gió làm hư hỏng phần mộ của phụ mẫu, cũng chỉ là biến chuyển theo thời gian, vì về mặt lý tính, ông cho rằng vong hồn của cha mẹ ở trong mộ. Còn về thuyết “vô bất chi” của Quý Trát, mặc dù có thể lý giải là “vô sở bất chi”, đông tay nam bắc tứ bề đều bị ràng buộc, có thể tự do phiêu bạt đến nơi mình muốn, nhưng cũng có thể hiểu là linh hồn của người ta sau khi chết phân tán khắp mọi nơi. Điều này tiềm tư tưởng nguy hiểm hơn, đó là đưa quan điểm về linh hồn đến chỗ tồn tại. Điều này được thể rất qua cuộc tranh luận giữa Hình Thiệu và Đỗ Bật về “hồn vô bất chi” và “danh lý”. Hình Thiệu là đại tài tử ở phương Bắc, nổi tiếng về văn chương. Ông cho rằng thuyết “vô bất chi” của Quý Trát muốn linh hồn bị phân tán khắp nơi, nếu sau khi bị phân tán, các mảnh hồn tự về với nhau trở lại thành “hồn”, vậy cần phải nhắc nó là “vô bất chi”. Còn Phạm Chẩn, đời Nam Triều lại cho rằng “hồn vô bất chi” có nghĩa là “hồn bị phân tán”, “hồn khí quy vu thiên” tức là “tan biến vô hình như mây khói về trời”, cuối cùng mới quy tụ về với nhau ở vô quỷ. Nếu độc giả có hứng thú, có thể tìm đọc thêm Bắc Triều thư - Đỗ Bật truyện để tìm hiểu thêm về cuộc tranh luận này. Có thể đây là cuộc tranh luận bất phân cao thấp, sau đó Đỗ Bật và Hình Thiệu vẫn ngừng thư từ qua lại để tranh luận, cuối cùng Hình Thiệu đuối lý, cuộc tranh luận mới đến hồi kết thúc. Thời Nam Triều, đối thủ của Phạm Chẩn là đệ tử Phật giáo. Vào thời Bắc triều cũng nổ ra cuộc tranh luận trong nội bộ Nho giáo. Nếu tư tưởng “thần diệt” của Phạm Chẩn liên quan đến vấn đề tôn giáo, Hình Thiệu lại kiên trì quan điểm “vô quỷ luận”, ông muốn thách thức với luân lý xã hội thời bấy giờ, đương triều tư tưởng của ông thể chiến thắng được luân lý của cả xã hội, nhưng nó cũng cho thấy khí khái, chân thực của đại tài tử tài ba. quan điểm khác lại cho rằng, “hồn tê vô chủ”, vong hồn trú ngụ ở thi thể trong mộ, mà ký thác ở bài vị thờ trong nhà. Quan điểm này do Thái Ung cuối thời Đông Hán đưa ra. Trước đây, khi hoàng đế tế bái tiên nhân đều tế bái ở lăng mộ mà mọi nghi thức đều được tiến hành ở miếu tế. Thái Ung uyên bác, đa tài, là bậc vô song thời đó, hậu thế sau này cũng ít ai bì kịp ông. Những tư tưởng, quan điểm của ông luôn được đánh giá rất cao. Tào Tháo vẫn là người cùng thời với Thái Ung, hai người cũng có chút giao tình, sau khi Tào Tháo lên ngôi, Ngụy Vương liền hạ lệnh, sau khi ông mất, phải khâm liệm bằng quần áo đương thời, được chôn vàng bạc châu báu gì theo. Điểm này hoàn toàn tương đồng với Quý Trát trong Khổng Tử gia ngữ. Nhưng con trai Tào Tháo là Tào Phi, sau khi kế vị, lấy danh nghĩa hoàng đế ban hành “Chung chế”, trong đó trích dẫn rất tỉ mỉ lời của Thái Ung: “Xương cốt biết đau, nghĩa địa phải nhà của các vong hồn… Áo quan chỉ là cái hòm chứa hài cốt, áo liệm chỉ để che hài cốt mà thôi.” Con người sau khi chết, hồn tiêu phách tán, nếu muốn hồn phách tan vào hư vô dựng cột gỗ, người sống thành tâm cầu nguyện, để vong hồn người chết vào trú ngụ trong đó. Cột gỗ phải được làm phép ở miếu tế, mọi người phải cùng nhau đến miếu làm lễ cúng bái. Còn thể xác vô tri, chôn vùi dưới đất chẳng qua là chúng nhanh chóng phân hủy mà thôi. Vì vậy, khi chọn đất an tang cần chú ý chọn những nơi “bất phong bất thụ”, thi thể nhanh chóng hòa vào với tự nhiên. Nếu cứ theo quan điểm những lễ tế chiêu hồn, xây dựng nghĩa địa chỉ là những trò vớ vẩn, dựng bia tảo mộ cùng là việc dư thừa mà thôi. Với lý luận này, đừng là nhân dân mà cả những học sĩ bình thường cũng khó có thể chấp nhận được. Trong các tác phẩm kinh dị từ thời Ngụy Tấn như Sưu thần ký cũng xuất vô số những câu chuyện về ngôi mộ của quỷ. Nguyên nhân sâu xa của các câu chuyện này có lẽ là nhằm mục đích chống lại thuyết “cổ vô mộ tế” mà thôi.
Chương 18: Tiên quỷ thê lương Khái niệm “Tiên quỷ" mà chúng tôi muốn nhắc đến ở đây phải là “Tiên quỷ” trong Đạo giáo. “Tiên quỷ" trong quan niệm của Đạo giáo là linh hồn người chết sang thế giới bên kia tu hành đắc đạo thành tiên, chỉ là có địa vị thấp hơn. “Tiên quỷ” ở đây là cách gọi khác của những vật ma quỷ, đa số là do vong hồn của những đứa trẻ vô tội nhập vào, nhưng bị những tên pháp sư thao túng, có thể báo điềm lành hung cho người khác, thông linh tiếp vong, thậm chí làm cả những việc tà ma. Trong nhân gian những linh hồn này có rất nhiều tên gọi như thần Nhĩ Báo, thần Chương Liễu, Linh Ca Linh Tỷ, Linh Đồng, Minh Đồng, thần Đồng… Trong đó có những loài chỉ khác nhau về tên gọi, hoặc tên gọi giống nhau nhưng có những khác biệt nho , tuy nhiên tính chất về cơ bản là giống nhau, thực ra chỉ là biến đổi của cùng vật mà thôi. Ở đây chúng tôi xin được mượn cách gọi của người đời Thanh, thống nhất gọi bằng cái tên là “tiên quỷ”. Thần Chương Liễu Vương Triệu Vân, người nhà Minh có ghi chép về “chương liễu đồng”, trong đó có câu chuyện như sau: “Ở thôn của tỉnh Tô Châu có người tên là Trương Nhị giữ chức lý trưởng trong làng, cứ vào ngày Mười lăm hằng tháng là phải đến điểm danh ở phủ quan lần, nên vào ngày hôm đó ông đều phải xuất phát từ nửa đêm canh ba. hôm, đường vào phủ quan, trăng rất sáng, ông chợt giẫm phải vật, liền nhặt lên xem, ra đó là đứa trẻ đẽo bằng gỗ, dài khoảng ba tấc, mặt mũi sáng sủa, đầu tóc đầy đủ, quần áo kỳ dị. Ông tiện tay đặt nó lên mũ rồi lại thẳng bước vào phủ quan, từ lúc đó, đường ông luôn cảm thấy như có ai thầm bên tai rằng: “Trương Nhị, Trương Nhị, lên huyện điểm danh, bị đánh vào mông.” Trương Nhị ngoảnh đầu nhìn, thấy cả quãng đường vắng vẻ chỉ có mình, chân tay bủn rủn, trong lòng vô cùng sợ hãi. Lên đến huyện phủ, quả nhiên vì đến điểm danh muộn nên bị trận đòn nên thân. đường về, Trương Nhị lại nghe có tiếng thầm bên tai: “Trương Nhị, Trương Nhị, vợ ông ở nhà ngoại tình với trai.” Trương Nhị nghe xong vô cùng lo lắng, chợt nhớ ra tên người gỗ để mũ, liền tức giận đập nát rồi ném vào nhà xí bên đường. Thần Chương Liễu ở đây là con ma thích nhiều, tuy nhiên những gì nó đều là những lời , đây phải là tội, chỉ là con ma chịu nghe theo câu châm ngôn của Bặc Thương: “Tín nhi hậu gian, vi tín tắc dĩ vi bang dĩ dã”, lại gặp phải Trương Nhị chỉ thích nghe tin vui, muốn nghe tin rủi, nên kết quả là bị đập nát quăng vào nhà xí. Câu chuyện sau khi được người đời Thanh chỉnh sửa, cải biên lại được sưu tầm vào Dạ vũ thu đăng lục, trong đó con búp bê gỗ biến thành sinh linh bé bỏng ngộ nghĩnh, đáng . Câu chuyện kể về lính lệ chuyên thúc thuế ở quê tên là Trương Đại Nhãn, canh năm xuất phát lên huyện, đến nha môn để nộp sưu thuế. Khi ta đến chỗ rẽ ở cánh đồng mặt trời bắt đầu mọc, ta cảm thấy nóng bức liền dừng chân nghỉ dưởi gốc cây. Bỗng nghe cây có người hát, nhìn kỹ thấy đứa trẻ đẽo bằng gỗ, mặt mũi được khắc tinh tế, mắt sáng, mày thanh, cao khoảng hai tấc, nấptrong đám hoa, mỉm cười tinh nghịch, nhưng tóc của cậu bé bị dính chặt vào cây, thoát ra được. Trương Đại Nhãn thầm nghĩ đây có lẽ là thần Chương Liễu vẫn được kể trong dân gian, có thể báo trước tương lai. Vậy là ta liền cắt phăng mái tóc của đứa trẻ, cho vào túi áo và lên đường đến nha môn. Khi sắp vào đến huyện đường, thằng nhóc liền nhảy nhót loạn xạ, rất nghịch ngợm, Trương Đại Nhãn đành nhét nó dưới đáy mũ cỏ, lát sau chợt nghe có tiếng hát thầm bên tai: “Trương Đại Nhãn to gan, đến bắt ta, được nghìn đồng tiên, đánh ba mươi trượng.” Đại Nhãn cho rằng đó là những lời vớ vẩn, thèm để ý, nhưng khi vừa vào trong thành, gặp huyện lão gia lên miếu thắp hương, Đại Nhãn chân tay luống cuống, liền bị mấy tên nha môn nghi là kẻ gian, bắt đến trước kiệu quan. ta sợ đến mức toàn thân run cầm cập, ra tiếng. Viên huyện lệnh tức giận : “Thoạt nhìn thấy phải thứ tốt đẹp gì, lôi ra đánh ba mươi trượng cho ta.” Vậy là Đại Nhãn bị đè ra giữa phố, lột quần đánh cho ba mươi trượng. ngờ Đại Nhãn còn chưa kéo quần lên bật cười ha hả, quan huyện lấy làm lạ, hỏi mãi Đại Nhãn mới kể câu chuyện được thần Chương Liễu báo trước tai họa nhưng ta tin. Đến khi quan huyện hiểu mọi chuyện liền ra hiệu cho đám nha môn lấy xâu tiền đưa cho Đại Nhãn, coi như tiền bồi thường vì bị đánh oan, rồi thêm đồng nào, giật lấy con búp bê gỗ, cho vào túi áo rồi lên kiệu tiếp. Chỉ cần nhìn cách tên quan huyện cướp con búp bê gỗ của Đại Nhãn đủ biết lão ta chẳng phải thứ tốt đẹp gì, cho dù tác giả thêm thái độ châm biếm trong lời kể của mình. Còn đứng ở góc độ của thần Chương Liễu có thể thoát khỏi móng vuốt của đám pháp sư giang hồ, được vào gia đình quyền quý, sống trong nhung lụa như nhà quan huyện là điều vô cùng may mắn rồi. Đây là câu chuyện vô cùng thú vị, nghe sau này còn được Vương Tăng Kỳ cải biên thành tiểu thuyết. Nhưng trong tác phẩm của tác gia nổi tiếng này cũng có những điểm chưa được thỏa đáng, vô hình chung khiến cho độc giả hiểu nhần, ngộ nhận rằng thần Chương Liễu đáng tinh nghịch như những con búp bê trong tranh của chàng họa sĩ Dương Liễu, trong khi thực tế thần Chương Liễu chỉ là hồn ma của kẻ có số phận cực kỳ bi thảm, hơn nữa chúng cũng chẳng có bản lĩnh bão trước điềm cát, hung gì cả. con búp bê đẽo từ gỗ có thể chạy nhảy ca hát được cũng là điều rất khó , nhưng nếu nó có thể chuyện, hơn nữa còn có phép thần thông, dự cảm trước được mọi việc đúng là rất đáng để người ta coi như vật quái dị hoặc vật thần thánh. Nhưng việc nó có thể tiên đoán được tương lai hay chỉ là chuyện . Vương Đồng Quỹ, người đời Minh từng nhận định trong Nhĩ đàm rằng, nó chỉ có thể về mộ phần, gia trạch và những chuyện xảy ra trong quá khứ, còn Vương Sĩ Tính trong Quảng chí dịch lại : “Thần Chương Liễu tuy chỉ là đứa trẻ, tên tuổi, người thân, cũng hiểu phép tắc, chỉ biết báo việc cho người ta biết trước, nhưng dự báo được tương lai quá xa.” Còn trong Dạ vũ thu đăng lục lại kể câu chuyện rằng, có người mua thần Chương Liễu từ thầy phù thủy, mong rằng nó có thể báo cho mình mọi điều hung cát, ngờ, nó chỉ có thể dự đoán những chuyện vặt vãnh trong nhà, lại rất nghịch ngợm, hay phá phách người khác, khiến người trong nhà lúc nào được yên giấc. Chỉ có vậy mà thôi. Trong Thoái tỉnh lư bút ký của Tôn Ngọc Thanh lại thần Chương Liễu có bản lính khá lớn, nhưng phải có bùa phép do pháp sư niệm chú, đợi đến nửa đêm nó mới có thể chuyện được. Chuyện kể rằng, khi pháp sư hỏi chuyện làm ăn buôn bán hôm sau, thần Chương Liễu cũng chỉ mập mờ, khi hỏi những việc khác nó đều biết, hỏi nhiều lại khiến nó nổi giận. Nhưng qua những gì thần Chương Liễu , pháp sư có thể dự đoán được lỗ lãi ngày hôm sau, điều này cũng rất đáng nghi. Nếu như nó có thể dự đoán được tình hình buôn bán thị trường chủ nhân của nó chuyển hẳn sang kinh doanh từ lâu rồi, cần phải vất cả làm đạo sĩ giang hồ. Ngoài ra còn có câu chuyện khác như sau, ông nọ bỏ ra mười hai lạng bạc mua thần Chương Liễu, mong có thể nhờ nó mà phát tài. Ông ta thử hỏi nó mấy lần, quả nhiên những gì nó đều rất linh nghiệm, nhưng đúng lúc ông ta định kiếm mối làm ăn lớn nó lại linh nữa. Tính ra sau khi mua nó về chỉ kiếm được có mười hai lạng, vừa đúng số vốn bỏ ra mua nó. Hóa ra đây chẳng qua là do tên đạo sĩ muốn chơi ông ta mà thôi. Dù như thế có lẽ cũng đủ làm khó cho món đồ đáng thương này. Chỉ là hình nhân bằng gỗ mà lại thần kỳ đến thế, trước tiên làm cho người ta tò mò về chất liệu gỗ đẽo nên nó, có lẽ là loại gỗ rất đặc biệt. Có người nhìn từ cái tên thần Chương Liễu mà cho rằng, người ta kết hợp gỗ cây nhãn và cây liễu làm chất liệu đẽo nên nó, lại có người cho rằng “gỗ cây nhãn dùng để đẽo bé trai, gỗ cây liễu dùng để đẽo bé ” (hồi mười lăm, Hải du ký). Nhưng cả hai cách này đều cho rằng “chương liễu” ở đây là tên hai loại gỗ. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chỉ cần dùng gỗ cây liễu, thậm chí có người còn chỉ được dùng cành liễu để đẽo. Nhưng tất cả các ý kiến hầu như đều tồn tại những điểm bất hợp lý, bời lẽ gỗ cây nhãn và cây liễu là những loại cây quá bình thường, chỗ nào cũng có, vậy những thần Chương Liễu được làm ra nhan nhản, chừng ít nhất mỗi người có con giống như điện thoại di động của chúng ta bây giờ. ra đời của linh vật này chắc chắn tầm thường. Tác giả Ngũ tạp trở chỉ ra rằng, gỗ của nó phải gốc cây nhãn hay cây liễu, mà là gốc của loài thực vật mang tên “thương lục”. Muốn có loại cây này phải đem người chết chôn dưới gốc cây, sau đó cây lớn lên mới có hình hài giống người vậy. Vì vậy đến đàu đời Thanh, Trương Nhĩ Kỳ cho rằng, tên gọi chính xác của thần Chương Liễu phải là “thần Chương Lục”, bởi vì “thương lục” còn gọi là “chương lục”, mà chữ “lục” với nghĩa là lục địa đồng với chữ “lục” với nghĩa là số sáu. “Vật được khắc từ gốc cây chương lục, giống hình người, được yển thêm bùa, có khả năng tiên đoán họa phúc, gọi là thần Chương Lục.” Thương lục trong Nhĩ nhã còn gọi là “trúc thang”. Lý Thời Trần chỉ loài cây này có công hiệu của “trúc đương thủy khí”, chứ hề chú ý đến phần gốc của nó. Trong Nhĩ nhã nghĩa sơ được viết thời nhà Thanh cũng khá tỉ mỉ, còn nhắc đến với cái tên Vương Mẫu liễu, hay còn gọi là “dạ hô”, giống như vật mang hình người mà chỉ có gốc của nó giống hình người, và rất hiếm gặp, đào hàng ngàn, hàng vạn gốc cây may ra mới gặp được cây thương lục. Trung Quốc thời cổ đại, tất cả những loài thực vật có phần gốc giống hình người đều rất được con người tôn sung, như các loài nhân sâm, phục linh, hoàng thị… hoặc người ta cho rằng, nó có thể làm cho con người trường sinh, hoặc có phép thần thông quảng đại. Cây thương lục là loài cây như thế. Nhưng thần Chương Liễu là vật được đẽo từ thân cây liễu cũng phải hoàn toàn có căn cứ. Triệu Sĩ Lân, người đời Minh có nhắc đến “trung châu” trong Kiến chỉ biên, rằng thân cây liễu mọc ra phần nhọn gỗ, hình dáng hệt như hình người. Có thể đây chính là thần Chương Liễu do thiên nhiên tạo ra. thân cây liễu lại mọc ra phần nhọt gỗ giống hệt hình người, nếu người thường nhìn thấy chắc khỏi nổi da gà, nhưng những người có con mắt tinh đời nghĩ ngay đến việc mang về đẽo thành thần Chương Liễu. Chàng thư sinh Triệu Sĩ Lân lại nhớ đến loại linh vật khác được ghi chép trong sách cổ tên là “phong quỷ”. Có người “phong quỷ” ở đây là cái nhọt gỗ thân cây phong, cũng có người chính là loài tầm gửi dống nhờ thân cây phong, nhưng đến đời Nam Triều bắt đầu được thần thánh hóa, trở thành quỷ vật linh thiêng. Muộn nhất là đến đời Đường, mọi người dùng thiên bàn làm la bàn bởi tin vào phép linh của gỗ phong. Chất liệu chủ yếu lại là gỗ táo, cho nên nó có tên gọi khác nuawxlaf “phong thiên táo địa.” chỉ vậy, Lưu Tuân trong Linh biểu dụ dị có ghi chép về công dụng của gỗ phong như sau: “Các vị pháp sư lẫy gỗ phong khắc hình nhân chắc chắn linh nghiệm.” Điều này khỏi làm người ta tò mò, có lẽ tiền thân của thần Chương Liễu xuất từ thời nhà Đường. Hơn nữa cũng thể đây là chứng cứ duy nhất, chúng ta có thể thấy trong Dậu dương tạp trở có đoạn kể về đạo sĩ chuyên tân tu luyện, dám ngày trễ nải. Bỗng hôm, vị đạo sĩ mơ thấy cái cây lớn, cây đột nhiên mở ra môt cái động, rồi thằng chạy ra, khiến đạo sĩ giật mình tỉnh giấc. Nếu đứa trẻ kia có thể báo trước nhưng đềm hung cát chẳng phải là tiền thân của thần Chương Liễu đó sao? Nhưng miếng gỗ hình người, bất kể là nó giống cách tự nhiên hay được gia công lại linh khí trời đất trong mảnh gỗ đó cũng là thứ hữu hạn. Giống như Vương Triệu Vân : “Bất tất sinh nhân hồn sảng, chỉ dĩ thảo mộc hợp nhi vi chi.” miếng gỗ lại trở thành thần linh, dự báo được tương lai hay sao? Mục đích trục lợi của các vị pháp sư chế ra thần Chương Liễu đương nhiên dễ dàng lật tẩy được. Vương Sĩ Tính, người nhà Minh từng viết trong Quảng chí dịch, sở dĩ từ miếng gỗ có thể đục đẽo thành hình người, lại có linh hồn như người , là bởi trước đây dưới gốc cây có chôn xác hai đứa trẻ nhà họ Liễu và họ Chương, ngày tháng trôi qua, linh khí hai đứa trẻ nhập vào gốc cây mà thành thần Chương Liễu. Nhưng trong tác phẩm cũng có nhắc, chỉ dùng gỗ đó đẽo thành hình đứa trẻ thể lập tức linh ứng, mà pháp sư phải dùng kim châm vào tai nó và luyện phép qua bốn mươi chín ngày đứa trẻ mới có thể chuyện được, lúc đó mới rút kim ra. Đọc đến đây, có lẽ người ta thầm cảm thấy cái gọi là thần Chương Liễu này phảng phát mùi máu của người chết, chứ đáng lanh lợi như trong Dạ vũ thu đăng lục có nhắc đến. Linh ca, Linh tỷ Trong hồi mười lăm của Hải du ký có thần Chương Liễu cũng phân biệt giới tính nam nữ, được gọi với hai cái tên là Linh ca và Linh tỷ, cách luyện ra các Linh ca, Linh tỷ này là: “Lấy gỗ cây nhãn làm Linh ca, gỗ cây liễu làm Linh tỷ, dung thiên linh luyện bốn mươi chín ngày, nửa đêm đem chiên chảo dầu, nhốt hồn ma vào trong người gỗ, niệm chú trăm ngày mới được đôi Linh ca, Linh tỷ.” Cách làm này dường như khó khăn và đáng sợ hơn gấp vạn lần so với việc Mai Siêu Phong luyện cửu bạch cốt trảo. Hải du ký là tiểu thuyết ma quái tiêu biểu. Đem hồn ma quỷ nhốt trong thân hình người gỗ là cách liên tưởng khác hợp với tư duy của người Trung Quốc. Ngay cả những lão phu tử Nho gia chính thống khi giảng về đạo lễ tế cũng dạy các đệ tử rằng, chỉ cần con cháu hiếu thảo, thành tâm cầu khẩn khiến linh hồn của tổ tiên yên vị tấm bài vị đó thôi. Đương nhiên, linh hồn của tổ tong thể dùng làm chất liệu để luyện thần Chương Liễu được, nên phải mượn vong hồn của người khác, cách làm này cũng rất hợp với những thủ đoạn của thời đại cũ. Có thể dùng cách bắt, bỏ tiền ra thuê, lừa về… nhưng tương truyền cũng có những hồn ma tự nguyện nhập vào đó để tìm chỗ yên thân. Thẩm Bình Sơn trong Trung Quốc thần minh khái luận có nhắc đến “huyền thuật biên” và “liễu nhân dự báo thuật”, được coi là biến thể của thần Chương Liễu: “Thuật này được lưu truyền lâu, tương truyền chỉ cần hợp mệnh, những người am hiểu về đạo thuật đều biết thuật này. Khi luyện thuật này, trước tiên phải chọn được ngày lành, lấy đoạn cành liễu mọc ở hướng đông, gần nguồn nước, đẽo thành bức tượng, cao khoảng hai tấc sáu, ấn đủ bảy huyệt, tay trái giơ lên lấy khí dương, tay phải chỏ xuống lấy khí , mình mặc áo màu xanh lá, lại dùng cát đỏ viết lên tờ giấy màu vàng mấy dòng “tâm can tì thận phổi”, cuộn lại, gói vào trong bụng. Tiếp đến dùng máu mào gà bôi lên miệng, ghi giờ, ngày, tháng, năm,đợi giáp tử, khấn thân nhật, tế lễ trong căn phòng yên tĩnh, dùng gà trắng, cá khô, đầu thỏ, quả dưa làm đồ lễ. Hằng ngày, mỗi buổi sáng sớm niệm “nhị khí chú” trước, sau đó niệm “truy hông hình chú” bốn mươi chín lần, trưa và tối cũng lặp lại y như thế. Luyện đến ngày thứ hai mươi mốt lá cờ đỏ treo bàn thờ tự động phất lên, có nghĩa là hồn biến hình. Hai mươi lăm ngày sau thấy hình, trong thời gian đó được phép để chó mèo lại gần, người làm phép phải giữ mình chay tịnh, rồi đặt hình nhân vào trong lọ sứ, bọc vải đỏ, dùng que tre gõ , thấy bên trong có tiếng , có thể dự báo chi chúng ta chuyện tương lai. Mặc dù kể rất tỉ mỉ nhưng vẫn có những tình tiết khá mơ hồ. Viết tám chữ ngày, giờ, còn cả “truy hồn hình chú”, đây ràng pháp sư chọn được hồn ma nào đó để luyện rồi, những hồn ma này được chọn hay bị dụ dỗ bằng cách nào ai biết Lý Trần Thanh đời nhà Thanh có nhắc đến “nhĩ báo pháp” trong Tập dị tân sao, trong đó kể rất tỉ mỉ kinh nghiệm ông luyện thần Chương Liễu, trong đó phải kể đến chi tiết này, tuy cách luyện của ông hoàn toàn giống cách chúng tôi vừa nhắc ở . Theo những nguyên tắc của việc luyện pháp thuật, trước tiên phải chọn được hai người chết, người thông minh và người hung dự bạo tàn, sau đó viết tên của họ lên bài vị, dụ thần trông coi nhà cửa và ông Táo vào trong mật thất, niệm chú bay ngày bảy đêm, hồn ma của họ tự khắc đến. Ban đầu, bên tai ta thấy có thanh như tiếng ruồi bay, sau đó thanh lớn dần như có đàn ong bay đến. Tiếp đó hãy niệm “khai hầu chú” là có thể nghe được tiếng của hồn ma. Bây giờ mới bắt đầu thỏa thuận, giao kèo với hồn ma, bắt chúng phải nghe theo sai khiến của mình, nhưng thời gian chỉ được hạn định trong vòng năm. Lý Trần Thanh từng thử cách này lần nhưng công cốc, thấy bóng ma cũng nghe thấy có tiếng động nào. Sau đó, nhờ có trợ giúp của pháp sư Hoa Mỗ mới dụ được con ma tới, nhập vào người pháp sư họ Hoa chuyện với Trần Thanh, ngờ con ma đó lại chính là người bạn mất của ông. Người bạn nghe xong lý do tại sao ông lại gọi chính mình về, liền tức giận mắng rằng: “Lúc sinh thời chúng ta có mối thâm giao, tại sao lại phải dùng thuật để sỉ nhục ta như thế!” Lần thử nghiệm thứ ba, Lý Trần Thanh định gọi hồn người hàng xóm, ngờ mới luyện được chín ngày ông đổ bệnh hai tháng. Người ta đồn rằng sau đó ông cũng gọi được hồn về, nhưng chỉ gặp trong mơ có lần, được coi là chính thức. Xem ra, cả ba lần thử nghiệm của ông đều thất bại. Thế nên cuối cùng tác giả đến kết luận, “đời này ngộ được đạo ấy, nay đốt sách đoạn tuyệt”, dường như có chút giác ngộ, nhưng khi đọc lại những ghi chép của ông, mới thấy thực ra ông vẫn chưa tỉnh hẳn cơn mơ. Nhưng tôi cảm thấy, đây đều là những pháp thuật mà các thầy phù thủy có thể công khai với người đời, tuy có đôi chút tà giáo, nhưng dương thế thường có quy định nghiêm cấm chiêu hồn người khuất, cho dù có bị người ta nghe thấy cũng sao. Còn về phép thần Chương Liễu mà họ thực dùng đương nhiên để người khác biết. Tác giả cuốn Hồng lâu bình mộng có quyển bút ký mang tên Minh trai tiểu thức, trong đó chương mười hai kể về câu chuyện “quỷ tiên”, mà “quỷ tiên” ở đây chính là thần Chương Liễu. Tiểu thư đồng của Phan Thành Chương nhặt được cậu bé người gỗ dài hai tấc, mắt mũi, chân tay đều đủ cả. Cậu ta tưởng đó là món đồ chơi liền giấu nó vào trong bụng. ngờ lát sau, cậu bé người gỗ bắt đầu bắt chuyện, “tiếng như tiếng gà con, về những việc vặt trong nhà sau này, thằng bé họ Chu, sinh ra ở Hoa Đình, ba tuổi ở Phú Dương, nay hóa thành quỷ tiên”. “Sinh ra ở Hoa Đình, ba tuổi ở Phú Dương” là ý gì? Tiền Vịnh, người đời Thanh, trong chương hai mươi tư, quyển Lữ viên tùng thoại tiết lộ bí mật: “Ở vùng giữa Ngô - Việt nay có các thầy bói dạo, mỗi người đều dùng hình nhân gỗ khắc tám chữ, dùng bùa chú nhốt linh hồn đứa trẻ vào hình nhân gỗ, được gọi là thần Chương Liễu.” Khoảng giữa Ngô Việt mà tác giả đến ở đây là vùn Phú Dương thuộc Chiết Tây, ở đó có dãy các gia đình chuyên chế tác tượng thần Chương Liễu. Niệm thần chú phủ nhốt linh hồn đứa trẻ vào trong người gỗ, hóa ra thần Chương Liễu là dùng linh hồn trẻ tạo nên! Quỷ tiên đó vốn là người Hoa Đinh, lúc ba tuổi bị pháp sư yểm bùa bắt mất hồn, mang đến Phú Dương, có lẽ là định luyện quỷ tiên ở đây. Đương nhiên thần Chương Liễu có khả năng tiên đoán việc, khi rơi vào tay bọn pháp sư ma tà chúng đơn thuần là món đồ chơi nữa, mà bọn chúng dùng những sinh linh bé bỏng để kiếm tiền. Đỗ Tiên Tương tự như thần Chương Liễu, Linh ca, Linh tỷ còn có loại quỷ tiên chuyên chui vào bụng người, đó là Đỗ Tiên. Viên Mai trong chương mười bốn cuốn Tử bất ngữ có kể về chuyện ma quỷ chui vào bụng người, và xếp cả ba thứ quỷ vật này vào cùng loại. Vợ của Tiêu cử nhân là Kim Thị mời tên thầy bói mù đến nhà, tên thầy bói này kể những việc trong quá khứ của Kim Thị chính xác sai li, khiến Kim Thị vô cùng khâm phục, liền tặng cho rất nhiều vàng bạc và cung tiễn ra tận cửa. Nhưng đến nửa đêm trong nhà có vật tác quái. Trong bụng Kim Thị đột nhiên phát ra tiếng người: “Sư phụ tôi rồi, tôi đành sống nhờ trong bụng phu nhân vài ngày vậy.” Kim Thị hoài nghi đó là thần Chương Liễu, liền hỏi: “Ngươi có phải là Linh ca ?” Người đó đáp: “Tôi phải Linh ca hay Linh tỷ gì hết, sư phụ lệnh cho tôi phải chui vào bụng phu nhân để tác quái, lừa lấy tiền bạc.” Vừa dứt lời, Kim Thị liền cảm thấy đau bụng dữ dội. Tiêu phu nhân hằng ngày nhàn rỗi có việc gì làm, lại mời thầy bói về bói toán, đúng là tự chuốc vạ vào thân. về tên quỷ quái trong bụng bà ta, tuy phải là hình nhân bằng gỗ, nhưng cũng có thể gọi là thần Chương Liễu hoặc Linh ca, Linh tỷ. Trung Hoa toàn quốc phong tục chí có đoạn viết rằng: “Nghiệp thử giả tự vị hữu chương liễu thần, năng giới thiệu dĩ tử chi hồ dữ sinh nhân tiếp đàm, hầu gian tác thanh tức tức, văn giả bất minh, tất tu kỳ vi chi phiên dịch, phương năng minh liễu, vị chi “quản linh ca”.” Ở đây “quản” lẽ ra phải là “quan” trong “quan đỗ tiên” hay “quan vong” của cà thầy phù thủy dân gian, cách gọi tắt của việc mời hồn người chết về chuyện, còn tiếng kêu trong bụng kia thực ra chỉ là “phức ngữ thuật” (tiếng riêng của bụng), là những Linh ca, Linh Tỷ ở trong bụng, tức Đỗ Tiên chuyện, Quan Đỗ Tiên là quỷ vật phổ biến của các thầy phù thủy dân gian vùng Chiết Giang, biết nó bắt nguồn từ đâu, nhưng ít nhất tồn tại từ cuối đời Minh cho đến cuối đời Thanh. Mộng xưởng tạp trứ cho rằng Đỗ Tiên chỉ là sinh linh, chuyên thông báo nơi ở của vong linh cho người thân của người khuất, tuy cũng nhằm mục đích kiếm tiền nhưng có ác ý. Ngoài ra còn có câu chuyện đươc lưu truyền trong dân gian thế này: “Có lão bà thường ngày thờ Đỗ Tiên, dựa vào nó để kiếm tiền sinh sống. Sau khi lão bà chết, Đỗ Tiên nơi nương tựa, thỉnh thoảng lại hình, lấy tên là Vương Tú , trang điểm lộng lẫy, dáng vẻ kiều, năm sau bỗng nhiên biến mất. Có thể thấy Đỗ Tiên thực ra cũng là linh hồn, về bản chất chẳng có gì khác với thần Chương Liễu. Đổng Ca Các bà phù thủy vùng Từ Khê cũng nhờ vào Đỗ Tiên để kiếm tiền, đương nhiên là vì mục đích trục lợi, nhưng nếu vì thế mà mang tội giết người quả là việc làm dại dột. Vì thế cách công khai, sở dĩ những hồn ma chui vào bụng người, chấp nhận chịu sai khiến của các pháp sư là bởi khi còn sống chúng nợ tiền họ. Hữu đài tiên quán bút ký có viết: Tục truyền rằng, vùng Từ Khê có thứ tên là Đỗ Tiên, tương truyền là quỷ nợ, lúc sinh thời vay tiền của người ta mà trả được, nên đành chui vào bụng người đó, dùng sức mạnh ma quỷ của mình để gọi hồn người chết trở về, vì thế người kia buộc phải trả thù lao, món nợ coi như xí xóa. Trả được nợ rồi, con ma tự khắc rời . Có khi chỉ có con ma chui vào bụng, cũng có khi nhiều con ma cùng chui vào lúc. Ban đầu, khi mới bị ma nhập, người đó ngã bệnh, ăn vào đều nôn ra. Người Từ Khê cực kỳ tin vào điều này. Rốt cuộc cách trả nợ này khiến chủ nợ biến thành thầy phù thủy hay thần phù thủy cố tình đòi nợ, ép người thiếu nợ phải bán mình làm Đỗ Tiên, với trí lực người phàm như chúng ta quả thực khó lòng mà biết được, bởi vì ai cũng biết rằng, đời này, những người làm từ thiện mà trong bụng có quỷ quả nhiều. Thẩm Đức Phù trong chương hai mươi tám, quyển Vạn lịch dã hoạch biên có câu chuyện Tam hiếu kiêm tác quỷ, kể về việc hồi , khi ông ở Vô Tích, có thầy pháp sư họ Tôn đến hỏi thăm, người này luyện quỷ làm tay sai cho mình, con quỷ đó kể về những chuyện trong quá khứ như diễn ra trước mắt, hỏi những việc sau này cũng trả lời thông suốt, những thế nó còn có tài thơ phú, quả là bậc kỳ tài. Trong lúc trò chuyện mới biết con quỷ này chỉ là thành phần tri thức, mà còn từng đoạt giải nguyên, ít nhất cũng là trạng nguyên đứng đầu tỉnh. Hỏi ta tại sao lại siêu sinh, cam phận làm trâu ngựa cho tên pháp sư đó, ta liền đáp rằng: “Vì lúc sinh thời nợ tiền của người ta, nên giờ phải trả đủ mới siêu sinh được.” Những câu chuyện như cách chúng ta cả nghìn năm lịch sử, tài liệu sớm nhất mà tôi tìm được là câu chuyện trong Bắc mộng tỏa ngôn của Tôn Quang Hiến. Hồn ma trong câu chuyện là nhân vật danh tiếng lừng lẫy, đó là Điền Bố, giữ chức Nguy bác tiết lộ sứ dưới thời Đường Mục Tông, còn người sai khiến ông ta là bà bói già. Hỏi rằng: “Ngài chết oanh liệt, hà cớ gì phải hạ mình chịu sai khiến của mụ đàn bà?” Vong hồn Điền Bố buồn bã đáp: “Tôi đây mang nợ người ta tám trăm nghìn quan tiền, nên đành phải nhẫn nhục làm tay sai để trả nợ cho đến khi hết nợ mới thôi.” Mụ thầy bói kia kiếm tám trăm nghìn quan tiền dễ như trở bàn tay, vì thế có lẽ chuyện ma quỷ chịu sai khiến để trả nợ là chuyện rất khó tin, ngay cả thân phận Điền Bố kia cũng chưa chắc là có . Trong Tục di kiên chí cũng có đoạn như sau: “Sau Nam Độ (chỉ kinh đô thời nhà Kim, do bị Mông Cổ uy hiếp phải dời đo đến Biện Lương), kinh sư xuất “Mãn sư” với “thần đồng”, tương truyền đứa trẻ xuất thân dòng dõi quý tộc, họ A Bất Hãn Thị. Lên tám tuổi, nước Kim rơi vào loạn lạc, buộc phải rời kinh, đứa bé bị người ngựa giẫm chết. Vì khi sống còn nợ tiền Mãn sư chưa trả, nên khi chết phải trả nợ. Đứa trẻ có thể chuyện với người dương, hỏi chuyện gì cũng trả lời vanh vách. “Mãn sư”ở đây chỉ các pháp sư Sa Mãn của Sa Mãn giáo, tộc người Nữ Chân. Đồng ca ở đây là vong hồn của đứa trẻ, hơn nữa, đứa trẻ này chết do bị người ngựa giày xéo khi người Kim rút khỏi kinh đô cũ, vậy vị pháp sư kia phải chịu trách nhiệm về cái chết của nó. Nhưng bất kể là đứa trẻ chết như thế nào vị pháp sư kia cũng nên dùng linh hồn của nó làm nô lệ phục dịch cho mình, vì thế, cái cớ “trả nợ lúc sống” có thể coi là lý do hợp lý nhất. Nhưng kiến người ta khó lý giải nhất là đứa trẻ xuất thân quyền quý, Điền Bố là tiết độ sứ đại tướng quân, thư sinh kia từng thi đỗ trạng nguyên, trong nhà có lẽ chẳng thiếu tiền bạc, lẽ nào lại để thiếu nợ người ta trả được, món nợ từ kiếp trước thể để đến kiếp sau, khi được đầu thai làm người lần nữa hoàn trả sao? Lẽ nào nhất định phải bắt người ta bán linh hồn làm tay sai cho đám phù thủy mới trả hết nợ? Trong các câu chuyện của Mephisto Pheies và Faust, nếu ma quỷ muốn sai kiến linh hồn người sống, đều phải ký kết thỏa thuận hoặc khế ước, như vậy ít nhất vong hồn nào đen đủi bị ma quỷ sai khiến cũng có được đôi chút quyền lựa chọn, hoặc cũng có thể gọi là quyền “tri tình”, còn các vị pháp sư Trung Quốc hoàn toàn là phong các Hoàng Thế Nhân, hiểu thế nào là “thương mại”, thế nào là “thiếu nợ”. Từ Huyền, người đời Nam Đường có ghi chép trong Kê thần lục câu chuyện “thần thần”, cũng thuộc lại Linh ca, Linh tỷ. Hồn ma này lúc sinh thời cũng là con nhà quyền quý, nhưng vì lúc sống thiếu nợ người ta mấy trăm nghìn đồng, nên sau khi chết phải làm “thần thần” chịu sai khiến của chủ nợ. Nhưng khác với các Linh ca kể , chủ nợ của “thần thần” phải là những pháp sư chuyên nghiệp, mà chỉ là những quan quân . Còn điều đáng chú ý nữa, hồn ma này bắt buộc phải làm “thần thần” trả nợ bởi đây là phán quyết của địa phủ, có căn cứ và cơ sở pháp lý! Thực ra, nguyên nhân của nó cũng rất đơn giản, các vị pháp sư đều có thể tạo ra những khoản nợ giả, vậy phán quyết giả của địa phủ đối với họ cũng chẳng có gì khó khăn cả, họ có biến ra cả địa phủ giả cùng là chuyện bình thường.
Thần Độc Lâu Năm Nguyên Thuận thứ ba, tức năm 1343, tại địa phương thuộc tỉnh Thiển Tây, Trung Quốc (nay thuộc khu tự trị Nội Mông) xảy ra vụ án kỳ lạ làm kinh động thời. Bởi nhân vật chính trong vụ án và nguyên cáo là những hồn ma mặt. việc được đưa lên tới cấp lãnh đạo tỉnh Trung Thư và cấp trung ương nên được gọi là “Trung Thư quỷ án”. Tình tiết vụ án đại để như sau: Có thầy phù thủy tên là Vương Vạn Lý sát hại tiểu đồng bằng tà thuật, lấy linh hồn đứa trẻ rồi xui khiến linh hồn làm điều ác. Cuối cùng, linh hồn đứa trẻ hiển linh và vạch trần tội giết người của Vương Vạn Lý. Tình tiết vụ án đơn giản, trong đó có nhiều điều kỳ ảo, chúng tôi phân tích ở văn bản khác mang tên Trung Thư quỷ án. Ở đây chỉ đến tà thuật này là do kẻ tà đạo họ Lưu truyền cho. Để thực bí quyết này đầu tiên phải xem quẻ, tính toán đâu ra đấy, rồi chọn những bé trai và bé thông minh, mê hoặc nó bằng cách yểm bùa và niệm thần chú. Sau đó cắt mũi, môi, lưỡi, tai, mắt của chúng, niệm thần chú để lấy hoạt khí. Tiếp đó cắt bụng, tim và gan mỗi loại miếng , phơi khô, băm , sàng lấy bột mịn, gói lại bằng lụa ngũ sắc, rồi dùng giấy làm thành hình nộm, sau đó dùng cách niệm thần chú sai khiến linh hồn tác quái người khác. Trong suốt quá trình cắt lấy bộ phận cơ thể của đứa trẻ, được để cho nó ngừng thở. Tình tiết câu chuyện nghĩ mà rợn cả người. Trước thời nhà Nguyên là thời nhà Tống và nhà Kim. Thần tiên và ma quỷ lúc đó ngoài “Đồng ca” ra còn có “Độc Lâu” và “Minh Đồng”. Trong đó, “Minh Đồng” được tạo ra từ linh hồn người sống, cách tạo ra “Minh Đồng” cũng vô cùng tàn khốc. “Thần Độc Lâu” xuất trong quyển Hồ hải tân văn di kiên tục chí của tác giả Dật danh. Nội dung chủ yếu là những câu chuyện thời Tống và thời Kim. “Thần Độc Lâu” xuất vào thời Nam Tống, cùng với “Đồng ca” tuy ranh giới phân chia hai miền Nam, Bắc nhưng hầu như xuất cùng thời. Vào những năm Nam Tống Lý Tông Gia Hy, ở làn nọ có cháu chừng mười tuổi bỗng nhiên mất tích. Người ta tìm khắp nơi nhưng đều bặt vô tím. Hôm ấy, trong khi người làng bủa tìm cháu trời bỗng mưa như trút nước, họ bèn tránh mua ở mái hiên nhà gần đó. Bỗng nhiên nghe thấy tiếng cháu la hét, gọi tên ông nội, nghe đến kinh hoàng. Đến khi xác định chính xác đó là tiếng cháu , họ liền trình báo. Sauk hi quan quân lục soát, cuối cùng tìm thấy đứa trẻ được giấu ở cái hòm của gia đình ấy trong trạng thái quắt queo, dường như còn nguyên vẹn hình người và chỉ còn thoi thóp thở. Khi được đưa đến cửa quan, đứa trẻ vẫn cố gắng kể đầu đuôi việc. Khi mới bị bắt, đứa trẻ được dỗ dành ngon ngọt, được ăn bữa no. Sau đó bị bỏ đói. Hằng ngày, thầy phù thủy dùng giấm đổ lên mình nó từ đầu đến chân và bị đóng đinh vào các khớp tay chân. Hành động hết sức dã man. Đứa trẻ kể xong tắt thở, thế là tên phù thủy thể chối tội, cả nhà y phải đền tội. Cuối cùng tác giả phán rằng: Những người phán đoán về vận may rủi ngày nay đều dùng phép thuật bắt trẻ con như thế. Đợi đến khi đứa trẻ qua đời, nhặt lấy xương khô, nhập hồn phách vào để hồn báo mộng. hồn đó gọi là thần Độc Lâu. Cái tên “thần Độc Lâu” khiến người ta phải khiếp sợ. Hơn nữa, cách tạo ra vị thần này hết sức tàn nhẫn. Người ta nghi ngờ rằng, hai chữ “độc lâu” là thể biến của từ “chương liễu”. Bởi vì, vật này tuy đáng sợ nhưng có quan hệ gì với “độc lâu”, do đó, “thần Độc Lâu” là do đọc nhầm từ cái tên khác. Thực ra phải như vậy, những bản lĩnh của “thần Độc Lâu” như người ta đều có căn cứ. Trong quyển Những chuyện khôi hài về Độc Lâu từng dẫn lời của Thích Tán Ninh trong bài Đông Pha tiên sinh vật loại tương cảm chí, “độc lâu”được xuyên qua thân bằng cỏ bồng, hoặc bị trát bùn, đầu để trần cũng có khả năng dự báo điềm lành dữ, cát hung, đó chính là “thần Độc Lâu”, tà thuật này chưa hoàn toàn thất truyền. Từ đó về sau, cho đến tận đời nhà Thanh, có trường hợp người ta dùng xương người chết để tạo ra “thần Chương Liễu” là như vậy. Ngoài ra, thời Nam Tống còn có loại thần tên gọi “Minh Đồng”, cách tạo ra vị thần này cũng khá tàn nhẫn. Hơn nữa lại dùng thai nhi trực tiếp từ trong bụng mẹ. Như vậy là lại cướp thêm sinh mạng nữa. Trong quyển hạ, cuốn Quý tân tạp thức của Chu Mật có ghi lại câu chuyện ở vùng An Cát, huyện Chiết Tây như sau: Ở làng nọ thuộc huyện An Cát, có người phụ nữ mang thai. Hằng ngày đưa cơm cho chồng làm đồng, lần nào cũng men theo lối cạnh miếu. Thế rồi có người hành nghề bói toán ở trước miếu nhìn thấy bèn theo dõi. hôm, nhân lúc người phụ nữ này qua, y bèn mời chào mà rằng: “Nay tôi làm cơm, mời nhà chị đến ăn cùng.” Người phụ nữ đồng ý, hai người cùng vào chỗ vắng trong miếu. Lúc đó, y cười và : “Bụng chị to lắm, nhất định là song thai.” Người phụ nữ hỏi lại rằng: “Cớ sao ông biết?” Y : “Chị thè lưỡi ra, ta xem, có thể đoán biết thai nhi là trai hay .” Người phụ nữ bèn thè lưỡi ra, để cho lão thầy bói dùng dây ngoắc lấy. Thế là người phụ nữ cả tin kia sao mà kêu lên được. Y bèn mổ bụng chị ta ra, mấu lên tế thần, sau đó nướng đứa trẻ lên làm nến, tạo ra thần dự báo Minh Đồng. “Minh Đồng” ở đây phải là hồn ma làm từ gỗ, mà là làm bằng sáp thai nhi. Linh hồn vốn ngụ trọng đó, có thể cần dùng thủ tục “luyện” mà vẫn thành, nhưng tàn nhẫn của nó có thể còn cao hơn. Những câu chuyện cắt thân thể người sống như vậy đều do thầy phù thủy đóng vai trò chính, những câu chuyện truyền tụng trong dân gian như tà thuật dụ dỗ trẻ con, làm chúng hôn mê rồi cắt những bộ phận cơ thể xưa nay vẫn xảy ra. cách công bằng, những câu chuyện này cũng gần như những lời đồn đại ở phố xá, chưa chắc hoàn toàn đúng. Trong quá trình truyền miệng tránh khỏi có nhiều yếu tố được phóng đại lên, nhưng cũng thể là có thực. Bất luận là việc có hay , thực hay hư, vấn đề ở chỗ, khi người ta có thể tưởng tượng ra phép thuật như vậy đều phải có trạng thái tâm lý siêu phàm. Câu chuyện về “Minh Đồng” xảy ra thời Nam Tống được nhiều người biết đến. Trong quyển hai của bộ sách Mật trai tùy bút do Tạ Thái Bá, người cùng thời viết dường như cũng bàn về nguồn gốc của Minh Đông và cho rằng đó chính là “thần quân” mà Hán Vũ Đế tôn thờ. Thực ra, chức năng chủ yếu của các vị thần đại loại như “Minh Đông - Chương Liễu” là dự báo. Nhưng thần quân chỉ có vậy. Điều này được giới thiệu cách tỉ mỉ trong quyển Phong thiền thư - Sử ký. Tuy nhiên, cội nguồn của thần Chương Liễu quả là rất xa xăm, dừng lại ở đời nhà Tống, nhà Kim. Mà cũng dừng lại ở đời Tây Han. Nếu suy diễn ra, có lẽ bắt đầu từ thuật phù thủy nguyên thủy. Thần Nhĩ Báo Trong các loại thần tiên, ma quỷ, còn có cái tên được người ta biết đến, gọi là “thần Nhĩ Báo’. Trong phần về “thần Chương Liễu”, quyển hạ, cuốn Huy trần tân đàm của tác giả Vương Triệu Vân có viết: “Thuật nhĩ báo là đa đoan, cũng giống như thần Chương Liễu mà người đời truyền tụng.” Quyển bốn, sách Quảng chí dịch của tác giả Vương Sĩ Tính có viết: “Ở Phụng Tân có vị thần Chương Liễu, tên tục là Nhĩ Báo.” Sách Kinh lâm tục ký của tác giả Chu Nguyên Vĩ lại gọi liền là “Nhĩ Báo - Chương Liễu thần”. Sách Tập dị tân sa của Lý Chấn Thanh rằng, việc luyện thần Chương Liễu được gọi là “Nhĩ Báo pháp”. Có thể thấy thần Chương Liễu là loại của thần Nhĩ Báo, có điều là người ta dùng tên gọi này có thể nhấn mạnh chức năng do thám và truyền tin. Danh từ “thần Nhĩ Báo” thường gặp trong tiểu thuyết thời Minh - Thanh. Hồi thứ tám mươi hai của Tây du ký có viết: “Tôn Ngộ biến hóa khôn lường, phía sau tai giống như hình Nhĩ Báo, nhưng khi duy chỉ có Tam Tạng nghe thấy.” Nhĩ Báo này chính là thần Nhĩ Báo, bời vì thần này đặt lời thầm bên tai chủ nhân, khiến cho người khác nhìn thấy, cũng nghe thấy. Hồi thứ bốn mươi bảy trong Hồng Lâu Mộng có đoạn ghi lại lời Giả Thái Quân như sau: “ biết là đến đề làm thần Nhĩ Báo, cũng biết là đến để làm thám tử, là bí hiểm.” Trong hồi bảy mươi mốt, Phượng tiểu thư : “Đây lại là thần Nhĩ Báo của ai, mà sao nhanh thế?” “thần Nhĩ Báo” ở đây là ví von. theo kiểu nay nghĩa là thứ cực kỳ tinh quái trong việc dò la những điều riêng tư của người khác. những thế, nó còn có khả năng xuất quỷ nhập thần, truyền tin dò la được cho người khác, bởi vì đó là vị thần. Nhưng trong dân gian, người này đương nhiên chưa đủ tư cách làm mật thám quan phủ, nên chỉ có thể truyền những tin giữa những người hàng xóm với nhau, đưa chuyện thị phi mà thôi. thực tế,mấy chục năm trước, danh từ “thần Nhĩ Báo” này còn xuất trong ngôn ngữ thường nhật của người dân. Từ khi xuất những danh từ như “đặc vụ”, “mật thám”, chúng mới thay thế cho danh từ “thần Nhĩ Báo”. Lịch sử của thần Nhĩ Báo còn sớm hơn nhiều so với thần Chương Liễu, hơn nữa cũng giống những trò tiểu xảo chỉ dùng để gọi hồn hay lừa gạt tiền tài như thần Chương Liễu. Thần Nhĩ Báo từng có thời huy hoàng tham dự vào chính . Vì vậy, dù thế nào cũng thể để nó bị mai . Phù thủy lợi dụng ma quỷ, thần tiên để gieo quẻ dự báo cho khách, đó cũng chính là ngón kiếm tiền. Ngón này nếu gặp các bậc quý nhân hay vua chúa ra sao? khi vào tay những kẻ đáng mặt hào, trở thành thứ trong kho vũ khí để mùa đông đám lính sử dụng, tiện tay giết người, từ đó trở thành trợ thủ đắc lực cho những kẻ đáng mặt hào xưng hùng xưng bá. Chức năng chủ yếu của thần Chương Liễu là “báo tin”. Nếu các bậc vua chúa nuôi đội thần Nhĩ Báo, phối hợp với đội đặc vụ phải rằng nhất cử nhất động của quan lại cho tới muôn dân, ngay cả những ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu cũng lọt khỏi tầm giám sát của thần Nhĩ Báo. Thực ra, ý tưởng này, các bậc vua chúa sáng tôi hiền ngày xưa đâu thể nghĩ tới. Thư tịch cổ của người Trung Quốc cũng có ghi chép trong mục Sở ngữ của quyển Quốc ngữ. Sở Linh Vương - vị hôn quân tàn bạo khi từ chối lời can gián của các bề tôi: “Trong tay có các linh hồn, mọi can gián ta đều nghe thấy hết.” Thời Tam Quốc, có người nước Ngô tên là Vi Thiện Chú rằng: “Trung, thân, dã, yểu tử viết thương. Thương cung, thương chi cư dã. Chấp, vị bả kỳ lục tịch, chế phục kỳ thân, tri kỳ cư xử, nhược kim thế vân năng sử thương dã.” Đại ý của câu này là nắm giữ các hồn ma người chết yển có thể khống chế được chúng, dùng chúng để giám sát mọi ngôn hành cử chỉ của quan lại. Những bề tôi trong lòng có ý kiến gì thống thiết phải viết thành văn bản nhưng cũng bị vua Sở phát . Đó chính là thuật “sử thương” thời Hán - Ngụy. Đương nhiên, người có thể khống chế được linh hồn ma quỷ phải là các thầy phù thủy chuyên nghiệp. học giả đời Thanh tên là Huệ Sỹ Kỳ soạn quyển Lễ thuyết, trong đó, đối với việc từ chối lời can gián của Sở Linh Vương, ông cho rằng đó chính là tận dụng thuật giáng thần của phù thủy. Huệ Sỹ Kỳ rằng: “Sử thương do hạ thương, sở vị vu giáng chi lễ cái như thử.” “Hạ thương” chính là thương thần giáng thế, mà “vu giáng” chính là thần giáng thế bám sát vào thân thể của phù thủy. Phần Thần Chương Liễu trong quyển năm, sách Hà ngoại quận tiết ghi lại những điều càng rùng rợn hơn: “Quỷ trung chính là quỷ thân. Thương cung chính là linh hồn trẻ . Đó chính là thần Chương Liễu và thần Nhĩ Báo ngày nay. Huệ Sỹ Kỳ trong quyển Lễ thuyết đưa ra cách lý giải quan trọng là, các kế sách trị dân của tầng lớp thống trị ngày xưa thường sử dụng nhiều thuật phù thủy. Cuối thời Tây Hán, vị đại thần Nho học tên là Sư Đan kiến nghị rằng, hãy để phù thủy trợ giúp việc đại quốc gia. Cách lý giải này của Huệ Sỹ Kỳ phải là lập dị. Giai caaos thống trị thời xa xưa sở dĩ có thể giành được ngôi vị cao như vậy phần lớn là vì họ có thể thực cách hữu hiệu thuật phù thủy. Xã hội tiến bộ dần dần làm mờ vai trò của các thầy phù thủy trong việc trợ giúp giai cấp thống trị, nhưng thuật phù thủy chưa từng biến mất trong kế sách thống trị. Điều đó có nghĩa là đến thời Tây Hán đọc tôn Nho thuật, nền chính trị Nho gia trong suốt quá trình phát triển của nó đều liên quan đến phương thuật, thận chí bản thân các Nho sinh cũng trở thành kẻ sỹ phương thuật. Theo cách lý giải này, thuật “sử thương” của Sở Linh Vương cũng chưa hẳn do Sở Linh Vương sáng tạo ra, có khả năng từ trước đó là trong những quốc sách được sử dụng ở miếu đường. Thời Xuân Thu, nước Sở bị các nước chư hầu vùng Trung Nguyên coi là man di, điều này các nước chư hầu nhắc tới. Có thể chính các nước chư hầu phát minh ra phép thuật này, cũng có thể xuất phát từ tác phẩm Quốc ngữ, nhưng trong thiên Chu ngữ thượng ghi lại câu chuyện về Chu Lệ Vương như sau: Lệ Vương bạo ngược, khắp nơi dân chúng đều ca thán. Vì vậy, Thiệu công tâu lên nhà vua rằng: “Dân chúng chịu nổi nền chính hà khắc.” Lệ Vương tức giận cho mời phù thủy nước Vệ giám sát dân chúng xem kẻ nào hé miệng kêu ca trình lên Lệ Vương và hạ lệnh chém đầu. Ai nấy dám hé răng, gặp nhau đường chỉ dám đưa mắt nhìn nhau. Lệ Vương mừng lắm, bèn với Thiệu công rằng: “Ta ngăn chặn được dân chúng rồi đấy, kẻ nào dám kêu ca nữa.” Độc giả ai cũng quen với câu chuyện lịch sử này nhưng chưa chắc chú ý đến nhân vật phù thủy nước Vệ. Vi Thiệu Chú cho rằng: “Phù thủy nước Vệ là người chuyên trong coi, giám sát của nước Vệ. Nhờ có vị phù thủy này mà Lệ Vương biết được những ai phàn nàn về chính .” Chu Lệ Vương mời phù thủy nước Vệ đến gián sát dư luận, đương nhiên thầy phù thủy nước Vệ sử dụng thuật phù thủy. Cái gọi là “Hữu báng tất tri” (Có ai báng nhạo đều biết hết) chính là vì trong tây có thần Nhĩ Báo, sử dụng phép thuật “Hữu chấp quỷ trung, tả chấp thương cung”. Vị phù thủy này chưa chắc là người nước Vệ, rất có thể là phù thủy được mời đến trợ giúp cho nước Vệ, sau đó được tiến cử lên thiên tử nhà Chu. Nước Vệ đương nhiên là nước thân cận với nhà Chu và là trong những nước chư hầu. Thời Chu Lệ Vương sớm hơn ba trăm năm so với thời Sở Linh Vương, chúng ta làm sao có thể chuyển “quyền phát minh” ra “thương cung” cho nước Sở được? “Nguyên liệu” tạo ra “sử thương” chính là tính mạng của những đứa trẻ. Đối với các chủ nô cỡ lớn và lãnh chúa phong kiến, những “nguyên liệu” này là rất tiện lợi. Họ cần những tà thuật của hậu thế, mà chỉ cần chọn ra số nô lệ tí hon, khi cần giết và phù phép là được. Do đó, chúng tôi cho rằng, quyền phát minh ra “sử thương” có lữ thuộc về các nhân vật tầm cỡ thuộc tầng lớp , về sau mới lưu truyền đến tay các phù thủy trong dân gian. Để có thể xui khiến những linh hồn bé bỏng, ngây thơ, bắt chúng phục vụ cho mục đích của mình, giai cấp thống trị giày vò thể xác cũng như linh hồn của những đứa trẻ này, để bắt chúng thuận theo mình, làm những điều tàn ác. Tội ác này khiến cho người đời của muôn kiếp sau nguyền rủa. Trung thư [1] quỷ án [1] Trung Thư tỉnh: tên của cơ quan chính quyền thời phong kiến Năm Nguyên Thuận thứ ba, tức năm 1343, tại địa phương của tỉnh Thiển Tây - Trung Quốc, nay thuộc khu tự trị Nội Mông xảy ra vụ án kỳ lạ làm kinh động thời. Bởi nhân vật chính trong vụ án và nguyên cáo là những hồn ma mặt. việc được đưa lên tới cấp lãnh đạo tỉnh Trung Thư và cấp trung ương nên được gọi là “Trung Thư quỷ án”. Tình tiết chủ yếu của vụ án này được ghi chép tường tận trong thiên Trung thư quỷ án, quyển mười ba, sách Nam thôn chuyết canh lục của tác giả Đào Tông Nghi, sống ở cuối thời nhà Nguyên - đầu nhà Minh. Lời tố tội của những linh hồn bị hại vô cùng bi thảm và thê lương. Thủ đoạn giết người của hung thủ vô cùng tàn nhẫn và ghê rợn, khiến độc giả khỏi bị ám ảnh, rất lâu sau vẫn chưa thể giải tỏa được. Ngoài phần tư liệu do tác giả Đào Tông Nghi trích dẫn, các bậc hàn lâm học sĩ đương thời thừa chỉ Lý Hảo Văn, lại dựa vào tình tiết vụ án, viết thiên ký . Sau đó, người nước Yên tên là Lương Tải lại viết lời tựa cho thiên ký ấy. Hai bài viết này trải qua nhiều lần xử lý về hình thức nghệ thuật, nhưng về sau người ta vẫn cảm thấy còn nhiều từ ngữ chưa được tinh tế, nên đành lược bỏ và viết lại thiên có tên là Vương Bật truyện, truyện này còn lưu trong quyển hai của bộ sách Tống học sỹ văn tập. So với lời kể của Đào Tông Nghi đây vẫn là “bản tiểu thuyết” nguyên án. Cho nên về sau, Viên Mai chỉnh sửa đôi chút, đổi tên là Vương Bật, và chép vào quyển Tử bất ngữ, điều đó cũng là hợp lý. Ngoài ra, thiên Chu nhi trong Liêu trai chí dị của tác giả Bồ Liêu Tiên cũng được sáng tác dựa theo nguyên bản của Vương Bật truyện. vụ “quỷ án” trong vòng bốn trăm năm được bốn, năm vị văn nhân cỡ lớn quan tâm, hơn nữa, góc nhìn của mỗi người giống nhau. Vì thế, chúng tôi cho rằng cần phải giới thiệu với công chúng. Nguyên cáo của vụ án là cư dân vùng nọ tên là Vương Bật. Dưới đây chúng tôi căn cứ vào những tư liệu mà Vương Bật trình báo lên chính quyền địa phương, được ghi chép trong quyển Chuyết canh lục, xin giới thiệu khái quát tình tiết vụ án như sau: việc xảy ra vào tháng Chín năm 1343, Vương Bật sống ở phương Lễ Kính, phố Bát Trát. Hôm đó, Vương Bật đến quán Bình Dị, phường Nghĩa Lợi gặp người làm nghề bói toán họ Vương từ phương xa đến. Người thầy bói này tạm cư ở đây và hành nghề gieo quẻ. Vương Bật thấy người thầy bói này lạ mặt nên lân la đến hỏi chuyện. biết vì sao hai người sinh ra cãi cọ, lát sau, hai bên dường như khống chế được bản thân nên đến mức giằng co quyết liệt, gây ra ẩu đả. Chính vào đêm Hai mươi chín tháng này, Vương Bật ngủ cạnh cửa sổ, chốc chốc lại nghe thấy thanh lạ, giống như tiếng gió thổi trong hồ lô vậy. Tắc Bắc mùa thu đêm khuya thường hay nổi gió lớn, tiếng gió thổi trong hồ lô lẽ ra đáng để người ta sợ hãi như vậy, nhưng Vương Bật lại có những dự cảm bất thường, trong lòng chắc mẩm thanh quái dị này chắc chắn kiên quan đến ma mãnh. Vậy là ông lập tức mời Lý pháp sư về làm phép “khiến tống” đuổi . Mới nghe tưởng như chuyện bé xé ra to, nhưng thực tế hẳn thế. Khi thầy pháp tới, trong trung bỗng vang lên tiếng : “Là tên thầy bói sai tôi đến đây.” xong liền bật khóc tức tưởi, luôn miệng kêu oan. Vương Bật liền ngẩng lên với người trong trung: “Ngươi là ma hay là thần? Mau khai cho ta biết.” Tiếp theo liền nghe tiếng con ma trả lời: “Tôi là Nguyệt Lạp, con ruột của quan ở Phong Châu. Ngày Mười bảy tháng Chín tôi ra vườn dạo bị ông Vương giết chết, bắt làm tay sai của ông ta, hôm nay ông ta lệnh cho tôi đến đây tác quái.” Vương Bật liền ghi chép lại tất cả những gì ma nữ vừa , rồi đem kiện lên quan phủ. Quan phủ liền phái người bắt kẻ gian, đến nhà tên họ Vương lục soát, khám được hình nhân gỗ tết tóc hai bên, đầu cắm bốn cây kim, mặc trang phục nữ; tám hình nhân bằng giấy, người đều có mảnh lụa ngũ sắc, buộc cả chỉ ngũ sắc, nắm đuôi tóc, bình hồ lô buộc sợi thừng đỏ, bên trong đựng hai viên đá hổ bạch, bên ngoài buộc chỉ ngũ sắc, ngoài ra còn có là bùa viết bằng Chu Sa. Lúc này, chắc chắn tên Vương bị bắt giải lên quan, nhưng việc xảy ra cách đây tháng, lúc đó quan phủ định án, nên vụ án tiến triển được thuận lợi như Vương Bật dự liệu, tên Vương nhất quyết chịu thừa nhận việc như Vương Bật tố cáo, những thứ thu được ở nhà đương nhiên cũng phủ nhận và cho rằng mình bị người khác sắp xếp, vu oan giáng họa. Hơn tháng sau, Vương Bật lại cung cấp thêm tình tiết mới cho vụ án: Ngày mùng Ba tháng Mười , có con ma về kể với Vương Bật rằng: “Tôi là con trai thứ hai của ông chủ ở phương Nam, đường Phong Nguyên, tên là Ngoan Lữ, năm nay mười tám tuổi, bị tên Vương và ba tên đồng bọn giết chết, rồi đổi tên thành Ngoan Đồng.” Ngày Hai mươi hai, lại có hồn ma khác tìm đến kể với Vương Bật: “Tôi là con trai nhà Lý Thiếp, tên là Lý Diên Nô, còn gọi là Thưởng Hôi, bị lão tặc này giết hại, đổi tên thành Mãi Mại. Năm đó tôi mới mười bốn tuổi.” Ba mạng người, ba vong hồn của ba đứa trẻ, tuy lúc này vẫn có bất cứ chứng cứ thực tế nào, còn người làm chứng là Vương Bật cũng chỉ là người nghe lại câu chuyện qua lời kể của ma quỷ, nhưng đây vẫn là vụ án đáng được quan tâm. Quan phủ áp dụng tất cả biện pháp cực hình, cuối cùng cũng thu được lời khai của tên Vương như sau: Vương Vạn Lý, năm nay năm mươi mốt tuổi, người tỉnh Giang Tây, từng học thuật dương với thầy pháp Chu ở Hàm Dương. Tháng Ba năm Thuận Nhị (khoảng năm 1331 công nguyên đến năm 13 Chính Tam) đến phủ Hưng Nguyên, lại gặp người họ Lưu. Ông Lưu : “Ta có thể dùng phép thuật sai khiến, mê học lòng người, thu nạp ma quỷ, sai tác oai tác quái nhà người ta để kiếm tiền, nay giao cho người con.” rồi liền rút trong người ra miếng vải ngũ sắc, bên trong gói nắm tóc, : “Tên quỷ này được đổi tên là Diên Nô. Muốn học tốt thuật này, cần phải kiếm được những đứa trẻ thông minh, lanh lợi, dùng lệnh bài và nước phép niệm chú, cắt sống mũi, môi, lưỡi, tai, mắt, lại niệm chú hút hết sinh khí, tiếp theo mổ bụng, lấy hết nội tạng, cắt thành từng khúc phơi khô, xương cốt đem nghiên nát, bọc lại bằng vải ngũ sắc, rồi đem tóc của nó tết lại, dùng giấy cắt thành hình người, mọi việc hoàn tất mới niệm chú, sai khiến nó đến nhà người ta tác oai tác quái.” Tên pháp sư họ Lưu theo Vương đến nơi Vương ở. Đến đêm, Lưu liền thắp hương niệm chú, chỉ nghe thấy tiếng người mà thấy bóng dáng đâu: “Sư phụ, người sai tôi đến nhà ai?” Tiếng đó chính là hồn ma của Lý Diên Nô. Lưu liền dặn dò Diên Nô rằng: “Ngươi hãy hợp tác với người này .” xong lại niệm chú, thu hồn ma lại. Vương Vạn Lý liền rút trong túi ra ngân phiếu bảy mươi lăm lượng, mua nắm tóc và mảnh gấm ngũ sắc. Lưu còn , nếu thích có thể đổi tên cho con ma rồi đem bán. Rồi lại truyền cho Vương Vạn Lý thêm lệnh bài và nước phép để sai khiến, thu hồi hồn ma, cuối cùng dặn dò rằng: “Thịt bò và thịt chó là hai thứ đại kỵ, được ăn vì nó có thể làm cho phép này mất thiêng.” Sau đó, Vương qua vùng núi Phường Châu, gặp người bạn cũ trước kia quen biết ở Quảng Châu. Người bạn này liền : “Ta cũng biết sai khiến ma quỷ, nếu muốn ta có thể bán lại cho.” Vương lại đưa ngân phiếu hai mươi lăm lượng, tên kia liền lấy ra hình nhân bằng giấy dán vải gấm ngũ sắc và tóc tết, tên quỷ này là Ngoan Đồng. Vương Vạn Lý có trong tay hai tên tay sai, lại lên đường đến Phong Châu. Đến tháng Tám năm Chính Nhị, Vương Vạn Lý đến nhà Chu Đại xem bói cho con tên là Nguyệt Lạp. Thấy bé thông minh, lanh lợi, liền nảy sinh ý đồ sát hại, thu nạp làm tay sai cho mình. Đến ngày Mười bảy tháng Chín, Vương Vạn Lý nấp ở góc tường trong sân nhà Chu Đại, nhìn thấy có bóng người ra sân sau, biết là Nguyệt Lạp, liền niệm chú mê hoặc, dẫn bé về phía đông, lại dùng chú bắt Nguyệt Lạp đứng yên, cởi hết quần áo, dùng dao rạch nhát từ trán xuống, cắt lọn tóc của bé, dùng dây gấm tết lại, lấy hình nhân giấy và mảnh vải ngũ sắc, làm hình nhân nữ. Sau đó lần lượt cắt các bộ phận mũi, miệng, lưỡi, tai, mắt, chặt rời mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân, rồi mổ bụng bé, moi hết nội tạng, cắt thành từng khúc, đem hơ khô rồi cho vào cái lọ hồ lô . Tính đến tháng Chín năm Chính Tam, Vương Vạn Lý lại đến cửa hàng Bình Dị, mở sạp xem bói. Ở đây gã xảy ra tranh chấp với Vương Bật, vậy là khi đêm về, gã liền sai Chu Nguyệt Lạp và hai tên ma đến nhà Vương Bật tác quái. Nhưng vì có lần mua thịt ngựa về ăn, nhưng ông chủ bán nhần cho miếng thịt bò, kết quả là phá hết phép thuật của , khiến thể thu được các hồn ma tay sai về nữa, nên mới có chuyện Nguyệt Lạp nhờ Vương Bật tố cáo . đây là tất cả bản thú tội của Vương Vạn Lý. Về phía quan phủ điều tra thu được chứng cứ như sau: người tên là Lý Phúc Bảo (tức Lý Thiếp) đến công đường làm chứng, rằng mình có đứa con trai tên là Lý Diên Nô, vì hay bệnh tật nên cho xuất gia tại Ngũ Nhạc Quan, đổi tên là Thường Hôi. Đến tháng Hai năm Thiên Lịch Nhị (năm 1329), nhà chùa sai nó chăn trâu, từ đó thấy trở về. Ngày đó đói kém loạn lạc, gia đình chỉ nghi là bị kẻ xấu hãm hại nhưng tìm ra manh mối. Tỉnh Trung Thư lại có công văn đến quan địa phương huyện Hàm Ninh, đường Phong Nguyên, và Phong Châu điều tra thân thế, được quan phủ địa phương trả lời quả Liễu Ngoan Đồng và Chu Nguyệt Lạp đều chết vì nguyên nhân giống nhau. Cuối cùng hình bộ phán quyết như sau: Vương Vạn Lý tàn nhẫn bất đạo, xử tội lăng trì, vợ con phải chịu đày ở Hải Nam. Vụ án khép lại, tìm ra kẽ hở nào, từ ba cấp quan phủ, nhân chứng, vật chứng đều đầy đủ cả, lời cung khai của phạm nhân cũng được lập rất chân thực trong quá trình điều tra, nhưng chính vì câu chuyện quá hoàn mỹ như thế lại khiến người ta cảm thấy dường như có điều gì đó ổn. Với tư cách là câu chuyện, có lẽ nó cũng đơn thuần như bao câu chuyện khác, có gì đáng , nhưng nếu đứng ở góc độ vụ án hình làm kinh động đến cả các nhân vật lãnh đạo trung ương và các cơ quan tư pháp cao nhất, mà lại lấy lời của ma quỷ làm lời khai, hơn nữa,các quan tư pháp từ địa phương đến trung ương đều dùng lời khai giống hệt nhau, quả là từ cổ chí kim có hai. Nhưng khi hình bộ phán Vương Vạn Lý tội lăng trì, Vương Vạn Lý chết “dũ tử” trong ngục từ lâu. Thời xưa, ở chốn quan binh, cách “dũ tử” là cách khá mơ hồ, dùng để chỉ những người chết vì bệnh, chết vì chịu cực hình, bị mưu sát, tự sát… Tóm lại, những kẻ chết trong tù được gọi chung là “dũ tử”, như thế có thể giúp các cơ quan liên quan giũ bỏ được trách nhiệm. Vậy bị cáo Vương Vạn Lý chết, những chuyện phiên cung, hay kiện tụng lên cấp cao hơn cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, phán quyết gã thế nào gã cũng chẳng thể kêu oan được nữa, nên phán quyết được đưa ra có vẻ cũng chẳng tốn bao nhiêu sức lực. Nhưng các tình tiết trong vụ án này lại bỏ qua nhân vật vô cùng quan trọng, trong Vương Bật truyện có viết, phạm nhân chỉ có mình Vương Vạn Lý mà còn có tòng phạm là đứa cháu cùng hành nghề với gã tên Vương Thượng Hiền, nhưng Hiền lại được phán là vô tội và được tha bổng. Hơn nữa, còn phải kể đến hai kẻ trọng phạm có liên quan đến vụ án (cũng là nhân chứng quan trọng) là tên họ Lưu và người bạn gã quen ở Quảng Châu, trong chuyện lại được, nên đành gác lại đây. Phạm nhân chết bị phán mức án cao nhất, còn kẻ tòng phạm chưa chết lại nằm trong bản án, quả là chuyện kỳ lạ hiến thấy xưa nay! Đương nhiên chúng ta thể tìm được những ghi chép chính xác về tình hình thực tế của vụ án, nhưng Lương Cung Thần, người nhà Thanh có ghi trong Bắc vông viên bút lục tử biên kỳ án khác cũng tương tự như thế. Lương Cung Thần là người vô cùng tin vào thuyết nhân quả báo ứng, nhưng cũng giống như quan lại đương thời, ông công nhận tà thuật của kẻ yếu nhân. Vụ án mặc dù xảy ra ở bốn trăm năm sau, nhưng các tình tiết trong vụ án lại rất giống vụ án ma Trung Thư, so sánh hai vụ án, thấy nội tình vụ án ma Trung Thư dần dần được hé lộ. việc sảy ra vào năm Càn Long thứ bốn mươi mấy, huyện nọ có thương nhân (do tác giả nỡ nêu đích danh người và quê quán, nên tên người và tên địa danh đều bị giấu ), nhờ nghề buôn bán mà ngày càng giàu có. Trong huyện có người tên là Ác Thân muốn hỏi vay tiền, nhưng người thương nhân nọ đồng ý, gã bày đủ mọi lý do, muốn vay với lãi suất cao, vay vì có việc công quan trọng… nhưng cuối cùng đều bị từ chối. Ác Thân hận thương nhân đến tận xương tủy. Đúng lúc đó, người hầu của thương nhân nọ có đứa con hai tuổi chết yểu, Ác Thân liền xui ta đến nha môn tố cáo, con ta bị thương nhân nọ dùng thuật bắt mất linh hồn, nhưng quan huyện chịu thụ lý vụ án. Ác Thân lại mê hoặc dân chúng đến công đường tố cáo, còn mình cưỡi ngựa khuyên Thái thú chuẩn cáo. Thái thú liền rằng: “ thuật này, từ xưa hề đến, nếu như từ xưa có vụ án này làm sao mà giải quyết được?” Vậy là vẫn chuẩn cáo. Ác Thân lại xúi giục người nhà đứa bé kiện lên quan tỉnh nhưng vẫn được chuẩn. Lên cả ba cấp tư pháp huyện, phủ, tỉnh đều bế tắc, Ác Thân vẫn chịu từ bỏ dã tâm, liền viết thư kể cho Đô Trung Đương Trục Giả nghe chuyện thương nhân nọ dùng thuật phủ, Đương Trục Giả nhận được thư liền chuyển cho tuần phủ tỉnh xử lý, tuần phủ tỉnh lại sợ lớn chuyện ảnh hưởng đến tiền đồ của mình, cảm thấy tên thương nhân chịu tội oan cũng chẳng có gì ghê gớm, liền hạ lệnh bắt thương nhân kia về tra xét. Cũng như các phạm nhân khác, sau khi bị dùng cực hình, thương nhân buộc phải nhận tội, vậy là tội chém đầu được cấu thành. ngờ, hôm thương nhân bị xử quyết trời bỗng thay đổi thất thường, nổi cuồng phong, trời đất xám xịt, tất cả mọi người trong thành đều than rằng: “Ông ta quả là bị chết oan!” Chưa đến hai ngày, lại có người từ huyện đó đến, con trai của Ác Thân bỗng nhiên phát điên, suốt ngày gào khóc kêu oan cho thương nhân nọ. Vừa nhìn thấy Ác Thân, đứa con trai liền chỉ tay mắng lớn, vài hôm sau chết. Nghe đồn sau đó, Ác Thân cũng phát điên mà chết. Tuần phủ nghe tin vô cùng sợ hãi, liền sai ba, bồn người hầu lúc nào cũng bên để bảo vệ. hôm tuần phủ và viên tư đạo nghị , bỗng thấy tuần phủ hét lên rằng: “kẻ giết người là Ác Thân, phải ta, hà cớ chi lại đến kiếm ta?” Viên tư đạo liền cho người ở bên ngoài xuông vào nhà, mới lang y đến cứu chữa, nhưng được mấy ngày quan tuần phủ chết. Mặc dù đoạn kết khiến người đọc sảng khoái, nhưng tính chân thực của nó lại vô cùng đáng ngờ. đời này có bao nhiêu là oan hồn, nếu như tất cả đều làm như thương nhân nọ có lẽ thiên hạ đại loạn, nhất là những kẻ chấp pháp kia luôn phải đối mặt với đe dọa đến tính mạng. Điều đáng tin là thái độ của các quan tỉnh, huyện, phủ đối với vụ án này. Họ chưa chắc tin tồn tại của thuật, nhưng chỉ hồn ma của đứa trẻ bị người ta cướp , những việc như đuổi hình bắt bóng này quả thể coi là chứng cứ trước pháp luật được. Còn về vụ án của Vương Bật, đưa lên cả bộ hình, bộ hình lại sai người về tra xét, Vương Bật miêu tả chuyện hồn ma hiển linh sinh động như , nhưng khi người của bộ hình tới hồn ma lại biến mất. Trong khi đó, Vương Vạn Lý chết dũ từ trong ngục rồi. Những hồn với vai trò là nhân chứng chịu xuất trước công đường, vậy ràng vụ án này thể giải quyết được. May là ở cuối đời Nguyên, quan trường còn là màn đêm đen tối, vậy nên cả ba cấp quan mới cùng thống nhất đến phán quyết xử lăng chì kẻ chết, kẻ còn sống lập tức được thả, nhanh chóng kết thúc vụ án ngớ ngẩn. Cũng giống như nhân vật Ác Thân trong “án thái sinh”, nhân vật chính trong “án ma Trung Thư” thực tế chính là Vương Bật. Vụ án từ đầu đến cuối đều do mình ta thao túng. Ở đời nhà Tống, trong Vương Bật truyện, Vương Bật dường như là người trung thực, chính nghĩa, chuyên hành y cứu người, nhưng cũng thể che giấu được thân phận của ông ta là quân sư của Tuyên úy tư, tương đương với chức quan cửu phẩm trong nha môn thời bấy giờ. Địa vị này giúp ông ta có tiếng nhất định với quan địa phương, người dân bình thường ai dám động vào ông ta, gì đến tên thầy bói lưu lạc goang hồ! Còn nguyên nhân khiến hai người họ xảy ra tranh chấp cũng được tường thuật chi tiết, tỉ mỉ trong Vương Bật truyện, đó là vì Vương Bật nghe có thầy bói mới đến mở sạp phố liền đặc biệt đến hỏi thăm, kết quả là xảy ra cuộc đấu khẩu nảy lửa, vì Vương Vạn Lý hiểu phép tắc, biết nhún nhường nên Vương Bật mới ra uy dạy cho ông ta bài học, thực tế là muốn phá đám việc làm ăn của ông ta. Chỉ từ câu chuyện tranh chấp cũng có thể nhìn ra Vương Bật là tên đầu xỏ khó chơi. Nhưng Vương Vạn Lý cũng dễ dàng chịu khuất phục, chém luôn uy phong của Vương đại gia, khiến Vương đại gia nổi giận, bày ra trò ma quỷ để rửa hận. Vương Bật dù sao cũng từng lăn lộn chốn quan trường, ông ta còn tìm được mười nhân chứng đứng về phía mình, cùng ký tên chứng nhận hiển linh của hồn ma Chu Nguyệt Lạp. Mười người cùng ký tên vào bản cáo trạng, lại thêm mối quan hệ khăng khít với đám nha môn, đặt thêm vật chứng trong phòng của Vương Vạn Lý, đó chỉ là chuyện nỏ như lông hồng mà thôi. Nhưng cho dù màn kịch này được thiết kế tinh vi đến đâu, tìm được trăm người làm chứng, kiếm được đầy phòng vật chứng nhưng nếu có hỗ trợ của đám quan sai dã tâm của Vương Bật cũng chẳng thể thực được. Vì thế, từ dã tâm của Vương Bật trong vụ án này cũng đủ để nhận ra bức tranh chính trị đen tối ở giai đoạn cuối thời Nguyên. Đây cũng là điềm báo thống trị của người Mông Cổ sắp đến hồi kết thúc. Nhưng điều khiến người ta kinh ngạc phải vụ án mà từ giả thành , mà là hầu hết thành phần tri thức đương thời đều tin vào những chuyện ma quỷ này. Như Lý Hảo Văn, bắt đầu là phó hiệu trưởng, tiến sĩ của trường đại học công lập, từng làm quan ngự sử giám sát, lập nhiều công lớn trong việc giải oan cho những người dân vô tội, diệt trừ bọn cường hào ác bá, cũng bỏ ít công sức ghi chép lại vụ án “Trung Thư quỷ” thành tác phẩm văn học để đời, tăng thêm hiệu quả tuyên truyền trong dân chúng. Những nhân vật tài của cả thời đại lại có cách nhìn nhận như thế, quả là đáng buồn! Cho nên đến đầu đời Minh, Vương Bật vẫn được triều đình coi là kẻ sĩ đắc đạo, triệu vào Nam Kinh, chỉ đến khi thấy ông ta hề có tài điều khiển quỷ, mới thưởng cho ông ta chiếc áo dài rồi đuổi cổ về quê, thế mới thấy tác dụng tuyên truyền dưới ngòi bút của các nhà văn lớn. Đứng quan điểm ngày nay, vụ án “Trung Thư quỷ” đích thực là vụ án oan, những người bị oan phải là ba hồn ma kia mà chính là Vương Vạn Lý - kẻ chết dũ trong nhà tù. So với những tác giả như Tống Khiêm, có lẽ Đào Cửu Thành vẫn được coi là người khá tỉnh táo, nên tác phẩm ông biên soạn về “Trung Thư quỷ án”, thực tế là dùng những văn kiện Nguyên sử đối chiếu với tiểu thuyết và sử bút Lý Hảo Văn và Tống Khiêm. Nếu như độc giả có hứng thú có thể tìm đọc Vương Bật truyện đối chiếu với Trung thư quỷ án, chắc chắn ngộ ra rất nhiều những điều mê hoặc trong các thể loại ghi chép truyện ký, hồi ký… Nhân đây cũng xin thêm, quyển Văn tập Tống học sĩ hơi khó tìm, nhưng Tử bất ngữ ở đâu cũng có. Nhưng qua việc Viên Tử đem Vương Bật truyện của các học sĩ đời Tống xếp vào đám “lực lượng ma quái” cũng đủ thấy quan điểm của ông rồi. Nhắc đếm Viên Tử Tài lại khiến người ta liên tưởng ngay đến Kỷ Hiểu Lam, bởi lẽ đây là hai nhân vật đều rất đáng . Mà Kỷ Hiểu Lam có lần suýt chút nữa cũng gây ra vụ án trong đại ngục, nguyên nhân của nó ít nhiều có liên quan đến Trung thư quỷ án. Hồi đó, Kỷ Hiểu Lam vì mắc lỗi nên bị điều đến Ô Lỗ Mục Tề, giữ chức quan tứ phẩm làm văn án cho Ôn Phúc đại tướng quân. Ông tuy thân mang trọng tội, nhưng vẫn bỏ được kiểu thích khoe khoang thể , mà kẻ văn nhân thích thể thế nào cũng gây họa. Đương nhiên, ông lại lập công chuộc tội, tìm tên đen đủi nào đó làm vật thế thân cũng là điều quá khó khăn. Ngày đó, Ô Lỗ Mục Tề có đạo sĩ bán thuốc trong thành, dân chúng đồn nhau rằng đạo sĩ này có thuật cao cường, hơn nữa, còn có người tận mắt chứng kiến trong quán trọ, thấy ông ta mỗi đêm trước khi ngủ đều lôi ra bình hồ lô , dốc ra hai viên gì màu đen, sau đó liền có hai thiếu nữ ra chung chăn chung gối, đến khi trời sáng thấy đâu nữa. Chuyện này hỏi được, nếu có hỏi chắc chắn tên đạo sĩ cũng thừa nhận việc. Điều tra có bằng chứng, kẻ làm chịu nhận, người khác thèm quan tâm để ý, nhưng Kỷ Hiểu Lam là người có học vấn, lại có trí nhớ tốt nên lập tức nghĩ ra Vương Vạn Lý trong câu chuyện, liền tự nhủ rằng: “Hai đó chắc chắn là hai hồn ma được tên đạo sĩ thu phục, chỉ cần cho tên đạo sĩ đó ăn thịt ngựa khắc thuật bị hóa giải!” (Kỳ Hiểu Lam quá tự tin vào trí nhớ của mình, thực tế trong truyện viết là phải ăn thịt bò mới hóa giải được thuật), vừa đúng lúc con ngựa trong doanh trại bị chết, Kỳ Hiểu Lam liền sai chân tay đến tìm chủ quán trọ, bảo ông ta hỏi đạo sĩ rằng: “Quán tôi đây có ít thịt ngựa, biết khách quan có nhã hứng thưởng thức hay ?” ngờ tay đạo sĩ lắc đầu : “Thịt ngựa ta ăn!” Ông chủ quán lập tức báo cho Kỷ Hiểu Lam biết, lại khiến cho Kỷ Hiểu Lam nảy sinh nghi ngờ. ăn thịt ngựa bởi trong lòng có trò mờ ám, nếu có điều gì mờ ám, tại sao lại ăn thịt ngựa? Những suy luận kỳ quặc kiểu như thế lại càng làm cho Kỷ Hiểu Lam tin vào lời đồn, trong lòng cảm thấy tay đạo sĩ này chắc chắn là nhân, liền quyết định ra mặt giải quyết ông ta. May mà có người cộng tốt tên là Trần Đề Kiều, thấy Kỷ Hiểu Lam sắp gây họa, liền : “Tên đạo sĩ đó dẫn con về, ngươi có tận mắt nhìn thấy ? ta ăn thịt ngựa, ngươi cũng hề nhìn thấy. Chuyện của Chu Nguyệt Lạp là chuyện trong tiểu thuyết của Đào Cửu Thành, ai biết là hay giả. Hơn nữa, cứ thịt ngựa có thể phá giải được pháp nhưng cũng ai biết nó có linh nghiệm hay . Ngươi lại tin vào những tin đồn vô căn cứ, là biế phân biệt thị phi.” “Vậy việc này phải làm thế nào?” “Việc này nên làm kinh động quá nhiều người, tôi thấy như thế cũng đủ rồi.” Kỷ Hiểu Lam lúc đó mời từ bỏ ý định diệt đạo sĩ để lập công chuộc tội. Việc đó sau này đến tai đại tướng quan Ôn Phúc, ông liền với Trần Đề Kiều và Kỷ Hiểu Lam rằng: “Kỷ Hiểu Lam xử lý việc này quả là hơi quá đáng. Nếu tên đạo sĩ đó bị cực hình ép vào đường cùng, ăn bậy bạ, khai bừa vụ án khác, vậy việc vô cùng nghiêm trọng, thể trị, mà trị lại có chứng cứ, thể trị tận gốc, lúc đó chúng ta phải làm thế nào? Còn Trần Đều Kiều đuổi ta ra khỏi thành lại càng “bất cập”. Nếu ta lại chạy sang đất khác gây chuyện thị phi, rằng sống đất Ô Lỗ Mục Kỳ lâu, chúng ta chắc tránh khỏi trách nhiệm. Đối với những kẻ có hành tung khả nghim phải khám xét cẩn thận, tìm ra chứng cứ rồi mới giao cho quan phủ xử lý được, nếu khám xét thấy chứng cứ áp giải trở về quê hương, tránh mê hoặc dân chúng, các người thấy cách này có phải là tốt hơn ?” Hai người nghe xong đều khâm phục tướng quân sát đất. Đối với những kẻ có hành tung khả nghi đương nhiên cần phải khám xét, nhưng nếu khám mà thấy có chứng cứ gì dựa vào cái gì mà áp giải người ta về quê cũ? Những lý luận này tốt nhất nên bàn nhiều ở đây, người ta dẫn về nha môn cho trận đòn nhừ tử là khá lắm rồi. Kỷ tiên sinh quá nghiêng về cánh tả, Trần tiên sinh lại quá thiên về cánh hữu, chung, những kẻ làm quan trước tiên phải lo giữ thân và củng cố địa vị trước , như vậy, có thể , dù sao nữa cách giải quyết của Ôn Phúc cũng là cách xử lý thỏa đáng nhất. Khổng Phi Lực trong Gọi hồn cũng có nhắc đến vụ án “cắt tóc thu hồn”, đại khái chuyện này xảy ra bao lâu, kiến thức của đại học sĩ Kỷ Hiểu Lam so với đám ngu dân đòi bắt hòa thượng Bà Du Phương vì tưởng lầm ông là nhân hóa ra cũng có điểm tương đồng. Vậy đám quan trong phủ huyện mà Lương Cung Thần kể trong “án thải sinh” liệu có được xem là cao minh hơn Kỷ Hiểu Lam ? Chỉ có điều “án thải sinh” xảy ra sau “án gọi hồn” hơn mười năm, làm kinh động đến cả Vạn Tuế gia, các quan dưới thể thụ lý và tuần phủ nọ vì có công văn ép xuống của “Đương Trục Giả” mới thụ lý vụ án, sau đó lại ra bản án xử trảm “siêu tốc”, thực ra mỗi người bọn họ đều có những mẹo làm quan riêng của mình, chẳng qua về điểm này họ cao minh hơn Kỳ đại học sĩ mà thôi. Nhưng cũng có khả năng khác, ấy là Kỷ Hiểu Lam chỉ cố ý giảo hoạt, trong đoạn ký cố ý dành cho mình vai diễn con chim ngu ngốc để đề cao minh của Ôn Phúc mà thôi. Hết tập 1