Chương 9: Bản phúc trình thứ hai của bác sĩ Watson Lâu đài Baskerville, 15 tháng 10 Holmes thân mến, Tôi kết thúc bản phúc trình gần đây bằng việc mô tả tấn kịch của Barrymore cạnh cửa sổ của căn phòng trống . Từ đó đến nay tôi góp được hàng đống tin tức. Vào buổi sáng sau cuộc trinh sát ban đêm của tôi, tôi có xem xét căn phòng mà Barrymore vào. Cửa sổ mà ông ta chăm chú nhìn qua đó rất tiện lợi cho việc nhìn ra khu đầm lầy, hơn tất cả các cửa sổ khác. Qua khe hở giữa hai hàng cây, khu đầm lầy mồn ; trong khi đó, từ những ô cửa sổ khác hầu như nhìn thấy nó. Bởi vậy, Barrymore chọn cửa sổ này để nhìn ai đó hoặc cái gì đó khoảng rộng bao la của khu đầm lầy. Tuy nhiên đêm tối mịt mù, tôi biết ông ta có thể phân biệt được cái gì. Rất có thể đó là chuyện dan díu đương nào ? Điều đó có thể giải thích tính thận trọng trong hành động của ông và nỗi khổ đau của vợ ông. người với vẻ bề ngoài như ông có đủ điều kiện để quyến rũ trái tim của thôn quê nào đấy, và vì vậy, giả thiết này phải có cơ sơ. Sau lúc trở về phòng mình, tôi nghe thấy tiếng mở cửa ở đâu đó. Có lẽ ông Barrymore đến cuộc hẹn hò bí mật nào chăng? Sau bữa sáng, tôi cùng nam tước vào phòng làm việc của ngài. Tại đây tôi kể cho ngài nghe tất cả. Ngài nghe với thái độ rất điềm tĩnh. - Tôi biết Barrymore đêm đêm hay dạo và tôi định hỏi ông ấy từ lâu rồi. vài lần tôi có nghe thấy bước chân của ông ta vào khoảng thời gian như ông vừa . - Rất có thể, nếu thế cần theo dõi xem ông ta làm gì ở đấy. Chẳng biết trong trường hợp này Holmes làm như thế nào. - Tôi tin rằng ấy cũng theo sau Barrymore. - Vậy chúng ta cùng giám sát ông ta. - Nhưng ông ấy nghe thấy chúng ta mất. - , ông ta nghễnh ngãng. Và dẫu sao ta cũng cần bạo dạn mà làm thôi. Nào, đêm nay chúng ta đợi ông ấy ở phòng tôi vậy. Nam tước thích thú xoa xoa hai tay vào nhau khi nghĩ tới cơ hội nhất làm cho dòng đời có thêm vẻ đa dạng nào đó. Nam tước liên lạc với kiến trúc sư, và đồng thời cho mời người thầu khoán từ London tới. Cho nên ở đây bao lâu nữa có những biến đổi lớn lao. Những họa sĩ trang trí và những thợ đóng đồ gỗ cũng từ Plymouth đến. ràng người bạn của chúng ta tiếc cả công sức lẫn tiền của để tái lập lại huy hoàng xưa kia của dòng họ mình. Khi ngôi nhà trong tương lai được sửa sang và xếp đặt lại. Nam tước chỉ còn thiếu người vợ. Ngài rất say đắm người láng giềng. Tuy vậy mối tình phẳng lặng, hôm nay bề mặt của mối tình đó xuất những gợn sóng lăn tăn làm người bạn của chúng ta hoang mang và lo ngại. Sau câu chuyện về Barrymore, ngài Henry đội mũ và định đâu đó. Cố nhiên tôi cũng làm y như thế. - Ông với tôi chứ, Watson? - Ngài hỏi sau khi nhìn tôi là lạ thế nào ấy. - Nếu tới khu đầm lầy tôi - Tôi trả lời. - Tới khu đầm lầy. - Tôi muốn cản trở ngài, nhưng Holmes bảo tôi để ngài ở mình, nhất là khu đầm lầy. Chính ngài cũng được nghe điều đó. Với nụ cười hiền dịu, ngài Henry vỗ vào vai tôi : - Bạn thân mến ạ, Holmes thể thấy mọi chi tiết trong biến chuyển của cuộc sống của tôi ở đây được, ông hiểu tôi chứ? Vậy chắc có ai muốn ngăn cản tôi. , ông cho phép tôi mình. Tự cũng thấy được tình cảnh của tôi ra sao rồi. Tôi bối rối, trong lúc ngài cầm lấy gậy của mình và ra. Nhưng sau ít phút suy nghĩ, lương tâm bắt đầu hành hạ tôi. Tại sao tôi cho phép ông ấy ra ngoài giám sát của mình rồi sau khi trở lại London tôi phải thú nhận với là dễ dãi của tôi đẩy chúng ta tới thảm họa như thế nào? Tôi như bị ném vào lửa trong ý nghĩ này. Vẫn còn chưa muộn, có thể đuổi kịp ông ấy. Và tôi lập tức tới Mernpit. Tôi rảo bước theo con đường lớn. Vẫn chưa thấy ngài Henry. Vài phút sau, tôi đến gần chỗ bắt đầu con đường mòn sâu vào khu đầm lầy. Tôi phân vân biết nên chọn đường nào. Thế là tôi trèo lên quả đồi và từ đó nhìn xuống khu đầm lầy. Tôi thấy Nam tước. Ông bước theo con đường mòn cách tôi chừng phần tư dặm, cạnh ông là người phụ nữ: Stapleton, họ bước rất chậm. Nhìn theo điệu bộ của cố gắng thuyết phục ngài Henry tin vào điều gì đấy. Ngài Henry chăm chú nghe, thỉnh thoảng lắc đầu. Khi biết mình vào đâu, tôi đành đứng vào giữa các tảng đá. Đuổi theo họ, phá vỡ câu chuyện thân tình này là thể được. Nhưng nhiệm vụ của tôi ở đâu? Là ở chỗ được giây phút nào rời mắt khỏi ngài Henry. Thế mà tôi có cách giải quyết nào khác và cứ tiếp tục đứng đỉnh đồi để quan sát họ. Nhưng như vậy, nếu ngài đột nhiên bị nguy hiểm tôi thể giúp gì được. được vài bước, ngài Nam tước và dừng lại và lúc đó tôi bất ngờ nhận ra rằng tôi phải là người duy nhất chứng kiến cuộc gặp gỡ của họ. Thấp thoáng giữa hai tảng đá có cái gì đó màu xanh lục. Tôi nhìn kỹ và nhận ra đó là mảnh màu xanh chiếc gậy đường. Người mang gậy này hướng tới con đường mòn. Hóa ra đó là nhà tự nhiên học Stapleton với chiếc vợt bắt bướm. Ông ta ở gần đôi uyên ương hơn tôi và thẳng tới chỗ họ. Vào giây phút ấy, ngài Henry ôm chầm lấy Stapleton, nhưng ta xoay lưng lại, cố gắng thoát khỏi tay ngài. Thế rồi ngài cúi xuống gần , còn lánh xa ngài. Sau đấy, họ nhanh chóng lùi xa nhau ra, ngoảnh lại nhìn phía sau. ra Stapleton tới. Ông ta ba chân bốn cẳng chạy về phía họ, khoa chân múa tay trước mặt cặp tình nhân. Tôi nghe được ông ta gì, nhưng hình như ông ta lên án ngài Henry, còn người này cố phân trần. đứng bên cạnh, hoàn toàn im lặng. Sau cùng Stapleton đột nhiên quay trở lại, vẫy tay ra lệnh cho em ; ta đưa nhanh đôi mắt nhìn ngài Henry rồi theo sau mình. Nhưng cử chỉ bồng bột của nhà tự nhiên học chứng tỏ rằng ông ta trút nỗi giận dữ của mình lên đầu . Vị Nam tước nhìn theo họ, rồi ngài chán nản, lửng thững ngược trở lại. Tôi hiểu tí nào về cuộc cãi vã ấy. Tôi lao nhanh xuống đồi và gặp Nam tước ở dưới đó. Mặt ngài đỏ bừng vì giận dừ, đôi lông mày nhíu lại. - Chào bác sĩ! Ông ở đâu ra vậy? Có lẽ ông theo dõi tôi chăng? Tôi buộc phải giải thích cho ngài hiểu rằng tôi cảm thấy thể để ngài mình nên theo ngài và trở thành người chứng kiến cuộc gặp gỡ. Ngài quắc mắt nhìn tôi nhưng rồi ngài phá lên cười. - Cứ như là các ông cố rình xem tôi tán tỉnh và thất bại như thế nào ấy! Ông thuê dài hạn cho mình chỗ ngồi nào đấy? - quả đồi kia kìa. - Nghĩa là gác thượng. Còn của ta được thu xếp ở những dãy ghế đầu tiên. Ông có nhận thấy ông ta mắng chúng tôi ra sao ? - Vâng. - Có bao giờ ông thoáng nghĩ rằng ông ta mất trí ? - Chưa, chưa bao giờ. - Tôi cũng vậy. Trước ngày hôm nay, tôi coi Stapleton là người phát triển bình thường. Còn bây giờ tôi cảm thấy là cần tìm bác sĩ thần kinh cho ông ta hoặc cho tôi. Phải chăng tôi tồi tệ đến thế? Xin ông hãy thẳng! Cái gì ngăn cản tôi trở thành chồng của ấy. - Theo tôi, có gì ngăn cản cả. - Ông ta thể bắt bẻ về cương vị xã hội của tôi được. Vậy ông ta có cái gì để đồng ý tôi? Trong đời, tôi gây điều ác cho ai cả. Thế mà con người ấy muốn để tôi đến gần ta. - Ông ta thế à? - Vâng. Ông biết , Watson, tôi mới quen ta cách đây vài tuần. Thế mà ngay từ buổi gặp gỡ ban đầu, tôi thấy ràng người này sinh ra là để dành cho tôi. Và ta... ta cũng sung sướng ở cạnh tôi. Tôi sẵn sàng thề như vậy. Đôi mắt của người đàn bà nhiều hơn so với lời của họ. Thế nhưng, ông ta phản đối gần gũi của chúng tôi. Chỉ đến hôm nay tôi mới chọn được cơ hội chuyện riêng với ấy. sung sướng chấp thuận cuộc gặp gỡ này. Nhưng, chỉ lời: ở đây nguy hiểm và yên lòng chừng nào tôi chưa khỏi lâu dài. Tôi rằng từ sau cuộc gặp gỡ với , tôi bao giờ rời khỏi đây, còn nếu việc ra là cần thiết, hãy cùng với tôi. Tóm lại, tôi ngỏ lời cầu hôn với ta, nhưng còn chưa kịp đáp lại vào giây phút ấy, ông ào tới mắng chúng tôi. Tôi còn làm gì được? Giá ông ta phải là của ấy, tôi biết cách trả lời, nhưng tôi nỡ làm thế và chỉ rằng có gì là xấu xa trong tình cảm của tôi cả, rằng tôi hy vọng vào lúc nào đó gọi Stapleton là vợ của mình. Nhưng, cuối cùng tôi giữ bình tĩnh được nữa và nổi xung lên. Đáng lý nên nổi nóng khi thấy đứng ở đó hơn. Sau đấy, ông ta ra cùng với em . Còn tôi ở lại mình trong tâm trạng rất phân vân. Holmes, câu chuyện này khiến tôi ít băn khoăn. Tước vị của Nam tước, giàu có, tuổi trẻ, tính cách và vẻ ngoài đều có lợi cho ngài. Có lẽ, ngoài số mệnh đen tối đè nặng lên gia đình ngài, tôi thấy ngài có gì bất lợi. là lạ lùng nếu lời cầu hôn của ngài Henry bị cự tuyệt gay gắt. Tuy nhiên, vào ngày hôm ấy, chính Stapleton xin lỗi Nam tước, rồi chuyện hồi lâu với ngài trong phòng làm việc. Chúng tôi nhận lời mời ăn trưa ở Merripit vào thứ sáu tới. - Tôi vẫn chưa hết hoài nghi về phát triển bình thường của con người này - Ngài Henry - Nhưng, cần thừa nhận những lời xin lỗi của ông ta chân thực, cũng đừng nên gây với ông ta làm gì. - Ông ấy giải thích cơn bột phát của mình như thế nào? - Em đối với ông ta là tất cả. Điều đó chấp nhận được. Họ cùng sống với nhau trong suốt cuộc đời, bởi thế ông ấy sợ phải xa cách em mình. Ông ta rất lấy làm tiếc về những gì xảy ra, và ngăn cản chúng tôi nữa, nếu như tôi hứa gì về tình với trong vòng ba tháng sắp tới, chỉ nên coi như tình bạn mà thôi. Tôi hứa, và đến đây câu chuyện chấm dứt. Holmes, thấy đấy, trong số những bí mật nhoi của chúng ta được sáng tỏ. Bây giờ, chúng ta chuyển sang về tiếng khóc bí ban đêm về bộ mặt bi thảm của bà Barrymore và về thái độ khó hiểu của viên quản lý với cánh cửa sổ hướng ra khu đầm lầy. Phải cần đêm mới giải thích được điều bí mật này bạn ạ. Tôi là “ đêm” nhưng đúng hơn là phải “hai đêm”. Tôi và ngài Henry ngồi trong phòng làm việc của ngài tới ba giờ sáng, thế mà nghe thấy gì cả. Sau đó chúng tôi ngủ thiếp cho tới sáng. Tuy vậy, thất bại này làm cho chúng tôi chán nản mà cương quyết thử lại lần nữa. Đêm hôm sau, chúng tôi vặn bớt bấc đèn, ngồi im lặng hoàn toàn. Thời giờ trôi vô cùng chậm chạp. Chuông đồng hồ điểm giờ, rồi hai giờ. Chúng tôi sắp thất vọng đột nhiên mệt mỏi của chúng tôi bay biến đâu mất. Tôi và ngài Nam tước đều ưỡn thẳng người lại. Ngoài hành lang có tiếng cót két của ván sàn nhà. Tiếng những bước chân lén lút ngang qua phòng chúng tôi rồi dần dần lặng ở phía xa. Nam tước khẽ mở cửa. Chúng tôi bắt đầu lần theo vết con thú săn. Con thú qua hành lang nối liền lâu đài, còn trong hành lang này tối om. Hết sức thận trọng, chúng tôi đến chái nhà phía bên kia. Ở đó thấp thoáng hình của người có bộ râu đen. rón rén bước dọc theo hành lang. Sau đấy chạy lúp xúp tới cánh cửa, và tia sáng vàng mỏng manh trải ra khu hành lang. Chúng tôi tới luồng ánh sáng này, dò từng mảnh đất, vậy mà những tấm ván cũ kỹ vẫn khẽ rên và kêu cót két, nhưng là may, Barrymore nghễnh ngãng, vả lại khi đó công việc thu hút hết tâm trí của ông ta. Cuối cùng, chúng tôi cũng bước tới được cửa phòng, nhìn vào cửa phòng. Viên quản tý tay cầm cây nến, đứng ở cạnh cửa sổ, hầu như mắt ông ta ghé sát vào mặt kính, nghĩa là trong dáng điệu y hệt như tôi trông thấy lần trước. Nam tước mạnh dạn vào phòng. Barrymore lùi nhanh ra khỏi cửa sổ, thở hổn hển, toàn thân run rẩy. Nỗi kinh hoàng lờ mờ ra trong đôi mắt sẫm sáng bộ mặt trắng nhợt. - Barrymore, ông làm gì ở đây thế? - làm gì cả, thưa ngài - Vì xúc động ông ta rất khó nhọc, cây nến run run tay ông hắt những bóng loang lổ tường và lên trần nhà - Cửa sổ, thưa ngài... đêm đêm tôi kiểm tra xem xét tất cả có được khóa kỹ . - Ngay cả lầu hai? - Vâng, cả khu nhà. - Hãy nghe đây, Barrymore - Ngài Henry nghiêm khắc - Chúng tôi cương quyết tìm cho ra . Cho nên ông càng mau thú nhận lỗi lầm càng tốt. Này, ông làm gì ở đây? Người quản gia ném cái nhìn tuyệt vọng về phía chúng tôi. - Tôi làm gì xấu xa cả, thưa ngài! Tôi chi soi cây nến vào cửa sổ. - Để làm gì? - Xin đừng hỏi tôi, ngài Henry... Xin thề với ngài đấy là bí mật phải của tôi. Nếu bí mật này chỉ liên quan đến tôi, tôi giấu giếm điều gì cả. Đột nhiên trong óc tôi thoáng nẩy ra ý nghĩ bất ngờ, tôi cầm lấy cây nến ở bệ cửa sổ. - Có lẽ đây là mật hiệu. Bây giờ chúng ta chờ câu trả lời. Tôi đưa ngọn nến đến gần tấm kính như Barrymore làm, tôi nhìn vào bóng đêm. Mặt trăng mình sau đám mây. Vào phút đầu tiên, tôi chỉ trông thấy hàng cây của khu đầm lầy. Đột nhiên tôi reo lên khi trông thấy trong khung màu đen của cửa sổ điểm màu vàng tản ra chọc thủng đêm tối. - Hãy nhìn này! - , phải, thưa ngài... - Chuyển cây nến sang bên phải, Watson. - Nam tước kêu lên - Nhìn thấy gì ? Ở đấy ngọn lửa cũng di động... Này, đồ vô lại, đó chính là tín hiệu? Hãy tự thú , ông mưu toan làm gì đó? Viên quản lý bất ngờ ném cài nhìn thách thức về phía ngài. - Đây là việc của tôi, nó liên quan gì tới ngài. Tôi gì cả. - Vậy ông bị sa thải. - rồi, thưa ngài. - Tôi tống cổ ông cách đê nhục! Tổ tiên của tôi và của ông hơn trăm năm nay sống cùng căn nhà với nhau, vậy mà ông định lập mưu kế chống lại tôi. - , thưa ngài! Chúng tôi chống lại ngài đâu! Những lời này vang lên the thé. Sau khi ngoảnh lại nhìn, chúng tôi nhận ra bà Barrymore hồn xiêu phách lạc ở cửa ra vào, vẻ tái nhợt khuôn mặt bà có thể đua tranh với chồng mình. - Người ta sa thải chúng ta, em ạ, tất cả được kết thúc như thế đấy. Hãy thu xếp đồ đạc - Barrymore . - Mình ạ, em đẩy mình tới nông nỗi này đấy!... Mọi chuyện đều là lỗi lầm của tôi thôi, ngài Henry. Chỉ vì tôi mà ông ấy làm việc đó, chỉ vì mình tôi thôi. - Bà gì vậy. - Em trai tôi chết đói khu đầm lầy. Chồng tôi dùng tín hiệu báo cho chú ấy biết là đồ ăn được chuẩn bị, còn chú ấy báo cho biết cần mang đồ ăn đến đâu. - Thế nghĩa là... em bà là... - Người tù vượt ngục, kẻ giết người, Selden. - Đấy là tất cả , thưa ngài - Barrymore khẳng định - Tôi với ngài là tôi thể phanh phui bí mật của người khác. Và nếu có mưu nào đó nó hoàn toàn nhằm làm hại ngài. Cuộc du ngoạn ban đêm với cây nến được sáng tỏ như vậy đấy! Tôi và ngài Henry sững sờ nhìn bà Barrymore. - Đúng vậy. Thưa ngài. Chú ấy là em út của tôi. Chúng tôi cưng chiều chú ấy ngay từ . Thế rồi chú ấy lớn lên, nhập bọn với đám du thủ du thực và sa vào tội lỗi. Nhưng đối với tôi, thưa ngài, chú ấy vẫn chỉ là cậu bé tóc xoăn đáng mà tôi từng chơi đùa và chăm sóc. Chú vượt ngục, biết tôi ở đây. Lúc lê bước tới đây vào ban đêm, chú ấy mệt mỏi, bụng đói mà lại bị truy lùng. Chúng tôi để cho chú vào, giúp đỡ chú ấy bằng tất cả khả năng của mình. Thế rồi ngài về đây, thưa ngài. Chú quyết định vào khu đầm lầy. Sau đêm, chúng tôi lại kiểm tra xem chú ấy hay chưa. Chúng tôi soi đèn qua cửa sổ và nếu nhận được tín hiệu trả lời chúng tôi mang bánh mì và thịt tới nơi hẹn ước. Chúng tôi mong mỏi từng ngày là chú bỏ , nhưng chừng nào chú ấy còn ở đây chúng tôi thể bỏ rơi. Thưa ngài. Nếu ở đây có điều gì xấu xa chồng tôi hề có lỗi: ông ấy làm việc đó là vì tôi thôi? Bà ta với tình cảm khiến người khác thể tin vào bà. - Có đúng như vậy , Barrymore? - Vâng, thưa ngài, từ đầu đến cuối đều là . - Tôi trách ông giúp vợ mình. Hãy quên những điều tôi với ông . Giờ hai người hãy về phòng mình, sáng mai chúng ta bàn bạc. Khi họ khỏi, ngài Henry mở toang cửa sổ ra, gió lạnh lùa vào mặt chúng tôi. Xa xa bóng đêm mịt mùng, ngọn lửa vẫn còn nhấp nháy. - Sao biết sợ - Ngài Henry hỏi. - Có lẽ chỉ đứng tại đây mới nhận thấy ngọn lửa. - Cũng có thể. Theo ông ở đâu? - Ở chỗ nào đó cạnh những cột đá hoa cương. - Hai dặm? - hơn thế. - Đúng, nếu Barrymore mang đồ ăn đến đấy có nghĩa là xa lắm. Và bây giờ, Watson, tôi , và tóm được tên ác ôn này. Chính ý nghĩ này cũng thoáng qua trong óc tôi. Vợ chồng Barrymore biến chúng tôi thành những kẻ tòng phạm được. Con người này nguy hiểm cho xã hội. - Tôi với ngài. - Vậy hãy cầm súng ngắn theo: Cần khẩn trương lên, nếu , dập tắt ngọn lửa và tẩu thoát mất. Chưa đầy năm phút sau, chúng tôi bước nhanh theo con đường tối om rậm rạp bóng cây, lắng nghe tiếng rít đơn điệu của ngọn gió mùa thu và tiếng xào xạc của lá cây. Trong khí có mùi hăng hăng của vật thối rữa và ẩm ướt. Mặt trăng lúc lúc sau những đám mây đen. Mưa lâm thâm. Ngọn lửa màu vàng vẫn nhấp nháy. - Ngài có cầm cái gì đó theo người ? - Có, roi gân bò. - Hãy hành động nhanh, người ta rất táo tợn. - Watson - Đột nhiên Nam tước lên tiếng - Holmes nghĩ sao đây? Ông có nhớ ? Vào lúc ban đêm, khi mà uy lực của cái ác hoàn toàn thống trị... Và hình như để đáp lại những lời của ngài, ở nơi nào đó rất xa khu đầm lầy vang lên thanh lạ lùng. Gió đẩy đến tai chúng tôi, ban đầu là tiếng gầm gừ , sau là tiếng rống rồi lại dần dần chuyển sang tiếng rên bi thảm. Những thanh hoang dã, dọa dẫm này được lặp lặp lại liên tục, tràn ngập cả trung. Nam tước túm lấy vạt áo tôi. - Trời ơi, Watson, cái gì thế? - Tôi . Người ta rằng thanh như vậy thường vang lên khu đầm lầy. Tôi cũng từng nghe thấy. Tiếng kêu lặng dần, rồi hoàn toàn yên lặng. Chúng tôi đứng căng thẳng lắng nghe, nhưng có gì vang lên nữa. - Con chó rống đấy! - Nam tước thầm. Máu trong người tôi như đông lại, giọng của ngài Nam tước run lên vì kinh hãi. - Người ta giải thích thanh này ra sao? - Ai? - Những người sống ở đây ấy. - Đấy chỉ là những người dốt nát? phải tất cả mọi người đều giải thích tiếng kêu như thế. - Watson, họ về cái gì vậy? Vào giây phút ấy tôi do dự, nhưng đặt vấn đề ra thể nào im lặng được. - Họ rằng đấy là tiếng con chó của dòng họ Baskerville rống. Ngài Henry bắt đầu rên rỉ: - Đúng, chỉ có chó mới tru lên như vậy - Sau khi im lặng hồi lâu, ngài - Nhưng con chó ở rất xa, đâu ở hướng kia kìa! - Khó có thể xác định tiếng rống từ đâu vọng lại. - Nó được gió thổi tới. Vùng đầm lầy Grimpen ở đâu? Ở đấy phải ? - Đúng. - Vậy là tiếng kêu từ đó vọng đến, Watson. Chính ông cho rằng đấy là tiếng rống của con chó, đừng e ngại. Hãy ... - lần Stapleton rằng có giống chim nào đó kêu như thế. - , đấy là con chó. Than ôi! Chẳng lẽ câu chuyện huyền bí này là ? Chẳng lẽ có mối nguy hiểm bí nào đấy đe dọa tôi? Ông tin vào điều đó sao, Watson? - tin! - Vậy còn bác của tôi? Cạnh thi thể của Người có những vết chân chó. Tất cả chỉ là mắt xích mà thôi. Tôi hoàn toàn phải kẻ nhát gan, Watson ạ, thế nhưng tôi hết hồn khi nghe thấy những thanh như thế. Hãy rờ vào tay tôi này. Bàn tay ông giá lạnh. - sao cả, ngày mai tất cả qua khỏi thôi! - , tôi bao giờ quên tiếng kêu ấy đâu. Chúng ta cần làm gì bây giờ? - Ta quay về nhà chăng? - Sao lại thế! Phải tóm cổ tên đê tiện ấy. Tôi với ông săn đuổi tên tù khổ sai, còn con chó lại săn lùng chúng ta. Mặc! Hãy thôi, Watson! Chúng tôi tiếp tục lê từng bước chậm chạp. Bên phải và bên trái chúng tôi chồng chất hình thù những quả núi lởm chởm mờ ảo trong đêm tối. Ngọn lửa màu vàng bé vẫn nổi lên mờ mờ xa xa ở phía trước. Cuối cùng chúng tôi nhìn thấy nguồn ánh sáng và hiểu rằng giờ chúng tôi ở cách đấy xa. Đó là ngọn nến được đặt lơ lửng ở kẽ nứt giữa những tảng đá. Những tảng đá này bảo vệ cây nến, tránh gió và tránh cả ánh mắt của con người, chỉ để hở hướng quay về phía lâu đài: Chúng tôi mình sau tảng đá, rồi thận trọng nhìn ra ngoài. Kỳ lạ thay, chúng tôi chỉ nhìn thấy ngọn nến độc giữa đầm lầy. Chung quanh hề có dấu hiệu của sống. - Cần làm gì bây giờ? - Chờ lát. ở gần đây thôi. Tôi chưa kịp xong thấy . Bên trong kẽ đá, nơi đặt cây nến, ló ra khuôn mặt xấu xa, đấy hề thấy dấu vết khuôn mặt người. Bộ mặt bết đầy bùn, râu lởm chởm, mớ tóc rối tung, trông như trong số những người tiền sử từng sống ở đây. Ngọn lửa cây nến phản chiếu trong cặp mắt bé ranh mãnh, thâm độc nhìn vào mọi hướng. Đấy đúng là cặp mắt của con thú khi nhận ra tiếng bước chân của người thợ săn trong đêm tối. Có lẽ điều gì đấy đánh thức mối hoài nghi ở . Chỉ loáng sau thổi tắt ngọn nến và lẫn vào trong bóng tối. Tôi chạy về phía trước, ngài Nam tước chạy sau tôi. Tên tù khổ sai la lên tiếng, viên đá bay vèo về phía chúng tôi, văng ra làm nhiều mảnh sau khi đập vào tảng đá bên cạnh. Tôi kịp nhìn thấy mập lùn, vai rộng. Đúng vào lúc ấy, mặt trăng ra. Chúng tôi leo lên quả đồi, còn tên tù khổ sai lao nhanh theo sườn bên kia, nhảy qua những tảng đá với khéo léo của con dê núi. phát đạn có thể làm bị thương, nhưng tôi mang súng ngắn theo chỉ để phòng thân chứ phải để bắn vào lưng người có vũ khí. Chúng tôi cố sức đuổi theo. lên hồi lâu ở phía trước và cuối cùng chuyển thành điểm chuyển động sườn đồi. Khoảng cách giữa chúng tôi và càng tăng thêm, chúng tôi hoàn toàn kiệt sức, ngồi những tảng đá, đưa mắt nhìn bóng mất hút dần. Chúng tôi quyết định đuổi theo nữa. Mặt trăng ở bên phải chúng tôi, đỉnh cột đá hoa cương nổi mồn . Ngay cột đá này tôi nhìn thấy hình người bất động tựa như bức tượng bằng gỗ mun. Tôi nhìn thấy đó là người cao gầy. đứng, chân hơi dang ra chút, hai tay đặt lên ngực, đầu cúi xuống, hình như đăm chiêu ngắm nhìn vương quốc của than bùn ở phía trước mặt. Đó phải là tên tù khổ sai. ở cách xa nơi tên tù nấp, đồng thời cao hơn. Tôi rú lên kinh ngạc, chỉ cho Nam tước xem, nhưng thoáng sau, người ấy mất hút. Đỉnh cột đá hoa cương nhọn hoắt vẫn như trước đây, nhưng hình người bất động đó còn nữa. Tôi quyết định tới đó, xem xét cột đá này, nhưng Nam tước muốn phiêu lưu. Ngài chưa yên lòng sau tiếng rú kinh hoàng nhắc ngài nhớ tới truyền thuyết huyền ảo nọ. Hơn nữa, chính ngài lại nhận thấy điều gì, và thể chia sẻ xúc động của tôi. - Chắc có lẽ là lính canh. Từ khi có vụ vượt ngục, khu đầm lầy nhan nhản lính canh - Ngài . Có lẽ ngài đúng, Holmes thân mến. Hôm nay chúng tôi biết được nơi nấp của tên tù vượt ngục. Nhưng tiếc là tóm được . Các cố trong đêm gần đây là như thế. Holmes thân mến, cần phải thừa nhận đây là bản phúc trình hoàn toàn đầy đủ về cố này. Phần lớn các câu chuyện của tôi có quan hệ nào tới vụ án, nhưng tôi coi việc thông báo tất cả những kiện trong các bức thư của mình là việc làm cần thiết. Hãy chọn lựa ở trong đó những gì có lợi cho . Chúng ta có những thành công nào đấy. Tuy nhiên, bí mật của khu đầm lầy than bùn vẫn còn nguyên. Có thể trong lá thư tiếp theo, tôi ít nhiều phanh phui được tấm màn che đó. Tốt hơn cả là hãy thân hành đến đấy!
Chương 10: Những đoạn trích từ nhật ký của bác sĩ Watson Lâu đài Baskerville, 16 tháng 10. Ngày ảm đạm, mưa lất phất. Những đám mây đen trôi rất thấp lâu đài Baskervilles, đôi khi chúng tản ra, lúc ấy xuyên qua luồng ánh sáng phía xa nổi lên khoảng rộng của vùng đầm lầy than bùn, đó những sườn núi và những tảng đá ẩm ướt lấp lánh ánh bạc. Những ngôi nhà dưới bầu trời hé mở chỉ phủ lên vẻ sầu thảm ở khắp mọi nơi. Sau cơn thử thách đêm qua, thần kinh của Nam tước như chùn lại. Linh cảm về tai họa tránh khỏi day dứt tôi. Phải chăng có cơ sở để lo ngại? Chỉ cần nhớ tới chuỗi kiện chứng tỏ tồn tại của những lực lượng hắc ám vây bọc chúng tôi. Cái chết của ngài Charles hoàn toàn phù hợp với truyền thống về gia đình ông, những lời đồn đại giữa các điền chủ về con quái vật xuất khu đầm lầy. Chính tai tôi hai lần nghe những thanh giống tiếng chó sủa. Chẳng lẽ tất cả điều đó lại nằm ngoài qui luật của tự nhiên hay sao? Con chó hư ảo để lại dấu vết mặt đất chính là con chó rống to lên đó chăng? , điều đó quá quắt! Stapleton và Mortimer có thể ngả theo tâm trạng chung, thế nhưng trí óc lành mạnh khi nào tin vào những điều mê tín. Tuy vậy, thực vẫn là thực: Tôi hai lần có dịp nghe tiếng rống này. Nếu thực có con chó khổng lồ nào đó chạy khắp khu đầm lầy sao? Khi ấy tất cả trở nên dễ hiểu. Nhưng nó náu ở đâu, nó ăn gì, nó từ đâu sinh ra, tại sao ai nhìn thấy nó ban ngày? Tuy nhiên, nếu gác chuyện con chó qua bên, phải giải thích ra sao về những kiện xảy ra ở London? Con người bí xe mui, bức thư mà tác giả của nó van nài ngài Henry đừng vào khu đầm lầy. Người này còn ở lại London hay theo chúng tôi về đây? Phải chăng... Phải chăng tôi trông thấy đỉnh cột đá hoa cương? ra mới loáng thoáng ra trước mắt tôi, nhưng tôi nhớ lấy nét gì đấy. phải là dân địa phương. Giờ đây, tôi biết tất cả láng giềng của ngài Henry. cao hơn Stapleton và gầy hơn Frankland. Có thể lẫn với Barrymore, song Barrymore ở lại nhà. Barrymore thể lẫn đằng sau chúng tôi đến mức thể nhận thấy được. Bởi vì, ở đây cũng như ở London có kẻ lạ mặt nào đó theo dõi chúng tôi. Nếu như tôi thành công trong việc săn lùng con người này mọi nỗi băn khoăn của chúng tôi được giải quyết. Đấy là mục tiêu của tôi, và tôi huy động tất cả sức lực của mình để đạt được mục tiêu này. Ý định trước tiên của chúng tôi là cần trao đổi các kế hoạch của mình với ngài Henry. Nhưng, sau khi suy nghĩ kỹ, tôi quyết định tiến hành độc lập trò chơi này và càng ít hơn về nó. Nam tước im lặng và mải mê với ý nghĩ của mình. Tiếng rống chúng tôi nghe thấy khu đầm lầy tác động tới ngài rất mạnh. Tôi quyết định làm tăng thêm nỗi lo ngại của ngài, nhưng tôi rời vũ khí, hứng chịu mọi trách nhiệm khi hành động. Hôm nay, sau bữa sáng, Barrymore cầu ngài Henry cho phép được chuyện với ông ta và họ lui đến phòng làm việc. Tôi ngồi ở phòng chơi bi-da, nghe giọng cao hơn lúc bình thường của họ. Lát sau cửa phòng làm việc mở ra, Nam tước gọi tôi đến, : - Barrymore trách chúng ta truy nã em vợ của ông sau khi chính ông ta cho chúng ta biết điều bí mật. Barrymore đứng tái mặt, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh. - Có lẽ tôi quá nóng nảy, thưa ngài, xin hãy thứ lỗi cho tôi. Nhưng tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe tiếng những bước chân của các ngài vào lúc rạng sáng, tôi hiểu rằng các ngài muốn lùng bắt Selden. Cậu ấy có quá đủ kẻ thù rồi! - Nếu ông tự nguyện phát giác Selden đấy là chuyện khác - Nam tước - Nhưng đằng này, chính vợ ông thú nhận do sức ép của chúng tôi. Ông chẳng phải áy náy chút gì ở trong lòng cả. - Tôi nghĩ là ngài lợi dụng cơ hội. tình, tôi chẳng nghĩ như vậy. - Selden nguy hiểm cho xã hội. chịu dừng chân trước bất kỳ việc gì cả. Ông nên nhớ là nhà cửa ở đây thưa thớt. Hãy nghĩ tới gia đình Stapleton chẳng hạn. Trong trường hợp bị tiến công, ông ấy làm sao mà tự vệ được. , chừng nào con người này còn chưa bị khoá chân khóa tay chúng ta chưa thể cảm thấy an toàn. - Selden đụng tới ai đâu, thưa ngài, xin thề với ngài đấy! Cậu ấy giờ đây đáng sợ đối với dân địa phương nữa. Chỉ vài ngày nữa là mọi chuyện được giải quyết ổn thỏa, cậu ấy đến Nam Mỹ. Tôi van ngài, xin đừng báo cho cảnh sát. Họ ngừng việc tìm kiếm và cậu ấy có thể yên lòng chờ tàu thủy. Nếu ngài tố giác, tôi và vợ tôi tránh khỏi tai họa đâu. - Watson, ông nghĩ sao? Tôi nhún vai: - Nếu con người này khỏi nước những người dân thường sống thoải mái hơn. - Đột nhiên gây ra tai họa nào đó trước khi sao? - thể thế được, thưa ngài! Cậu ấy quả phải là thằng điên? Tội ác mới làm lộ tẩy cậu ấy. - Đúng vậy - Ngài Henry - Được rồi, Barrymore. - Xin Chúa phù hộ ngài! Nếu cậu ấy bị bắt lại vợ tôi chết mất! - Watson này chúng ta che chở tội phạm. Nhưng nghe Barrymore van nài, tôi thể làm khác được. Ông có thể được rồi, Barrymore! Với giọng run run, viên quản lý lúng búng vài lời cám ơn và ra, nhưng khi đến ngưỡng cửa, ông ta đột nhiên dừng lại: - Ngài đối xử với tôi tốt đến mức tôi muốn trả ơn ngài bằng cách nào đấy - ông ta bắt đầu được quả quyết lắm - Tôi có biết điều nào đó, ngài Henry. Đáng lẽ tôi phải sớm hơn, nhưng tôi chỉ khám phá ra sau cuộc điều tra... Tôi chưa hề chuyện với ai về chuyện đó về cái chết của ngài Charles. Tôi và Nam tước cùng nhổm phắt dậy: - Ông có biết lý do ngài Charles chết? - , thưa ngài. - Vậy sao? - Tôi biết tại sao ngài Charles đứng cạnh cửa hàng rào vào thời gian muộn màng như thế. Ngài có hẹn gặp người đàn bà. - Hẹn gặp người đàn bà? Ngài Charles có hẹn gặp người đàn bà? - Vâng, thưa ngài! - Người đàn bà ấy là ai vậy? - Tôi chỉ biết tên bà ta bắt đầu bằng hai chữ “L.L.”. - Do đâu ông biết được điều này, Barrymore? - Vào sáng hôm đó, bác ngài có nhận thư. Thường có rất nhiều thư chuyển đến. Nhưng sáng hôm ấy chỉ có lá thư chuyển đến nên tôi nhớ . Nét chữ phong bì là nét chữ đàn bà, dấu bưu điện có hàng chữ Coombe Tracey. - Rồi sao nữa? - Tôi quên hẳn lá thư này nếu có vợ tôi. Vài tuần sau đó, ấy có lên dọn dẹp phòng làm việc của ngài Charles. Đó là lần đầu tiên chúng tôi lên đấy sau khi ngài qua đời. Vợ tôi tìm thấy trong góc sâu của lò sưởi mảnh giấy . Phần lớn mảnh giấy thành tro, nhưng còn mẩu - phần cuối cùng nguyên vẹn. Có lẽ đấy là đoạn tái bút, chúng tôi đọc thấy thế này: “cầu mong ngài xử như bậc quân tử, hãy đốt lá thư này ở cạnh cửa hàng rào vào lúc 10 giờ tối”. Phía dưới có hai chữ cái “L.L.”. - Ông còn giữ mảnh giấy đó ? - , nó nát vụn trong tay tôi. - Trước đấy, ngài Charles có nhận được lá thư nào được viết bằng nét chữ ấy ? - Tôi biết. - Ông biết người đàn bà “L.L.” hay sao? - , thưa ngài. Nhưng tôi cho rằng giá chúng ta tìm được người đàn bà này, chúng ta biết các chi tiết liên quan tới cái chết của ngài Charles. - Tôi quả hiểu nổi ông, ông Barrymore ạ? Vì sao ông giấu những tin tức quan trọng như thế cho đến bây giờ? - Ngài có biết , thưa ngài, sau đó nỗi bất hạnh giáng xuống chính chúng tôi. Ngoài ra tôi và vợ tôi quên những ân huệ của ngài Charles. Chúng tôi nghĩ tới bới lại chuyện cũ mà làm gì? Nó giúp ích gì cho ông chủ bất hạnh của chúng tôi. - Được Barrymore, ông có thể được rồi. Lúc viên quản lý khỏi, ngài Henry quay lại chỗ tôi. - Này, Watson, ông nghĩ sao về tia sáng mới mẻ này? - Theo tôi, nó làm cho bóng tối càng tối hơn. - Vâng, đúng vậy, nhưng nếu lần ra được cái người đàn bà “L.L.” ấy mọi chuyện được sáng tỏ đấy. Chỉ cần tìm được người đàn bà ấy, nhưng bằng cách nào đây. - Cho Holmes biết. Có lẽ đây là chỉ dẫn mà ấy còn thiếu. Tôi tin rằng ấy đến đây. Tôi lui về phòng làm việc, viết gửi Holmes bản phúc trình chi tiết về các kiện sáng nay. 17 tháng 8 Hôm nay mưa suốt ngày. Những giọt mưa nặng nề xào xạc trong đám trường xuân. Tôi nhớ đến tên tù khổ sai lẩn lút trong vùng sâu của khu đầm lầy buồn bã và trống trải. kẻ đáng thường! Dù gây ra những tội ác gì cũng chịu thống khổ để chuộc tội. Và sau đấy, tôi nhớ tới người, người khác... Bộ mặt thấp thoáng trong ô cửa sổ xe mui, thân hình mờ ám. Chẳng lẽ, kẻ bí mật theo dõi khó nhận ra ấy, kẻ tiếp tay cho bóng đêm ấy lúc này cũng đảng lang thang dưới trời mưa tầm tã. Buổi chiều, tôi khoác áo mưa, vào vùng sâu của khu đầm lầy, trong óc luôn lên bức tranh đen tối. Mưa tạt vào mặt, gió rít bên tai. Vào thời tiết như thế này, đến ngay những quả đồi ở đây cũng biến thành bãi lầy đặc sệt. Tôi tìm cột đá được xếp thành những bậc đều nhau, đó có người đứng đưa mắt nhìn xuống khu đầm lầy. Những dòng nước mưa chảy xiết đổ xuống các chỗ thấp màu nâu, và xuyên qua những đám mây nặng xám đen bay là là mặt đất, và xuyên qua những đám mây là hình ảnh những ngôi nhà kỳ quái ra. Xa xa, từ phía tay phải tôi, những chiếc tháp hẹp mờ mờ của lâu đài Baskerville nổi lên phía cây cối. ở đâu còn dấu vết nhất của người lạ mà tôi trông thấy hai đêm trước đây chính cột đá nọ. đường tôi quay trở lại, bác sĩ Mortimer chiếc xe tải từ hướng trang trại Foulmire đuổi kịp tôi. Vào thời gian này, bác sĩ rất quan tâm đến chúng tôi. Hầu như ngày nào là ông tạt qua lâu đài Baskerville thăm hỏi xem chúng tôi sống ra sao. Bác sĩ mời tôi lên xe và đưa tôi về nhà. Ông rất buồn vì con chó săn bị thất lạc. Nó chạy vào khu đầm lầy và trở về nữa. Tôi an ủi bác sĩ, còn chính mình nhớ lại con ngựa sa lầy ở vùng đầm lầy và cho rằng chưa chắc ông còn có dịp gặp lại con chó. - Nhân tiện xin hỏi thêm - Tôi - Có lẽ ông biết hết những người ở trong khu vực này chứ? - Tôi nghĩ mình biết tất cả. - Vậy chắc ông biết tên, à họ của người đàn bà có các chữ cái đầu là “L.L.”? - . Có số người gypsy và những người làm việc ở các trang trại mà tôi biết , nhưng trong số những điền chủ và những nhà quí tộc hình như có ai có tên và họ khởi đầu bằng chữ đó. Hượm ! - Sau khi ngừng lời, ông thêm - Laura Lyons nào đó, đấy là “L.L” của ông chăng. Thế nhưng ta sống ở tận Coombe Tracey kia. - Là ai vậy? - Tôi hỏi. - Con của ông Frankland. - Ôi! Con của lão gàn dở ấy à? - Phải. ta lấy họa sĩ, có họ là Lyons. là tên vô lại và bỏ rơi ta. Người cha cũng thừa nhận , bởi vì ta lấy chồng được chấp thuận của cha và có thể chỉ bởi lý do đó đâu. Tóm lại, đấy là hai kẻ vô công rồi nghề - già trẻ - ra sức đày đọa người đàn bà bất hạnh bằng tất cả những gì có thể làm được. - Vậy ta sống bằng cách nào? - Ông già Frankland cũng cho ta cái gì đó, lẽ tất nhiên nhiều. Những cái gọi là tội lỗi của chỉ là vậy thôi, chớ nên làm cho ấy bị đẩy xuống thấp hơn mà làm gì. Chuyện này mọi người ở đây đều biết. Những láng giềng, ngay cả Stapleton và ngài Charles cũng giúp , tạo điều kiện cho sống cách lương thiện. Tôi cũng quyên góp cái gì đó. Chúng tôi muốn ta tập đánh máy. Holmes thân mến. Sáng mai tôi Coombe Tracey, và nếu tôi gặp được người đàn bà có cái tên ấy, chúng tôi tiến được bước đáng kể. Nhân thể thêm, kẻ phục vụ ngoan ngoãn của , dần dà biến thành con quái mất rồi. Lúc Mortimer mới gạn hỏi vì sao tôi quan tâm tới bà “L.L.” tôi chuyển sang hỏi ông ta xem xương sọ của Frankland thuộc kiểu nào và thế là tôi cứu vãn được tình thế. Sau đó đoạn đường còn lại, tôi chỉ còn nghe giảng về môn khoa học nghiên cứu sọ người và động vật. Để kết thúc lá thư này, tôi xin nhắc lại cuộc trò chuyện với Barrymore. Mortimer ở lại chỗ chúng tôi, và sau bữa trưa, họ cùng với Nam tước tổ chức chơi bài. Viên quản lý đem cà phê vào phòng làm việc cho tôi, và tôi cầu ông ta trả lời vài câu hỏi. - Này Barrymore, em vợ ông khỏi khu đầm lầy chưa? - Tôi biết, thưa ngài. Mong sao cậu ấy mau chóng rời khỏi đây! Từ lúc tôi mang thức ăn cho chú ấy lần cuối cùng cách đây ba ngày, tôi biết điều gì về chú ấy nữa. - Vậy là ông gặp ta? - , thưa ngài. Nhưng hôm sau tôi thấy thức ăn ở đó nữa. - khi thức ăn còn, nghĩa là ta vẫn còn ở đấy. - Hình như thế, thưa ngài, nếu có người nào khác lấy thức ăn. Tôi bưng cà phê định uống ngừng lại giữa chừng. Tôi nhìn thẳng vào Barrymore. - Ông biết là ở đấy có người à? - Vâng, thưa ngài, đầm lầy còn có người khác lẩn trốn. - Ông thấy người ấy ra sao? - , thưa ngài. - Vậy làm sao ông biết? - Selden cho tôi biết mười ngày trước đây. cũng trốn tránh, nhưng theo tôi, con người này phải là tù khổ sai. Tôi ưa chuyện đó, bác sĩ Watson ạ, tôi ưa chuyện đó chút nào? - Ông bạn của tôi, ở đây tôi hành động chỉ theo những cầu của chủ ông. Tôi đến đây là để giúp ngài. Vậy, Barrymore, ông hãy thẳng ra cho tôi biết: Cái gì khiến ông ưa thích vậy? - Tất cả những gì diễn ra ở đây. Cuối cùng ông ta thốt lên sau khỉ chỉ vào ô cửa sổ quay ra khu đầm lầy. Người ta toan tính việc làm mờ ám. - Giờ đây tôi chỉ muốn điều: Ngài Henry hãy mau chóng ngay, tới London. - Cái gì khiến ông lo lắng quá? - Ông hãy nhớ tới cái chết của ngài Charles! Ban đêm hãy lắng nghe những gì xảy ra ở khu đầm lầy. Con người này lẩn lút ở đấy và theo dõi người nào đó, ai vậy? , điều đó tốt đẹp cho tất cả những ai có cái họ Baskerville. Tôi rất sung sướng vào cái ngày những người phục vụ mới của Henry đến thay chỗ tôi. - Hãy kể cho tói biết về con người ấy ! Ông biết gì về ta? Selden gì vậy? ta biết nấp ở đâu và để làm gì chứ? - Selden gặp hai lần, nhưng thận trọng và tinh quái. Ban đêm, Selden lầm với cảnh sát, rồi sau đấy chú ấy dám chắc rằng phải như vậy. Nhìn bề ngoài, có vẻ người thành thị, nhưng cậu ta đoán ra làm gì. - nấp ở đâu? - Trong những hang động cổ xưa các triền núi. - Nhưng sống bằng cách nào? - Có chú bé nào thường đến chỗ . Cậu ta mang theo đồ ăn và những thứ khác từ Coombe Tracey tới. - Thôi được, Barrymore, vào lúc khác chúng ta chuyện thêm về điều đó. Lúc viên quản lý ra khỏi phòng, tôi dừng lại cạnh cửa sổ xuyên qua tấm kính mờ, tôi đưa mắt nhìn những đám mây trôi nhanh bầu trời và những lùm cây bị gió quật mạnh. Vào thời tiết này ngay ở trong nhà còn thiếu tiện nghi, gì đến trong hang đá ở khu đầm lầy. Lòng oán thù sôi sục nào khiến mai phục ở nơi như thế vào thời điểm như vậy? Cái gì thúc đẩy con người ấy vào cơn thử thách cực kỳ gian khổ này!
Chương 11: Người đứng cột đá hoa cương Vào tối hôm đó, tôi kể được cho Nam tước nghe về Laura, vì bác sĩ Mortimer ngồi chơi bài với ngài đến tận khuya. Nhưng vào ngày hôm sau, trong lúc ăn sáng, tôi thông báo với ngài về khám phá của mình và mời ngài Coombe Tracey cùng với tôi. Ban đầu ngài đồng ý nhưng sau đó ngài cho rằng tôi nên mình. Cuộc viếng thăm này càng chính thức bao nhiêu tin tức thu được càng ít bấy nhiêu. Khi đến gần Coombe Tracey, tôi bảo dừng ngựa, dò hỏi về người đàn bà. Việc tìm kiếm khó khăn lắm. Ngôi nhà nằm ở ngay giữa làng. cần lễ nghi thủ tục gì cả, người gia nhân dẫn tôi vào phòng khách, nơi có người đàn bà ngồi sau máy chữ. Với nụ cười, ta đứng dậy đón tôi, nhưng khi nhận ra tôi là người lạ, lại ngồi xuống ghế, hỏi về mục đích cuộc viếng thăm. Ngay từ phút đầu tiên, sắc đẹp của làm tôi kinh ngạc. Cặp mắt nâu sáng, tóc màu hạt dẻ, nước da mịn màng ửng đỏ đôi má điểm nhiều tàn hương. Đó là nước da tuyệt đẹp của đóa hồng bạch giấu trong trái tim. Tôi xin nhắc lại, ấn tượng ban đầu là rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau khi nhìn kỹ, tôi cảm thấy dung nhan của có thiếu hài hòa. khuôn mặt ấy có cái gì đó thô thiển, cứng rắn. - Tôi có hân hạnh được quen biết cụ thân sinh - Tôi . - Tôi còn gì liên quan đến cha tôi nữa. Tôi cắt đứt mọi quan hệ với ông ấy và tôi thể coi bạn của ông ấy là bạn của mình được. Nếu có ngài Charles và vài người từ tâm khác tôi chết đói rồi. - Tôi muốn chuyện về ngài Charles. Những nốt tàn nhang khuôn mặt tái nhợt của . - Có chuyện gì khiến ngài quan tâm vậy? - ta hỏi, những ngón tay xúc động chạm vào các phím máy chữ. - quen biết ngài chứ? - Nếu tôi còn có thể xoay xở mà sống được, đó là nhờ có ngài ấy. - trao đổi thư từ với ngài phải ? Người đàn bà nhìn tôi rất nhanh và trong đôi mắt bừng lên tia lửa độc ác. - Hãy cho tôi biết mục đích của những câu hỏi này. - Để tránh vụ tai tiếng hay. Nào, chúng ta cùng bàn chuyện ở đây, nếu đến lúc điều đó nằm ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta. Người đàn bà càng tái nhợt hơn. im lặng hồi lâu. Sau đấy nhìn tôi và , giọng thách thức: - Được, ông muốn biết gì nào? - trao đổi thư từ với ngài Charles? - Vâng, tôi hai lần viết thư cảm ơn ngài. - còn nhớ ngày tháng của lá thư ấy ? - . - ít khi trao đổi thư từ với ngài, ít khi gặp gỡ ngài. Tuy nhiên ngài lại rất quan tâm tới công việc của . Điều ấy giải thích thế nào? cần phải suy nghĩ, bà ta trả lời ngay câu hỏi hóc búa của tôi: - Có nhiều người biết quá khứ đau buồn của tôi, và giúp đỡ tôi. người trong số họ là ông Stapleton: ngài Charles quen tôi là nhờ có ông Stapleton giới thiệu. - Trong các lá thư gửi cho ngài Charles, bà có hẹn gặp riêng ngài ? tức giận đỏ mặt: - Tôi coi câu hỏi như thế là thích hợp, thưa ông? - Hãy thứ lỗi cho tôi, thưa , nhưng tôi phải buộc lòng nhắc lại câu hỏi đó. - Được, tôi trả lời: Tất nhiên, ! - Ngay cả vào cái ngày mà ngài Charles qua đời cũng thế? Trong khoảnh khắc, nước da đỏ đắn má dịu hẳn . Nét mặt quay về phía tôi phủ vẻ nhợt nhạt. Cặp môi khô lại run run và tôi thấy trước là tiếng “” nữa được thốt ra. - Trí nhớ bội bạc với phải. Tôi có thể trích câu từ bức thư của bà. Ở đấy viết thế này: “cầu mong ngài xử như bậc quân tử, hãy đốt lá thư này, và hãy ở cạnh cửa hàng rào lúc 10 giờ tối!”. Tôi ngỡ rằng chỉ giây sau là Laura ngất xỉu , thế nhưng tự kiềm chế được mình. - Nghĩa là dời này hề có người đàn ông chân chính? - công minh với ngài Charles. Ngài thực đúng cầu của . Nhưng có người đọc lá thư bị cháy. Bây giờ hãy thú nhận . viết thư cho ngài ngày hôm ấy phải ? - Vâng, tôi viết. Tôi làm gì phải chối? - thốt lên - Tôi hề hổ thẹn vì lá thư này. Tôi cầu được chuyện với ngài và tin rằng ngài từ chối việc giúp đỡ tôi. - Nhưng tại sao lại vào giờ khuya khoắt như vậy? - Tôi vừa biết là hôm sau ngài London, có lẽ phải tới vài tháng. Tôi thể tới đấy sớm hơn. - Tại sao là hẹn gặp ngài ở ngoài trời mà ở trong nhà? - Theo ông, người đàn bà có thể xuất mình ở nhà người chưa có gia đình vào lúc muộn mằn như thế hay sao? - Thôi được. Chuyện gì xảy ra lúc đến chỗ hẹn? - Tôi tới đó. - Laura? - Xin thề với ông, tất cả chuyện ấy là thiêng liêng đối với tôi tôi đâu cả. Tôi bị ngăn cản. - Cái gì cản trở ? - Đây là việc riêng của tôi, tôi thể được. - Như vậy, đúng vào lúc ngài chết, có mặt tại điểm hẹn? - là thế! Tất cả những mưu chước của tôi dẫn tới đâu cả, ta vẫn đứng nguyên ở vị trí của mình. - Laura, muốn và bởi thế chịu trách nhiệm về điều đó. Nếu tôi nhờ cảnh sát thanh danh của bị tổn hại. Giả sử là có lỗi lầm gì cả, vậy tại sao ngay từ đầu chịu nhận gửi thư cho ngài Charles vào ngày ngài qua đời? - Tôi e rằng người ta hiểu lầm và tôi gặp những chuyện chẳng dễ chịu gì. - Vì sao khẩn khoản cầu ngài Charles hủy bức thư? - Nếu đọc lá thư ông vì sao rồi. - Tôi là tôi đọc lá thư. - Ông nhớ trọn vẹn câu kia mà. - Chỉ là phần tái bút thôi. Tôi với là lá thư bị đốt, ai đọc được toàn bộ lá thư. Xin nhắc lại câu hỏi của tôi lần nữa: Vì lẽ gì mà khẩn khoản cầu ngài Charles hủy lá thư? - Điều đó chỉ có liên quan đến tôi thôi. - Vậy cần phòng ngừa cuộc điều tra công khai đấy. - Được tôi kể cho ông nghe tất cả. Ông biết rằng tôi lấy chồng cách hấp tấp và tôi phải luyến tiếc về điều đó. - Vâng, tôi biết điều đó. - Tôi muốn chia tay với người đàn ông độc ác đó. Nhưng cứ ép buộc tôi phải sống chung. Trước khi viết thư cho ngài Charles, tôi biết rằng tôi có thể được tự do, nhưng phải có tiền... Biết tấm lòng hào hiệp của ngài Charìes, tôi nghĩ: “Nếu cho ngài biết về nỗi cay đắng của mình, chắc ngài từ chối”. - Vậy tại sao đến nơi hẹn? - Bởi vì tôi nhận được giúp đỡ của người khác. - Vậy cần phải viết thư vì sao bà đến được? - Tôi làm như thế nếu tôi đọc bài báo viết về cái chết của ngài vào sáng hôm sau. Câu chuyện hoàn toàn chặt chẽ; những câu hỏi của tôi thể làm lay chuyển vẻ hợp lý của nó. Chỉ có thể kiểm tra tất cả điều này bằng cách: làm sao biết được Laura có định ly dị với chồng vào thời gian xảy ra vụ án mạng hay . Tôi từ biệt , rối trí và chán chường. Tuy nhiên khi nhớ lại khuôn mặt của người phụ nữ, cách cư xử của vào thời gian chuyện, tôi càng ngày càng tin rằng ta còn giấu nhiều điều. Tại sao ta đột nhiên tái xanh như thế? Tại sao ta buộc phải thú nhận từng điều chỉ sau khi bị bắt bẻ? Tại sao ta đến nơi hẹn vào lúc tấn bi kịch xảy ra? Chắc mọi chuyện đó đơn giản. Quả thể làm gì thêm ở đây nữa. Buộc phải lần theo những dấu vết khác đưa tới các hang đá khu đầm lầy vậy. Barrymore rằng người lạ náu tại trong những hang động bỏ hoang, nhưng ở đây có vô số hang động. May mắn là tôi nhìn thấy con người ấy đỉnh cột đá hoa cương. Như vậy, cần bắt đầu tìm kiếm ở đấy Tôi khám xét từng hang động ở chỗ đó, tôi buộc phải tự xưng danh, phải thú nhận là tại sao lại đeo đẳng việc theo dõi chúng tôi. Nếu cần, tôi phải dùng súng. thoát khỏi tay Holmes đường phố đông người Regent; còn ở đây, khu đầm lầy trống này, làm nổi điều đó. Tôi rất hân hoan nếu truy lùng được và làm vẻ vang cho ông thầy của tôi. Biết bao lần may mắn chống lại chúng tôi, nhưng giờ đây nó quay lại giúp tôi dưới bộ cánh của ông Frankland. - Chào bác sĩ Watson! - ông Frankland chào hỏi hết sức vui vẻ - Hãy cho ngựa nghỉ ngơi chút ? Rẽ vào đây uống cạn chén, mừng tôi. Sau khi biết mối quan hệ của ông Frankland với con , tôi thể có tình thân ái với ông. Tuy nhiên, vì tôi cần cho người đánh xe ngựa trở về nhà, để mình nên tôi trườn ra khỏi xe ngựa, dặn người đánh xe ngựa báo cho ngài Henry biết là tôi trở về vào lúc ăn trưa, rồi theo Frankland đến thẳng phòng ăn. - Hôm nay là ngày trọng đại - ông ta trong tiếng cười thích thú - Tôi thắng hai vụ kiện liền. Bây giờ, bọn người ở đây hiểu rằng luật pháp là luật pháp, rằng tôi sẵn sàng giáng đòn trừng phạt xuống đầu những kẻ biết điều. Tôi đạt được quyền tự do qua vườn của ông già Middleton. Họ đáng nguyền rủa! Họ hãy biết rằng ai được phép chà đạp lên những luật lệ hương thôn mà bị trừng trị. Ngoài ra, tôi cũng rào con đường vào rừng, nơi bọn người của lão Fernworthy thường đến cắm trại. Họ tưởng rằng họ có thể để lại những chai và những mẩu giấy vụn ở đâu cũng được! Hai vụ án kết thúc và cả hai đều có lợi cho tôi, thưa bác sĩ Watson. Từ lâu tôi chưa có ngày sung sướng như thế kể từ khi tôi bắt ngài John Morland phải chịu trách nhiệm về việc săn bắn trái phép ngay trong rừng săn của ông ta. - Ông đạt được điều đó bằng cách nào vậy? - Ngài hỏi cái phòng lưu trữ của tòa án ấy, thưa ngài. Đáng công đọc lắm, thưa ngài. - Frankland chống Morland - Vụ án lan tới London. Nó làm tôi tốn phí đến 200 bảng, nhưng tôi thắng ông ta. - Vụ này đem lại cho ông cái gì? - có gì cả, hoàn toàn có gì cả. Tôi chỉ thực cái nghĩa vụ công dân của mình. Nhưng đêm nay dân làng lại đốt hình nộm của tôi, nhà chức trách ở địa phận chúng ta xử hoàn toàn đáng hổ thẹn, thưa ngài? Tôi có quyền nhờ cậy vào bảo trợ của họ, thế mà họ bảo vệ tôi? Ngài hãy nhớ đấy, rồi đây vụ án “Frankland chống Nữ hoàng” thu hút chú ý của xã hội cho mà coi. - Bằng cách nào vậy? Ông già ném cho tôi cái nhìn nhiều ý nghĩa: - Vì tôi có thể cho họ biết chuyện mà họ thèm khát muốn biết. Nhưng tôi giúp những tên vô lại ấy. Tôi nóng lòng tìm cớ nào để mau chóng thoát khỏi ông già ba hoa này, thế nhưng những lời sau cùng của ông ta khiến tôi lưu tâm. Vì vậy, khi ông vừa ngừng lời, tôi hỏi với giọng dửng dưng: - Có lẽ lại vụ săn bắn trái phép chứ gì? - Ha ha? , ông bạn của tôi ơi, đấy là công việc cực kỳ nghiêm trọng. Nó liên quan tới tên tù khổ sai vượt ngục kia! Tôi giật thót mình: - Ông biết chỗ náu? - Chỗ chính xác tôi biết, nhưng tôi có thể đưa cảnh sát lần theo dấu vết của . Chẳng lẽ để lùng bắt , chúng ta cần biết ai mang đồ ăn cho hay sao? Ông già càng đến gần , tôi càng tỏ ra e dè: - Vâng, đúng vậy. Nhưng làm sao ông biết được tên tù khổ sai vẫn còn lẩn lút ở trong đầm lầy? - chính mắt tôi trông thấy người mang đồ ăn kia mà. Tim tôi thắt lại khi nghĩ tới Barrymore. Nếu ông ta rơi vào tay lão già này tình thế của ông rất nguy nan. - Ngài hãy tưởng tượng xem, thằng nhóc mang đồ ăn - Frankland tiếp tục - Hàng ngày tôi nhìn thấy qua ống viễn kính ở mái nhà tôi. Nó luôn luôn theo con đường và vào thời gian nhất định. Nó gặp ai, nếu phải là tên tù khổ sai? Tôi thở phào nhõm, mừng cho Barrymore. Thế là cuối cùng cái may mắn đến. Nghĩa là Frankland lần ra dấu vết của người trốn trong khu đầm lầy, nhưng đó phải là người tù khổ sai. Nếu tôi có thể moi ở ông già tất cả những gì ông ta biết điều đó giúp tôi đỡ nhọc ông và đỡ tốn thời giờ. - Thế mà tôi cứ tưởng đấy là con trai của người chăn cừu nào ở đấy. Có lẽ chú ta mang đồ ăn cho cha mình. Ông già hách dịch trợn mắt nhìn tôi: - Ngài tưởng thế à? - ông chỉ tay về phía khu đầm lầy, tiếp - Ngài có nhìn thấy cột đá hoa cương kia ? Rồi quả đồi phía sau đó nữa? Đó là nơi nhiều đá nhất cả khu đầm lầy, ở đấy làm gì có cừu? Giả thiết của ngài quả là có cơ sở, thưa ngài. Tôi nhìn nhận là tôi để ý tới điểm này. Frankland thích chí, tiếp tục huyên thuyên: - Thưa ngài, ngài có thể tin rằng bao giờ tôi lại đưa ra những kết luận vội vàng cả. Đâu có phải là lần đầu tôi trông thấy chú bé. Mỗi ngày, cứ hai lần nó... Gượm , ngài Watson?... Đây là ảo giác hay có cái gì chuyển động sườn đồi thế kia? vậy, ở cách tới vài dặm có điểm đen sườn đồi. - Hãy lên đây, thưa ngài, hãy lên đây! - ông già vừa kêu vừa theo cầu thang leo lên - Ngài tận mắt mình nhìn thấy nó. mái nhà bằng phẳng có kính viễn vọng cỡ lớn. Frankland lao nhanh tới ống kính, la thét ầm ĩ: - Mau lên, bác sĩ Watson, mau lên! Nó lẫn vào sau núi mất. Quả vậy, chú bé với tay nải sau vai chậm chạp theo sườn núi leo lên . Rồi chú lên đến đỉnh núi. Hình dáng của chú in lên khoảng trời xanh biếc. Chú bé lén lút đưa mắt nhìn khắp mọi hướng, rồi lẩn vào sau núi. - Thế nào, tôi có đúng ? - Đúng là cậu bé làm việc bí mật. - Tôi thề hé răng nửa lời cho cảnh sát biết, bác sĩ Watson ạ, ngài cũng phải im lặng. Ngài có hiểu ? Tuyệt đối im lặng! - Tùy ý ông thôi. - Họ coi thường tôi. Khi mọi tình tiết của vụ án “Frankland chống Nữ hoàng” được phơi bày làn sóng công phẫn nổi lên khắp đất nước. Thế nào, đến lúc ngài cần rồi phải ? Lẽ nào ngài nốc hết bình rượu để chào mừng kiện đáng vui này hay sao? Tôi từ chối lời mời uống thêm rượu và cũng thuyết phục ông khỏi phải đưa tôi về. Khi ông ta còn có thể nhìn thấy tôi tôi theo đường lớn, nhưng sau đấy tôi rẽ thẳng tới quả núi nhiều đá, nơi chú bé lẩn vào đó. Lúc tôi lên đến đỉnh núi mặt trời khuất. Những triền đồi thoai thoải bên kia chìm trong bóng tối xa xa, ở phía chân trời, đám sương mù bay là là và từ đó ra hình dáng huyền ảo của thị trấn Belliver và Vixentor. Chung quanh vắng vẻ và yên tĩnh. Chỉ có con chim lớn màu xanh tựa như chim hải âu lượn lờ bầu trời xanh thẳm. Con chim và tôi, đấy là hai sinh vật duy nhất giữa vòm trời rộng lớn và vùng đất hoang vắng. Khoảng rộng bao la trần trụi của khu đầm lầy, thiếu vắng con người, bí mật chưa được khám phá, tầm quan trọng của nhiệm vụ đặt ra cho tôi, tất cả làm buốt giá trái tim tôi. trông thấy chú bé ở đâu cả. Nhưng ở giữa các quả núi ngay phía dưới tôi, có những hang đá cổ sơ mà giữa vòng cung của chúng có cái hang, vòm mái vẫn còn nguyên vẹn có thể che chở con người vào lúc thời tiết xấu. Tim tôi đập mạnh khi nhận ra cái hang này. Tôi len lén đến gần cái hang đá vắng vẻ đó. Tôi đến gần hơn và tin rằng nơi đấy có người ở. lối mòn lên lờ mờ giữa tảng đá dẫn tới khe hở dùng làm lối ra vào. Bên trong hoàn toàn im lặng. Con người bí này hoặc trốn tránh ở đây hoặc lang thang khu đầm lầy. Thần kinh tôi căng đến tột độ trong khi chờ cuộc đụng độ. Tôi quẳng điếu thuốc , tay nắm chắc chuôi súng lục, tiến nhanh tới lối ra vào, rồi nhìn vào bên trong: hang đá trống . chiếc giường đá của người thời đại đồ đá có cái mền được bọc trong áo mưa. Trong bếp lò là đống tro, cạnh đó có nồi niêu và chiếc thùng còn đến nửa nước. Đống vỏ đồ hộp rỗng , chứng tỏ có người sống ở đây phải ngày đầu tiên. Và khi mắt quen với cảnh tranh tối tranh sáng, tôi nhìn thấy ở trong góc chiếc ca sắt và chai rượu nặng. Ở giữa là phiến đá bằng phẳng dùng làm bàn, bàn có chiếc tay nải . Trong tay nải có bánh mì và nước trái cây. Sau khi xem xét tất cả những thứ ấy, tôi có ý đặt tay nải trở lại chỗ cũ, đột nhiên trái tim tôi thắt lại. phiến đá có mảnh giấy viết những hàng chữ gì đó. Tôi cầm lấy tờ giấy, và sau khi phân biệt rất khó nhọc những nét chữ viết ngoáy bằng bút chì, tôi đọc được những từ này: “Bác sĩ Watson di đến Coombe Tracey”. Đứng bất động với mẩu giấy trong tay, tôi suy ngẫm về ý nghĩa của lá thư ngắn này. Kẻ lạ mặt phải săn đuổi tôi chăng? phải chỉ mình theo dõi tôi, mà và người khách, có lẽ là chú bé này. Và đây chính là bản báo cáo mới nhất của người ấy? Có lẽ từng bước của tôi đều bị theo dõi từ lúc tôi sống ở đây? Vậy mà trong suốt thời gian ấy, tôi hề có cảm giác rằng ở đây có những lực lượng hoạt động, và những lực lượng đó giăng những tấm lưới tinh vi nhất mà mãi tới bây giờ mới cảm thấy rung động mỏng mảnh của tấm lưới ấy! Tôi đưa mắt nhìn khắp mọi phía nhưng tìm thấy cái gì thêm nữa. Tôi tìm được những dấu vết qua đó có thể phán đoán về , về những ý định của . Chỉ có thể như sau về : hình như là kẻ khổ hạnh, coi các tiện nghi sinh hoạt có ý nghĩa gì đáng kể. Nhớ lại những trận mưa vào những ngày gần đây, nhìn khe đá toang hoác ở cửa ra vào của hang đá, tôi hiểu rằng bị cuốn hút vào công việc của mình ghê gớm. là ai vậy? Tôi thề là rời khỏi hang đá khi chưa tìm hiểu tất cả chuyện đó đến nơi đến chốn. Mặt trời lặn, bầu trời ở phía tây đỏ rực, ánh hoàng hôn trải ra mặt nước phía xa của vùng đầm lầy những vệt đỏ sẫm. Xa xa nổi lên những chiếc tháp của lâu đài. Cách xa những chiếc tháp này là làn khói bay lơ lửng mái nhà Grimpen. Giữa mái nhà đó và lâu đài Baskerville, phía sau quả đồi, là ngôi nhà của em Stapleton. Buổi chiều đem lại cho tất cả cảnh vật vẻ êm ả thanh bình. Nhưng tôi lo ngại về bất ngờ khủng khiếp đến gần từng giây. Thần kinh tôi căng thẳng, nhưng tôi ngồi trong hang tối với vẻ hoàn toàn quả quyết, kiên trì chờ đợi kẻ trú ngụ trong hang. Và cuối cùng, tôi nghe tới. Gót giày đụng phải đá. lần... Lại lần nữa... Tiếng những bước chân càng gần hơn, gần hơn nữa... Tôi lùi nhanh vào góc tối nhất, lên cò súng ngắn. Bên ngoài, tất cả đều im ắng, dường như dừng lại. Rồi tiếng những bước chân lại nổi lên, và bóng của ai đó che khuất cửa hang. Bỗng có giọng rất quen thuộc vang lên: - buổi chiều tuyệt vời, Watson! Tại sao lại ngồi tại nơi ngột ngạt như thế, ở ngoài trời dễ chịu hơn nhiều.
Chương 12: Cái chết khu đầm lầy Tôi đứng lặng trong lúc, tin vào tai ình, tôi thể thở được. Sau đấy tài ăn mới trở lại với tôi và tôi cảm thấy sức nặng lớn trút khỏi vai tôi. Giọng xỏ xiên ấy khắp thế giới này, chỉ có thể thuộc về người mà thôi! - Holmes! - Tôi kêu lên - Sherlock Holmes! - Hãy ra đây. Và hãy cẩn thận với khẩu súng đấy! Từ trong hang, tôi bò lần ra và nhận ra . Holmes ngồi phiến đá, nhìn gương mặt kinh ngạc của tôi với vẻ tinh nghịch trong cặp mắt xám của mình. Vào thời gian này, gầy xọp , thế nhưng trông vẫn điềm tĩnh, bàn tay đầy sinh lực, khuôn mặt ngả màu đồng thau vì rám nắng. Trong bộ quần áo thể thao và mũ cát, trông như du khách nhàn nhã. Thậm chí vẫn còn giữ được ưa thích vẻ sạch của loài mèo nữa: Râu được cạo nhẵn nhụi, áo sơ mi có vết dơ. Tưởng như mọi chuyện diễn ra phố Baker vậy. - có xuất nào làm cho tôi sung sướng bằng - Tôi vừa vừa siết chặt lấy . - Đồng thời ngạc nhiên nữa chứ? - Vâng, đúng vậy. - Nhưng phải chỉ mình ngạc nhiên đâu Tôi thể nào ngờ rằng tìm ra nơi của tôi, mà cũng nghĩ được rằng lại gặp ở đây, trước lúc tôi ở cách hang đá hai mươi bước. - trông thấy dấu giày của tôi ư? - ! Nếu muốn đánh lừa tôi, trước tiên hãy thay đổi hiệu thuốc lá . Mẩu thuốc hút dở của nằm lăn lóc cạnh đường mòn. Chắc ném nó từ lúc quyết định đột nhập vào đây. - Phải. - Tôi nghĩ như vậy đấy... Và đoán ra rằng mai phục ở trong hang, với cây súng ngắn. Có đúng là lầm tôi với kẻ phạm tội ? - Tôi quyết định tìm hiểu người khách lạ của đầm lầy. - tuyệt. Mà phát ra nơi trú của tôi bằng cách nào vậy? Có lẽ nhìn thấy tôi vào lúc đuổi bắt người tù khổ sai? - Vâng, tôi trông thấy lúc đó. - lùng sục lần lượt tất cả các hang trước khi chưa đụng phải cái hang này, phải ? - , cậu bé đưa tôi tìm đến dấu vết của . Ở đây có ai đó theo dõi cậu ta. - A, ông già quý phái với ống kính viễn vọng! Tôi nhìn thấy mặt trời lấp lánh ống kính. Ban đầu tôi thể đoán nổi đấy là cái gì cả. A ha! Cậu bé Cartwright có mặt ở đây. Mảnh giấy gì đây? À, Coombe Tracey phải ? - Vâng. - Đến thăm Laura Lyons? - Phải. - Tuyệt lắm! Tôi và ràng là tiến hành song song với nhau. Bây giờ ta cần trao đổi những tin tức thu lượm được. - Tôi rất vui là ở đây! Thần kinh của tôi bắt đầu chùn lại dưới gánh nặng những bí và trọng trách đặt lên tôi. Nhưng lọt vào đấy bằng cách nào? Và ... làm gì ở đây vậy? Thế mà tôi cứ nghĩ rằng ngồi ở đường Baker kia đấy? - Tôi muốn chính nghĩ như vậy! - Thế nghĩa là nhờ cậy giúp đỡ của tôi mà lại tin vào tôi. Tôi nghĩ là tôi xứng đáng được hơn thế chứ? - Ông bạn, trong vụ án này cũng như trong nhiều vụ án khác, giúp đỡ của đối với tôi là vô giá. Nếu cảm thấy là tôi lừa gạt xin tha lỗi! Chân thành mà , tôi cảm thấy là lâm vào vòng nguy hiểm, nên tôi đến đây. Nếu tôi ở cùng chỗ với và ngài Henry kẻ thù cảnh giác đề phòng. Còn ngược lại, tôi có thể hành động rất tự do khi đứng ở sau cánh gà và sẵn sàng bước vào sân khấu vào giờ phút nguy kịch nhất. - Nhưng vì lẽ gì lại phải giấu tôi? - Nếu biết tôi chẳng những lợi gì mà rất có thể bị phát giác? vậy, lúc đó có thể muốn kể cho tôi nghe cái gì đấy, hoặc là nảy ra ý định thu xếp tiện nghi cho tôi ở đây. Tôi mang theo chú bé Cartwright. Chú phục vụ tôi cách tuyệt vời. biết những nhu cầu đơn giản của tôi rồi đấy: Mẩu bánh mì và chiếc cổ áo sạch . Người ta còn cần gì hơn nữa? Ngoài ra, Cartwright còn có cặp mắt rất tinh nhạy và đôi chân rất nhanh nhẹn. - Thế nghĩa là tất cả những bản phúc trình của tôi được viết ra cách vô ích - Tôi run run , sau khi nhớ lại biết bao công sức và niềm tự hào được đặt vào những bản tường trình ấy. Holmes rút từ trong túi ra đống thư tín. - Nó đây này, bạn ơi. Chúng được nghiên cứu tỉ mỉ nhất. Tôi sắp xếp khéo léo đến mức chúng đến với tôi chỉ sau ngày. Xin nồng nhiệt chúc mừng . Lòng kiên trì và tài quan sát mà bộc lộ trong công việc cực kỳ khó khăn này cao hơn bất cứ lời ngợi khen nào. Những lời nồng nhiệt của Holmes làm nguôi cơn tức giận của tôi. Tự trong thâm tâm, tôi thừa nhận rằng vì những đòi hỏi của vụ án, tôi cần thiết phải biết có mặt của ở tại đây. - Vậy đấy! - Holmes vừa vừa nhìn vào khuôn mặt tươi tỉnh của tôi - Còn bây giờ, hãy kể cho tôi nghe cuộc viếng thăm của Laura Lyons ! Tôi đoán ra ngay là đến chỗ ấy, vì tôi đấy là người duy nhất mà chúng ta có thể khai thác được cái gì đó. Thú là nếu hôm nay ở đây chắc có lẽ ngày mai tôi phải thân chinh đến chỗ ta. Mặt trời khuất sau núi, hoàng hôn bao phủ lên khu đầm lầy. Ngoài trời đột nhiên lạnh lẽo, chúng tôi vào trong hang. ở đó tôi ngồi cạnh Holmes, kể cho nghe câu chuyện của mình với Laura. chú ý đến câu chuyện này tới mức nhiều điều phải nhắc lại đến hai lần. Lúc tôi ngừng lời, : - Tất cả chuyện đó là rất quan trọng. Trong vụ án có khoảng trống mà cho tới lúc này, chúng ta vẫn sao lấp cho đầy được. Có lẽ biết Stapleton rất thân tình với Laura chứ? - , tôi hề nghe gì về chuyện đó. - Đó là thực. Họ gặp nhau, trao đổi thư từ với nhau. chung, giữa họ có đồng cảm hoàn toàn, và điều đó trao vào tay chúng ta con chủ bài quan trọng. Nếu đưa con bài này tới vợ của ông ta... - Vợ của ông ta? - Phải, Stapleton ấy, thực chất là vợ của ông ta. - Chúa ơi, Holmes! Vậy mà ông ấy lại cho phép ngài Henry ta? - Những tình cảm lãng mạn của ngài Henry chỉ đem lại tai họa cho chính ngài thôi! nhận thấy là Stapleton bảo vệ ta cách chặt chẽ hay sao. Tôi nhắc lại, người đàn bà ấy là vợ của Stapleton. - Nhưng họ làm cái chuyện rắc rối ấy để làm gì cơ chứ? - Nguyên do thế này: Stapleton nhìn thấy trước là trong vai trò người đàn bà tự do, có lợi nhiều hơn cho ông ấy. Tất cả những mối ngờ vực chưa được sáng tỏ, mọi điều mách bảo của linh cảm tự nhiên lộ hết ra ngoài và tập trung vào nhà tự nhiên học. Từ con người trầm tĩnh với chiếc mũ ghê gớm, mưu mô và kiên nhẫn, liền với nụ cười môi và độc ác thâm hiểm trong lòng. - Nghĩa là đây chính là đối thủ của chúng ta? Nghĩa là theo dõi chúng ta ở London? - Đúng, tôi phanh phui điều bí này. - Còn bức thư cảnh giác...? Có phải do ta gởi ? - Đúng. - có chắc , Holmes? Do đâu mà biết ấy là vợ của ? - Vào cuộc gặp gỡ đầu tiên với , Stapleton cho biết phần tiểu sử của mình. Hình như cho đến giờ, vẫn còn hối hận về chuyện đó. quả có trường học ở miền Bắc nước . Tìm kiếm tin tức người thầy giáo là công việc chẳng khó khăn gì. Để làm việc đó có những cơ sở thông tin ngành sư phạm. Tôi dò hỏi và chẳng bao lâu biết đúng là có những việc may xảy ra trong trường học. Hiệu trưởng của nó (họ của ông ta giống như vậy) cùng vợ trốn . Mọi dấu hiệu trùng hợp hoàn toàn với nhau và khi tôi biết còn ham mê côn trùng học tôi còn nghi ngờ gì nữa. Bóng tối che phủ lấy tôi bắt đầu dần dần tản ra, nhưng nhiều điều vẫn còn nằm trong bóng râm. - Nếu người đàn bà ấy là vợ của . Laura Lyons giữ vai trò gì? - Tôi hỏi. - Sau chuyến của tới Coombe Tracey, nhiều điều bắt đầu sáng tỏ. Ví như, Laura muốn ly dị chồng để kết hôn với Stapleton. Bởi vì ngờ rằng có vợ. - Khi nào ta được biết ? - Khi người đàn bà trẻ ấy trở nên có lợi đối với chúng ta. Ngày mai, cả hai chúng ta cần đến thăm ta. Còn bây giờ, chỗ của là ở lâu đài Baskerville. Những tia đỏ cuối cùng của hoàng hôn phai dần ở phía tây, và đêm tối buông xuống khu đầm lầy. Những ngôi sao nhấp nháy yếu ớt bầu trời tím nhạt. - Còn câu hỏi cuối cùng - Tôi vừa đứng lên vừa - Tất cả chuyện đó nghĩa là thế nào? đeo đuổi mục đích gì? - vụ giết người. vụ giết người được bình tĩnh cân nhắc cách kỹ lưỡng. Stapleton lừa ngài Henry vào lưới của mình, còn tôi lừa vào lưới của tôi. Với giúp đỡ của , hầu như nằm trong tay tôi. Chỉ có mối nguy hiểm đe dọa chúng ta: có thể hành động trước. Còn ngày, quá lắm là hai ngày nữa thôi, tôi chuẩn bị mọi thứ để đến lúc đó che chở ngài Henry như người mẹ thương bảo vệ đứa con. vắng mặt của hôm nay hoàn toàn tha thứ được, nhưng tôi thích đừng để ông ấy ở lại mình. nghe thấy gì ? tiếng gào thét kinh hãi kéo dài, ghê sợ và đau đớn, phá tan bầu khí khu đầm lầy tĩnh mịch. Máu tôi như đông lại. - Chúa ơi! Cái gì vậy? Đó là cái gì vậy? Holmes nhổm phắt dậy, bóng dáng cao của che khuất lối vào hang. cúi người đứng đó. Và sau khi ngoái cổ ra, vừa chăm chú nhìn vào bóng đêm vừa chỉ kịp thầm với tôi. - Im lặng! Hãy im lặng! Tiếng kêu khiến chúng tôi kinh ngạc bởi nó vọng tới từ trong lòng sâu của khu đầm lầy. Nhưng nó vang lên mỗi lúc gần hơn và hơn... - Ở đâu vậy? - Holmes thào và giọng của run run. Đó là giọng của người có thần kinh vững vàng hay sao? Tôi hiểu tiếng thét xuyên vào tận đáy tâm hồn - Tiếng kêu ở đâu vậy, Watson? - Phía này - Tôi đưa tay chỉ vào bóng đêm. - phải, ở phía kia cơ! Tiếng kêu hấp hối lại vang lên trong đêm yên tĩnh, nhưng giờ nó ở gần và hơn nữa. Hoà trộn vào đó là những thanh khác, gầm gừ, trầm trầm. - Con chó đấy! - Holmes kêu lên - Chạy Watson, chạy ! Chúa ơi, chỉ mong sao đừng có muộn quá. chồm vào bóng tối, tôi bám theo sau . Rồi đột nhiên ở nơi nào đó vang lên tiếng la tuyệt vọng và sau đó là tiếng động nặng nề, trầm đục. Chúng tôi dừng lại, lắng nghe. Nhưng còn tiếng động nào phá tan bầu khí im ắng trong đêm lặng gió nữa. Tôi thấy Holmes ôm đầu, dậm chân xuống đất như người mất trí. - Watson! Chúng ta muộn mất rồi!.. - , thể có chuyện đó được! - Tôi trì hoãn để làm gì, đồ ngốc! Còn , có thấy hậu quả việc để Nam tước ở lại mình chưa? Nhưng nếu thể cứu chữa được nữa tôi giết tên chó má ấy! phân biệt đường sá gì cả, chúng tôi lao tới nơi tiếng kêu khủng khiếp vọng đến. Chúng tôi trèo lên đỉnh dốc, rồi chạy xuống. Trong bóng tối, chúng tôi đụng phải những tảng đá nằm lọt vào giữa lùm cây. Mỗi khi lên được chỗ cao, bạn tôi đều đưa mắt nhìn khắp bốn phía, nhưng lớp sương mù dày đặc, chúng tôi thấy có di động nhặt nào. - có trông thấy gì ? - thấy gì cả. - Suỵt! Lắng nghe xem! Tiếng rên rỉ vọng đến, đâu đó từ phía bên trái. Dãy đá đột nhiên bị đứt đoạn, ở giữa tảng đá có vật gì đó đen thẫm. Chúng tôi càng chạy đến gần cái vật đen thẫm đó càng nét. Đó là người nằm úp mặt xuống đất, đầu cụp xuống, hai vai hơi nâng lên, lưng cong xuống, như chuẩn bị nhảy. Chúng tôi cúi mình người đó: có tiếng thở, cũng có qua cử động nào. Holmes đụng vào tấm thân bất động. kêu lên và rụt tay lại. quẹt que diêm và chúng tôi thấy những ngón tay đầm đìa máu và cái sọ bị dập nát. Trong ánh sáng của que diêm, chúng tôi nhận ra ngài Henry nằm trước mặt chúng tôi. Chúng tôi thể quên bộ quần áo màu cỏ úa hơi đặc biệt mà Nam tước mặc trong lần đầu tiên xuất đường Baker. Chỉ trong tích tắc cũng đủ để chúng tôi nhận ra ông. Sau đấy que diêm lại được bật sáng, rồi tắt lịm, như tia hy vọng cuối cùng trong lòng chúng tôi. Holmes bắt đầu rên rỉ, thậm chí ngay trong bóng tối tôi vẫn nhìn thấy khuôn mặt của nhợt nhạt ra sao. - Đó dã man! Đồ dã man! - Tay tôi siết lại thành nắm đấm - Holmes, tôi bao giờ tha thứ cho mình vì bỏ rơi ông ta. - Tội lỗi của tôi còn lớn hơn, Watson ạ! Tôi hy sinh tính mệnh của người khác chỉ để tính toán xem làm thế nào giải quyết vụ án này nhanh gọn hơn. Tôi phòng ngừa từ trước, thế mà ông ta vẫn cả gan mình vào khu đầm lầy. - Chúng ta nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của ông ta mà thể đến giúp ông được! Con chó quái quỷ ấy lẩn đâu rồi? Còn Stapleton ở đâu? phải chịu trách nhiệm về việc này! - Đúng. Tôi bắt phải trả lời? Bác và cháu, cả hai người đều bị giết. người chết vì kinh hãi khi nhìn thấy con quái vật mà ông coi đấy là sinh vật siêu phàm; còn người kia chết khi thoát khỏi con quái vật Nhưng bây giờ chúng ta cần phải xác minh mối liên quan giữa con người và con chó. Chúng ta nghe thấy tiếng rống của nó, nhưng đó chưa phải là bằng chứng, bởi vì ràng ngài chết vì té ngã. Sau đó, lúc ánh trăng từ đám mây ló ra, chúng tôi leo lên dãy đá mà từ đó người bạn của chúng tôi rơi xuống rồi đưa mắt nhìn khu đầm lầy. Xa xa nổi lên ngọn lửa màu vàng cạnh Grimpen. Ngọn lửa chỉ có thể phát ra từ ngôi nhà biệt lập của gia đình Stapleton. Tôi giơ nắm đấm về phía đó, nguyền rủa. - Sao tới bắt ngay ? - bước hấp tấp là tên vô lại lọt khỏi tay chúng ta.. - Vậy khi nào mới dám hành động Ngày mai cũng sao Còn hôm nay chúng ta phải làm bổn phận cuồl cùng với người mất. Chúng tôi xuống sườn dốc dựng đứng, đến bên tử thi, trái tim thắt lại và mắt nhoà . - phải gọi người đến giúp đỡ thôi, Holmes ạ. Chúng ta đưa ông ấy về đến nhà được. Chúa ơi, làm sao vậy mất trí rồi!... Holmes rú lên, cúi mình thi thể Henry. Rồi nhảy nhót, cười khanh khách và lắc lắc tay tôi. Phải chăng đây là bạn tôi, người luôn luôn tự kiềm chế được mình? - Có râu! Ông ta có râu! - Có râu à? - Đây phải là ngài Henry!... Chúa ơi, đây là người tù khổ sai. Chúng tôi cuống cuồng lật thi thể trở lại. còn hoài nghi nữa. Trán thấp, mắt hoắm như loài khỉ. Trong khoảnh khắp, tôi hiểu ra tất cả. Tôi có nhớ Nam tước tặng cho Barrymore hầu như toàn bộ những trang phục cũ của mình. Nghĩa là Barrymore cho Selden để mặc trong lúc ra . Đôi giày, áo sơ mi và mũ cát-két. Nhưng dẫu sao người tù này đáng nhận cái chết do các tội lỗi của ta. Đứng ngồi yên vì vui sướng, tôi giải thích cho Holmes nghe mọi chuyện xảy ra như thế nào. - Nghĩa là kẻ bất hạnh chết vì bộ quần áo - - Chắc chắn người ta cho con chó đánh hơi vật gì đó của ngày Henry. Có lẽ chính chiếc giầy bị thất lạc ở khách sạn. Và con chó lần theo vết của người tù khổ sai. Chỉ còn điều chưa được : Làm sao Selden trông thấy con chó rượt đuổi theo trong bóng tối. - Có lẽ nghe thấy. - Nghe thấy con chó chạy khắp khu đầm lầy và kêu cứu hay sao? Ông ta còn bị săn lùng kia mà. , đúng ra là thế này: Selden trông thấy con chó theo mình. - Theo tôi, có những việc còn quái lạ hơn thế nữa. Tại sao con chó này được thả ra? Cứ cho rằng những giả thiết của chúng ta là đúng... - Tôi hề giả thiết như thế. - Được. Vậy tại sao người ta thả con chó này vào khu đầm lầy vào đêm nay? - Thôi được, chúng ta tìm hiểu sau. Bây giờ chúng ta thể để tên này ở đây làm mồi cho cáo và diều hâu được. - Khi chúng ta chưa báo cho cảnh sát cứ đặt nằm trong bất kỳ hang đá nào. - Đúng. Nhìn kìa, Watson! Cái gì vậy? Phải chăng chính ? , lẽ nào lại liều mạng như thế. người đến gần chỗ chúng tôi. hút thuốc, đốm lửa của điếu thuốc lập lòe từ xa. Mặt trăng chiếu vào rất . Ngay lập tức, tôi nhận ra thân hình gầy guộc và dáng nhanh, nhún nhảy của nhà tự nhiên học. Nhận ra chúng tôi, dừng lại, rồi bắt đầu về phía trước. - Bác sĩ Watson! Phải ông đấy ? Tôi chẳng thể nghĩ rằng lại gặp ông tại đây vào ban đêm đấy? Ủa, cái gì thế này? Chuyện gì xảy ra thế này? Có ai bị thương phải ? Lẽ nào đây là bạn của chúng ta, ngài Henry? Stapleton chạy qua tôi, cúi người thi thể... Tôi nghe tiếng thở mạnh, điếu thuốc từ tay rơi xuống đất. - Ai... Ai đấy? - ấp úng, lắp bắp. - Đấy là tên tù khổ sai vượt ngục. Stapleton xoay bộ mặt tái nhợt về phía chúng tôi, nhưng cố che giấu vẻ ngạc nhiên và tuyệt vọng. Cái nhìn chăm chú của dừng lại trước tiên ở Holmes và sau đó ở tôi. - Chúa ơi, là kinh khủng! Làm sao mà y chết vậy? - Có lẽ ngã từ triền núi kia xuống và bị gãy cổ. Tôi và bạn tôi dạo khu đầm lầy nghe thấy tiếng kêu. - Còn tôi cũng nghe thấy tiếng kêu và chạy tới đây. Tưởng là tiếng kêu của ngài Henry nên tôi rất lo. - Tại sao là ngài Henry? - Tôi kìm lòng được, phải hỏi. - Hôm nay ngài có hứa là rẽ vào chỗ chúng tôi, nhưng ngài lại đến. Điều đó làm tôi rất ngạc nhiên. Lúc nghe thấy tiếng kêu tự nhiên tôi rất lo cho ngài. Tiện thể xin hỏi - Stapleton lại chuyển cái nhìn từ tôi sang Holmes - Ngoài những tiếng kêu này ra, các ông có nghe thấy tiếng nào khác nữa ? - . Thế còn ông? - Cũng . - Vậy tại sao ông hỏi như vậy? - Ôi, ông biết đấy thôi, ở chỗ chúng tôi người ta có kể về con chó ma quái! Các điền chủ địa phương rằng hình như đêm nào con chó cũng lang thang khắp khu đầm lầy. Tôi muốn biết xem có thể các ông nghe thấy tiếng của nó chăng? - , chúng tôi nghe thấy gì như thế cả. - Vậy kẻ bất hạnh này chết như thế nào? - Đầu óc quay cuồng vì sợ bị săn lùng. Và có lẽ trong cơn mất trí, chạy khắp khu đầm lầy rồi cuối cùng ngã xuống sườn núi gãy cổ. - Vâng, hoàn toàn có thể như thế - và thở phào nhõm - Còn ông, ông nghĩ thế nào về điều đó, ông Holmes? - tinh ý làm sao! - Bạn tôi cúi người chào và . - Chúng tôi chờ ông từ lâu rồi. Ông đến đúng lúc tấn thảm kịch xảy ra? - Vâng! Tôi tin rằng bạn tôi giải thích đúng tấn thảm kịch này. Còn tôi, ngày mai tôi trở về London với kỷ niệm đáng buồn. - Thế nào, mai ông à? - Tôi có ý định như thế. - Nhưng có mặt của ông rọi ánh sáng vào những cố đẩy chúng tôi vào ngõ cụt. Holmes nhún vai: - thành công phải luôn luôn nằm trong tầm tay ta. Tôi vẫn chưa rút ra điều gì từ vụ án này. Bạn tôi bằng giọng điệu tự nhiên nhất và vẻ thà nhất. Stapleton chăm chú nhìn . Sau đấy, hướng về phía tôi. - Tôi vui lòng đề nghị chuyển thi thể về nhà chúng tôi, nhưng em tôi sợ hãi. Chúng ta lấy cái gì đó đậy lên mặt và để lại đây thôi! Cho tới sáng có gì xảy ra với cái xác chết này đâu. Công việc được tiến hành như thế. Tôi và Holmes từ chối lời mời rẽ vào nhà của Stapleton. Chúng tôi để cho trở về nhà mình và về phía lâu đài Baskerville. - Thế là cuối cùng chúng ta đánh giáp lá cà - Holmes bước cạnh tôi và - là điềm tĩnh! tự kiềm chế mới giỏi làm sao! Cú đấm điếng người. Chúng ta còn chưa có dịp nào đọ sức với đối thủ xứng đáng hơn thế! - Dẫu sao đáng tiếc là nhận ra ! - Nhưng biết làm sao được! - Cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng tới những dự định của ? - Chắc thế, hành động thận trọng hơn nếu điều đó thúc đẩy tới những quyết định tuyệt vọng tức . Như phần lớn những tên tội phạm xuất sắc khác, Stapleton hình như rất trông cậy vào khôn khéo của mình, và tưởng tượng ra rằng khéo đánh lừa chúng ta. - Vì sao còn chưa muốn bắt ? - Giả sử là đêm nay bị bắt, thử hỏi điều ấy đem lại cho chúng ta cái gì nào? Chúng ta chứng minh được gì cả. Đấy, tinh ranh, quỷ quyệt của là ở đấy. Nếu kẻ tiếp tay cho Stapleton là con người, chúng ta phải tìm cho ra những bằng cớ nào đó, nhưng đằng này là con chó. Lời khai của nó là gì? - Nhưng phần lớn của tội ác rồi kia mà? - Tất cả chỉ là những phỏng đoán, những giả thiết. Tại phiên tòa, chúng ta bị cười cợt nếu chúng ta đến đấy bằng câu chuyện hoang đường, có chứng cớ. - Còn ngài Charles? - Tìm được xác chết, nhưng phát ra dấu vết bạo hành. Tôi với biết ông ta chết vì kinh hãi, và ta cũng biết ông ta kinh sợ cái gì. Nhưng liệu 12 ông thẩm phán có tin vào chuyện đó hay ? Những vết cắn của con chó ở đâu? Tôi và đều biết là con chó chưa cắn chết người, và ngài Charles chết trước lúc nó nhảy xổ vào ông ta. Cần phải chứng minh điều đó, mà giờ chúng ta chưa thể chứng minh được. - Còn đêm nay sao? - Cũng có mối liên quan trực tiếp giữa con chó với cái chết của người tù. ai trông thấy con chó này. Quả chúng ta có nghe thấy tiếng của nó, nhưng chúng ta có bằng chứng về việc con chó săn lùng người tù, mà cũng có lý do gì để nó đuổi theo ta. - định bắt tay vào việc gì? - Tôi đặt nhiều hy vọng vào Laura. Khi ta biết tình trạng gia đình của Stapleton, có lẽ giúp chúng ta. Ngoài ra, tôi còn có kế hoạch khác. Dù thế nào, tôi cũng hy vọng là ngày mai, chiến thắng đến với chúng ta. Tôi moi thêm được ở Holmes điều gì nữa. Trước khi đến chỗ rẽ vào lâu đài Baskerville, bước im lặng, đắm chìm trong cái ý tưởng của mình. - có rẽ vào ? - Có. Giờ cần tránh mặt nữa. Nhưng còn điều này, Watson, đừng với ngài Henry về con chó. Cứ gán cái chết của Selden cho các nguyên nhân mà Stapleton gợi ý cho chúng ta vậy? Như thế, ông ta cảm thấy nhàng hơn khi ăn trưa ở Merripit. - Nhưng người ta cũng mời tôi đến đấy. - Vậy phải từ chối. Hãy để ông ấy mình và điều đó dễ sắp xếp...
Chương 13: Giăng lưới xuất của Holmes khiến ngài Nam tước rất vui sướng, vì ông tin rằng Holmes còn có thể ngồi lỳ ở London được nữa. Tuy nhiên ông ngạc nhiên khi được biết bạn tôi chẳng mang hành lý theo. Sau bữa tôi muộn màng, chúng tôi cho Nam tước biết phần cuộc phiêu lưu của chúng tôi mà ông cần phải biết. Và đến lúc này tôi buộc phải báo cho vợ chồng Barrymore biết về cái chết của Selden. Viên quản lý tiếp nhận cái tin này với cảm giác nhõm, nhưng bà vợ lấy tạp dề che mặt khóc cách cay đắng. Bà vẫn coi là cậu bé ngỗ nghịch, đứa trẻ vào tuổi thơ ấu từng níu lấy tay bà. - Từ lúc ông khỏi, Watson ạ, tôi ngồi lỳ ở nhà và buồn đến nẫu ruột - Nam tước - Nếu ông căn dặn là đừng vào khu đầm lầy mình tôi đến nhà Stapleton để hưởng buổi tối vui vẻ. - Vâng, tôi cũng tin là có lẽ ngài hưởng được buổi tối vui vẻ - Holmes lạnh lùng - Nhưng ngài có biết chắc rằng lúc nhìn thấy thi thể ngài, chúng tôi khóc hay ? Ngài Henry trợn trừng mắt: - Chuyện như thế nào? - Bởi lẽ người bất hạnh mặc quần áo của ngài. Cảnh sát có thể hỏi thăm người giúp việc cho ngài đấy! - Tốt hơn là hãy soát lại công việc của chúng ta - Nam tước - ông thành công trong việc tháo gỡ mớ bòng bong này chưa? - Vụ án cực kỳ khó khăn và rối rắm. Cho đến giờ còn đôi điều cần được làm sáng tỏ, nhưng cuối cùng chúng ta thành công. - Watson hình như có cho ông biết là tôi nghe thấy gì khu đầm lầy rồi chứ? - Nam tước - Ở Mỹ, tôi từng có công việc với loài chó, đừng hòng mà lừa nổi tôi. Tôi thể nhận ra tiếng chó tru được. Nếu ông đeo được rọ bịt mõm con chó này và xích được nó, tôi coi ông là người thám tử kiệt xuất nhất thế giới. - Nó bị bịt mõm, và bị xích, nếu ngài chịu giúp tôi. - Tôi làm tất cả những gì ông ra lệnh. - Tốt lắm! Nhưng tôi cầu phục tùng cách tuyệt đối. được hỏi vì sao, tại sao? - Đồng ý. - Nếu vậy, chúng ta thành công. Tôi nghi ngờ rằng... Đột nhiên, Holmes ngưng bặt và chăm chăm nhìn ở đâu đó đầu tôi. Ngọn đèn chiếu thẳng vào mặt . Bộ mặt căng thẳng, biểu lộ tập trung tựa như bộ mặt của pho tượng cổ điển. - Có chuyện gì vậy? - Tôi và ngài Henry cùng thốt lên. Holmes quay nhìn chúng tôi, và tôi cảm thấy gắng kiềm chế xúc động của mình. Khuôn mặt vẫn còn căng thẳng, nhưng cặp mắt long lanh vì vui sướng. - Thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi thể kiềm nổi thích thú của mình được - vừa vừa chỉ lên những bức chân dung treo bức tường đối diện - Watson cả quyết rằng tôi am hiểu hội họa, nhưng điều đó chỉ vì chúng tôi hợp nhau trong việc đánh giá các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng các bức chân dung quả là tuyệt vời. - Tôi vui lòng khi nghe ông thế - Ngài Henry ngạc nhiên nhìn bạn tôi và - Tôi được thông thạo về tranh lắm. Thế nhưng, ai có thể nghĩ được rằng ông còn có thời giờ để quan tâm đến nghệ thuật. - Tôi biết đánh giá những tác phẩm có giá trị. Tôi đảm bảo người đàn bà trong chiếc áo lụa màu xanh da trời kia và người đàn ông trong bộ tóc giả có lẽ là những bức chân dung dòng họ. - Vâng, tất cả đều là những người trong dòng họ. - Ngài có biết tên của họ ? - Từ lâu Barrymore kèm tôi môn học này và dường như tôi có thể trả lời lưu loát bài học của mình. - Người đàn ông với chiếc kính viễn vọng kia là ai vậy? - Đấy là phó đô đốc Baskerville phục vụ ở Tây Ấn. Còn người trong bộ lễ phục màu xanh và cầm cuộn giấy là ngài William Baskerville, chủ tịch hạ viện trong chính phủ Pitt[1]. - Còn người kỵ mã mặc áo ngắn nhung đen thêu đăng ten đối diện với tôi là ai? - Ôi, ông cần làm quen với ông ta. Đấy chính là Hugo, kẻ gây ra mọi nỗi bất hạnh và đặt cơ sở đầu tiên cho truyền thuyết về con ehó của dòng họ Baskerville. Tôi nhìn bức chân dung với vẻ chăm chú và có phần phân vân, Holmes : - Sao trông bề ngoài ông ta có vẻ hiền từ và bình thản thế kia. Chỉ cặp mắt quả là có gì quỷ quyệt. Thế mà tôi hình dung Hugo của ngài là chàng trai vạm vỡ với dáng vẻ kẻ cướp cơ đấy? - Chân dung chính xác, mảy may có nghi ngờ nào đâu. Đằng sau bức họa có ghi tên ông ta và năm tháng - 1647. Suốt buồi tối còn lại, Holmes ít , nhưng hình như bức chân dung của Hugo cuốn hút tâm trí của . Suốt bữa ăn, thôi thìn nó. Lúc ngài Henry về phòng, Holmes cầm cây nến đến gần bức chân dung và thẫm lại vì thời gian. - có nhận thấy cái gì ? Tôi quan sát hồi lâu chiếc mũ rộng vành có ngù lông, chiếc cổ áo đính đăng-ten màu trắng, mái tóc xoăn dài, khuôn mặt nghiêm khắc. - Ông ta nhắc nhớ tới ai hay sao? - Phần dưới của khuôn mặt có hao hao giống ngài Henry. - Đúng, chút xíu thôi. Nhưng hãy chờ lát. đứng lên ghế tay trái cầm cây nến, tay phải khum lại che chiếc mũ rộng vành và mớ tóc xoăn dài. - Chúa ơi! - Tôi thốt lên kinh ngạc. Bộ mặt của Stapleton từ bức tranh nhìn tôi. - A ha! Giờ thấy rồi đấy. Mắt tôi quen khảo sát bộ mặt chứ phải những trang điểm của bộ mặt. - Đáng ngạc nhiên . Cứ như là bức chân dung của chính . - Đúng vậy, ví dụ hay về chứng phản biến di truyền cả về hình thể lẫn tinh thần. cũng là Baskerville. Điều đó hoàn toàn rệt. - Và ngấp nghé kế thừa gia tài. - Cố nhiên. Bức chân dung này là mắt xích còn thiếu. Giờ đây chúng ta phát ra nó. Phải, giờ đây chúng ta phát ra nó rồi. Xin thề với rằng vào đêm mai sa vào lưới của chúng ta như những con bướm sa vào vợt của . Kim găm, nút chai, nhãn hiệu - Bộ sưu tập đường Baker còn được bổ sung mẫu vật nữa. - Holmes cười khanh khách và lùi ra khỏi bức chân dung. Mỗi khi tôi có dịp nghe tiếng cười của , tôi biết rằng đó là điềm báo trước tai họa ghê gớm giáng xuống đầu tên hung bạo nào đó. Vào sáng hôm sau, lúc mặc quần áo, tôi nhìn ra cửa sổ thấy Holmes hình như dậy từ sớm tinh mơ. - Chúng ta có ngày bận rộn - vừa vừa sung sướng xoa tay khoan khoái - Lưới được giăng ra. Tới chiều tối là con cá măng vùng vẫy ở trong đó hay là bị sổng mất. - kịp đến khu đầm lầy? - Tôi đến Grimpen và chuyển bức điện tới Princetown thông báo về cái chết của Selden. Ngoài ra, tôi cũng liên lạc với Cartwright, kẻo chú ấy cũng chết ở cửa hàng như con chó nằm nấm mộ của chủ mình. - Hôm nay, bắt đầu từ đâu? - Trước hết phải cho ngài Henry biết. Đấy, ông ta đến rồi kìa! - Chúc buổi sáng tốt đẹp, ông Holmes! - Nam tước - Ông cứ như là vị tướng trao đổi với tham mưu trưởng về kế hoạch của trận đánh sắp tới. - Có trận đánh như thế. Watson theo lệnh, có mặt. - Tôi cũng vậy. - tuyệt. Nếu tôi lầm, hôm nay Stapleton mời ngài tới ăn tối phải? - Mong rằng các ông cũng chứ? Họ là những người mến khách; họ rất vui khi gặp các ông. - Đáng tiếc là tôi cùng Watson cần phải trở về London. - Về London sao? - Vâng. Mặt Nam tước buồn thiu. - Tôi tưởng các ông ở lại với tôi tới khi xong vụ này chứ. Sống mình ở đây được ấm cúng lắm. - Ngài cần phải tin tôi, và làm đúng những gì tôi cầu ngài. Hãy với những người bạn của chúng ta rằng nếu có những công việc khẩn cấp ở London chúng tôi đến dự. Tuy vậy, bao lâu nữa, ,chúng tôi quay trờ lại đây. Ngài đừng quên thông báo với họ. - Nếu ông muốn như thế. - Xin cam đoan với Ngài là có cách nào khác. Cứ theo vẻ nhăn nhó của Nam tước, tôi hiều là ông ta phật ý và coi chuyến của chúng tôi là hành vi đào ngũ. - Các ông định lúc nào? - Ông ta lạnh nhạt hỏi. - Ngay bữa sáng. Chúng tôi đến Coombe Tracy bằng ngựa. Tội nghiệp Watson! Nghèo đến thế này? Nhưng Watson gửi đồ đạc lại đây để đàm bảo là ấy trở lại. Watson, hãy viết cho Stapleton vài dòng, cáo lỗi là thể dự tiệc. - Tôi cũng muốn London. - Nam tước - Vì sao tôi phải ngồi ở đây mình kia chứ? - Bởi vì ngài hứa với tôi là luôn tuân theo ý muốn của tôi, và bây giờ tôi với ngài: Ngài hãy ở lại đây! - Được, tôi ở lại. - Còn cầu nữa. hãy đến Merripit bằng xe, rồi ra lệnh cho xe ngựa quay trở lại và với gia đình Stapleton là ngài bộ về nhà. - bộ qua khu đầm lầy? - Vâng. - Nhưng chính ông nhiều lần ngăn tôi làm việc đó? - Bây giờ ngài có thể qua đấy tuyệt đối an toàn. Tôi cầu ngài như thế chỉ vì tôi tin vào lòng can đảm của ngài. Nhưng ngài cần làm như thế. - Được tôi làm như thế. - Nếu ngài còn quý trọng cuộc đời mình đừng có đừng ra khỏi đường mòn dẫn từ Merripit tới con đường Grimpen. - Được tôi làm như thế. - Thế tốt lắm. Còn chúng tôi gắng ngay sau khi ăn sáng xong, để tới London vào ban ngày. Chẳng mấy chốc, chúng tôi chia tay với Nam tước. Hai giờ sau, chúng tôi cho xe ngựa trở về nhà và bước vào sân ga ở Coombe Tracy. chú bé vóc người lớn đợi chúng tôi ở đấy. - Ông có mệnh lệnh gì cho cháu ? - Hãy ngồi vào tàu hoả London. Lúc tới nơi, ngay tức khắc, nhân danh ta mà chuyển điện tới ngài Henry. Nội dung điện tín hỏi ngài có tìm thấy cuốn sổ tay của ta hay . Nếu ngài tìm thấy, hãy chuyển nó bằng bưu kiện bảo đảm tới đường Baker giùm. - rồi, thưa ông. - Còn bây giờ, hãy xem tại văn phòng nhà ga có cái gì mang tên ta ? Chú bé nhanh chóng trở lại với bức điện trong tay. Holmes đọc xong và đưa cho tôi xem. Bức điện như sau: “ nhận được điện. ra lệnh bắt. tới lúc 5 giờ 40. Lestrade”. - Đây là câu trả lời bức điện lúc sáng của tôi, chúng ta cần tới giúp đỡ của Lestrade. Watson, chúng ta vẫn còn thời gian để tới thăm Laura Lyons chứ? Kế hoạch của chiến dịch được Holmes sắp đặt mỗi lúc sáng tỏ. Với giúp đỡ của Nam tước, Stapleton tin rằng chúng tôi có ở đây, nhưng ra chúng tôi trở về đúng lúc. Nếu ngài Henry cho biết bức điện của Holmes điều đó xóa sạch những mối hoài nghi cuối cùng của Stapleton. Và tôi mường tượng ra tấm tưới của chúng tôi ngày càng được căng ra quanh con cá hung dữ. Laura Lyons ngồi trong phòng làm việc của mình. Holmes khởi đầu bằng câu chuyện thẳng thắn và cởi mở đến mức khiến trợn tròn mắt. - Tôi điều tra về cái chết của ngài Charles - Holmes - Bạn tôi cho tôi tất cả những gì bà và những gì bà chưa muốn . - Tôi chưa về điều gì vậy? - xấc xược hỏi. - Bà thú nhận là bà mời ngài Charles tới cửa hàng rào vào lúc 10 giờ tối. Ngài chết tại đó, vào giờ đó. Bà chưa tới mối liên hệ giữa hai kiện này. - Giữa chúng, có mối liên hệ nào cả. - Nhưng tôi nghĩ rằng rồi cuối cùng chúng tôi cũng xác định được mối liên hệ này. Tôi hoàn toàn thành với bà, bà Laura. Chúng tôi về vụ giết người, mà các tang chứng nếu được xác minh, chỉ liên lụy tới bạn bà, tới ông Stapleton, mà còn liên lụy tới vợ của ông ta nữa. Laura nhổm phắt dậy. - Vợ ông ta! - Điều này còn bí mật với bất kỳ ai nữa. Cái người mà ông ta nhận là em , thực ra là vợ ông ta. Laura buông mình xuống ghế bành, những ngón tay bám chặt vào tay vịn đến mức các móng tay trắng bệt. - Vợ của ông ta? Vợ của ông ta? Nhưng ông ta độc thân kia mà! Holmes nhún vai. - Ông Holmes, ông hãy chứng minh điều đó ! Nếu ông trưng ra được bằng chứng ... Những tia mắt giận dữ ở nhiều hơn bất cứ lời nào. - Vâng, việc gì cũng phải có bằng cớ chứ - Holmes rút từ trong túi ra những tờ giấy gì đó - Đây là bức ảnh của cặp vợ chồng này chụp hồi 4 năm trước ở Yorkshire. Mặt sau có dòng chữ: ông bà Vandeleur. Nhưng chắc bà nhận ra cả ông ta lẫn người phụ nữ này, nếu bà có dịp gặp lại. Còn đây là ba tài liệu được những người đáng tin cậy khác nhau ký, hên quan đến ông và bà Vandeleur vào thời đó, lúc họ điều khiển trường học St. Oliver. Đọc xong những tài liệu này, bà thấy mọi chuyện. Laura nhìn thoáng qua những tờ giấy đặt trước mặt rồi nhìn chúng tôi, nét mặt ảm đạm, tuyệt vọng. - Tên đê tiện ấy hứa lấy tôi, nếu tôi li dị xong. Vậy là luôn lừa gạt tôi? Tôi nghĩ chỉ quan tâm tới tôi thôi. ra, tôi là công cụ trong tay . Vì sao phải trung thành với kẻ tráo trở như thế? Vì sao phải che chở ? phải đền mạng về hành vi tội lỗi của mình? Tôi giấu giếm gì cả. Xin thề với ông là khi tôi viết bức thư ấy, tôi tuyệt nhiên ngờ rằng điều đó khiến ngài Charles phải chết! - Tôi tin vào từng lời của bà,, thưa bà - Holmes - Chắc có lẽ bà cảm thấy nặng nề nếu phải kể lại chuyện đó. Hay là thế này vậy: Tôi , và nếu tôi lầm lẫn điều chủ yếu nào đấy bà sửa lại giúp tôi. Bức thư chắc được viết theo gợi ý của Stapleton. - Theo lời đọc. - Có lẽ với bà rằng ngài Charles cho tất cả các khoản chi phí của vụ li dị chứ? - Vâng. - Còn sau khi lá thư được chuyển , thuyết phục bà đừng đến chỗ hẹn. - là đáng được kính trọng, nếu để cho người khác chu cấp tiền cho việc tiến hành vụ li dị. thề rằng hiến đồng xu cuối cùng để tiêu diệt chướng ngại ngăn cách chúng tôi. - rất nhất quán trong các hành vi của mình. Còn những kiện sau đó, bà nghe và biết điều gì đấy về cái chết của ngài Charles chỉ qua báo chí hay sao? - Vâng. - Và Stapleton bắt bà hứa được thổ lộ về cuộc gặp mặt định trước với ai chứ? - Vâng. cái chết của ngài Charles xảy ra trong những tình huống rất bí , và nếu người ta biết về lá thư tôi bị ngờ vực. đe dọa tôi, và buộc tôi phải im lặng. - Thế đấy, tôi hiểu rồi. Nhưng dẫu sao, bà cũng vẫn hoài nghi điều gì chứ? Bà Laura đưa mắt nhìn xuống, hình như dám trả lời. - Tôi biết con người này - Cuối cùng bà - Nhưng nếu lừa dối tôi tôi cũng tố giác làm gì. - chung, bà thoát nạn - Holmes - Bà nằm trong tay và biết như vậy, mà bà vẫn còn sống được? Những tháng gần đây, bà quanh bờ vực thẳm. Còn bây giờ, bà Laura ạ, xin chúc bà mọi tốt đẹp. Chúng ta còn gặp lại nhau. - Thế đấy, tất cả dần dà sáng tỏ, sương mù tản - Holmes khi chúng tôi lại bước vào sân ga tới cửa ra vào của tàu tốc hành London - Chẳng bao lâu nữa, tôi có thể cho diễn lại tội ác này từng điểm . Đây chính là tội ác gây chấn động mạnh nhất vào thời đại chúng ta. Chuyến tàu tốc hành London rầm rập tiến vào ga. Từ toa tàu hạng nhất nhảy xuống sân ga con người bé mà chắc nịch. Chúng tôi chào hỏi nhau. - Thế nào, vụ án nghiêm trọng chứ? - Lestrade nhanh nhẩu hỏi. - lâu chưa có vụ nào như thế! Chúng ta còn có hai giờ để dự phòng. Nào, hãy dùng thời gian đó để ăn trưa. Chưa khi nào ông ở đây phải ? Vậy ông hãy làm quen với miền đất này.