(ST) Thuật Ngữ Trong Ngôn Tình

Thảo luận trong 'Box Editor'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. PHUONGLINH87^^

      PHUONGLINH87^^ Well-Known Member

      Bài viết:
      4,455
      Được thích:
      6,078
      Trò Chơi Trực Tuyến – Game Online (Võng Du [网游]) :
      Probability of Kill : Xác suất tiêu diệt.
      Player Killer : Người giết người chơi khác.
      Player Killing : Trận đấu giữa người chơi với người chơi (thường là kiểu mất còn).
      Perform Kill : Ý chỉ công kích đặc biệt.
      Phantom King : trùm (boss) trong trò chơi ( phải trực tuyến) Okage: Shadow King.

      Địa Lý :
      Pakistan : Mã quốc gia ISO là PK.
      Park : Viết tắt bản đồ là PK.
      Possum Kingdom Lake, Texas.
      Pyramidal peak : Viết tắt bản đồ là PK.
      Peekskill, New York : Thị trấn ở New York, Hoa Kỳ.
      Parkdale, Toronto, Ontario, Canada.
      Quân :
      Probability of Kill : Xác suất tiêu diệt.
      (Theo Wikipedia.org, QuansuVN.net, Baidu. Tạm thời là vậy, khi nào cảm thấy cần thiết tiếp tục dịch/edit thêm phần chú giải về từ viết tắt này.)
      [15] Thạch tín [砒霜] ~ Nhân ngôn ~ Tỳ sương ~ Asen : Asen nguyên tố và các hợp chất của asen được phân loại là “độc” và “nguy hiểm cho môi trường” tại Liên minh châu Âu theo chỉ dẫn 67/548/EEC. (Theo Wikipedia.org)
      [16] Khắc [刻] : khắc bằng mười lăm phút. (Theo QuickTranslator)
      [17] Tả tướng [左相] : Viết tắt của tả thừa tướng [左丞相] (đứng đầu quan văn). (Theo Wikipedia.org)
      [18] Tả tướng quân [左将军] : Đứng sau thượng khanh, chức vụ hoặc quản lý vệ binh kinh thành, hoặc đóng quân nơi biên giới. (Theo Baidu)
      [19] Thượng khanh [上卿] : Tương đương với địa vị tể tướng, mà còn được hoàng đế ưu ái. Chức vị cao cấp của cổ đại. (Theo Baidu)
      [20] Tẩu tử [嫂子] ~ Tẩu [嫂] : Chị dâu. Riêng với “tẩu” [嫂] cũng có thể là “thím ; mợ”. (Theo QuickTranslator)
      [21] Chân chó [狗腿] : Nghe mấy bạn đồn là ngôn ngữ mạng của Trung Quốc, nghĩa tương tự với “nịnh hót; nịnh bợ”. TYV nghĩ có lẽ là do con chó hay theo đuôi ai đó, và bộ phận mà con chó dùng để theo đuôi ai đó chính là chân của nó, cho nên người ta mới dùng từ “chân chó” để ám chỉ “nịnh hót; nịnh bợ” như thế.
      [22] Hán gian [汉奸] : Hán gian, ý chỉ kẻ nương nhờ quân xâm lược, thông đồng với địch bán nước, hoặc người dẫn dụ dân tộc khác xâm lượng người Trung Quốc (vốn chỉ kẻ phản bội của dân tộc Hán, sau lại về toàn bộ dân tộc Trung Hoa). (Theo Baidu)
      [23] Tràng vị [肠胃] : “Tràng” là “ruột”, “vị” là “dạ dày”. (Theo QuickTranslator)
      [24] Váy hồng [石榴裙] ~ Vốn từ Hán việt là “thạch lựu quần” :
      Theo chú thích của bản Hí tặng Triệu sứ quân mỹ nhân [戲贈趙使君美人] ThiVien.net “thạch lựu quần” là “quần màu hoa lựu“. Ở bài thơ Như ý nương [如意娘] “thạch lựu quần” đượcPhạm Thị Hảo dịch thẳng ra là “quần hồng”. Còn trong bản dịch Hồng Lâu Mộng của Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ “thạch lựu quần” trong “hàm tương vân túy miên thược dược nhân ngốc hương lăng tình giải thạch lưu quần” [憨湘云醉眠芍药茵 呆香菱情解石榴裙] được dịch ra là “tấm quần hồng lăng”.
      Nhưng từ “quần” [裙] theo QuickTranslator chính là “váy” hoặc “vật giống cái váy” nên mình quyết định tạm edit ra là “váy hồng” để cho nó… dễ hình dung. Trong những dòng dưới đây, từ “thạch lựu hồng” được thay thế bằng từ “váy hồng”.
      Lại về váy hồng vào thời Đường, váy hồng là loại trang phục mà những người con còn trẻ rất ưa thích. Váy này mang màu hồng của thạch lựu, nhiễm màu khách, thường khiến người con mặc nó xinh đẹp động lòng người. (theo Baidu)
      [25] Lệnh thiên kim [令千金] : Tạm hiểu là “tiểu thư nhà ta” (lời kính trọng, dùng với những người thân trong gia đình). (Theo QuickTranslator) Nhưng thiết nghĩ đó đôi khi cũng có thể là cách châm biếm.
      [26] Tôn phu [尊夫] : tạm hiểu là “người chồng tôn quý”. (Theo QuickTranslator) Có vẻ như đây là cách trang trọng nhưng ở trong số trường hợp, nó cũng có thể là cách châm biếm.
      [27] Hộ khách [客户] :
      Giải thích theo thương nghiệp đại :
      “Hộ khách” là chỉ thông qua mua sản phẩm hoặc phục vụ của bạn để thỏa mãn nhu cầu của quần thể, cũng là chỉ cá nhân hoặc xí nghiệp có quan hệ kinh tế trực tiếp với cá nhân hoặc xí nghiệp.
      Giải thích cơ bản :
      […]
      3. Nhà xưởng, xí nghiệp hoặc người người môi giới gọi là khách hàng vãng lai; thương gia, người buôn bán.
      Giải thích ràng :
      […]
      đại có xu hướng để người khác phục vụ, cũng chính là người mua người khác phục vụ mình, hoặc người đầu tư !
      (Theo MBAlib)
      [28] Quỷ Đả Tường [鬼打墙] :
      Cái gọi là Quỷ Đả Tường, chính là lúc ban đêm hoặc ở vùng ngoại ô, bị khoanh trong vòng tròn thoát ra được. tượng này trước hết là có . có nhiều người gặp phải.
      […]
      Tóm lại, bản chất chuyển động của sinh vật là chuyển động tròn. Nếu như có mục tiêu, chuyển động bản năng của bất kì sinh vật nào cũng đều là chu vi hình tròn. (TYV : Xem thêm chi tiết ở đây)
      […]
      đến Quỷ Đả Tường, nghĩa là bạn mất cảm giác phương hướng, cách khác, bạn lạc đường.
      […]
      (Theo Baidu)
      [29] Lăng Đầu Thanh [愣头青] :
      Lăng Đầu Thanh, là từ chúng ta thường dùng trong đời sống, về người nào đó làm việc có đầu óc, hoặc động não, chưa bao giờ phân tích, phán đoán tình hình nội dung, tính chất, đúng sai, phải trái vân vân của việc hành động mù quáng, hậu quả, bởi vì phương pháp hành động mẫu thuẫn với tình hình phát triển của việc, cuối cùng vấn đề đáng để mắt tới thành ra vấn đề lớn hậu quả nghiêm trọng, chuyện tốt biến thành chuyện xấu.
      [ Nghe đồn là do ] : Tên đầy đủ của Lăng Đầu Thanh là Bách Hưởng Thiên Túc Trùng, cũng là Thổ Long, là quái vật khó thấy được trong truyền thuyết địa phương, tả nó giống như con rết có nhiều chân, màu xanh biếc, lại to lớn vô cùng, cái đầu to cỡ nắm tay của người trưởng thành. Hễ thấy cái gì là tấn công liền, cho nên người ta gọi nó là Lăng Đầu Thanh, ở nông thôn đồn Lăng Đầu Thanh lớn rất chậm, từ thời thơ ấu đến thời kỳ trưởng thành cần tận mấy trăm năm.
      […]
      Có điều nó là vì màu sắc cơ thể cùng với cái tên Lăng Đầu Thanh do tập tính thấy người là cắn lại được sử dụng rộng rãi để chỉ người tính tình nóng nảy, phân biệt phải trái.
      (Theo Baidu)
      [30] Phúc tướng [福相] : Tướng mạo rất có phúc. (Theo QuickTranslator)
      [31] Quốc trượng [国丈] : Là cha vợ của vua theo cách gọi thông thường. Thường được dùng trong hí khúc (các loại hí kịch truyền thống của Trung Quốc và các loại kịch hát địa phương, kết hợp múa hát để diễn cốt truyện) và tiểu thuyết. 《 Tam hiệp ngũ nghĩa 》 hồi bốn : “Hoàng đế Nhân Tông lên ngôi, phong Lưu Hậu làm thái hậu, lập Bàng Thị làm hoàng hậu… Bàng Cát làm quốc trượng kiêm thái sư.” Kinh kịch 《 Nhị tiến cung 》: “Ngài thái sư phụ thân của (hoàng hậu) nương nương, ngài ấy vốn là hoàng thân quốc trượng.” Tập tư liệu lịch sử Trung Quốc cận đại 《 Thái bình thiên quốc • Thái bình lễ chế 》: “Người trong thiên hạ đều nhất trí gọi nhạc phụ (cha vợ) trẫm là quốc trượng.”(Theo Baidu)
      [32] Châu quang bảo khí [珠光宝气] : “Châu” [珠], “Bảo” [宝] : Chỉ đồ trang sức ; “Quang” [光], “Khí” [气] : Chỉ màu sắc rực rỡ lấp lánh. Miêu tả quần áo và trang sức phụ nữ sang đẹp và lộng lẫy, lấp lánh ánh châu báu.
      [33] Quý nhân [贵人] : Nữ quan trong hoàng cung thời xưa. (Theo QuickTranslator)
      [34] Lang yên [狼烟] : Khói báo động (đốt phân của con sói làm khói ám hiệu báo động). (Theo QuickTranslator)
      [35] Chấp niệm [执念] : Là loại ham muốn vô cùng mãnh liệt, “chấp” [执], đơn giản là cố chấp, ý nghĩa của từ “chấp niệm” [执念] : người nào đó cố chấp đến mức khó mà có thể thay đổi đươc ý nghĩ (hoặc cách nghĩ). (Theo Hudong.com)

    2. PHUONGLINH87^^

      PHUONGLINH87^^ Well-Known Member

      Bài viết:
      4,455
      Được thích:
      6,078
      THÀNH NGỮ
      [01] Bách thí bách linh [百试百灵] ~ Trăm thử trăm thiêng : Theo TYV đoán là gần giống với “trăm trận trăm thắng”.
      [02] Danh bất hư truyền [名不虚传] : “Tiếng tăm, danh tiếng truyền đúng như thực tế.” – Theo QuickTranslator.
      [03] Thần hồ kỳ kỹ [神乎其技] :
      – Thần : Thần kỳ khó lường ; Kỹ : Kỹ nghệ. Miêu tả kỹ nghệ hay thủ pháp [phương pháp, thủ đoạn] hết sức cao minh.
      – Là thành ngữ cổ đại.
      – Xuất xứ : Thanh • Ngô Nghiễn Nhân 《 Nhị Thập Niên Mục Đổ Chi Quái Trạng 》 hồi thứ 31 : “ chỉ có cách lừa vàng bạc này, mọi người lại vui vẻ bằng lòng bị lừa, đây mới là thần hồ kỳ kỹ !”
      (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [04] Thuận lý thành chương [顺理成章] : TYV nghĩ là “Thuận theo lý thuyết (lời mang tính [gần như] đương nhiên) mà suông sẻ (như thế nào đó)”.
      [05] Mạn bất kinh tâm [漫不经心] : “Mạn”[漫] : Tuỳ tiện, chịu ràng buộc. “Kinh tâm” [经心] : Lưu ý, lưu tâm. “Bất” [不] là “” (cùng chức năng phủ định với từ “not” của tiếng ). Cả thành ngữ ý chỉ lời , việc làm tuỳ tuỳ tiện tiện, để ở trong lòng. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Cũng là, “Thờ ơ; để ý; đếm xỉa tới” (theo QuickTranslator).
      [06] Điện quang thạch hoả [电光石火] ~ Cũng hay được viết sai thành “Điện quang hoả thạch” [电光火石] : Là chỉ, ánh sáng của tia chớp, lửa của đá lấy lửa. Vốn là từ của Phật gia, chỉ vật đến rồi trong chớp mắt. nay được dùng để miêu tả vật biến mất trong nháy mắt giống như tia chớp cùng lửa của đá lấy lửa. Cũng được dùng để chỉ hành động nhanh chóng, ra tay trước hạn định.(Theo Baidu)
      [07] Hiệp cốt nhân tâm [侠骨仁心] : “Hiệp” của “hiệp nghĩa”, “cốt” của “xương cốt”, “nhân” là “nhân ái”, “tâm” là “trái tim”. TYV nghĩ có thể tạm hiểu nó là, “Hiệp nghĩa (khắc) trong xương cốt, nhân ái (khắc) sâu trong tim”.
      [08] Thâm cư giản xuất [深居简出] : “Thâm” [深] là “thâm sâu”, “cư” [居] là “cư ngụ”, “giản” [简] là “giản đơn” (ở đây còn có thể hiểu là “hạn chế”), “xuất” [出] là “ra ngoài”. Có thể tạm hiểu cả thành ngữ là, “Ở nơi thâm sâu (thường là nơi mấy người biết), hạn chế ra ngoài”.
      [09] Tất cung tất kính [毕恭毕敬] : Miêu tả dáng vẻ vô cùng cung kính. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [10] Vô thanh vô tức [无声无息] : thanh, có hơi thở. Cũng có khi chỉ người có tiếng tăm, được người khác biết. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [11] Trường mệnh bách tuế [长命百岁] : Mệnh [命] : Tuổi thọ. Sống lâu, sống đến trăm tuổi.(Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Gần giống với câu “sống lâu trăm tuổi” bên Việt Nam mình.
      [12] Thủ hạ lưu tình [手下留情] : Tình [情] : Tình cảm. Lúc ra tay chừa chút tình cảm. Ý xử lý (giải quyết) chuyện nào đó nên quá hà khắc. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [13] Thống khốc lưu thế [痛哭流涕] : Thế [涕] : Nước mắt. Miêu tả dáng phi thường đau lòng mà khóc rống. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) hơn là, “chảy nước mắt khóc thống thiết”.
      [14] Đức cao vọng trọng [德高望重] : “Đạo đức uy tín rất cao; có đức độ và danh vọng cao.” – Theo Lạc Việt.
      [15] Hỉ khí dương dương [喜气洋洋] : “Hỉ khí” [喜气] : khí vui mừng. “Dương dương” [洋洋] : dào dạt. Cả thành ngữ có thể tạm hiểu là, “ khí vui mừng dào dạt”. Cũng có khi dùng để miêu tả dáng vẻ phi thường đắc ý hoặc dị thường sung sướng. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [16] Thoại lý hữu thoại [话里有话] : Tạm hiểu, “Trong lời thoại có lời thoại khác”, “câu có hàm ý khác” (theo QuickTranslator).
      [17] Cơ duyên xảo hợp [机缘巧合] : “Cơ duyên” [机缘] là “cơ hội và duyên phận”, “xảo hợp” [巧合] là “vừa khớp; khéo; trùng hợp” theo như QuickTranslator.
      [18] Hi thế chi bảo [稀世之宝] : “Hi thế” [稀世] : Thế gian hiếm có. Cả thành ngữ ý chỉ trân bảo (báu vật, châu báu,v.v…) hiếm có đời. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [19] Linh đan diệu dược [灵丹妙药] : “Đan” [丹] : Thuốc Đông Y dạng viên ; “Linh đan” [灵丹] : Linh nghiệm ; “Diệu” [妙] : Chỉ tác dụng đặc biệt. Vị thuốc thần kỳ phi thường hiệu nghiệm có thể trị nhiều bệnh. Cũng có thể là chỉ biện pháp hay giải quyết được tất cả các vấn đề. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [20] Thiên la địa võng [灵丹妙药] : “La” [罗] : Lưới bắt chim. Chỉ vòng vây thiết lập dưới bốn phương. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Cũng có thể hiểu, “lưới trời lồng lộng; bủa vây kín khắp nơi, kẻ ác hết bề trốn thoát” (Theo QuickTranslator).
      [21] Thúc thủ vô sách [束手无策] : “Thúc thủ” [束手] : Bó tay. “Vô sách” [无策] : có cách nào. Cả thành ngữ có thể hiểu là “Bó tay có cách nào”.
      [22] Phấn sức thái bình [粉饰太平] : “Phấn sức” [粉饰] : Trát phấn trang điểm ; “Thái bình” [太平] : Xã hội bình an, thịnh vượng. Cả thành ngữ ý chỉ hành động chỉ tô (sơn lên) bề ngoài, giấu tình hình thực tế, đem cục diện mục nát hỗn loạn, trang điểm thành cảnh tượng thái bình thịnh thế. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Cũng có thể hiểu rộng và đơn giản hơn là : “Ra vẻ có việc gì cả.”.
      [23] Danh phù kỳ thực [名副其实] ~ Danh phó kỳ thực : “Phù” (“Phó”) [副] : Tương xứng, phù hợp. Danh tiếng hoặc danh nghĩa xứng với thực tế. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [24] Quan miện đường hoàng [冠冕堂皇] : “Quan miện” [冠冕] : Mũ dùng chung với lễ phục của vua chúa cổ đại ; “Đường hoàng” [堂皇] : Phong thái phi phàm. Miêu tả vẻ ngoài trông trang nghiêm hay quang minh chính đại. Thường dùng để châm chọc. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [25] Thế ngoại đào nguyên [世外桃源] : Ý chỉ nơi tốt đẹp, ngăn cách với thế giới bên ngoài. (TheoTra tuân công cụ đại toàn)
      [26] Tuần quy đạo củ [循规蹈矩] : “Tuần” [循] : Tuân thủ ; “Đạo” [蹈] : Lần theo dấu vết. Chỉ quy tắc bảo thủ gò bó, dám làm khác chút . (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [27] Phong thanh hạc lệ [风声鹤唳] : Tiếng rên rỉ của gió cùng tiếng kêu của hạc. cảm giác thấy thoáng qua về nguy hiểm trong những tiếng nhất. Miêu tả hoảng hốt lo sợ, hay tự mình sợ hãi lo buồn. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [28] Hoa ngôn xảo ngữ [花言巧语] : “Hoa” [花] : (Làm cho) hoa mắt, lừa đảo ; “Ngôn” [言] : Lời ; “Xảo” [巧] : Khéo léo, giả dối ; “Ngữ” [语] : Tiếng. Tạm hiểu : “Lời lừa tiếng dối”, theo QuickTranslator còn là “lời ngon tiếng ngọt; lời đường mật; ngọt như mía lùi; lời ngon ngọt; ngon ngọt”.
      [29] Thọ Tinh Công ăn thạch tín [寿星公吃砒霜] : Thọ Tinh Công (Ông Thọ) có thể xem là biểu tượng của sống thọ, sống lâu. Thạch tín (Asen) là chất kịch độc. Vậy nên, hình ảnh Thọ Tinh Công ăn thạch tín có thể xem như là hình ảnh của người còn muốn sống nữa (tự tìm đến cái chết).
      [30] Tinh bì lực tẫn [精疲力尽] : “Tinh” [精] và “lực” [疲] là “tinh lực” [sức lực cùng tinh hoa / tinh khôn] ; “bì” [疲] là mệt mỏi, mệt nhọc ; “tẫn” [尽] là tận, cạn hết. Có thể tạm hiểu là “sức cùng lực tận”.
      [31] Mở phường nhuộm [开起染坊] ~ Khai khởi nhiễm phường : Theo TN tra Baidu hình như là “dùng để chỉ những người biết tự lượng sức mình, năng lực khác xa thực tế”.
      [32] Hào khí kiền vân [豪气干云] : Từ này miêu tả hào khí to lớn, lớn tới nỗi chạm đến mây. (TheoBaidu)
      [33] Nhuyễn ngọc ôn hương [软玉温香] : “Nhuyễn” [软] : Dịu dàng ; “Ngọc” [玉], “Hương” [香] : cách gọi khác dành cho con . Miêu tả người con trẻ tuổi thân thể trắng nõn mềm mại, toát ra hơi thở thanh xuân ấm áp. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [34] Gian phu dâm phụ [奸夫淫妇] : Ý chỉ người con trai thông dâm cùng người con phóng đãng bị ràng buộc bởi bất kì thứ gì. Ý chỉ trai dâm loạn. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [35] Khanh khanh ta ta [卿卿我我] : “Khanh” [卿] là cách vợ chồng, bạn bè gọi nhau thân mật. “Khanh khanh ta ta” là “to bill and coo”, hôn hít và thầm ; ôm ấp hú hí ( về những người nhau). (Theo QuickTranslator và Lạc Việt)
      [36] Vô pháp vô thiên [无法无天] : “Pháp” là “luật pháp” (“mẫu mực”), “thiên” là “trời”. Cả câu tạm hiểu “ có luật pháp (mẫu mực), coi trời bằng vung”. (Dựa theo QuickTranslator)
      [37] Hồ ngôn loạn ngữ [胡言乱语] : Đây là thành ngữ theo cấu trúc tách từ. “Ngôn” [言] ghép với “ngữ” [语] thành “ngôn ngữ” [言语]. “Hồ” [胡] ghép với “loạn” [乱] thành “hồ loạn” [胡乱], tức “lung tung; qua loa; qua quýt; tuỳ tiện; làm càn; làm bậy”. Cả câu có thể hiểu là “ bậy; xằng; xằng xiên; xàm; nhảm; lời bậy; lời nhảm”. (Dựa theo QuickTranslator)
      [38] Đại đồng tiểu dị [大同小异] : “Đại” [大] là phần nhiều, phần lớn ; “Tiểu” [小] là phần ít, phần ; “Đồng” [同] là giống nhau ; “Dị” [异] là khác nhau. “Đại đồng tiểu dị” theo QuickTranslator là “đại để giống nhau; na ná như nhau; cơ bản giống nhau”.
      [39] Nguyệt hắc phong cao [月黑风高] : Vốn là “Đêm trăng mờ giết người, ngày gió cao phóng hoả.” [月黑杀人夜, 风高放火天. ]. Chỉ hoàn cảnh hiểm ác (thường là buổi tối). (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [40] Vô huyết vô lệ [无血无泪] : Tạm hiểu là “ máu, nước mắt”, thường chỉ người có lương tâm.
      [41] Vô tâm vô phế [没心没肺] ~ tâm phế : Tạm hiểu là “ tim, phổi”, thường chỉ người vô tâm, nhẫn tâm, hay suy nghĩ đơn giản, thiếu suy nghĩ, thậm chí là… ngu đần. (Dựa theo QuickTranslator) Phần TYV lại liên tưởng tới từ vô cảm, sống.
      [42] Uỷ khúc cầu toàn [委曲求全] : “Uỷ khúc” [委曲] là “uốn lượn; uyển chuyển; quanh co;”, “cầu toàn” [求全] có thể tạm hiểu là “mưu cầu hoàn hảo”, “đạt được mục đích”,v.v… (Theo QuickTranslator) Miễn cưỡng nhân nhượng người khác, hòng để bảo toàn (giữ tròn, duy trì,v.v…). Cũng chỉ vì lấy đại cục làm trọng mà nhượng bộ. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Có lẽ là thành ngữ này cũng giống kiểu “chính sách mềm dẻo”. XD
      [43] Kiến quái bất quái [见怪不怪] : “Quái” của “quái dị; quái lạ; quái gở; quái đản”, “Kiến” là “trông thấy”, “Bất” là “” (tương tự như “not” của tiếng ). (Dựa theo QuickTranslator) Cả thành ngữ có thể tạm hiểu là : “Trông thấy quái (với người thường) nhưng cảm thấy quái (với bản thân)”.
      [44] Lê hoa đái vũ [梨花带雨] : Giống như hoa lê dính hạt mưa. Vốn miêu tả dáng vẻ khi khóc của Dương quý phi. Sau này được dùng để miêu tả kiều diễm của người con . (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [45] Lục thần vô chủ [六神无主] : Lục thần có chủ : Theo Đạo gia, lục thần của cơ thể người gồm tim, gan, phổi, thận, tỳ, mật. Tạm hiểu là “mất bình tĩnh; hoang mang lo sợ; làm chủ được tinh thần”. (Dựa theo QuickTranslator)
      [46] Hồng nhan bạc mệnh [红颜薄命] : Tạm edit là “Má hồng mạng mỏng manh (bạc bẽo)”. “Má hồng” dùng để chỉ người con đẹp. (Dựa theo QuickTranslator)
      [47] Kỳ hoa dị thảo [奇花异草] : Ghép “hoa” với “thảo” thành “hoa thảo” [花草] chính là “hoa cỏ”, ghép “kỳ” với “dị” thành “kỳ dị” [奇异], cả cụm từ có thể hiểu là “hoa cỏ lạ hiếm thấy” (thường thuộc loại quý giá). (Dựa theo QuickTranslator)
      [48] Phi dương bạt hỗ [飞扬跋扈] : “Phi dương” [飞扬] : Phóng túng ; “Bạt hỗ” [跋扈] : Ngang ngược, bá đạo. Chỉ ngang tàng, bị trói buộc, coi ai ra gì. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [49] Thần lai chi bút [飞扬跋扈] : “Thần” [神] : Thần linh. Tác phẩm được thần linh hỗ trợ viết (hoặc vẽ) ra. Miêu tả tác phẩm, câu chữ đặc sắc. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn)
      [50] Vọng sơn bào tử mã [望山跑死马] :
      Mắt thấy núi ngay trước mặt nhưng thực tế lại cách rất xa.
      đúng là khoảng cách đến núi thấy bằng mắt rất gần, nhưng thực ra lại có thể khiến con ngựa mệt chết.
      Miêu tả việc nhìn dễ, làm khó.
      (Theo Baidu)
      [51] Nhất minh kinh nhân [一鸣惊人] : Ám chỉ biểu bình thường có gì đặc biệt, thoáng cái làm ra thành tích kinh người. (Theo Tra tuân công cụ đại toàn) Dựa vào Đến đây , bác sĩ – Chương 04, TYV nghĩ có thể tạm hiểu rộng hơn ra là : Thoáng nhìn thấy bình thường nhưng thực ra phải thế.
      [52] Tiểu biệt thắng tân hôn [小别胜新婚] : Theo TYV tạm edit là : “Chút xa cách còn hơn cả tân hôn”. Theo Baidu : Vợ chồng son nếu vì công tác hoặc là có chút chuyện mà phải xa nhau vài ngày, tới lúc gặp lại, tình cảm càng thêm ngọt ngào (Gặp lại nhau sau thời gian xa cách, cảm giác tựa như mới kết hôn). Có điều, theo như ngữ cảnh của của Phế hậu tướng quân – Chương 08, có vẻ như ý Mạc Dung Viêm là xa Tả Thương Lang ít ngày rồi lại gần gũi còn hơn cả đêm tân hôn (với Khương Bích Lan) (?).
      [53] Nhược thủy tam thiên [弱水三千] :
      Ngày xưa có rất nhiều con sông nông nhưng chảy xiết thể dùng thuyền mà phải dùng (mấy thứ như) xuồng cao su (nguyên gốc là “皮筏” – “leather float; inflatable raft”, ta cũng ứ ) mà sang, người xưa cho rằng do nước yếu nên chở thuyền được, cho nên mới gọi sông như vậy là “nhược thủy” (“弱水” – “nước yếu”). Sau đó, văn học cổ dần dần dùng từ “nhược thủy” để chỉ con sông hiểm mà dài rộng, trong 《 Kim Sơn Diệu Cao Thai 》 khá nổi tiếng của Tô Thức có câu : “Chốn Bồng Lai thể đến, nhược thủy ba nghìn dặm”. Từ “nhược thủy” trong 《 Hồng Lâu Mộng 》 ý chỉ bể tình biển . Cổ Bảo Ngọc với Lâm Đại Ngọc : “Mặc cho nhược thủy tam thiên, ta chỉ lấy gáo nước”, sau này trở thành lời thề tình son sắt giữa hai người nam và nữ. (Theo Baidu.com)
      vài câu dịch sang tiếng của câu “Mặc cho nhược thủy tam thiên, ta chỉ lấy gáo nước” : “You are the only one for me in this multifarious world.” (Tôi chỉ có mình người giữa chốn phồn hoa này.), “Even if there are thousands of options,I will choose the only one in my heart.” (Dẫu cho có ngàn lựa chọn, tôi chỉ chọn người trong trái tim mình.),… (Theo Bulo.Hjenglish.com)
      [54] Hậu tri hậu giác [后知后觉] :
      Giải thích căn bản
      “Tiên tri tiên giác” cùng “hậu tri hậu giác”, rất đơn giản, chính là độ nhạy cảm đối với việc, đầu tiên là tiên tri tiên giác đến cuối cùng là hậu tri hậu giác.
      Giải nghĩa từ trong sách cổ
      Trước tiên phải hiểu , “tri” khác với “giác”. “Tri”, chính là “tri đạo” (biết / hiểu / ), thuộc về lý tính. “Giác”, chính là “cảm giác”, thuộc về cảm tính. “Tri” là khách quan, “giác” là chủ quan.
      Nhận biết với cảm giác hề giống nhau. Bạn trông thấy bông hoa có màu hồng, là nhận biết. Bạn cảm thấy đẹp, đó là cảm giác. Bởi vì, bạn trông thấy màu hồng, người khác cũng trông thấy màu hồng. Có điều, bạn cảm thấy đẹp, nhưng có thể người khác cảm thấy đẹp.
      Như vậy, “tiên tri hậu giác” cùng với “hậu tri tiên giác” cũng ràng rồi.
      Ví dụ
      Thần sắc của Tiểu Vương trong phòng làm việc ổn, do nhà có chuyện.
      Nếu như bạn hề cảm thấy thần sắc của ta ổn. Mà phải nhờ, người khác là nhà ta có chuyện rồi, bạn mới nhìn lại, quả nhiên lông mày ta cứ nhíu chặt, mới thấy nhà ta đúng là có chuyện . Đó là, “tiên tri hậu giác”.
      Trái lại, nếu bạn sớm cảm thấy thần sắc ta ổn, sau đó mới nghe nhà ta có chuyện. Đó là, “hậu tri tiên giác”.
      Bổ sung : Đây chỉ là quá trình từ nhận thức đến hiểu . “Tiên tri tiên giác” nghĩa là quá trình từ nhận thức đến hiểu xảy ra rất nhanh. “Hậu tri hậu giác” là quá trình từ nhận thức đến hiểu xảy ra khá chậm. Quá trình từ “tri” (nhận thức) tới “giác” (hiểu ) chính là quá trình tự dung nhập những thứ thuộc thế giới bên ngoài vào bên trong mình.
      TYV : “Giác” ở đây vốn là trong từ “cảm giác” và “giác ngộ”.
      (Theo Baidu.com)
      [55] Tửu quá tam tuần, thái quá ngũ vị [酒过三巡, 菜过五味] :
      Ý của “Tửu quá tam tuần” là uống rượu ba phiên. Tỉ như, có năm vị ngồi cùng bàn, mỗi người đều uống lượt, như thế tính là phiên, cũng chính là “ tuần”. Đây là ý nghĩa ban đầu của từ “tuần”.
      Sau này mỗi địa phương lại có khái niệm riêng, chính là mỗi người nhất định phải uống sạch rượu, mới được tính là tuần.
      Có câu “Tửu quá tam tuần, thái quá ngũ vị”, chính là chỉ những người cùng bàn uống ba phiên (mỗi người uống ba chén), sau đó món ăn cũng đủ năm vị. Đây ý chỉ bữa tiệc đến hồi kết thúc.
      Trong bình thư ( hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ) cùng với hí kịch cổ thường nghe câu “Tửu quá tam tuần, thái quá ngũ vị”.
      Cái gọi là “tam tuần”, chính là ba lượt. Người chủ rót cho mỗi vị khách lượt rượu, nếu như tuần là vòng, rót xong ba lượt, các vị khách đều uống cạn, được gọi là “tửu quá tam tuần”.
      Lời khách sáo này ý yến tiệc tới độ sâu nhất định, có thể bàn luận vấn đề bản chất làm nên bữa tiệc đó, hoặc là yến tiệc tới hồi kết thúc.
      (Theo Baidu.com (Baike))
      Ba tuần đó thường là : Người chủ kính người khách danh dự, người khách danh dự đáp lễ người chủ, người chủ kính người khách bình thường.
      Năm vị đó thường là : Toan – Điềm – Khổ – Lạt – Hàm (Chua – Ngọt – Đắng – Cay – Mặn).
      (Theo Baidu.com (Zhidao))
      [56] dương quái khí [阴阳怪气] : Chỉ lời lẽ, cử chỉ vân vân quái đản, kỳ lạ, hoặc lời , thái độ chân thành, khiến người ta đoán ra. VD : Bộ dạng dương quái khí kia của , khiến cho người ta vui. (Theo Zdic.net)
      [57] Thiên chi kiêu tử [天之骄子]: Con cưng: Đứa con được cha mẹ cưng chiều quá sinh kiêu. Đứa con cưng của ông trời. Vốn ý chỉ tộc người Hồ hùng mạnh ở phương Bắc, sau lại chỉ đứa con do được cha mẹ cưng chiều quá mà sinh hư. (Theo Baidu.com)

      NHÂN VẬT – ĐIỂN TÍCH – LỊCH SỬ
      [01] Kinh Kha thích (ám sát) Tần Vương
      [02] Shiratori Reiko [白鸟丽子] : Là nhân vật chính trong truyện tranh Shiratori Reiko de Gozaimasu!, là 19 tuổi, nhà giàu mới nổi từ miền quê, kiêu căng, ngạo mạn. Hình minh hoạ (cũng được xem là kiểu cười của Shiratori Reiko) :
      [03] Thọ Tinh Công [寿星公] ~ Thọ thần ~ Ông Thọ : Theo truyền thuyết, Thọ Tinh Công đồ gốm, sứ thời Minh và đầu thời Thanh được tạo hình vị thần cao lớn, đầu dài, trán hơi nhô, bộ râu dài trắng và khuôn mặt hiền từ, nụ cười tươi. Thần là biểu tượng cho trường thọ và cát tường.(Theo Cửa Sổ Mới)

    3. PHUONGLINH87^^

      PHUONGLINH87^^ Well-Known Member

      Bài viết:
      4,455
      Được thích:
      6,078
      BÀI THƠ
      [01] Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn, tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn. [风萧萧兮易水寒, 壮士一去兮不复还.] : Là hai câu thơ Kinh Kha ứng tác với các bạn tiễn, tạm hiểu, “Gió đìu hiu sông Dịch lạnh, tráng sĩ trở về.”. Xem chi tiết.
      根正苗红: căn chính miêu hồng
      [Theo cxgjdq] nó có nghĩa đen là rễ (nguồn gốc) chân chínhm cành lá khỏe mạnh. Nghĩa bóng: chỉ người từng kiên quyết/vững vàng trong chính trị. Cái này căn theo ngữ cảnh nữa nhá, nếu thấy ổn google thêm lần nữa, coi nó còn nghĩa khác hôn :-s
      “phong sinh thủy khởi” = “Gió nổi nước dâng”
      Nhược thủy tam thiên [弱水三千] : Ngày xưa có rất nhiều con sông nông nhưng chảy xiết thể dùng thuyền mà phải dùng (mấy thứ như) xuồng cao su (nguyên gốc là “皮筏” – “leather float; inflatable raft”, ta cũng ứ ) mà sang, người xưa cho rằng do nước yếu nên chở thuyền được, cho nên mới gọi sông như vậy là “nhược thủy” (“弱水” – “nước yếu”). Sau đó, văn học cổ dần dần dùng từ “nhược thủy” để chỉ con sông hiểm mà dài rộng, trong 《 Kim Sơn Diệu Cao Thai 》 khá nổi tiếng của Tô Thức có câu : “Chốn Bồng Lai thể đến, nhược thủy ba nghìn dặm”. Từ “nhược thủy” trong 《 Hồng Lâu Mộng 》 ý chỉ bể tình biển . Cổ Bảo Ngọc với Lâm Đại Ngọc : “Mặc cho nhược thủy tam thiên, ta chỉ lấy gáo nước”, sau này trở thành lời thề tình son sắt giữa hai người nam và nữ. (Theo Baidu.com)
      Hoàn Khố (纨绔)= Quần áo lụa là
      1. Mượn chỉ con cháu người phú quý.
      2. Khỉ nhu hoàn khố nhu: áo đuôi ngắn; khố: quần. Dùng tơ lụa làm quần áo. dùng chỉ phú quý đệ tử
      3. Hoàn khố cao lương cao lương: thực phẩm tinh mỹ. áo cơm Tinh mỹ. Mượn chỉ con cháu nhà phú quý chỉ biết hưởng thụ, chuyện gì cũng thể làm.
      4. Ăn chơi thiếu gia quần là áo lượt: mảnh lụa làm quần. Chỉ quan liêu, địa chủ các loại:đợi có tiền có thế người ta suốt ngày sống phóng túng, làm việc đàng hoàng đệ tử
      Hậu tri hậu giác [后知后觉] :
      Giải thích căn bản
      “Tiên tri tiên giác” cùng “hậu tri hậu giác”, rất đơn giản, chính là độ nhạy cảm đối với việc, đầu tiên là tiên tri tiên giác đến cuối cùng là hậu tri hậu giác.
      Giải nghĩa từ trong sách cổ
      Trước tiên phải hiểu , “tri” khác với “giác”. “Tri”, chính là “tri đạo” (biết / hiểu / ), thuộc về lý tính. “Giác”, chính là “cảm giác”, thuộc về cảm tính. “Tri” là khách quan, “giác” là chủ quan.
      Nhận biết với cảm giác hề giống nhau. Bạn trông thấy bông hoa có màu hồng, là nhận biết. Bạn cảm thấy đẹp, đó là cảm giác. Bởi vì, bạn trông thấy màu hồng, người khác cũng trông thấy màu hồng. Có điều, bạn cảm thấy đẹp, nhưng có thể người khác cảm thấy đẹp.
      Như vậy, “tiên tri hậu giác” cùng với “hậu tri tiên giác” cũng ràng rồi.
      Ví dụ
      Thần sắc của Tiểu Vương trong phòng làm việc ổn, do nhà có chuyện.
      Nếu như bạn hề cảm thấy thần sắc của ta ổn. Mà phải nhờ, người khác là nhà ta có chuyện rồi, bạn mới nhìn lại, quả nhiên lông mày ta cứ nhíu chặt, mới thấy nhà ta đúng là có chuyện . Đó là, “tiên tri hậu giác”.
      Trái lại, nếu bạn sớm cảm thấy thần sắc ta ổn, sau đó mới nghe nhà ta có chuyện. Đó là, “hậu tri tiên giác”.
      Bổ sung : Đây chỉ là quá trình từ nhận thức đến hiểu . “Tiên tri tiên giác” nghĩa là quá trình từ nhận thức đến hiểu xảy ra rất nhanh. “Hậu tri hậu giác” là quá trình từ nhận thức đến hiểu xảy ra khá chậm. Quá trình từ “tri” (nhận thức) tới “giác” (hiểu ) chính là quá trình tự dung nhập những thứ thuộc thế giới bên ngoài vào bên trong mình.
      TYV : “Giác” ở đây vốn là trong từ “cảm giác” và “giác ngộ”.
      (Theo Baidu.com)
      Vụ Lý Khán Hoa
      Cả cụm từ tiếng Trung đó là “như trông hoa trong sương mù”. “Trông hoa trong sương mù” (“Vụ Lý Khán Hoa”) vốn chỉ người già mắt mờ, sau thường chỉ việc mơ hồ.
      Cụm từ này xuất phát từ bài thơ “Tiểu hàn thực chu trung tác” của Đỗ Phủ thời Đường:
      Xuân thủy thuyền như thiên thượng tọa, lão niên hoa tự vụ trung khán.
      Mình tạm edit thành: “Thuyền trôi nước xuân tựa trung, người già trông hoa trong sương.”.
      Ở bài thơ này, Đỗ Phủ vốn dùng với ý nghĩa là chỉ đôi mắt mờ của người già.
      (Theo Zdic.net)
      Hưng Tai Nhạc Họa (兴灾乐祸)
      Câu này thường dùng để về quan hệ giữa các nước, nhưng cũng có thể dùng ví von giữa người và người, ý người hay vật gì đó có ý tốt, trong lúc người khác gặp họa cảm thấy vui vẻ, có lòng đồng tình, thậm chí có thái độ ích kỷ lạnh lùng. Câu này có nghĩa gần giống câu “Bỏ đá xuống giếng; Vui khi người gặp họa. (Theo baike.baidu)
      Bào Bang (跑单帮)
      việt phrase dịch là: bọn người buôn nước bọt còn có ý chỉ là người nào đó lấy chuyện mua bán lại kiếm lời làm nghề nghiệp chính.

      NGUỒN: https://beckynatalina.wordpress.com/thuat-ngu-trong-ngon-tinh/

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :