1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Si Mê Và Liều Lĩnh

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961



      Chương 10


      Gorewood

      Thứ Hai ngày 17 tháng Mười



      Nàng đứng đường, ngước nhìn tòa lâu đài sừng sững như khối đá ngự đỉnh núi.

      Lisle ra khỏi làng và tới nơi vừa kịp lúc xe ngựa của Olivia dừng lại bên nghĩa địa cạnh phế tích nhà thờ. Chàng quan sát nàng bước xuống rồi tới bên lề đường. Nàng đứng đó, tay khoanh trước ngực, nhìn lên Lâu đài Gorewood với vẻ thích thú đến mê hoặc.

      đoàn xe dài - xe kéo và xe thồ - đứng trước mặt nàng. Những đoàn xe khác nối theo sau. Tất cả dân trong làng dù làm gì cũng đều ngừng lại, kinh ngạc bước ra chiêm ngưỡng.

      Chàng cũng há hốc miệng kinh ngạc. Chàng nhìn thấy đoàn xe nào dài tới vậy kể từ khi Vua George IV kinh lý từ thập kỷ trước.

      Nàng hề biết gì về đoàn ngựa, xe kéo, xe thồ chạy qua bên cạnh. Nàng để ý tới gì khác ngoài những gì nhìn thấy trong khối đá vuông vức uy nghi trầm mặc kia.

      Còn tất cả những gì chàng thấy lại là Olivia, trong dáng vẻ rất đặc trưng. Chàng yên lặng giây lát, chỉ để quan sát nàng đứng im phăng phắc tới nỗi người giàu trí tưởng tượng có thể nghĩ nàng dính phải bùa mê.

      Đây là Olivia, thế nên ràng nàng bị bỏ bùa mê. Chẳng cần phải giàu trí tưởng tượng mới nghĩ ra điều đó. Chỉ cần quen biết nàng là hiểu.

      Chàng biết khi nhìn thấy Kim tự tháp nàng thế nào nhỉ?

      Câu hỏi ngu ngốc. Tất nhiên nàng bị mê hoặc. Nàng bất chấp gian khó. Nàng lớn lên những con phố của Dublin và London. Nàng hạnh phúc và phấn khích… cho tới khi tất cả trở nên cũ kỹ khiến nàng phát chán.

      Cuộc sống của chàng phải lúc nào cũng vui thú như nàng tưởng tượng. Công việc nhàm chán và tẻ ngắt. Để tìm được ngôi mộ có khi phải mất nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm trời. Ngày nối ngày dưới cái nắng gay gắt, quan sát nhân công cẩn thận vận chuyển cát… chậm chạp và tỉ mỉ của công việc sao chép những hình ảnh mộ và các bức tường của ngôi đền, vẽ lại các đài tưởng niệm, bởi vì những thứ này rất dễ biến mất.

      Mọi bức tường và trần nhà bị xẻ ra, mang tới các viện bảo tàng trang hoàng hoặc những bộ sưu tập cá nhân. Đền đài bị phá hủy, đá từ đó được dùng trong nhà máy.

      Chàng nhớ nó, cái công việc nhàm chán và tẻ ngắt ấy. Chàng nhớ việc tìm kiếm, đo đạc, sắp xếp, dọn dẹp.

      Nàng hiểu tình cảm của chàng dành cho Ai Cập, nhưng nàng bao giờ hiểu được tình cảm của chàng dành cho những công việc tỉ mỉ như thế. Thực tế cuộc sống của chàng ở đó khiến nàng chán ngấy, và chàng biết điều gì xảy ra khi Olivia trở nên chán ngấy.

      ngày nào đó nàng tới chiêm ngưỡng các Kim tự tháp, chàng tin chắc như thế. Nàng tới thăm như nhiều người khác tới thăm, những nhà quý tộc du thuyền sang trọng, ngược xuôi dòng Nile, rồi vài tháng sau trở về nhà, du thuyền chất đầy kỷ vật.

      Đúng vào lúc tâm trí chàng vẫn còn phiêu du tận đẩu đâu nàng quay mặt lại. Quá bất ngờ, chàng cảm thấy như thể cả thế gian trôi tuột . Chẳng còn gì tồn tại ngoài khuôn mặt đẹp tuyệt trần của nàng, đôi mắt xanh biêng biếc và làn da màu ngọc trai, đôi má thắm hồng như ánh mặt trời.

      Chàng thấy như có ngàn mũi kim nhọn đâm trúng tim mình.

      “A, ngài ấy kia rồi, chủ nhân tòa lâu đài,” nàng bằng thứ giọng Scotland nặng trịch mà hẳn nàng mới học được ở Edinburgh.

      Tiếng ấy kéo chàng ra khỏi cơn mê. Chàng hy vọng nàng mua kèn túi để chơi.

      Chàng lại. “ giọng ấy với người trong vùng thôi,” chàng . “Họ nghĩ ta là nhân viên thu thuế hoặc người treo cổ phạm nhân chừng.”

      Nàng cười khẽ, tiếng cười êm như nhung. Chàng cảm thấy mình bị cuốn vào giọng cười đó, như con ruồi ngu ngốc lờn vờn bên mạng nhện.

      Thực tế. Hãy nghĩ tới thực tế. Chàng ngắm nghía trang phục của nàng như thể nó là đồ cổ.

      Bên những lọn tóc đỏ au xoăn tít, nàng đội chiếc mũ quái dị như thường lệ: cái vành rộng như boong tàu đô đốc, rất nhiều sợi lông và dải ren rủ xuống từ chóp mũ. Nàng mặc chiếc váy cũng quái dị như thường lệ: ống tay phồng to như thùng rượu và chân váy bồng bềnh, eo thít chặt tới nỗi dường như đàn ông có thể ôm trọn trong bàn tay.

      Dường như đồng nghĩa với thực tế. Dường như là thứ mộng mơ. Chàng ném suy nghĩ ấy ra xa như thể nó là mẩu rác rưởi vô dụng.

      Chàng bỏ mũ ra và cúi đầu chào, hành động giúp chàng chỉnh đốn lại lý trí. “Chào mừng đến lâu đài Rùng Rợn,” chàng . “Ta hy vọng nó đủ tàn tạ và u ám với em.”

      “Nó tuyệt vời,” nàng thốt lên. “Vượt xa hy vọng của em.”

      Quả thực nàng cực kỳ thích thú. Và kia, lẫn vào đâu được, phấn khích tô hồng đôi má và thắp sáng đôi mắt nàng.

      Nếu họ còn con trẻ, chắc chắn nàng chạy tới bên chàng, vòng tay đu lấy cổ chàng và kêu lên, “Được đến đây em vui quá!”

      Chàng thấy thoáng buồn len lỏi trong lòng, cảm giác mất mát - nhưng người ta đâu thể là trẻ con mãi, mà cũng chẳng ai muốn thế.

      Chàng đội mũ lại và hướng chú ý về lâu đài Gorewood cùng những thông tin về nó.

      “Kiểu lâu đài xây ụ đất lớn, có sân bao rộng,” chàng . “Hình chữ U. Tòa nhà chính có tầng hầm và ba tầng nữa. Hai chái nhô ra từ mặt phía Tây của tòa chính, với ba tầng ở tầng hầm. Chiều cao của tòa lâu đài là ba mươi hai mét, tính từ tầng trệt lên tới đỉnh. Trung bình tường dày bốn mét rưỡi. Nó rất khác những lâu đài bình thường, đúng thế, và nó cũng đặc biệt khi tồn tại được lâu tới vậy mà chỉ bị hư hỏng chừng này.”

      “Cảm ơn về bài giảng kiến trúc.” Nàng khẽ lắc đầu khiến những lọn tóc đung đưa quanh gương mặt. “Ngài chẳng thay đổi tí nào cả nhỉ? Em muốn bầu khí ở đó tuyệt vời cơ. Rất xám xịt và nguy hiểm. Và ánh sáng, vào thời điểm này trong ngày - mặt trời xuống thấp xuyên qua màn mây tạo ra những vệt tối dài phủ chụp lên gian ảm đạm - như thể lâu đài Gorewood tỏa bóng tối xuống khắp thung lũng bao quanh.” Trong khi nàng , bầy quạ, bị cái gì đánh động, bay vụt lên tòa tháp phía Bắc, kêu quàng quạc. “Và kia là những bóng ma u tối của ngài,” nàng thêm.

      “Miêu tả bầu khí là sở trường của em rồi,” chàng . “Ta biết đủ về khí ở đây rồi. Chẳng có gì ngoài mưa cả.” Ngắn gọn là như thế, những ngày mưa ngắn ngủi ảm đạm, nối liền những đêm dài u ám mưa giăng. Trong lúc đó, chàng luôn tự hỏi mình làm gì mà phải chịu đày ở đây. Ước gì chàng có ai đó để hàn huyên, và tự nhủ chàng có ý bảo đó là nàng, nhưng phải là người nhạy cảm. Nhưng giờ nàng ở đây, bừng sáng như ban mai Ai Cập, vừa đâm ngập trái tim chàng, vừa nâng nó lên cao bay bổng.

      “Thế em xin trịnh trọng tuyên bố là khí này hoàn toàn hợp lý,” nàng . “ bối cảnh hoàn hảo cho những câu chuyện rùng rợn như Frankenstein hoặc The Monk.”

      “Nếu đó là định nghĩa của em về hoàn hảo, chắc chắn em chết mê với phía bên trong lâu đài,” chàng . “Ẩm, lạnh và tối như hũ nút. Nhiều cửa sổ hư hỏng và tường chằng chịt kẽ nứt. Hệ quả là, chúng ta được nghe tiếng gió gào hú xuyên qua đó.”

      Nàng tiến lại gần hơn, chăm chú nhìn chàng từ dưới vành mũ rộng bát ngát. “Em đợi được nữa,” nàng . “Chỉ cho em nhanh , trong khi trời vẫn còn chút ánh sáng.”



      Olivia rất hồi hộp vào trong lâu đài, đúng thế, nhưng nàng quên để ý cổng vòm đổ nát ở lối vào, nơi đoàn xe của nàng chạy xuyên qua. Nàng những mong thấy Lisle xuất ở đó. Nàng tưởng tượng chàng đứng hồi lâu ngay bên cạnh cái chòi canh hình trống ở cổng cũng vô cùng điêu tàn và ấn tượng, quan sát đoàn xe ngang qua và tìm kiếm bóng nàng. Rồi chàng thấy nàng, bước ra khỏi chòi và… ừm, chàng dang rộng vòng tay để nàng chạy vào. Nàng cứ mong chàng bước ra từ đó, để chào nàng, với cương vị chủ nhân của tòa lâu đài.

      Thay vì thế, chàng đột ngột xuất , đúng nơi mà ánh mặt trời xuống thấp có thể tỏa sáng mái tóc chàng khi chàng ngả mũ cúi đầu chào. Ánh nắng dát vàng lấp lánh tóc chàng và nhảy múa đám bụi mù quanh đoàn xe, tạo nên những đốm vàng dập dờn quanh người chàng.

      bực mình khi chàng xuất bất ngờ như thế, cùng với tất cả ánh vàng sáng chói như thể nhân vật trong câu chuyện cổ. Trong thoáng, nàng ngỡ chàng nhấc nàng lên mình con bạch mà rồi đưa nàng

      Tới đâu? Ai Cập. Còn đâu nữa chứ? Tới đó chàng đặt nàng xuống sa mạc và quên bẵng nàng ngay khi nhìn thấy xác ướp hư hỏng, bốc mùi.

      Nhưng chàng thể làm thế, mà nàng cũng chẳng làm được gì với xuất thân của mình. Và chàng là bạn của nàng.

      Bạn nàng có rất nhiều quầng thâm dưới mắt, nàng phát ra điều đó khi quan sát kỹ hơn. Dưới bóng của vành mũ khó phát được bên mắt bị thương, nhưng cũng chính bóng tối ấy tô đậm những nét mệt nhọc kia gương mặt chàng.

      Chàng cũng vui. Chàng tỏ ra cam chịu, nhưng nàng có thể nghe thấy vui ấy trong giọng chàng và nhìn thấy nó trong dáng của chàng, rất cứng nhắc và thiếu niềm phấn khởi.

      Nhưng nàng gì, chỉ lắng nghe lúc chàng tiếp tục bài giảng ra vẻ thông thái trong khi họ lướt qua dưới cổng vòm, tiến vào sân bao đầy cỏ.

      Nàng thấy các tường bao đều nham nhở, nhưng những chuồng ngựa ở phía cuối sân còn hư hỏng nặng hơn. chung, tòa lâu đài quá đổ nát so với công trình ban đầu của người Atherton. Cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Cả nàng và Lisle đều hiểu tòa lâu đài này sắp tới lúc sụp đổ hoàn toàn.

      Họ tới gần cầu thang dẫn lên - có lẽ cao khoảng mười mét - tới cửa chính vào lâu đài.

      “Đây là lối vào tầng ,” chàng . “Ngày xưa người ta qua cầu kéo hoặc qua bên dưới khung lưới sắt của cổng thành, nhưng những thứ đó hỏng lâu rồi. Khi những hoạt động khôi phục chính được hoàn tất vào thế kỷ trước, các cụ nhà ta hẳn quyết định sử dụng cầu thang hợp lý hơn. quyết định sáng suốt, ta nghĩ thế. Ngày nay cầu kéo và khung lưới sắt hữu dụng nữa, mà bảo trì chúng cũng rất mất công.”

      Nàng có thể tưởng tượng ra cầu kéo và khung lưới sắt. Nàng có thể tưởng tượng ra tòa lâu đài vào thuở ban đầu, khi những bức tường bao vẫn còn vô cùng chắc chắn, và có rất nhiều lính gác thường trực quan sát từ các tháp, chòi canh và lan can thượng.

      Nàng toan bước lên bậc tam cấp chàng vòng tay quanh hông nàng ngăn lại. Nếu là nhân vật mà nàng tưởng tượng, chàng kéo nàng vào vòng tay và với nàng rằng chàng nhớ nàng biết bao nhiêu.

      Nàng rất nhớ chàng, chẳng dễ chịu gì. Nàng mong sao họ có thể cùng nhau khám phá Edinburgh. Hẳn là chàng cũng nguôi giận trước vẻ đẹp của miền đất ấy. Hẳn là chàng cũng công nhận nó khác xa London, như thế giới hoàn toàn lạ lẫm.

      Nhưng bàn tay đeo găng của chàng chỉ khẽ chạm vào người nàng rồi đẩy nàng về phía lối phủ đầy cỏ dại và đá sỏi dẫn vào tầng trệt.

      “Kia,” chàng . “Chúng ta có tầng hầm có ba phòng ở tòa nhà chính. Mái vòm chạm tò vò. phòng có giếng nước ở tháp Nam. Ta sắp đặt cho em và hai quý bà ở tháp Nam. Ấm hơn và sáng hơn chút. Hai Nữ ở tầng thấp hơn bởi vì cầu thang giết họ mất.”

      Nàng nhìn lên cao, cao mãi tới tận đỉnh lâu đài. Cầu thang ở trong đó chắc rất chật hẹp, uốn lượn rất dốc. Và tối đen nữa. Thời xưa, kẻ thù mà tìm cách vào được trong lâu đài cũng dễ dàng bị sập bẫy và bị giết trước khi kịp làm gì.

      “Cầu kéo và khung lưới sắt thú vị hơn bao nhiêu nhỉ,” nàng , bắt đầu bước lên những bậc tam cấp kém lãng mạn.

      nhà ngục có khiến em thấy ấn tượng hơn ?” chàng hỏi. “Bởi vì chúng ta có nhà ngục khá ẩm ướt ở chái Bắc của tầng trệt này.”

      “Em nghĩ là có đấy,” nàng .

      tại dùng đến nó nữa,” chàng . “Ngoại trừ phòng giếng, các phòng khác ở tầng hầm đều ở trong tình trạng hư hỏng nặng. trong những cầu thang dẫn từ tầng xuống bị sập. Tuy nhiên, bức tường bao quanh lâu đài là thứ bị phá hỏng nặng nề nhất.”

      Nàng bước lên bậc tam cấp cuối cùng. Cánh cửa mở ra và nàng bước qua người hầu giữ cửa, xuyên qua hành lang ngắn. Rồi nàng cứ thế đứng chôn chân, há hốc miệng kinh ngạc như nông dân chính hiệu.

      “Ta cũng có phản ứng y như thế,” giọng Lisle vang lên từ sau lưng nàng. “Nếu nghe cha mẹ ta miêu tả, em hẳn nghĩ chúng ta có cây cối mọc trong lò sưởi và chim chóc làm tổ gác trưng bày.”

      Nàng biết cha mẹ chàng thổi phồng lên. Lúc nào họ chẳng vậy. Nhưng cảnh tượng này với nàng quả thực quá bất ngờ.

      Trước mắt nàng là phòng tiệc cực lớn, tất nhiên là nàng từng ở trong nhiều phòng tiệc như thế. Nhưng chúng đều được bày biện đủ thứ, trưng ra mọi tiện ích đại. Chúng nguyên sơ và đơn giản như căn phòng này.

      đầu nàng là mái vòm khổng lồ. Bên trái nàng, phía cuối căn phòng dài bất tận, ngọn lửa bập bùng trong cái lò sưởi rất lớn có nắp bằng đá tảng hình nón. Phía bên kia là những hốc tường rộng thênh thang đặt sẵn nến.

      Căn phòng sáng rực rỡ. Dù hầu như chẳng bày biện gì, nhưng có lẽ căn phòng như thế này từ nhiều thế kỷ trước đây, khi Nữ hoàng Mary của Scotland tới thăm.

      Nàng nghĩ cảm xúc này hẳn chỉ bằng phần so với những gì Lisle cảm thấy khi chàng lần đầu nhìn thấy ngôi đền cổ: cảm giác bước vào thế giới khác cổ xưa hơn.

      Nàng mơ hồ cảm nhận được những người hầu vào phòng tiệc, xếp hàng, chờ đợi, và nàng biết họ chờ lệnh nàng, nhưng trong lát, tất cả những gì nàng có thể làm là tiếp nhận gian xung quanh.

      “Dài mười bảy mét và rộng tám mét,” giọng Lisle vang lên từ phía sau. “Mười mét tính từ sàn lên đến đỉnh mái vòm nhọn. Gác trưng bày có vẻ như bị thay đổi vào thế kỷ trước. Ta chắc có cần phải làm thế .”

      Nàng quay lại nhìn chàng. “Rực rỡ quá.”

      “Ta vui vì em nghĩ thế,” chàng . “Ta hy vọng em làm cho đám gia nhân hiểu được vẻ rực rỡ ấy. Có vẻ như họ nghi ngờ điều đó.”

      “Em làm thế,” nàng đầy nhiệt huyết. Nàng biết chính xác phải làm gì. Nàng tới đây cũng chỉ vì thế. Để biến phế tích thành kỳ quan và đưa ngôi làng trở lại với cuộc sống bình thường. Làm được việc gì đó đáng giá.

      Nàng chuyển chú ý sang đám người hầu xếp hàng, khuôn mặt họ lộ vẻ vui. lạ lùng, những người mới đến cùng nàng có vẻ lo lắng sợ hãi hơn những người ở đây mấy ngày. Nàng tin chắc Lisle làm hết sức để xốc dậy tinh thần của họ. Nhưng xét cho cùng, tất cả bọn họ đều từ London đến. Chắc hẳn họ phải cảm thấy mình như ở Thời đại Tăm tối.

      Nàng có thể trấn an họ. Chuyện này với nàng có gì khó. Ngay khi nàng làm được thế, họ hoàn thành công việc nhanh hơn nhiều.

      Rồi chàng sớm được trở lại với tình thực duy nhất của mình, còn nàng…

      Ôi, vì Chúa, nàng còn rất trẻ. Nàng vẫn còn nhiều thời gian để tìm ra tìm đích thực của mình.

      khác biệt này chẳng hay ho gì, nhưng trước đây nàng dẹp tan nhiều khác biệt rồi.

      Chỉ cần để ý xem nàng tiến xa tới mức nào kể từ ngày gặp chàng. Và giờ nàng có tòa lâu đài - phải mãi mãi, nhưng mà nàng cũng đâu phải sinh ra để dành cho cái gì đó mãi mãi.

      giờ sau



      Lisle biết Olivia là con tắc kè hoa. Nàng những biết nhái giọng và tiếng địa phương mà còn có thể bắt chước dáng điệu và phong thái của người khác. Chàng thấy nàng diễn ngon lành vai trẻ đường phố, chủ hiệu cầm đồ và người bán rong. Sao nàng thể dễ dàng sắm vai bà chủ lâu đài kia chứ?

      Tuy nhiên, chàng vẫn giật mình khi vừa bước vào phòng tiệc, nàng bỏ chiếc mũ ngớ ngẩn đầu ra và lập tức mang dáng vẻ của Quý bà Hargate. Nàng Olivia lãng mạn tuyệt trần đứng bên đường mà chàng thấy giờ trở nên sắc lạnh, nghiêm trang và đầy lý trí khi chuẩn bị hướng dẫn đám người hầu.

      Ưu tiên trước nhất là làm cho đại sảnh này thoải mái, bởi vì phần lớn thời gian họ ở căn phòng này. Nichols lựa ra nhóm gia nhân đầu tiên kỳ cọ căn phòng. Sau khi kiểm tra công việc của họ, Olivia hướng dẫn thay đổi đồ đạc và những việc tương tự.

      Khi nhận ra mình quan sát nàng như vẫn thường quan sát vải phủ xác ướp, chàng chỉnh đốn lại lý trí rồi rời khỏi gian phòng.

      Chàng trở về phòng mình, tự giáo huấn bản thân bài dài bất tận và vô cùng logic về chuyện phụ nữ quyến rũ nhường ấy có thể biến thành cơn bão cát ra sao. Xong xuôi, chàng thu thập các bản đồ và sơ đồ rồi trở lại chỗ nàng.

      Lấy dáng vẻ lạnh lùng và lý trí, chàng đưa chúng cho nàng và , “Ta nghĩ nếu có những thứ này em thấy dễ hiểu về tổng quan tòa lâu đài này hơn.”

      Nàng nhận lấy tập giấy và trải ra chiếc bàn rộng mà gia nhân vừa đặt vào chính giữa căn phòng. Nàng nghiên cứu hồi lâu, trong khi ấy ánh lửa từ lò sưởi và ánh nến cứ nhảy nhót những lọn tóc được hầu sắp xếp lạ mắt rủ xuống từ đỉnh đầu nàng.

      “Ôi, Lisle, thứ này tuyệt quá,” nàng .

      Nếu chàng được cuộn lọn tóc ấy vào ngón tay cảm giác thế nào nhỉ?

      “Em có số sách và giấy tờ mà ông chú Frederick Dalmay của ngài để lại,” nàng . “Có các sơ đồ và bản đồ trong đó, nhưng có cái gì cụ thể được như những thứ này.”

      “Ta vẫn thường làm thế mỗi khi tới xem xét kiến trúc xa lạ,” chàng . “Ta cần phải làm cái gì đó hữu ích. Mưa như trút khiến mọi hoạt động đều chững lại, ngay từ ngày đầu ta đến đây tới giờ.”

      “Ở Edinburgh cũng mưa, ngày nào cũng mưa lúc.” Nàng nhìn lên. Nàng vẫn quan sát các bản đồ, sơ đồ và giấy tờ ghi chép.

      “Ở đây mưa nhiều hơn chút,” chàng . “Dòng mưa lạnh lẽo bắt đầu đổ ở Coldstream_, điểm dừng đầu tiên từ khi Nichols và ta rời Alnwick. Ta nghĩ đây là trò chơi chữ thú vị của người Scotland. Ở đây mưa suốt. Mãi tới tối qua mới tạnh. May mà việc khảo sát ngôi nhà giúp ta bận rộn ngừng.”

      Chàng cũng mong nó giúp mình sao nhãng tâm tư nữa. Nhưng chuyện này được như ý chàng.

      “Ở Ai Cập ngài cũng làm thế này à?” nàng hỏi.

      “Phải. Sau khi bọn ta quét sạch cát.”

      “Các bản vẽ của ngài đẹp lắm,” nàng , cuối cùng cũng nhìn lên.

      Chàng nhìn các bản vẽ trải bàn, rồi nhìn gương mặt nàng.

      Màu hồng phớt xinh đẹp đôi má nàng. Có vẻ như làn da nàng vốn thế, mà cũng có thể ánh nến tô thắm thêm. Dù lúc này là ban ngày nhưng có nhiều tia sáng lọt qua được hành trình dài từ bên ngoài xuyên vào những ô cửa sổ xíu và bức tường dày tới bốn mét rưỡi.

      “Em đấy, phải nịnh bợ đâu nhé,” nàng . “Khả năng phác thảo của ngài quả là xuất sắc.”

      Họ trao nhau ánh nhìn thoáng nét cười, và điều đó lên tất cả, chàng nghĩ thế. Họ nghĩ về cùng điều: Ngày đầu tiên chàng gặp nàng, nàng rằng các bản vẽ của chàng là xấu khủng khiếp.

      “Phải mất thập kỷ ta mới tiến được từ ‘xấu xí’ lên ‘xuất sắc’ đấy nhỉ,” chàng .

      Nàng quay lại với các sơ đồ. Chàng quan sát ngón tay mảnh dẻ của nàng lần theo nét vẽ phòng ngủ lớn ở tầng .

      “Cái này làm mọi thứ trở nên đơn giản,” nàng .

      thế sao? Hay mọi thứ trở nên phức tạp cưỡng nổi: ngón tay thanh lịch mảnh mai và bàn tay nhắn ngọt ngào của nàng, làn da nàng sáng lên trong ánh u minh của đại sảnh cổ kính này, và nụ cười khi nghĩ tới kỷ niệm chung.

      Nàng tiến ra xa bước, trước khi chàng quá khao khát chạm vào nàng. “Những thứ này giúp ta dễ dàng xác định nên ưu tiên sửa chữa phần nào,” chàng . “Nếu có khi nào thuê đến nhân công, ta biết chính xác họ phải bắt đầu từ đâu và phải làm gì.”

      “Đó là lý do hôm nay ngài vào làng,” nàng .

      “Đúng thế,” chàng đáp.

      “Em tin được là ngài hề gặp may với dân làng ở đây,” nàng . “Ngài chỉ đạo nhiều đội nhân công ở Ai Cập cơ mà.”

      “Ở đây khác lắm,” chàng . “Ta biết giao tiếp bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, và biết kiểu cách của họ. Văn hóa Scotland hoàn toàn khác biệt. Nhưng ta ngờ là cư dân ở Gorewood giọng lè nhè cách có chủ đích, bởi vì họ muốn hiểu ta. Và ta sẵn sàng đánh cược bất cứ thứ gì rằng họ cố tình lè nhè có chủ đích, bởi vì họ muốn ta hiểu họ.”

      “Chao ôi, giá như em hiểu được chuyện này nhỉ,” nàng thốt lên. “Ngài là con trai của chủ nhân tòa lâu đài này. Họ có rắc rối với nó. Lẽ ra họ phải thấy họ có thể phó thác những nỗi lo lắng trong lòng cho chàng chứ.”

      “Có lẽ họ thấy ta đáng được phó thác.”

      Nàng vẫy tay xua ý nghĩ đó . “Đừng ngốc thế. Ngài chỉ cần đứng yên cũng có thể truyền cảm giác tin tưởng rồi, khác hẳn những người khác. Nhưng giờ chúng ta phải giải quyết từ từ từng việc . Trước hết là chuyện người hầu của chúng ta.”

      “Phải, xin lỗi về chuyện đó,” chàng . “Ta định để quản gia của em mất.”

      Nàng rời khỏi mắt khỏi những bản vẽ, nhìn chàng chăm chú.

      “Edwards,” nàng . “Em định hỏi ngài - nhưng dáng vẻ của tòa lâu đài khiến em quên bẵng mọi thứ. Rồi em nhìn thấy cả đám người hầu, trông rất… rất…”

      “Sợ sệt kinh hoàng,” chàng tiếp lời. “Cũng thể đổ lỗi cho họ được. Họ phải ngủ trong đại sảnh này, đúng như những người tiền nhiệm của họ từng làm nhiều thế kỷ trước đây. Ta ngạc nhiên là họ bỏ trốn hết đấy.”

      Đôi mắt xanh của nàng ngời lên vẻ chăm chú. “Ngài nghĩ Edwards bỏ trốn?”

      “Có lẽ…”

      tiếng động dữ dội khủng khiếp cắt ngang lời chàng.

      Cánh cửa thông sang bếp bật mở, và những người giúp việc trong bếp ùa hết cả vào đại sảnh.



      Tiếng gào rú - tiếng người - vẫn tiếp tục, ầm ĩ khắp nơi.

      Olivia nhìn người phụ bếp ngồi co ro dưới gác trưng bày, rồi nhìn vào cánh cửa thông sang gian bếp, rồi nhìn Lisle.

      “Chắc là Aillier,” chàng , gọi tên người đầu bếp nàng đưa từ London tới để phục vụ bữa ăn cho họ. “Gần đây ông ấy có vẻ hơi ủ rũ.”

      “Hơi ủ rũ ư?” nàng hỏi.

      “Bọn ta phải sống với thịt và pho mát lạnh ngắt,” Lisle . “Ông ta dùng lò đâu. Ông ta bảo lò nướng là vật đáng kinh tởm. Ta muốn đá ông ta văng ra ngoài cửa sổ, nhưng chắc ông ta chẳng lọt được qua đó - mà nếu ông ta có lọt chúng ta mất đầu bếp như mất quản gia.”

      Olivia hếch cằm lên. “Em có thể giúp ngài đá ông ta văng ra ngoài cửa sổ,” nàng với chất giọng lạnh lùng đầy phẫn nộ khác gì giọng Quý bà Hargate trong những trường hợp tương tự. “ nướng bánh mì, chao ôi. Chẳng trách gì người hầu ở đây trông mệt mỏi chán nản tới vậy.”

      Đầu ngẩng cao, mắt sắc lẹm, nàng nhìn về phía gian bếp.

      Nichols, lúc đó chuyện với trong đám người hầu sợ hãi, vội vàng tới đóng cửa gian bếp lại. “Thưa tiểu thư Carsington, xin tiểu thư hãy tránh xa, bởi vì ở đó an toàn đâu. Ông ta cầm dao phay đe dọa mọi người. Xin tiểu thư cho phép tôi tước vũ khí khỏi tay ông ta trước .”

      Olivia nhìn Nichols từ đầu xuống chân. Dù có mặc thêm áo giáp cậu ta cũng chẳng nặng tới sáu mươi cân.

      “Trông thế thôi nhưng cậu ấy dẻo dai lắm đấy,” Lisle , đọc được chính xác ý nghĩ của nàng. “Và rất mạnh mẽ,” chàng thêm bằng giọng thầm. “Với sức chịu đựng phi thường - hoặc ít nhất đó là điều bọn con Ai Cập vẫn đồn.”

      Giọng chàng quá thấp và miệng chàng quá sát tai nàng. Hơi thở của chàng ấm nóng, gây cảm giác râm ran tai nàng và vùng nhạy cảm phía sau nó.

      Nàng có thời gian cho chuyện này.

      Đàn ông.

      “Cảm ơn, Nichols,” nàng , “nhưng chúng ta thể cho phép cậu trước chúng ta.” Nàng quay lại nhìn Lisle và thêm, với giọng thấp khác giọng chàng vừa nãy, “Chúng ta thể để người ta nghĩ chúng ta bị gã đầu bếp người Pháp điên khùng hăm dọa. Dân làng mà nghe thấy cười chí chết.”

      “Xin lỗi, Nichols,” Lisle to lên. “Chúng ta thể để cậu hưởng thú vui này được. Tiểu thư Carsington và ta giải quyết mọi chuyện.”

      Olivia kiêu kỳ khoát tay.

      Nichols bước khỏi lối .

      Sau cánh cửa, tiếng người la hét càng dữ dội hơn.

      Olivia nhìn Nichols chằm chằm. Cậu mở cửa.

      Nàng tiến vào hang cọp.

      Olivia cố trước Lisle lối vào bếp, nhưng chàng chộp lấy eo nàng, nhấc nàng lên, và đẩy nàng ra sau lưng mình. Hành động cuối cùng - đặt nàng xuống - đơn giản như chàng nghĩ. Nàng hơn vẻ bề ngoài; chiếc váy rườm rà chất ngất đánh lừa con mắt. Nó kêu sột soạt quyến rũ, rất giống tiếng chăn ga khi ta buông người lên. Điều đó khiến chàng nghĩ đến bàn chân thon yểu điệu, những ngón tay duyên dáng, và làn da nàng mềm như lụa dưới tay chàng.

      Mọi mơ mộng và khao khát chàng ra hết sức dẹp bỏ giờ lại trỗi dậy như những bóng ma. Chàng lại dìm chúng xuống lần nữa.

      “Em có thể lên tiếng,” chàng . “Nhưng ta trước phòng trường hợp mất kiểm soát nguy hiểm chết người.”

      “Đừng có vớ vẩn thế,” nàng . “Ngài nghĩ em thể giải quyết được đám người hầu sao?” Nàng thúc cùi chỏ mạnh vào sườn chàng rồi chạy vượt qua, lao vào gian bếp. Vừa lẩm bẩm nguyền rủa, Lisle vừa vội vã theo sát gót nàng.

      Qua vai nàng, chàng thấy Aillier mặt đỏ tía tai huơ huơ con dao phay. Ông ta cao gần hai mét, vai rộng phải tới mét, và xung quanh có vô số dao cực sắc, chẳng trách gì đám gia nhân sợ khiếp vía, bỏ chạy tán loạn khi ông ta nổi khùng.

      đường vào bếp Lisle nghe tràng chửi rủa. Vận dụng ba thứ ngôn ngữ, chàng nghe ra là:

      “Cái bếp này, bảo nó đơn giản là lời tâng bốc ghê tởm đấy! Nó chẳng khác gì cái hang, cho súc vật. Ai có thể đòi hỏi ta nấu nướng ở nơi như thế này được chứ!”

      Khi Olivia bước vào, ông đầu bếp ngừng lại, miệng há hốc, tay giữ nguyên con dao giữa trung.

      “Đừng để ta ngắt lời ông,” nàng . “Ông cơ mà?”

      Aillier nhanh chóng thoát khỏi nỗi ngạc nhiên. “ thể chịu nổi, thưa Quý !” ông ta gào lên. “Nơi này chỉ đáng dành cho súc vật. Nông dân, chúng là bọn mọi rợ ngu ngốc nhất đời. Làm sao tôi có thể bảo được bọn chúng phải làm gì? Chúng chẳng tiếng cũng biết tiếng Pháp. phải người Đức cũng chẳng phải người Ý. Thứ ngôn ngữ của chúng, nó chỉ dành cho lũ gia súc, kinh tởm và bẩn thỉu khi bắn ra khỏi mồm ta.”

      “Ông ta hay gớm nhỉ,” Lisle thầm.

      “Ta hiểu rồi,” Olivia . “Nông dân là thấp kém. Còn gì nữa?”

      Aillier khua khua con dao, thoạt tiên vào lò nướng, rồi vào bếp lò khổng lồ - ngay cả ông ta cũng hơn nó - thau và bồn rửa bằng đá, xoong chảo chất đống cái bàn cổ.

      “Đòi hỏi tôi - Aillier - nấu nướng ở nơi như thế này quả là tra tấn!” ông ta gào lên, nhưng giọng bớt hung dữ hơn vừa rồi. “ vô nhân đạo khi trói buộc nghệ sĩ vào nơi này - cái hang đá này. Tôi chịu nổi nó đâu.”

      Chầm chậm và thận trọng, Olivia nhìn quanh nàng.

      Căn bếp chiếm trọn tầng của chái Bắc tòa lâu đài. Dù có những bức tường dày sụ và bếp lò khổng lồ, gian còn lại vẫn rất rộng rãi. trong ba cửa sổ lớn được cải tạo làm chỗ đặt lò nướng. Nhưng, ngay cả trong những ngày mưa, gian bếp này vẫn sáng hơn nhiều gian bếp Lisle từng thấy. Trong nhiều ngôi nhà ở , bếp còn nằm sâu dưới tầng hầm.

      “Theo ý ta ta nó ấn tượng đấy chứ,” Lisle lẩm bẩm.

      ai để ý đến chàng.

      “Đây phải là tra tấn,” nàng với Aillier. “Phải đợi cho đến khi căn hầm được sửa chữa xong mới đến màn tra tấn. Cái chúng ta có ở đây là những điều kiện đầy thách thức. đầu bếp giỏi phải biết nấu trong mọi hoàn cảnh. Có nhớ thách thức mà hoàng tử Talleyrand đặt ra cho đầu bếp vĩ đại Carême ? Nấu ăn suốt năm mà được lặp món dù chỉ lần, chỉ được sử dụng những sản phẩm đúng mùa, có xuất xứ trong vùng. Nhưng nếu ông thể đối mặt với thách thức này, chẳng đáng mặt. Chẳng ích gì khi mong ông có những kỹ năng đáp ứng đòi hỏi cao hơn hoặc tự chủ với kỹ năng vốn có. Nếu ông xứng đáng với nhiệm vụ này…”

      xứng đáng!”

      “Làm ơn nhớ giùm gã có con dao to đùng sáng loáng trong tay, với cái lưỡi sắc lẹm,” Lisle khẽ.

      “Nếu ông quyết định thôi việc, thưa ông Aillier,” nàng tiếp, “ miễn phải bực dọc về mọi thứ , ông cứ thế mà thôi việc. phụ nữ nào đó trong làng chuẩn bị bữa ăn cho chúng tôi cho tới khi tôi tìm được đầu bếp phù hợp từ London. Lần này phải là người Roman. Tôi nghe bảo họ rất dũng cảm khi đối diện với hoàn cảnh khó khăn.”

      Sau khi tuôn ra tràng nhiếc móc, nàng quay người bước ra ngoài, hết sức lạnh lùng.

      Lisle vẫn nhúc nhích. Trong chốc, chàng chỉ có thể đứng yên, nhìn chằm chằm. Chàng thấy Aillier nhìn nàng bước , miệng ông ta há hốc, mặt sa sầm.

      Lisle gồng người lên. Nhưng ông đầu bếp chầm chậm hạ bàn tay cầm con dao phay xuống.

      Lisle quay lưng bước ra hành lang. có màn phi dao ném kéo, nhưng im lặng như tờ trong bếp cũng đáng ngại.

      Rồi chàng nghe thấy tiếng Aillier, lầm bầm gì đó về những người Roman đáng nguyền rủa và thứ nước xốt ngửi nổi của họ. Tiếp theo đó là tiếng va nồi quẹt chảo ầm ầm.

      Lisle ra đến nửa hành lang thấy nàng đứng đợi. Rồi chàng chợt thấy cảnh tượng vụt qua trong đầu, sống động như tranh vẽ: Aillier vung con dao phay đại bự - và Olivia, xíu so với ông ta, mặc bộ váy có ống tay áo to phồng và chân váy bồng bềnh, những lọn tóc ghim chặt vào những ống xoắn trông rất ngớ ngẩn. Olivia, cằm hếch lên, lạnh lùng ngang nhiên hạ thấp lão đầu bếp giận sôi gan. Vẻ mặt của của Aillier. Vẻ mặt của nàng.

      Ôi Chúa ơi. Ôi Chúa ơi. Olivia.



      Olivia dừng lại khi nghe thấy tiếng động ấy - ai đó bị bóp cổ, thoạt tiên nàng nghĩ thế. Aillier. Ông ta lao vào hành lang chăng? Tấn công Lisle? Tim đập loạn xạ, nàng vội nhìn quanh.

      Trong gian tối mờ, nàng nhìn thấy Lisle, dựa lưng vào tường, cúi gập người xuống, ôm chặt bụng…

      Cười ngặt nghẽo.

      Nàng quay lại chỗ chàng. “ phải ở đây đâu, ngốc ạ,” nàng hạ thấp giọng . “Ông ta nghe thấy đấy!”

      Aillier vẫn lầm bầm mình, đá thúng đụng nia, nhưng họ đứng cách bếp chỉ chừng mét.

      Lisle nhìn nàng, mím chặt môi, nhưng tiếng cười khùng khục vẫn thoát ra.

      Nàng nắm cánh tay chàng lôi về phía cửa rồi vào đại sảnh. Chàng bắt đầu bước theo, nhưng vừa được vài bước, chàng lại dựa vào tường, tay bịt miệng.

      “Lisle,” nàng .

      “Em,” chàng . Chàng chỉ được thế rồi lại nín được, tiếp tục cười ngặt nghẽo.

      “Lisle.”

      “Buồn cười quá. Em. Ông ta.”

      “Ngài làm mình bị thương mất thôi.”

      “Em,” chàng . “Chỉ có mình em như thế.” Rồi chàng lại cười khùng khục.

      Nàng cứ đứng đó nhìn chàng, lòng đầy băn khoăn. Khi nàng mới đến, trông chàng mệt mỏi bơ phờ như vậy, sao bây giờ…

      Chàng lấy khăn tay ra lau mắt. “Xin lỗi,” chàng .

      “Ngài mệt lắm rồi,” nàng bảo.

      “Phải,” chàng đáp. “Có lẽ thế.”

      Chàng đứng thẳng dậy. Rồi chàng lại tiếp tục cười, cười đến thắt cả ruột. Nàng đứng như thôi miên, mỉm cười ngơ ngác, trong khi đó trái tim nàng dạt dào cuồn cuộn chẳng khác gì những mảnh bụi vàng lấp lánh nhảy nhót quanh chàng chiều nay. Nàng phải lòng điều gì đó, mê ly và choáng ngợp, bởi vì chàng cười, tiếng cười ấy tinh nghịch và vui thú, nàng chẳng tài nào đuổi được thanh ấy ra khỏi trái tim mình.

      Cuối cùng chàng cũng ngừng được, lại lau mắt và , “Xin lỗi em. Chẳng hiểu sao… tình, Olivia ơi, em quả là gì sánh được.”

      Chàng nắm lấy bàn tay nàng, để dẫn nàng ra cửa, nàng tưởng thế.

      Nhưng rồi nàng dựa lưng vào tường, ngay góc cạnh cửa, bàn tay chàng ôm lấy gương mặt nàng, và nàng cảm nhận được tiếng cười khi miệng chàng phủ lên miệng nàng.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 11


      Nàng tuyệt vời. Chàng chỉ định thế. Lisle nghĩ đó chính là điều chàng làm, làm.

      Nhưng chàng đưa tay lên rồi ôm lấy khuôn mặt rạng ngời của nàng, và chàng muốn , “Ta quên mất. Ta quên mất phần này trong con người em.”

      Chàng quên mất nàng từng là diệu kỳ tới mức nào, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, đối mặt với mọi thách thức. Vẻ xinh đẹp tuyệt trần rất đàn bà của Olivia khiến chàng thể đánh giá đầy đủ về con người nàng.

      Nhưng nàng vừa là vừa là người đàn bà, vừa kỳ diệu lại vừa kiều diễm. Chàng cúi nhìn đôi mắt to xanh trong như hồ nước đầy của nàng, trong hành lang tối om này chàng nhìn thấy màu xanh ấy, nhưng cũng chẳng cần, vì nó khắc sâu trong tâm tưởng chàng, màu xanh vô ngần khiến chàng quá chừng run rẩy vào ngày đầu tiên gặp nàng.

      Và kia là khuôn miệng nàng, đầy đặn, mềm mại và hé mở trong nỗi ngạc nhiên, chỉ cách miệng chàng chưa đầy tấc. Chàng chẳng thể nên lời. Và rồi chàng hôn nàng.

      Chàng thấy nàng cứng đờ. Bàn tay nàng đặt lên ngực chàng.

      Hãy đẩy ta ra, phải, thế là tốt nhất. Nhưng , đừng, chưa phải lúc này.

      mềm mại của đôi môi nàng, hương thơm từ làn da, gần gũi và ấm áp: Chàng chưa sẵn lòng từ bỏ tất cả những thứ này. Chưa.

      Nàng đẩy ra. Nỗi sợ hãi cứng đờ tan biến, nàng trở nên mềm mại dịu êm, tan chảy vào cánh tay chàng, hai bàn tay nàng lướt lên vai chàng. Nàng hôn lại chàng, quá nhanh, đột ngột và mạnh mẽ. Và nó ở đây, hương vị mà chàng cố quên . Chẳng khác gì cắn trái đào chín mọng. Nó đủ khiến cho đàn ông quên mọi hương vị khác đời ngày từ giây phút thần tiên ban đầu ấy. Đó hẳn là trái đào mà Eve trao cho Adam. Có thứ trái cây nào khác mang hương vị cám dỗ nhường ấy ?

      Chàng cũng quên hết thảy: những giải pháp, lý trí và ý thức. Vứt bỏ tất cả những thứ đó còn lại gì?

      Chàng rất nhớ nàng.

      Giờ nàng lại ở trong cánh tay chàng, người con chàng nhớ nhung da diết, và cũng là người đàn bà biến đổi như tắc kè hoa chàng quen từ rất lâu rồi. Mới lúc trước tự tin và dũng cảm, giờ vô cùng ấm áp và quyến rũ. Chàng cũng phải đầu hàng trước cám dỗ ngọt như trái đào, mùi da thịt nàng và hương nước hoa thoang thoảng dịu tỏa ra từ mái tóc và váy áo nàng. Mùi hương ấy trôi vào tâm trí chàng như mùi thuốc phiện.

      Nhưng có cái gì khác cũng nấn ná ở đó. bóng tối. giọng cảnh báo: Đủ rồi. Dừng lại. Hãy nhớ.

      Chưa phải lúc này.

      Những ngón tay nàng trượt vào mái tóc chàng, và động chạm, quá mơn trớn, vươn sâu hơn. Nó tìm thấy khoảng trống trong trái tim chàng, nơi chàng luôn cẩn thận khép kín, nơi chàng cất giấu những ước muốn và khao khát thể thực . Chàng thấy đau nhói, chàng chẳng hiểu tại sao, nhưng đây chỉ đơn thuần là nhu cầu thể xác, thứ giản đơn và sáng . Rồi chàng nhận ra điều ấy. Điều ấy khác thường.

      Chàng muốn cái gì đó hơn thế; chàng chỉ hiểu được có vậy.

      Chàng trượt đôi tay xuống bờ vai và cánh tay nàng. Chàng kéo nàng ép chặt vào cơ thể mình, tiếp tục tìm kiếm ý nghĩa khó nắm bắt của cái hơn thế, chìm sâu vào nụ hôn.

      Nàng mãnh liệt như bão cát sa mạc, trôi tuột khi họ hôn nhau say đắm hơn nữa. Lúc này nàng dám, như vẫn luôn như vậy, đáp lại cuộc tìm kiếm khẩn thiết của chàng bằng chính cuộc tìm kiếm của nàng.

      Nàng cũng như chàng, chẳng biết mình tìm gì. Chàng có thể cảm nhận điều đó, rằng thế giới mới lạ này cũng rất khác biệt với nàng. Ở đây họ là những người chưa hề có kinh ngiệm, dù cả hai đều chẳng ngây thơ chút nào.

      Trong khi đó, những bức tường thận trọng họ xây lên để bảo vệ tình bạn của mình tan thành cát và bay biến .

      Chàng đưa hai tay xuống ôm lấy mông nàng và ép chặt vào giữa hai chân mình. Nàng cọ xát lên mình chàng, khiêu khích tài nào cưỡng được. Chàng đưa đôi bàn tay háo hức đặt ngực nàng, nhưng ở đó có nhiều lần vải quá, rất rất nhiều. điên tiết.

      Chàng túm nắm vải váy lôi ra, nhưng vẫn còn nữa - hàng dặm vải váy và vải lót. Chàng tiếp tục kéo, lôi ra thêm nữa, trong khi đó tiếng vải kêu sột soạt ầm ĩ như lời phản đối.

      Nhưng nàng phản đối. Nàng thầm thúc đẩy, mời mọc và khiêu khích chàng, cơ thể nàng cọ người chàng, miệng nàng gắn chặt miệng chàng. Lưỡi họ mơn trớn nhau, đưa qua đẩy lại, bắt chước cảnh giao cấu.

      Cuối cùng chàng cũng luồn tay qua được núi vải váy và những ngón tay chạm được vào mép tất nàng. Rồi đầu ngón tay chàng chạm vào da thịt nàng, làn da thiếu nữ mịn như nhung. Chàng trượt ngón tay lên nữa, lên tới khoảng mềm mại giữa hai chân nàng. Nàng thở gấp, và chàng khẽ mơn trớn, như cậu học trò ưa đùa nghịch.

      Rồi bàn tay nàng trượt vào phía trước quần chàng.

      Chàng rít vào mạnh. Ngay lúc ấy, chàng chợt nghe thấy tiếng loảng xoảng. Kim loại đập vào nhau. Cách bao xa. Rất gần.

      Trong bếp. Aillier, đập nồi niêu.

      Nếu cái nồi đập vào đầu Lisle hẳn hiệu quả hơn, nhưng tiếng động ấy cũng đủ để kéo chàng về thực tại, giúp chàng nhận ra mình đứng ở đâu và mình tới đây làm gì. Lý trí của chàng - dù chỉ phần - quay trở lại. Chàng ngừng hôn, ngẩng đầu lên và dịch người ra chút.

      Nàng ngước nhìn chàng, đầu ngửa ra sau, đôi mắt mở to tối sẫm, bàn tay vẫn đặt ở chỗ phình ra phía trước quần chàng.

      Nàng vội giật tay ra.

      Chàng nhìn xuống nơi bàn tay nàng vừa đặt với vẻ tiếc nuối hết sức ngơ ngẩn. Chàng buông váy nàng xuống. Nó sột soạt phủ kín hông và đôi chân nàng.

      “Lisle,” nàng khẽ kêu.

      “Ta định làm thế,” chàng . Giọng chàng khản đặc và ngờ nghệch. Đồ ngu. “Ta định…” Chàng phải nghĩ.

      Có lẽ chàng nên đập đầu vào tường.

      “Những gì em làm trong bếp ấy mà,” chàng cất tiếng. “Em xuất sắc lắm. Nhưng… ôi Chúa ơi.”

      Nàng lùi lại bước. Áo váy của nàng xộc xệch hết cả. ngọt ngào. dữ dội. Những gì chàng làm.

      “Chỉ là chút bốc đồng trong thoáng chốc thôi mà,” nàng . “Chúng ta bị đưa tới nơi xa xôi. Chúng ta rất phấn khích vì tưởng chừng như vừa bị giết.”

      “Cái cớ ‘Tôi biết chuyện gì vừa xảy ra nữa,’” chàng với giọng khàn đặc. “ cái cớ hay. Thế cũng được thôi.”



      Chàng tỏ ra hết sức khổ sở.

      Olivia hiểu tại sao. Chàng giống nàng. Chàng có nhiều nguyên tắc. Chàng luôn coi trọng trách nhiệm, danh dự và trung thành - tất cả những điều đúng đắn mà cha dượng nàng dạy cho chàng.

      Ồ, nàng hiểu chứ.

      Còn với nàng - nàng cần những nguyên tắc. Nàng lao vào gần gũi này là để dâng hiến trong trắng. Cho chàng.

      “Đó là lỗi của em,” nàng . “Ngài biết em chẳng bao giờ coi trọng các nguyên tắc đạo đức mà. Đó là lời nguyền của nhà DeLucey Đáng Sợ. Phụ nữ nhà em ai cũng thế cả, trừ mẹ em. Nhưng bà ấy là trường hợp ngoại lệ.”

      “Chúng ta phải ra khỏi đây,” chàng . “Ngay lập tức.”

      “Chúng ta thể,” nàng . “Đám người hầu nhìn chúng ta và biết chúng ta vừa có vụ Đụng chạm Bí mật.”

      “Họ nghĩ ra cái gì như thế đâu,” chàng . “Họ nghĩ chúng ta vừa ẩu đả với gã đầu bếp.”

      Nàng nhìn xuống váy. Thân áo xộc xệch. “Trông chẳng giống vụ ẩu đả gì cả,” nàng . Nàng kéo áo cho ngay ngắn rồi vuốt váy thẳng thớm. Tóc nàng xõa xuống, nhưng chẳng hay ho gì khi bảo Lisle sửa lại giúp.

      thôi,” chàng .

      Nàng qua chàng và băng qua hành lang. Chàng nhanh tới trước để mở cửa cho nàng. Nàng nghĩ chàng đợi cho cương cứng giảm bớt. Chàng cương cứng lên khủng khiếp - và nàng chẳng cần phải đặt bàn tay vào đó mới biết chàng cương cứng cỡ nào, bởi vì nó lộ ra hết sức ràng, nhưng…

      Nàng coi trọng quy tắc đạo đức. Chỉ cần cám dỗ tới vẫy tay dụ dỗ là nàng theo, cần nghĩ lấy giây.

      Chàng quá phấn khích trước phụ nữ vô nguyên tắc nên thể khước từ. Chàng càng phấn khích với nàng hơn nữa khi mà lúc này chàng rất vui chứ tâm trạng tệ như hôm ở Stamford. Lần này, nàng quy phục hoàn toàn. Nếu chàng để mặc như thế, chắc hẳn nàng tan chảy vào trận mây mưa ngay giữa hành lang này.

      Nàng tin chắc chàng vận dụng chính kiên trì và tính chăm chỉ vốn giúp chàng tiến bộ vượt bậc trong kỹ năng vẽ vào nghệ thuật hôn. Chính cái cách chàng luyện cho bản thân có thể đánh lửa bằng hộp mồi lửa chỉ trong tích tắc.

      Và khi chàng làm tình với … ồ, đây phải là lúc suy đoán chuyện đó.

      Nàng đẩy cửa bước vào trong đại sảnh.

      Lisle theo ngay phía sau.

      Tất cả đám người hầu, vẫn chừng ấy người như khi họ ở đây lúc trước, đứng chờ đợi ở nơi từng là lối vào sảnh.

      Trông họ có vẻ mệt mỏi nữa.

      Tất cả bọn họ đều tỏ ra rất thích thú.

      Nàng lấy lại tinh thần, lần nữa lại trở thành bà chủ lâu đài.

      “Trở lại công việc thôi,” nàng với đám người giúp việc bếp.

      Nàng hướng dẫn thêm mấy lời cuối cho những người khác, rồi họ nhanh chóng tản làm việc của mình.

      Đại sảnh lại yên ắng, còn ai ở đó, ngoại trừ hai hầu đứng ở cuối phòng, gần lò sưởi, mang đồ đạc vào cho hai Nữ . Cánh cửa vẫn mở và nàng có thể nghe thấy hai quý bà tranh cãi xem ai ở phòng ngủ tầng và ai ở phòng ngủ tầng hai.

      Nàng để mặc họ tự quyết định chuyện đó.

      Khi nàng quay lưng lại với Lisle, chàng gì đó với Nichols. Cậu đầy tớ gật đầu rồi ra.

      “Họ nghe thấy,” Lisle hạ thấp giọng bảo nàng.

      “Em nghĩ vì thế mà họ tỏ ra rất thích thú,” nàng .

      phải chuyện chúng ta,” chàng . “Họ nghe thấy vụ đụng độ của em với Aillier cơ. Chàng hất đầu ra phía cửa. “Cái cửa bị nứt. Ngoài ra còn có nhiều vết nứt tường và ở những ô cửa sổ vỡ, thế nên thanh lọt qua đó dễ dàng hơn nhiều so với khi chúng ta sửa chữa xong. Họ nghe thấy ông ta gào lên với em. Họ nghe thấy em đối đáp lại. Họ nghe thấy phản ứng của ông ta. Rồi trong chớp mắt, họ nghe thấy mọi việc trở lại bình thường. Em thấy đám người hầu hề ngần ngại trở vào trong bếp thế nào rồi đấy. Và những gia nhân khác cũng thấy ấn tượng kém.”

      Nàng mỉm cười. “Em là dũng sĩ diệt rồng.”

      “Em xuất sắc lắm,” chàng . Chàng ngừng lại. “Lẽ ra ta phải nhận ra điều đó từ trước. Ta xin lỗi vì nghi ngờ em. Tất nhiên, ta vẫn chẳng thấy vui vẻ gì khi ở đây - nhưng em làm nơi này bớt buồn thảm nhiều.”

      “Cảm ơn ngài,” nàng . “Em thấy ngài cũng rất vui nhộn.”

      Lông mày chàng nhướn lên. “Vui nhộn.”

      “Dù sao , những gì xảy ra ở hành lang bếp xảy ra nữa đâu,” nàng . “Ngài biết em coi trọng quy tắc đạo đức mà. Và em biết ngài có rất nhiều cản trở - nguyên tắc và đạo đức, rồi đủ thứ khác.” Nàng khoát mạnh tay.

      “Phải. Và nhiều thứ nữa.” Vẻ ám ảnh lên trong đôi mắt chàng. Cảm giác tội lỗi gặm nhấm con tim. Quỷ tha ma bắt cha dượng ngài , ông nhồi vào đầu chàng bao nhiêu ý niệm nghiêm khắc và cao quý về Trách Nhiệm và Danh Dự.

      Nàng vươn người tới gần chàng hơn. “Lisle, đó hoàn toàn là bản năng. Chúng ta trẻ, chúng ta xinh đẹp…”

      “Và cũng rất tầm thường.”

      “Ngài lúc nào cũng thích cơ mà,” nàng . “Hãy đối mặt với . : Lý trí luôn có cuộc chiến ác liệt chống lại những ham muốn bản năng. : Chúng ta luôn bị theo dõi rất gắt gao. Kết luận: Tình huống này là điều kiện chín muồi dẫn đến tai họa. Em làm mọi thứ có thể để tránh mắc phải lỗi lầm như vừa rồi, nhưng…”

      “Tuyệt,” chàng . “Thế mọi trách nhiệm bảo vệ danh dự cho em thuộc về ta. Nhiệm vụ tuyệt vời này ta lãnh nhận từ rất lâu rồi.”

      Nàng cầm hai ve áo của chàng. “Nghe em này, chàng đầu đất đa nguyên tắc. Chúng ta thể mắc lại lỗi lầm ấy nữa đâu. Ngài có biết chúng ta tới gần điểm Thể Thay Đổi tới mức nào ?” Nàng bỏ tay xuống, rồi giơ bàn tay phải lên, ngón cái cách ngón trỏ chưa đầy phân. “Chỉ suýt chút nữa chúng ta…” Nàng ngừng lại để tạo kịch tính. “… rơi vào tay cha mẹ chàng.”

      Chàng bừng tỉnh như thể vừa bị nàng tát cái.

      Ai đó phải làm việc này. Ai đó phải làm gì đó. Nàng lên kế hoạch cho chuyện này. Nàng nghĩ có thể điều khiển chàng theo cách nàng vẫn điều khiển những người đàn ông khác. Nhưng nàng đâu thể, và nàng thấy rằng họ lao nhanh xuống con dốc trơn trượt. Nếu chàng để mặc, hẳn nàng vẫy tay và kêu, “Phải rồi, nhanh lên, nhanh nữa lên!”

      Tiếng chàng phá vỡ im lặng căng thẳng.

      “Em vừa cái gì?”

      Giờ đây chàng hoàn toàn tập trung chú ý vào nàng. “Họ cố để giữ ngài ở nhà bằng cách treo phiến đá trách nhiệm với tòa lâu đài này vào cổ ngài,” nàng . “Họ hy vọng rằng càng ở nhà lâu, ngài càng bớt nghĩ tới Ai Cập, dần dà ngài quên bẵng nó rồi , kết hôn rồi ổn định ở quê nhà.”

      Chàng nhìn nàng chằm chằm. “Ta …” Nàng thấy đôi mắt xám của chàng lóe lên khi hiểu ra thâm ý này.

      “Phải,” nàng , “họ thậm chí chẳng lấy làm phiền nếu đó là em.”

      hồi lâu sau Lisle mới tiêu hóa được toàn bộ chuyện này. Rồi tất cả lên trong tâm trí chàng: khuôn mặt tươi cười của cha mẹ chàng, những cái nhìn bí bên bàn buổi sáng hôm ấy, những nụ cười và cái nhìn bao dung của nữ Bá tước thừa kế. Giống như vở kịch.

      “Olivia,” chàng dịu dàng, nhưng tim chàng đập thình thịch, “em gì với họ?”

      với họ ư? Đừng có ngớ ngẩn thế. Dĩ nhiên là em bao giờ khinh suất tới mức trắng ra điều đó. Em chỉ khuyến khích họ nghĩ tới nó thôi.”

      “Rằng em …” Chàng chẳng dễ gì thẳng được ra điều này. “Rằng em quyến rũ ta?”

      “Họ tin rằng thể nào cũng xảy ra những kiểu hành động cảm tính như thế,” nàng . “Và đó là lý do để họ đồng ý cho em ra và ở lại đây với ngài.”

      “Để bẫy ta,” chàng . “Vào hôn nhân.”

      “Phải.” Nàng cười tươi với chàng. “Em biết ngài rất sốc.”

      thế còn quá.”

      cho cùng, chúng ta đều biết cha mẹ ngài chưa bao giờ thực thích em. Nhưng như em với ngài rồi đấy, địa vị và tiền bạc mua được hầu hết mọi thứ, mà em vừa là con nhà danh giá lại vừa quá giàu có.”

      Chàng đặt tay lên đầu và dựa người vào cái bàn. Quả thực, đời có thể bì được với nàng. Đứng ngay đó, vô cùng vui vẻ thao thao giải thích về lời dối trá khủng khiếp mà nàng … đầy ý. “Em làm ta thở nổi.”

      Nàng tới dựa vào bàn, đứng bên cạnh chàng, thản nhiên như thể vừa rồi họ chẳng hề làm gì với nhau. Mà lại là trong hành lang bếp!

      “Điều duy nhất em tính tới là chúng ta lôi cuốn lẫn nhau vô cùng phiền phức này,” nàng .

      “Phiền phức.”

      “Dù là kẻ đầu đất và ưa chọc giận, nhưng ngài vẫn là người bạn thân nhất đời của em,” nàng . “Em muốn phá hoại cuộc sống của ngài và em biết ngài cũng muốn phá hoại cuộc sống của em. Chúng ta có quá nhiều ví dụ hay về những cuộc hôn nhân hạnh phúc xung quanh chúng ta. Mẹ em tìm thấy tình đích thực tới hai lần. Em rất hạnh phúc nếu tìm được cho mình lấy lần. Và em cũng mong điều đó cho ngài. Nhưng ngài biết chúng ta bao giờ phù hợp dành cho nhau theo kiểu ấy.”

      “Tất nhiên là rồi.”

      Nàng phát cáu với chàng. “Ngài cần gì phải đồng ý cách nhiệt tình tới mức ấy.”

      “Đó là mà,” chàng . Chàng biết điều đó. Nàng là kỳ công của tự nhiên, nhưng gió chướng sa mạc cũng là kỳ công của tự nhiên. Bão tố, lụt lội và động đất cũng thế. Chàng sinh ra trong gia đình loạn xị. Rathbourne cho chàng trật tự. Lisle cần trật tự. Chàng dành mười năm qua để xây dựng cuộc sống trật tự, chỉ thỉnh thoảng mới có những chuyện bốc đồng. Chàng may mắn khi sớm nhận ra điều mình cần và kiên trì nhẫn theo đuổi mục đích đó.

      Đứng trước nàng mọi thứ đều mất khả năng kiểm soát. Điều tệ nhất là chính chàng cũng mất kiểm soát. Cứ xem những gì chàng làm biết. Hết lần này tới lần khác.

      “Thôi, thế nhé,” nàng .

      “Ừ.” Chàng đứng thẳng người dậy. “Giờ ta tức lộn ruột lên đây.”

      “Tức lộn ruột! Em công nhận là kế hoạch của em hơi quái gở, nhưng chẳng có lý do gì chúng ta thể kiểm soát chuyện này.” Nàng dợm bước khỏi bàn. “Mọi chuyện hơi xa, nhưng như vậy đâu phải là ngày tận thế cơ chứ. Chẳng việc gì phải làm to chuyện lên rồi khiến bản thân tức lộn ruột cả.”

      Trong phút chốc chàng chỉ biết nhìn nàng chằm chằm vẻ ngạc nhiên.

      Rồi chàng cách kiên nhẫn, “Ta lên mái nhà. Ta hoàn thành nốt việc khảo sát tòa lâu đài. Mấy hôm nay mưa to quá, ta chưa thể đo đạc khu vực mái, kiểm tra tình trạng của nó và vẽ các sơ đồ.”

      “Ồ,” nàng thốt lên. Nàng lùi lại hai bước. “Thế được thôi.”

      “Tức lộn ruột,” chàng lầm bầm. “ là.”

      “Trông ngài có vẻ rất bực bội.”

      “Đó là vì ta biết nên cười hay khóc hay đập đầu vào tường,” chàng . “Cái ta cần là bình tĩnh. Ta cần, đến tuyệt vọng, được làm việc gì đó cực kỳ nhàm chán.”

      Tối hôm đó



      Dù đây phải là bữa tối công phu nhất mà Aillier từng nấu, nhưng ông ta thu xếp để dọn bữa rất thịnh soạn lên bàn.

      Đây là bữa tối ra hồn nhất Lisle được ăn kể từ khi rời London, chàng nhận ra như thế. bữa tối lịch , ngon miệng, tại cái bàn ăn hợp lý, với những người trò chuyện hết sức thông minh và thân tình. Đây cũng là bữa ăn đầu tiên chàng được chủ trì tại trong những ngôi nhà của gia đình chàng.

      Khi chàng và các quý bà quý rời khỏi bàn ăn để tới ngồi bên lò sưởi, những cảm xúc xáo động của ngày hôm ấy dường như lắng xuống. mất hẳn. mất kiểm soát trước Oliva vẫn ám ảnh chàng. Và chàng vẫn tài nào hiểu nổi làm sao kế hoạch này của nàng có thể giúp chàng trở lại Ai Cập vào mùa xuân tới. Nhưng dù sao chàng cũng thấy dịu lại, đó là vì chàng hoàn thành tốt nhiều việc nhờ có sẵn kiến thức vững chắc.

      Phương thuốc chàng thường dùng để điều trị cảm giác bối rối hay bực dọc là làm việc. Đo đạc, đánh giá và ghi chép, chàng cảm thấy thân thuộc và bình yên - dù là ở đây, trong tòa lâu đài cổ lỗ dưới tình trạng thời tiết khắc nghiệt này.

      Trong khi chàng tập trung vào công việc quen thuộc, bối rối và giận dữ nguôi .

      Và trải qua thời gian đó, giờ đây chàng nhận ra rằng cơn lốc xoáy Olivia làm thay đổi mọi thứ. Nàng, thân của bất trị, tạo ra bình tĩnh.

      Đám gia nhân ổn định đâu ra đó với công việc của mình, và chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, tòa lâu đài bắt đầu giống như nơi ở chứ còn là pháo đài lạnh lẽo nữa.

      Bản thân Lisle cũng vậy, chàng thấy thanh bình và yên ả. Chàng quên mất cảm giác ấy là như thế nào. Bữa ăn tối tạo ra tác động dễ chịu, rượu ràng làm mọi thứ vui tươi hẳn lên. Ngay cả hai Nữ cũng thấy phấn chấn hơn và bớt càu nhàu.

      Lúc này họ ngà say, nhưng chuyện đó cũng bình thường thôi. Lúc này mọi người đều yên lặng, vì Olivia đọc trong những mẩu chuyện lịch sử mà Frederick Dalmay viết về lâu đài Gorewood.

      Những câu chuyện lịch sử ấy tất nhiên gồm cả ma mãnh. Có thi thể nằm trong bức tường - đó là kẻ phản bội bị tra tấn trong ngục. biến thành ma ám tầng hầm. Có hầu mang thai bị ám sát. ta luôn xuất ở hành lang dẫn vào bếp, ở tiệc cưới và tiệc chào đón trẻ sơ sinh. Có quý bà hễ thích là lại ra gác trưng bày trong đại sảnh, và hiệp sĩ vẫn hình ở nhà nguyện lầu hai vào số ngày lễ nhất định.

      Giờ Olivia đọc đến chỗ viết về những con ma lang thang mái nhà.

      “‘Bảy người đàn ông bị buộc tội mưu ám sát dã man bị kết án treo cổ rồi phanh thây,’” nàng đọc. “‘Lớn tiếng bảo vệ trong sạch của bản thân, từ trong ngục họ cầu có cơ hội chứng minh điều đó. Trước ngạc nhiên của mọi người, Đức ông Dalmay chấp thuận. Ông cho đưa các phạm nhân lên nóc tòa tháp Nam và mời họ chứng minh trong sạch của bản thân bằng cách nhảy từ đó qua tháp Bắc. Ai mà nhảy qua được tuyên bố vô tội. số tùy tùng của Dalmay phản đối quyết liệt. Họ cho rằng chủ nhân của mình quá độ lượng. Chẳng ai có thể nhảy qua khoảng cách như thế. Họ rơi bịch xuống đất và chết tức . Với những gì làm, những gã này đáng phải nhận cái chết từ từ trong đau đớn quằn quại mới phải. Nhưng trong vương quốc của Dalmay, lời ông là luật pháp. Thế là, từng người , các phạm nhân đứng bao lơn. Từng người , họ rơi tự do xuống đất. Và từng người , sáu tội đồ chết tươi.’”

      “Sáu?” Lisle ngạc nhiên hỏi.

      “‘ người chết,’” Olivia đọc, “‘và ngài Dalmay thực lời tuyên bố của mình. Phạm nhân nọ được tuyên trắng án và được tự do ra .’”

      Lisle cười lớn. “Gã ta sống sót được sau khi rơi xuống từ độ cao ba mươi hai mét ư?”

      , ta nhảy,” Olivia .

      “Hẳn phải có đôi chân dài khủng khiếp lắm,” Quý bà Withcote lên tiếng.

      “Bà có biết thiên hạ gì về những gã chân dài ,” Quý bà Cooper .

      phải chân đâu, Agatha,” Quý bà Withcote . “Mà là bàn chân cơ. Người ta to bàn chân to cả…”

      “Về mặt tự nhiên mà điều đó là thể,” Lisle . “Chắc ta phải có cánh.”

      “Khoảng cách giữa hai tòa tháp là bao nhiêu?” Olivia hỏi. “Ngài có chắc là chàng lanh lẹ thể nhảy như thế ?”

      “Làm gì có cái gọi là chàng lanh lẹ cơ chứ,” Quý bà Cooper với vẻ suy tư.

      “Nhớ ngài Ardberry ?”

      “Làm sao tôi quên được chứ?”

      Lisle bắt gặp ánh mắt của Olivia. Nàng cố nén cười, y như chàng vậy.

      “Nghiên cứu nó,” Quý bà Withcote . “Từ thời ông ấy còn ở Ấn Độ. cuốn sách bí , ông ấy thế.”

      “Tôi nghĩ đó là cuốn sách thiêng mới đúng.”

      “Có lẽ là cả hai. Dù sao, đó là lý do ông ấy học tiếng Phạn.”

      như thế có nghĩa là người ta cần phải đọc mọi thứ bằng mọi ngôn ngữ. Bà thấy bộ sưu tập tranh của ông ấy rồi đấy.”

      “Mỗi bức trong đó đáng giá hàng ngàn câu chữ.”

      “Thú vị tuyệt vời, chẳng kém gì những bức điêu khắc của Eugenia.”

      Lisle thấy nó lên trong tâm trí mình, ràng như thể có tờ giấy ghi chép ra trước mặt chàng: Tranh điêu khắc - trong những từ đầy châm chọc của Olivia, bị gạch ngang.

      “Những bức điêu khắc nào cơ?” chàng hỏi.

      Quý bà Cooper đáp. “Tôi cứ tưởng mọi cậu bé nhà Carsington chẳng sớm muộn cũng khám phá ra chúng chứ nhỉ. Có tính giáo dục rất cao đấy.”

      cho đúng cháu phải người nhà Car...”

      tình, Agatha,” Quý bà Withcote . “Cứ như thể ngài Lisle cần được dạy dỗ bằng. Cậu ta gần hai mươi tư tuổi rồi đấy, và lại sống ở nơi mà con khỏa thân nhảy múa giữa đường còn đàn ông vẫn có hậu cung. Theo chúng ta được biết cậu ấy cũng có hậu cung, và thử tất cả bốn trăm tư thế.”

      “Millicent, bà biết thừa là đâu có tới bốn trăm tư thế. Ngay cả ngài Ardberry cũng phải thừa nhận là về mặt thể chất chẳng có xương sống của ai chịu nổi tư thế số hai trăm sáu mươi ba và ba trăm tám mươi tư cả.”

      Lisle nhìn Olivia. “Những bức điêu khắc nào vậy?” chàng hỏi.

      “Của Bà Cố ấy mà,” nàng đáp với giọng mệt mỏi. Nàng đặt cuốn sách xuống rồi đứng lên khỏi ghế.

      “Em lên mái đây,” nàng . “Em cần khí trong lành. Và em muốn xem khoảng cách giữa hai tòa tháp rộng chừng nào.” Nàng lấy tấm khăn choàng rồi thong thả ra khỏi phòng.



      công bằng.

      Nàng được nghiên cứu các bức tranh của Bà Cố. Chúng có tính giáo dục rất cao. Nàng rất muốn được trải nghiệm những tư thế ấy. Nhưng khi hôn số chàng và cho phép vài buông thả nho nàng thấy thất vọng. Cũng hơi kích thích chút - nhưng chủ yếu chỉ vì nàng biết mình hành động thiếu đúng đắn.

      Thế rồi Lisle trở về, người đàn ông cường tráng, kẻ học được cách hôn hít điêu luyện từ những chuyên gia ở phương Đông. Rồi đây chàng trở thành chuyên gia mất thôi. Và luyện tập. cách thường xuyên và chăm chỉ.

      Giờ nàng hiểu vì sao các quý bà rất nhiều về chuyện đó, tại sao Bà Cố người chồng duy nhất của mình say đắm tới vậy và tại sao bà vẫn là góa phụ vui tươi như thế.

      hề buồn cười.

      Đam mê.

      Bà Cố bảo chuyện đó chẳng cần phải dính dáng tới tình . Nhưng tình thứ gia vị hảo hạng.

      Có tình tốt, nhưng đam mê khiến người ta cảm thấy bồn chồn và bực bội vô cớ theo những cách thức rất khó chịu. Vì Olivia quá thiếu may mắn khi trải nghiệm cảm xúc ấy lần đầu tiên với Lisle, nàng phải đối mặt với đam mê bị kìm nén, mà chuyện này chẳng dễ chịu chút nào.

      Nàng leo lên cao, cao nữa, tự hỏi chẳng biết khí lạnh trốn đằng nào. Gió gào rú trong ô cầu thang nhưng với cảm xúc của nàng lúc này nó chẳng khác gì luồng gió sa mạc hầm hập.

      Nàng leo lên cao mãi: qua lầu hai, rồi qua lầu ba, qua chỗ ở của đám lính gác và giờ qua cả chỗ ngủ của người hầu. Nàng leo tiếp, qua khúc cầu thang cùng, tới cánh cửa , rồi cuối cùng ra tới gác thượng.

      Nàng bước ra, tới bên tường bao, đặt bàn tay lên đó, nhắm mắt, và hít vào sâu. khí rất lạnh, lạnh đến kỳ diệu, và ở đây rất yên tĩnh, xa khỏi mọi cuộc trò chuyện.

      Nàng hít sâu thêm hơi nữa, rồi thở mạnh, rồi mở mắt ra.

      Những vì sao, chi chít những vì sao.

      Khắp xung quanh và đầu nàng.

      Nàng chưa bao giờ thấy nhiều sao tới vậy. Và vầng trăng ở kia, lên cao, sáng rỡ và tròn vành vạnh. Đẹp quá, khung cảnh phi thường này.

      “Những bức điêu khắc nào?” giọng trầm ấm vang lên phía sau nàng.

      Nàng quay lại. “Ồ, ngài biết đấy,” nàng cách bất cẩn. “Những bức vẽ bậy bạ người ta bán ở dưới quầy thu ngân trong các xưởng in ấy mà. Cùng với những bức mà Bà Cố sưu tầm được trong những lần ra nước ngoài. Mọi thứ, từ các tác phẩm của Pietro Aretino cho tới những bức minh họa gần đây nhất trong cuốn Đồi Fanny. Bà Cố và hai Nữ kia vẫn lảm nhảm về chúng suốt.”

      “Ta đoán những tác phẩm ấy là về chuyện đó,” Lisle . Đôi giày buổi tối của chàng lướt êm như ru sàn đá, nhưng nàng vẫn cảm nhận được chàng lại gần mình.

      Chàng tới đứng bên cạnh nàng, chỉ cách bước chân, và đặt tay lên tường thành. “Nhưng em chưa bao giờ với ta. Em gợi ra chủ đề đó trong lá thư, rồi lại gạch nó , theo đúng cái cách ưa khiêu khích trí tò mò của em.”

      “Em tin nổi là ngài còn nhớ chuyện đó đấy.” Nàng lén nhìn chàng, và đó là sai lầm. Ánh trăng sao vằng vặc bàng bạc mái đầu chàng và đánh bóng bóng hình nghiêng nghiêng của chàng.

      “Tất nhiên là ta nhớ chứ,” chàng . “Khi đó ta thấy bực mình khủng khiếp. Hồi ấy ta khoảng - bao nhiêu nhỉ? - mười bốn hay mười lăm? Đương nhiên, ta rất khao khát được xem chúng, thế nên ta rất giận em vì chơi khăm ta. ‘Ha ha, Lisle,’” chàng với giọng ngân nga. “‘Em có những bức tranh bậy bạ. Ngài chẳng có đâu.’”

      “Ngài đâu cần những bức tranh bậy bạ. Ngài nhảy rồi.”

      Chàng quay phắt sang phía nàng, tì khuỷu tay lên lan can. Chàng chăm chú nhìn ngắm gương mặt nàng lâu chưa từng thấy.

      Nàng để mặc cho chàng ngắm mình. Nàng biết chơi bài, chơi rất giỏi. Chẳng ai đọc được khuôn mặt nàng.

      “Những nhảy múa khiến em phiền muộn đến lạ lùng,” chàng .

      “Tất nhiên rồi,” nàng . “Nhìn em xem.” Nàng lướt tay từ xuống dưới, qua cái váy phồng phồng và hai ống tay áo khổng lồ.

      “Ta nhìn đây,” chàng .

      “Em, trong tất cả thứ này. Áo nịt, váy lót, rồi cả đường diềm diêm dúa.”

      “Có vẻ như người ta gọi đó là thời trang.”

      “Họ được nhảy múa đường phố.”

      Chàng nghiêng đầu qua bên, vẻ mặt khó đoán định.

      “Em sẵn lòng đánh đổi mọi thứ để được nhảy nhót đường phố,” nàng . “Nhưng em bao giờ làm thế. Em , nếu gặp may, rồi kết hôn với gã chán ngắt, bởi vì em thể trở thành nỗi hổ thẹn của gia đình. Em trở thành vợ của ai đó và thành mẹ của những đứa con, và chẳng bao giờ được làm con người khác hoặc làm việc gì khác. Tất nhiên, trừ khi ta chết và em trở thành góa phụ giàu có, khi đó em có thể sống tiếp như Bà Cố sống - nhưng , em cũng chẳng thể làm thế, bởi vì ngày nay phụ nữ chẳng được làm thế nữa - hoặc nếu có làm thế họ phải thận trọng hơn, mà em lại chẳng bao giờ thận trọng được cả.”

      Chàng gì.

      Chàng hiểu. Đàn ông làm gì và có thể làm gì? Ngay cả chàng cũng thấy nàng trước hết là phụ nữ, rồi thứ hai - hoặc thứ bốn mươi hai - mới là Olivia. Mà cũng có thể chàng chẳng hề tách bạch.

      “Thế em muốn gì?” chàng khẽ. “Em thực muốn gì? Em có biết ?”

      Em muốn chàng, đồ ngốc ạ. Nhưng đó chính là con người nàng, muốn nhảy qua mỏm đá ngay cả khi có đồng cỏ an toàn tuyệt đẹp để dạo chơi.

      Tuy nhiên, nàng đủ liều lĩnh để làm xấu thêm tình hình vốn khó khăn bằng cách với chàng rằng nàng - Gì nhỉ? Si mê chàng chăng?

      Nàng nhìn ngắm thế giới trải rộng bên dưới họ.

      Đây là điểm cao nhất cả vùng này, cách chân núi hàng dặm. Nàng nhìn thấy toàn cảnh những ngôi nhà, những đốm sáng mờ ảo ô cửa sổ, trong những ngôi làng chìm giữa các thung lũng dưới kia. ngọn núi cách đó bao xa có tòa lâu đài khác. Ánh trăng sao tắm đẫm toàn bộ khung cảnh. Cơn gió lạnh lướt qua làn da nàng, hất những lọn tóc bay bay khuôn mặt diễm lệ của nàng. Cơn gió lộng ấy tuyệt vời.

      “Đầu tiên, em muốn cái gì đó giống thế này,” nàng . Nàng khoát tay ra quanh cảnh bàng bạc ánh trăng. “Lôi cuốn. Lãng mạn. Đúng như em cảm nhận khi lần đầu tiên nhìn thấy tòa lâu đài này, khi em bước vào đại sảnh. Ngài nghĩ em muốn gì chứ? Ngài hiểu em mà. Ngoài mẹ em ra còn ai hiểu em hơn nữa? Ngài biết em muốn được si mê và cuồng nhiệt.”

      Chàng nhìn ra khung cảnh tràn ngập ánh trăng rồi nhìn lên vầng trăng và muôn ngàn vì sao lấp lánh.

      ngốc nghếch,” chàng .

      Nàng cười phá lên, buông hai tay khỏi lan can rồi đưa lên trung. Chàng chẳng bao giờ thay đổi. Lãng mạn phải là thực tế. Tốt hơn là nàng nên chuyện với trăng sao. Chúng hiểu nàng hơn chàng nhiều. Với chàng, nàng như thứ ngôn ngữ lạ lùng - tiếng mặt trăng, có lẽ thế.

      Chàng rời khỏi bức tường và đưa tay ra. “Thôi nào, này lạnh quá.”

      Lúc nào cũng thực tế như thế. Nhưng đó là con người chàng, và chàng là bạn của nàng. Chàng cưỡng được những gì làm với nàng. Nàng biết thực chàng định thế.

      Dù sao, nàng kẻ xấu xa ích kỷ khi giữ chàng ở này. Chàng quen với khí hậu ở đây. Vì có lẽ chàng lạnh thấu xương nên mới nghĩ nàng cũng thế. Chàng chỉ muốn đưa nàng vào trong, tránh khỏi cơn gió. Bảo vệ.

      Nàng nắm lấy bàn tay chàng.

      Chàng giật mạnh, nàng mất thăng bằng, và chàng kéo nàng vào vòng tay. Điều tiếp theo nàng biết là mình ngửa ra sau, cánh tay rắn chắc đỡ quanh eo, cánh tay kia vai nàng. Hai tay nàng theo bản năng vòng lên ôm lấy cổ chàng. Nàng nhìn vào khuôn mặt chàng. Chàng khẽ mỉm cười, nhìn vào mắt nàng. Mắt chàng trong ngần ánh trăng.

      “Trượt chân,” chàng , vẫn với giọng trầm thấp. “Như thế này, phải em?”

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 12


      Tất cả là tại ánh trăng sao lấp lánh quyện với màu bạc trong đôi mắt chàng và tiếng êm như nhung của chàng. Chàng kéo nàng vào vòng tay và xua mọi ý nghĩ tan biến .

      “Phải,” nàng đáp. Chính là thế này đây.

      “Còn gì khác?”

      Suy nghĩ,” nàng .

      “Những nụ hôn say đắm, ta nghĩ thế.”

      “Phải,” nàng .

      “Đầy nguy hiểm.”

      “Ôi, đúng thế.”

      liều lĩnh,” chàng thốt lên. “ ngốc quá.” Chàng cúi xuống hôn nàng.

      Có lẽ trước đây chuyện này chỉ là vở kịch. Nhưng giờ phải, thể. có tiếng cười nào trong giọng hay ánh mắt chàng và hề có vẻ vô tư trong cái si mê của đôi môi chàng. Nhưng mà chàng đùa cho vui, bởi vì Lisle chẳng bao giờ như thế. Chàng giả vờ. Nàng có thể vờ vịt rất dễ dàng. Chàng bao giờ vờ vịt cả.

      Miệng chàng giả đò. Đôi môi chàng mạnh mẽ phủ lấy môi nàng, ấn mạnh cho tới khi nàng phải mở miệng ra, và nàng làm thế, ngay lập tức. Nụ hôn của chàng, nóng bỏng và kiên quyết, kéo họ trở lại nơi họ thoát ra. Những cảm xúc vẫn còn nguyên đó. Mọi giáo huấn và lý trí đời đều thể ngăn họ lại. Họ phải kìm nén khao khát suốt nhiều giờ, chỉ chờ đợi được buông thả thêm lần nữa.

      vụ việc chưa kết thúc. Lẽ ra họ nên để nó chơi vơi như thế, nhưng nó - dù thứ lôi họ sát lại nhau có là gì nữa - đâu chịu ngoan ngoãn lắng xuống.

      là, nàng muốn để nó . Nàng muốn ngừng nó lại.

      Nàng cảm nhận được vị rượu chàng vừa uống, và vị ấy chỉ làm đậm đà thêm hương vị của chàng, thứ hương vị khắc sâu trong tâm trí nàng. Cả đời nàng đợi điều này, đợi chàng.

      Phải, nàng si mê và cuồng nhiệt. Chẳng khác nào được nhấm rượu dưới ngàn trăng sao và trời đêm lung linh bí . Chẳng khác nào được bay lên giữa trăng sao.

      Đừng bỏ . Đừng bao giờ bỏ em .

      Vòng tay nàng siết chặt quanh cổ chàng còn chàng kéo nàng lên, ghì vào người chàng và dựa lưng vào bao lơn. Lần này tay chàng di chuyển nhanh và dứt khoát hơn lần trước. Chàng giật khăn choàng của nàng ra, ngừng hôn môi để lướt miệng xuống phía dưới, dọc theo cằm nàng. Môi chàng chạm tới đâu cũng để lại cảm giác nóng bỏng râm ran, lướt xuống cổ nàng cho tới khi chạm lên vùng da ngực.

      Nàng cảm thấy nỗi phấn khích run rẩy lan khắp cơ thể, nên thể ngăn mình kêu lên, tiếng rên rỉ quằn quại. Đây là thứ duy nhất nàng thể làm chủ hay điều khiển. trận cuồng phong khoái cảm đê mê tóm lấy nàng, khi môi chàng trượt ngực nàng.

      Rồi tay chàng ở đó, vầy vò ngực nàng. Nàng bắt đầu kêu lên, nhưng miệng chàng lại phủ lấy miệng nàng. Nụ hôn bạo liệt khiến nàng im bặt, và nàng đầu hàng, hoàn toàn, cách vui sướng, chìm nghỉm vào đại dương khoái cảm và sẵn lòng chết trong đó.

      Nàng đưa hai bàn tay háo hức ve vuốt cánh tay, bờ vai và lưng chàng. Chàng ấm áp và mạnh mẽ, nàng có vuốt ve bao nhiêu cũng chẳng thấy vừa; nàng chưa thấy được gần gũi đủ mức.

      Chàng đưa tay xuống thấp hơn, và trong màn đêm tĩnh lặng, tiếng sột soạt của chiếc váy dường như còn to hơn. Nhưng gì bằng tiếng trái tim nàng, thình thịch rộn ràng với niềm hạnh phúc, nỗi sợ hãi và phấn khích mãnh liệt tới nỗi nàng cảm thấy đau nhói bên trong.

      Lần này, chàng kéo váy nàng nhanh hơn và kém kiên nhẫn hơn trước đây. Bàn tay chàng ấm nóng trượt lên đùi nàng và ngay lập tức tìm thấy lối vào quần chẽn của nàng.

      Cái động chạm thân mật khiến nàng choáng váng, nhưng nàng đợi cả cuộc đời để được choáng váng như thế. Bàn tay ấm áp của chàng ôm lấy nàng ở đó, quá thân thiết, như thể nơi ấy thuộc về chàng, cảm giác của nó vừa nguy hiểm vừa sung sướng như muốn phát điên. Nàng cọ xát bàn tay chàng vì nàng phải làm thế. cái gì đó bên trong, ở nơi sâu kín trong lòng, thôi thúc nàng làm như thế.

      Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại. Đừng ngừng lại.

      Nàng nên lời nhưng có thể diễn tả những lời ấy bằng hành động, lưỡi nàng xoắn lấy lưỡi chàng trong khi cơ thể nàng chà xát bàn tay chàng. Rồi chàng trượt ngón tay vào trong nàng và nàng nghĩ mình bắn tung ra thành muôn tia sáng. Nếu phải môi chàng gắn chặt môi nàng chắc hẳn nàng thét lên.

      Chàng trượt qua trượt lại ở đó, những bí mật ở đó vốn chỉ mình nàng hay biết, thế nhưng chàng cũng biết chúng, biết tất cả, thậm chí biết nhiều hơn nàng. Cả con người trong nàng đảo lộn lên. Mọi cảm giác tụ lại, giống như bầy chim, rồi tung cánh bay thẳng lên trời xanh, hệt như đàn quạ chiều nay, chính tòa tháp này, và cơ thể nàng co giật mạnh như thể linh hồn nàng vút lên cao, cao mãi tới những vì sao.

      Rồi nàng biết chuyện gì phải xảy ra. Mọi tế bào trong cơ thể nàng đều biết.

      Nàng di chuyển bàn tay khắp người chàng, qua những cơ bắp cuồn cuộn cánh tay chàng, vòng quanh lưng rồi lướt xuống dưới quần chàng. Giờ nàng tìm thấy khoảng hở lưng quần chàng liền thọc tay vào lần quanh mông chàng. Chàng khẽ rướn người để nàng có chỗ trống, trong khi đó vẫn tiếp tục ve vuốt nàng, khẩn thiết hơn, và nàng như sắp ngã ngửa ra sau với cảm giác sung sướng bùng nổ. Nhưng bàn tay nàng vẫn di chuyển theo bản năng và tháo chiếc cúc quần ra khỏi khuyết.

      Khi nghe thấy tiếng hét, thoạt tiên nàng tưởng đó là tiếng của chính mình. Nhưng rồi nàng nhận ra phải, mà cũng chẳng phải những con quạ quang quác.



      Có ai đó rú lên.



      tiếng hét lạnh sống lưng.

      Lisle ngẩng đầu lên, cả thế gian quay mòng mòng xung quanh chàng. Thế giới chỉ có hai màu đen và bạc. Sao trời, muôn triệu vì sao.

      người con trong vòng tay chàng, quá ấm và mềm mại.

      Olivia, khuôn mặt nàng ngời ánh trăng, và bầu ngực nàng trắng ngọc ngà, nhô ra đầy kiêu hãnh từ vạt áo lót của chiếc váy.

      Vùng u tối hừng hực trong tâm trí chàng dần sáng tỏ, như thể cơn gió lạnh vừa phạt qua.

      Bàn tay chàng cảm nhận ấm rực trơn mượt của…

      . Lại thế rồi.

      Chàng rút tay ra khỏi dưới váy nàng, và chiếc váy rủ xuống nghiêm chỉnh.

      Chàng kéo vạt áo lót lên cho nàng, ấn hai bầu ngực vào trong. Gì nữa nhỉ? Khăn choàng của nàng… Đâu rồi? Kia. Chàng nhặt lên và quàng quanh cổ nàng.

      Chàng làm tất cả chuyện này quá nhanh chóng theo bản năng. Còn kịp nghĩ. Chàng vẫn thường thế. Nhưng có chuyện gì thế…?

      Tiếng rú. Còn hơn cả rú. Từ đâu nhỉ?

      Qua lan can, chàng nhìn xuống dưới. Trong sân, những bóng người chạy qua chạy lại.

      Nghĩ xem nào.

      có ai ở tầng trệt.

      Tốt. Thế là tốt.

      Chàng nhìn chằm chằm về phía cánh cửa dẫn vào ô cầu thang.

      “Lisle, quần của ngài kìa.”

      Chàng nhìn xuống. “Chết tiệt. Quỷ tha ma bắt ta .” Chàng cài khuy quần lại. “Ngu ngốc. Ngu ngốc. Ngu ngốc. Đần độn.”

      sao đâu,” nàng . “ sao cả.”

      Nàng xốc lại váy áo. Chỉ vì chàng. Chàng làm thế. Đảo tung cả con người nàng lên. Có chuyện quái quỷ gì với chàng vậy?

      “Ta phải đối phó với chuyện này trước ,” chàng . “Nhưng…”

      thôi,” nàng . “Em theo ngay sau ngài.”



      Mất hồi lâu, trí óc trì độn của Lisle mới sáng tỏ phần nào để giúp chàng hiểu đôi chút chuyện gì vừa xảy ra. Ai đó kêu thét về tên giết người, ai đó gào lên về bọn đột nhập, ai đó rú rít về những bóng ma, cũng có thể ai đó đơn giản là bị sốc.

      Cuối cùng, Lisle và Olivia xoay xở để tụ tập được mọi người về lại trong lâu đài. Chuyện này dễ dàng gì vì đám người hầu trốn khắp nơi. số người trốn ra chuồng ngựa, nhưng chàng nghĩ họ chẳng ở lại đó lâu. Trời rất lạnh mà các chuồng ngựa đều hư hỏng cả. Nếu có chút lý trí, họ vào trong nhà để xúm xít với những người còn lại.

      Quả nhiên, khi chàng và Olivia đưa được hai quý bà tới ngồi trước lò sưởi, với những ly whiskey, tất cả người hầu có mặt trong đại sảnh.

      Đảm bảo về quân số.

      Chàng để ý thấy đám người hầu còn tụ tập dưới gác trang trí như lúc trước, nơi đó xưa kia vốn là lối vào sảnh. Thay vì thế, họ kéo tới gần đầu kia căn phòng, nơi có lò sưởi khổng lồ.

      Có vẻ như hầu hết bọn họ đều biết chuyện gì vừa xảy ra. Khi tiếng thét vang lên, họ hoảng sợ nên cứ thế bỏ chạy tán loạn.

      Nhờ Olivia kiên nhẫn vô cùng khi đặt câu hỏi với mọi người, cuối cùng chàng cũng xác định được chắc chắn người gào lên đầu tiên là Quý bà Cooper. Những người khác sau đó la hét theo mà chẳng biết vì lý do gì.

      Lúc này Quý bà Cooper tranh cãi với Quý bà Withcote về chuyện nhìn thấy gì.

      “Đó là con ma,” Quý bà Cooper . “Tôi thấy nó, như ban ngày. kia kìa.” Bà khua khua ly rượu về đầu kia của gian sảnh. “ gác trưng bày ấy.”

      Mọi cái đầu đều quay về hướng đó và ngước lên. Chẳng có gì đấy cả. Gác trưng bày tối bưng.

      “Trông nó như thế nào?” Lisle lên tiếng.

      “Nó giống con ma chứ còn sao nữa, trắng toát và mờ ảo,” Quý bà Cooper . “Mỏng mảnh. Như làn sương. Nó đu đưa gác trưng bày.”

      số người hầu run bắn người.

      vô lý,” Quý bà Withcote . “Tôi biết chuyện gì xảy ra rồi. Bà ngủ gật, lúc nào chẳng thế, và nằm mơ thấy chuyện đó.”

      “Tôi biết khi nào tôi mơ còn khi nào tỉnh. Tôi chẳng mơ thấy cái gì hết!”

      “Nó ở đó trong bao lâu?” Lisle hỏi.

      “Nó chưa bao giờ tồn tại ở đó cả,” Quý bà Withcote đốp lại.

      Quý bà Cooper liếc mắt qua bà bạn. “Nó ở đó,” bà . “ vài người hầu cũng nhìn thấy. Ta biết chắc nó ở lại đó trong bao lâu. Có lẽ nó đu đưa ở đó từ lúc trước để quan sát chúng ta.”

      Thêm nhiều người run rẩy.

      “Khi ta ngước lên,” Quý bà Cooper tiếp, “ ở đó. Ta gào thét. Ta còn có thể làm gì cơ chứ? Người ta làm gì trong trường hợp đó? Mọi người vẫn thường nghe thấy những chuyện như thế, nhưng ta chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy con ma, bằng xương bằng thịt.”

      tình, Agatha, làm sao có thể là bằng xương bằng thịt cơ chứ. Bà vô lý quá .”

      “Bà cũng hét ầm ĩ đấy thôi, Millicent.”

      “Vì bà dọa tôi sợ hết hồn. Tôi cứ tưởng những người Scotland tàn bạo tới giết chúng ta. Rồi bà chạy nhào ra khỏi đại sảnh, lao ra cửa giữa màn đêm, nửa số gia nhân hoảng sợ chạy theo sau bà. Tôi chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Váy lót của bà bén lửa hay sao?”

      Lisle liếc nhìn Olivia.

      đúng ra là chàng liếc nhìn sang chỗ nàng vừa đứng. Nhưng giờ nàng còn ở đó.

      Chàng hoảng hốt nhìn quanh đại sảnh. Dù có rất nhiều nến trong phòng, các góc nhà vẫn tối om. Chàng nhận ra, kẻ đột nhập có thể dễ dàng lẩn vào giữa đám người trong tâm trạng rối bời này mà bị phát . Rất dễ để lén chộp ra người…

      Nhưng , chàng nghĩ gì thế? Bất cứ ai cố lén chộp người tránh khỏi khiến người khác ngạc nhiên.

      Chàng băn khoăn biết nghĩ sao ánh sáng xuất trong góc tối, tỏa ra từ cao, ở mé Bắc của gian sảnh. Chàng ngước nhìn về phía đó.

      Olivia đứng gác trưng bày, tay cầm giá nến . Mọi con mắt đều đổ về hướng đó.

      Chỉ nàng mới có kiểu tạo ra xuất kịch tính như thế.

      “Dù lúc trước có hay cái gì ở đây,” nàng gọi với xuống, “ giờ ở đây cũng chẳng có gì cả.”

      Nàng bước ra giữa gác trưng bày, ngay trước khung cửa sổ mái vòm. Nàng đặt chúc đài xuống chiếc bàn ai đó đặt sẵn ở đấy. Tắm đẫm trong ánh nến, mái tóc sáng ngời màu vàng lửa, nàng đứng với vẻ uy nghiêm của nữ hoàng: đầu ngẩng cao, vai ưỡn ra, hề sợ hãi. người giàu trí tưởng tượng hẳn nghĩ rằng nữ chúa thời xưa cũng đứng với dáng vẻ ấy khi bà thôi thúc đám đầy tớ bảo vệ tòa lâu đài bằng mọi giá.

      “Ở đây chẳng có gì cả,” nàng nhắc lại. “ có bóng dáng ma mãnh nào hết. có dấu chân mờ. có bất cứ thứ gì.”

      Giọng Quý bà Cooper vang lên cắt ngang bài diễn thuyết. “Nhưng ta thấy nó, cháu , như ban ngày ấy.”

      “Cháu nghi ngờ chuyện bà thấy cái gì đó,” Olivia đáp. “Có thể con chim bay qua ô cửa sổ vỡ. Cũng có thể kẻ ưa nghịch nào đó tìm được lối vào đây cũng nên.”

      Nàng ngừng lại lúc cho mọi chuyện lắng xuống.

      Rồi nàng tiếp, “Bailey, lấy cho ta cái chổi và tấm voan dài.”

      Trong khi hầu làm theo lệnh nàng, Lisle nhận ra khí thay đổi, nỗi sợ hãi hoảng loạn của mọi người tan biến. Từ yên lặng điếng người, giờ đám đông khán giả bắt đầu thư giãn, khe khẽ rì rầm với nhau.

      Sau vài phút, Bailey xuất gác trưng bày với cái chổi và tấm vải. Olivia đưa chúc đài cho và bảo xuống. Gác trưng bày lại chìm trong bóng tối.

      lâu sau đó, Lisle nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ. Rồi cái gì đó trắng toát đu đưa ở lan can của gác trưng bày.

      Chàng nghe thấy tiếng mọi người hít thở sâu.

      “Tất cả những gì người ta cần làm là đứng trong bóng tối, với tấm vải mỏng móc cây gậy dài,” giọng Olivia vẳng xuống từ trong bóng tối.

      “Ôi trời ơi!” Quý bà Cooper kêu lên.

      Đám người hầu rì rầm to hơn. Có ai đó cười khẽ.

      Sau lát, Quý bà Withcote với giọng ràng là rất phấn khởi, “Ồ, điều đó cho thấy người ta dễ dàng bị lừa bịp đến mức nào.”

      “Nhưng ai lại làm việc như thế chứ?” Quý bà Cooper cự nự.

      “Kiểu người ưa đùa cợt,” Quý bà Withcote . “Thế giới này đâu thiếu loại người ấy.”

      Olivia lại xuất giữa họ, cũng đột ngột như khi nàng biến mất. Nàng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa tỏa ra từ lò sưởi.

      Dù Lisle sẵn biết đó là cách tạo cảm giác kịch tính, nhưng nàng vẫn khiến trái tim chàng lỗi nhịp. Nàng mang dáng vẻ của thần tiên, đứng trước cái lò sưởi khổng lồ, ánh sáng chiếu từ phía sau tỏa ra vầng hào quang đùa giỡn những lọn tóc đỏ au, làn da trắng sữa, chiếc váy lụa bồng bềnh.

      Lisle để ý thấy nàng vẫn giữ nguyên dáng vẻ nhân vật Nữ chúa Lâu đài, hai bàn tay đặt hông, lưng thẳng tắp.

      “Đây là trò đùa ngớ ngẩn,” nàng với mọi người. “Có nhiều khả năng mấy cậu bé trong làng muốn bày trò để cười nhạo người London chúng ta. Chắc chúng nghĩ đó là trò đùa hay ho, xem mọi người chạy nháo nhào khắp nơi, la hét trong khiếp sợ.”

      “Làm sao có thể trách bọn chúng được chứ?” Quý bà Withcote cười phá lên. “Chuyện này đúng là buồn cười, bà công nhận , Agatha? Gợi tôi nhớ cái lần ngài Thorogood gài bẫy bà vợ. Bà còn nhớ ?”

      “Sao tôi quên được chứ? Người ta suốt tuần ròng rã là tình nhân của bà ta hứng tình lấy lần vì ông ta sợ mất mật.”

      Trong khi hai bà già tiếp tục kể lể những kỷ niệm dâm ô của họ, Olivia cho đám người hầu tản làm việc. Nàng gọi Nichols cùng Bailey đến và bảo họ kiểm tra tất cả các phòng và hành lang. Như thế để trấn an những ai vẫn sợ kẻ đột nhập còn ở trong lâu đài.

      Nàng bảo khi tới giờ ngủ nàng muốn mọi thứ yên ắng và trật tự. “Cho họ uống thuốc nếu em thấy phải làm thế,” là cầu cuối cùng của nàng.

      Hai người tiến hành nhiệm vụ của mình.

      Ngay sau đó, hai quý bà lảo đảo về giường.

      Khi ấy chỉ còn lại Olivia và Lisle trong đại sảnh.

      Nàng đứng yên lặng nhìn ngọn lửa. Ánh lửa mạ vàng mái tóc và làm hồng đôi má nàng, hình ảnh ấy khiến tim chàng nhói đau.

      Mình làm gì? chàng nghĩ. Mình làm gì với nàng đây?

      là nhanh trí tuyệt vời,” chàng khen ngợi. “Chỉ trong mấy phút em giúp mọi người hiểu vấn đề.”

      “Đâu cần nghĩ chứ,” nàng đáp. “Em giả ma suốt mà. Em thậm chí còn làm được mặt quỷ nữa kìa. Dễ lắm.”

      “Lẽ ra màn biểu diễn ấy chẳng khiến ta phải ngạc nhiên đâu,” chàng . “Thế mà ta lại thấy rất kinh ngạc.”

      “Chắc chắn ngài nghĩ em tin có chuyện ma quỷ rồi,” nàng .

      “Em rất giàu trí tưởng tượng.”

      “Phải, nhưng cả tin.”

      , hề cả tin hay ngây thơ hay khờ khạo. Nàng chưa bao giờ có những tính cách đó. Cả tính rụt rè hay đắn đo cũng . Hay đúng hơn là bất cứ tính cách gì giống với những phụ nữ chàng từng biết.

      Cảm nhận ấy ùa đến tâm trí và huyết quản chàng cùng lúc: dễ thăng hoa của nàng, mềm mại của làn da, hương vị cơ thể, những đường cong thân hình, và sức nóng lan tỏa khắp cơ thể chàng, khiến đầu óc chàng chao đảo.

      Nàng là sức mạnh của tự nhiên, thể ngăn cản, thể chống cự.

      Chàng phải làm cái quái quỷ gì đây?

      Chàng thể tin nàng cũng thể tin vào chính mình. Cứ nhìn những gì chàng làm xem, mới chỉ vài giờ sau khi họ đồng thuận rằng chuyện đó được phép xảy ra lần nữa.

      Em muốn phá hoại cuộc sống của ngài và em biết ngài cũng muốn phá hoại cuộc sống của em.

      về chuyện lãng mạn vừa rồi ấy mà,” chàng cất tiếng.

      “Nếu ngài định xin lỗi về chuyện xảy ra gác thượng em bóp cổ ngài đấy,” nàng .

      “Nếu chúng ta bị gián đoạn…”

      “Phải, em biết.” Nàng cau mày. “Em phải nghĩ về chuyện này. Em tin chắc có giải pháp. Nhưng giờ em chưa tìm ra. Hôm nay là ngày quá dài.”

      Dài như cả cuộc đời, chàng thầm nghĩ.

      Cuộc đời chàng. Nó thay đổi, cưỡng lại được, dừng lại được. Nó bắt đầu thay đổi từ giây phút môi chàng được chạm vào môi nàng - , trước cả khi ấy mới đúng. Là từ giây phút chàng thấy nàng trong phòng tiệc.

      “Đúng vậy, chính xác,” chàng .

      “Nhưng chuyện của trái tim…” Nàng nhăn mặt. “Đây là những gì em nghĩ trong đầu. chúng ta rất cần quản gia. ràng là Edwards quay lại dù có ở đâu chăng nữa. Chúng ta cũng rất cần thuê người hầu Scotland. Người hầu London thuộc về nơi này. Họ thích nó, hiểu và phù hợp với nó. ràng là số người muốn phá hoại công việc của chúng ta ở đây. Chúng ta phải tìm hiểu tường tận chuyện này. Cũng cần cả lực lượng người giúp việc kiên định, có thể tin tưởng, những người gắn bó với nơi này ấy.”

      Dù ngày hôm nay như thế là quá dài, nhưng chàng vẫn vô cùng khó chịu và tức giận bản thân khi trong lòng cảm thấy yếu đuối. Chàng luôn được xem là người mạnh mẽ. Nhưng khi thấy nàng gác thượng và ngắm nhìn những vì sao trong đôi mắt nàng, chàng làm đúng cái chuyện mà mình thề bao giờ tái diễn.

      Tuy nhiên, chàng thể phớt lờ những lời nàng . Thực tế. Nàng khái quát hoàn cảnh này logic kém gì chàng những lúc rối bời bởi vô vàn cảm xúc như thế.

      “Em đúng,” chàng .

      Đôi mắt nàng mở to. “Em ư?”

      “Chúng ta có vấn đề, nhưng đó phải vấn đề duy nhất,” chàng . “Chúng ta tới đây để xây dựng lại lâu đài. Chúng ta tới đây để giải quyết các vấn đề của nó. Đó là điều cần tập trung vào. Nếu chúng ta làm thế…”

      Đôi môi nàng cong lên. “ có thời gian để mắc sai lầm.”

      “Quỷ sứ tạo công ăn việc làm cho những đôi tay nhàn rỗi,” chàng .

      “Em chưa bao giờ nghĩ mình cần tới giúp đỡ của quỷ sứ cơ đấy,” nàng . Nàng khẽ cười rồi bước . “Được rồi, thế nhé, coi như chúng ta kế hoạch. Và có thể tiến hành vào ngày mai.” Nàng chúc chàng ngủ ngon rồi biến mất vào chái Nam lâu đài.



      Olivia vẫn giữ nguyên vẻ mặt vui tươi cho tới khi an toàn phía sau cánh cửa và bắt đầu bước chân lên cầu thang.

      Rồi dừng lại ôm chặt đầu.

      Họ phải làm gì đây?

      Ham muốn quả là thứ khủng khiếp, như nàng hằng tưởng tượng. Nó chịu nổi. Đứng ở đó, ngắm nhìn chàng, khao khát được chạm vào chàng và khao khát được chàng đụng chạm.

      Những gì xảy ra gác thượng mang cảm giác tàn phá khủng khiếp.

      Nàng biết đó là gì. cho cùng, nàng từng đọc tuyển tập văn học khiêu dâm cực kỳ thú vị của Bà Cố, và học được cách làm bản thân sung sướng.

      Nhưng đó chỉ là mô phỏng tầm thường.

      Nghĩ tới chuyện khác , nàng ra lệnh cho bản thân. Và thế là nàng nghĩ về những người quản gia, cách họ biến mất và cách tìm được họ. Nàng nghĩ về những con ma vốn chẳng phải là ma. Nàng liệt kê danh sách những vấn đề về gia nhân cần giải quyết trong lúc bước lên những bậc thang uốn lượn dẫn vào phòng mình.

      Nàng ngả lưng xuống giường mà kỳ vọng ngủ ngon, nhưng những kiện trong ngày giúp nàng. Đặt đầu xuống gối, điều tiếp theo nàng biết là ánh sáng ban mai mờ xám tràn ngập khắp căn phòng và Bailey đứng bên giường, tay bưng khay đồ điểm tâm. Từ đó hương sô la thoảng đưa vào mũi Olivia.



      Đại sảnh Lâu đài Gorewood

      Sáng thứ Ba ngày 18 tháng Mười



      Hai Nữ vẫn chưa dậy, mà có lẽ phải tới tận trưa mới dậy. Lisle nghĩ đó là thời gian biểu bình thường của họ khi bị những thế lực tự nhiên quấy rấy.

      Tuy thấy song trong lòng lại chẳng hề thanh bình, chàng muốn có bữa sáng yên tĩnh.

      Mãi tới giờ chàng mới nhận ra những bữa điểm tâm trước đây chẳng hề yên ả thế này.

      Chàng nghe thấy tiếng bước chân nhàng của người hầu khi họ lại làm việc… tiếng gió rít qua những khe tường hổng và những khung cửa sổ vỡ… tiếng lửa tí tách trong lò.

      Môi trường ở đây hề lý tưởng, và chàng cách xa nơi mình muốn sống hàng trăm dặm, công việc trước mắt chẳng khiến chàng hứng thú chút nào. Nhưng lúc này chàng có thanh bình. Và trật tự. Và khoảnh khắc yên tĩnh để suy nghĩ về trớ trêu mà Olivia tạo ra.

      Nàng bước vào ngay khi chàng vừa uống xong tách cà phê Nichols pha cho chàng.

      Lisle đứng lên.

      Nàng đứng ngay bên cạnh chàng, săm soi vào cái tách bàn. “Đó là cà phê Thổ Nhĩ Kỳ à?”

      Chàng gật đầu. Váy áo nàng sột soạt bên tai chàng. Chàng ngửi thấy mùi hương của nàng, hương nước hoa thoang thoảng. Hay đó là thứ mùi gợi cảm hơn cả nước hoa? Rất thoảng. phải mùi trong chai nước hoa. Nhiều khả năng là mùi hoa cỏ khô được đặt trong tủ quần áo của nàng.

      “Ta quen uống rồi,” chàng . “Nhưng phải đặc biệt thích nó. Sẵn có gì ta uống nấy thôi. Nhưng Nichols cảm thấy có trách nhiệm lớn lao trong việc quan tâm chăm sóc sở thích của ‘cậu chủ’. Cái gì có thể làm là cậu ấy phải làm bằng được. Dù chúng ta đâu, cậu ấy cũng mang theo cà phê Thổ Nhĩ Kỳ. Dù chúng ta ở đâu, cậu ấy cũng chuẩn bị thức uống ấy mỗi sáng. Em muốn uống chút ?”

      “Có, em rất muốn.” Nàng bước qua bên rồi ngồi xuống ghế. “Bà Cố lúc nào cũng có món này, nhưng hầu của bà bo bo giữ bí quyết, nhất định chỉ cho Bailey cách pha chế.”

      “Ta bảo Nichols dạy ấy,” chàng , ngồi lại vào ghế. “Nichols luôn coi thường thói bo bo mọn.” Và cậu ấy lấy làm phiền nếu được bày vẽ cho hầu xinh đẹp bất cứ cái gì ấy muốn học, bao gồm cả những thứ nàng chưa biết mà lại rất muốn biết.

      Dù Lisle chưa lắc chuông, Nichols xuất , như thể cậu luôn biết lúc nào chủ nhân cần. “Thưa ngài?”

      “Cà phê Thổ Nhĩ Kỳ cho Tiểu thư Carsington,” Lisle .

      “Vâng, thưa ngài.”

      “Và khi Bailey có thời gian, cậu nhớ dạy cho ấy cách pha chế nó.”

      “Vâng, thưa ngài.” Dù giọng Nichols thay đổi, Lisle vẫn nhận ra tia sáng trong mắt cậu.

      Hẳn Olivia cũng nhận ra. Khi cậu đầy tớ biến mất vào trong sảnh xuống bếp, nàng , “Cậu ta được nghĩ tới chuyện quyến rũ hầu của em đâu đấy.”

      “Ta có đủ rắc rối với những nguyên tắc đạo đức của bản thân rồi,” chàng hạ thấp giọng. “Em thể cầu ta chịu trách nhiệm về vấn đề đạo đức của người khác nữa. Và đương nhiên ta thể bắt cậu ấy phải nghĩ thế này thế khác. Cậu ấy cũng là, đàn ông mà.”

      “Em chỉ cảnh báo ngài thôi,” nàng . “Em thể chịu trách nhiệm với những gì Bailey làm. ấy biết rất ít về đàn ông.”

      “Nichols tự mình tìm ra cách,” Lisle . “Như ta hôm qua, cậu ấy mạnh mẽ hơn vẻ bề ngoài. Có lần cơn gió sa mạc nhấc bổng cậu ấy mang quãng khá xa rồi quẳng xuống giữa đoàn người Bedouin. Cậu ấy giúp họ cào cát và pha cà phê cho họ. Họ cho cậu ấy mượn con lạc đà. Khi quay trở lại chỗ ta, cậu ấy xin lỗi vì ‘vắng mặt xin phép’.”

      Nàng nhìn chàng, ánh cười và nét hoài nghi pha lẫn trong đôi mắt xanh ngời. “Ngài bịa chuyện.”

      “Đừng ngốc thế,” chàng . “Ta đâu có trí tưởng tượng.”

      Những hình ảnh nóng bỏng diễn ra trong đầu và kể cả những giấc mơ còn phóng túng hơn được xếp vào tưởng tượng, chàng tự nhủ. Đối với đàn ông, những thứ như thế được tính là thực tế.

      “Chắc ngài muốn biết ai dàn dựng chuyện đó,” nàng .

      Chàng nhìn theo ánh mắt nàng lên gác trưng bày. “Ý em là vụ ma hình ấy hả?”

      “Em muốn xem xét kỹ lượt nữa, dưới ánh sáng ban ngày,” nàng . “Có thể ở đó chẳng có gì, chỉ là Quý bà Cooper tưởng tượng hoặc mơ thấy. Nhưng giả thiết đó có vẻ hợp lý. Ai đó chơi trò nhát ma trong mấy năm trở lại đây. Chẳng có lý do gì để họ chơi nữa khi giờ đây có thêm những khán giả mới thế này.”

      “Nhưng do ngay từ đầu họ lại nghĩ ra trò đó?” chàng . “Sao lại phải dọa dẫm người ta chạy ra khỏi nơi nào đấy?”

      “Bởi vì họ muốn chiếm đoạt nơi ấy cho bản thân hoặc bởi vì nó có cái họ muốn,” nàng đáp.

      ràng là chẳng ai muốn có cái lâu đài này đâu,” chàng . “Mains kiếm nổi người thuê và ta chẳng thấy dấu hiệu nào cho thấy có người tùy tiện sống ở đây cả.”

      “Mains,” nàng như sực nhớ. “Em định chuyện với ngài về ông ta.”

      Nichols quay trở lại phòng với tách bình cà phê. Cậu rót đầy cốc cho nàng và Lisle rồi lại biến mất.

      Olivia quay lại quan sát cậu ta bước . “Quả là món quà của thượng đế,” nàng . “Ngài bao giờ để ý rằng rất ít đàn ông có thể làm cho bản thân trở nên kín đáo như thế ? Thường thường họ luôn ra sức thu hút chú ý bằng mọi cách mà họ nghĩ ra.” Ánh mắt nàng quay lại phía chàng. “Nhưng phải là ngài. Em cho rằng đó là do ngài sống ở Ai Cập, và làm những công việc đó.”

      “Di chuyển nhàng là kỹ năng quan trọng,” chàng .

      “Em muốn học lắm,” nàng , “nhưng chẳng thể làm thế khi mặc đống váy áo này.”

      Hôm nay, nàng mặc bộ váy màu nâu. Để hợp với ban ngày, chiếc váy che kín tới tận cổ nàng. Nhưng nó cũng có nét giống bộ váy nàng mặc đêm qua: ống tay áo khổng lồ và chiếc váy chứa hàng núi vải, được gia cố bởi vô khối lớp váy lót…

      Chàng chỉnh đốn lại lý trí.

      “Cơ hội nhiều mà khả năng làm việc chẳng có,” nàng .

      “En về Mains sao,” chàng .

      “Phải.” Nàng hít vào hương vị cà phê và thở ra đầy vẻ tán thưởng rồi nhấp ngụm. “Ồ, hảo hạng. Ngon hơn cả cà phê của Bà Cố.”

      “Mains,” chàng giữ nguyên chủ đề.

      “Ngài quả là người có lý trí vô cùng kiên định,” nàng .

      trong hai chúng ta phải có điều đó chứ. Em vốn bước mười phương rồi.”

      “Quả thế , em nghĩ đến thức ăn.”

      “Để ta lấy cho em.” Chàng đứng dậy, về phía tủ thức ăn, thấy mừng vì được lại chút, làm việc gì đó. “Em .”

      “Phải, được rồi. Ông ta là số, em phải thừa nhận thế. Em nghĩ ông ta hoàn toàn bất tài. Hay ngu dốt. Hay cả hai. cho cùng, mọi người đều muốn làm việc. Làng này đâu có giàu có gì cho cam. Có điểm khó khăn khi tìm nhân công. phải ai cũng nhận được lời mời tới làm việc trong tòa lâu đài thế kỷ mười lăm, ngay cả khi đó là tòa lâu đài còn mới và được bài trí sang trọng. Nhưng là trợ lý mà thuê nổi nhân công lao động, mảnh đất bao đời nay vẫn là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho vùng rộng lớn với bán kính hàng dặm quanh đây - điều đó quá lạ lùng.”

      Chàng quay trở lại bàn và đặt đĩa thức ăn xuống trước mặt nàng.

      Nàng nhìn cái đĩa. “ có món haghi, em hiểu rồi.”

      “Đầu bếp của chúng ta là người Pháp mà,” chàng .

      “Cũng có cá hồi,” nàng . “Nhưng em nhận ra bằng cách nào đó ông ta xoay xở để tạo ra bữa điểm tâm hoàn hảo trong cái bếp lò khủng khiếp đó.”

      “Đáng ngạc nhiên quá phải ?” chàng đồng tình. Chàng ngồi lại ghế. “Về Mains ấy mà? Em gì nhỉ?”

      Nàng cầm dao nĩa lên. “Lý trí của ngài quả là quá kiên định.”

      “Ừ, ta rất lo lắng. Ta tin là khi em lôi chuyện này ra tức là có cái gì đó đáng giá để với ta.”

      “Nhiều thứ đấy,” nàng . “Thứ nhất, trợ lý của ngài uống hơi nhiều, ông ta hơi bất tài và hơi lười biếng, nhưng ra những điều đó chưa phải vấn đề. Ông ta làm tốt việc của mình. Nhưng những năm vừa rồi, trước khi qua đời, ông chú Frederick Dalmay của ngài vẫn giám sát chặt chẽ ông ta. Từ khi ông mất tới nay, giám sát chuyển sang cho cha ngài.” Nàng dừng ở đó và tập trung vào bữa điểm tâm.

      Lisle hỏi nàng thêm nữa. Chàng cần hỏi. “Cha ta làm mọi chuyện tệ ,” chàng .

      “Hẳn có những người cũng bảo thế.”

      “Những sách đầy mâu thuẫn,” chàng tiếp. “Đổi ý xoành xoạch.”

      “Đúng thế.”

      “Ta hiểu chuyện gì xảy ra,” chàng . “Chẳng cần phải tưởng tượng. Người dân ở đây cũng có cảm nhận giống như ta.”

      “Những quy định đặt ra hoặc là hà khắc đến ngớ ngẩn, hoặc là mâu thuẫn với những quy định khác,” nàng thêm. “Kết quả là chúng ta mất những người giao hàng. Làng vẫn còn người sinh sống, nhưng nhiều gia đình chuyển . Trong nhiều nhà, đàn ông bỏ xa kiếm việc.” Cứ nhai hết miệng đầy thức ăn, nàng lại tiếp tục phân tích thôi hồi. Lisle để mặc nàng tự nhiên phát biểu. Chàng còn bận suy nghĩ chuyện quan trọng khác.

      “Em học từ cha dượng và các chú cách điều khiển thái ấp,” nàng . “Ngài biết ngài Rathbourne xem đó là những nhiệm vụ trọng đại như thế nào rồi đấy. Từ những gì em biết ông chú Frederick của ngài cũng áp dụng những nguyên tắc tương tự.”

      “Cha ta như vậy,” chàng . “Ông thể trung thành với nguyên tắc hay quy định nào hết.”

      “Tin tốt lành là, giờ chúng ta hiểu tại sao ngài được đón chào ở đây.”

      thù hằn,” chàng . “Họ biết liệu chúng ta có chất thêm nỗi khổ sở lên vai họ hay .”

      “Chúng ta phải giành lại niềm tin của họ,” nàng . “Em tin chúng ta phải bắt đầu từ đó. Sau đấy mới xử lý được chuyện ma mãnh.”

      Lisle chưa kịp trả lời Nichols lại xuất .

      “Thưa ngài, thưa tiểu thư Carsington, có người đàn ông ở đây muốn thưa chuyện,” cậu .

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 13


      Nichols báo người đàn ông ấy tên là Herrick, tới để xin ứng cử vào vị trí quản gia còn trống.

      Olivia nhìn Lisle.

      “Chuyện gì thế nhỉ?” chàng ngạc nhiên. “Mới hôm qua chúng ta còn thể thuê được người nào trong vùng này cơ mà.”

      “Hôm qua, tóc đỏ đối phó được với gã người Pháp hung tợn lăm le con dao trong tay,” nàng .

      “Thông tin thể nào nhanh đến thế,” chàng .

      “Chuyện đó xảy ra từ hôm qua,” nàng . “Ở London, hôm trước em mà làm gì hôm sau chuyện đó liền trở thành chủ đề chính trong bữa sáng. Ở nông thôn chuyện còn lan nhanh hơn, theo kinh nghiệm của em là thế.”

      “Nhưng bằng cách nào? Ai kể cho họ? Chúng ta chẳng có lấy người làng nào trong tòa lâu đài này.”

      “Trong chuồng ngựa,” nàng . “Chuyện phiếm lan từ nhà chính xuống chuồng ngựa, và lúc nào chẳng có những người địa phương ưa tọc mạch lang thang quanh chuồng ngựa vì việc này việc nọ. Làng nào chẳng có ít nhất người cho rằng mình có nhiệm vụ phải biết mọi chuyện của mọi người.”

      Lisle nhìn lên Nichols. “Nếu ông ấy có vẻ là người đáng ngờ cậu biết phải làm gì rồi đấy,” chàng .

      “Ông ấy có lá thư từ ông Mains, thưa ngài, và cả là thư từ chủ cũ của ông ta, ngài Glaxton.”

      Đó chắc là ông chủ của tòa lâu đài mà nàng nhìn thấy khi đứng gác thượng đêm qua, Olivia thầm nghĩ. Nàng xua đuổi hình ảnh gác thượng và những gì xảy ra đó ra khỏi đầu mình. Nếu nàng cực kỳ kiên quyết xua đuổi nó, có thể nó biến .

      “Chúng ta gặp ông ấy ngay khi tiểu thư Carsington dùng xong bữa sáng,” Lisle .

      “Em ăn xong rồi,” Olivia .

      Lisle nhìn xuống đĩa thức ăn của nàng. “Đâu có, em chưa ăn xong.”

      “Em ăn lúc nào chẳng được,” nàng . “Đâu dễ gì kiếm được quản gia quanh đây.”

      “Thế đưa ta cái bánh mì,” chàng . “Cho chúng ta thêm chút thời gian, Nichols, rồi đưa ông ta vào đây.”

      Nàng và Lisle rời khỏi bàn ăn tới gần lò sưởi, chỗ ấm nhất trong phòng, để chờ đợi nhân viên tiềm năng - chỗ này cách khá xa hành lang dẫn vào bếp, nơi có nhiều người hầu ưa nghe trộm.

      Nhờ khả năng tính toán thời gian cực kỳ bí của Nichols - mà cũng có thể chỉ là do cậu sống với Lisle ngần ấy năm - cậu đưa Herrick vào ngay sau khi Olivia vừa phủi xong bụi bánh mì bám áo khoác Lisle. Lisle để ý tới chuyện đó, hoặc quan tâm, nhưng Nichols hẳn để ý. Olivia chắc chắn cậu ấy vô cùng xấu hố nếu chủ nhân của cậu xuất trong dáng vẻ thiếu chỉnh tề trước mặt người giúp việc tiềm năng.

      Herrick ràng trông rất hợp với vai trò quản gia. Ngoại hình ông ta hết sức đường bệ: cao thua gì Aillier nhưng cơ bắp hơn nhiều. Mái tóc đen nhánh chải ngược ra sau rất gọn gàng và đôi mắt đen vô cùng sắc sảo. Ông ta có vẻ điềm tĩnh của người đàn ông hiểu mình làm gì. Ông ta gợi Olivia nhớ đến người quản gia hoàn hảo của Bà Cố, Dudley.

      Ông ta cũng khiến nàng nghĩ đến Nichols, dù ông ta cao to hơn nhiều. Ông ta có cùng cái phong thái kín đáo như thế.

      Tuy là người Scotland, ông ta tiếng khá chuẩn, chỉ hơi nặng hơn chút.

      “Công việc cuối cùng của ông là ở lâu đài Glaxton,” Lisle sau khi đọc mấy lá thư giới thiệu. “Tôi thực băn khoăn là tại sao ông lại từ bỏ vị trí thuận lợi như vậy để tới đống đổ nát này.”

      “Tham vọng, thưa ngài,” Herrick . “Ở bên kia ông Melvin là quản gia. Tôi là quản gia cấp dưới. Chúng tôi hợp nhau. Vì có khả năng thay đổi tình trạng ấy và ông ta cũng còn lâu mới nghỉ hưu, tôi quyết định tìm kiếm cho mình vận may ở nơi khác. Thời hạn hợp đồng của tôi kết thúc từ hai tháng trước. Tôi vừa định nhận vị trí ở Edinburgh hay tin về vị trí còn trống ở đây. Cuộc trao đổi với ông Mains vào ngày hôm qua củng cố niềm tin của tôi là tôi phù hợp với vị trí này hơn.”

      Lisle buồn giấu giếm nỗi ngạc nhiên. Chàng khoát tay vu vơ quanh căn phòng hầu như trống trơn. “Đống hỗn độn ai để tâm này ư?”

      “Đúng vậy, thưa ngài, tôi xem đây như thử thách.”

      “Tất cả chúng ta đều nghĩ vậy,” Lisle , “ may.”

      Olivia quyết định đến lúc tham gia. “Theo kinh nghiệm của tôi,” nàng lên tiếng, “người giúp việc thường thích những chỗ làm dễ dàng. Về căn bản, thử thách phải làm món ngon với họ.”

      “Tất nhiên, chung là như vậy, thưa tiểu thư Carsington,” Herrick . “Nhưng với tôi, đó là cách sống buồn tẻ và đáng chán.”

      “Chúng tôi buồn tẻ,” Lisle phản đối. “Số người như vậy đến nửa. Có lẽ ông chưa nghe chuyện quản gia trước đây của chúng tôi mất tích cách bí .”

      “Ở những vùng như thế này chuyện gì cũng đến tai người ta cả, thưa ngài,” ông ta . “Cư dân Edinburgh, đặc biệt là những người giúp việc, biết mọi chuyện về tất cả mọi người trong vòng bán kính hai mươi dặm. Gorewood cũng nằm trong quy luật đó.”

      “Chuyện quản gia trước đây của chúng tôi biến mất đột ngột hề khiến ông lo lắng sao?” Olivia hỏi.

      “Xin phép ngài và tiểu thư Carsington cho phép tôi thẳng được ạ?” Herrick .

      “Ông cứ tự nhiên,” Lisle đáp.

      “Viên quản gia ấy là người London,” Herrick nhàng - hay là tỏ vẻ thương hại nhỉ? “Tôi khác. Gia đình tôi sống ở vùng này nhiều thế hệ. Chúng tôi dễ gì bị tiêu diệt. Hay đúng hơn là bao giờ.”

      Olivia nhìn Lisle.

      “Chắc rằng ngài và tiểu thư Carsington muốn thảo luận riêng chuyện này,” Herrick . “Tôi ra khỏi phòng.”

      Ông ta bước ra ngoài.

      “Có phải đó là trai của Nichols nhỉ?” nàng khẽ.

      “Chắc họ cùng thuộc giống loài đặc biệt nào đó,” chàng . “Ta hy vọng ông ta như cậu ấy. Nhưng người đâu thể có mọi thứ chứ nhỉ. Ông ta là người Scotland, như em muốn, với những mối quan hệ trong cộng đồng ở đây. Lý lịch của ông ta miễn chê. Ông ta cũng tạo ấn tượng rất tốt. Tính tình kín đáo. Lặng lẽ. tiếng lại dễ nghe. Tóm lại, em thấy ông ta có được hay ?

      “Đây là lâu đài của ngài mà,” nàng .

      “Đây phải sở trường của ta,” chàng . “Ta thấy khá thích ông ta, nhưng em nắm quyền quyết định về chuyện gia nhân. Ta nên làm những việc của đàn ông. Ta cần kiểm tra tình trạng của sân và tường bao. Cần kiểm tra tỉ mỉ hơn toàn bộ tầng trệt của lâu đài nữa. Ta muốn biết những kẻ đột nhập vào đây bằng cách nào. Để ta lo những việc đó, còn giao lại việc tìm quản gia cho em.”

      “Ông ta có vẻ là người thà,” nàng .

      “Ta tin vào bản năng DeLucey của em trong đánh giá này,” Lisle .

      “Vẻ mặt ông ta tỏ ra e sợ trước nhiệm vụ nặng nề này,” nàng . “Thuê cho đủ nhân lực - tốt nhất là từ trong vùng, sắp xếp mọi thứ đâu ra đó, thiết lập hệ thống cung cấp, vân vân.”

      hề e sợ,” chàng , “ta có cảm giác ông ta như con chó săn vô cùng hăm hở, sẵn sàng bước vào cuộc săn.”

      “Ông ta cao ráo và đẹp trai nữa,” nàng .

      “Thế là ổn cả, đồng ý nhé.”

      Nichols bước vào.

      “Tiểu thư Carsington mến ông ta,” Lisle . “Bảo quản gia mới của chúng ta vào .”



      lúc sau



      “Nichols giới thiệu ông với nhân viên ở đây sau đó đưa ông quanh lâu đài vòng,” Olivia với Herrick. “Hai quý bà Cooper và Withcote sớm nhất cũng phải tới trưa mới thức giấc.” Họ liếc mắt đưa tình với ông và đưa ra những nhận xét đứng đắn, và đơn giản là ông phải làm quen với chuyện đó thôi. “Ngài Lisle vẽ tập sơ đồ, tôi tin là ông muốn xem chúng. Tôi thấy chúng rất hữu ích. Lâu đài này ngờ có cấu trúc phức tạp hơn tôi tưởng lúc đầu - nhưng tôi dám chắc ông quen với những cầu thang bám tường hoặc kết thúc đột ngột và cả những tầng ở giữa các tầng với nhiều gian phòng nằm rải rác trong đó.”

      “Tầng lửng phải thưa tiểu thư? Đúng thế, nhà ở Glaxton luôn có tầng lửng.”

      “Tôi chưa khám phá hết các tầng lửng,” nàng . “Nhưng Nichols gợi ý là tầng lửng ngay phía phòng bếp có dãy hành lang có thể cải tạo làm phòng lưu trữ tài liệu.”

      Herrick đưa mắt nhìn lên bức tường ngay phía cửa chính của khu bếp.

      Cách ông ta quay đầu, cộng thêm việc ông ta có cái mũi cao, gợi cho nàng nghĩ tới con diều hâu.

      “Chỗ ở của ông cũng ở cùng tầng đó, tháp Bắc, ngay dưới phòng của ngài Lisle,” nàng giải thích.

      Ánh mắt đen huyền của ông ta lướt về phía Bắc của căn phòng, tới góc có gác trang trí ở phía sau, nơi có cánh cửa và hành lang dẫn vào chỗ ở của ông ta.

      “Tốt hơn là tôi nên với ông rằng tối qua đó xuất con ma,” nàng . “Trong gác trưng bày.”

      Ánh mắt diều hâu quay lại nhìn nàng. Nó hoàn toàn điềm tĩnh. “ con ma ư, thưa tiểu thư?”

      “Ai đó giả ma,” nàng . “Rất ầm ĩ. Ngài Lisle ra ngoài để tìm hiểu cho họ vào bằng cách nào.”

      “Từ khi đến đây giờ tôi để ý thấy dấu hiệu nào của phá hoại, thưa tiểu thư. may, nhưng lâu đài này đứng chơ vơ suốt thời gian dài. Như lời mời hấp dẫn.”

      “Rất mời mọc, tôi biết,” Olivia . “Tôi chắc nghe ngài Lisle gì đó về những bậc dưới thấp của số cầu thang. Tôi cũng thấy nhiều mảnh đá của lan can gác thượng rơi mặt đất.”

      “Bọn cướp bóc đó quay lại từ nhiều năm nay,” Herrick . “Tôi nghĩ chúng thôi cố gắng bán tòa lâu đài theo kiểu từng mảnh từng mảnh nữa. Nhưng sân bao khác.” Ông ta lắc đầu. “ đáng xấu hổ. Nếu mắt thấy tai nghe tôi hẳn tin nổi chuyện này.”

      “Sân bao sao?” Olivia cố nhớ lại mình nhìn thấy gì vào ngày hôm qua, khi Lisle đưa nàng vòng quanh sân. Các bức tường đều tan hoang và nhiều chỗ văng xa khỏi móng. Mặt đất đương nhiên là rất lổn nhổn. Có gì lạ đâu nhỉ? Nàng nhớ ra. Nàng rối như tơ vò với những ý nghĩ lãng mạn mộng mơ nên thể quan sát xung quanh kỹ lưỡng.

      “Chúng đào bới,” Herrick . “Có người lại tìm kho báu đó.”

      lúc sau



      “Kho báu dưới lòng đất,” Lisle nhắc lại. “Quanh đây lại có bọn ngốc nào nghĩ lâu đài này có kho báu dưới lòng đất sao?”

      Chuyện này quá phiền phức.

      “Giá mà đọc hết sách vở của ông chủ Frederick rồi chắc hẳn em biết chuyện này,” nàng . “Ông cụ ghi chép mọi điều mình biết về lâu đài Gorewood. Mọi truyền thuyết trong mọi phiên bản khác nhau. Sớm muộn gì chắc chắn em cũng đọc tới kho báu dưới lòng đất thôi.”

      “Chuyện này liên quan đến cướp biển đấy chứ?” chàng . “Bởi vì em và ta từng đào chiến lợi phẩm của cướp biển.”

      Nàng cười với chàng. Nàng đội mũ, tóc nàng xõa ra, tung bay trong gió, cũng ngọn gió dìu dịu ấy thổi tà váy của nàng bay bay. Chàng thấy tâm trí mình tan chảy dưới nụ cười diễm lệ ấy.

      Chàng phải làm gì với nàng đây?

      phải cướp biển đâu,” nàng . “Chuyện này xảy ra trong giai đoạn nội chiến. Cromwell tấn công tòa lâu đài này. Cuối cùng toàn bộ gia quyến và người hầu phải bỏ trốn. Họ tẩu thoát trong đêm - nhưng thể mang theo tất cả gia tài.”

      Nàng như run lên vì phấn khích. khó cưỡng khi nhìn thấy hình ảnh ấy.

      Nhưng chàng cần bình tĩnh. Chàng cần trật tự. Chàng có hàng tá vấn đề phải đối mặt rồi, và chắc mình có thể suy nghĩ thông suốt vấn đề nào khi mà chàng chưa giải quyết được vấn đề Olivia trước tiên. Chàng thể phớt lờ khi nàng đứng trước mặt chàng. Chàng thể suy nghĩ tỉnh táo.

      “Thế là họ chôn nó,” chàng .

      Nàng gật đầu.

      “Ta xin lỗi phải phá vỡ tưởng tượng đáng của em, nhưng ta nghe câu chuyện ấy hàng trăm lần rồi,” chàng . “Ta kể cho em chuyện xảy ra thế nào nhé? Quân của Cromwell thắng thế lâu hơn phe bảo hoàng tưởng. Gia đình mất hết mọi thứ, kể cả bí mật về nơi kho báu được chôn giấu. Ta chắc chắn rằng mọi gia đình thuộc phe bảo hoàng ở Vương quốc đều chôn trang sức vàng bạc xuống đất trước khi bỏ trốn trong cái đêm mà Cromwell và tùy tùng của ông ta nổi dậy. Và tất cả các gia đình đó đều quên nơi họ chôn nó.”

      “Em biết đó là giai thoại, nhưng…”

      có ai, đặc biệt là những người Scotland lõi đời, lại ngây thơ tới mức vẫn tưởng còn kho báu nào đó dưới lòng đất sau hai trăm năm,” chàng . “ cho đúng là có ai mười hai tuổi. Hãy với ta em tin chuyện đó .”

      phải em tin chuyện ấy,” nàng . “Nhưng em thực tin là có người tìm kiếm nó.” Nàng nhìn ra xung quanh. “Có vết tích đấy.” Nàng chỉ ra hàng loạt mô đất và rãnh xới khắp sân. “Mặt đất ướt át quá nên khó mà nhìn thấy được. Nhưng Herrick thấy vết tích của lần đào bới gần đây.”

      “Chôn báu vật là lĩnh vực của em,” chàng . “Cứ thoải mái đào những gì em thích .”

      “Lisle, đó phải điều quan trọng. Sao ngài lại u mê thế? Ngài thấy…”

      “Ta có thấy, nhưng ta sao nhãng tâm trí vào chuyện đó,” chàng . “Có quá nhiều việc phải làm. Ta cần công nhân và giờ phải tìm họ.”

      “Tất nhiên là ngài phải làm thế. Em chỉ muốn…”

      “Chúng ta thể tiếp tục như thế này,” chàng , “trong khi còn nhiều cửa sổ vỡ, mưa gió có thể tạt vào và những kẻ đột nhập vẫn xâm phạm lâu đài. Ngày trước, kẻ đột nhập nào có thể lẻn vào gác trưng bày. Chúng phải tìm đường vào trong. Những con ma của chúng ta hẳn vào qua cửa chính bị hư hỏng mà ta chỉ cho em, cánh cửa dẫn vào tầng hầm. Rồi chúng cứ thế leo lên những cầu thang gãy. Cánh cửa đó cần được sửa chữa và gia cố.”

      “Em cũng nghĩ thế, nhưng…”

      “Ta vào làng tìm người đây,” chàng ngắt lời nàng.



      Quay lưng lại với Lisle, Olivia ngồi phịch xuống phiến đá của tường bao bị văng vào sân từ thế kỷ trước. Nếu nhìn chàng bỏ , nàng chắc cưỡng được ý muốn ném cái gì đó vào người chàng. Làm thế thích , nhưng chẳng thay đổi được chàng mà cũng chẳng cải thiện được hoàn cảnh.

      Chàng có việc quan trọng phải làm, và chàng muốn thực càng nhanh càng tốt. Tìm hiểu cho những bí về ma mãnh và kho báu là chuyện gây “sao nhãng tâm trí”. Làm sao nàng có thể buộc Ngài Cứng Đầu thấy đó là trung tâm của vấn đề?

      Ai đó dày công tốn sức với chuyện này trong suốt mấy năm vừa qua. Họ hẳn phải có những lý do rất xác đáng để tin rằng kho báu vẫn tồn tại.

      Nàng nhìn ra xung quanh. Mặt sân lổn nhổn, nhưng đó cũng là điều bình thường sau chừng ấy năm có tay người chăm sóc. Frederick Dalmay tập trung mọi quan tâm vào phần bên trong lâu đài, điều đó là rất ràng.

      Cái Herrick thấy mà cả nàng và Lisle đều bỏ lỡ là gì nhỉ? Trời mưa tầm tã suốt mấy ngày trước khi nàng tới, Lisle thế. Rồi cả đoàn người ngựa và xe cộ giẫm lên cỏ và xới tung mặt đất. Cơn mưa và giày xéo đó xóa mọi dấu vết của chuyện đào bới - nếu tồn tại những dấu vết ấy.

      Nàng nhìn lượt quanh bức tường đổ nát. Phế tích của chòi canh đứng ở góc Tây Nam. Còn kia? Có phải ở dưới mặt đất bên cạnh chòi canh ấy có cái gì đó rất lạ thường? Nàng về hướng đó. Mặt đất cạnh tường ụ lên quanh mấy hố . Vết đào này mới. Nhưng cũng chẳng phải vết đào từ ngày xưa.

      Đó có phải là thứ Herrich để ý nhỉ?

      Nàng đứng nhìn hồi lâu, nhưng lớp đất lổn nhổn chẳng với nàng điều gì.

      “Thế này chẳng có hy vọng gì rồi,” nàng . “Ta phải làm việc nhạy cảm, đó là hỏi ông ta cho .”



      Gorewood

      Mấy giờ sau



      Tâm trạng của ngôi làng thay đổi qua đêm, Lisle nhận thấy thế.

      Chàng và cậu người hầu bước vào các cửa hiệu, đặt ra những cầu và người ta còn vờ như hiểu họ nữa.

      Như Olivia , chắc câu chuyện bé tóc đỏ đối đầu với ông đầu bếp người Pháp hung tợn tay lăm lăm dao phay lan khắp làng. Giờ có lẽ họ cũng nghe chuyện Olivia giả ma và biến nỗi sợ thành tiếng cười như thế nào.

      Phải, nàng là phi thường, ai nghi ngờ gì về điều đó cả.

      Lisle và Nichols bước vào quán trọ Crooked Crook. Lisle thấy dù ban ngày nhưng nơi này rất đông đúc. Là quán trọ duy nhất trong làng, đây hẳn là trung tâm buôn chuyện rồi.

      Chàng bước vào quán rượu và cầu cốc bia. Ông chủ quán còn làm như thể Lisle vừa tiếng Hy Lạp hay Trung Quốc nữa. Ông ta đặt cái cốc vại lên quầy.

      “Và lượt cho tất cả mọi người ở đây,” Lisle .

      Việc đó thu hút chú ý của cả quán rượu. Chàng đợi cho đến khi ai nấy đều có bia mới lên tiếng. Chàng quen chuyện trước đám đông toàn người lạ. Nhờ thế chàng mới thuê được nhân công làm việc trong các hố khai quật. Cũng nhờ thế mà chàng giữ được họ cộng tác với mình lâu dài. Tiền bạc phải lúc nào cũng quan trọng với người Ai Cập, và dễ gì họ sẵn lòng liều mạng để làm việc cho người nước ngoài. Người nước ngoài thường nghĩ dân bản xứ là đám ngu ngốc. Lisle lại thấy họ rất nhạy cảm. Thế cho nên chàng khuyến khích trí thông minh của họ và cho họ lý do chính đáng để giao phó cuộc sống cho chàng.

      Chàng có niềm tin như thế với người Scotland. Nhưng chàng biết họ cực kỳ dũng cảm và lòng trung thành cũng phi thường kém - ngay lúc ấy chàng nghĩ đến trận Culloden. Vì lúc này họ đông hơn phe của chàng rất nhiều nên chàng buồn vận dụng cách khéo léo, thứ ngôn ngữ mà chàng chưa bao giờ thực giỏi.

      “Tôi tìm người khôi phục lâu đài Gorewood,” chàng . “Tôi tìm những người sợ ma cà rồng, ma trơi và quỷ chân dài, tóm lại là tất cả những thứ ưa lang thang trong đêm. Đây là lần cuối cùng tôi đưa ra lời đề nghị này ở Gorewood. Cậu Nichols đây liệt kê những cầu của tôi về thợ xây và thợ mộc, vân vân. Những ai muốn làm việc hãy điền tên vào danh sách của cậu ấy và chuẩn bị tới Gorewood vào tám giờ sáng mai, sẵn sàng bắt đầu. Nếu Nichols lấy đủ tên người làm, tôi sang tìm người các cao nguyên, tôi tin mình có thể tìm được những người đàn ông đích thực ở đó.”

      Chàng uống cạn cốc bia rồi ra khỏi quán.



      Roy nhìn chàng bước , những người khác cũng dõi theo. Căn phòng lặng như tờ, ai nấy đều nhìn vào cánh cửa nơi con trai của ông chủ thái ấp vừa bước qua.

      Rồi họ nhìn chàng gầy gò ngồi ở quầy bar, tay cầm cuốn sổ và cây bút chì.

      Đột nhiên Tam MacEvoy cười rú lên phá vỡ bầu khí im lặng thế là cả quán rượu cùng ồ lên, rồi tất cả bọn họ gập người xuống, cười nghiêng ngả như thể chưa bao giờ nghe thấy cái gì buồn cười tới vậy trong đời.

      “Mọi người nghe thấy ?” Tam lên tiếng khi lấy lại hơi.

      “Đầu tiên là nàng tóc đỏ, giờ lại đến ta,” ai đó lên tiếng.

      bao giờ nghe chuyện gì như thế chưa,” ai đó hỏi Roy.

      “Chưa, chưa bao giờ,” . Và quả thực chưa bao giờ nghe thấy chuyện chừng ấy người đàn ông Scotland mạnh khỏe và dũng cảm phải đứng im phăng phắc trước những lời lẽ xấc xược như thế của gã người - mà gã này lại là con trai của chủ thái ấp, kẻ mà bọn họ đều biết là rất ngu ngốc. nhìn Jock, Jock trông thậm chí còn bối rối hơn.

      “Này, chúng ta thể nào lại ngồi yên trước chuyện này chứ?” Tam . “Chúng ta dạy cho quý ngài ấy ai là đàn ông đích thực.”

      ta đứng dậy về phía chàng đầy tớ gầy còm có tên là Nichols.

      “Cậu,” Tam cất tiếng.

      Nichols mảy may xao động, vẫn đứng đó cực kỳ điềm tĩnh, lịch theo cái lối -là-cái-thá-gì của người . “Vâng, ông…?”

      “Tên là Tam MacEvoy,” Tam , cằm hếch lên. “Cậu có thể ghi tên tôi ngay bây giờ. Tam MacEvoy, thợ lắp kính.”

      chàng khác đến bên cạnh Nichols. “Tôi nữa, Craig Archbald, thợ nề.”

      Rồi mọi người trong quán rượu đều chen lấn tới, cầu được đăng ký làm việc.

      “Roy,” Jock thầm. “Chúng ta phải làm gì đây?”

      “Chúng ta thể ghi danh được,” Roy . Mọi người ở Gorewood đều biết từ lúc sinh ra đến giờ, chúng chưa bao giờ làm bất cứ công việc chân chính nào vào ban ngày. Nếu giờ họ đăng ký, mọi người nghi ngờ. “Chúng ta phải hành động bình thường.”

      “Nhưng…”

      “Đừng lo. Tao nghĩ ra kế hay.”



      Tới tận chiều tối hôm đó, Olivia mới gặp lại Lisle. Sau khi từ trong làng về, chàng khảo sát sân bao cho tới lúc hoàng hôn. Tiếp đó, chàng dành tiếng ngồi với Herrick trong phòng lưu trữ tài liệu, rồi về phòng riêng.

      Tuy chưa nhìn thấy, nhưng nàng biết Lisle sắp xếp góc làm việc tại cửa sổ khổng lồ trong phòng ngủ của chàng, giống hệt góc làm việc của nàng. Chắc chàng làm việc ở đó cho tới khi đứng dậy mặc đồ xuống ăn tối.

      Tốt nhất là nghĩ tới phòng làm việc của chàng.

      Sau bữa tối, khi họ lại gần trước lò sưởi lớn để sưởi ấm, Lisle nhắc lại bài phát biểu ngắn gọn đầy tính khiêu khích của chàng trong quán trọ Crooked Crook.

      “Thế mà ai ném cái gì vào ngài à?” Olivia .

      “Tất nhiên là rồi,” chàng . “Nichols bảo hai phút sau khi ta bỏ , họ cười ha hả và reo mừng, tranh nhau đăng ký tới làm. Cậu ấy bảo là họ còn đăng ký cho người thân, muốn ai trong gia đình mình bị đánh giá là kém dũng cảm hơn những người mông muội cao nguyên - hoặc kém dũng cảm hơn tóc đỏ. Tất cả chúng ta đều biết em chính là người thuần phục sư tử.”

      “Nhưng ngài biết cách làm chủ tình hình,” nàng . Nàng thấy tiếc vì có mặt ở đó. Nàng cũng ước gì mình có mặt ở quán trọ sau lúc ấy, để nghe dân làng tán tụng. Hẳn phải thích thú lắm.

      “Quả là rất cừ khôi,” Quý bà Cooper . “Ta mong tới ngày được thấy đám trai tráng Scotland ngực nở vòng cung tới làm những việc như trèo thang lên mái đảo ngói quá.”

      thế có nghĩa chúng ta có những hình ảnh đáng ở trong nhà,” Quý bà Withcote . Bà liếc nhìn Herrick với vẻ ngưỡng mộ khi ông ta mang khay đồ uống tới cho họ.

      Khi ông ta ra, Quý bà Cooper , “Cháu tìm ra ông ta ở đâu vậy, Olivia?”

      “Ông ấy tự xuất thôi,” nàng , “giống như vị thần trong Nghìn lẻ đêm ấy.”

      “Ta thấy thích chộp cái đèn của ông ấy rồi đấy,” Quý bà Withcote .

      “Millicent, chúng ta cùng nâng cốc nào… chúc mừng Olivia vì kiếm được ông quản gia tuyệt vời.”

      “Chúc mừng Olivia,” Quý bà Withcote .

      Lisle nâng cốc. Đôi mắt xám của chàng bắt gặp ánh mắt của nàng, và nàng thấy những vì sao bạc lấp lánh ánh trăng vàng nơi ấy, mọi thứ lại trở về cuồn cuộn, dòng ký ức nóng bỏng.

      “Chúc mừng Olivia,” chàng .

      “Và chúc mừng Lisle,” Quý bà Cooper . “Vì những chàng Scotland vạm vỡ tới.”

      “Chúc mừng Lisle,” Quý bà Withcote .

      “Chúc mừng Lisle,” Olivia , và qua vành ly, nàng cũng nhìn chàng với ánh mắt rực lửa đầy ngụ ý, để trả đũa.

      “Xin cảm ơn các quý bà quý ,” chàng . “Nhưng giờ xin mọi người ban cho cháu đặc ân. Ngày mai có rất nhiều công nhân tới đây, thế nên cháu phải giữ đầu óc tỉnh táo. Điều đó có nghĩa là cháu phải tuân theo giờ nông thôn thôi.” Chàng khước từ uống say, chúc mọi người ngủ ngon, rồi lên phòng.



      Chúng quan sát tòa lâu đài từng li từng tí trong suốt mấy năm vừa qua. Chúng biết từng hành lang và cầu thang, mọi lối ra vào. Túm tụm cạnh nhau trong chòi canh xiêu vẹo, chúng theo dõi các cửa sổ ở tháp phía Nam.

      Đó là nơi phụ nữ ở.

      Mọi người ở Gorewood đều biết trong lâu đài này ai ngủ ở đâu, hầu nào thuộc về ai, gia nhân ngủ chỗ nào, ai trong số người hầu thường lẻn ra chuồng ngựa và gã coi chuồng ngựa nào hay qua lại với các hầu. cho cùng, đó là lâu đài của cả vùng Gorewood, thế nên mọi việc diễn ra ở đó là chuyện của tất cả mọi người.

      Jock và Roy đợi cho đến khi các cửa sổ ở tháp Nam đều tối om. Rồi vẫn lẩn mình trong bóng tối, chúng vội về phía cửa sổ tầng hầm bị hỏng, bước xuống những bậc thang vỡ và tìm đường tới trong những cầu thang dẫn lên tầng .



      Ííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòò.

      Olivia ngồi bật dậy. “Chúa ơi!”

      Nàng nghe thấy tiếng bước chân nhè . “Tiểu thư? Tiếng gì thế nhỉ?”

      “Ta .” Olivia bước xuống khỏi giường. Trong ánh lửa leo lét, nàng thấy que cời lửa. Nàng cầm nó lên. “Nhưng dù kẻ gây ra tiếng động đó là ai cũng phải hối tiếc.”



      Ííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòò.

      Lisle vùng dậy, nhảy phắt ra khỏi giường và chộp lấy con dao dưới gối.

      “Thưa ngài? Gì thế ạ?”

      “Kinh khủng. thanh kinh khủng nhất thế gian. thanh của chết chóc, tra tấn và đọa đày trong vạc dầu địa ngục,” Lisle trả lời. “Hãi hùng. Đó là kèn túi.”



      “Nhanh lên,” Roy giục. “Họ xuống rồi.”

      và Jock chạy qua căn phòng dài ở tầng hai và băng qua cánh cửa vào cầu thang dẫn sang tháp Bắc rồi vội vã chạy xuống. Cầu thang tối đen như mực nhưng chúng lên xuống chỗ đó hàng trăm lần, hơn nữa ngày hay đêm với chúng đều giống nhau cả thôi.

      Xuống đến tầng và băng qua đại sảnh tới cầu thang khác, quay trở lại tháp Nam. Chúng chạy như bay xuống bậc thang bằng đá. Rồi Roy dừng lại, , “Nào, mỗi đứa quý bà nhé.”



      Olivia và Bailey ào ra phòng chờ tầng hai, vừa kịp lúc Lisle và Nichols chạy đến.

      “Em có thấy chúng ?” Lisle hỏi.

      “Chỉ nghe thấy chúng thôi,” Olivia đáp. “Đó có phải là…”

      “Kèn túi đấy,” Lisle dứt khoát.

      sao? Tiếng của nó kinh khủng quá.”

      “Có lúc nào kinh khủng đâu.”

      Những tiếng kêu nghèn nghẹt phát ra từ cầu thang của tòa tháp phía Nam. Olivia chạy về phía đó. Lisle tới cửa trước nàng.

      “Ở yên đây,” chàng . Chàng đẩy nàng khỏi lối và bắt đầu chạy xuống cầu thang.

      Nàng thúc Nichols qua bên và chạy theo chàng.

      “Em sợ kèn túi đâu,” Olivia .

      “Kẻ nào dám dùng kèn túi để đánh thức mọi người vào lúc nửa đêm từ việc gì đâu,” Lisle cảnh báo.

      ra, Lisle, chúng tệ tới thế đâu.”

      “Có đấy. Đó là thanh khủng khiếp nhất thế gian. Chẳng khác gì mười nghìn xác chết quy tụ.”

      Họ tới cánh cửa mở toang dẫn vào phòng Quý bà Withcote. Nàng qua cánh cửa, hầu vẫn cố buộc những dải nơ chiếc áo choàng của nàng. “Rất xin lỗi, cháu . Nhưng tiếng kêu khủng khiếp làm ta giật bắn mình. Ta nghĩ ta bay vút từ giường lên trung. Chẳng nhớ nổi lần cuối cùng chuyện này xảy ra là bao giờ nữa. Bàn chân lạnh cóng của ngài Waycroft, ta nghĩ thế.”

      Thấy bà vẫn an toàn, Lisle vội quay ra hành lang, Olivia theo sau chàng.

      Họ thấy Quý bà Cooper đứng bậc cửa bên ngoài phòng ngủ của bà, nhìn xuống cầu thang tối om. “Nó vẳng lên từ dưới kia.” Bà chỉ. “Cháu chưa bao giờ đến những người thổi kèn túi, Olivia,” bà giọng trách móc. “Nếu biết trước họ tới ta mong ngóng họ rồi. Cháu bao giờ thấy người đàn ông thổi kén túi chưa? Để thổi được kèn túi cần phải có phổi khỏe, cháu biết đấy, đôi chân cũng phải vững chãi và…”

      “Tốt lắm, cháu mừng là bà hề hấn gì,” Lisle .

      Chàng bước vào hành lang dẫn tới đại sảnh, Olivia theo gót chàng.

      “Để ta trước,” chàng thầm. “Cho ta phút. Ta cần lắng nghe, và em biết khi em di chuyển cái váy ngủ của em sột soạt to cỡ nào đâu.”

      “Đây đâu phải váy ngủ. Đây là áo choàng cơ mà.”

      “Gì cũng được, yên lặng nào,” chàng . “Và hãy cẩn thận với que cời lửa của em.”



      Sảnh lớn tối đen như mực. Vì thấy được gì, Lisle dỏng tai nghe ngóng. Nhưng tất cả những gì chàng nghe thấy là yên tĩnh của gian phòng. Dù những kẻ đột nhập là ai, chúng cũng biết rất đường ra lối vào. Và chúng rồi.

      phút sau, Olivia bước qua cửa. Chàng chẳng cần phải nhìn thấy nàng. Chàng có thể nghe thấy nàng. Tiếng xào xạo nhàng của chiếc áo ngủ nghe ồn ào trong căn phòng rộng thênh thang im phăng phắc này.

      Nàng bước lại gần và chàng có thể ngửi thấy mùi hương của nàng, mùi nước hoa thoang thoảng tỏa ra từ váy áo, mùi da thịt và mái tóc, và mùi dìu dịu của… cái gì đó… quá mỏng manh nên thể đoán ra nhưng chắc chắn nó gợi nghĩ đến tấm chăn ga vẫn còn ấm hơi người. Rồi những hình ảnh khác ra trước mắt chàng: làn da trắng ngà dưới ánh trăng, tiếng cười khúc khích của nàng, cơn dư chấn khi nàng cực khoái…

      Chàng siết chặt hai tai - và nhận ra mình vẫn lăm lăm con dao. Chàng nới lỏng tay cho dễ chịu.

      Chàng xua đuổi những hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.

      “Chúng rồi,” chàng .

      ánh sáng ra từ gác trưng bày. Herrick đứng đó, trong tấm áo choàng, tay cầm ngọn nến. “Tôi trấn an mọi người rồi, thưa ngài,” ông ta . “Những người nghe thanh ấy, dù nhiều dù ít. Có vẻ như thanh ấy vang lên đến những tầng .”

      “May cho họ,” Lisle lầm bầm.

      “Tôi có nên cho mấy thanh niên rà soát khắp lâu đài và ngoài sân , thưa ngài?”

      “Giờ những nhạc công ma quái của chúng ta xa rồi,” Lisle . “Bảo mọi người quay lại giường .”

      Lisle quay về phía Olivia. Mắt chàng quen hẳn với bóng tối, và chút ánh trăng lan vào phòng đủ để chàng thấy đường nét của chiếc váy rối rắm đầy dải ren gần như trong suốt của nàng. Chàng điều chỉnh ánh mắt mình sang bức tường gần nhất.

      “Đêm nay chúng ta tìm được chúng đâu,” chàng .

      “Tất nhiên là rồi,” nàng . “Chúng biết vùng nông thôn này, còn những gia nhân người London của chúng ta chỉ lạc lối trong đêm rồi tự chuốc họa thôi.”

      “Chắc chúng ở kia, trong phòng chờ của tầng hai,” chàng . Chỉ cách phòng ngủ của nàng mấy bước chân. “Trêu chọc chúng ta.” Chàng muốn đập tan thứ gì đó.

      “Đúng vậy, tiếng động ấy khuấy đảo tất cả,” Olivia . “Chẳng ai muốn nghe tiếng kèn túi vào lúc nửa đêm, và khi người ta chơi kén túi tồi …”

      “Sao em biết thế là tồi?”

      “Dù chơi tốt hay tồi, đó là tiếng động quỷ ám,” nàng .

      “Ta rất tiếc vì thể bắt được chúng,” chàng . “Ta rất muốn thấy em giáng cây cời lửa xuống cái thứ nhảm nhí kinh hãi đó. Đúng là chỉ có người Scotland mới chế tạo ra thứ ma chê quỷ hờn như thế. Kèn túi. Thánh thần ơi.”

      Nàng cười phá lên.

      Tiếng cười ấy trượt xuống cổ chàng và để lại những đường nóng rực.

      “Olivia, về giường ,” chàng .

      “Nhưng chắc chắn là ngài muốn…”

      Phải, chắc chắn là ta muốn.

      “Giờ chúng ta nên chuyện,” chàng . “Hãy động não. Nhìn xem em mặc gì kìa. trong hai chúng ta phải sáng suốt, và cả hai ta đều biết đó phải là em. Về giường , và hãy cẩn thận với cây cời.”

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 14


      Thứ Tư ngày 19 tháng Mười

      Mặt trời lặn xuống phía sau những ngọn đồi. Roy và Jock đứng trong bóng u minh của nhà thờ đổ nát, quan sát những người đàn ông lũ lượt kéo xuống con đường ra khỏi tòa lâu đài trở lại làng sau ngày làm việc đầu tiên. số người vác dụng cụ vai, số đẩy xe ủi, số đánh xe ngựa.

      “Chỉ tuần thôi họ bịt lâu đài ấy kín bưng như cái trống,” Jock .

      thể, nếu chúng ta lại bới nó ra,” Roy .

      “Mày ngớ ngẩn gì thế? Chừng ấy người đàn ông, làm việc quần quật từ sáng tới tối. Chừng ấy công việc họ làm? Trong khi hai chúng ta chỉ có mấy tiếng đồng hồ trong đêm?”

      phải là đào bới tất cả những gì họ xây,” Roy . “Chỉ đào bới quanh tầng hầm thôi, để chúng ta có thể vào trong. Mày nghĩ đám người London ấy chịu đựng được bao lâu chứ, khi chúng ta đánh thức chúng hết đêm này qua đêm khác?”

      “Đến tao còn chẳng biết mình chịu được bao lâu đây,” Jock . “Chạy lên chạy xuống bấy nhiêu cầu thang, kéo lê những cái kèn túi kinh tởm ấy. Trong khi chừng ấy thời gian chúng ta có thể dành để đào bới.”

      “Ích lợi gì ? Đào bới trong đêm ấy? Dạo này chúng ta toàn quan sát giữa ban ngày ban mặt. Mày nghĩ chúng ta may mắn cỡ nào mà có thể chuyển đá trong đêm?”

      Nhưng tìm kiếm những đồng tiền vào ban ngày cũng đâu có dễ dàng. Đó phải thứ chiếu ánh sáng lấp lánh lên mắt chúng rồi bảo, “Nhìn này. Tiền đây.” Những đồng tiền này có màu rất giống đất, khó mà phân biệt được với đá sỏi.

      Roy và Jock sống thoải mái với những đồng tiền chúng tìm thấy. đồng ở tầng hầm. số ở sân. Nhưng chính cái bông tai cổ chúng tìm thấy trong sân, gần chòi canh, thuyết phục Roy rằng ông cụ Dalmay phải kẻ nhảm, như mọi người vẫn kháo nhau. Cái bông tai ấy báo cho rằng kho báu là có , và nó ở đó.

      Dưới bức tường, ông cụ Dalmay thế.

      Mọi người kháo nhau rằng, nếu những người nhà Dalmay còn thể tìm ra kho báu của chính họ khi nó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí họ có nghĩa nó mất rồi. Cromwell và tùy tùng của ông ta lấy nó , đúng theo cách họ chiếm lấy mọi thứ khác. Nhưng nếu người ta từng nhìn thấy những đồng xu và cái bông tai cũ kia và biết bọn bán cái gì ở Edinburgh, giọng điệu của họ hẳn thay đổi hoàn toàn. Hẳn ai nấy vác cuốc vác xẻng tới lâu đài - và giúp khôi phục lại nó nữa.

      “Con trai ông chủ thái ấp cũng bảo mọi người đào đất,” Roy . “Nếu kho báu ấy ở trong sân hoặc trong tầng hầm bọn họ tìm ra. Chúng ta phải ngăn họ lại.”



      Lisle cố gục đầu vào đĩa thức ăn, chàng buồn ngủ rũ rượi. Hôm nay là ngày dài, dù là ngày rất tốt đẹp, và bộ não chàng thậm chí còn mệt mỏi hơn thể xác rất nhiều. Chàng vẫn hiểu gia đình mình muốn gì với đống đá xấu xí này. Hết thế hệ này đến thế hệ khác bỏ rơi nó, rồi lại phí phạm vô khối tiền của để duy trì nó. Dù người ta có làm gì, nó vẫn luôn lạnh lẽo, ảm đạm và ẩm ướt.

      Tuy nhiên, khi quan sát đám nhân công con đường của làng, chàng thấy lòng dấy lên niềm tự hào pha lẫn nhõm. Bất chấp những rắc rối mà ông chủ thái ấp, cha chàng gây ra, họ vẫn sẵn lòng tin tưởng con trai ông ta. Giờ chàng có thể điều khiển mọi việc hoàn thành đâu ra đó. Vì khối lượng công việc vô cùng lớn nên chàng phải bỏ ra nhiều công sức.

      Chàng lén nhìn qua bàn ăn, vào vấn đề phức tạp nữa mà chàng cũng cần dành nhiều tâm lực đối phó. Olivia mặc chiếc váy may từ lụa nặng màu xanh, với hàng dặm vải ở những chỗ kỳ cục nhất, trong khi bờ vai và gần như cả bộ ngực tròn trịa lại phơi ra - chỉ có chiếc vòng cổ sapphire ngự lãnh địa của quỷ ấy nháy mắt với chàng.

      Nàng đứng lên khỏi bàn, chuẩn bị đưa hai quý bà lại gần lò sưởi để uống trà - hay trong trường hợp của hai quý bà chầu whiskey nữa - và chuyện hoặc đọc sách, tiếng gào rú của kèn túi lại vang lên từ lòng đất.

      Lisle đứng lên khỏi ghế. “Herrick, Nichols, với ta. Các cậu…” Chàng ra dấu về phía những người hầu đứng dựa vào tường. “Xuống cầu thang phía Nam.”

      Tất cả mọi người vội vã cầm giá nến rồi xuống tầng hầm.

      Họ vấp phải những đống đất đá, tìm kiếm trong các căn phòng mái vòm rộng thênh thang. Rồi cậu đầy tớ kêu lên. “Thưa ngài, đây ạ!”

      Lisle vội vã về phía tiếng gọi. Chàng thấy cậu ta chỉ vào bức tường của căn phòng.

      Ai đó viết nguệch ngoạc bằng than chì dòng chữ, COI TRỪNG.

      Đó là tất cả những gì họ tìm thấy.

      Bọn quỷ sứ bỏ . Lisle cho người hầu trở lên cầu thang để trấn an các quý bà quý rằng tạm thời lúc này có ai tới sát hại họ. Rồi chàng quay trở lại để săm soi thông điệp viết như gà bới kia. Khi chàng vừa đặt tay lên những con chữ ấy…

      tiếng sột soạt quen thuộc đến gần chàng. Chàng rời mắt khỏi câu cảnh báo viết sai chính tả đó. Olivia bước tới, tay cầm nến. Nàng dừng lại ngay cạnh chàng và nhìn vào bức tường.

      “Phải là, chuyện này thực khiến em lo lắng, chúng lẻn vào đây trong khi tất cả mọi người trong nhà đều thức,” nàng . “Chúng quá to gan.”

      “Hoặc ngu đến khó hiểu,” chàng .

      “Cha dượng em luôn tội phạm thường là những gã ít thông minh nhưng nhiều xảo trá,” nàng .

      “Ta biết. Ta muốn đối phó với những kẻ ranh mãnh hơn nhiều. Ít nhất người ta cũng hiểu được suy nghĩ của chúng.”

      “Kèn túi hầu như chẳng khó chịu gì với chúng,” nàng .

      “Chỉ là vấn đề quan điểm thôi,” chàng .

      quấy rối làm em thấy lo lắng,” nàng . “Chuyện này khiến người hầu mệt mỏi.”

      Nó cũng khiến chàng bực bội. Chàng cần người hầu làm việc tốt, mà họ lo lắng sợ hãi thể làm việc tốt được.

      may, người ta thể đặt đơn vị đồn trú ở đây để bảo vệ chúng ta khỏi những kẻ xâm lược, như người xưa vẫn làm,” chàng .

      “Em nghĩ hẳn là chúng muốn làm hại chúng ta đâu,” nàng . “Điều chúng thực muốn là mọi người bỏ , như thế chúng có thể tiếp tục cuộc săn kho báu của chúng.”

      “Ta đâu cả,” chàng . “Ta vừa bắt đầu, và ta từ bỏ. Ta khôi phục xong món đồ cổ vô dụng này, rồi trở lại Ai Cập. Còn giờ, ta trám kín tầng hầm lại. Những kẻ đột nhập ấy phải tìm con đường khác.”

      “Nếu chúng ta tìm thấy kho báu trước, chúng buộc phải ngừng tìm kiếm thôi,” nàng .

      Chàng rất mệt và khó nhìn nàng mà vẫn giữ vững được tinh thần trong khi cảm thấy trái tim mình bị đâm đau nhói. Chàng thấy giận bản thân vì thể làm chủ những cảm xúc chỉ có thể dẫn đến bất hạnh. Chàng chỉ muốn , “Chẳng có kho báu nào cả,” và bảo nàng thôi ngay những ý tưởng lãng mạn ngớ ngẩn - và mặc thêm áo vào, và đừng đứng quá gần, vì như thế chàng cứ ngửi thấy mùi hương của nàng.

      Ngay lúc ấy tiếng cảnh báo vang lên.

      Nghĩ .

      Kho báu. có kho báu nào cả nhưng nàng chẳng bao giờ tin điều đó. Nàng muốn tìm kiếm. Sao để cho nàng làm thế? Như vậy khiến nàng bận rộn, và nếu chàng để mắt cẩn thận, nàng gặp rắc rối nào cả.

      “Hay lắm,” chàng . “Hãy xem xét chuyện này cách logic. Ngay cả những kẻ ngu ngốc nhất đời cũng làm cái việc cực nhọc này mà chẳng có lý do chính đáng.”

      “Đúng thế, chính xác,” nàng . “Chúng qua lại đây nhiều năm, nếu chúng ta tính từ lúc chúng bắt đầu tìm kiếm. Phải có gì đó đằng sau chuyện này.”

      “Nếu chúng ta biết cái gì đó là cái gì, chúng ta biết phải làm gì,” chàng . “Có thể ông chú Frederick có ghi chép gì chăng. Hoặc gì đó. Rắc rối bắt đầu sau khi ông rời khỏi lâu đài để chuyển tới Edinburgh.”

      Đầu óc chàng rối tung rối mù mất rồi. Khá dễ để lôi cuốn trí tò mò của nàng mà cần viện đến lời dối.

      “Ta phải thừa nhận là điều đó nghe rất hấp dẫn,” chàng . “Nhưng ta có thời gian nghĩ về nó. Ta có thời gian để nghiên cứu sách vở và ghi chép của ông, cũng như để chuyện với những người từng thân cận với ông. Ta có cái đống đá này để ‘khôi phục vẻ huy hoàng vốn có’ hòng làm khuây khỏa bậc phụ mẫu nổi giận.”

      Chàng nhìn khuôn mặt nghiêng của nàng và cảm thấy xấu hổ. Tệ hơn, phần điên rồ trong con người chàng - cái phần mà nàng dễ dàng triệu tập - lại muốn vứt bỏ mọi thứ để theo đuổi bí này. Phần ấy trong chàng muốn được cùng nàng săn tìm kho báu, chuyện mà hai người từng làm cùng nhau trước đây. Ôi, là cám dỗ. Chàng nhớ lại cảm giác phấn khích của việc phá bỏ mọi quy tắc và sống sót chỉ bằng trí khôn.

      Chàng thấy mình bị cuốn vào và biết mình phải chống trả, nhưng phần điên rồ ấy trong con người chàng lại chẳng muốn đấu tranh.

      Rồi nàng lên tiếng, gương mặt sáng bừng lên, “Ngài đúng. Dù có kho báu hay , lâu đài vẫn phải được khôi phục. Em hứa ngài được trở lại Ai Cập vào mùa xuân tới. Điều đó có nghĩa chúng ta thể phí phạm phút giây nào. Em tìm hiểu bí này. Giờ Herrick nhận việc, em có nhiều thời gian rảnh - và em dám chắc là hai quý bà rất vui được thu thập chuyện gẫu từ những người bạn cũ của ông chú ngài.”

      Nàng bước lại gần hơn và vỗ lên ngực chàng. “Đừng lo lắng điều gì cả,” nàng . “Hiệp sĩ Olivia - hiệp sĩ trung thành của ngài làm tất cả những gì cần làm.”

      Khi lớn lên, em hiệp sĩ, nàng với chàng như thế ngày đầu hai người gặp nhau. Hiệp sĩ Olivia cực kỳ ga lăng, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha, làm những việc cao quý, sửa chữa những sai lầm, em trở thành người như thế cho mà xem.

      Rồi nàng vội bước , để lại chàng đứng đó nhìn theo, cho tới khi nàng khuất tầm mắt và tiếng sột soạt xa.

      Chàng quay lại nhìn chằm chằm bức tường.

      COI TRỪNG.

      Nhưng tất nhiên chàng tin vào những lời điềm báo hay dấu hiệu. Hoặc lời cảnh báo từ những kẻ ngớ ngẩn thậm chí còn biết đánh vần cho ra hồn.

      Chàng quay người bước trở lại cầu thang.

      Như báo trước, Herrick phi ngựa tới Edinburgh vào thứ Tư. Thứ Năm, họ có bà quản gia tên là Gow. Thứ Sáu, Herrick và bà Gow thuê đủ nhân công người Scotland. Ngay hôm đó, Olivia cho phép tất cả người giúp việc của nàng trở về London, ngoại trừ những người hầu cận.

      Chỉ có Aillier khăng khăng ở lại. Những người khác đóng gói nhanh. Họ lên đường vào giữa buổi chiều.

      Trong khoảng thời gian đó, nàng dành nhiều giờ mỗi ngày để nghiên cứu sách vở, báo chí và ghi chép của Frederick Dalmay. Bất cứ ở đâu nhắc đến lâu đài - ví như đoạn trong tác phẩm của Walter Scott - Frederick đều dán giấy nhớ và viết đoạn lưu ý bằng bút chì vào bên lề. Những ghi chép ấy giờ hầu như đều đọc được nữa, nhưng thế cũng sao.

      Những tài liệu đó cho nàng biết mọi truyền thuyết về ma: những con ma khác nhau nổi tiếng ở những kỷ nguyên khác nhau. Nàng cũng được biết về hoạt động kỳ lạ tại các đại yến và kiện trọng đại. Frederick lưu trữ mọi ghi chép về những cuộc tranh chấp tài sản. Ông cũng giữ nhiều tập nhật ký. Theo những gì nàng biết chủ yếu chúng đều viết về lâu đài Gorewood và lịch sử của nó. Có vẻ như chúng hay đề cập đến những việc rắc rối liên quan đến lâu đài. Nhưng nàng dám chắc lắm, bởi vì bản viết tay cực kỳ rối rắm với chữ lít nhít cực kỳ khó đọc.

      Nàng nghĩ Lisle gặp khó khăn gì khi làm sáng tỏ nó, bởi vì chàng quá quen với việc giải mã những dòng chữ kỳ lạ, nhiều dòng biến mất phần nào do thời gian bào mòn hoặc bị phá hoại. Nếu chàng rảnh rỗi lấy vài ba phút nàng cũng hỏi rồi.

      Thế rồi vào sáng thứ Hai, nàng vừa giở trang sách vừa suy nghĩ xem liệu có nên nhờ Lisle giải thích giùm mảnh giấy vàng ố cháy dở rơi ra ngoài.



      “Nhưng đây là manh mối,” Olivia . Nàng vẫy tờ giấy nâu sẫm nhăn nhó trước mặt Lisle.

      Miễn cưỡng, chàng cầm lấy nó từ tay nàng.

      Kế hoạch của chàng là làm việc chăm chỉ. Chàng và nàng ai nấy làm việc của mình. Họ gặp nhau vào giờ ăn, khi đó các quý bà cũng ở đấy, và luôn giúp chàng sao nhãng.

      Nhưng hôm nay, Olivia nhất quyết gặp bằng được chàng tại phòng giếng ở tầng hầm trong khi đám người làm ra ngoài ăn trưa. Nàng nhảy cẫng lên vui sướng vì nàng tìm thấy MANH MỐI.

      Chàng đâu có mong nàng tìm ra manh mối cơ chứ. Chàng chỉ mong nàng cứ tìm kiếm và tìm kiếm mãi cho đến khi chàng hoàn thành công việc và có thời gian suy nghĩ về nàng, hoặc cho đến khi chàng nghĩ ra mình phải làm gì với nàng, nếu điều này khả thi.

      “Nó gì vậy?” nàng .

      Chàng nhìn xuống tờ giấy có vẽ biểu đồ nguệch ngoạc với nhiều chỗ đánh dấu. “Nó chẳng lên điều gì cả,” chàng . “Nó giống như bản vẽ lăng nhăng của trẻ con. trong những bản vẽ đầu tiên của ông Frederick. Mẹ ta giữ mọi bản vẽ của ta. Giữ lại những thứ như thế này phải là hành động mang tính chất lý trí mà chỉ mang tính chất tình cảm thôi, là thế.”

      “Ngài chắc ?” nàng hỏi.

      Chàng đưa tờ giấy lại cho nàng. “Đây phải bản đồ kho báu đâu,” chàng .

      “Có lẽ đây là thông điệp được mã hóa.”

      “Chẳng có mật mã nào cả,” chàng đáp.

      “Những biểu tượng này,” nàng . “Trong những cái hộp xíu.”

      Chàng hết nhìn tờ giấy rồi lại nhìn nàng.

      Váy và tóc nàng chi chít mạng nhện mà nàng vừa mắc phải lối vào phòng giếng. Chắc hẳn nàng vò đầu bứt tóc khi cố giải mã Thông điệp Bí , bởi vì nhiều ghim tóc rủ xuống những lọn tóc dày. Đôi mắt xanh của nàng lấp lánh reo vui và màu nắng tắm đẫm đôi má xinh tươi.

      Chàng quá mệt mỏi với tòa lâu đài bí kỳ quái và thời tiết khắc nghiệt ở đây, quá mệt mỏi với việc đào những cái hố để chôn vùi cảm xúc chỉ để thấy nó cứ trườn ra, như loài rắn, và cắm phập răng nanh vào chàng.

      Sao chàng lại quay trở về cơ chứ?

      Chàng biết ở bên nàng phải là điều hay đối với mình.

      Nhưng chàng quay lại là bởi nhà Carsington - và mọi chuyện công bằng. Tại sao chàng phải giữ khoảng cách với gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mình chỉ vì thành viên của gia đình ấy cứ khiến tâm trí chàng rối như tơ vò?

      “Vớ vẩn,” chàng . “Người già hay giữ những mảnh giấy linh tinh như thế mà chẳng có lý do gì.”

      Màu đỏ đôi má nàng đậm hơn và lan xuống cả cổ. Đó là dấu hiệu cảnh báo.

      “Ông phải người như thế,” nàng . “Nếu ngài xem nhật ký của ông, ngài thấy. Ông rất cẩn thận. Ông cất mẩu giấy này tức là phải có lý do.”

      “Chẳng có lý do nào cả,” chàng . “Tình trạng tuổi già sức yếu ảnh hưởng đến trí tuệ ông, thế thôi.”

      Đôi mắt xanh của nàng nhíu lại, nhìn thẳng vào mắt chàng. “Ngài bảo em tìm kiếm những manh mối,” nàng . “Ngài bảo em tìm hiểu ngọn ngành vấn đề. Em làm phiền ngài suốt mấy ngày liền. Giờ em đề nghị ngài giúp ngài xua đuổi em . Ngài biết quá rằng tờ giấy này có ý nghĩa gì đó.”

      “Ta chẳng định bảo em làm gì cả!” chàng gắt lên. “Chẳng có kho báu nào hết. Chắc hẳn trước kia từng có, nhưng người có lý trí phải biết rằng nó biến mất từ lâu rồi. Ngay cả ma mãnh cũng mất hứng với chuyện này. Em thấy sao? Giờ còn tiếng kèn túi gào réo trong đêm nữa đấy thôi? còn dấu hiệu của chúng, kể từ khi chúng viết mấy chữ xiêu vẹo tường tầng hầm.”

      “Mấy hôm nay mưa gió,” nàng . “Chúng muốn lê bước trong mưa với kèn túi và những đồ nghề giả ma khác.”

      “Tầng hầm là cái bẫy,” chàng . “Ta chẳng làm gì bí mật ở đó, và chúng nghe thấy chuyện ấy, theo cái cách mà mọi người nghe thấy mọi chuyện.”

      “Và ngài nghĩ họ từ bỏ rồi, đơn giản thế thôi? Ngài nghĩ cái bẫy của ngài dọa được người ta bỏ chắc?”

      “Ồ, trước đây chưa từng có ai đặt bẫy, phải ?”

      Khuôn mặt đỏ bừng của nàng tối sầm lại. “Lisle, ngài …”

      ngớ ngẩn,” chàng . “Ta tranh luận với em về chuyện ma quỷ đâu.”

      Nàng vẫy tờ giấy trước mặt chàng. “Ít nhất ngài cũng có thể…”

      ,” chàng . “Ta phí thời gian vào những tờ giấy nhàu nhĩ vô giá trị đâu.”

      “Ngài thế đâu nếu ngài đọc nhật ký của ông.”

      “Ta đọc nhật ký,” chàng . Chàng đọc, khi mà nàng cứ đứng nhìn chằm chằm qua vai chàng. Mùi hương của nàng. Tiếng sột soạt gây rối trí. hề dễ chịu. Nàng biết họ cần giữ khoảng cách.

      “Ngài bảo em tìm kiếm!” nàng gào lên. “Em bỏ ra biết bao nhiêu thời gian, nghiên cứu hàng đống sách vở, nhật ký, thư từ. Hết giờ này qua giờ khác, cố gắng đọc những mẩu viết tay chi chít của cụ. Ngài là kẻ…”

      “Để làm cho em bận rộn thôi!” chàng bùng nổ. “Để giữ cho em tránh xa ta. Ta có cái nhiệm vụ ngu ngốc vô mục đích này - hoang phí thời gian và tiền bạc - ở nơi khốn khổ, nơi ta bao giờ muốn đến - và ta bao giờ ở đây nếu phải tại em.”

      “Em giúp ngài!”

      “Ồ, phải, em giúp đỡ nhiều lắm. Nếu vì em, ta bảo cha mẹ ta quên ngay chuyện hoang đường này . Thà chết đói ở Ai Cập ta còn thấy vui hơn sống ở đây. Sao ta phải quan tâm đến tiền bạc của họ chứ? Hãy để họ dành gia sản cho các em ta. Ta có thể tự mình kiếm sống. Nhưng mà , ta phải ở đây, nỗ lực chí ít cũng để làm cho xong công việc đáng nguyền rủa này, thế mà em còn đay nghiến và ép uổng ta bước vào cuộc tìm kiếm vu vơ khác.”

      “Đay nghiến và ép uổng? Ngài là kẻ…”

      “Đó chỉ là kế nghi binh! Lẽ ra hơn ai hết em phải hiểu điều đó chứ. Em bày kế đó suốt cơ mà. Ồ, ta sử dụng nó với em. Sao em lại thích nó? Sao em lại làm theo ý người ta làm gì?”

      “Ngài… ngài…” Nàng chộp lấy mũ của chàng, giật ra, đập mạnh vào ngực chàng. Nàng quẳng nó xuống đất và giẫm lên.

      “Hay lắm,” chàng . “ người lớn.”

      “Nếu ngài là đàn ông, em thách ngài đấu súng rồi,” nàng .

      “Nếu em là đàn ông ta lấy làm vui được bắn em.”

      “Em ghét ngài!” nàng gào lên. “Ngài hèn hạ!” Nàng đá vào cẳng chân chàng.

      Nàng đá rất mạnh, nhưng chàng quá giận dữ nên chẳng cảm thấy gì. “Tuyệt,” chàng cũng thét lên. “Đúng là đồ đàn bà.”

      Nàng phùng má trợn mắt rồi tức giận bỏ .



      giờ sáng

      Thứ Ba ngày 25 tháng Mười



      Đêm hôm đó trời trong, và dù qua trăng tròn, ánh trăng vẫn đủ sáng với những kẻ gây rối, bọn trộm cắp, và bất kỳ ai muốn do thám chúng.

      Lúc này “bất kỳ ai” duy nhất ở đây là Olivia, nàng rón rén ra ngoài lâu đài khi mọi người lên giường. Nàng mặt quần ống bó của đàn ông, với chiếc quần chẽn vải lanh bên trong. cái áo gi lê, áo khoác, và chiếc áo choàng len dày cộm có mũ trùm đầu để che chắn cái lạnh của đêm thu Scotland. Nàng còn mang theo chăn len để đối phó với giá rét căm căm.

      Nhưng có lẽ nàng chẳng cần đến nó. có dòng máu sôi sục sưởi ấm cho nàng rồi.

      Những con ma biến mất rồi, phải ?

      “Chúng ta chống mắt xem sao,” nàng thầm với chính mình.

      Lẽ ra nàng nên đánh cược với chàng, đó là điều nàng nên làm, sau bữa tối lịch lạnh lùng của họ.

      Chúng chưa , và em có thể chứng minh điều đó. Lẽ ra nàng nên thế.

      Khi ấy chàng bảo, Em chẳng chứng minh được gì đâu.

      ư? Ngài đặt cược gì nào?

      Lâu đài Rùng Rợn được ? Em có thể lấy nó.

      Đâu phải của ngài mà đòi đặt cược. Để em cho ngài biết: Nếu em chứng minh được ma chưa , ngài phải thôi được hành động như kẻ ngu ngốc nữa - ôi, xin lỗi, em quên mất. Ngài đâu thể thôi cái kiểu ấy được cơ chứ.

      “Và ngài ấy …” Nàng nhìn lên tháp Bắc. Những ô cửa sổ tối om với nàng là chàng ngủ rồi - và nàng hy vọng chàng gặp những cơn ác mộng khủng khiếp. “Và ngài ấy … Mà ngài ấy gì nhỉ?”

      Thôi bỏ qua. Nàng chứng minh mấy con ma vẫn chưa từ bỏ. Chỉ là chúng cân nhắc lại mưu mô thôi. Nàng cho chàng thấy điều đó.

      Dù sao, nếu nàng đề nghị đánh cược chàng nghi ngờ ngay. Tốt hơn hãy để cho chàng nghĩ nàng chịu thua. Nếu biết nàng lên kế hoạch gì đó, chính chàng gây phiền phức cho nàng.

      Nàng tuyệt nhiên muốn gã cáu kỉnh, bất hợp tác can thiệp vào việc của mình.

      Nàng thậm chí gì với Bailey về ý định tối nay vì Bailey thức chờ nàng, mà Olivia biết mình ra ngoài bao lâu. Trong trường hợp bắt buộc, nàng ngồi rình tới tận bình minh. Nàng có chỗ nấp khá ấm cúng.

      lựa chọn vị trí là rất dễ hiểu. Cái chòi canh đổ nát ở góc Tây Nam sân được xây dựng hoàn hảo cho mục đích quan sát. Tuy nay nó hữu dụng cho việc nhìn ngắm toàn cảnh vùng nông thôn xung quanh lâu đài, nhưng cửa của nó tạo ra góc nhìn toàn cảnh ra sân và lại cho nàng chỗ nấp rất kín đáo.

      Phần duy nhất cần nỗ lực là chờ đợi. Ngồi yên tại chỗ, có bài, có sách, chẳng có gì để giải trí. Và ngồi đá, dù đó là phiến đá rộng bằng phẳng, cũng chỉ dễ chịu lúc đầu. Nàng cảm thấy cái lạnh xuyên qua cả lớp vải len dày, qua cả quần ống bó và quần chẽn vải lanh. Gió thổi vi vu qua những khe hở. Thời gian trôi qua, trăng sao bắt đầu mờ dần. Từ chỗ trú , nàng nhìn ra ngoài.

      cao, mây trôi vù vù theo cơn gió mạnh, phủ kín bầu trời và che khuất cả trăng sao. Nàng nấp sâu vào trong chỗ trú, kéo chăn chặt quanh mình. Thời gian trôi qua, khí mỗi lúc lạnh hơn. Hai chân nàng rét cóng. Nàng chuyển chỗ ngồi.

      Có phải thứ nàng cảm thấy đôi má là khí ẩm? Hay đó chỉ là cơn gió lạnh thấu xương? Ngón tay nàng ngày càng tê buốt. Đêm mỗi lúc tối thẫm. Nàng chỉ còn nhìn thấy mép sân.

      Gió gào rú qua khe đá hở và nàng nghe thấy gió hất tung từng đống lá khô, cuốn chúng xoay tròn khắp sân. Nàng lại di chuyển, nhưng có đủ chỗ trống. Nàng dám giậm chân cho đỡ ê ẩm nên ngón chân đau điếng vì lạnh. Mông nàng cũng bắt đầu tê rần.

      Nàng nghĩ tới Lisle và những lời xấu xa của chàng, và những câu lẽ ra nàng có thể đáp trả, nhưng làm thế còn giúp nàng nóng người lên được nữa. Nàng phải đứng dậy và lại nếu tứ chi tê liệt mất. Nàng dợm đứng lên.

      ánh sáng lóe lên bên khóe mắt nàng? Mà có thế nhỉ? Quá ngắn ngủi? cái đèn lồng mờ tối chăng? Rồi mọi thứ tối sầm hơn nữa, khí nặng trịch, cái chăn ẩm và lạnh ngắt.

      Rồi nàng nghe thấy tiếng bước chân.

      “Để ý cái đèn,” giọng thào vang lên.

      Thịch. Bụp. Thịch.

      “Tao đếch thấy cái khỉ gì cả. Lại mưa rồi. Tao bảo mày…”

      “Chỉ là sương mù thôi.”

      “Mưa. Tao bảo mày… Chết tiệt !”

      Ánh sáng lướt qua mặt Olivia, làm nàng lóa mắt.



      Mẩu giấy cháy dở nhàu nhĩ xuất trong tâm trí Lisle lần thứ trăm khi chàng bắt đầu chìm vào giấc ngủ.

      Những dòng xiêu vẹo lũ lượt diễu hành trong não chàng, và những biểu tượng lại xuất trong những cái hộp xíu.

      Đó phải là bản đồ, vì có mũi tên và hình la bàn chỉ hướng.

      Nhưng nó có thể là loại mật mã, hoặc viết tắt.

      Tâm trí chàng bắt đầu sắp xếp và sắp xếp lại các dòng chữ cùng với biểu tượng, giờ mà cố ngủ nữa chẳng ích gì, vì chàng còn phải suy nghĩ.

      Chàng mở bừng mắt, ngồi dậy, thắp nến bên giường, miệng lầm bầm nguyền rủa.

      Nàng khua khua tờ giấy trước mặt chàng và chàng thể coi như biết gì về nó được.

      Chàng ra khỏi giường, mặc áo choàng vào, và khơi lại lửa trong lò sưởi. Chàng cầm cây nến lên, tới hộc cửa sổ rộng thênh thang. Cửa sổ này có bệ ngắm cảnh, chắc hẳn có từ khi xây dựng lâu đài. Chàng đặt chiếc ghế dài phía dưới, thế là có bộ bàn ghế làm việc.

      Vào ban ngày, ánh sáng rất chan hòa. Còn vào buổi đêm đây là chỗ làm việc rất thú vị. Khi trời mưa hoặc quá mù - cũng hiếm khi được thế - chàng có thể nhìn ra bầu trời đầy sao. Đó phải trời đêm Ai Cập, nhưng ràng trông khác xa thành thị với những lề thói và chuyện bực mình.

      Chàng nhìn ra ngoài trời và nguyền rủa. Trời lại mưa.

      “Cái xứ sở khốn khổ này,” chàng thốt lên.



      Phải mất lúc mắt Olivia mới lại nhìn . Cái đèn lồng lại lóe lên, nhưng trúng hướng nàng. Nàng nghe thấy tiếng bước chân và giọng . Cái gì đó nện thịch xuống đất. Rồi tiếng bước chân chạy .

      Nàng kịp dừng lại để nghĩ.

      Nàng ném phăng cái chăn ra, chạy theo chúng, chạy theo ánh đèn lồng, ánh sáng ấy lắc lư trong sân rồi lọt qua lỗ tường hổng, lao ra lối rồi băng xuống đường.

      Nàng nhận ra cơn mưa lạnh ngắt giội xuống, mỗi lúc nhanh và mạnh hơn, nhưng cái đèn lồng vẫn lóe lên trước mắt nàng như con đom đóm, và ánh sáng ấy kéo nàng chạy theo, lao xuống đường. Rồi đột ngột nó biến mất. còn ánh sáng đâu nữa. Nàng nhìn khắp xung quanh. Trái, phải, phía trước, đằng sau.

      có gì. Đen đặc. Mưa, mưa lạnh buốt, giội ầm ầm xuống đầu và vai nàng, chảy ròng ròng cổ nàng.

      Nàng nhìn lại phía sau. Nàng thậm chí nhìn tòa lâu đài, khối đen khổng lồ mờ ảo xa xa, phía sau màn mưa dày đặc tắm đẫm áo choàng và thấm cả vào áo khoác của nàng.

      Cửa sổ ánh đèn. gì cả.

      Chẳng có gì giúp đỡ.

      có chỗ nào để trú ở đây - và giờ đây nếu có tìm được chỗ trú cũng có ích gì? Găng tay của nàng thấm nước và bàn tay nàng đau buốt vì lạnh.

      Nàng ra sức chạy, nhưng đôi chân giống như hai phiến đá lạnh, quần áo sũng nước mưa nặng trịch, và nếu nàng vấp ngã

      Đừng quá lo lắng.

      nào. Từng bước .

      Nàng run lập cập vì lạnh, đầu cúi xuống và lầm lũi trở lại lâu đài.



      Cánh cửa vào phòng Lisle ở tháp Bắc rất dày. Nếu có khe hở lớn ở bản lề - thêm thứ cần sửa chữa - chàng nghe thấy tiếng động ấy. Tuy nhiên, chàng chắc có phải mình vừa nghe thấy gì đó hay . Chàng tới cửa, mở he hé và lắng nghe.

      Chàng nghe thấy tiếng lạo xạo và thầm.

      Rồi tiếng nguyền rủa. Dù rất nhưng chàng vẫn biết đó là tiếng của ai.

      Chàng cầm nến, ra khỏi phòng, rồi bước vào nơi từng là phòng sinh hoạt của lâu đài, căn phòng ngay phía đại sảnh, rộng gần bằng tuy thấp hơn. Nó cũng có lò sưởi khổng lồ.

      Olivia quỳ trước lò sưởi. Nàng run cầm cập, cố đánh lửa với hộp bùi nhùi.

      Nàng nhìn lên và lóa mắt trước ánh nến của chàng.

      “Lisle?” nàng khẽ kêu lên.

      Chàng nhìn kỹ nàng: tóc và quần áo ướt nhẹp, nước chảy xuống thành vũng quanh nàng.

      “Em vừa làm gì thế?” chàng hỏi. “Olivia, em vừa làm gì?”

      “Ôi, L…isle,” nàng , người run bần bật.

      Chàng đặt cây nến xuống rồi xốc nàng lên. Nàng ướt sũng, run lẩy bẩy. Chàng muốn quát lên giận dữ với nàng, và có lẽ nên làm thế. Khi ấy ai đó nghe thấy - hầu của nàng hoặc đầy tớ của chàng, chí ít là thế - và vội chạy tới giúp đỡ.

      Nhưng chàng nổi giận với nàng. Chàng gì. Chàng bế nàng vào phòng mình.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :