Tắt Đèn Kể Chuyện Ma - Loan Bảo Quần (Tập 1)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 12: Chỉ khôi phi tác bạch hồ điệp [1]

       

      [1]Tro giấy bay lên thành bướm trắng.




                 3


      Tất cả các loại tiền giấy có hình dáng gần giống với tiền đồng, chỉ cần đốt xong dưới phía phủ xuất loại tiền phủ hoàn toàn giống với những tiền đồng ở dương gian. cần hoài nghi về quá trình kỳ diệu này, bởi có người tận mắt chứng kiến nó.

      Trong quyển Hà Đông ký Tiết Ngư Tư, người thời Đường có ghi lại việc xảy ra giữa năm Thái Hòa đời vua Đường Văn Tông: “ viên quan tên Tân Sát bỗng nhiên lên cơn đau đầu rồi ngất lịm , chỉ có điều tim ông vẫn đập. Tân Sát nằm giường, ông thấy có người mặc áo vàng bước tới, kéo ông ra khỏi ngôi nhà . Ra đến cửa, người mặc áo vàng : “Nhà ngươi vẫn chưa đến lúc phải chết, nếu ngươi đồng ý đưa ta hai nghìn quan tiền, ta đưa ngươi trở về.” Hóa ra đây là tên lính phủ có thói quen bắt xong dọa dẫm. Tân Sát biết thứ mà cần chỉ là tiền phủ, bèn thông báo cho người nhà mau chóng đưa tiền giấy ra đốt. Người nhà dương gian đốt tiền, Tân Sát dưới phủ liền nhìn thấy tất cả chúng hóa thành tiền đồng. Đương nhiên, da thịt của Tân Sát khi đó vẫn nằm ở giường, chỉ có linh hồn ông mới nhìn thấy biến hóa đó.

      Đôi khi con người rơi vào trạng thái bán hôn mê trong ranh giới giữa sống và cái chết, cũng có thể nhìn thấy được cảnh tượng kỳ thú đó. Trong chương Thôi Minh Đạt tác phẩm Quảng dị ký, Đới Phù, người thời Đường có ghi, Minh Đạt bị diêm phủ bắt nhầm, bèn sai lính đưa Minh Đạt quay trở về dương gian. Tên lính ti đưa linh hồn đến bên giường bệnh, nhưng Minh Đạt vẫn hôn mê bất tỉnh, miệng thành tiếng, chứng tỏ linh hồn vẫn chưa hoàn toàn nhập vào thể xác. Tên lính : “Ngươi phải giao cho ta nghìn quan tiền mới được.” Tiền trước, lễ vật sau là quy tắc vốn có nơi quan trường, Minh Đạt bị cột lại giữa đường, quả thực là sống hay chết, lúc này chỉ có đồng ý là lựa chọn duy nhất. biết ông làm thế nào để với người nhà, chung cuối cùng người nhà dương gian đốt tiền, dưới phủ Minh Đạt nhìn thấy hai tên lính vác tiền mất. Đến khi cảnh tượng nơi ti hoàn toàn biến mất, Minh Đạt mới chính thức trở về với dương gian.

      Tinh thần và linh hồn của con người trong trạng thái bình thường đương nhiên thể nhìn thấy được điều đó. Vì thế, rất ít người tỏ ra hoài nghi về quá trình này, càng có người muốn đích thân trải nghiệm. cõi dương hóa tiền, dưới cõi nhìn thấy những xâu tiền tự nhiên xuất . Cũng theo lý đó, những loại vàng bạc, châu báu làm từ giấy sau khi hóa trở thành vàng bạc châu báu nơi cõi . Chính bởi vậy, màu sắc của tiền giấy ảnh hưởng trực tiếp đến màu sắc của đồng tiền nơi phủ. “Ngụy trang tốt bằng thành tâm”, tiền giấy được đục chắc chắc được quy chỉnh như tiền giấy được cắt, nhưng việc chế tạo tiền được làm giả từ tiền đồng chuyển sang tiền giấy, vậy tiền giấy chuyển từ dạng cắt sang dạng đục thô thiển cũng là điều chấp nhận được. Lấy giấy làm tiền tuy có thể làm tùy tiện, nhưng cũng thể quá qua loa, cẩu thả, chỉ cần đục vài đồng tiền giấy là có thể coi như hiếu kính với tổ tiên. (Ví như tiền giấy nay, nhìn cả xấp có vẻ giống tiền, nhưng nếu tách ra thành vài tờ , có thể chẳng tìm thấy “vết tích” nào của chiếc đục.) Ở đây cũng cần coi trọng thái độ nghiêm túc, đó là làm sao khiến con người ta coi những việc viển vông như những việc có để thực , và cái có được chính là tấm lòng thành kính hướng tới tổ tiên.

      Trong tập mười hai quyển Những chuyện lẻ tẻ về xứ Bắc, Tôn Quang Hiến có nhắc tới cẩu thả trong việc làm tiền giấy lúc bấy giờ, kết quả, chúng nguyên hình khi được chuyển tới cõi . Tề tướng Võ Nguyên Hoành bị thích khách hại chết, linh hồn của ông được đưa trở lại dương thế thông qua người dân thường bị diêm phủ bắt nhầm, ông truyền lời lại người bạn cũ của mình là Tư Đồ Vương Tiềm rằng: “Sau khi ta chết, rất ít người còn nhớ tới ta. Trong tất cả môn sinh, bạn bè cũ, chỉ có các hạ luôn nhớ tới ta, thường hóa tiền giấy tặng ta, nhưng loại tiền mà các hạ ban cho ta được làm quá mỏng, đến mức sợi dây thể xâu chúng lại với nhau được. Có lẽ vì các hạ nhiều việc, đôi khi có thời gian để quan tâm đến điều đó chăng?” Tác phẩm Hà đông chí cũng ghi chép lại câu chuyện này, nhưng có thêm vài câu dặn dò của hồn ma Nguyên Hoành, ngoài chất lượng tiền giấy quá kém ra, khi hóa vàng nếu dùng chiếc que để gẩy, sang đến cõi , chỗ tiền đó cũng biến thành đồng vụn, thể tiêu thụ được.

      Hai điểm nêu đều là sơ suất của người trần khi hóa vàng, mãi cho đến tận ngày nay vẫn gặp khó khăn trong việc sửa đổi. Nhưng khi dâng tiền cho tổ tiên, bạn bè, người ta rất dễ cho qua những tiểu tiết, còn nếu đối phương là thần linh, quan chức, dù có là ông thổ địa hay tên lính quèn nơi thế, người ta cũng dám tái phạm lần thứ hai. Ít nhất người ta cũng phải kiểm tra về chất lượng “màu sắc” của tiền giấy. Tập hai mươi hai, quyển Tử bất ngữ có câu chuyện về “Ma nữ cáo trạng”, kể rằng có kẻ nào đó khi hóa vàng trả tiền cho lính ti, cầu “lấy sáu nghìn tiền giấy, bắt buộc phải bỏ tất cả những tờ có khiếm khuyết, đốt bốn nghìn ở phía tiền sảnh, còn lại hai nghìn đốt ở con hẻm cạnh nhà. Sau đó quay về chỗ cửa chính làm lễ tiễn cáo trạng.” Tại sao lại lấy phần tiền để đốt tại chỗ con hẻm? Theo quy định của nha môn, tất cả những lễ phẩm, tiền tài thu được phải làm công ích, phân phát dựa theo từng đầu mục, tựa như những “kho bạc nay, chúng được công khai trong phạm vi , vì thế cần phải hóa vàng tại tiền sảnh, còn hóa vàng trong con hẻm ý chỉ lén lút đưa tiền hoa hồng cho những hộ kinh doanh cụ thể. Tất cả những ai sống trong xã hội này đều hiểu quy định đó, nếu các hạ hiểu, đây có thể coi như buổi lên lớp dành cho các hạ.

      Lại đến Thái Thượng cảm ứng thiên chú, tập mười tám có nhắc tới những điều cầm kỵ khi hóa tiền vàng, được dùng giấy có tẩm dầu nhóm lửa hóa vàng, nếu tất cả số tiền giấy được hóa “tích thành núi tại thành Đông Nhạc, cõi cõi dương trong trời đất đều chấp thuận.” Cống nạp tiền cho thần tiên tiên giới, cho nha môn nơi phủ, nếu có dính chút dầu uế đó chứng tỏ tôn trọng đối phương, khiến người ta khó hiểu. Có lẽ điều này được bắt chước theo chốn quan trường nên dương thế, thông thường ở đó quan lại mặt vơ vét tiền, mặt lại tỏ ra ham của tanh hôi, chứng tỏ tấm gương sáng “ta đây địa vị cao sang, ham tiền bạc”. Chuyện “hối lộ” nơi cõi còn hà khắc hơn chốn dương gian. Nếu tại dương gian, tiền giấy có màu đẹp mắt có thể từ chối nhận, người có tiền có thể xử lý vấn đề màu sắc. Còn đối với những loại tiền phủ kém chất lượng, loại tiền hợp tiêu chuẩn cõi “tích lại thành núi”, chính là “núi tiền rách” được giới thiệu trong sơn bát cảnh. Chỗ tiền rách, tiền bẩn đó chỉ cần được rửa qua lò lửa trở nên sạch đến mức thể sạch hơn, đến mức có thể cống nạp lên Ngọc hoàng đại đế cũng sao.

      Từ những ghi chép , giữa hai thế giới dương hề có các cơ quan chuyển phát tiền như ngân hàng hay bưu điện, nhưng phải vì thế mà giữa chúng có các quy tắc nhất định. Năm ngoái, tôi có đến ở vài ngày tại tòa nhà Minh Sa ở Triết Giang, thấy tại hành lang ngang phòng khách của khách trẩy hội có chất rất nhiều túi giấy. Tò mò, tôi hỏi vị sư phụ tại đó, sư phụ rằng, đó là “tiền gửi nhà kho”, tức đám khách trẩy hội này hóa chỗ tiền giấy gửi tiết kiệm xuống ti khác, để chuẩn bị cho mình sau này dùng tới. mỗi chiếc túi hình như có in vài con chữ, lúc đó tôi nhìn kỹ, chỉ đoán đại loại đó có ghi địa chỉ nhận tiền. Việc nhận tiền gửi kho ngay từ thời Nam Tống có, chúng ta bắt gặp trong Di kiên chỉ, bà cụ có khoản tích cóp nho , bà bèn đem số tiền đó mua tiền giấy mang vào chùa nộp tiền gửi kho, nhưng bà biết viết chữ, mỗi lần bà đều phải nhờ người nô bộc giúp bà viết sớ. Tờ sớ đó như tờ giấy gửi tiền, có thể thấy trong Phật giáo vốn có cơ cấu chuyên quản lý. tác phẩm khác của người thời Nam Tống viết, đó là Quỷ đồng, những ghi chép trong đó dường như là thể loại khác, tức thế giới phủ có chức quan thẩm phán chuyên phụ trách thu tiền, rút tiền, chuyển phát tiền và gửi tiền, mười hai tháng có mười hai phán quan thay nhau lo liệu, họ của phán quan có hình chữ gần giống với từ chỉ địa chỉ của tháng đó, ví dụ Phán quan Tử Nguyệt họ Vu, tháng Sửu họ Điền, tháng Dần họ Hoàng, v.v… Việc này có lẽ tiện giúp cho người gửi tiền sau khi chết có thể dễ dàng tìm vị phán quan này để rút tiền hằng tháng. Như vậy rất giống với “tiền gửi năm” hoặc “tiền bảo hiểm” của con người ngày nay.

      Nhưng nếu đó là hành vi cá nhân sao? Hóa tiền trước mộ là giao tiền tới tay người thân của mình, như vậy đương nhiên chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng nếu khắp mọi nơi, khắp đầu phố cuối ngõ đâu đâu cũng thấy tàn tro của tiền giấy theo gió quẩn khắp nơi, biết chúng gửi tới phương nào, điều đó thực khiến người ta thể an tâm. Trương Trác người thời Đường viết tác phẩm Tất cả những chuyện chính sử và dã sử, trong tập sáu có chương Đỗ bằng cử, viết rằng, khi hóa vàng phải gọi tên người nhận tiền, người nhận tiền cử người đến lấy. Đây có lẽ là trong các cách để chuyển tiền, dựa vào việc của con người để xét chuyện của ma. Nếu là trả phí cho quan phủ, con người thể gọi tên đối phương ra, lúc bấy giờ biện pháp tốt nhất là gặp mặt giao tiền. Còn hóa vàng cho những người thân, bạn bè ở nơi khác, theo tôi được biết, đa số người ta vẫn dùng chiếc túi giấy đựng đầy tiền vàng, nếu được gói ghém, niêm phong cẩn thận, ghi đó phải là đường nào, phố nào ở diêm phủ, mà là nơi mộ phần của người đó yên nghỉ chốn dương gian. Năm mươi năm trước đây là như vậy, những năm gần đây hình như rất ít bắt gặp túi giấy, mà người ta chỉ dùng “ nắm đuốc” vẽ thành hình vòng tròn, tất cả những gì bên trong vòng tròn đó bén lửa và cháy hết, hoặc rút ra nắm tiền giấy rồi hóa ở bên ngoài cửa sổ, nghe phải trả cước vận chuyển cho nhân viên bưu điện. Đương nhiên, dù là có khoản tiền lớn được giao , lúc này nhân viên bưu điện đó cũng chẳng đưa cho bạn bất cứ giấy tờ chứng nhận nào.

      Còn việc thể , đó là đến đời Đường, tục đốt tiền lan rộng thành trào lưu, nhưng phải tất cả các loại tiền đều buộc phải đem đốt. Vào thời Đường, rất nhiều câu chuyện kể rằng tuy tiền giấy được hỏa hóa nhưng các hồn ma vẫn có thể có được tiền phủ để tiên xài. Như trong chương Vi Lật quyển Quảng dị ký có kể, mẹ ruột thiếu nữ chết cắt tiền giấy thành vàng chín quan, rồi đặt lên chiếc kệ kê bên cạnh quan tài, ngày hôm sau bà phát chỗ tiền giấy thiếu mất ba quan, hóa ra vong hồn của người con dùng số tiền ba quan đó mua chiếc gương đồng đặt vào quan tài. Số tiền giấy đó hề được chuyển xuống phủ, mà qua bàn tay của ma quỷ nó lập tức biến thành tiền đồng, nhưng nếu số tiền đó rời khỏi bàn tay của ma quỷ, lâu sau được khôi phục lại nguyên dạng. thiếu nữ đáng thương hề có ý dùng tiền để lừa gạt con người, bởi trong mắt tiền giấy chính là tiền đồng. Lại như chương Lô Bội quyển Hà Đông ký có ghi, phu nhân của thần đất đến khu mộ ở ngoại thành lấy tiền và rượu cúng tế của thầy cúng, “ nữ tỳ theo thu dọn chỗ tiền giấy rồi chất lên lưng ngựa, vừa đặt lên lưng ngựa chỗ tiền giấy lập tức biến thành tiền đồng. Có thể thấy vào thời điểm bấy giờ, tục hóa tiền giấy chưa hề bị tuyệt tích, hơn nữa sau đời Đường, tục lệ này vẫn còn dấu hiệu tồn tại.

      Có những phong tục mang tính địa phương, như người Sơn Tây coi trọng nhất là tết Hàn thực, trong dịp Tết này người ta cần kiêng kỵ lửa, vì thế vào ngày này tiền giấy được hỏa hóa. Quyển thượng, quyển Chuyện lườn gà của Châu Mật thời Nam Tống có ghi lại, nếu cúng lễ tại mộ, sau khi lễ xong tiền giấy được treo cây, nếu cúng lễ người thân hoặc bạn bè ở nơi khác phải làm “vọng tế”, tức lên núi cao hướng về nơi người thân hay bạn bè của mình yên nghỉ, rồi xé lụa phủ ném vào trung, người ta gọi là “tách tiền”. Bởi tiền giấy được xâu thành từng xấp, do đó, lúc này cần tách chúng ra thành từng tờ rồi ném vào trung, nhờ gió mang chúng . Nhưng tục tách tiền dường như chỉ hạn chế ở vọng tế. Quyển bốn, quyển Di kiên tam chí dĩ tập, chương Tế Nhan Dĩnh có kể, hồn ma đến dương gian, du ngoạn khắp nơi, khi nhìn thấy người cúng mộ tách tiền giấy, nó đau khổ thốt: “ biết cha ta thêm đất mộ ta chưa?” Có thể thấy, khi cúng mộ cũng có thể sử dụng tục tách tiền.

      chỉ ở miền Bắc, mà miền Nam cũng có tục đốt tiền giấy. Trong quyển Mặc khách huy tê, Bành Quái, người đời Tống có ghi rằng, Khấu Chuẩn bị xử tử, triều đình ân chuẩn cho mang xác về quê an táng, khi linh cữu được đưa ngang qua huyện Công An, tỉnh Hồ Bắc, lão bách tính đều ra ngoài đường làm lễ viếng, “họ chặt trúc cắm xuống đất rồi treo tiền giấy lên đó”.

      Còn có tục đặt tiền giấy lên đỉnh mộ rồi dùng đất cục đè lên. Bàn về phong tục đất nước Trung Hoa có viết về phong tục tảo mộ của người Sơn Đông. Người Sơn Đông áp dụng phong tục khi tảo mộ. Nhưng tiền giấy ở đây được hóa thành tro, trộn vào trong đất đỉnh mộ, rồi dùng đất cục đè lên. Như vậy, số tiền giấy này cũng giống như số tiền giấy rải ra đường khi đưa linh cữu tới nơi mai táng, chúng đều liên quan đến hồn ma người chết nằm trong quan tài.

                 4


      Khi sang đến cõi , tiền giấy trở thành tiền phủ, loại tiền phủ này khi quay trở lại dương gian lại biến thành loại tiền được lưu thông ở dương gian. Tuy nó có hạn chế về thời gian, nhưng cũng giống như trò “đấu giá” thị trường cổ phiếu, ở đó có ít những kẽ hở để chúng ta lách léo. Quảng dị ký đa phần viết về chuyển đổi tiền giấy giữa hai cõi và dương. Chương Vi Lật ví dụ, tiếp đến trong Diêm Trắc có viết, Diêm Trắc bí mật hẹn hò với hồn ma nữ, họ từng rất vui vẻ bên nhau. Khi phải chia lìa, ma nữ tặng cho Diêm Trắc trăm nghìn quan tiền, sai tỳ nữ cất xuống gầm giường trong phòng ngủ. Diêm Trắc nhìn thấy, đợi khi tỳ nữ khỏi, Trắc nhìn xuống dưới giường quả nhiên có trăm nghìn quan tiền ở đó. Diêm Trắc chưa kịp dùng số tiền đó vào việc gì chúng nguyên hình thành tiền giấy, quả là Diêm Trắc phụ ý tốt của người tình.

      Trong Dương Nguyên Ánh lại phải sau ba ngày mới biến thành tiền giấy: “Hồn ma của Dương Nguyên Ánh tặng cho con trai ba trăm quan tiền và dặn dò rằng: “Con phải dùng hết chúng trong ba ngày.” Người con trai nghe vậy bèn bắt đầu mua sắm hạn chế, sau ba ngày, các thương gia kiểm tra trong tủ tiền của mình bỗng nhiên xuất tiền giấy.”

      Ngọc đường hiếm thoại của Vương Nhân Dục kể, đêm nọ, người bắt cá gặp người, người đó : “Nếu ngươi bắt ba ba ta cho ngươi tiền.” Người bắt cá đồng ý, liền được cho năm quan tiền. Ông ta mang tiền về nhà, sang ngày hôm sau, ông bỗng nhiên thấy chiếc túi đựng năm quan tiền hẳn . Ông kiểm tra lại, trong đó toàn là tiền giấy. Người mà đêm hôm qua người ngư dân gặp chính là tinh ba ba, hóa ra quái cũng dùng tiền giấy, đêm hình là tiền đồng, ban ngày biến thành tiền giấy, cũng là tương hợp giữa tiền giấy của giới và tiền giấy của dương thế, vừa hợp cái lý thường thấy giữa hai thái cực khác nhau: - dương. Trong chương Quỷ tốt độ khê, tập mười chín, Di kiên đinh chí, tình tiết cũng tương tự như vậy. Các câu chuyện cổ xưa về việc ma quỷ đến dương gian để mua đồ thường vào lúc ban đêm, số tiền mang người hóa thành tiền giấy khi trời sáng âu cũng là duyên cớ như vậy.

      Nhưng những câu chuyện còn tồn tại nhiều vấn đề, chẳng phải tiền giấy sau khi hóa thành tro bụi mới biến thành tiền đồng hay sao? Nếu dựa theo nguyên lý đó “nguyên dạng” của chúng phải là tro giấy mới phải. Nếu sau khi khôi phục nguyên dạng vẫn là hình dáng tiền giấy há chẳng phải lại có thể mang tới tiệm đồ vàng mã bán lần nữa hay sao? Sau khi con người phát ra điểm thiếu sót này, những câu chuyện được viết ra trở nên hoàn thiện hơn. Trong Di kiên chỉ giáp, quyển năm, tại chương Lôi Thần Lôi Châu có kể, Lôi Thần Lôi Châu thưởng cho tên sai dịch phủ Quế Lâm trần gian hai nghìn quan tiền, đường trở về phủ, người này tiêu mất khoản tiền, khi về đến nha môn, trong túi vẫn còn đủ trăm quan, ta bèn giao lên quan phủ, lúc đó vẫn là tiền đồng. Nhưng chỉ trong nháy mắt, chúng biến thành tro giấy. Thời Sơ Thành, trong Từ ngữ mới Quảng Đông, quyển hai mươi tám, Khuất Đại Quan có bàn tới “thành phố ma” của đảo Hải Nam. Hằng ngày cứ vào giữa trưa, ma quỷ lại đến thành phố để mua đồ, khi thanh toán phát ra tiền biến thành tro giấy. Còn trong Tử bất ngữ, quyển mười tám, câu chuyện được kể còn kinh sợ hơn, khi chiếc tay nải đựng ngân lượng được đặt mặt đất, chúng quả nhiên phát ra thanh va chạm của kim loại, nhưng khi mở tay nải ra, bên trong hóa thành tàn tro, chuyển hóa nhanh đến mức như làm ảo thuật vậy.

      Chính vì trong nhà của những người dân thường có xuất tiền giấy của ma quỷ, do đó, các nhà buôn bèn nghĩ ra biện pháp để kiểm tra tiền, đó là cách cho đồng tiền nhận được vào trong nước, nếu chìm xuống là tiền , nếu nổi mặt nước chắc chắn là tiền phủ. Phương pháp kiểm tra tiền này được con người áp dụng từ thời Nam Tống. Chương Những vị khách tại quán rượu Uông Nhất, quyển mười, Di kiên tam chí nhâm tập ghi rằng, có ba người khách xuất tại quán rượu, họ uống rượu xong, thanh toán tiền rồi rời khỏi quán. Về sau, chủ quán biết được ba người này chết cách đây nhiều năm, bèn đem số tiền mà họ trả ném vào trong nước, trong phút chốc tất cả biến thành tro giấy. Từ đó có thể biết rằng, từ rất lâu, người ta biết dùng nước để kiểm tra tiền phủ.

      Chương Họ Trình mua mũ áo, tập mười, Di kiên tam chi chí mậu tập kể rằng, phụ nữ mua chiếc mũ tại gánh hàng rong, khi người phụ nữ khỏi, chủ quầy mới cảm giác số tiền vừa nhận được rất , bèn cho vào trong nước, quả nhiên số tiền đó nổi lềnh phềnh chứ chìm xuống, lúc sau, tất cả hóa thành mớ giấy nát. Trong những câu chuyện thuộc loại này, khiến cho người ta cảm thấy thương xót nhất chính là câu chuyện thứ tám, quyển Liệt hoàng tiểu thức của Văn Bỉnh, người cuối đời Thanh.

      Sau khi đội quân phía Bắc (quân Thanh) rút lui, bệnh ôn dịch hoành hành khắp kinh thành, người chết vì bệnh nhiều vô kể. Có gia đình nhà mười nhân khẩu chỉ trong đêm còn ai giữ nổi mạng sống. Đâu đâu cũng thấy những tiếng kêu rên yếu ớt, khiến người ta đau xót. Giữa trưa, ma quỷ kéo lên phố, mỗi cửa hàng đều đặt thùng nước lớn bên cửa ra vào, tiền thu được đều ném vào thùng nước đó để kiểm tra giả hay .

      Trong tác phẩm Lời bạt về hành trình di cư của Hứa Tinh Dương, Chu Di Tôn có ghi chép, thời bấy giờ, ban ngày ma quỷ thường vào thành phố, dùng tiền giấy gõ cửa từng nhà chào mua quan tài. Thế giới loài người gần như trở thành vùng đất của ma quỷ, dựa theo quan niệm về thế giới bóng đêm của Trung Quốc, những linh hồn ma quỷ có thể hoạt động công khai tại chốn dương gian như vậy, chứng tỏ dương khí của thế giới rất suy yếu, khiến người ta lờ mờ nhận ra những tai họa lớn hơn sắp ập đến.

      Ma quỷ mang theo tiền phủ tới dương gian sử dụng, tính chất của nó giống như việc cố ý dùng tiền giả mua đồ. Nhưng nếu chúng dùng tiền phủ để trả món nợ tại chốn dương gian sao?

      Chương Mảnh đất Tư Thánh, tập sáu quyển Di kiên chi chỉ giáp tập có ghi chép: Phạm Tuân - quan tại huyện Kiến Xương từng vay trưởng lão chùa Thư Thánh trăm nghìn quan tiền, hai mươi năm sau, vị trưởng lão đó qua đời, còn Phạm Tuân cũng quên luôn việc trả nợ. Sau này ông ta lâm bệnh nặng, chuẩn bị sang thế giới bên kia, lúc này, ông gọi vợ con đến và rằng: “Khi ta cưới nàng vay tiền của chùa Tư Thánh, nay thần Gia Lam tại nơi đó sai người thay trưởng lão đến đòi tiền, nàng và các con hãy mau chóng mua tiền giấy hóa cho trưởng lão.” Vợ ông nghe lời, liền đem tiền giấy đốt. Phạm Tuân : “Hai người đó rồi.” Xem ra hai người đến đòi nợ vui vẻ tiếp nhận, hoàn toàn gây khó dễ cho người mang nợ.

      Đây quả là diễm phúc cho những kẻ quỵt nợ, nợ tiền của người ta, lại đợi đến khi chủ nợ chết rồi mới dùng tiền giấy để trả nợ. Nhưng trong xã hội làm gì có chuyện dễ dàng như vậy, vì thế, trong tất cả các câu chuyện ma quỷ, cũng chỉ có câu chuyện vừa rồi là ví dụ duy nhất mà thôi. Chương Viên ngọc phế tử trong Quảng dị ký sớm bàn tới việc người chồng dùng tiền riêng của người vợ quá cố, khi người vợ quay về đòi, người chồng liền : “Việc này đơn giản thôi!”, ý bảo dùng tiền giấy để trả nợ. Nhưng người vợ tức giận rằng: “Chàng dùng tiền đồng của ta, nay lại định dùng tiền giấy để trả ư?” ràng, người vợ đồng ý. Ma về đòi nợ, nhưng nếu dùng tiền đồng để trả số tiền đó lại tới được tay của họ. Biện pháp khá công bằng dành cho ma quỷ là bắt con nợ dùng tất cả số tiền nợ mua tiền giấy hoặc mời hòa thượng đến đọc kinh như chương Thí tam sảo, tập mười , quyển Di kiên bính chí có ghi.

      Đương nhiên cách giải quyết tốt nhất là đem số tiền nợ trả cho người thân hoặc bạn bè của chủ nợ. Trong chương Trở thành thần nhất thiết phải là hiền nhân, quyển hai mươi hai, quyển Tử bất ngữ có kể, hồn ma đòi nợ, khiến kẻ mắc nợ sống trong tình cảnh chết dở, sống dở, kẻ mắc nợ muốn hóa tiền giấy để trả nợ, nhưng hồn ma phải là tên ngốc, nó cười lớn rồi đáp rằng: “Lấy tiền giấy để trả nợ tiền , trong thiên hạ làm gì có việc dễ dàng như vậy! Hãy mau đưa năm trăm quan tiền cho Lý lão gia, ta tha cho ngươi.” Vị Lý lão gia đó chính là bạn của hồn ma. Tác giả Viên Mai quá am hiểu mọi việc thoát tục, biện pháp này là hợp tình người nhất, chỉ là các vị hòa thượng hoặc đạo sĩ của chúng ta đánh mất vụ làm ăn mà thôi.

                5


      Từ những câu chuyện được đề cập ở , bạn đọc nhìn chung có thể biết tiền giấy được sử dụng như thế nào trong thế giới phủ.

      Đôi khi chúng dùng tiền giấy rồi mạo nhận là người sống để đến dương gian mua sắm, những hành vi này đồng nhất với hành vi lừa gạt, muốn tạo ra thế giới hỗn loạn, ở đó người và ma bất phân - đó là việc bất khả thi. Đặc biệt nay, tiền đồng, đĩnh bạc, châu báu đều phải là loại tiền được lưu hành, nếu dùng tiến giấy mà trong tất cả các cửa tiệm đều đặt máy soi tiền, vậy các món đồ được chế tạo thô sơ chắc chắn thể lừa gạt được chiếc máy soi tiền đại ngày nay. Đương nhiên, đám dân cờ bạc nơi phủ cũng có thể dùng tiền phủ đánh cược, cần phải đổi sang thẻ bài khác, còn những hồn ma thích sưu tầm cũng có thể coi tiền phủ là món đồ sưu tầm khá thú vị, nhưng khi đó nó tách rời ý nghĩa gốc - tiền tệ lưu hành.

      Mục đích lớn nhất và chính thức nhất của tiền giấy đó là biếu. Tất nhiên lễ vật ở đây phải là những món quà của gia đình bình thường lại với nhau, mà là những món quà biểu thị lòng hiếu kính quan phủ, đó là những khoản đáp lễ dành cho từ những tên lính quèn cho đến Diêm Vương gia. Cổ ngữ có câu: “Nếu như có ông Diêm La Vương giống như Bao Chửng, có ngấm ngầm hối lộ, kéo quan hệ cũng được.” Câu này con người chúng ta chẳng cần phải nghe, bởi Bao Chửng vốn là quan thanh liêm, nhưng các vị nắm giữ luật pháp dưới phủ chưa bao giờ biết ăn chay là gì cả. Từ lúc vong hồn cất bước đường, những tên lính nha phủ của quỷ đòi “lì xì”, hoặc còn gọi là “tiền công đức”. Các vị nhìn thấy những xâu tiền giấy được treo chiếc cổ trắng đen khác người kia sao? Vì thế phong tục ma chay nơi dương gian, người chết ba ngày phải đốt “tiền lên đường”, đó là tiền biếu cho những tên sai nha áp giải hồn ma xuống phủ. Sau khi hồn ma lên đường, qua các cửa cũng phải tiền, qua cầu cũng tiền, tiền đó được gọi là “qua bến qua cầu, nơi nào cũng có thần ở, đưa tiền được qua”. (Xem chương Lý Bách Niên, quyển mười , Tử Bất ngữ.) Cũng phải! Hơn nữa còn phải đút tiền cho lũ quỷ hoa, quỷ thổ phỉ, quỷ cướp xe… đường . Cứ như vậy, vong hồn mang theo tiền bên mình sao được? Còn nữa, theo thuyết pháp nhà Phật, phủ vừa là giám ngục, vừa là công đường, cuối cùng còn có “văn phòng luân hồi” chuyên xử phạt các linh hồn. Vì vậy, khi lên công đường, thẩm vấn, phán quyết, cứ lần lượt qua từng cửa, cửa nào là phải đút tiền lệ phí, hàm oan cũng phải biếu tiền, bắt nhầm cũng phải biếu tiền, và quy tắc ở đó cũng là ăn cả của bên bị lẫn bên nguyên, núi tiền được hóa xuống ti vẫn chưa đủ. Có người rằng: “Ánh sáng vàng soi phủ khắp mặt đất, chính bởi thế khiến điện Diêm Ma tràn ngập màu đen, hối lộ thực công khai, khắp nơi chìm ngập trong thứ phong khí bại hoại, những cái chết oan xuất mọi nơi, cả gian là màu đen ghê rợn.” (Liêu trai chí dị - Tích Phương Bình). Vì vậy, cho chính xác rằng, việc hồn ma đòi tiền, đối với vong hồn của kẻ dân đen mà thực là việc bất đắc dĩ, còn đối với hồn ma của kẻ giàu sang phú quý, đó là đảm bảo để duy trì quyền uy cũng như sung túc trước khi từ giã cõi trần.

      Có điều ở đây xuất khe hở, phủ có chợ búa, cửa hàng, tiền trong tay những người dân thường cũng chỉ là mấy đồng bạc lẻ, vậy các vị quan quỷ kia nhận chúng để làm gì? Bất kể việc gì cũng luôn có cái lý của nó, cần thiết phải suy nghĩ, đắn đo quá nhiều. Việc quan quỷ nhận tiền đút lót được giải thích với hai lý do sau: hoặc là dưới phủ có xây dựng những cửa hàng đặc biệt chỉ dành cho quan lại đến mua sắm, thậm chí còn có cả những hộp đêm, các câu lạc bộ, tuy hàng đẹp, giá hời nhưng có tiền cũng chẳng thể bước vào những nơi đó, mà tiền ít lại thể vui chơi thoải mái, hoặc là khi ma quỷ trở thành quan, họ cũng giống như những tên tham quan nơi trần thế, ngu muội đến mức chỉ thấy tiền là thứ tốt, thứ hay, có tác dụng hay cũng mang chúng về nhà trước .

      Đối với những người tin vào quỷ thần, khi việc được đưa ra, khó tránh khỏi khiến họ cụt hứng. Dẫu rằng người xưa biết mọi việc, nhưng cũng chỉ biết ngậm miệng làm ngơ. Còn tình hình thực tế là mặc dù người xưa mê tín, nhưng họ vẫn tin, thực tin rằng số tiền giấy đến tay những người thân quá cố của họ chẳng được bao nhiêu, nếu họ chẳng mất công dựng nên những câu chuyện về tiền giấy để luận chứng cho việc này. Trong tâm họ thực tin, nhưng tiền giấy họ vẫn cứ phải đốt, ý nghĩa của việc hóa tiền vẫn tồn tại trong đời sống của con người, mục đích để gửi gắm vào trong đó niềm thương nhớ đối với những người quá cố. Như Đậu Nga trước lúc bị hành hình có với mẹ chồng rằng: “Thưa mẹ, sau khi con chết, mỗi ngày lễ tết và Rằm hàng tháng, nếu có loại hương chắt được ra nước xin mẹ hãy chắt cho con nửa bát, có loại tiền giấy đốt được, hãy đốt cho Đậu Nga trăm tờ. Như vậy là mẹ thương đứa con quá cố của mình rồi đấy.”

      “Rau dại cũng trở thành sơn hào hải vị, tương ớt cũng trở thành rượu ngon.” Chỉ cần con cháu còn nhớ tới tất cả bấy nhiên thôi cũng trở thành bữa tiệc thịnh soạn gì thay thế nổi.

      Cho dù cái mà họ đốt chỉ là phế liệu.




    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 13: La phong sơn đích trầm [1]

      [1] biến mất của núi La Phong.
       

      ra cũng lạ, dù thế nào phủ vẫn là nơi mà mỗi người chúng ta đều phải mà hơn nữa thường chỉ được lần. Nếu xét về lý đó, nó chẳng cần phải dựa vào quảng cáo để thu hút khách như những khu du lịch. Nhưng các vị hòa thượng hoặc đạo sĩ lại nghĩ như vậy, họ cho rằng những phải tạo ra vài cửa sổ tuyên truyền cho Diêm phủ ở chốn dương gian, mà thậm chí còn phải làm sao cho nha môn của ti cũng được chuyển lên mặt đất. Thái Sơn tất yếu trở thành căn cứ địa lý tưởng, dưới núi có sông Nại, núi có hẻm ma, có đỉnh Vọng hương, tên được đặt sẵn, xem chừng chỉ đợi Đông Nhạc Đại đế đến đảm nhiệm vị trí Thiên tử Diêm phủ, làm lễ tại điện Thiên Huống. Đáng tiếc thay, chế độ triều đình cai quản khiến thân phận chính đáng của Thái Sơn lập tức được liệt vào hàng ngũ các nơi cúng tế của triều đình. Tuy rằng từ kinh thành cho đến khắp huyện Phủ Châu, tất cả các ngôi miếu Đông Nhạc (còn gọi là hoàng cung Đông Nhạc) ngập tràn quỷ khí, nhưng ngọn Thái Sơn Ngọc Tống vẫn là đại bản doanh của Đạo giáo chính thống, ngôi vị tế trời, tế đất thể bị thay đổi. Từ Đại Miếu dưới núi cho đến Nam Thiên Môn Đình Ngọc hoàng nơi đỉnh núi, tinh khí của bậc thiên tiên vương đế khắp những con đường khiến Diêm Phán quan phải kính nể, sợ hãi tới mức dám ngẩng đầu lên, kết quả nha môn ti chỉ có thể xây dưới chân núi Thái Sơn. ngờ, chỉ nhãn mác ngàn năm của Thái Sơn Phù Quân (chỉ thần núi Thái Sơn - cái tên do Đạo gia đặt) khiến đỉnh Thái Sơn về mặt địa lý cũng mãi thể trở thành kinh đô của ma quỷ, còn Phong Đô ở Tứ Xuyên lại vô tình trở thành “Quỷ thành” - thành phố của ma quỷ.

      (酆) Phong Đô tức (丰) Phong Đô - Tứ Xuyên ngày nay, cái tên (丰) Phong Đô do Thủ tướng Chu Ân Lai đề nghị đổi từ (酆) Phong Đô sang (丰) Phong Đô năm 1958 nhưng nó thực chất vẫn là cái tên cũ. Trước đời nhà Nguyên, tên chính thức của nơi này vẫn là Phong Đô. Cho đến năm Hồng Vũ đời Minh, có lẽ do cảm thấy bội thu của nông gia có lợi trong việc trị quốc an dân bằng việc tạo thần gây quỷ mới đổi tên thành (酆) Phong Đô. Hơn năm mươi năm trước, cái tên này được đổi lại, âu cũng coi như thoát nạn quy chính, nhưng chẳng có kẻ nào vì thứ gì đó mà sửa tên của cả vùng đất.

      Núi Bình Đô huyện Phong Đô là trong bảy mươi hai vùng đất của Đạo Thu, vốn được coi là vùng đất của thần tiên, sau này trở thành Phong Đô thành quỷ, nghe có hai lý do. là, Đạo giáo có ngọn núi quỷ thần La Phong, còn có tên khác là Phong Đô. Lý do thứ hai xuất phát từ hiểm nhầm, núi Bình Đô của huyện Phong Đô từng xuất hai vị tiên và Vương, hai cái tên “ Quân” và “ Vương” khiến người ta khỏi hoài nghi nơi này chính là nơi “hành tại” của thiên tử Diêm La. Trong Ngô thuyền lực, quyển hạ của Phạm Thành Đại, thời Nam Tống có ghi: cách huyện Phong Đô chừng ba dặm có núi Bình Đô. Tương truyền Tiền Hán Vương Phương Bình và Hậu Hán Trường Sinh đều quy tiên đắc đạo ở đó. Có lò luyện đơn Quân và đền thờ Lưỡng Quân vẫn còn đến ngày nay. Phía sau ông còn nhắc tới, Đạo giáo gọi địa ngục, phủ là cung Phong Đô. Các vị đạo sĩ hỏi: “Cung Phong Đô có phải chính nơi đó?” Vào đời Hán, Vương Phương Bình và Trường Lạc lần lượt lên núi Bình Đô tu luyện để trở thành thần tiên. Dưới chân núi được bao quanh bởi dòng Mân Giang (khu vực thượng lưu sông Trường Giang), cổ nhân từng ghi chép về vẻ đẹp tuyệt vời của núi Động Cung. Nghe Đình Bắc Thần đế là nơi tăm tối chuyên giam hãm các hồn ma. Cả hai lý do đều được ông nhắc tới, nhưng ông thấy bất ngờ trong việc động phủ thần tiên lại biến thành địa ngục Bắc Phong.

                1


      Vào thời Nam Tống, Phong Đô vẫn chưa trở thành quỷ thành, chỉ có Đạo quán tên “Phong Đô quán”. Nguồn gốc của Đạo quán này khá phức tạp, ngay cả Huyền Diệu quán ở Tô Châu, Bạch Vân quán ở Bắc Kinh cũng thể so sánh được với Đạo quán này, bởi nó là nơi “tụ tập, thu nhận tất cả các hồn ma, phân biệt giới tính, giai cấp, học thức”. Ngay từ thời Bắc Tống, chỉ cần tiếng hô từ miệng của “quán chủ Phong Đô” là mấy vạn sinh mạng được tiến hành mua bán xong (điều này xin được kỹ ở phần sau). Còn trong Di kiên chi chí quý tập, Hồng Mại cũng từng : “Nơi mà Đạo giáo gọi là “địa ngục Bắc Cực” chính là nằm ở dưới chân ngọn núi mà Phong Đô quán tọa lạc.

      Nhưng nghiêm túc mà , ngoài hình chữ gần giống nhau, cách đọc giống nhau ra những ngọn núi ven các con sông lớn tại nơi đó khó có thể tạo ra mối liên hệ với núi La Phong - nơi “nằm tại vùng đất thứ mười của kinh thành phương Bắc, chu vi ba trăm nghìn dặm, cao ba nghìn sáu trăm dặm (chương Thiền u vi, tập mười lăm, Chân cáo của Đào Hồng Cảnh thời Đường), càng cần tới những mối liên hệ khác. Nếu tìm hiểu sâu hơn chút nữa về núi Phong Đô khiến chúng ta hiểu được nhiều điều. Nếu liên hệ giữa hai nơi này với nhau chẳng khác nào so sánh giữa nước Brazil của châu Nam Mỹ với huyện Đông Ba của tỉnh Hồ Bắc.

      Nếu theo cách chung chung núi La Phong có thể được xem như loại hệ thống “ phủ” thời cổ đại. Nó ra đời khoảng thời Đông Tấn, xét về mặt thời gian, nó xuất muộn hơn so với hệ thống Thái Sơn Phủ Quân và Diêm La Vương. Nó là sáng tạo của học trò Đạo giáo phái Thượng Thanh thời Tấn. Tuy nó vay mượn ít từ Phật giáo, nhưng xét từ chỉnh thể, nó cố gắng “Hoa Hạ hóa”. Nhưng nó phải là quỷ đô (kinh đô của quỷ) thuần túy, mà là kinh đô chung giữa quỷ và thần, dựa theo quan niệm quỷ thần là của người Trung Quốc cổ đại. “Dưới núi có Động Thiên, bên và bên dưới Động Thiên hề có cung thất của quỷ và thần. núi có lục cung, trong phạm vi nghìn dặm của lục cung là cung điện của quỷ và thần.”

      núi và trong động mỗi nơi đều có sáu cung tương ứng. Người thường khi chết đến cung đầu tiên là cung Trụ tuyệt , những người đột tử vào cung Tông thiên thú tội, hiền nhân, thánh nhân qua đời phải qua Minh thần nại phạm võ thánh thiên cung. Cung thứ tư quản lý họa - phúc - cát - hung, xử lý vấn đề chuyển thế cho các hồn ma sống lại, giết người hoặc làm việc xấu. Cung thứ năm, Tông linh thất phi thiên cung tiếp nạp những loại hồn ma nào được ghi , có lẽ là do danh sách gốc bị thất lạc, đến nay còn tra tìm được nữa.

      Chủ nhân và những người làm việc ở núi La Phong đều do các vị thần “người lai quỷ” đảm nhiệm. Người có địa vị cao nhất tại La Phong được gọi là vua quỷ, hay có tên gọi khác là Bắc Thái Đế Quân. Sau này, tất cả các vua quỷ có chữ “Phong”, “Bắc” đa phần đều là con cháu của Bắc Thái Đế Quân. Tác giả Cát Hồng thời Đông Tấn, trong quyển Sách gối đầu có viết, quỷ đế phương Bắc cai quản núi La Phong, quỷ đế mang tên Trương Hoành, Dương Vân (tức Trương Tử Bình và Dương Từ Vân đời Hán). Đến thời Lương, Đào Hồng Cảnh lại cho rằng danh vị Trương Hoành và Dương Vân quá thấp, nên trong Chân cáo, ông tiến hành sắp xếp như sau: “Viêm Khánh Giáp, tức Cổ Viên Đế là Bắc Thái Đế Quân, cai quản quỷ thần trong thiên hạ, quản lý núi La Phong.” Viêm Đế chính là thần Nông thị, “do minh nên được làm vua”, theo lý mà thần Nông thị phải ở miền Nam, nhưng hiểu sao lại thành vua quỷ phương Bắc.

      Tuy mạo nhận tên Phong Đô để trở thành quỷ thành, nhưng Phong Đô nhất định chịu phủ nhận có liên hệ tới La Phong, đó là bởi mô thức của núi La Phong thực quá xa vời so với nhận thức của bách tính. Cơ cấu mười điện Diêm La vô cùng đơn giản, ngoài Diêm Vương ra, nhiều nhất cũng chỉ có lục tào phán quan, đầu trâu mặt ngựa, Hắc Bạch vô thường khác biệt so với những tên sai nha và huyện quan mà lão bách tính thường gặp là mấy. Nhưng cung La Phong này lại có quy mô như “triều đình”.

      Bắc Đế sống tại cung thứ nhất trong sáu thiên cung. Có hai người theo phò tá là Thượng tướng Tần Thủy Hoàng và Thái phó Tào Mạnh Đức.

      Dưới Bắc Đế còn có bốn minh công, đều là những nhân vật là thầy dạy và bạn bè như Tây Minh Công kiêm lãnh đạo đội quân Bắc Đế sư là Chu Công Đán, Đông Minh Công kiêm lãnh đạo đội quan Đẩu Quân Sư là Hạ Khởi, Nam Minh Công là Chiêu Công Thích, Bắc Minh Công là Ngô Quý Lễ. Thuộc hạ của bốn vị minh công này gồm có hoặc hai vị “thân hữu”, như Hán Cao Tổ Lưu Bang, tiểu bá Vương Tôn Sách đều nằm trong số thân hữa của họ. Chức trách của bốn vị minh công này là “quản lý ma quỷ bốn phương” nhưng họ cũng chia nhau quản lý bốn trong số sáu thiên cung của Phong Đô.

      Cung thứ ba trong sáu thiên cung do “Quỷ quan Bắc Đẩu quân” Chu Vũ Vương làm chủ. Ở thời cổ đại, Bắc Đẩu chuyên quản lý sống chết của con người. “Bắc Đẩu bắt chết” là cách có từ rất lâu, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống con người. Các Đạo sĩ thời Nam Triều muốn né tránh cũng được, họ luôn phải đối đãi với Bắc Đẩu tử tế. Nhưng cũng đại thần tiên quản lý sống vừa mới được sinh ra lâu là Thái Sơn Phủ Quân lại nhận được nể trọng như vậy. Trong quyển Chân cáo có “Thái Sơn quân” Tuân Di thực chất chính là Thái Sơn Phủ Quân, khi đó là trong “tứ trấn”, cùng với Lô Long Công, Đông Việt đại tướng quân, Nam Ba Hầu, mỗi người lãnh đạo cả vạn quân ma quỷ, tuy bề ngoài có vẻ rất hiển hách, nhưng ràng, họ chỉ được sử dụng như những nhân viên cấp thấp, còn tư cách thống trị nữa.

      Còn có “Đại cấm thần” tương đương chức Thượng thư lệnh, “Trung lang trực ” tương đương chức Thượng thư, “Trung cấm” tương đương chức Trung thư lệnh giám, những chức vụ này đều do thế hệ như Hán Vũ Đế, Tôn Kiên đảm nhiệm. Phía Bắc Đế còn có tám thị thần, địa vị tương tự Thị trung, Tử Nguyên Trực (người cưỡi ngựa tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị) và Bàng Đức (người bị Quan Vũ bắt sống) cũng nằm trong số đó.

      Phong Đô có tổng cộng hai thiên môn, Nam Thiên Môn là cửa chính của Phong Đô, đó là cửa của Bắc Đại Đế Quân, còn Bắc Thiên Môn là cửa của Bắc Đẩu Quân. Mỗi cửa có hai gác canh, mỗi gác canh có bốn vị Tu Môn Lang, chức “quan canh cửa” này là chức vị thấp nhất tại La Phong sơn.

      Tóm lại, các đạo sĩ thời Tấn, Lương thu xếp cho La Phong sơn hơn trăm vị vua chúa, quan tướng, trang bị cơ quan đầu não của phủ cách tương đối toàn diện, dựa theo quy mô của triều đình lúc bấy giờ, nhưng họ lại bỏ qua bậc quan lại địa phương ở giới. Trong hệ thống Thái Sơn Phủ Quân, địa vị của Thái Sơn Phủ Quân chỉ tương đương những tên sai dịch bắt bới lũ quỷ phạm tội, để bộ máy quốc gia phủ này có được đối tượng thống trị. Còn La Phong sơn lại chỉ là triều đình bé , là bộ máy có hình thức đẹp mắt nhưng vận hành được.

      Kỳ thực, gia đình thần tiên xuất thân từ tầng lớp quan tướng này quá quan tâm đến việc bộ máy quốc gia của giới có phù hợp hay , cái mà họ cần xây dựng đó là toàn bộ hệ thống phủ, nhân vật chủ chốt của hệ thống này phải là những bậc tiên nhân đắc đạo, còn phủ chẳng qua chỉ là nhánh cuối cùng của hệ thống đó. Trong tác phẩm Chân linh vị nghiệp đồ, Đào Hồng Cảnh viết, thế giới của các linh hồn được phân làm bảy “cấp”, cũng chính là chỉ bảy giai cấp, mỗi giai cấp lại được chia thành trung, tả, hữu. Ví dụ, ở giai cấp đầu tiên, cấp trung là chỉ vị thần tối cao của Đạo giáo nguyên thủy là Thủy Thiên Tôn, hai cấp tiếp theo là cấp tả và hữu chỉ tầng lớp Cao thượng đạo quân và Nguyên hoàng đạo quân.

      Sáu giai cấp còn lại được sắp xếp từa tựa nhau. Các vị quan quỷ tại La Phong sơn (bao gồm cả Bắc Đế, Viêm Đế) đều bị ép xuống giai cấp thứ bảy, cũng là giai cấp cuối cùng. Nếu đặt câu hỏi với Đào Hồng Cảnh: “Vai vế của họ được quy định như thế nào?” Họ quả khách sáo chút nào, tất cả các bậc tiên sư như Vương Phương Bình, Ngụy Phu Nhân, Dương Nghĩa cho đến các bậc phụ lão nhà họ Hứa đều được đưa lên giai cấp thứ hai, và nơi đó đương nhiên có dành chỗ cho Đào Hồng Cảnh.

      Người bạn cũ của Đào Hồng Cảnh, thực ra là Tiêu lão - Hán Vũ Đế - cấp của Đào Hồng Cảnh, sau ki Hán Vũ Đế qua đời, nhờ vào quan hệ cũ, Đào Hồng Cảnh được hưởng đãi ngộ của “đức thánh thượng”, “am hiểm tam quan thư, là kẻ cai quản địa phủ”, vẫn phải qua nghìn năm sau mới lên được chức “Ngũ Đế Tam Quan”, qua nghìn bốn trăm năm sau “mới được du ngoạn vũ trụ, trở thành “trung tiên” của Cửu Cung. Mà trong Cửu Cung, “trung tiên” chỉ tương xứng với tư cách thấp nhất có thể lên triều gặp Thủy Nguyên Thiên Tôn, đến lúc đó, tiên lão có bắc thang cũng chạm tới gót chân của Đào Hồng Cảnh. Đương nhiên, chức quan này vẫn hơn chức coi nhà vệ sinh tại Thiên Cung của Vương Lưu An (người Hoắc Nam) sau khi đắc đạo thành tiên.

      Đào Hồng Cảnh nghĩ ra dụng ý của Chân linh vị nghiệp đồ là để đề cao địa vị của tiên nhân ở mức cao nhất có thể. Cho dù có là thánh nhân hiền thần cũng thể bằng tiên nhân bình thường. “Sỹ tộc thần tiên” thời Nam Triều muốn giả vờ tiếp nhận hương khói chốn nhân gian và khinh miệt quyền vị, nhưng trong thâm tâm giấu nổi những khao khát về quyền thế, tiền của, vì thế mặt họ giẫm đạp lên các vị thánh quân hiền thần dưới gót chân, mặt lại làm “Tể tướng sơn trung” của Hoàng Đế chốn nhân gian. Đào Hồng Cảnh thuộc thành phần đại trí thức với danh hiệu “Hoa Dương cư”, được người đời tôn xưng là người am hiểu Nho - Phật - Đạo, có lẽ họ muốn chỉ việc ông ta lấy thân phận Đạo giáo để ăn cắp đồ của Phật giáo phục vụ Đế vương gia.

                2


      La Phong sơn có sáu Thiên cung, hay còn gọi là “Phong Đô cung”. Vì vậy, nó phải là “địa phủ”. Nó kế thừa truyền thống hồn quay về trời của Trung Quốc. Sau khi chết, con người thành ma, phải qua La Phong báo cáo, ở đó họ có thể tìm thấy địa vị của mình. Đây là thế giới thần quỷ tương đối lớn và phức tạp chứ phải phủ theo nghĩa thông thường.

      Tuy nhiên, việc lại xuất thay đổi đầy kịch tính. La Phong sơn với chủ thể là sáu Thiên Cung hiểu sao lại trở thành địa ngục khổng lồ. Từ đó, “La Phong cung” còn có tên hiệu “ngục La Phong”.

      Trong quyển Chân Cáo của Đào Hồng Cảnh, núi La Phong tuy thu nhận các hồn ma, nhưng lại có địa ngục, bởi núi La Phong hồi đó có chức năng của phủ, hoàn toàn có chức năng giam giữ, thẩm vấn, giám sát, trừng phạt như Diêm phủ quản lý ma quỷ, nó cần địa ngục để làm gì chứ? Rất nhiều ma quỷ ở La Phong sơn thống soái hàng trăm triệu hồn ma, giết ma, chém ma cũng lên con số hàng vạn. Nhưng những tên ma quỷ bị giết phải là hồn ma do con người chết hóa thành, mà là lũ quỷ ôn dịch, quỷ ác, quỷ tà ma, cũng chính là hơn trăm loài ma dược liệt kê trong Kinh thần chú thời Tây Tấn như: ma Xích Sách, ma Xích Vĩ, ma Xích Dịch, ma Đô Lô… Những loài ma đó nhận thống lĩnh của Ma vương, “chúng đông tới cả triệu con, tấn công giết hại dân thường”. Chúng phát tán dịch bệnh cho những người vô tội, vô số người chết vì bệnh, chịu cảnh gia đình phân ly. Chúng truy đuổi thần bếp, khiến tất cả các vị thần trong nhà cho đến con người đều lo lắng yên. Ma quỷ ngừng phát tán hàng nghìn loại bệnh, người dân đau đớn vì bệnh tật, ma quỷ thừa cơ làm tới, tùy tiện tác oai tác quái. Trong Chân cáo thỉnh thoảng cũng có nhắc tới địa ngục, như: “Gieo tội ở trời chịu tội dưới địa ngục…” Đây chẳng qua chỉ là góp nhặt, vay mượn từ Phật giáo, hơn nữa, “địa ngục” ở đây phải nằm trong núi La Phong.

      Nhưng bỗng chốc, trong tác phẩm của phái Linh Bảo ra đời muộn hơn chút so với tác phẩm của Đào Hồng Cảnh, núi La Phong có địa ngục trong đó. Tứ cực minh khoa kinh có nhắc tới núi La Phong, rằng núi, khu vực trung tâm và dưới núi mỗi nơi đều có tám ngục, mỗi ngục có tên gọi riêng, như tám ngục núi gọi là thứ nhất Lam Thiên ngục, thứ hai Bình Thiên ngục, thứ ba Hư Vô ngục, thứ tư Tự Nhiên ngục, thứ năm Cửu Bình ngục, thứ sáu Thanh Chiếu ngục, thứ bảy Huyền Thiên ngục, thứ tám Nguyên Chính ngục. Chủ quản tám ngục núi là Thượng tiên tam quan, chủ quản tám ngục ở trung tâm núi La Phong là Trung tiên tâm quan, chủ quản tám ngục ở dưới núi là Hạ tam quan, tổng cộng có hai mươi tư ngục, nằm ở phí bắc núi Phong Đô.

      Vốn là mười hai thiên cung ở và dưới núi Nam Phong bỗng chốc biến thành hai mươi tư địa ngục ở , giữa và dưới núi. Hai mươi tư ngục mỗi nơi đều có mười hai viên lại (người hỗ trợ quan phủ), lũ đầu vàng, mặt sắt, cực thiên, lực sĩ, mỗi nhóm hai trăm bốn mươi tên, trong tay cầm búa vàng, gậy sắt. Tất cả lũ quỷ phạm tội đều được đưa tới khu địa ngục dành cho chúng, ở đó chúng bị những tên lực sĩ còng lại bằng gậy sắt.

      ràng, đây là mô phỏng địa ngục như trong Phật giáo, được tiến hành cải tạo ở núi La Phong. cải tạo này thực táo bạo, hóa ra Bắc thái đế quân, thượng tướng, thái phó, Tứ minh công cho đến những kẻ chức vị thấp nhất như gác tướng hai khu thiên cung, Tu môn lang, tất cả đều biến mất, thay thế vào chốn cung đình đồ sộ này chỉ là Tam quan và viên lại, lực sĩ của chúng. Sáu thiên cung trước kia, cứ hai thiên cung lập quan, sáu thiên cung lập ba quan, giờ đây trở thành mỗi khu tám ngục có Tam Quan, hai mươi tư ngục có tổng cộng ba Tam Quan. Chức trách của Tam Quan vẫn là xử hình theo tội, nắm giữ quyền tra khảo, cũng có nghĩa là, trong bỗng chốc, núi La Phong từ tiểu triều đình biến thành đại địa ngục.

      Nhưng đây chỉ là phương án cải tạo La Phong cách cực đoan, còn có phương án vẫn lưu giữ được khá nhiều điểm của La Phong cũ, đó là chỉ cần thiết kế thêm địa ngục vào trong ngọn núi thần quỷ trước đây, nhưng quy mô của địa ngục này lại lớn gấp nhiều lần so với “bốn địa ngục kia”. Những tài liệu ghi chép về phương án này có chương Ngọc cách, quyển Dậu dương tạp trở của Đọan Thành Thức thời Đường.

      Chủ quản địa ngục vẫn là người chủ cũ của Cung La Phong: “Viêm Đế chính là Bắc thái đế quân cai quản quỷ thần trong thiên hạ.”

      Địa ngục có luật pháp, được gọi là “tam nguyên phẩm thức, minh chân khoa, cửu u chương”. Sổ sinh tử của địa ngục được phân ra làm sổ “đen, xanh, trắng, đỏ”.

      Hình phạt có “đường mông sơn thạch, phó thái sơn, đường dạ sơn thạch, hàn hà nguyên, tây tân thúy trí, đông hai phong đao, điện phong (còn gọi là lôi phong), tích dạ hà” [2] .

      [2] Những đoạn văn được trích dẫn tại đây sử dụng bản có dấu câu của những năm gần đây, có phần hơi khó hiểu. Tôi thấy rằng, nếu ngắt câu như sau dễ hiểu hơn phần nào: “Đỡ đá núi Mông, Phó Thái sơn, đỡ đá Dạ Sơn, nước Tây Tân chảy ra Đông Hải, Phong Đao, Phong, tích dạ hà”. Ở đây có thể nhầm số chữ, nhưng vẫn có thể hiểu được, tức là bắt quỷ phạm tội phải khuân đá ở núi Mông chuyển lên đỉnh Thái Phong, gánh đá ở núi Dạ Sơn để lấp chặt nguồn nước sông, gánh nước ở hồ Tây Tân đổ ra biển Đông, cũng có nghĩa là bắt quỷ phạm tội phải làm những công việc khổ sai vô ích mà lại dày vò thể xác, để từ đó cải tạo tư tưởng của chúng. Còn về Phong đao, có lẽ là chỉ hai vị quan bên trái và bên phải Phong Đao, điện phong có thể là dùng sét trừng phạt, tích dạ hà chúng ta bắt gặp ở Tứ cực minh khoa kinh, tức là gánh đất ở Mông Sơn để lấp đầy sông Tích Dạ.

      Nơi quản lý địa ngục gồm: “Liên Uyển, Khúc Tuyền, Thái Sát, Cửu U, Vân Dạ, Cửu Đô, Tam Linh, Vạn Lực, Tứ Cực, Cửu Khoa”. Lại rằng, “ba mươi sáu địa ngục”, rồi lại có hai mươi tư ngục, với các tên hiệu: Cửu Bình, Nguyên Chính, Nữ Thanh, Hà Bắc,… Con người phạm năm nghìn điều ác trở thành quỷ ngũ ngục, phạm sáu nghìn điều ác là tù nhân ngục hai mươi tám ngục, phạm hàng vạn điều ác dày xuống ngục Bệ Lệ. Như vậy, người ta có ba mươi sáu ngục, hai mươi tư ngục, năm ngục, hai mươi tám ngục, ngục Ty Lệ và các ngục trong đó đều giống nhau.

      Dậu dương tạp trở - quyển sách viết về truyện cực kỳ ma quái, kể về những việc nhảm nhí, vô căn cứ, còn những quyển sách quý khác cũng thường mắc những sai lầm (Tóm tắt Tứ khố toàn thư). Quyển sách tuy ra đời vào cuối đời Đường, nhưng trong chương Ngọc cách lại ghi lại những điều trong sách Đạo giáo của triều đại trước và những người cùng thời chưa từng biết tới, vì vậy, nó được liệt vào danh sách những “sách quý” còn lưu lại. Có thể suy đoán cách bảo thủ rằng, những ghi chép của Đoạn Thành Thức về Phong Đô thể ra đời sau thời Đường. Núi La Phong lúc này tuy vẫn giữ lại sáu thiên cung, Bắc đế thái quân, Tứ minh công, nhưng khác biệt về tính chất, thực tế chúng tương đương với mười sáu địa ngục (tám địa ngục lửa, tám địa ngục băng) trong kinh Phật, chỉ là chúng được đổi tên và đổi cả chủ cai quản. ràng, núi La Phong còn là núi Nam Phong của các đạo sĩ thời Nam Triều nữa, mà là phiên bản Đạo giáo của “địa ngục Thái Sơn” trong kinh Phật.

      Chỉ có điều, “phiên bản Đạo giáo” này những ăn bớt, mà còn làm mất . Đem so sánh giữa nó và địa ngục trong Phật giáo có ghi có thể nhận ra, các đạo sĩ chẳng qua cũng chỉ là gác thêm chiếc chòi bên dưới chiếc giường của người ta mà thôi, tuy cố gắng khoác lác về số lượng quỷ quan, cũng như địa ngục nhưng tinh thần thể so sánh, cạnh tranh được với kinh Phật. Hơn nữa, thẳng ra, Phật giáo miêu tả cảnh tượng thảm khốc dưới địa ngục đến cực điểm, thực giáo phái nào có thể bổ sung thêm được gì nữa.

      Vận mệnh của hai thái cực tại núi La Phong vững, cũng giống như bậc tiền bối của nó, nó thể tồn tại lâu dài thế gian, quỷ thành Phong Đô có được mô thức của La Phong, La Phong chỉ được lưu lại trong các quyển “sách quý lưu lại” mà thôi.

      Nhưng núi La Phong hoàn toàn biến mất, đến thời Bắc Tống nó lại xuất lần thứ ba.

      Hoàng đế Bắc Tống tôn sùng đạo giáo, từ Tống Chân Tông do “Lai Hòa Thiên Tôn” chuyển thế, đến hoàng đế đạo quân Tống Huy Tông do “Trường Sinh Đại Đế Quân” chuyển thế, tạo thành giai đoạn đại hoàng kim của các thuật sĩ thần tinh, thể khiến các tín đồ Đạo giáo nhòm ngó tới Diêm phủ do mười điện Diêm La chiếm cứ. Thế là vào thời Bắc Tống, Phong Đô lại trở thành sân khấu của Diêm phủ. Quyển năm, cuốn Bảo hồ thanh thoại của Văn Bảo thời Bắc Tống có câu chuyện như sau:

      Năm Hàm Bình thứ ba, đời vua Tống Chân Tông, Vương Hiển trấn thủ Định Châu. Bỗng ngày, đạo sĩ đến tìm gặp, mũ áo rách rưới, tự xưng là “quán chủ Phong Đô”, người đó nở nụ cười đến tận mang tai, tóc tai rối bù như bờm ngựa, đạo sĩ với Vương Hiển rằng: “Hôm qua Thượng đế đưa đến chỗ ta hai vạn linh hồn con người, bởi hai vạn người này chết dưới tay đại nhân, vì thế ta chưa dám đưa vào sổ phủ, nay đến đây xin hỏi ý kiến đại nhân thế nào. Nếu quả ngài muốn giết họ, tên tuổi của ngài nổi danh thiên hạ, nhưng ta phải lấy năm năm tuổi của ngài, xin ngài quyết định.” Vương Hiển cho rằng vị đạo sĩ này là kẻ điên khùng, liền đuổi ông ta . Ngày hôm sau, quân Khiết Đan dẫn hàng vạn binh mã tấn công vùng biên giới, Vương Hiển dẫn binh xông chiến, nhưng cuối cùng bị thua thảm hại, hai vạn binh lính tử trận. Tin báo nhanh chóng truyền tới triều đình, triều đình lấy danh nghĩa sứ thần Khu Mật để triệu Vương Hiển về kinh thành nhưng Vương Hiển vừa lên đường lâu chết.

      Đây là phủ kì quái, địa điểm là Đạo quán, chủ nhân là đạo sĩ. Thiên đế muốn thu thập linh hồn người dưới hạ giới với số lượng lớn như vậy, sao tìm Diêm Vương mà lại tới tìm Vương Hiển, sau khi được ông ta chính thức ghi vào sổ Diêm Vương mới là xác nhận cuối cùng cho sống chết của hai vạn người. Tuy “ thực” chứng minh rằng vị đạo sĩ kia phải kẻ thần kinh, nhưng loại Diêm phủ xác định hình dạng thế này vẫn khiến người ta phải nghi ngờ. Còn đối với những vị đạo sĩ kia, dù mọi người có tin hay họ vẫn cứ tạo ra những thông tin về Phong Đô. Năm Tuyên Hòa thứ sáu, đời vua Tống Huy Tông, có viên quan tên Lâm Nghị, người Phúc Kiến, sống tại Tô Châu, hôm bỗng nằm mơ thấy viên quan mặc áo vàng, tay cầm quyển văn thư, bên trong liệt kê họ tên của mười người, trong đó có Lâm Nghị, người đó : “Chiêu Công đợi ngài đến nhận chức sứ giả Phong Đô, xin nhận chiếu.” Việc này được ghi trong Bạc Trạch Biên của Phương Chước thời Nam Tống. Còn trong quyển chín, cuốn Di kiêm binh chí của Hồng Mại lại , người đó tên là Lâm Nghệ, được chiêu gọi đảm nhiêm chức “Cung sứ Phong Đô”. Còn thêm, Lâm Nghệ là người mộ đạo, ông hiểu việc này như thế nào, bèn : “Đó là chức quản lý ti, đến nếu phải chức hay ho gì.” Câu chuyện này chẳng khác nào hùa theo những câu chuyện kể về những kẻ bị triệu xuống phủ làm Diêm Vương khác, đại để có thể xác định rằng, nếu cung Phong Đô là Diêm phủ người quản lý nó chính là Cung sử Phong Đô. Nhưng cõi ti mới này rốt cuộc có cơ cấu như thế nào ai được biết, hình như nó có quan hệ gì đến núi La Phong cùng với sáu thiên cung kia. Những câu chuyện này ảnh hưởng tới đời sống con người, về sau này cũng thấy chúng xuất nữa.

      Dường như các đạo sĩ từ bỏ việc thử sức xây dựng núi La Phong trở thành Diêm phủ, mà trọng điểm là dồn vào các tác phẩm văn chương viết về “địa ngục Phong Đô”. Lý Xương Linh thời Nam Tống truyền bá cho “Thái thượng cảm ứng thiên”, bàn dến núi La Phong Bắc Đô, đại khái nó dựa cơ sở của các đạo sĩ Nam Triều rồi pha trộn thêm các thành phần của thế hệ Diêm La Vương. Như rằng, có hang động ở ven con sông chảy qua núi La Phong tên là Ảnh Thiên Cung, chu vi ba nghìn sáu trăm dặm với ba trăm sáu mươi ngục. Chủ hang động này là Thái Thiên Quân, trợ giúp cho Thái Thiên Quân bao gồm bốn người, đó là tứ đẩu quân cai quản bốn hướng đông, tây, nam, bắc. những ngọn núi ngoài hang động lại có sáu hang động khác, mỗi hang động lại do đại ma canh giữ, tức phủ Lạc Tào, nhiệm vụ chính là trừng phạt những kẻ có tội. Với cách phân loại như vậy, có thể thấy linh cảm của các đạo sĩ ngày khô kiệt, cùng lắm cũng chỉ là tu sửa, chắp vá, thể nghĩ ra được những điều mới mẻ khác nữa. Kết cấu vua quỷ của thế hệ La Phong thiếu mất ủng hộ và khẳng định của tâm lý văn hóa phủ đại chúng, nó chỉ là dạng hoạt động thầm, cho dù trong các quyển kinh của các đạo sĩ có viết ra hàng trăm lần, cũng chỉ như kẻ ngốc mơ mà thôi.

      Nhưng nỗ lực của các tín đồ Đạo giáo phải hoàn toàn là vô ích. Thực ra, nét đột phá của họ về thế giới phủ chính là mượn việc thần Thái Sơn được Tống Chân Tông phong vị Thiên Tề nhân thánh đế, bắt tay với tín ngưỡng dân gian, khiến Thái Sơn Phủ Quân được “cải trang xuất ” (nếu là mượn xác hoàn hồn quả là hay). Kết quả của cuộc chiến huy hoàng, đưa được mười điện Diêm Quân vào chiếc bọc Đông Nhạc, nhưng ra dài, chỉ có thể tới trong phần sau.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 13: La phong sơn đích trầm [1]

      [1] biến mất của núi La Phong.

                 3


      Núi La Phong dù thay đổi hình dạng nhiều lần nhưng cũng thể cứu vãn được tình thế sụp đổ của mình. Lâu đài Thất Bảo tuy sụp đổ nhưng vẫn để lại những vết tích và câu chuyện đáng để chúng ta xem. trong những vết tích đó là cái tên vô thực: “Phong Đô đại đế.”

      Ngọc lịch bản sao ràng viết đại đế Phong Đô quản lý mười điện Diêm La của địa ngục, làm sao có thể cái tên “vô thực” được? Ngôi miếu thần được xây dựng núi Sao Ly chẳng phải để thờ cúng Phong Đô đại đế sao?

      Câu hỏi khá hay, đương nhiên có thể Phong Đô đại đế chính là Bắc Thái Đế Quân của La Phong Sơn, nhưng Phong Đô đại đế ở núi Sao Ly, dưới chân núi Thái Sơn lại là người bơ vơ, ai giúp đỡ, xung quanh ông có thượng tướng, có thái phó, cũng chẳng có Tứ minh công, quân lính trong cung La Phong ai, như vậy có được tính là Bắc Thái Đế Quân ? Kỳ lạ là, cái ông ta sở hữu lại là mười điện Diêm La và bảy mươi hai ty vụ, chính là toàn bộ các cơ quan thường gặp của hành cung Đông Nhạc. Bên cạnh miếu Phong Đô lại có ngôi đền khác, thờ Linh Phái tướng quân chủ quản sông Nại và Triệu Tương Công chủ quản Sao Ly, cả hai đều là những vị thần cõi trong truyền thuyết dân gian trước thời Nguyên - Minh (Xem Liêu tướng sưu thần quản lý của Nguyên Hình Bản), như vậy càng liên quan gì tới cung La Phong. Vậy , vị Phong Đô đại đế này tách rời với thế hệ La Phong, mà hoàn toàn nhập vào thế hệ “Đông Nhạc - Diêm Vương”, khách sáo chút đây là di dân độc, sáp nhập hộ khẩu vào Thái Sơn. Nếu nghiên cứu thực chất vấn đề, vị Phong Đô đại đế này chính là bộ mặt phụ của Đông Nhạc đại đế. Cái huyền diệu trong đó nằm ở những mẹo hiểm của người đời. Triều đình thờ Đông Nhạc đại đế trong miếu Thái Sơn, ở đó tuyệt đối thể có chút quỷ khí nào. Nhưng việc “Thái Sơn trị quỷ” được lưu truyền từ lâu, lẽ nào nay lại cắt đứt truyền thống đó? Bách tính và những đạo sĩ lang thang được đặt chân vào miếu Thái Sơn, họ bèn lập ra vị thần Thái Sơn cai quản ma quỷ khác tại núi Sao Ly. Nếu vị thần đó được gọi là “Đông Nhạc đại đế” có lẽ họ muốn tìm cho mình mất tự do. Cũng may, “Bắc Thái Đế Quân” nhàn rỗi, nên muốn đưa ngài qua bên Sao Ly, đổi tên thành “Phong Đô đại đế”. Thế là vạn đại cát, mãi đến vài trăm năm sau (khoảng thế kỷ XX), trước khi miếu Phong Đô bị chủ nghĩa quân phiệt xóa bỏ dưới hình thức ngăn cấm mê tín rồi đốt rụi, nó vẫn là nơi yên bình, ngừng có khách ghé thăm.

      Lại về Ngọc lịch bản sao, bộ sách pha tạp nhiều loại tôn giáo này lại định coi Phật giáo là quyển “sách thiện” - cả. Nó xuất vào khoảng giữa năm Càn Long đời Thanh, trong đó, cơ quan chỉ đạo cao nhất của mười điện Diêm La cũng chính là Phong Đô đại đế, mà Phong Đô đại đế lại đại diện cho Ngọc Hoàng thống lĩnh Diêm phủ. (Ngọc Hoàng đại đế là Thiên đế trong tín ngưỡng của người trần, cho dù có bị khỉ trèo lên cổ phóng uế bừa bãi, triều đình cũng can thiệp. Còn ông tổ vạn tuế gia “Ngô Thiên Thượng Đế” lại gặp được.) Trong quyển sách đó cũng tìm thấy bóng dáng của Đông Nhạc đại đế. Phải biết rằng “Đông Nhạc - Thành Hoàng” cộng thêm mười điện Diêm La, từ đời Thanh được tất cả các quan phủ công nhận là thế hệ phủ, miếu núi Thái Sơn tuy thể xuất ma quỷ, nhưng bao gồm tất cả các miếu Đông Nhạc (hay còn gọi là Đông Nhạc hành cung) trong cả nước cũng phải tụ điểm xuất ma quỷ. Nhưng tại sao Ngọc lịch bản sao lại đem Đông Nhạc đại đế đổi thành Phong Đô đại đế, bởi nó muốn Đông Nhạc đại đế dẫn mười điện Diêm La xuống gặp Diêm Vương (nghe là hóa thân của Quan Thế Bồ Tát) để quỳ lạy làm đại lễ! Điều này cũng tương tự chứng tỏ Đông Nhạc đại đế tự tìm tới cuộc sống mất tự do, vì thế cũng chỉ có dùng thủ đoạn bịp bợm ngấm ngầm để khiến Đông Nhạc đại đế xuất đầu lộ diện dưới danh nghĩa của Phong Đô đại đế.

      Ngoài cơ hội , Phong Đô đại đế còn nhiều cơ hội xuất khác. Hãy nhìn xem! Cả nước có nhiều miếu Đông Nhạc đến vậy, tuy có toàn bộ các cơ quan chủ đạo của ti, nhưng có nơi nào từng xuất bóng dáng của Phong Đô đại đế? Chủ nhân thực xuất , kẻ thế thân tiện ló mặt nữa.

      Vết tích thứ hai là để lại nơi phủ cái tên được Trung Quốc hóa, “Phong Đô ngục”.

      Xuất bởi nguyên soái Phong Đô lưu truyền trong dân gian triều Nguyên. Gọi là nguyên soái, nhưng địa vị và danh hiệu thực chất của ông hề ăn khớp với nó, bởi thực tế, ông chỉ là “ngục thần”. Câu chuyện này xuất trong chương Mạnh nguyên soái, quyển năm, cuốn Tuyển tập các vị thần lưu truyền trong tam giáo, nội dung câu chuyện đại khái như sau:

      “Ông họ Mạnh, tên Sơn, là viên quan ngục. Cuối đông, ông thấy nhớ gia đình, người thân của mình. Đồng cảm với hàng trăm tù nhân ở ngục, ông với họ rằng: “Ngày hai mươi lăm này ta cho các ngươi về nhà, ngày mồng năm đầu tháng các ngươi phải quay lại ngục.” Đám tù nhân khóc lóc cúi chào tạm biệt. Chủ phủ Tất Công biết tin dùng gậy đánh phạt ông, rồi lệnh cho quân lập tức bắt tất cả tù nhân lại. Mạnh Sơn suy nghĩ rồi : “Chết có gì khó, nhưng lệnh đó khó mà rút lại được.” Thấy cây thương nền đất, ông lao tới, dùng cây thương để tự sát. Trước kia có con thỏ trắng rất nhiều lần bị đâm bởi cây thương này mà vẫn chết. Bỗng Ngọc Đế hạ chiếu phong Mạnh Sơn làm “nguyên soái Phong Đô”.

      “Thả tù” xuất nhiều trong lịch sử, bắt đầu từ sau vị Chung Ly Ý thời Đông Hán, mà đại diện nhất là Đường Thái Tông, chỉ dựa vào việc này mà được Ngọc Đế phong vị thực phúc đó chẳng tới lượt Mạnh tiên sinh. Đây chẳng qua là do người đời muốn viết truyện cho nguyên soái Phong Đô xuất từ đây, để sau đó trở thành “người nhà” mà thôi. dương gian, Mạnh Sơn là quan cai ngục, sau khi lên trời ông cũng được giao chức quản ngục, bởi ông cai ngục Phong Đô, vì thế ông được gọi là nguyên soái Phong Đô.

      “Ngục Phong Đô” chính là địa ngục do núi La Phong biến thành, như .

      Thời Đường, khu địa ngục của Đạo giáo này bị Phật giáo lạm dụng. Trong Những chuyện tương truyền thời Đại Đường có câu chuyện cười như sau: người có học rất thích ăn món đầu trâu luộc nước muối. ngày nọ, ta nằm mơ thấy mình bị bắt xuống địa phủ. “Ngục Phong Đô có đầu trâu bên cạnh”, người này hề cảm thấy sợ hãi, đưa tay lên vò vò đầu, : “Cái đầu trâu này có thể luộc lên ăn!” Đầu trâu là quân tốt dưới địa ngục, là trong những nhân vật trong địa ngục của Phật giáo, nhưng giờ đây địa ngục này được gọi với cái tên “ngục Phong Đô” rồi. Đương nhiên đó là mánh khóe quen thuộc của tín ngưỡng dân gian, nhưng La Phong được địa ngục hóa, có lẽ là cách hiểu của con người lúc bấy giờ. Đến thời Bắc Tống, trong quyển Đàm uyển của Khổng Bình Trọng có cách “Phong Đô tạo ngục”, cho đến thời hậu Nam Tống, cách “ngục Phong Đô” ngày càng được nhiều người tiếp nhận. vị đạo sĩ tên Lâm Linh Chân biên soạn cuốn sách với tên gọi rất hoành tráng Linh bảo lĩnh giáo tế độ kim thư, đưa ngục La Phong liệt vào vị trí đầu của chín đại địa ngục, những địa ngục còn lại là Cửu U, ngục Thành Hoàng, ngục Ngũ Nhạc, ngục Tứ Độc, ngục phủ Tuyền Khúc, ngục Ly Vực.

      Trong Di kiêm chi đinh của Hồng Mại, chương em Lý Mộng Đán, quyển mười có kể, cả nhà người học trò của Nhiêu Châu tên là Lý Mộng Đán mắc bệnh ôn dịch, lũ quỷ ôn dịch cứ đeo bám gia đình ông chịu buông tha. ngày, Mộng Đán mơ thấy vị thần đến : “Gia đình ngươi bị quỷ ôn dịch làm hại, ta giúp ngươi áp giải chúng đến Phong Đô rồi.” Trong chương Thầy cúng miếu Kim Sơn, quyển ba, cuốn Di kiên chi mậu kể, thầy cúng tức giận với con quỷ rằng: “Bây giờ ngươi hối hận muộn rồi, thần linh vô cùng phẫn nộ, ra lệnh thu lại hồn phách của ngươi rồi tống ngươi xuống Bắc Phong. Cái chết của ngươi cận kề, ta có cách nào cứu được ngươi đâu.” Chương Ngôi nhà của Lý Hạng, quyển ba, cuốn Di kiên chi mậu viết, pháp sư chỉ trích quỷ rằng: “Nếu ngươi ngoan cố chịu xuống phủ thầy cúng tìm mọi cách để giải ngươi đến Đông Nhạc Phong Đô, lúc đó đừng có hối hận.” Chương Nữ tỳ của Trương tri huyện bị ma ám, quyển bốn, cuốn Di kiên chi quý, pháp sư tức giận quát: “Ngươi là mà phương nào? Mau cho ta biết. Nếu ngươi , ta bắt ngươi giải xuống vô gian ngục Bắc Phong.”

      Phong Đô, Bắc Phong, Đông Nhạc Phong Đô, vô gian ngục Bắc Phong, tất cả đều chỉ cùng nơi, tức ngục Phong Đô, là nơi chuyên bắt giam nghiêm khắc, tàn khốc và khó khăn nhất dành cho lũ tà quỷ, ác quỷ và quỷ ôn dịch. Đương nhiên, nó cũng là nơi xử lý những người ác độc và vô nhân tính. Trong tác phẩm Tiền đường di - những việc còn lại về ao tiên của Lưu Nhất Thanh đời Nguyên có kể, bè lũ Tần Hội bị áp giải tới “Phong Đô”, toàn thân bị trói, vô cùng đau đớn. Ngục Phong Đô này dù gần với Phật giáo (vô gian ngục Bắc phong) hay gần với Đạo giáo (Đông Nhạc Phong Đô) chúng đều chuyên chỉ địa ngục chứ phải Diêm phủ, điều này quá ràng. Sau triều Minh - Thanh phổ biến cách coi Phong Đô là địa ngục đen. Trong tác phẩm Quảng dương tạo ký, Lưu Hiến Đình ghi chép rằng, thầy cúng khi tiến hành “ma thành pháp”, có thề rằng: “Chỉ mong đời này đạt được vinh hoa, phú quý, dù tổ tiên bảy đời có phải vào Phong Đô cũng cam lòng.” Chương Quỷ răng, quyển mười, Tống sinh, quyển mười lăm, Hoa sen hay quyển hai mươi hai trong Tử bất ngữ của Viên Mai cũng đều coi Phong Đô là địa ngục.

      phủ và địa ngục của Trung Quốc có khác nhau, địa ngục là chỉ cơ quan trực thuộc của phủ. Chức quan của Mạnh Sơn nguyên soái chính là chức giám ngục trường dưới phủ. Trong tác phẩm Xem xét toàn bộ giới thần tiên các thời đại, Lưu Nhất Thanh, người triều Nguyên có liệt kê ra hệ thống các Diêm phủ được Phật giáo hóa, ở đó Bồ Tát là giáo chủ thế giới bóng đêm, bên dưới gồm mười điện Diêm Vương, vị trí sau Diêm Vương còn có “quỷ vương Phong Đô”, vị quỷ vương này phải là Phong Đô đại đế, mà chỉ có thể là Phong Đô nguyên soái cai quản địa ngục mà thôi.

                 4


      Điều quan trọng nhất còn lưu lại của Phong Đô là “quỷ thành Phong Đô”. Lần đầu tiên tôi được biết ở Tam Hiệp có ngôi “quỷ thành”, tôi được nghe thông tin đó trong bản tin của đài phát thanh khi tôi học cấp hai, từ đó về sau, tôi luôn mong muốn được đến nơi dó. Nhưng đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, lần đầu tiên tôi được qua Phong Đô, tôi nhầm tưởng rằng, “quỷ thành” chính là huyện thành của Phong Đô. Khi tàu cập bến, trời nhá nhem tối, Phong Đô chìm trong màn đêm đen kịt, những ánh điện mờ mờ heo hắt, gió sông hắt hơi ẩm vào người đường, tạo cảm giác lạnh thấu tim bỗng nhiên ập tới. Tôi đứng boong tàu nhìn về phía thành phố tối đen đến mức nhìn nổi thứ gì, tưởng tượng ra thành trì với những ngọn gió từ cõi thổi đến cùng với những bóng ma lởn vởn như trong các câu chuyện. Bây giờ nghĩ lại thấy mình buồn cười.

      Sau này, tôi đọc những ghi chép có liên quan, mới biết được rằng “quỷ thành” thực chất nằm trong thành phố Phong Đô mà nằm ngọn núi nổi tiếng bên ngoài thành, cách thành Phong Đô chừng hai ba dặm (tức núi Bình Đô, hay còn gọi là núi Bàn Long). Người dân Phong Đô có cuộc sống bình thường như những người khác, nhưng thi thoảng cũng có những tin đồn ma quái, ví như câu chuyện Tẩu vô thường trong tác phẩm chuyện ma của Chúc Doãn Minh, người triều Minh:

      Thường có người đường, vai gánh gánh nặng, bỗng nhiên quẳng gánh xuống, nhảy lên vài cái rồi lăn đùng ra đất bất tỉnh nhân . Người đường và người nhà tuy thấy vậy nhưng cũng đưa cứu chữa, mà chỉ ngồi bên cạnh chờ đợi. Có khi là nửa ngày, có khi là ngày, cũng có khi phải qua cả đêm người đó mới tỉnh lại. Do nhiệm vụ dành cho ma quỷ ở dưới cõi quá bận rộn, đội ngũ quỷ đủ dùng, nên chúng tới dương gian tìm mượn nguồn nhân lực, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng thả người đó trở lại dương gian. Đối với những nhiệm vụ phải sai dịch nặng nhọc cũng vậy. Tất cả những tượng này được gọi là “Tẩu vô thường” và ở Phong Đô thường xuyên xảy ra những việc như vậy.

      Đây là lời của đồng nghiệp người Phong Đô tận miệng cho tác giả nghe. Cho dù người cộng đó dựng chuyện những việc động kinh co giật ngoài đường gần như cũng chỉ là diễn trò mà thôi. Lẽ nào ngay từ triều Minh, huyện Phong Đô để ý đến giá trị thương mại của cái mác “quỷ thành” rồi sao?

      Cái mác “quỷ thành Phong Đô” đương nhiên thể chỉ dựa vào “diễn trò” để quảng cáo, nhưng nếu khăng khăng gọi phố núi xinh đẹp như vậy là Diêm phủ những khiến người khác khó chấp nhận, mà hậu quả của nó cũng chẳng tốt đẹp gì. Vì thế, Diêm phủ ở núi Bình Đô phải ở dưới lòng đất, cách biệt với xã hội loài người, nhưng cả hai lại tương thông với nhau. Đó chính là sơn động “sâu hoắm” được nhắc tới trong phần Ngự sử Phong Đô của quyển Liêu trai chí dị. Tương truyền rằng, trong động là nha phủ Diêm La nhưng chưa từng nhìn thấy những kẻ như đầu trâu mặt ngựa chui vào trong đó công tác bao giờ. Như vậy, chứng cứ chỉ có thể được lấy từ phía dương gian, tức tất cả những dụng cụ của cõi ti bên trong động đều do huyện Phong Đô cõi dương gian cung cấp, “gông xiềng và phủ bại chuyên quyền trong động phủ”. Hang động này rất nổi tiếng, theo Dụ Khúc Nguyên , đây chính là động Ngũ Vân của Bình Đô, vốn là địa danh gắn với tích tiên. Trong tác phẩm Chỉ văn lục của cư sĩ Dung Nột (năm Đạo Quang, đời Thanh) cũng ghi chép rất về các dụng cụ hành hình của ti, ông rằng “Vào năm Khang Hy, Hà cử nhân nhận chức tri huyện huyện Phong Đô. Khi đến nhận chức, ông thấy trong quyển Những điều cần biết có ghi chép về các loại dụng cụ như kẹp tay, còng tay, cùm chân, gông gỗ,… Trước đông chí phải mang tất cả vào hang động, diêm phủ cử người chuyển chúng .

      Nhưng trong Tử bất ngữ, Viên Mai lại đó là chiếc giếng, “Huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên, tục truyền là nơi trao đổi giữa người và quỷ. Trong huyện có chiếc giếng, hằng năm, tất cả tiền giấy hóa xong đều được mang đổ vào đó, tổng khoảng ba nghìn quan tiền, vì thế còn được gọi là giếng “nộp tiền lương thực cho ti”. Nếu người nào tiếc của đốt tiền năm đó ắt mắc ôn dịch. Hành động này có thể làm tăng độ nổi tiếng của địa phương! Ba nghìn lượng bạc phân bổ cho dân gánh vác, mua lượng tiền giấy đủ chất thành ngọn núi, là núi có to chút hay chút cũng chẳng thể nhìn ra được, vì thế, trong quá trình giao dịch tất nhiên có kẻ giở mánh, và phần hời đó tất nhiên thuộc về đám quan lại. Nhưng Chỉ văn lục lại đến chiếc giếng cạn khác, chiếc giếng này nằm phía trước điện Diêm La của núi Bình Đô, “giếng sâu đến hàng chục trượng, khi người đường đến đó, vị sư trong miếu đốt sợi dây làm từ tre trúc ném xuống để chiếu sáng nó, giếng sâu hun hút, tương truyền làm như vậy có thể thông tới phủ”. Chiếc giếng này có lẽ là “tài sản tư hữu” được các hòa thượng đào cho miếu thờ. Việc xuống giếng du lãm là điều thể thực được, nó chỉ có thể thu hút khách du lịch đến ngó qua lát, rồi vào trong Phật đường thắp nhang hành thiện tích đức, như vậy thôi cũng có thể lưu lại được chút tiền hương hỏa.

      Động và giếng đều có những câu chuyện tương ứng phụ kèm theo, nhưng phần lớn chúng đều na ná nhau, đại khái chúng đều rằng, có viên quan hoặc thân sĩ chưa từng tin vào tà ma vào trong động, ở đó ông ta gặp được Diêm La Vương, khi ra đến ngoài động ông lập tức tin vào tà ma. Những câu chuyện như thế này được tuyên truyền rộng khắp thông qua ngòi bút của Bồ Lưu Tiên và Nguyên Tử, và chúng được xã hội rất hưởng ứng. Giả như tôi có dịp xuống đến Phong Đô du ngoạn, nhất định phải hỏi thăm chiếc động và chiếc giếng mà hai vị Bồ Lưu Tiên và Nguyên Tử viết. Ngày nay chúng ta cũng thường bắt gặp các địa phương muốn trở nên nổi tiếng, họ mời vị văn nhân nổi tiếng nào đó giá lâm, người đó có những cảm nhận sâu sắc về thời cổ xưa, rồi bỗng nhiên nguồn cảm hứng trong họ dâng lên cách khó tả, những tác phẩm đắt giá cứ thế ra đời, mong muốn làm cho cung Trường môn trở thành cung điện vàng, có lẽ cùng xuất phát từ gợi ý này mà ra.

      Chỉ có những vị quan văn thân sĩ của triều đình mới có tư cách tham quan phủ dưới mặt đất, người thường như chúng ta vào kết cục chỉ có thể dùng câu “ cần phải hỏi”, ngay cả hy vọng “ ra trong tư thế nằm” (xác chết) cũng rất mong manh. Vì thế, chúng ta chỉ có thể nhìn ngắm “quỷ thành” mặt đất mà thôi. Điều mà tôi luôn thấy hứng thú đó là, ở đó, ngoài tất cả lính tốt trong điện Diêm La, ngục La Phong mà ở những miếu Đông Nhạc khác chúng ta có thể nhìn thấy ra, còn có những cảnh quan độc đáo khác mặt đất như Quỷ môn quan, cầu sông Nại, đầm Huyết Hà, đài Vọng hương… Nhưng đợi đến những năm 90 của thế kỷ trước, khi lần nữa tôi có cơ hội đến thăm quỷ thành, nhưng đường tôi lại mua được vé xuống thuyền. Lý do có hơi gượng gạo, bởi tôi từng tham quan “Vinh Quốc Phủ” mô phỏng, thoáng chốc nó chuyển cái khí chất quý tộc của Hồng Lâu Mộng sang trình độ của kẻ nhà quê giàu có mà tầm nhận thức hạn hẹp, khiến phải mất thời gian dài tôi mới có thể mời Giả Thái Quân ra khỏi ngôi nhà sang trọng mà chiều cao, chiều sâu đủ lấy trượng [3] . Vì thế, cứ khi nghĩ tới việc “cầu sông Nại” của quỷ thành là cây cầu Tam Thạch nhiều vòm được Thục Hiến Đế Chu Xuân triều Minh cho xây dựng và tu sửa ở phía trước điện Liêu Dương, và khi đầm nước phía dưới được nhân tiện gọi với cái tên “đầm Huyết Hà”, tôi quyết định từ bỏ việc tham quan, vì sợ rằng nó phá hỏng vẻ “hùng tráng” u khốc liệt và bi thảm của giới phủ trong tưởng tượng của tôi.

      [3] trượng: xấp xỉ 3,3 mét.

      Nhưng lần này vẫn là tôi nhầm. Thuyền đến Phong Đô đúng vào lúc xế chiều. Phong Đô là phố núi sạch , cổ kính, mộc mạc, đầy tình hiếu khách, nhưng ở đó lại có nơi nào gọi là đặc biệt, có điều khi nhìn về phía đông bắc, con đường núi ngoằn ngoèo tựa sống lưng rồng vươn tận lên đỉnh núi. Đó là khu kiến trúc cổ nấp trong những tán cây xanh, biết là chùa hay điện tiên, dưới chiếu rọi của ánh nắng xế chiều, chúng bỗng trở nên rực rỡ, sáng chói, nếu nơi lưng núi vắt ngang dải mây quả thực, quang cảnh lúc đó tuyệt đẹp tựa chốn bồng lai. ngờ, “quỷ thành” lại đẹp như vậy!

      bất ngờ này là do hiểu biết của bản thân mình. Sau khi về nhà, tôi lật sách ra mới biết, từ xa xưa, núi Bình Đô chính là nơi động thiên đất phúc dành cho tiên lưu lại, những vết tích của hai vị tiên , Vương chính là tiêu điểm của ngọn núi này. Vào thời Đường, ở đây xây dựng Tiên Đô quán đầu tiên của Đạo giáo. Theo Đoạn Văn Xương có ghi chép, “vầng sáng của ngọn núi được phát ra từ vai tiên, mây khói bay ra từ ông tay áo của tiên”, quả thực là tiên cảnh xinh đẹp mà bí . Từ thời Nam Tống có truyền thuyết về Phong Đô, muộn nhất là đến đầu thời Minh, tại núi Bình Đô xuất quần thể những ngôi đền thờ cống Diêm La, Địa Cung và thần thổ địa. Từ đó có Đạo quán, Phật vũ, Phật tự tọa lạc nhầm ở đó, đến Chỉ văn lục cũng viết, vào năm Đạo Quang, “ núi có mười bảy ngôi đền”, có thể coi đây là thời kỳ thịnh vượng nhất của núi Bình Đô. Nhưng trong những ngôi đền, chùa này, địa bàn của quỷ rộng bao nhiêu, ai . Còn nay, điện Bình Đô trở thành nơi tai họa, khủng khiếp đến mức có chút căn cứ nào để làm minh chứng cho nó trong quá khứ. Cũng may vào năm 1953, ông Vệ Huệ Lâm - Giáo sư Học viện xây dựng kiến thiết nông thôn Trùng Khánh có tới khảo sát Phong Đô, sau đó ông viết Điều tra tôn giáo phong tục Phong Đô, quyển sách của ông có thể coi như thể được tình hình thực tế của Phong Đô trong xã hội cũ. Tôi xin trích ra số địa danh có liên quan đến ma quỷ hoặc có thể cảm nhận được khí phách cổ trong bài luận như sau:

      Núi Bình Đô là mảnh đất Thánh về tôn giáo Phong Đô, điện Diêm La Thiên tử được tất cả những người mê tín cả nước biết đến chính là nằm đỉnh ngọn núi này. Rất nhiều các điện miếu tập trung núi. Từ phía đông bắc huyện thành qua cầu về hướng bắc chính là con đường dâng hương lên núi. Phía tây có điện Tiếp Dẫn, điện Bắc Nhạc, cung Văn Xương, phía đông có điện Đông Nhạc, miếu Hỏa Thần, miếu Lôi Tổ, trái phải song song với nhau. Giữa điện Đông Nhạc và điện Tiếp Dẫn có mười bậc để lên phía , tại chỗ rẽ thứ nhất có điện Thổ Địa và điện Thần Môn, tất cả đều là những ban thờ khá lớn. Tiếp tục lên mười bước tới giới Dương, cạnh cửa là điện Giới Quan. Phía đông bắc giới Dương chính là điện Nhãn Quang và điện Viên Giác. Tiếp tục từ chỗ giới Dương lên mười bước thấy tượng Phật Quan nghìn mắt nghìn tay, phía nữa là điện Báo Ân, tiếp tục lên mười bước là điện Tam Quan, tiếp tục lên nữa qua cửa núi - tức điện Đại Hùng, phía trước điện này có cây cầu gọi là cầu Nại Hà. Dưới chân cầu là cái đầm - gọi là đầm Huyết Hà. Phía đông cầu Nại Hà là điện Địa Tàng, phía tây là điện Tướng quân Huyết Hà, ở đó có ban thờ. Từ phía bên phải điện Đại Hùng tiếp lên phía mười bước nữa là tới điện Tinh Chủ. Bên phải điện Tinh Chủ có bậc thang đá tên Ba mơi ba ngày. Tại nơi tận cùng của bậc thang đá, bên trái là điện Vương Mẫu, bên phải là điện Ngọc Hoàng. Tiếp tục mên theo bậc thang đá lên gặp điện Bách Tử, lại men theo bậc thang đá phía sau điện Bách Tử lên theo hướng bắc tới điện Thiên Tử. Cửa sau của điện Thiên Tử được gọi là Quỷ môn quan. Từ Quỷ môn quan theo hướng tây nam xuống gặp đài Vọng hương. Từ đây xuống tới con đường dẫn đến nơi dâng hương. Phía sau chân núi Phong Đô có hai ngôi miếu, là chùa Trúc Quốc, là miếu Lão Quan.

      Trong hơn ba mươi điểm phong cảnh , có liên quan tới ma quỷ chỉ đầy mười nơi. Nơi chính điện chỉ có điểm đó là điện Thiên Tử, Giới Quan, Địa Tàng, điện Tướng quân Huyết Hà lại gần giống với điện thờ hoặc khán thờ bên cạnh cửa nhà của người dân, còn lại có mấy điểm gần đài Vọng hương, có lẽ đều là những cảnh vay mượn theo thời thế, có tác dụng điểm xuyết cho nơi này mà thôi. Hơn nữa, nếu là Bồ Tát Địa Tàng của giáo chủ giới phủ lại để cho tên Tướng quân Huyết Hà vô danh tiểu tốt qua mặt, Quỷ môn quan - nơi vào cõi lại được mở ở phía sau điện Thiên tử, rồi lại đến thần “Tam Thanh” - vị thần tối cao trong Đạo giáo lại được xuất tại giới Dương, muốn lễ bái Phật Như Lai trước tiên phải qua cầu Nại Hà, tất cả đều hoàn toàn chú ý tới quy tắc tối thiểu của linh giới, từ đó cũng có thể nhìn ra việc sắp xếp tại “quỷ phủ” hoàn toàn theo thứ tự thời gian, nó chẳng qua chỉ là chêm vào các lỗ hổng trong những công trình kiến trúc vốn có, hoặc họ chen chúc nhau bán hàng dưới tấm biển in chữ vàng của người ta.

      Nhưng đoạn ghi chép dưới đây của Vệ Huệ Lâm khiến tôi rất thích thú, đặc biệt câu cuối cùng ông :

      Những ngôi miếu thần của núi Bình Đô với lối bày trí hỗn tạp này, chúng tồn tại trong dân gian giống như bước vào tiệm bách hóa của Trung Quốc, khiến người xem ngơ ngác hiểu gì cả. Tuy nhiên tôn giáo của người Trung Quốc thực tế cũng hỗn tạp, loằng ngoằng như vậy.

      đến hỗn tạp trong tôn giáo dân gian của Trung Quốc, bất ngờ tôi nghĩ tới vách đá tiên tại thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc. Ở đó, cạnh tranh giữa Phật giáo và Đạo giáo hoàn toàn bị tan biến trong vòng tay rộng lớn của tín ngưỡng dân gian, dãy những hang đá giống như những cửa hàng tạp hóa, khiến người ta vừa cảm nhận thấy thứ tín ngưỡng đa thần - tin tất cả các loại thần, vừa cảm thấy thứ tín ngưỡng phi thần - mọi thứ đều nằm ở con người. Nhưng mục đích chính của tín ngưỡng đó lại rất ràng, Phật cũng vậy, mà Đạo cũng vậy, tất cả đều phải chiều theo ý muốn của con người, nếu thể đứng vững được ở đây. Những hang động hội tụ các vị thần ở vách đá tiên khiến người ta vô cùng kinh ngạc, nhưng so với núi Bình Đô, nó có chút kém cạnh hơn. Bởi núi Bình Đô vốn là động tiên của Đạo giáo, hàng trăm hàng nghìn năm nay, tín ngưỡng dân gian từng ngày, từng tháng thẩm thấu vào trong đó, đến mức khiến chùa Phật và Đạo quán hòa trộn vào nhau như quần thể đền thần. Thúc đẩy, tạo tâm lý và động cơ trong dân chúng tại “cửa hàng bách hóa” núi Bình Đô thực đáng được nghiên cứu sâu hơn. Hơn nữa, cái tên quỷ thành tuy nổi tiếng trong thiên hạ, nhưng quỷ khí ở núi Bình Đô vẫn chưa được nồng nàn như vậy, nhân dân nơi đây ngoài việc phải gánh chịu khoản tạp thuế đời sống hằng ngày của họ tuyệt đối phải là cuộc sống người ra người, ma ra ma giống như người ngoài tưởng tượng. Đây cũng là điều hết sức thú vị.

      Tóm lại, dưới ngòi bút của giáo sư Vệ Huệ Lâm, núi Bình Đô thực bản mẫu hiếm gặp trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, giá trị văn hóa và giá trị thưởng ngoạn của nó vượt xa nhiều “quỷ thành” mà nội dung chỉ chiếm phần trong đó. Chỉ có điều thời gian trôi qua hơn bảy chục năm nay, ngay cả “dòng sông lớn” kia cũng còn “như xưa” nữa, những ngôi nhà của các vị thần chưa bị mưa dập gió vùi, nhưng tất yếu có chút khác xưa, nó có thể thực biến thành động quỷ. Có điều, cảm giác khi đứng boong tàu nhìn ra xa năm xưa đối với tôi vẫn rất đẹp, rất đẹp!


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 14: Sổ sinh tử những chuyện hoang đường

               #993366;']  Phần 1


      Còn nhớ hồi khi xem Tây du ký, tôi từng rất tiếc nuối, phải vì Tôn Ngộ ngồi Bảo điện Linh Tiêu, mà là vì lão Tôn đại náo Bảo điện Sâm La, khi đánh dấu vào quyển sổ sinh tử, trong lòng tôi chỉ nghĩ đến nhân vật lớn nổi tiếng bên trong con khỉ, “cửu u thập loại tận trừ danh” [1] , nhưng loài người chúng ta lại có trong số đó. Hóa ra con khỉ này chẳng qua cũng là kẻ chỉ biết đến mình mà thôi! Thế là, nghĩ đến việc mình khó có thể xuống điện Sâm La lần, tôi liền có chút phục trước hành động tạo phản kinh thiên động địa đó của Tôn Ngộ .

      [1] Nghĩa là: tất cả chín phủ và mười loài (năm loài tiên, năm loài côn trùng) đều gạch hết tên.

      Tôi cứ khăng khăng suy nghĩ đó của mình trong nhiều năm, cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi được lĩnh giáo về những thủ đoạn của sổ sinh tử do con người tạo ra tôi mới chợt sực tỉnh. Từ đó tôi hiểu được rằng “sau con người chưa chắc phải là ma quỷ, sau ma quỷ chắc chắn là con người”. Gọi là sổ sinh tử, hóa ra vẫn là nằm trong tay con người. Vậy có cần thiết phải bàn tới sổ sinh tử trong giới phủ nữa ? dám là cần thiết, nhưng qua chút cũng vấn đề gì, bởi từ đó ít nhiều cũng hiểu được chút ít về thời đại đó trong quá khứ. Chỉ là cho nặng nề, hơn nữa còn lạc điệu nhảy lời, như những bài văn sử dụng ngôn từ chính xác, nghiêm túc, tôi tự đề cử dùng từ “chất giọng hoang dã” !
      #993366;']          1


      nghiêm túc sổ sinh tử chỉ là loại sổ sách dưới phủ. Sổ sách dưới phủ, ngoài việc ghi chép giới hạn tuổi thọ của con người ra, những quyển sổ liên quan đến vấn đề “nhân ” (loài người chúng ta cũng chỉ qua được “bản thân mình”, còn những cái khác thôi tùy chúng mà thôi) còn có rất nhiều loại, chỉ về những quyển quan trọng có tài liệu chuẩn bị án, sổ lợi lộc, sổ công danh, sổ ghi chép thiện ác, sổ ghi thành tích và thiếu sót, còn có danh bạ bắt bớ linh hồn, sổ đăng nhập hộ tịch cho quỷ chết… và tên gọi cũng có nhiều như “sổ, bạ, lục, tịch”. Nhưng xét đến cùng, điểm chủ yếu trong những thứ này tách nổi hai chữ “sinh - tử” liên quan đến các sinh linh và ma quỷ. Vì thế, khi nhìn thấy quyển sổ trong tay tên phán quan trong Thập Vương đồ, dù ông ta lật giở tìm cái gì nữa, hoặc dù nó có được gọi là “sổ sinh tử” nữa cũng chẳng có sai sót gì lớn.

      Trong văn hóa Trung Hoa, thực ít những thứ khiến người ta tự hào. Việc sáng lập ra chế độ sổ sách của quan phủ từ rất sớm và rất hoàn thiện chính là trong những việc khiến ta tự hào. Lưu Bang tiến vào biên giới, tấn công Hàm Dương, các tướng tranh thủ lấy vàng bạc, Tiêu Hà “ mình vào lấy quyển sách về pháp lệnh của Tần thừa tướng và phủ ngự sử cất giấu”, vì thế ông biết tất cả những nguy hiểm, những ách tắc và điểm mạnh yếu về lực lượng người trong thiên hạ. Đời sau có người thốt lên rằng, Tần Thủy Hoàng đốt sách diệt Nho, nhưng chưa hoàn toàn muốn diệt chúng, trong tay các vị tiến sĩ đều có giữ bản sao, vậy tại sao lúc đó Tiêu Hà mau chóng cứu chúng ra? Kết quả Bá Vương Tây Sở lại đến nhóm cho Hàm Dương mồi lửa, thiêu rụi tất cả những quyển sách quý ấy, từ đó tạo thêm việc cho các nho sinh, có người thu nhặt những chương sách bị cháy, sau đó tìm các bậc cao nhân nhờ chỉ dạy, có người lợi dụng thời cơ làm giả sách Nho rồi quát với giá cao, có người tìm chứng cứ hòng để lộ ra chân tướng khiến người kia đường trốn thoát. Thực ra, những vị nho sinh này bận rộn cách uổng phí, lẽ nào họ biết những yếu điểm và những vấn đề về mặt con người là tiền đề quan trong để chiếm cứ thiên hạ? Mọt sách thấy được cái lớn, họ luôn luôn là vậy, vì thế họ chỉ xứng với việc lột bỏ mũ áo, giúp đại hùng hứng nước tiểu mà thôi.

      Cũng với lý lẽ đó, muốn thống trị và quản lý người sống cũng như ma quỷ, phủ bắt buộc phải có quyển sổ sinh tử. Từ kết quả của cuộc đại náo Diêm phủ của Tôn Hành Giả có thể thấy được, nếu Diêm phủ có được quyển sổ sinh tử của Mỹ Hầu Vương cũng đồng nghĩa với việc họ mất quyền thống trị đối với đối phương. Sổ sinh tử chính là linh hồn của Diêm phủ, những kẻ làm quan dưới đó chẳng qua chỉ là những nhân viên ma quỷ dùng pháp luật ti để quản lý quyển sổ mà thôi. Mà nội dung quan trọng nhất trong quyển sổ sinh tử đó chính là ghi lại những chuyện “thiện và ác” thường ngày của con người. Trong thế giới loài người, dù là túi hồ sơ của bộ phận nhân , hay tài liệu đen của cơ quan đặc vụ, quyển sổ chi tiêu ghi chép ràng, chỉ chờ cơ hội để quyết toán, vẫn có số thiếu sót trong mỗi nha môn, nhưng tất cả các đạo đức gia đều chất chứa trong mình chủ ý xấu xa muốn trừng trị người khác, vì thế họ đều cung cấp những bản phác về quyển sổ thiện ác này. Theo truyền thống bản địa của Trung Quốc, “trong trời đất có phúc, thiện, họa, dâm”, tuổi thọ của con người ngắn hay dài, gia tộc hưng hay suy, đều do kết quả thống kê trong quyển sổ thiện và ác quyết định. Còn cách khác có lẽ được truyền đến từ văn hóa Tây phương (Ấn Độ), rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do nghiệp báo của thế hệ trước để lại, nó chịu ảnh hưởng của việc người đó làm việc thiện hay ác ở kiếp này, nhưng cái thiện và cái ác ở kiếp này là căn cứ quả báo dành cho kiếp sau, sổ thiện ác có thể luôn được phát hành trong tình trạng cung đủ cầu.

      Vì thế, sổ phủ tuy có nhiều loại, nhưng xét từ góc độ “kết toán”, nó chỉ được phân làm hai loại lớn, thể đặt tên cho chúng được, chỉ có thể gọi chúng là hai phái thời gian và gian.

      Phái “ gian”, tuổi thọ của mỗi người giống như căn phòng trống, đợi đến khi mà số tội của ta phạm phải trong thế giới loài người đủ để lấp đầy căn phòng đó, gọi là “tội ác tày trời”, có nghĩa là đến lúc ta phải từ giã cõi trần. Nhưng có thể nhìn nhận từ góc độ khác, tuổi thọ của con người cũng giống như bó thẻ bài, mỗi lần phạm tội, người ta căn cứ vào lớn của tội ác để rút ra ít. Đây gọi là “tính phép trừ”, đợi đến khi số thẻ là 0 coi như phép tính được tính xong. Nhưng nếu làm việc thiện sao? Vậy có thể “tăng tuổi thọ”, người ta bổ sung thêm cho những thẻ bài khác. Việc này có vẻ rất công bằng, nhưng cũng hẳn vậy, có người làm vô số những việc thất đức đến mức kể hết, nhưng họ vẫn sống rất tự tại, còn có người vừa mới sinh, chỉ mới khóc có vài tiếng, cùng lắm là tiếng khóc của họ gây ảnh hưởng đến môi trường chút, nhưng đột nhiên ngừng thở, tuổi thọ của đến đây chấm dứt. Việc này thực khó mà được, nếu muốn giải thích, có lẽ chỉ có thể mỗi “căn phòng” có độ to giống nhau, số thẻ trong từng bó có bó ít có bó nhiều chăng? Nhưng dù thế nào nữa, theo quan điểm của phái này, tuổi thọ của con người dài hay ngắn chí ít có thể do bản thân mình quyết định phần, đó là nên làm nhiều việc tốt, ít làm chuyện thất đức.

      Phái “thời gian” cho rằng, tuổi thọ của con người dài hay ngắn là do trời định, con người thể thay đổi nó. người nào đó phạm tội ở dương gian, ti chỉ lo việc ghi vào sổ, còn khoản nợ phải đợi đến sau thu mới giải quyết. Cũng có nghĩa là, cho dù người ta có đốt sách diệt Nho như Tần Thủy Hoàng, giết hại người trung thành, lương thiện như Tần Hội, họ vẫn được sống rất thoải mái, cho đến khi trời phán rằng “đại hạn” đến rồi, lúc đó họ mới phải đến gặp Diêm La Vương để tính toán tổng số nợ, và tất cả mọi quả báo hoặc là xuống địa ngục, hoặc là đổ lên đầu con cháu đời sau, tóm lại là ai cho họ nhìn thấy quả báo của mình. Cũng với lý lẽ đó, kiếp này chúng ta làm nhiều việc tốt cũng chỉ là uổng phí công sức mà thôi, bởi họa, phúc, thọ, yểu của kiếp này được định sẵn rồi, chỉ có thể tích đức để đời sau của mình hưởng nó mà thôi. Trước kia, chiếc cột chính trong miếu Thành Hoàng có treo chiếc mâm lớn rộng khoảng trượng, có nơi phía còn viết năm chữ lớn: “Cậu cũng đến rồi à!”, khiến người đọc nó vô cùng sửng sốt. Chữ “cậu” vốn dùng để gọi linh hồn của người chết, nhưng thực tế là để cho người sống xem, ý bạn là hùng thời, xưng bá tại nước hay con ngõ nào đó, nhưng cuối cùng cũng khó mà thoát khỏi cái chết. hùng xem xong cũng chỉ cười tiếng, làm sao biết sau khi chết mình có phải tính toán nợ nần hay , ngay lúc này tôi còn có thể tháo dỡ cái miếu Thành Hoàng này ấy chứ!

      Tóm lại, phái giống như đánh bóng chuyền, thua hết điểm ra ngoài sân, phái lại giống như đánh bóng rổ, lấy thời gian làm thước đo, có thể thua trong thoải mái hân hoan. Lẽ tất nhiên hai phái này có thể tìm ra vài điểm có giao thoa giữa Trung Quốc và nước ngoài, giữa Đạo giáo và Phật giáo, cũng có thể nhận ra điểm dung hòa giữa chúng, nhưng giữa chúng lại chưa từng xảy ra xung đột tranh chấp, hơn nữa còn có thể hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, mặt trời mặt trăng phối hợp với nhau khá ăn ý. Lúc giáo dục người dân chỉ cần làm nhiều việc thiện, ắt được thiện giả thiện báo, lúc lại biện giải cho đám thân sĩ giàu có kia tuy làm nhiều việc ác, nhưng chưa chắc gặp ác giả ác báo. Và tất nhiên, hai bên cùng vui, hòa thuận với nhau chắc chắn là kết quả cuối cùng. Vì thế hai trường phái này nhìn có vẻ như tương phản, nhưng thực chất lại là người hai mặt, cứ thay đổi cách nhìn nhận trong bộ não của mình để tồn tại suốt hàng nghìn năm nay.
                2


      Sổ sách phủ lớn nhất Trung Quốc có vẻ như thuộc về phái gian.

      “Thổ phủ” - xuất vào khoảng thời Đông Hán, có lẽ là Diêm Phủ chính thức, tương đối độc lập với thiên đình sớm nhất Trung Quốc. Nó được xây dựng dựa cơ sở “quyển sổ thiện ác”. Tác phẩm kinh điển thời kỳ đầu của Đạo giáo là Kinh Thái Bình, chương Canh bộ chi bát trong đó rằng, khống chế của Thiên đế đối với cuộc đời của con người thông qua những hành vi và lời thường ngày của họ được ghi lại trong “sổ thiện ác, khi gây ra tội ác tày đình linh hồn của người đó được giao cho “Địa thần” trong “quỷ môn”, do Địa thần thẩm vấn, dùng hình, sau đó lại được giao cho “Mệnh tào” đối chiếu giữa tuổi thọ và tội ác của người này, nếu những hành vi tội ác của người này sát tận với tuổi thọ, hẳn người này đến lúc “vào đất”, hơn nữa ác nghiệt của ảnh hưởng đến thế hệ sau, đây chính là mục chú giải “gia đình tích phúc, con cháu được nhờ, biết tích phúc, họa chờ đời sau” của Nho gia.

      Nhưng theo tác phẩm kinh điển của Nho gia có , nếu phải là những tội ác nghiêm trọng, hình như tội ác đó ảnh hưởng đến con cháu sau này. Cái gọi là “đại tội có năm loại, trong đó giết người thuộc đại tội” (Đại đới lễ ký - Chương Bản mệnh), ngoài những tội nghịch với luân lý lẽ trời ảnh hưởng đến thế hệ sau tội giết người chẳng qua cũng chỉ “báo ứng với bản thân” mà thôi, nó tuyệt đối liên lụy đến con cháu sau này. Xét sơ qua, tầng lớp thống trị thời cổ đại vẫn còn khá tử tế. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thấy họ vô cùng đáng sợ, cái gọi là nghịch với lẽ trời, nghịch với đạo làm người, vu cáo quỷ thần…tất cả phải tội lỗi về mặt tư tưởng sao? Tội tư tưởng nếu muốn xử hai đời đến năm đời cũng chưa thích đáng, đào mộ tổ, dưới giết hại con cháu, nếu đem so sánh tội phóng hỏa giết người chỉ là tội do “ chút sơ suất” thôi ư? Đến đây mới khiến tôi hiểu ra rằng, tại sao phạm vi liên lụy của ngục Văn tự trong lịch sử lại mênh mông bát ngát đến vậy, còn những tai nạn nghiêm trọng liên lụy năm đời, ảnh hưởng chín tộc đem gắn với hai chữ “văn hóa” quả là sát thực chút nào.

      Đến Canh bộ chi thập, ngoài Thổ phủ ra, tác phẩm còn nhắc tới các cung khác, mỗi đợt đông chí đến cần thu thập tất cả các quyển “sổ câu hiệu” dân thường khắp thiên hạ. “Câu” là bắt giữ, “hiệu” là tra hỏi, “sổ câu hiệu” chính là sổ dùng để ghi chép những tội ác có lệnh bắt của dân thường. Lúc này, tất cả những vị thần tiên được thờ cúng trong thiên hạ đều phải báo cáo mọi thông tin lên , các vị thần gia đình hằng ngày phụ trách việc giám sát những lời , cử chỉ của người dân, mỗi tháng đều phải tập hợp lần, lúc đó đương nhiên cũng phải trình báo theo quy định. Sau đó “Thái pháp tào” tiến hành thống kê, đối chiếu, rồi triệu “Thần địa ” và “Thổ phủ”, hai đối tượng này phụ trách bắt và thẩm vấn. Trình tự này nghe rất đáng sợ, nhưng đối với những người dân quen chịu gõ đầu, bóc lột, những cái đó chẳng qua cũng chỉ cần dùng câu để ứng phó: “Cùng lắm là chết chứ gì!”

      Nhưng điều ngờ rằng, chỉ với vài thảo dân mà cũng cần nhiều sơn hải chư thần và thần nhà cùng lúc hầu hạ như vậy, tự ghi chép những hành vi cử chỉ cho mình có lẽ cũng chẳng phải việc gì phiền phức. Vì thế sau này họ đơn giản hóa cơ cấu nghiệp vụ này, người chuyên chức phụ trách công việc này chính là “tam thi” [2] - điều mà các đạo sĩ quan tâm. (Còn ông Táo - người mà các hộ dân muốn rời xa lại kiêm nhận chức trách đó, có lẽ bởi ông Táo quá hiểu tính cách của con người, dễ bị những người dân thường mua chuộc, trở thành người đáng tin cậy trong mắt ông trời chăng?) Thần tam thi nấp trong cơ thể con người, cứ sáu mươi ngày lần, vào ngày Canh Thân ông lại lén lút thoát ra ngoài báo cáo với đặc vụ. Theo cách những người tu đạo luôn lấy việc hành đức làm cốt lõi, họ vốn cần lo lắng vì những điều được báo cáo này, nhưng vì muốn nhanh chóng thoát khỏi trói buộc trong hình dáng con người, để sống cuộc sống tiêu diêu thoải mái, thần tam thi lại vui mừng khi khiến những người này chết sớm, vì thế nhất định ông phải bịa ra thứ gì đó . Còn những kẻ tu đạo cũng có chủ ý của riêng mình, cứ đến ngày Canh Thân họ lại thức trắng đêm ngủ, khiến tam thi có cơ hội chuồn ra bên ngoài, cứ như vậy, cuối cùng họ thức đến mức “thần tam thi lồng lộn lên” (mượn từ ngữ trong tiểu thuyết, lại tương xứng với ý nghĩa câu “giận dữ xung thiên”), cuối cùng tức mà chết, vị lão đạo này sau này thành tiên, chỉ thành tinh mà thôi.

      [2] Tam thi: ba xác chết

      Từ đó có thể nhận ra, sổ phủ của phái gian hóa ra lại có nguồn gốc sâu xa với Đạo giáo bản địa Trung Quốc, vì thế họ trích ra từ Kinh Thái Bình cũng là việc hết sức đương nhiên. Dùng biện pháp mềm mỏng để đối phó với mật thám, có thể gọi đó là tinh túy trong chiến thuật của Lão Tử, chưa bắt đầu chưa ảnh hưởng đến đời sau. Nhưng quyển sổ thiện ác đó lại hoàn toàn trùng khớp với nguyện vọng của các bậc chính nhân quân tử sau này, họ có bổ sung thêm phần thiếu sót “trong quan phủ ở dương gian có điều lệ ghi chép lại công danh và sai sót của con người”, đối với những người dân thường mà , họ thể chỉ “cùng lắm là chết chứ gì?” là có thể ứng phó được với quá khứ.

      Gần đến triều Hán Ngụy, tăng lữ Phật giáo Tây phương liên tiếp tới Trung Quốc vài lần, tuy họ vẫn chưa thể tự do truyền giáo vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng những tác phẩm kinh điển của Phật giáo bắt đầu được dịch sang tiếng Hán, trong đó quan điểm ở phủ có địa ngục (tám địa ngục lửa, tám địa ngục băng) dưới ngọn núi Thiết Vi lớn. Nhưng khi họ biên dịch, với chút lơ là tạo ra từ “địa ngục Thái Sơn”, Thái Sơn vốn có nghĩa là ngọn núi khổng lồ, chính là chỉ ngọn núi Thiết Vi kia. Nhưng các vị hòa thượng Tây phương chưa từng nghĩ tới sang núi Đông Nhạc để vẫn có thể viết được Thái Sơn, càng nghĩ địa ngục Thái Sơn của mình bị con rắn Địa đầu lấy mất, sau khi thay đổi chút biến thành đồ của người ta. Hóa ra, tôn giáo bản địa của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng trong giai đoạn phát triển, Trương Lỗ - đệ tử của Ngũ Đấu Mễ đạo [3] gần như hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, đại hùng Tào Mạnh Đức cảm thấy đó phải là việc tốt, nên sau khi bình định Hán Trung, ông bèn “Võ Ngụy cung roi” dồn tất cả phương sĩ khắp nơi rầm rộ tiến về kinh thành trong phạm vi thế lực của mình, sử dụng hình thức chăm nuôi để nhốt họ lại. Những phương sĩ sống tản cư bên ngoài sau khi vào đến những đô thị lớn, họ có cơ hội để giao lưu với đủ các loại người, và thời bấy giờ hòa thượng cũng là loại phương sĩ. Tôi đoán rằng, vào lúc này, “địa ngục Thái Sơn” của Phật giáo bị các phương sĩ địa phương “vay mượn” thành “Thái Sơn Phủ Quân” mang cái mác MADE IN CHINA. Ông Tiền Trọng Thư : “Từ lúc ngựa trắng chở kinh về, Thái Sơn càng trở thành cái tên khác của địa ngục”. Thái Sơn từ ngọn núi thần tiên biến thành quỷ phủ, đó là việc xảy ra sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, và lúc đó quyển sổ phủ trong nha môn Thái Sơn Phủ Quân bắt đầu xuất phái thời gian. Dưới đây là câu chuyện sau khi Thái Sơn Phủ Quân nắm giữ phủ:

      Năm Kiến An, triều vua Hán Hiến Đế, tại Nam Dương có người Giả Ngẫu, tự là Văn Hợp do mắc bệnh mà chết. Khi chết, có viên quan cầm chiếu chỉ của Thái Sơn tới. Những người trùng tên Văn Hợp có tất cả mười người cả nam lẫn nữ, quan tư mệnh kiểm tra kỹ lại, rồi với quan hành rằng: “Nay muốn triệu Văn Hợp tới, làm thế nào để triệu được người này? Hãy mau chóng trả về dương gian.” (“Sưu thần ký” quyển hai mươi mốt.)

      [3] Ngũ Đấu Mễ đạo: nghĩa là “ đạo Năm Đấu Gạo”, cũng gọi là Thiên Sư đạo, là giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập.

      Diêm phủ bắt nhầm người, khiến người ta phải chết oan, người nên chết chết, còn người nên chết vẫn sống. Hãy quay lại xem quá trình bắt bớ trong Kinh Thái Bình, có thể thấy khi lấy căn cứ là quyển sổ thiện ác việc bắt bớ được thực cách dễ dàng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào tên của những người hết hạn sống trong sổ thiện ác nay, trường hợp trùng tên là rất nhiều, phải tra thêm hộ tịch, nhưng thi thoảng cũng xảy ra sơ suất, để rồi bắt những người liên can tới Diêm phủ. Nhưng theo quy định nghiêm ngặt của phái thời gian, nếu người này chưa đến hạn chết, Diêm phủ thể bắt bớ linh hồn của ta, nhưng giống như những tên quan phủ dương gian, họ bao giờ chịu nhận lỗi về mình, s ai cho sai luôn, hoặc giống như Đào Cương, triều Lý bắt nhầm nhưng vẫn bị Diêm phủ giữ lại linh hồn, điều đó là thể được. Nếu thể giữ được linh hồn người đó, vậy chỉ còn cách đưa họ trở về dương gian, nếu người bị bắt nhầm trở thành linh hồn lưu lạc nơi trú thân, để rồi biến thành kẻ trụy lạc chết thảm trong đơn, từ đó quay lại quấy phá hai giới dương, đó cũng là việc khiến người ta hết sức đau đầu. (Sau này, vấn đề này cách giải quyết thích hợp, đó là thiết kế nơi thu nhận hoặc tập trung tất cả linh hồn chết oan lang thang, điều này được bàn tới trong chương khác.)

      Vị Giả Văn Hợp này vẫn được coi là may mắn, khi quan tư mệnh tới đón nhận linh hồn mới phát ra có mười trường hợp trùng tên. Sau khi rà soát kỹ càng, quả nhiên có sai sót, chỉ còn cách đó là mau chóng thả linh hồn người này trở về dương gian. đường trở về dương gian, Giả Văn Hợp gặp người phụ nữ cũng bị bắt nhầm rồi được thả về. Nhưng thế giới phủ hỗn loạn, thời gian gấp gáp, dù là người phụ nữ yếu đuối nhưng mấy tên nha dịch cõi vẫn mạnh tay mạnh chân quẳng hai linh hồn trở về dương gian rồi nhanh chóng biến mất. con đường u tối của thế giới phủ, gặp rất nhiều khó khăn, cũng may gặp được chàng thanh niên Giả Văn Hợp, hai người giúp đỡ nhau suốt chặng đường, cuối cùng cả hai cũng tìm về được với dương gian, đồng thời họ tạo nên mối nhân duyên hạnh phúc, khiến người ta hiểu ra rằng, hóa ra việc tốt luôn xuất từ những việc may, khi tổ chức lễ thành hôn đừng quên mang kẹo cưới gửi tặng lính sai bắt nhầm hai người tới phủ nhé!

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      3
       

      Từ thời Hán - Ngụy đến nay, những câu chuyện “bắt nhầm - trả về” nơi cõi xảy ra quá nhiều, có thể đó là loại lớn trong các loại chuyện về thế giới phủ. Tuy rằng trong những yếu tố tạo nên loại hình này thể thiếu quyển sổ sinh tử. Nhưng điểm quan trọng của câu chuyện phải ở chỗ muốn chứng tỏ quyền uy của sổ sinh tử, cũng phải để tạo nên những câu chuyện tốt đẹp như của chàng trai Giả Văn Hợp và nương Đỗ Lệ. Loại chuyện này sở dĩ được nhắc đến nhiều lần, được các tín đồ Phật giáo ngừng tuyên truyền, giảng giải, đó là vì nó có nhắc tới tình tiết tham quan địa ngục. bắt nhầm, theo lý phải trả người về, nhưng Diêm Vương còn đảm nhiệm công tác bộ trưởng bộ tuyên truyền trong thế giới phủ, thế là ông để cho người đó uổng phí lần đến đây. Diêm Vương cử người dẫn họ tham quan tất cả mười tám địa ngục, hơn nữa biết ông giở trò gì mà bình thường sau cơn mơ, người ta quên gần hết những điều xảy ra trong đó, nhưng ở đây, những người này sau khi trở lại dương gian, họ có thể viết ra những bài bút ký thực sinh động về quá trình tham quan địa ngục.

      Nhưng những câu chuyện lấy sổ sinh tử và thuyết định mệnh làm chủ đề cũng ít, đó là những câu chuyện kể quan phủ cầm quyển sổ sinh tử tới chiến trường để điểm danh những binh lính hi sinh.

      Đây cũng chính là chủ đề chính của các câu chuyện về cõi có sức sống từ hàng ngàn năm nay. Câu chuyện sớm nhất xuất trong Bác dị chí của Cốc Thần Tử, người thời Đường và Hà Đông ký của Tiết Ngư Tư, còn đến cuối triều Thanh, những chuyện như thế này vẫn được người ta đón nhận cách thích thú. Bác dị chí kể về Bình hoắc tây Ngô Nguyên Tế năm Nguyên Hòa thứ mười hai, triều vua Đường Hiến Tông. Khi Triệu Xương Thời trở thành phó tướng của Ngô Nguyên Tế, ông cùng với Lý Tố chiến đấu tại thành Thanh Lăng, rồi bị trúng đao từ phía sau, ông ngã xuống từ lưng ngựa mà chết. Vào khoảng bốn giờ sáng, ông bỗng như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mộng, nghe thấy bên ngoài tiếng tướng lính điểm danh duyệt binh, hô đến tên của ai, người đó dõng dạc lên tiếng đáp lời. Cứ như vậy họ điểm danh cả hơn nghìn người. Triệu Xương Thời chú ý lắng nghe, nhưng đến khi công việc điểm danh hoàn tất, vẫn nghe thấy ai điểm danh tên mình. Trời chuyển sáng, người điểm danh còn ở đó nữa, Triệu Xương Thời băn khoăn ngồi dậy, ông nhìn những xác chết xung quanh mình, tất cả đều là những người được đọc tên lúc đêm qua, giờ đây ông mới biết hóa ra là đêm qua quan phủ điểm duyệt, những chiến sĩ chết nơi trận mạc đều là định mệnh cả.

      Chủ đề của câu chuyện chính là “định mệnh”. Nhưng nếu người chết, quan phủ chỉ cần điểm tên của linh hồn là được rồi, sao còn phải đối chiếu với những thi thể chết? Trừ phi những hồn ma của binh lính cũng cần tập hợp xếp hàng rồi bắt đầu duyệt binh? Lý do đó dường như được hợp lý phải, nhưng trong buổi điểm danh đêm qua, giọng đáp lời của những binh lính chết tạo nên khí rất ghê rợn, đó chính xác là thành công trong việc sáng tác những câu chuyện ma. Nó xứng đáng liệt vào danh sách những đề tài khủng bố đến dựng tóc gáy như xác chết di động, linh hồn quay lại, hồn ma hàm oan… Bởi thế, những thế hệ sau thấy chán khi lặp lại chúng, và thỉnh thoảng họ cũng cho thêm những nguyên liệu mới mẻ vào trong câu chuyện. Thế là “chỉ cần hô gọi họ tên, xác chết lập tức đứng dậy đáp lời” (chương Vương Tuyên Trạch mượn binh, quyển mười, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại thời Nam Tống), khi được gọi đến tên, người đó xác chết cương cứng, chỉ có thể nhảy lên theo chiều thẳng đứng miệng hô “có”, sau đó lại “phịch” tiếng đổ thẳng xuống đất. Dưới ánh trăng ảm đạm, hàng nghìn xác chết cứ làm làm lại như thế, đó là cảnh tượng “đêm người chết sống lại” khiến người ta chỉ cần nghĩ tới thấy dựng tóc gáy. Nhưng dường như chúng vẫn để lại những điểm có thể tiếp tục phát huy, để rồi đến đầu đời Thanh, trong tác phẩm Thục Bích lại cầu “sau mỗi tiếng điểm danh, người chết liền xách đầu mình đứng dậy”. Các vị tú tài, các cử nhân lũ lượt kéo đến trường thi, họ biết việc kiểm tra xác định nhân thân là tất yếu, vì thế họ cho rằng trong sổ sách phủ cũng nên có điều khoản “tuổi tác - hình dáng”, chẳng hạn như người chết nếu xách chiếc đầu lâu “lấm lem máu” của mình dễ dàng bị cho là mạo nhận tên tuổi. Ngay cả các bộ phim khủng bố nhất như Xác chết di động cũng thể so sánh được với những câu chuyện thuần túy theo đuổi hiệu quả gây sốc này, nhưng Bồ Tùng Linh vẫn có thể giúp khí ghê rợn trong đêm chiến trận thời cổ đại được đẩy lên cao bậc.

      Mẩu chuyện Liêu Dương Quân trong Liêu trai cũng sử dụng hình thức điểm danh, chỉ có điều người phải chết bị chém rơi đầu, quan Diêm phủ bèn lệnh cho đám lâu la gắn đầu ta lại, sau đó đưa ta rời khỏi phủ, đây có thể cho là sáng kiến mới mẻ, nhưng chưa tạo được nét độc đáo khác cho tác phẩm của mình. Còn chuyện Chó hoang kể rằng binh lính triều Thanh trấn áp bảy đội quân phiến loạn, giết người ghê tay, kẻ muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó, bèn giả vờ chết giữa đống thi thể. Đợi đến khi quân Thanh rời khỏi, lúc đó đất trời cũng chìm vào màn đêm đen kịt.

      Bỗng thấy cả rừng xác chết đầu, tay bỗng nhiên đứng dậy. trong những xác chết ấy đầu vẫn vắt vẻo vai, thanh phát ra từ miệng người đó: “Tên chó hoang kia đến đây làm gì?” Cả đám xác chết cùng ứng theo: “Làm gì?” xong, chúng lại đồng loạt ngã vật ra đất, thêm lời nào nữa.

      Bỗng chốc rừng xác chết đứng bật dậy, rồi lại đột nhiên ngã vật ra đất, đó là giây phút tĩnh lặng bên xác chết vào lúc đêm khuya, để chờ đợi thứ đáng sợ nhất xuất . Đoạn vừa rồi tuy phải là câu chuyện về cảnh “điểm danh chiến trường”, nhưng nó tập trung vào hoàn cảnh khủng khiếp của câu chuyện, thể thành công tính thảm khốc của cảnh chết chóc giết hại người dân ghê tay của binh lính triều Thanh. Vậy nếu là cảnh bị chết chìm giữa sông sao? Trong chương Phú quý sống chết có số,quyển bốn, cuốn Khách song hiếm thoại - phần tiếp theo, Ngô Xí Xương có viết, những kẽ chết đuối, chết chìm cũng có viên quan phủ đến điểm danh. Vậy tất nhiên những xác chết ở đây thể gây ra những cảnh kinh hãi như những xác chết cứng đơ nơi đồng mông quạnh được. Nhưng hãy tưởng tượng, những xác chết đứng dậy lửng lơ mặt nước, xếp thành hàng ngũ, chắc có lẽ tạo cho bạn cảm giác cõi khác biệt chứ!

      Nhưng những câu chuyện cũng chỉ dừng lại ở việc tạo ra cảm giác sợ hãi, chủ đề định mệnh cũng được chú ý và thực sâu sắc hơn. Những người chưa đến số phải chết những phải điểm danh, mà quan phủ còn vạch trần ra xem người này chết sau bao nhiêu năm nữa, và chết ở nơi nào. Tác phẩm Quý tân tạp thức của Chu Mật người Nam Tống có ghi lại câu chuyện xảy ra vào thời Nam Tống Ninh Tông: người Mãn xâm phạm từ phía nam, giết người vô kể, xương chất thành núi, thịt chất thành tầng, giết xong chúng còn lùng sục lại xem có ai chưa chết hẳn dùng búa sắt đánh cho chết hẳn rồi mới chịu . Trong số đó có người may mắn vẫn chưa chết hẳn, đêm đến, thấy người của quan phủ đốt đèn tới điểm danh người chết trong sổ, đọc đến tên người nào, xác chết của người đó đứng bật dậy, rồi lại lập tức ngã xuống. Khi đọc đến tên người kia, ta cũng đứng dậy. Lúc này, bỗng nghe có người : “Người này vẫn chưa chết.” Và rồi theo sổ sinh tử viết: “Sau hai mươi năm nữa ngươi chết ở Thần Châu.” Người này được miễn chết, mặc dù sau này ta đặc biệt cẩn thận bao giờ Thần Châu, luôn sống an phận theo pháp luật, nhưng cuối cùng ta cũng thoát được định mệnh của mình, phải chịu nhát đao oan uổng pháp trường Thần Châu.

      Về sau, chương Thủ thuật chi bại, quyển mười hai, cuốn Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình người đời Thanh, chương Kẻ họ Nhược trong quyển Sạn trong ngọc của Đổng Cốc, chương Sống chết định trước, quyển sáu, cuốn Dung am bút ký của Tiết Phúc Thành, người đời Thanh, ba tác phẩm này cơ bản cũng kể về những cảnh tượng như vậy, thấy xuất bất kỳ chi tiết mới nào. Chỉ đến tác phẩm Di viên đàm dị của Trần Dị người đời Thanh, trong chương Kẻ mặt rỗ họ Châu, “phái gian” mới tham gia vào thể loại truyện này.

      Vào năm Kỷ Mùi, năm canh Thân Hàm Phong, quân Thái Bình chiếm lĩnh khu vực phía nam sông Trường Giang, và phía tây thành phố Trấn Giang, cả khu vực Dương Châu phía bắc sông Trường Giang, người dân mắc bệnh tật, cuộc sống êm đềm. Giang Nam rơi vào bẫy, người dân muốn chạy trốn và đa số đều chết bởi binh lính đem ngựa đuổi theo chém giết, hai bên sông xác chết thành đập. người họ Giáp may mắn sống sót, nằm mình trong đám xác chết, nửa đêm, những tiếng hô gọi từ xa vọng lại, ta thấy thần Thành Hoàng dẫn theo quan binh phủ cầm sổ sinh tử điểm tên xác chết. Đọc đến người họ Giáp này, Thành Hoàng : “ phải, ngày mai tên mặt rỗ họ Châu cướp mạng sống của ngươi.” Ngày hôm sau, người họ Giáp này gặp người phụ nữ, ta mình bị cướp hết tiền bạc, giờ đây biết sống bằng cách nào, nên muốn tìm cái chết. Người này nghĩ, đằng nào hôm nay ta cũng chết trong tay tên mặt rỗ họ Châu, vậy ta còn giữ tiền làm gì? Nghĩ rồi ta khẳng khái đưa tất cả số tiền của mình tặng cho người phụ nữ. Quả nhiên, lúc sau, ta nhìn thấy người vung đao lao tới, người họ Giáp liền gọi: “Châu mặt rỗ!” Người kia hỏi: “Sao ngươi biết tên ta?” Người họ Giáp tiến lên phía trước, : “Hôm nay ta chết trong tay Châu mặt rỗ nhà ngươi, xin hãy mau giết ta .” Châu mặt rỗ kinh ngạc đáp: “Đồ điên! Ngươi bảo ta giết ngươi, nhưng ta giết đấy.” Thế là người họ Giáp cứ khăng khăng đuổi theo Châu mặt rỗ cầu giết mình, Châu mặt rỗ thấy vậy như gặp phải ma, cướp chỗ tiền của người phụ nữ kia rồi nhanh chóng tẩu thoát. Câu chuyện hình như có chút thay đổi, thực ra đó chẳng qua là lối viết lấy việc thiện để thay đổi định mệnh cũ mèm mà thôi, cho cùng, chúng vẫn thể tách rời hai chữ “định mệnh”.

      Xét cho cùng, định mệnh trong sổ sách phủ là thứ rất lạnh nhạt, rất vô tình, nó coi việc quản lý chặt chẽ mạng sống của con người là thay đời hành đạo. Quyển sáu trong Mao đình khách thoại của Hoàng Hưu Phục, người thời Bắc Tống có chương Ai Diên Tộ, chương này dùng câu chuyện sổ sinh tử điểm danh để biện hộ cho việc giết người trong vụ trấn áp cuộc khởi nghĩa Lý Thuận tại Thành Đô: “Được biết triều đình truy đánh quân phản nghịch, giết chết nhiều người, đó là thay trời hành đạo, có gì là sai cả.” Triều đình giết người là tuân theo lệnh trời, hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội bị cướp mạng sống, đó tuyệt đối có gì oan uổng cả. Vậy những người thuộc dân tộc khác tới xâm phạm, họ cũng giết hại biết bao người dân hiền lành, vậy nó được coi là gì? Quyển bốn, tác phẩm Bàn về núi Thiết Vi của Thái Điều thời Nam Tống có viết, vào năm Kiến Viêm Nam Tống, quân đội nhà Kim xâm lược từ hướng nam, triều đình bỏ mặc dân chúng, mình tháo chạy về hướng nam, nhằm khiến quân địch mắc lừa. Quan Lang Hầu Mậu cùng hai người khác kịp chạy trốn, bèn nấp mình chiếc cột lớn ở gian giữa ngôi nhà trong vườn hoa. ngày nọ, họ nhìn thấy hàng nghìn quân nhà Kim lũ lượt kéo tới, chúng ngồi trong gian giữa, lệnh cho lũ lâu la áp tải những người dân bị bắt vào trong, phân biệt già, trẻ, , trai, chúng nhất loạt dùng gậy đập chết, xác người chồng chất lên nhau. Xế chiều, khi giết hết số người ở đó, chúng mới rời khỏi. Đến nửa đêm, quan binh phủ đến điểm danh, trong đó chỉ có bốn xác chết được quan binh phủ phải”. Ngày hôm sau, quả nhiên chỉ có bốn người đó sống lại. Đương nhiên việc này cũng là do “ thiên mệnh”, liên quan gì đến phủ bại, bất lực, chỉ biết lo cho bản thân của triều đình. Đói khát, hoang tàn, lạnh giá, binh biến, ôn dịch, lũ lụt, động đất…tất cả đều là do ông trời muốn “thu người”. Nếu là do ông trời muốn bắt lại, vậy có được ? Hoàng đế muốn ngăn cản liệu có được ? Huống hồ Vạn Tuế gia lại là đứa “con trời” thực (lúc này cũng đừng kéo cả những “đứa con đáng tự hào của trời” được nhận học bổng vào nhé!), giúp cha mình tay âu cũng là đạo lý muôn thuở ở đời!

                4


      Từ Kinh Thái Bình nêu ra ở phần trước, chúng ta có thể sổ thiện ác xuất cùng lúc với Diêm phủ. Diêm phủ có lịch sử hai nghìn năm, ngôi vị Diêm Vương gia được hoán đổi hai trăm đời, nhưng tình hình chung của Diêm phủ vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là tiến trình quen thuộc, đặc vụ báo tin cho quan quân Diêm phủ, quan quân tổng hợp lại rồi báo với Diêm Vương.

      Loại sổ sách ghi chép lại những công đức, tội lỗi này, đến đời đường còn được gọi là “sổ Mậu Thân”. “Mậu Thân” nghĩa là gì, từ trước đến nay chưa có ai giải thích nó, cũng may trong tác phẩm Dậu dương tạp trở, Đoạn Thành Thức ghi chép về nó: “Thu nhận cáo trạng như nhân gian, đầu tiên hỏi ngày sinh, tiếp đến hỏi họ tên, tuổi tác, bên dưới có ghi chú ngày, tháng, năm sinh, ở dòng khác ghi Lục tuần (60) Giáp Tý, công lao và tội lỗi từng có, phạm tội gì, nếu viết “vô ”, tức có chuyện gì. Người được ghi tên vào sổ này “nhiều vô kể”, theo Chu Y Nhân - người quản giữ quyển sổ : “Cứ sáu mươi năm quyển sổ này lại ghi tên người trong thiên hạ lần, để kiểm tra và đối chiếu việc thiện, việc ác của người đó, tuổi thọ tăng hay giảm do người đó tự quyết định.” Như vậy, sáu mươi năm là thời gian để thanh toán tổng số nợ, và cũng chính là tuổi mậu thân, có lẽ vì thế mà nó được gọi là “sổ Mậu Thân”? Đây cũng chỉ là điều suy đoán của tác giả mà thôi. Quyển “sổ Mậu Thân” này gần giống với quyển hồ sơ nah6n của quan phủ, có thể ghi chép công danh và tội lỗi của người đó bất cứ lúc nào, rồi lấy đó làm căn cứ để tăng hoặc giảm tuổi thọ hay chức vụ, bổng lộc của con người, việc phân loại của nó ắt được nghiên cứu kỹ càng.

      Còn quyển sổ phủ trong Hồi dương ký của Trần Thúc Văn có vẻ phức tạp hơn so với quyển “sổ Mậu Thân”, “tất cả mọi việc được thực đều có mục đích của nó, vì vậy việc gì cũng phải được ghi vào sổ”. Vậy những ghi chép vào sổ chỉ giới hạn ở ngôn từ, cử chỉ, mà còn bao gồm cả những ý niệm trong đầu, cho dù đó chỉ là “ chút suy nghĩ riêng tư thoáng qua” cũng phải ghi vào trong hồ sơ. Quyển “sổ vô cùng” này “ghi việc thiện lớn dùng chữ vàng, việc thiện dùng chữ đỏ, ghi việc ác lớn dùng chữ xanh lục, việc ác dùng chữ đen”, như vậy có thể khiến người ta “ cảm thấy rợn tóc gáy” khi nhìn thấy, nghĩ rằng nó thực chạm đến linh hồn. Chỉ cần trong đầu xuất suy nghĩ, suy nghĩ đó chắc chắn bị Diêm phủ nhìn thấu. Có thể ngay cả thần Tam thi náu trong hình dáng con người cũng thể làm như thế được. Nhưng đó cũng phải là thứ có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, mà có lẽ nó chỉ là cáo giải của tôn giáo Tây phương, là giao lưu tâm linh trong thổ giáo, chúng biến phép khiến những điều bạn suy nghĩ trong lòng bị mang ra ánh sáng. Cái đáng để chúng ta than thở, đó là khi hình thức giao lưu tâm linh đó nhận được cổ vũ, trở thành trào lưu trong xã hội loài người, phải chỉ đào sâu nghiên cứu, mà thậm chí còn phải bịa dựng linh tinh. Lúc đó, có lẽ người ta tưởng mình thành công, trở thành mô phạm trong việc giao lưu tâm linh, cho đến khi quyển sổ được công khai chỉ còn lại “ghê rợn tới tận sống lưng” mà thôi.

      Đương nhiên, nếu động cơ tốt, muốn mộc mạc hóa phong tục, đến bậc minh vương như Nghiêu - Thuấn cũng có thể khoan dung cho đê hèn về mặt thủ đoạn. Vấn đề lại nằm ở chỗ, sổ thiện ác phải quyển sổ khích lệ người ta học tập tinh thần cứu giúp người vô tư của Lôi Phong. Trong mẩu truyện Thần thành hoàng đô thị, quyển mười , cuốn Khoái viên [4] của Tiền Hy Ngôn, người đời Minh, chúng ta có thể nhìn thấy mục đích của các bậc chính nhân quân tử khi tạo ra sổ thiện ác.

      [4] Nghĩa là: khu vườn xảo quyệt

      Năm Long Khánh thứ năm, đời vua Minh Mục Tông, Bắc Kinh có tú tài mười chín tuổi với trí thông minh lạ thường. Khi cùng chơi với các bạn học, cậu ta gặp thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, hai người liếc mắt đưa tình, tình cảnh giống hệt Trương Quân Thụy gặp phải hồn ma lẳng lơ chết oan của năm trăm năm trước khi ông cứu chùa tại nước Tấn. Sau khi trở về, cậu tú tài mắc bệnh tương tư, hằng đêm thương nhớ, chỉ mong sao có thể gặp được nàng. Gia sư của cậu ta là cử nhân trẻ tuổi, cũng là người rất am hiểu nhân tình thế thái, thầy giáo bèn hỏi thăm tâm tư của học trò, sau đó bảo giúp cậu tú tài hoàn tất việc này. ta thay học trò viết bài cầu nguyện, sau đó hai thầy trò đến miếu Thành Hoàng thắp hương. Dừng lại ở đây, chúng ta chưa nhận thấy điểm gì sai sót ở cậu tú tài, ai ngờ sau khi từ miếu trở về, thần Thành Hoàng nhập vào thể xác của thầy cúng, tuyên phán với cậu tú tài rằng: “Số mệnh của nhà ngươi năm thứ hai Vạn Niên đỗ trạng nguyên, hưởng thọ chín mươi tuổi, thầy giáo của ngươi cũng đỗ tiến sĩ năm đó. Nhưng nay ngươi bị cắt cái lộc đó, ngươi chết yểu năm mười chín tuổi, và thầy giáo ngươi cũng bị xử moi ruột mà chết. Tội trạng của ngươi là gì? Đó là ngươi thông qua “ cho phép của bố mẹ, và lời người mai mối” mà định đương với con người ta!” Quả nhiên, đến ngày hôm sau, cậu tú tài mơ thấy thần Kim giáp tay lăm lăm cầm búa rìu, còn thầy giáo mình kêu đau bụng như bị ai cào xé trong đó. Ba ngày sau, cả hai thầy trò cùng bị lấy mạng sống. Còn người con núi đó, có lẽ cũng nhận được kết quả tốt đẹp gì, bởi chiếu theo lô gic quan phụ mẫu ở “huyện My Ô”, chút “rung động” của Tiểu Phó Bằng là kết quả “bán lẳng lơ” của Tôn Ngọc Giảo.

      Tình cảm nam nữ là thứ tình người căn bản nhất, chỉ có điều bởi có “tà niệm” này mà cả thọ lẫn lộc đều bị tước hết, thay vào đó là “án xử trảm”, dụng tâm ở đây là diệt bỏ triệt để tình người. Xem xong câu chuyện này, khi đó tôi chỉ có suy nghĩ, giữa trời và đất có địa ngục tốt quá, nếu có nó chắc chắn do Tiền Hy Ngôn xây dựng nên! Đến cuồi triều Thanh, Trần Dị cho rằng mẩu chuyện này có tác dụng đối với lòng người trong nhân gian, quan điểm này được ghi trong tác phẩm Y viên đàm dị, còn trong tác phẩm Đàm dị lại ngợi ca Đàm Phúc Đường, có thể thấy Tiền Hy Ngôn thiếu những người có cùng quan điểm. Đừng cho rằng những người này chỉ là những “ông đồ cổ hủ” thông “đạo lý làm người”, như ông Chu Tác Nhân có , họ “kìm nén thể của bản tính người, nhưng lại đắm đuối theo những ham muốn biến thái”, càng là những người dung tục càng muốn đóng thành những bậc chính nhân quân tử; Nhưng cái tà niệm trong lòng lại làm cho họ dù có đóng thế nào cũng gượng gạo, cùng lắm cũng là loại quái vật dị hình mất hết nhân tính. Trong Đàm dị, Trần Dị từng thở dài rằng, quan phủ trong nhân gian thể ghi lại hết những hành vi. Ngôn từ, và suy nghĩ của tất cả mọi người thế gian. Ông cho rằng sổ thiện ác trong Diêm phủ có tác dụng bổ sung thêm những điểm thiếu sót của dương thế. Người này giữ chức tuần phủ An Huy, Lễ bộ thị lang, xem chừng ông ta rất muốn đưa toàn bộ thống trị các đặc vụ của điện Diêm Vương vào trong quan phủ để trị quốc, trị dân. Từ đây có thể suy ra thấp hèn về nhân cách, thiển cận về tri thức của . Trong tiểu thuyết Cái nhìn lạnh cuối triều Thanh có viết, kẻ tên Trần Lục Chu hằng ngày mặc quần áo của Phật, ăn đồ ăn của Phật, ở cùng với Phật qua ngày - chính là kẻ thấp hèn được . Tiểu thuyết có , cuối cùng chết do ăn linh dược của tiên cơ, điều này e rằng cũng có căn cứ.

      Sau thời Tống - Nguyên, sổ thiện ác của Diêm phủ về cơ bản trở thành đạo cụ biểu diễn thuộc loại cấp thấp nhất của những kẻ ngụy quân tử. Ngay từ thời Nam Tống, quyển sổ thiện ác này tên gọi khác, tức Diêm phủ có hai quyển sổ thiện và ác, dựa vào từng người để phân biệt chúng, tức người thiện ghi trong sổ thiện, người ác ghi trong sổ ác (xem chương Thử bàn về cung Thái Thanh, quyển mười sáu, cuốn Di kiên chí bổ của Hồng Mại). Đến Hương ẩm lầu tân đàm, quyển hạ của Lục Trường Xuân, người đời Thanh lại xuất cách “sổ công lao và tội lỗi”, tức mỗi người đều lập cho mình quyển sổ thiện ác, ngoài quyển “ghi những bổng lộc nhận được lúc bình sinh”, còn có quyển chuyên “ghi chép những công lao và tội lỗi” của mình. Có người tự với Diêm phủ qua quyển sổ cá nhân của mình rằng, hồi ta lấy trứng rùa làm đồ chơi, lần do cẩn thận làm trứng rùa bị vỡ, đây thuộc vào tội sát sinh, người này vô cùng thành , đem kể việc “thất đức” nhất cả đời mình cho Diêm phủ biết.

      Những người như vậy hiếm nhưng phải là duy nhất. Chương Ông họ Thang trong Liêu trai chí dị là bản tự thuật của “đạo đức gia”, cũng rất giống với “bảng công lao và tội lỗi” của những kẻ ngụy quân tử. Trong giây phút cận kề giữa sống và cái chết, tất cả những việc thiện và ác xảy ra trong cả đời người đều được trình báo như được phát băng ghi hình vậy. Còn việc “ác” lớn nhất, đáng ghi nhớ nhất của ông họ Thang này lại là “khi lên bảy, lên tám, ông ta tìm bắt chim sẻ và bắn chết nó”. Câu chuyện này được ông ta tự kể sau khi tỉnh lại, cái đạo đức giả của người này được tạo dựng cách quá mức. Nếu đoạn văn này của Bồ lão tiên sinh có hàm ý châm biếm đả kích quả người đọc thấy ghê tởm khi đọc đến những dòng này.

      “Sổ công đức và tội lỗi” của Diêm phủ chính là bản dịch “bảng công đức và tội lỗi” của dương gian. Các nhà Đạo học xin chỉ thị sớm mà báo cáo muộn, hằng ngày đều bỏ ra mấy tiếng đồng hồ tự mình phê phán, tự mình sửa chữa, rồi lại đau khổ tự kiểm điểm, tự phê bình. Đối với xã hội ngày nay, việc này có vẻ khá nực cười, nhưng khoảng bốn mươi năm về trước chúng tôi lại có ý định phổ cập nó ra toàn xã hội, và gần như đạt đến cảnh giới “sáu trăm triệu người dân đều theo Đạo học”.

      Thế là khi nghĩ tới đúng bốn mươi năm về trước, tôi vừa về nông thôn làm thầy giáo ( là giáo viên cấp hai, nhưng thực chất là “cấp đội mũ cấp hai”). Đầu tiên tôi tham gia lớp bồi dưỡng giáo viên. giáo viên đứng lên phát biểu, tiêu đề vừa được ra khiến người nghe thấy giật mình, đó là: “Tôi rất phê bình tư tưởng dâm loạn của mình.” Nhưng khi nghe tiếp, chúng tôi dần dần hiểu ra vấn đề, ta chỉ muốn kiểm điểm việc, đó là muốn đổi những cái nơ vải quần áo thành những chiếc cúc nhựa mà thôi. Nhưng ta “nếu có tuấn ý, ắt có dâm ý” (“tuấn ý” có lẽ chỉ ham muốn cái đẹp? Câu đó được đọc theo địa phương, cho nên dù được nhắc lại nhiều, nhưng tôi vẫn nghe hiểu, vì vậy tôi bàn gặp riêng người đó thỉnh giáo, vì vậy mới làm tôi nhớ đến tận ngày hôm nay). Sau đó ta sử dụng nhiều điều khoản luật mới ban hành lúc bấy giờ để hùng biện cho câu của mình, vấn đề này nối tiếp vấn đề kia, cuối cùng ta suy ra mình là thành phần hư hỏng phản cách mạng (lúc đó, dù có tội phạm gì cũng đều thêm vào đó ba chữ “phản cách mạng”). Sau khi cuộc họp kết thúc, tôi vội vã chào người giáo viên đó, vì tôi e “tên lưu manh chờ trợ cấp” này cảm thấy ngại mà thôi. Thực ra là tôi nghĩ quá nhiều, bởi người đó những tỏ thái độ gì gọi là e ngại, thậm chí ta còn đoán rằng lãnh đạo nhanh chóng bầu ta trở thành người phát ngôn điển hình. Có người , bài phát biểu đó thực chất là do lãnh đạo lên kế hoạch sẵn, điều này cũng cần thiết phải trách mắng, bởi mấy chục cuộc thảo luận nhóm lúc bấy giờ đều là ngồi nhìn nhau, yên lặng tới mức khó chịu. Và kết quả sau cùng của những cuộc họp lớn lại là “ hào hứng”, tiếp tục mở các cuộc họp , mỗi bài phát biểu đều như bắt đầu “dâm loạn”.

      Nhưng nếu cho rằng những người dân như chúng ta dễ dàng bị tu thành môn đồ của các nhà Đạo học là điều quá sai lầm. Ở cái thời đại cấm những ham muốn đó, thần kinh của con người trở nên vô cùng nhạy cảm, từ việc bào khoai lát, cho đến diễn kịch, các cuộc họp phê bình và tự phê bình, tất cả đều được người ta liên tưởng, vận dụng đến mức các nhà văn chân chính cũng phải nể phục. Chỉ chữ “dâm” đó có thể kích thích trí trưởng tượng của mọi người, để rồi từ đó nó ngừng được phát huy, khai quật. Từ bữa cơm khoai cơm sắn, cuối cùng có thể được mọi người tưởng tượng thành đại tiệc với tám món mặn và tám món chay. Đầu tiên có người cúi xuống cười thầm, sau đó người khác đứng lên hưởng ứng, thế là dần dần chủ đề chính được dẫn dắt sang tà đạo, được thảo luận sôi nổi hơn, hào hứng hơn. Đúng lúc đó, lãnh đạo sở Giáo dục đến, họ cũng chỉ cười mắng câu: “Đồ quỷ”, để tỏ lập trường ủng hộ mà cũng ngăn cấm của mình, nhưng có lẽ trong lòng họ cũng thầm đắc ý bởi bản lĩnh kiểm soát tình hình của mình. Vào lúc này, phía nữ giới có đặc quyền cần phát biểu, thậm chí họ có thể đỏ mặt rồi chạy ra ngoài chuồn mất cũng ai thắc mắc gì. Bây giờ nghĩ lại, “nhóm bốn người” chúng tôi là ngu ngốc, ngu ngốc ở chỗ chúng tôi cho rằng cả thiên hạ đều được họ bàn luận thành , tư tưởng thống nhất, ai ai cũng trở thành người máy số , như vậy chẳng phải con người biết thế nào là thiên tính, biết gì là lương tri nữa hay sao? Những điều đó để lại dấu ấn dễ phai mờ.

      Tiếp tục phát triển, có loại sổ Diêm phủ tên gọi là sổ “Xuất cung khan thư - Đọc sách khi đại tiện”(tức tất cả những người có sở thích “tam thượng” là mã thượng - lưng ngựa, chẩm thượng - gối, xí thượng - nhà xí) đều được ghi vào trong sổ này. Có lẽ quyển sổ này chuyên dùng cho những tên đặc vụ ngồi xổm trong nhà xí để ghi chép, cuối cùng ti dựa theo số lượng những cán gỗ, cán trúc dùng để lau chùi sau khi đại tiện của họ để tính tuổi thọ. Chương Dư thu thất học sĩ, quyển , Bắc đông viên bút lục sơ biên của Lương Cung Thần có viết:

      Diêm Vương cầm sổ sinh tử đọc, Xí phán quan : “Tuổi thọ của người này vẫn chưa hết, tại sao lại đưa đến đây?” Phán quan : “Người này đọc sách khi đại tiện, nên thần trừ bớt tuổi thọ của .” Diêm Vương cầm lấy quyển sổ, viết lên bìa ngoài bốn chữ lớn “Xuất cung khán thư”.

      Đọc đến đây, tôi bỗng cảm thấy ngạc nhiên, tuy tôi chỉ có sở thích “ thượng”, nhưng nó lại chính là “xí thượng”! Nhưng thiết nghĩ, sở dĩ tôi chưa được tiếp kiến Diên Vương có lẽ vì khi vào nhà vệ sinh tôi chưa từng mang các loại sách thánh hiền vào đọc, cho dù có mang vào tờ báo tôi cũng chỉ xem những quảng cáo bán nhà cũ mà thôi. Tuyệt đối được mang sách thánh hiền vào nhà vệ sinh, điểm này ngay cả những người dân thường ngô nghê, lỗ mãng cần nghe cũng biết. Tôi thường thấy các đồng nghiệp lo lắng lục lọi trong đống sách, vậy nếu phải là cấp đến kiểm tra chắc chắn là nỗi bức bách bên trong cơ thể thúc giục, lúc này bạn thử đưa cho họ quyển sách thánh hiền xem, chắc chắn trăm phần trăm bạn bị từ chối khéo. Nếu dựa vào trường hợp Gia Cát cung kính trước phân gà và trứng gà, những bài văn bày tỏ những tâm đắc về điều đó đương nhiên cũng được mang vào nhà xí.

      những thời cổ đại, mà ngay cả những năm tháng “tay rời sách hồng bảo [5] ” khi vệ sinh chúng ta cũng thường gặp vấn đề như vậy. Chúng ta cũng từng gặp những người tay giơ cao còn tay làm “công tác vệ sinh”, động tác đó tuy khó, nhưng lại rất khó giữ được lâu, và phải bất kỳ người bình thường nào cũng có thể bắt chước đạt hiệu quả đến vậy, khéo lỡ tay để lại mối hận nghìn thu. Vì khó đến vậy, nên nó trở thành loại khác biệt, mà người kia cứ hễ vào nhà xí là giơ cao tay, khiến cho những người vệ sinh ở đó cũng phải vội vàng theo, ràng người đó thành thạo trong việc lôi kéo người khác nhảy vào vùng đất chết. Và thế là có người bày tỏ hài lòng, tiết lộ người đó cố ý bảo người khác mang “sách hồng bảo” bỏ vào hố phân. Cũng may mà ta xuất thân tốt, lại là người ngay thẳng, tuy lòng người khó đoán nhưng tính tình “chân chất”, thôi cũng cho qua, nhưng hành động sáng tạo này từ đó còn xuất nữa. Sau này tôi đến địa phương ở miền Nam, thấy bên ngoài các nhà vệ sinh công cộng đều đặt chiếc bàn gỗ, bên trải vải đỏ, đồng thời có từ giấy nhắc nhở màu đỏ, ai có nhu cầu dùng nhà vệ sinh, xin tạm thời đặt “sách hồng bảo” ở đây. nhắc nhở chu đáo, chân thành này khiến người ta cảm động, đáng tiếc khi đó có số người kìm nổi quý đối với những quyển sách, tiện tay lấy mất hoặc nhanh tay dùng sách khác tráo đổi, tượng này xảy ra rất nhiều, khiến chiến lược này chưa thể đạt đến tiêu chuẩn hành vi và quan niệm đạo đức được mọi người công nhận, đáng buồn thay!

      [5] Sách hồng bảo: sách ghi lại những câu của Mao Trạch Đông

      Nhưng trong lúc vệ sinh người ta vẫn muốn tìm việc gì đó để làm. Cổ nhân “tiện nhân” thường có bốn dáng điệu như sau, đó là ăn chậm, đại tiện nhanh, dễ ngủ say, quần áo lôi thôi”, muốn trở thành người quý phái, ít nhất cũng phải ngồi trong nhà xí mười mấy phút. Ở đó mười mấy phút mà việc gì làm quả thực phù hợp với điều mà cổ nhân răn dạy “quý trọng thời gian”, vì thế có thể ở đó “tự kiểm điểm, nhắc nhở bản thân”, cũng có thể “bồi dưỡng cho mình tinh thần chính trực”, cho đến khi dần trở thành người quý phái, tự nhiên hiểu, tính toán kế hoạch tác chiến, xem xử lý bọn họ như thế nào, có nơi nào tốt hơn trong nhà xí. Trong Hán thư - Cấp Ảm truyện, Hán Vũ Đế vừa ngồi trong nhà vệ sinh vừa chuyện với Đại tướng quân Vệ Thanh Thị Trung bên ngoài, rất tùy tiện thoải mái, còn đối với người thẳng thắn đến mức khó gần như Cấp Ảm, chỉ cần mũ áo của Vũ Đế có chút chỉnh tề là ngài nhất định tiếp kiến Cấp Ảm. Các nhà sử học dựa vào đó để chứng mình kính trọng của Vũ Đế đối với Cấp Ảm, thực ra đó là sai lầm, cực kỳ sai lầm. Đối với thừa tướng Tôn Hồng - người tự mình xuyên tạc học thuật của mình - Hán Vũ Đế có thể vừa xách quần vừa ra tiếp kiến, chứng tỏ quan hệ của Hán Vũ Đế với Tôn Hồng thân thiết hơn so với Cấp Ảm. Là người đứng đầu trong triều, Vệ Thanh có vinh dự là người lính duy nhất có thể vào nhà vệ sinh vừa bàn bạc kế sách chiến lược, vừa giúp Vạn Tuế gia “làm công tác vệ sinh” snau khi đại tiện, đó mới là đãi ngộ của bậc “đại thần cơ mật” thực .

      Có câu rằng: “Vì lãnh đạo làm trăm việc tốt bằng cùng lãnh đạo làm việc xấu”, biết câu này có phải được truyền lại từ thời Hán Vũ Đế hay , nhưng vào thời Minh chắc chắn xảy ra việc như vậy. Cố Đình Lâm từng trích dẫn như sau: “Người thời đó rằng, nếu quý đức vua, quan tướng nghe theo ngài triều, bằng tiếp đón nhau lúc rảnh rang.” Sớm hơn chút có Chu Hy, khi tiếp kiến Tống Hiếu Tông có : “NHững kẻ chỉ có mục đích duy nhất là làm quan thi thoảng đến tìm ta lần, còn những kẻ quý ta thực , cứ khi rảnh rỗi là họ lại tìm đến với ta. Những kẻ sĩ coi trọng lễ tiết, diện mạo thường là những người khó gần, bàn chuyện với họ vừa khó khăn lại vừa khó hiểu, những người dễ gần thường để ý đến lễ tiết, diện mạo, nhưng vẫn có thể dốc bầu tâm . giảo hoạt của bọn quan lại làm đầu óc ta mê muội, e rằng bệ hạ chưa kịp đưa ra quyết sách xử lý, trước đó, Người trúng kế của bọn gian thần.” Lời Chu Hy cũng cùng đạo lý như .

      Đương nhiên, việc gặp riêng lúc rảnh rỗi ở đây vẫn có phân biệt về tầng thứ. Chắc là ở chốn quan trường thời xưa có số bí quyết “ thể tiết lộ cho nếu chỉ là người bình thường”, vậy đối với những người thuộc tầng lớp cao hơn, sau khi thăng đường, vào phòng, giả sử bên kẻ đó phải là Võ Tắc Thiên để có diễm phúc được lên giường, việc thân mật nhất chỉ có thể là cùng vệ sinh thôi nhỉ! Nội dung có phần hơi xa, nhưng lại chưa được khảo chứng, vì thế bản thân tôi dám chắc việc vệ sinh là trung tâm của trung tâm chính trị dưới chế độ quản lý của nhà vua, nhưng số quyết sách tối cao lại được nảy sinh từ nhà vệ sinh, vì thế cũng thể phủ định hoàn toàn những việc .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :