Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 4: Ngài Henry Baskerville

      Khi đồng hồ điểm 10 tiếng, bác bĩ Mortimer và nam tước trẻ tuổi bước vào phòng. Người sau chừng 30 tuổi, vóc dáng lớn, nhưng nhanh nhẹn và chắc nịch. Gương mặt biểu lộ cái gì ương ngạnh; cặp mắt nâu sẫm dưới hàng lông mày đen rậm nhìn thẳng vào chúng tôi. Bộ com-lê màu da lươn cắt theo kiểu thể thao và nước da rám nắng cho biết đó là con người ưa hoạt động đồng thời, phong thái điềm tĩnh, tự tin.
      - Ngài Henry Baskerville - Bác sĩ Mortimer giới thiệu ông ta với chúng tôi.
      - Đây chính là ông Holmes? - Vị Nam tước hỏi - là thú vị, ông Holmes, nếu bạn tôi đề nghị đến thăm ông, tôi cũng đến chỗ ông. Người ta rằng ông biết cách giải những bí nho .
      - Mời ngài ngồi xuống đây, ngài Henry. Nếu tôi lầm chuyến đến London này có cái gì đó đáng lưu ý xảy ra với ngài?
      - có gì đặc biệt quan trọng, ông Holmes ạ. Nhưng sáng nay tôi nhận được lá thư này, nếu nó đáng được gọi bằng cái tên như vậy. Ông ta đặt phong bì lên bàn và chúng tôi bắt đầu xem xét. Phong bì rất bình thường làm bằng giấy. Địa chỉ “Khách sạn Northumberland, ngài Henry Baskerville được viết bằng chữ cái in lớn. dấu bưu điện có hàng chữ Charing Cross và thời gian chuyển: chiều ngày hôm trước.
      - Có ai biết là ngài ngụ tại khách sạn Northumberland ? - Holmes, sau khi tò mò nhìn người khách.
      - ai biết cả. Chỉ sau khi gặp bác sĩ Mortimer tôi mới quyết định nơi nghỉ chân.
      - Nhưng bác sĩ cũng nghỉ chân tại đó?
      - tôi ở nhà người quen. ai có thể biết là chúng tôi đến khách sạn này - Bác sĩ .
      - Chà! Nghĩa là có ai đấy rất quan tâm đến việc lại của các ông.
      Holmes rút từ phong bì ra tờ giấy gấp tư, giở ra và đặt nó lên bàn. Ở giữa hai trang giấy chỉ có câu duy nhất, người ta cắt từng chữ ở trong báo rồi dán ghép thành câu.
      “Nếu Ngài sáng suốt và còn quí trọng cuộc sống ngài hãy tránh xa khu đầm lầy than bùn”[1]. Các chữ “Khu đầm lầy than bùn”[2] được viết tay và bằng mực.
      - Thế đấy, ông Holmes - Nam tước - điều đó có nghĩa là thế nào và ai quan tâm đến công việc của tôi như vậy?
      - Ông nghĩ sao, bác sĩ Mortimer? Lần này có cái gì siêu phàm chứ?
      - Vâng thưa ông, nhưng rất có thể người gởi thư này tin rằng câu chuyện đó hoàn toàn là siêu nhiên.
      - Câu chuyện nào? - Ngài Henry đanh giọng hỏi - Dường như các ông hiểu công việc của tôi hơn chính tôi đấy.
      - Chúng tôi tất cả, thưa ngài, trước khi ngài rời khỏi đây, hãy tin tôi - Holmes - Còn bây giờ hãy trở lại với tài liệu này, nó được thảo ra và bỏ vào thùng bưu điện chiều qua. Watson, chúng ta có báo Times ngày hôm qua ?
      - Ở trong góc ấy.
      - Hãy cho tôi cái trang có bài xã luận ấy. - lướt mắt nhanh trang mục Mậu dịch tự do... - Bài xã luận tuyệt vời! Cho phép tôi đọc thành tiếng đoạn: “Nếu có ai với Ngài rằng ngành công nghiệp của Ngài được đặt dưới bảo hộ thuế quan Ngài hãy tránh xa những người đó, bởi sáng suốt chứng tỏ với Ngài rằng hệ thống tương tự rồi cuối cùng giảm lượng hàng xuất khẩu của chúng ta; và cũng phá vỡ cuộc sống yên lành của gia đình chúng ta; mà các nhu cầu của cuộc sống gia đình hãy còn quý trọng đối với tất cả chúng ta”. Watson, nghĩ như thế nào? - Holmes thốt lên, xoa tay cách vui sướng.
      Bác sĩ Mortimer nhìn Holmes như những lương y nhìn những bệnh nhân mắc bệnh nặng. Còn ngài Henry nhìn tôi, vẻ phân vân.
      - Tôi cảm thấy chúng ta hơi ra ngoài vấn đề chúng ta quan tâm? - Ngài Henry .
      - Ngược lại! Chúng ta ngay liền sau đó, thưa ngài. Phương pháp của tôi quen thuộc với Watson hơn ngài; thế mà tôi vẫn e rằng ý nghĩa của đoạn vừa đọc vẫn có thể lọt ra ngoài nhận thức của ấy.
      - Vâng, xin thú thực là tôi chưa thấy có mối liên hệ nào giữa nó với bức thư.
      - Mối liên hệ chặt chẽ biết bao. “Nếu”, “Ngài”, “tránh xa”, “sáng suốt”, “cuộc sống”, “quý trọng”. Lẽ nào đoán ra những chữ đó được lấy từ đâu?
      - Ôi, lời giải đoán xuất sắc? - Ngài Henry thốt lên.
      - Nếu ngài còn chút nghi ngờ hãy chú ý tới những cụm từ như “ ngài hãy tránh xa”. Chúng được cắt liền mạch.
      - Ôi đúng vậy!
      - Ông Holmes, - Bác sĩ Mortimer ngạc nhiên nhìn bạn tôi và - ông có biết , chúng tôi cũng tưởng tượng được là có thể có những chuyện như vậy? Có thể là ông biết được những chữ này được cắt ra từ báo, nhưng làm sao ông đoán ra từ báo nào, hơn nữa lại còn biết đúng bài báo nào nữa chứ?
      - Tôi cho rằng bác sĩ Mortimer có thể tìm được những đặc điểm khác biệt giữa người da đen với người Esquimau chứ?
      - Chắc chắn!
      - Làm thế nào?
      - Ồ, đó là sở trường của tôi. khác biệt rất ràng, từ đỉnh chóp sọ, góc mặt, độ cong của hàm...
      -... Và đây là sở trường của tôi, khác nhau giữa các kiểu chữ in giữa tờ Times và tờ báo rẻ tiền giá nửa penny cũng giống như khác biệt giữa người da đen với người Esquimau vậy. hiểu biết về kiểu chữ in ty-pô là trong những cầu sơ đẳng đối với các chuyên gia về tội phạm. Có thể thời trẻ tôi thỉnh thoảng vẫn bị nhầm lẫn giữa tờ Leeds Mercury và tờ Western Morning News, nhưng tôi thể nhầm lẫn giữa bài xã luận của báo Times với bất cứ tờ nào khác; những kiểu chữ này chỉ có thể được cắt ra từ đó. Bức thư được chuyển vào hôm qua. Vậy trước tiên, chúng ta cần xem số báo ngày hôm qua.
      - Ông Holmes - Ngài Henry - Thế nghĩa là ai đó thảo bức thư này sau khi cắt tờ báo bằng...
      -... Bằng kéo sửa móng tay - Holmes ngắt lời ông ta - Ngài hãy chú ý xem đoạn cắt ở chúng ngắn đến mức nào? Ở số cụm chữ, người ấy phải tiến hành hai nhát cắt.
      - Hoàn toàn đúng. người nào đây cắt các chữ này bằng kéo, với đoạn cắt ngắn và dán chúng...
      - ... Bằng keo - Holmes nhắc.
      -... Bằng keo giấy. Nhưng vì sao những chữ “khu đầm lầy than bùn” lại viết bằng tay.
      - Bởi vì tác giả bức thư tìm được chúng báo.
      - Lời giải thích rất giống với . Ông còn có thể đọc được điều gì ở đây nữa, ông Holmes?
      - Chúng ta vẫn còn có thể thu được cái gì đó nữa, mặc dù tác giả của lá thư gắng hủy những tang chứng nhất. Đây này, địa chỉ được viết bằng chữ cái in lớn, báo Times là tờ báo hiếm khi rơi vào tay những người bình thường. Vậy ta có thể rút ra kết luận: Tác giả lá thư là người có học, nhưng người ấy cố gắng tỏ ra mình là người thiếu học bằng cách cố ý thay đổi nét chữ, chắc họ sợ rằng ngài nhận ra người viết, hoặc bây giờ hoặc sau này. Ngoài ra, cần chú ý điều này: các chữ dán được khéo. Chẳng hạn “cuộc sống” nằm ngay ngắn. Điều này chỉ ra tính cẩn thận của tác giả bức thư, có thể là do lo lắng và vội vã. Bởi vì bức thư được gửi vào hôm qua, cần bằng mọi cách để đến tay ngài ở khách sạn. Có thể tác giả sợ có cản trở nào đó chăng? Nhưng ai có thể cản trở vậy?
      - Hình như chúng ta bước vào lĩnh vực của những giả thiết - Bác sĩ Mortimer nhận xét.
      - Đúng hơn là lĩnh vực mà tất cả những khả năng đều được cân nhắc để chọn lựa khả năng gần với . nhất. Tất nhiên ông coi điều tôi nới là giả thiết thuần túy, nhưng hầu như tôi tin rằng địa chỉ được viết tại khách sạn nào đấy.
      - Do đâu ông nghĩ như thế?
      - Hãy xem xét kỹ phong bì, ông nhận ra rằng người viết gặp may: Ngòi bút phải hai lần chấm vào lọ mực mới viết xong địa chỉ ngắn đến thế. Nghĩa là lọ mực cạn kiệt tận đáy, ít khi bút và mực rơi vào tình trạng ấy. Đây là trường hợp đặc biệt hiếm có. Thế nhưng, ai cũng biết, ở các khách sạn hầu như có bút khác và mực khác. Vâng, tôi lưỡng lự mà cho rằng nếu chịu lục soát tất cả các thùng rác trong tất cả các khách sạn gần Charing Cross tìm thấy mẩu xã luận Times bị cắt rời, và chúng ta lập tức tìm ra tác giả của bức thư kỳ lạ này... Ôi, ôi! Cái gì thế này?
      chăm chú nhìn vào tờ giấy có dán chữ. đặt nó cách mắt khoảng , hai inch.
      - Cái gì vậy?
      - , có gì cả - Holmes nới và đặt lá thư lên bàn - Tờ giấy rất phẳng phiu, thậm chí có những vết xước nữa. Chúng ta khai thác bức thư. Còn bây giờ, ngài Henry, hãy kể điều gì xảy ra với ngài từ khi ngài đến London .
      - , ông Holmes, hình như có gì xảy ra.
      - có ai theo dõi ngài sao?
      - Hình như tôi sa vào cuốn tiểu thuyết trinh thám nào đó rồi - Vị khách của chúng tôi . - Ai có thể theo dõi tôi vậy?
      - Thư thả, rồi chúng ta bàn chuyện đó. Còn bây giờ lẽ nào ngài thấy cần thiết kể cho chúng tôi nghe về điều gì chăng?
      - Ông cần chú ý tới điều gì?
      - Tất cả những điều diễn biến ra ngoài phạm vi nếp sống bình thường, dưới hình thức này hay hình thức khác.
      Ngài Henry mỉm cười:
      - Hầu như tất cả tuổi thơ và tuổi thanh niên của tôi trôi qua ở Mỹ và Canada, bởi vậy nếp sống ở còn mới mẻ đối với tôi. Nhưng chưa chắc ông coi là bình thường khi tự nhiên người ta mất chiếc giày.
      - Ông mất chiếc giày?
      - Giày của ngài chỉ thất lạc đâu đó thôi. Rồi tìm ra mà. Có nên làm cho ông Holmes day dứt vì những điều mọn như vậy ? - Bác sĩ Mortimer .
      - Ông ấy muốn biết cái gì khác thường xảy ra với tôi hay kia mà.
      - Mỗi điều vặt vãnh cũng khiến tôi quan tâm. Nghĩa là ngài mất giày? - Holmes .
      - Vâng, nhưng có thể có người chủ ý lấy nó. Buổi tối qua, tôi đặt đôi giày cửa phòng để người hầu phòng đánh xi, sáng dậy chỉ còn chiếc. Đáng tiếc là tôi mới mua đôi này vào ngày hôm trước, chưa kịp mang nó.
      - Ngài muốn đánh xi đôi giày mới? Sao vậy?
      - Đôi giày màu nâu sáng. Tôi có ý định đánh xi đen.
      - Vậy là đến London, ngài mua giày?
      - chung tôi khắp cửa hàng. Bác sĩ Mortimer chung với tôi. Kể ra chủ nhân của thái ấp lớn cũng cần ăn mặc cho phù hợp. Đôi giày này giá 6 dollar.
      - Nếu đó là chuyện mất cắp hoàn toàn chẳng có gì đáng suy nghĩ - Holmes - Phải thừa nhận là tôi đồng ý với bác sĩ Mortimer: chiếc giày của ngài mau chóng được tìm thấy.
      - Và bây giờ, thưa quý bạn - Nam tước cánh quả quyết - Quý bạn cần cho tôi biết những chuyện mà các bạn biết.
      - Đòi hỏi chính đáng - Holmes đồng ý - Bác sĩ Mortimer ~ theo tôi, ông cần tự mình kể cho ngài nghe những gì ông kể cho chúng tôi.
      Người bạn của chúng tôi rút từ túi ra bản chép tay tờ báo, rồi nhắc lại câu chuyện hôm qua của mình. Nam tước lắng nghe với chú ý sâu sắc, thỉnh thoảng ông ta ngắt lời bác sĩ bằng những tiếng kêu kinh ngạc.
      Khi câu chuyện chấm dứt, ông ta :
      - Ôi! ra phải cứ ung dung thừa hưởng gia tài! Về con chó, vào thời thơ ấu, tôi có nghe . vậy, đó là huyền thoại của gia đình chúng tôi. Còn điều liên quan đến cái chết của bác tôi tôi hết sức rối trí. Tôi cũng chưa biết cần nhờ ai giúp đỡ: linh mục hay cảnh sát!
      - Rất đúng!
      - Giờ đây lại là lá thư kỳ lạ. Có lẽ nó có liên quan tới các kiện.
      - Vâng, nếu phán đoán theo lá thư người nào đó biết hơn ngài về cái điều diễn ra ở khu đầm lầy than bùn - Bác sĩ Mortimer .
      - người nào đó rất có thể cảm tình với ngài - Holmes - Vì ông ta muốn báo cho ngài biết trước mối nguy hiểm.
      - Cũng có thể người nào đó cảm thấy có lợi nếu đuổi được tôi ra khỏi lâu đài Baskerville.
      - Cũng có thể như thế... Tôi rất biết ơn ông, bác sĩ Mortimer ạ, vì ông trao cho tôi nhiệm vụ phức tạp và lý thú này. Nhưng bây giờ, ngài Henry, cần vào thực chất của vấn đề: Ngài có đến lâu đài Baskerville hay là ?
      - Tại sao tôi đến đó?
      - Rất có thể điều này khá nguy hiểm.
      - Mối nguy hiểm này phát sinh từ đâu. Từ con ngáo ộp của gia đình chúng tôi hay từ những người khác?
      - Đó là điều chúng ta phải tìm cho ra.
      - Dù ở đấy có xảy ra chuyện gì, thế lực nào, mưu kế nào có thể kìm chân tôi được. Tôi dứt khoát đến ngôi nhà của tổ tiên mình... - Đôi lông mày sẫm của ông ta nhíu thành đường dài, da mặt đỏ ủng lên. Tính bất trị của dòng họ Baskerville biểu rệt trong người kế tục cuối cùng này - Tôi còn chưa kịp cân nhắc kỹ càng về cái điều ông vừa . dễ dàng hiểu ngay và quyết định được ngay. Tôi suy nghĩ kỹ về chuyện đó vào lúc rảnh rỗi. Ông Holmes, bây giờ là 11 giờ rưỡi. Tôi thẳng về khách sạn; ông và bạn ông, bác sĩ Watson, tới chỗ chúng tôi dùng bữa vào lúc 2 giờ có được ?
      - Ý thế nào, Watson?
      - Rất sẵn lòng.
      - Như vậy chúng tôi đến. Gọi xe cho các ông. chứ?
      - , tốt hơn cả là bộ.
      - Tôi rất vui lòng cùng với ông - Người bạn đường của Nam tước - Nghĩa là vào lúc 2 giờ, chúng ta gặp nhau. Xin chúc các ông mọi tốt đẹp.
      Sau khi hai người khác ra về, Holmes thay đổi hẳn. Tính uể oải ở còn nữa. trở thành con người hành động.
      - Watson, mặc áo quần vào, mau lên! nên phí giây nào cả.
      Vừa cởi áo dài ra vừa nhanh chóng về phòng mình, và hai, ba phút sau, trở lại với chiếc áo khoác ngoài. Chúng tôi theo cầu thang chạy xuống phía dưới ra ngoài phố. Bác sĩ Mortimer và ngài Henry ở phía trước cách chúng tôi chừng 200 bước. Họ tới đường Oxford.
      - Đuổi kịp họ chăng?
      - cần đâu, cứ thư thả. Những người bạn của chúng ta đúng. Dạo chơi vào buổi sáng như thế này là sảng khoái.
      rảo bước và khoảng cách giữa chúng tôi với những vị khách giảm dần, giảm dần chỉ còn bằng nửa so với trước. Tiếp tục giữ đúng cự ly này, chúng tôi theo họ đến đường Oxford và sau đó là đường Regent. Cạnh cửa hàng ngài Henry và bác sĩ Mortimer dừng lại xem tủ trưng bày, Holmes cũng dừng lại. thoáng sau, đột nhiên kêu lên sung sướng. Dõi theo hướng nhìn của , tôi nhận thấy chiếc xe mui đậu ở góc kia của phố. Trong cửa sổ của nó ra hành khách. Chiếc xe chầm chậm tiến về phía trước.
      - Đấy con người chúng ta cần tìm đấy, Watson! Nào! Chúng ta gắng nhận ra mặt y.
      Đúng vào lúc đó, trong ô cửa sổ bên hông của mui xe xuất chòm râu đen, đôi mắt của ai đó soi vào chúng tôi bằng cái nhìn sắc như dao. Ngay lập tức chiếc cửa sổ ấy đóng sập lại, người hành khách kêu lên tiếng gì đó với người đánh xe ngựa và chiếc xe lao nhanh về hướng đường Regent. Holmes nhìn quanh, tìm xe ngựa chưa có khách, nhưng vô ích. Xe nào cũng có người. Thế là cuống cuồng chạy vào đám người sau chiếc xe mui phố. Chiếc xe nhanh chóng mất hút.
      - Quỷ quái! - Bực tức, khó nhọc thốt lên sau khi rời khỏi đám người phố - Thế là gặp may rồi! Đúng, trong chuyện này, tôi là người có lỗi, hãy ghi kỹ vào cuốn sổ biên niên điều sơ suất này.
      - Đó là người thế nào?
      - Tôi có ý niệm gì cả.
      - tên do thám?
      - Đúng, ràng là có ai đó theo dõi Henry ngay từ khi ông ta đến London. Từ đó biết được ông ta lưu lại ở khách sạn Northumberland. Nếu theo dõi ông ta vào ngày đầu tiên tiếp tục theo dõi ông ta vào ngày sau đó. Chắc có chú ý: tôi hai lần đến gần cửa sổ vào lúc bác sĩ Mortimer đọc câu truyện truyền thuyết chứ?
      - Vâng, có nhớ.
      - Tôi muốn để ý xem có ai lảng vảng ở cạnh nhà , nhưng tôi nhận ra ai khả nghi cả. Chúng ta. đối đầu với kẻ thông minh, Watson ạ. Khi những người bạn mới của chúng ta khỏi, ngay tức khắc tôi cuống cuồng đuổi theo họ với hy vọng phát ra cái kẻ theo dõi họ trong bóng tối. Kẻ ranh mãnh nào quyết định bộ mà dùng xe mui có thể lùi lại phía sau hoặc đuổi theo con mồi mà vẫn bị phát . Phương pháp của thuận lợi ở chỗ con mồi có dùng xe vẫn theo dõi được họ. Thế nhưng phương pháp này cũng có điểm yếu.
      - Người đánh xe có thể nghi ngờ?
      - Đúng vậy.
      - Đáng tiếc là chúng ta để ý đến số xe.
      - Watson thân mến! Quả lần này tôi chẳng có gì đáng khen cả. Thế nhưng có lẽ nào tôi lại để ý đến số xe? Đây này, 2704. Vả chăng bây giờ chúng ta cần làm gì với nó đây?
      - vẫn còn có thể làm được nhiều điều.
      - Sau khi nhận thấy , đáng lẽ tôi phải rẽ sang phía đối diện với xe mui và giữ khoảng cách đáng kể để theo dõi. Tốt hơn cả là thẳng tới khách sạn và chờ những kiện tiếp theo ở đây. Con người này đưa tiễn Henry đến tận cửa và chúng ta có thể theo dõi sau đó đâu. Đối thủ của chúng ta khéo léo lợi dụng vội vã đúng lúc của tôi, vì vội vã này để lộ chúng ta và làm lạc hướng theo dõi của tôi.
      Trong khi chuyện, chúng tôi chậm rãi theo đường Regent và còn nhìn thấy hai người ở phía trước nữa.
      - Kẻ theo dõi họ biến mất và xuất nữa. có nhìn bộ mặt của người trong xe mui ?
      - Tôi nhìn thấy mặt mà chỉ nhìn thấy râu.
      - Tôi cũng thế. Tôi đoán rằng y mang râu giả. Vào đây , Watson?
      Holmes rẽ vào trong những văn phòng phát thư của vùng này. Người phụ trách đón rất niềm nở:
      - Ôi Wilson, tôi thấy ông quên tôi là người giúp ông trong vài việc bé ấy!
      - Lẽ nào tôi quên được điều đó?
      - Ông Wilson, tôi còn nhớ ông có cậu bé tên là Cartwright rất khéo léo và thông minh?
      - Vâng, thưa ông, bây giờ cậu ấy làm việc ở chỗ tôi.
      - Bảo cậu ấy đến được chăng? Cảm ơn. Ông làm ơn đổi cho tôi 5 bảng này.
      Sau tiếng gọi của người phụ trách, thiếu niên khoảng 14 tuổi xuất . Cậu bé đứng nhìn người thám tử danh tiếng với vẻ tôn kính.
      - Hãy đưa cho tôi cuốn sách hướng dẫn các khách sạn - Holmes - Cám ơn cháu Cartwright. Này, đây là tên của 23 khách sạn vùng Charing Cross. Thấy chưa?
      - Vâng, thưa ông.
      - Cháu hãy giáp vòng theo thứ tự nhé?
      - Vâng, thưa ông.
      - Để bắt đầu, cháu cho người gác cổng shilling. Đây 23 shilling.
      - Cháu nghe thấy rồi, thưa ông.
      - Cháu hãy rằng cháu cần xem xét rác rưởi trong các thùng đựng rác. Hãy giải thích điều đó thế này: Cần tìm lại bức điện tín rất quan trọng do lầm địa chỉ, cháu được sai tìm kiếm nó. Hiểu chưa?
      - Vâng, thưa ông.
      - Nhưng thực tế là cháu tìm trang báo Times bị cắt vài chỗ, đây là số báo Times và đây là trang cần thiết. Cháu có phân biệt nó với những tờ báo khác ?
      - Vâng, thưa ông.
      - Những người gác cổng chắc chắn đưa cháu tới các hành lang. Cháu cho họ tiền. Có lẽ, trong 20 khách sạn, rác rưởi bị đổ hoặc bị đốt . Nhưng trong 3 khách sạn còn lại người ta chỉ cho cháu coi hàng đống giấy má trong số đó cháu tìm kiếm trang báo này. Rất ít có cơ hội thành công. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, ta cũng cho cháu 10 shilling. Buổi tối cháu hãy chuyển điện tín bằng đường bưu điện đến cho ta ở đường Baker xem công việc ra sao. Còn bây giờ, Watson, tôi với đành phải tìm kiếm chiếc xe mui mang số 2704, sau đấy chúng ta thăm phòng trưng bày hội họa ở đường Bond để chờ đến giờ hẹn.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 5:Ba sợi chỉ bị đứt

      Sherlock Holmes có tài làm cho đầu óc thư giãn lúc nào muốn. say mê chiêm ngưỡng tranh của các họa sĩ Bỉ đại và suốt hai giờ, dường như nhớ tới câu chuyện lạ lùng cuốn hút chúng tôi. Suốt đoạn đường từ nhà triển lãm đến khách sạn, toàn về hội họa mặc dầu trong lĩnh vực này trình độ của chưa cao.
      - Ngài Henry đợi các ông ở gác - Người trực phòng ngoài với chúng tôi - Ngài cầu mời khách đến chỗ ngài ngay lập tức.
      - Ông cho phép tôi coi danh sách khách trọ được chứ?- Holmes hỏi.
      - Xin mời ông.
      Sau họ Baskerville trong cuốn sổ còn có hai dòng nữa: Theophilus Johnson cùng gia đình đến từ Newcastle và bà Oldmore với người hầu đến từ vùng High Lodge, Alton.
      - Đây là ông Johnson quen biết của chúng ta phải ? - Holmes với người trực phòng - ông ta là trạng sư, tóc bạc và chân hơi khập khiễng?
      - , thưa ông, ông Johnson này là chủ mỏ than, chưa già, chỉ trạc tuổi ông thôi.
      - Ông biết chắc ông ta phải là luật sư?
      - Tôi tin như vậy, ông ta là khách trọ thường xuyên của chúng tôi...
      - Vậy à? Bà Oldmore... tôi có nghe tới cái họ này ở đâu đó rồi. Xin thứ lỗi cho tôi vì quá tò mò nhưng có lần xảy ra thế này: muốn tìm người quen mà lại tìm thấy người khác.
      - Bà Oldmore được khỏe mạnh, có thời gian chồng bà là thị trưởng của Gloucester, mỗi khi đến thành phố, bà chỉ ngụ tại khách sạn của chúng tôi.
      - Xin cám ơn ông. Có lẽ tôi lầm bà ta với người phụ nữ khác... Nhưng vấn đề này giúp chúng ta xác định rất quan trọng, Watson ạ.-Holmes tiếp tục thầm khi chúng tôi theo cầu thang lên gác - Bây giờ chúng ta mới là những người chúng ta quan tâm có ở đây.
      - Thí dụ?
      - Chẳng hạn... Ô hay! Có chuyện quỷ quái gì vậy Watson?
      Chúng tôi bước vào sân thượng và gặp ngài Henry ở đây. Ông ta chạy vào cầu thang, trong tay cầm chiếc giày cũ đầy bụi, cả người đỏ bừng vì giận dữ. Lưỡi ông ta líu lại vì bực tức, và khi ông bật lên thành lời ngay lập tức bị lẫn sang Bắc Mỹ cách rệt. Điều này, lúc sáng chúng tôi nhận thấy ở ông.
      - Ở khách sạn này người ta coi tôi là thằng ngốc chắc? - Ngài Henry la lên - Tôi cho phép đùa giỡn như vậy. Nếu thằng ngu ngốc ấy tìm thấy chiếc giầy của tôi to chuyện cho mà xem! Tôi cũng thích cười cợt, nhưng lần này những kẻ ưa bỡn cợt ở đây hơi quá đáng.
      - Ngài vẫn tìm chiếc giày mất phải ?
      - Vâng, tìm và tôi tìm thấy.
      - Nhưng ngài đó là chiếc giày màu nâu mới cơ mà?
      - Vâng, thưa ông, còn bây giờ là chiếc giày đen.
      - Thế đấy! Lẽ nào ngài sực nhớ ra và...
      - Chính vậy! Tôi có tất cả ba đôi giày: đôi màu nâu, đôi đen cũ kỹ và đôi giày đánh xi mà tôi mang đây. Chiều qua chiếc giày nâu bị mất. Còn hôm nay bị cuỗm chiếc giày đen... A, tìm thấy rồi hả? Sao nhìn chằm chằm vào tôi như thế?
      Nhân viên hầu phòng người Đức xuất với vẻ mặt lo ngại:
      - , thưa ông. Tôi hỏi tất cả mọi người rồi, ai mảy may biết gì cả.
      - Vậy đấy, hãy nghe đây, hoặc là trong chiều nay tìm được chiếc giày của ta, hoặc là ta đến chỗ viên quản lý với ông ấy là ta mau chóng rời khỏi nơi đây.
      - Chúng tôi tìm được thôi... Xin kiên nhẫn chút, thưa ngài!
      - Nên nhớ đây là lần cuối cùng đấy. Ta cho phép ai lấy cắp của ta trong cái ổ gian phi này nữa đâu?... Ông Holmes, hãy thứ lỗi cho tôi vì tôi làm ông bận tâm bởi những chuyện vặt vãnh.
      - Vậy mà những chuyện vặt vãnh ấy lại đáng để chúng ta bận tâm đấy.
      - Ông cho chúng có nhiều ý nghĩa đến thế kia ư?
      - Bản thân ngài giải thích chuyện này như thế nào?
      - Tôi có ý định giải thích. Trong đời tôi, chưa bao giờ xảy ra chuyện phi lý và quái lạ hơn thế.
      - có cái gì quái lạ hơn sao... Đúng, đúng vậy! - Holmes trầm ngâm .
      - Bản thân ông nghĩ sao về chuyện đó?
      - Xin thú là tôi vẫn chưa có kết luận dứt khoát, câu chuyện còn rất rắc rối, ngài Henry ạ. Nếu gắn nó với cái chết của bác ngài trong số 500 vụ án tôi có dịp phanh phui, đây là vụ án phức tạp nhất. Thế nhưng, trong tay tôi có những manh mối, mà rồi manh mối trong số đó đưa chúng ta đến lời giải đáp.
      Sau bữa ăn câu chuyện giữa chúng tôi diễn ra rất thoải mái, chỉ đả động chút ít vấn đề đưa bốn chúng tôi đến cuộc gặp mặt này. Khi chúng tôi sang phòng khách, Holmes mới hỏi ngài Henry Baskerville định làm gì.
      - Tôi đến lâu đài Baskerville – ngài Henry .
      - Khi nào?
      - Cuối tuần này.
      - Tôi nghĩ quyết định của ngài là đúng đắn. Giờ đây tôi có đủ lý do để tin rằng ở London ngài bị giám sát chặt chẽ. Ở thành phố lớn như thế này khó lòng mà xác định họ là ai và họ muốn gì. Nếu họ hành động với những ý đồ xấu xa ngài có thể bị nguy. Bác sĩ Mortimer, ông có biết là sáng nay lúc các ông rời khỏi nhà tôi, ai theo dõi các ông ?
      Bác sĩ Mortimer nhổm phắt lên:
      - Theo dõi? Ai vậy?
      - Đáng tiếc, tôi thể là ai. Trong số những ngươi láng giềng hoặc quen thuộc của ông ở Dartmoor có ai râu đen và rậm ?
      - ... nhưng, gượm ... mà tất nhiên... Viên quản lý của ngài Charles, ông Barrymore có râu đen và rậm.
      - Hừ! Vậy giờ ông ta ở đâu?
      - Ở lâu đài Baskerville. Tòa nhà được ông ta trông nom.
      - Cần kiểm tra xem quả ông ta có ở đấy hay là ở London?
      - Làm sao làm được?
      - Đưa cho tôi mẫu điện tín. “ chuẩn bị để ngài Henry trở về chưa?” Chúng ta ghi địa chỉ thế này. “Lâu đài Baskerville gửi ông Barrymore”. Bưu điện gần nhất ở chỗ ông là ở đâu? Grimpen phải ? Được lắm? Chúng ta gửi bức điện thứ hai - cho người phụ trách bưu điện: “ cầu chuyển tận tay ông Barrymore theo địa chỉ được ghi bức điện. Nếu ông ta tình cờ vắng mặt, hãy chuyển lại cho ngài Henry Baskerville, khách sạn Northumberland”. Thế là được rồi. Đến tối là chúng ta biết Barrymore có mặt tại Devonshire hay ?
      - tuyệt? - Ngài Henry - Bác sĩ Mortimer này, nhân tiện hỏi thêm, Barrymore là ai vậy?
      - Ông ta là con của viên quản lý thái ấp chết. Đó là thế hệ thứ tư của dòng họ ông ta sống ở lâu đài Baskerville. Ông và vợ ông ta là những người đáng kính trọng.
      - Tuy vậy - Ngài Henry hỏi - Tôi cũng rất là chừng nào lâu đài Baskerville còn chưa có chủ những người này còn được sống no đủ, nhàn nhã và vô tư lự.
      - Vâng, đúng thế.
      - Barrymore có được nhận cái gì đó theo di chúc của ông Charles chứ?
      - Theo chúc thư, ông ta và bà vợ mỗi người được nhận 500 bảng.
      - Hừ! Họ biết điều đó à?
      - Vâng, ngài Charles ưa về những quyết định của mình trong trường hợp ngài qua đời.
      - kiện đáng quan tâm đấy.
      Bác sĩ Mortimer :
      - Tôi hy vọng là ông bắt đầu ngờ vực tất cả những ai nhận tiền theo di chúc của ngài Charles chứ? Ngài cũng để lại cho tôi 1.000 bảng.
      - Còn ai nữa ?
      - Trong di chúc còn quy định nhiều khoản tiền cho những người khác và món tiền lạc quyên lớn dành cho các mục đích từ thiện. Tất cả tài sản còn lại thuộc về ngài Henry.
      - Tổng số là bao nhiêu?
      - 740.000 bảng.
      Holmes nhíu mày kinh ngạc:
      - Tôi thể ngạc nhiên về số tiền khổng lồ như thế - Holmes .
      - Ngài Charles nổi tiếng là người giàu có nhưng số tiền thực của gia tài ngài chỉ được biết sau khi chúng tôi xem xét các giấy tờ có giá trị. Tổng số tài sản của ngài lên tới bạc triệu.
      - Quả , vì khoản tiền kếch xù như vậy, người ta có thể sẵn sàng nhúng tay vào những trò mạo hiểm. Còn vấn đề nữa, bác sĩ Mortimer, chúng ta giả thiết là chuyện gì đó xảy ra với người bạn trẻ của chúng ta... giả thiết lấy gì làm dễ chịu lắm, mong ngài thứ lỗi cho tôi... vậy khi đó ai kế thừa thái ấp?
      - Bởi vì em út của ngài Charles, ngài Rodger Baskerville chết mà có vợ, lâu đài Baskerville chuyển về tay những người họ hàng xa. Cho James Desmond, linh mục già sống ở Westmorland.
      - Xin cám ơn ông. Tất cả nhưng chi tiết này đều đáng lưu ý. Ông có dịp gặp gỡ James Desmond chứ?
      - Vâng ông ta có đến chỗ ngài Charles. Đó là người có bề ngoài rất đáng kính trọng, và có nếp sống hoàn hảo. Tôi nhớ là ngài Charles muốn chu cấp cho ông, nhưng ông khăng khăng chối từ.
      - Con người khiêm tốn đó có thể kế thừa tài sản của ngài Charles chứ?
      - Thái ấp chỉ thuộc về ông ta, trong trường hợp nếu người cai quản giờ sử dụng chúng. Hoàn toàn có khả năng như vậy, vì ngài Henry rất có thể tự do dùng gia tài theo quan điểm riêng của mình.
      - Ngài lập di chúc phải , ngài Henry?
      - , ông Holmes. Tôi chưa có giờ, chỉ vì tới hôm qua, tôi mới thể là thế nào. Tuy vậy, cũng như bác tôi, tôi nghĩ rằng tiền bạc phải đôi với tước vị và thái ấp, vì nếu có tiền làm thế nào trùng tu được thái ấp Baskerville?
      - Hoàn toàn đúng. Vậy đó, ngài ạ, tôi cũng cho rằng ngài cần Denvonshire ngay tức khắc, nhưng với điều kiện: trong tình huống nào ngài cũng thể được đâu mình cả. - Holmes .
      - Bác sĩ Mortimer trở về cùng với tôi.
      - Nhưng công việc nghề nghiệp làm mất nhiều thời giờ của bác sĩ Mortimer, vả lại ông ấy sống cách lâu đài Baskerville tới vài dặm. , dù mong muốn đến mức nào bác sĩ cũng thể giúp ngài được. Ngài cần có người đáng tin cậy bên mình và người này lúc nào cũng phải ở cạnh ngài.
      - Ông có thể theo tôi ?
      - Nếu công việc đến mức nguy kịch dù sao tôi cũng đến chỗ ngài. Nhưng, phạm vi hoạt động rộng rãi cũng như các mối quan tâm thường xuyên của tôi cho phép tôi rời khỏi London với thời gian vô định được.
      - Ông khuyên ai thay thế ông?
      Holmes đặt tay lên vai tôi:
      - Nếu bạn tôi chấp thuận trong những giây phút khó khăn, ngài có thể trông cậy vào giúp đỡ của ấy.
      Lời đề nghị trút xuống người tôi như gáo nước lạnh đổ vào đầu, thế nhưng chờ đợi câu trả lời của tôi, Henry Baskerville nồng nhiệt lắc lắc tay tôi.
      - Bác sĩ Watson, xin ông vui lòng chấp thuận. Nếu ông đến lâu đài Baskerville và sống ở đó với tôi tôi bao giờ quên điều đó!
      Những lời của Holmes cùng nồng nhiệt của Nam tước trong việc đáp lại lời đề nghị của thực lôi cuốn tôi.
      - Tôi vui lòng tới lâu đài Baskerville với ngài.
      - chuyển đến cho tôi bản phúc trình chi tiết. Tôi chỉ đạo các hoạt động của . Tôi cho rằng có thể ấn định chuyến vào thứ bảy.
      - Bác sĩ Watson, ông có đồng ý ?
      - Hoàn toàn nhất trí.
      - Nghĩa là nếu có gì thay đổi, chúng ta chuyến tàu 9 giờ 30 ngày thứ bảy từ ga Paddington.
      Chúng tôi đứng lên sửa soạn giã từ, đột nhiên Henry kêu lên và với vẻ mặt vui mừng ông rút từ dưới chiếc tủ đứng ở góc phòng ra chiếc giày màu nâu sáng.
      - Đây rồi vật thất lạc của tôi đây rồi!
      - Phải chi những chuyện khó khăn khác đều được giải quyết suôn sẻ hay biết mấy! - Holmes .
      - Nhưng dẫu sao điều đó cũng rất lạ lùng - Bác sĩ Mortimer lưu ý - Trước khi ăn cơm, tôi lùng sục khắp căn phòng mà.
      - Và tôi cũng chú ý đến tất cả các góc. ở đâu có chiếc giày cả. - Henry .
      - Nghĩa là người hầu phòng nó vào đây lúc chúng ta ăn cơm.
      Người hầu phòng Đức cũng khôn gcho biết được thêm điều gì. ta thề rằng tìm khắp nơi nhưng tìm thấy. Như vậy, lại thêm điều bí vào hàng loạt những điều bí mật khác. Chưa kể cái chết thê thảm của ngài Charles, trước mắt chung tôi trải ra chuỗi kiện chưa được sáng tỏ xảy ra trong vòng chỉ hai ngày. Lá thư được xếp bằng những chữ cắt từ báo. Người lạ mặt râu rậm trong xe mui. thất lạc ban đầu của chiếc giày nâu mới và sau đó là chiếc giày đen cũ, còn bây giờ là xuất chiếc giày nâu đó.
      đường trở về đường Baker, Holmes ngồi im lặng trong xe mui và cứ xét theo đôi lông mày nhíu lại và cái nhìn căng thẳng của , có thể nhận thấy cũng như tôi mong muốn xâu chuỗi tất cả các kiện lạ lùng tưởng như liên quan gì với nhau này thành hệ thống duy nhất. Cả chiều và tối hôm đó, ở trong phòng làm việc của mình, chìm đắm trong suy nghĩ triền miên. Ngay trước bữa ăn trưa có hai bức điện chuyển cho chúng tôi. Bức điện đầu tiên viết:
      “Vừa được biết là Barrymore vẫn ở lại điền trang.
      BASKERVILLE.”
      Và bức điện thứ hai viết:
      khắp 23 khách sạn, tiếc là tìm thấy những trang báo Times bị cắt.
      CARTWRlGHT.”
      - Thế là hai sợi chỉ bị đứt ngay tức khắc, Watson. Thôi được, chúng ta lần theo dấu vết khác vậy.
      - còn có cơ sở ở người đánh xe chở kẻ lạ mặt kia mà!
      - Rất đúng. Tôi hỏi họ tên và địa chỉ của ở văn phòng cho thuê xe và tôi ngạc nhiên nếu tiếng chuông gọi cửa ta nghe cho ta câu trả lời.
      Câu trả lời thậm chí còn hơn cả mong đợi của Holmes, bởi vì sau cánh cửa phòng làm việc thấy xuất chàng trai cao lớn.
      - Ở văn phòng họ với tôi là có vì ở địa chỉ này muốn hỏi về số xe 2704 - ta . - 7 năm điều khiển xe, tội bao giờ phải nghe lời khiếu nại nào cả. Tôi nghĩ chính mình phải rẽ lại đây để trực tiếp nhận ra sai sót của mình là ở đâu.
      - Ông có sai sót nào cả. Ngược lại tôi trả tiền công hậu hĩ; chỉ xin ông trả lời thẳng vào các câu hỏi của tôi.
      - Ông cần gì? Thưa ông?
      - Trước hết tôi cần biết họ, tên và địa chỉ của ông, để khi cần, tôi có thể tìm ông.
      - Tôi tên John Clayton, ở tại nhà số 3, phố Turpey, Borough. Xe mui đậu ở bến Shipley Yard, cạnh ga Waterloo.
      Holmes ghi lại tất cả điều đó.
      - Còn bây giờ, ông hãy kể cho tôi nghe về người hành khách của ông, cái người quan sát ngôi nhà, rồi sau đó theo dõi hai người ở đường Regent vào lúc 10 giờ sáng nay ấy.
      Người lái xe mui nhìn vào Holmes, vẻ kinh ngạc và hình như hơi lo ngại.
      - Biết kể với ông ra sao, khi chính ông biết những chuyện đó hơn cả tôi. - ta trả lời - Người hành khách với tôi rằng ông ta là thám tử và được tiết lộ về chuyện đó...
      - Ông bạn ạ, ở đây có vụ án nghiêm trọng. Nếu ông có ý định che giấu tôi điều gì có thể ông rơi vào tình trạng hay. Thế nghĩa là ông ta nhận mình là thám tử?
      - Vâng, thưa ông!
      - Ông ta câu đó vào lúc nào?
      - Lúc lên xe.
      - Ông ta còn chuyện gì nữa ?
      - Còn họ tên của mình.
      Holmes nhìn tôi vẻ đắc thắng.
      - Họ tên của ông ấy? Vậy là rất thiếu thận trọng. Tên ông ta là gì?
      - Tên ông ấy - Viên lái xe mui - là Sherlock Holmes.
      Câu trả lời của người lái xe mui quả làm bạn tôi sững sờ. Trong cuộc đời mình, tôi chưa từng nhìn thấy vẻ bàng hoàng biểu lộ nét mặt của đến mức như thế tới hai phút liền, thể mở miệng được lời, sau đấy cười khanh khách và lớn:
      - quả đấm, Watson ạ! quả đấm đích đáng. Thanh kiếm trong tay đối thủ chịu nhường tôi cả về tốc độ lẫn chính xác. Lần này thắng tôi cách ngoạn mục. Vậy tên ông ta là Sherlock Holmes phải ?
      - Vâng, thưa ông, ông ta như thế.
      - xuất sắc! Bây giờ hãy kể cho tôi biết ông nhận người hành khách đó ở chỗ nào và cái gì xảy ra tiếp sau đó.
      - Ông ta gọi tôi vào lúc 9 giờ rưỡi sáng tại quảng trường Trafalgar. Ông ấy : Tôi là thám tử và hứa trả cho tôi 2 guinea nếu tôi thực chính xác những mệnh lệnh của ông và nếu tôi gạn hỏi điều gì cả. Tôi chờ ông ra tới khách sạn Northumberland và dừng lại tại đây. Sau đó từ trong khách sạn, có hai người ra gọi xe mui và đến phố của ông.
      - Tới chính ngôi nhà tôi đây. - Holmes .
      - Ông ấy bảo tôi dừng ở giữa ngã tư và chúng tôi đợi ở đó chừng nửa giờ. Sau đấy có hai người qua, và thế là chúng tôi theo sau họ, dọc đường Baker rồi ra ngoặt vào...
      - Điều ấy tôi biết rồi - Holmes .
      - Khi tới đường Regent, ông ta đóng cửa sổ xe và lớn: hãy phóng đến ga Waterloo. Tôi quất đen đét vào con ngựa và 10 phút sau chúng tôi tới chỗ cần đến. Tại đó, ông ta đưa tiền cho tôi theo đúng lời hứa rồi ra ga. Vào phút cuối, ông ta quay lại : Có lẽ ông muốn biết ông vừa chở ai chứ? Tôi là Sherlock Holmes đây?
      - Được, tôi hiểu. Ông nhìn thấy ông ta nữa chứ?
      - , vì ông ta vào nhà ga.
      - Thế bây giờ ông hãy tả cho tôi biết dáng vẻ của ông Sherlock Holmes .
      Người đánh xe gãi gãi vào gáy.
      - Khó tả lắm. Ông ta khoảng dưới 40 tuổi, vóc người tầm thước, thấp hơn ông chừng 2, 3 inch thưa ông. Ăn mặc tươm tất, râu đen, mặt tai tái. Tôi thể kể điều gì hơn được nữa, thưa ông.
      - Màu mắt ra sao?
      - Tôi để ý...
      - Ông nhớ được điều gì khác nữa?
      - , thưa ông.
      - Thôi được rồi. Tiền thưởng của ông đây. Ông còn nhận được thêm, nếu ông dò hỏi điều gì về con người ấy. Chúc ông mọi tốt đẹp.
      - Chúc ông luôn khoẻ mạnh, thưa ông. Xin cám ơn ông.
      John Clayton vừa cười vừa lui ra, còn Holmes nhún vai và với nụ cười ngao ngán, quay lại chỗ tôi.
      - Thế là sợi chỉ thứ ba cũng đứt rồi. Giờ đây hãy làm ơn bắt tay vào công việc từ đầu vậy. gã ranh mãnh? biết số nhà của chúng ta, biết ngài Henry Baskerville đến đây để nhờ khuyên bảo, nhìn thấy tôi ở đường Regent, đoán ra số xe có thể bị chú ý rồi người ta tìm ra người đánh xe, và nhạo báng tôi. Watson, chúng ta có đối thủ xứng đáng. Tôi bị thất bại ở London. Chúng ta hy vọng là gỡ gạc lại ở Devonshire. Nhưng dẫu sao điều đó cũng khiến tôi lo ngại.
      - Về cái gì?
      - Về chuyến của . Vụ án hay và nguy hiểm. Càng nghĩ về nó, tôi càng thấy lo ngại hơn. có thể cười nhạo tôi, nhưng tôi rất vui nếu như trở về đường Baker bình an vô .

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 6: Lâu đài Baskerville

      Chúng tôi lên đường như giao ước. Lúc tiễn tôi ra sân ga, trong suốt đoạn đường, Holmes chỉ dẫn và khuyên bảo tôi những điều cần thiết.
      - Tôi với là tôi nghi ngờ ai và cũng thiết lập những giả thiết như thế nào để khỏi có định kiến nào cả. Tôi cần các kiện được trình bày cách tỉ mỉ, rồi tự bản thân tôi đối chiếu chúng với nhau.
      - Vậy cái gì khiến quan tâm?
      - Tất cả những gì có liên quan tới vụ án, đặc biệt là mối quan hệ giữa ngài Henry và những láng giềng của ông ta. Còn nếu ta biết được điều gì mới mẻ về cái chết của ngài Charles hãy lưu ý đến nó. Những ngày gần đây, tôi có dò hỏi, nhưng đáng tiếc chỉ mới được điều: người thừa kế gần nhất, ông James Desmond, quả là con người hiền hậu. Ông ta thể có mưu đồ thâm hiểm nào cả. Tôi nghĩ, chúng ta có thể mạnh dạn loại trừ việc tìm hiểu ông vào những ngày sắp tới. Nghĩa là chỉ còn lại những người trực tiếp sống quanh ngài Henry Baskerville.
      - Chẳng phải tốt hơn cả là sa thải ngay vợ chồng Barrymore hay sao?
      - Sao lại thế được? Nếu họ có tội đó bất công ghê gớm. Còn nếu họ có tội chính ta bị mất đầu mối dẫn tới hung thủ. ! Nếu tôi lầm, trong danh sách tình nghi có người đánh xe ngựa, hai điền chủ; bác sĩ Mortimer, có lẽ là người hoàn toàn ngay thẳng, và vợ của ông chúng ta chưa biết gì cả. Chớ quên nhà tự nhiên học Stapleton với em . Nghe người ta đó là trẻ trung và vô cùng quyến rũ. Thêm vào đó còn có ông Frankland ở lâu đài Lafter. Rồi hai, ba người láng giềng khác nữa. Đấy là những người cần được theo dõi.
      - Tôi cố gắng hết sức.
      - có mang theo vũ khí .
      - Có. Tôi cho vậy là khôn ngoan hơn.
      - Dĩ nhiên. Hãy mang theo súng lục cả ban ngày lẫn ban đêm.
      Những người bạn của chúng tôi kịp mua vé hạng nhất và chờ chúng tôi sân ga.
      - , có gì mới xảy ra cả - Bác sĩ Mortimer để đáp lại câu hỏi của bạn tôi - Tôi có thể xin thề rằng trong hai ngày vừa qua, có ai bám gót chúng tôi cả.
      - Tôi hy vọng là những ngày vừa rồi các vị luôn ở cạnh nhau chứ?
      - Vâng trừ ngày hôm qua. Tôi dành trọn ngày để tiêu khiển nhân chuyến tới thành phố này. Hôm qua tôi ở Viện bảo tàng của Trường đại học Y khoa.
      - Còn tôi công viên để ngắm người qua lại. Mọi chuyện đều tốt đẹp. - Henry .
      Holmes chau mày và lắc đầu, :
      - Như vậy được thận trọng lắm. Tôi cầu ngài đừng có đâu khi có ai cùng, nếu , ngài thoát khỏi tai họa đâu. Ngài tìm thấy chiếc giày cũ rồi à?
      - Chưa, nó vẫn biệt tăm.
      - vậy ư? Kỳ ! Xin chúc ngài mọi tốt đẹp - Holmes thêm khi tàu bắt đầu chuyển bánh - Ngài Henry, mong ngài hãy nhớ lời khuyên bảo của truyền thuyết kỳ lạ, xin đừng vào khu đầm lầy than bùn lúc ban đêm, lúc mà những thế lực ác độc còn thống trị ở đó.
      Tôi ngoái nhìn ra ngoài cửa sổ và nhận thấy bóng hình gầy gò cao cao của Holmes ở phía xa. đứng bất động sân ga và nhìn theo con tàu xa dần. Con tàu lướt nhanh, tôi thấy thích thú khi ngắm bác sĩ Mortimer ngủ gà ngủ gật. Qua chừng hai ba giờ, đất đai dọc con đường thay sắc nâu bằng sắc đỏ, gạch nhường chỗ cho đá hoa cương, còn những cánh đồng cỏ mượt được ngăn ra, có những con bò cái nhởn nhơ gặm cỏ.
      Nhà quý tộc trẻ tuổi rời mắt khỏi cửa sổ, mồm luôn trầm trồ trước phong cảnh của quê hương.
      ông :
      - Chỉ có tôi là chưa có dịp đến thăm từ khi rời khỏi đây, bác sĩ Watson ạ! Dẫu sao vẫn thể so sánh nơi đây với nơi nào khác.
      - Có người nào lại ca ngợi quê hương mình! – Tôi nhận xét.
      - Ngài Henry, hình như từ buổi ấu thơ đến giờ ngài vẫn chưa nhìn thấy lâu đài Baskerville? – Bác sĩ Mortimer hỏi.
      - Tôi chưa bao giờ trông thấy, bởi chúng tôi sống tại biệt thự bờ biển phía Nam. Lúc cha tôi qua đời tôi mới 13 tuổi. Tôi lập tức đến Mỹ. Ở đây đối với tôi hầu như hoàn toàn mới lạ, và quả tôi chờ xem khi nào đầm lầy than bùn xuất .
      - Thế ư! Vậy ước mong của ngài được thực . Ngài có thể ngắm nhìn nó kìa! - Bác sĩ Mortimer vừa vừa chỉ ra ngoài cửa sổ.
      Xa xa, phía sau những ô hình vuông xanh non của các bãi chăn gia súc, phía sau bìa rừng lượn sóng là quả núi với đỉnh hình răng cưa màu xám nổi lên hiu quạnh.
      Nam tước rời mắt nhìn cảnh tượng đó. Cái nhìn nồng cháy. Con người trẻ tuổi mặc bộ quần áo thể thao với giọng lơ lớ Bắc Mỹ ấy ngồi cạnh tôi trong toa tàu đường sắt xoàng xĩnh. Cặp lông mày rậm, lỗ mũi và đôi mắt to màu nâu sẫm chứng tỏ lòng tự hào, tính can trường và sức mạnh của ông. Nếu những cánh đầm lầy than bùn đặt chúng tôi đối diện với nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, chúng tôi cũng có thể vì con người này mà quản ngại điều gì, bởi lẽ ông cũng dũng cảm chia sẻ với chúng tôi bất kỳ hiểm nguy nào.
      Con tàu dừng cạnh nhà ga bé , hiu quạnh. Chúng tôi bước xuống toa tàu. Phía sau hàng rào thấp, có cỗ xe bốn bánh được thắng bằng cặp ngựa vạm vỡ. có mặt của chúng tôi ràng là kiện lớn ở đây, bởi vì ngay cả người trưởng ga cùng các phu khuân vác đều tranh nhau xách hành lý của chúng tôi. Đó là thị trấn thôn quê đáng , tuy vậy tôi rất ngạc nhiên khi thấy cạnh cửa ra vào của sân ga có hai người lính trong bộ quân phục màu sẫm đứng tựa vào súng carbin và chăm chú nhìn chúng tôi. Người xà ích bé, ngả mũ chào ngài. Vài phút sau, chúng tôi lao nhanh theo con đường rộng rãi. Dọc hai bên đường lên những triền cỏ xanh tươi, những ngôi nhà mái nhọn nhô ra từ chòm là cây rậm rạp, nhưng ở phía trước, nổi lên những đường viền mờ mờ của khu đầm lầy than bùn sẫm lại nơi chân trời buổi chiều, bị đứt đoạn bởi đinh nhọn hoắt của những quả đồi chứa muôn vàn điềm dữ.
      Xe chúng tôi rẽ vào con đường dốc và bắt đầu chạy giữa kẽ đất cao phủ những cây mộc tặc mập mạp và làn rêu ẩm ướt. Những cây dương xỉ lấp loáng trong ánh chiều tà. Khi tiếp tục lên cao, chúng tôi qua chiếc cầu hẹp bằng đá vắt qua con suối chảy xiết, nước đập mạnh vào những tảng đá xám tung bọt trắng xoá. Cả con đường lẫn con suối uốn lượn theo thung lũng rậm rạp cây sồi và cây thông.
      Ở chỗ rẽ vào, nhà quý tộc sảng khoái kêu lên, và khi tò mò ngoảnh nhìn khắp mọi phía, ông luôn dồn dập hỏi chúng tôi, những câu hỏi hầu như vô cùng vô tận. Theo quan điểm của ông, mọi thứ ở đây đều tuyệt vời, thế nhưng tôi lại thoát khỏi nỗi buồn rầu mà những cánh đồng có cùng những quả đồi thoai thoải phảng phất dấu vết của mùa thu. Những chiếc lá vàng bay bay mặt đất phủ lên những con đường mòn như những tấm thảm. Tiếng bánh xe ngừng kêu bỗng như bị chìm vào trong lớp cỏ mục dày đặc. Thiên nhiên ném xuống dưới chân ông chủ mới của lâu đài Baskervill đến món quà thiểu não là sao - Tôi chợt nghĩ.
      - Hãy nhìn kìa - Bác sĩ Mortimer đột nhiên kêu lên - Cái gì thế?
      Trước mắt chúng tôi ra quả núi dựng đứng: Sắp tới khu đầm lầy than bùn rồi. đỉnh núi nổi hình người cưỡi ngựa vươn về phía trước với khẩu súng trường trong tay.
      - Kỳ lạ ? Thế là thế nào? - Bác sĩ Mortimer hỏi.
      Người đánh xe ngựa ngoái cổ lại:
      - Thưa ngài, người tù trốn khỏi trại giam Princetown. Người ta lùng ba ngày nay. Người ta đặt trạm canh tất cả các con đường và ở tất cả các nhà ga mà vẫn vô ích.
      - Tôi nghe rằng người ta thưởng 5 bảng cho ai cung cấp tin tức về tên đào tẩu.
      - Quả vậy thưa ngài. Nhưng chỉ 5 bảng mà có thể bị ta cứa cổ ít quá. Đó phải là tên ăn cắp vặt đâu.
      - Vậy là ai?
      - Selden, kẻ giết người ở Notting Hill.
      Tôi nhớ vụ án Selden, vì có thời gian Holmes tìm hiểu nó khi quan tâm tới tính chất hung bạo và dã man cần thiết của hung thủ.
      Chiếc xe bốn bánh bò lên quả đồi. Trải dài trước mắt chúng tôi là khoảng gian rộng rãi của khu đầm lầy. Gió lạnh quét qua đồi, và chúng tôi run rẩy. Đâu đó trong vùng hoang vắng này, tên tội phạm náu, oán hận loài người đẩy y ra ngoài lề xã hội.
      Những vùng màu mỡ lùi lại ở đằng sau và phía dưới chúng tôi. Ngoảnh lại nhìn, chúng tôi thấy những tia nắng ban chiều giống như những dải băng vàng rực rỡ đất cày vỡ và những bụi cây rậm rạp. Con đường vượt qua những đỉnh đèo màu ô liu pha đỏ càng trở nên tiêu điều và hoang vắng hơn. Thỉnh thoảng, trước mắt chúng tôi ra những biệt thự có tường đá bao quanh. Và sau đó, chúng tôi nhận thấy thung lũng giống như cái chén sâu với những cây sồi và những cây thông khẳng khiu, quằn quại xơ xác. Nổi lên cây sồi là hai cái tháp hẹp và cao. Người xà ích lấy roi chỉ về phía chúng và :
      - Lâu đài Baskerville đấy!
      Người chủ thái ấp đứng lên để nhìn cho , má ửng đỏ, mắt sáng hẳn lên. Vài phút sau, chúng tôi đến gần cánh cổng lớn bằng gang có hoa văn với hai chiếc cột phủ đầy rêu có hình đầu gấu. Đó là biểu tượng của dòng họ Baskerville. Ngôi nhà bằng đá với những chiếc vì kèo lồi hẳn ra, trong tình trạng hoang phế. Tuy nhiên, phía trước ngôi nhà tồi tàn này lại là ngôi nhà mới, chưa hoàn thành, đó là công trình đầu tiên mà ngài Charles tạo nên nhờ số vàng mang từ Nam Phi về.
      Hai hàng cây cao già cỗi chạy phía sau cánh cổng. Cành lá chập lại làm thành vòm cây mờ mờ tối ở đầu chúng tôi. Tiếng bánh xe chìm trong thanh lạo xạo của lá cây. Ngài Henry rùng mình khi nhìn con đường hun hút rợp bóng cây, ở cuối con đường lên hình dáng ngôi nhà hư ảo.
      - Chuyện xảy ra ở đây phải ? - ông thầm hỏi.
      - , phải. Con đường thông đỏ ở phía kia cơ!
      Người thừa kế trẻ tuổi ném cái nhìn u ám vào cảnh vật quanh mình, :
      - Tôi chẳng ngạc nhiên vì sao bác tôi ở nơi như thế này, lại thường xuyên chờ đợi nỗi bất hạnh nào đấy Nỗi kinh hoàng đổ xuống đầu bất kỳ ai. Trong vòng 6 tháng, tôi kéo điện đến đây và rồi các ông nhận ra những chỗ này nữa đâu! Ở cạnh cửa ra vào này, những ngọn đèn nghìn nến cháy sáng.
      Cuối con đường là thảm cỏ rộng, chúng tôi vòng qua đó, đến tòa nhà. Trong lúc nhá nhem tối, tôi chỉ có thể trông thấy mặt tiền và bậc thềm nhà; nổi lên bên của tòa nhà là hai chiếc tháp hình răng cưa với những lỗ châu mai cũ kỹ. Tiếp giáp với chúng, cả phía bên phải và bên trái là hai chái nhà ngang làm bằng đá hoa cương đen. Ánh đèn tù mù hắt qua những ô cửa sổ trong ra bãi cỏ, làn khói đen lơ lửng bên mái nhà nhọn dựng đứng với những ống khói cao nhất.
      - Nồng nhiệt chúc mừng ngài Henry! Chúc mừng ngài đến lâu đài.
      Từ bóng tối đổ xuống nơi bậc thềm, ngươi cao cao xuất . Ông ta mở cửa xe. Trong lối cửa ra vào được chiếu sáng của tòa lâu đài, bóng đàn bà xuất . Bà ta cũng lại chỗ chúng tôi, giúp người đàn ông xách va li.
      - Ngài Henry, ngài phản đối nếu tôi thẳng về nhà chứ? Nhà tôi chờ tôi - Bác sĩ .
      - Hãy nán lại ăn tối với chúng tôi .
      - Thôi, quả là thể được. Tôi rất vui lòng chỉ dẫn cho ngài ngôi nhà của mình, thế nhưng Barrymore làm việc đó tốt hơn tôi. Xin chúc mọi tốt đẹp. Nhớ là bất cứ lúc nào ngài cần đến tôi, hãy gọi tôi đến, đừng ngại ngùng gì cả đấy!
      Tiếng bánh xe chìm dần vào trong con đường rợp bóng cây, cánh cửa nặng nề đóng sầm lại phía sau chúng tôi.
      Lâu đài là tòa nhà rất đẹp, thoáng rộng với những chiếc xà to chắc bằng gỗ sồi sẫm lại vì thời gian. Trong lò sưởi cũ kỹ có thanh ngang để những thanh củi nổ lép bép, cháy xèo xèo. Bị buốt lạnh sau chuyến kéo dài, tôi và ngài Henry cùng hơ tay ngọn lửa. Sau đấy, chúng tôi bắt đầu quan sát trang trí trong lâu đài: cửa kính màu cao và hẹp, những đầu hươu và gia huy tường lờ mờ nổi lên trong ánh sáng mờ ảo của đèn chùm.
      - Chính chúng tôi cũng hình dung tất cả mọi thứ như thế này - Ngài Henry - Đây là tổ ấm thực của dòng họ, tổ tiên tôi sống ở ngay ngôi nhà này trong những năm thế kỷ. Tôi gần như cứng người lại khi tưởng tượng lại cảnh huy hoàng.
      Khuôn mặt rắn rỏi của ông ánh lên nỗi sảng khoái hồn nhiên. Ông đứng trong quầng ánh sáng đổ xuống từ đèn chùm còn những chiếc bóng dài đổ xuống các bức tường và đặc quánh lại như bức màn đen đầu ông.
      Barrymore mang va li của chúng tôi về phòng từng người, rồi ông ta trở lại, kính cẩn sẵn sàng tuân thủ đòi hỏi của chúng tôi. Ông ta có cái dáng oai vệ, với bộ râu đen rậm làm nổi gương mặt tai tái.
      - Ngài muốn dùng cơm tối ngay ?
      - chuẩn bị rồi chứ?
      - Vài phút nữa, thưa ngài. Nước nóng có trong phòng của ngài. Tôi và vợ tôi rất sung sướng ở lại đây phục vụ ngài, nhưng với những nề nếp mới, ngài cần số lượng biên chế lớn hơn chăng.
      - Những nền nếp mới nào vậy?
      - Ngài Charles có nếp sống biệt lập và cả hai chúng tôi hoàn toàn có thể phục vụ ngài ấy. Còn ngài chắc sống khoáng đạt hơn và sắp xếp lại tất cả theo trật tự mới.
      - Nghĩa là ông cùng vợ ông muốn khỏi nơi này?
      - Nếu như điều đó gây phiền lòng nào cho ngài.
      - Tuy nhiên tổ tiên của ông trong vài thế hệ từng sống ở lâu đài Baskerville. Ta muốn phá bỏ những mối liên hệ gia đình lâu đời ấy.
      Tôi nhận thấy những dấu hiệu lo ngại bộ mặt tái nhợt của viên quản lý.
      - Chúng tôi rất gắn bó với ngài Charles và cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa trấn tĩnh lại được sau cái chết của ngài. Chúng tôi cảm thấy nặng nề nếu ở lại đây. Từ nay, tại lâu đài này, chúng tôi thể thấy thoải mái như trước đây.
      - Thế ông có ý định làm gì rồi?
      - Thưa ngài, tôi hy vọng là chúng tôi thành công trong việc thu xếp công việc nào đó. Còn bây giờ, hãy cho phép tôi đưa các ngài về phòng.
      Cầu thang hai nhịp dẫn lên gác của lâu đài cổ kính được bao quanh bởi hành lang có tay vịn. Từ đó chạy dọc theo tòa nhà là hai hành lang dài dẫn vào các phòng ngủ.
      Phòng của tôi nằm cùng phía với phòng của Henry. Hầu như cửa hai phòng ăn thông với nhau. ra những căn phòng này lại đại hơn so với phần trung tâm của ngôi nhà. Những tấm giấy dán tường sáng sủa, rất nhiều ngọn nến cháy sáng ngay lập tức làm dịu những ấn tượng nặng nề ở trong tôi.
      Tuy vậy, phòng ăn ở tầng dưới lại làm chúng tôi kinh ngạc bởi cái vẻ ảm đạm của nó. Đấy là căn phòng chạy dài có bệ làm bàn cho chủ nhà, được tách ra với phần kia của phòng ăn dành cho những người ở địa vị thấp hơn. Phần cuối của căn phòng là nơi dành cho ban hát rong. Phía cao là những chiếc xà nhà đen trũi, trần nhà ám đầy khói. Ngày xưa những bó đuốc rực cháy trong những bữa tiệc lớn có lẽ làm cho bầu khí vui tươi hơn. Nhưng giờ đây, trong vùng ánh sáng của ngọn đèn dầu duy nhất, giữa hai người đàn ông ăn mặc toàn màu đen, như có cái gì chùng xuống và họ buồn trò chuyện. Câu chuyện trong bàn ăn tẻ nhạt thế nào ấy, tôi cảm thấy dễ chịu hơn khi bữa ăn kết thúc và chúng tôi chuyển sang hút thuốc trong phòng chơi bi da.
      - Biết thế nào được, tình cảnh có gì là vui vẻ cả - Ngài Nam tước - Cố nhiên, có thể rồi cũng chịu được tất cả những cảnh tượng ấy, thế nhưng giờ đây tôi cảm thấy áy náy khôn nguôi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu bác tôi phát cuồng lên khi sống mình trong ngôi nhà này. Có lẽ sáng mai khí đỡ buồn tẻ hơn.
      Trước khi ngủ, tôi vén rèm, nhìn qua cửa sổ thảm cỏ trước cửa ra vào. Những cây cao phía sau thảm cỏ rên siết, vặn mình trong gió. Mặt trăng lấp ló giữa những đám mây trôi quanh và trong quầng ánh sáng lạnh lùng của ánh trăng phía sau lùm cây nổi lên những dãy núi dài và đường viền dài của khu đầm lầy. Tôi kéo kín rèm lại: ấn tượng sau cùng của tôi về lâu đài Baskerville có gì là vui vẻ và tôi chỉ muốn ngủ.
      Nhưng tôi trăn trở hoài mà giấc ngủ vẫn đến. Xa xa ở nơi nào đó, đồng hồ cứ 15 phút lại điểm lần. Đột nhiên trong đêm khuya vắng vẻ thanh rệt vang đến tai tôi. Đúng vậy, đó là tiếng thổn thức mãnh liệt, cố nén của người đàn bà. Tôi nhổm dậy giường và chăm chú lắng nghe thấy thanh gì khác ngoài tiếng đồng hồ và tiếng xào xạc của cây trường xuân.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 7: Nhà tự nhiên học

      Khi tôi cùng ngài Henry ngồi ăn sáng, ánh mặt trời rực rỡ hắt vào nhưng ô cửa sổ hẹp đổ xuống nền nhà những mảng sáng loang lổ nhiều màu sắc. Các trang trí bằng gỗ sồi đen sẫm trong những tia nắng vàng tươi lóng lánh như đồng thau. Và bây giờ chúng tôi khó lòng hình dung nổi là chỉ mới tối hôm qua thôi, căn phòng này đè nặng lên chúng tôi những cảm giác ảm đạm như thế nào.
      Nam tước :
      - Tôi nghĩ chính chúng ta mới đáng trách chứ phải ngôi nhà. Sau khi nghỉ ngơi, chúng ta cảm thấy trong người thoải mái và mọi vật chung quanh cũng tươi tắn theo.
      - Nhưng cũng thể đổ tất cả cho tâm trạng của chúng ta được, phải chăng ngài nghe thấy tiếng khóe nức nở của ai đấy vào lúc giữa đêm?
      - Trong lúc mơ màng, tôi cũng cảm thấy cái gì tương tự như thế. Tôi lắng nghe hồi lâu và sau đó cả quyết rằng đó chỉ là giấc mơ.
      - . Tôi nghe rất và tin rằng có người đàn bà khóc.
      - Ngay bây giờ cần hỏi ông Barrymore xem sao.
      Nam tước dùng chuông gọi viên quản lý tới và cầu ông ta giải thích. Tôi cảm thấy bộ mặt xanh xao của Barrymore trở nên nhợt nhạt hơn khi ông ta nghe xong câu hỏi của ông chủ:
      - Trong nhà có cả thảy hai người đàn bà, thưa ngài. là người rửa bát, ngủ ở chái nhà bên kia và người thứ hai là vợ tôi, nhưng tôi xin cam đoan với ngài rằng nhà tôi khóc.
      Ông ta đúng , bởi vì sau bữa ăn sáng, tôi có dịp đối mặt với bà Barrymore trong hành lang. Tôi thấy người đàn bà cao cao với những vết nhăn lớn mặt, môi mím lại cách nghiêm nghị. Bà đứng rất điềm tĩnh, thế nhưng đôi mắt đỏ hoe và mí mắt lại sưng tấy. Nghĩa là đêm qua bà khóc. Lẽ nào người chồng thể biết chuyện đó. Ông ta dối để làm gì? Tại sao bà ta khóc?
      Phảng phất từ con người có bộ râu đen ấy, là cái gì đầy bí và mờ ám. Ông ta là người đầu tiên tìm thấy thi thể của ngài Charles. Phải chăng chúng tôi nhìn thấy Barrymore trong xe mui phố Regent? Người lái xe về người tầm thước, nhưng ấn tượng này có thể bị sai lạc. Làm sao xác định ? Trước tiên, cần phải gặp viên phụ trách văn phòng bưu điện ở Grimpen để biết xem ông ấy có chuyển bức điện đến tận tay Barrymore hay .
      Sau bữa sáng, Nam tước soát xét lại những giấy tờ kinh doanh và tôi có thể tùy ý sử dụng thời gian của mình. Theo con đường bằng phẳng chạy dọc khu đầm lầy tôi vượt qua bốn dặm và tới ngôi làng bé, xấu xí. Tại đó, khách sạn và ngôi nhà của bác sĩ Mortimer là hai công trình xây dựng sang trọng hơn. cả. Người phụ trách văn phòng bưu điện có nhớ tới bức điện của chúng tôi.
      - Tất nhiên, thưa ngài - ông ta - Tôi chuyển nó cho ông Barrymore đúng như cầu của ngài.
      - Ai mang tới cho ông ta?
      - Đứa con trai của tôi. Này James, con chuyển bức điện cho ông Barrymore chứ?
      - Dạ.
      - Cháu trao tận tay ông ấy chứ?
      - , ông Barrymore ở đâu đó gác thượng và cháu đưa bức điện cho vợ của ông. Bà ấy hứa là lập tức chuyển cho ông.
      - Chính mắt cháu thấy ông Barrymore chứ?
      - , cháu là ông ấy ở gác thượng.
      - Sao cháu biết ông ấy ở đâu, nếu chính cháu nhìn thấy?
      - Vợ ông ấy phải biết ông ấy ở đâu chứ - Người phụ trách văn phòng bưu điện - Vấn đề là ở chỗ bức điện được chuyển đến hay chưa? Còn nếu có gì sai sót chính ông Barrymore phải hối tiết.
      Thế là mưu chước tinh khôn của Holmes có kết quả và chúng tôi vẫn Barrymore có London hay . Barrymore hành động theo xúi bẩy của ai hay là ông ta có mưu kế gian trá riêng? Tôi nhớ đến phòng xa lạ lùng được sắp đặt từ những mẩu giấy cắt rời báo. Có phải đó là công việc của chính đôi tay Barrymore hay kẻ khác có ý ngăn cản ông ta? Ngài Henry rằng nếu ông thích sống ở thái ấp của tổ tiên mình cặp vợ chồng Barrymore được đảm bảo cuộc sống yên lành cho đến cuối đời. Nhưng giải thích như vậy đủ làm sáng tỏ cái mạng lưới tình vi vây bọc Nam tước. Chính Holmes chẳng thú nhận là trong số tất cả những vụ điều tra gây ấn tượng mạnh cho mình, vụ án này là rắc rối và phức tạp nhất là gì?
      Khi trở lại con đường ảm đạm vắng vẻ, tôi có cầu trời cho bạn tôi được rảnh rỗi để có thể mau chóng đến thay tôi lĩnh trách nhiệm nặng nề này.
      Tiếng bước chân gấp ở phía sau và tiếng gọi tên tôi đột nhiên cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Tôi ngoảnh lại, thấy người đàn ông tóc vàng, trạc 35 - 40 tuổi. Ông ta cao, gầy gò, mặt mũi cao nhẵn nhụi, chiếc cằm dài và hẹp. Ông ta mặc bộ đồ màu xám, đội mũ rơm, tay cầm chiếc vợt bắt bướm màu xanh lục, vai đeo hộp gỗ.
      - Hãy thứ lỗi cho tôi, bác sĩ Watson. Ở đây chúng tôi câu nệ nghi thức, cần chờ đợi giới thiệu. Chắc có lẽ ông nghe bác sĩ Mortimer về tôi. Tôi là Stapleton.
      - Nhìn chiếc hộp và chiếc vợt nhận ra ông ngay. - Tôi thế vì ông biết ông Stapleton là nhà tự nhiên học. - Nhưng làm sao ông nhận ra tôi?
      - Tôi ở chỗ Mortimer, và lúc ông qua đấy, ông ta cho tôi biết. Tôi với ông cùng đường và thế là tôi có ý định tự giới thiệu mình. Hy vọng là ngài Henry quá mệt mỏi sau chuyến dài ngày chứ?
      - , xin cảm ơn ông, ông ấy bình thường.
      - Tất cả chúng tôi đều lo ngại là Nam tước thích sống ở đây. khó cầu người sống dư dật lại phải chôn vùi cuộc đời ở chốn thâm sơn cùng cốc. Tuy nhiên, có mặt của nam tước lại có nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống của mọi người tại đây. Câu chuyện đau buồn ấy gợi lên ở ngài Henry nỗi khiếp đảm mê tín chứ?
      - , tôi nghĩ như vậy.
      - Tất nhiên, ông biết truyền thuyết về con chó quái đản hình như luôn luôn ám ảnh dòng họ Baskerville...
      - Vâng, tôi biết.
      - Truyền thuyết hoàn toàn làm chủ trí tưởng tượng của ngài Charles và chính nó đưa ngài tới kết thúc bi thảm.
      - Bằng cách nào thế?
      - Khi thần kinh của con người căng thẳng đến như vậy xuất của bất kỳ con chó nào cũng có thể có ảnh hưởng tai hại tới trái tim bệnh hoạn. Tôi nghĩ rằng vào tối hôm đó ngài Charles quả trông thấy cái gì tương tự con đường.
      - Do đâu ông biết ngài Charles bị đau tim?
      - Bác sĩ Mortimer cho tôi biết.
      - Quả ông nghĩ là có con chó nào nhảy bổ vào ngài Charles và ngài chết vì khiếp sợ phải ?
      - Dễ thường ông có những bằng chứng đáng tin cậy hơn chăng?
      - .
      - Thế còn ông Sherlock Holmes?
      Trong khoảnh khắc tôi nghẹt thở vì những lời này, tuy nhiên nét mặt trầm tĩnh và cái nhìn bình thản của người tiếp chuyện khiến tôi tin rằng ông ta ý gì.
      - Bác sĩ Watson, vì sao chúng ta giấu giếm nhau thế nhỉ. Những tin đồn về người thám tử danh tiếng vang đến vùng chúng tôi. Và nếu như ông có mặt ở đây có nghĩa là ông Sherlock Holmes rất quan tâm đến vụ này. Cố nhiên, tôi tò mò muốn biết quan điểm của ông ấy ra sao?
      - Than ôi! Tôi thể trả lời được câu hỏi của ông.
      - Vậy hãy cho phép tôi hỏi ông: ông ấy đến thăm chúng tôi chứ?
      - Bây giờ ấy có những vụ án khác.
      - Đáng tiếc! Ông ấy có thể rọi ánh sáng vào cái còn được giấu kín trong bóng tối. Nhưng ông cũng tiến hành điều tra, bác sĩ Watson, tôi đủ sức giúp đỡ ông. Hãy sai bảo tôi khi cần thiết.
      - Xin cam đoan với ông là tôi chỉ tới thăm ngài Henry.
      - tuyệt vời! - Stapleton thốt lên - Ông xử hoàn toàn đúng: trước hết phải thận trọng. Tôi rất đáng bị từ chối như vậy. Tôi xin hứa là đụng tới vấn đề này nữa.
      Chúng tôi tới địa điểm ở phía bên phải con đường nơi bắt đầu lối mòn dẫn qua khu đầm lầy. Chếch về phía trái là quả đồi dựng đứng. đó, trước kia có công trường khai thác đá, sườn đồi hướng về phía chúng tôi là triền dốc thẳng đứng phủ đầy cây dương xỉ. Xa xa, ở phía chân trời, những làn khói xám cuộn lên.
      - Từ đây tới Merripit còn bao xa. - Stapleton - Nếu ông vui lòng nhìn chút giờ, tôi giới thiệu ông với em tôi.
      Ban đầu tôi nghĩ rằng: Mình cần ở cạnh ngài Henry, nhưng rồi lại nhớ đến tính toán tiền của và những giấy tờ chất đống bàn làm việc của ông. Mặt khác, Holmes lại cầu tôi làm quen với những người sống kế cận lâu đài Baskerviìle. Tôi chấp nhận lời mời của Stapleton.
      - Vùng này tuyệt vời! - ông ta và ngước nhìn dải đồi màu xanh lượn sóng - bao giờ ông hiểu vùng này đâu. Nó có chứa vài bí mật. bao la, hoang vắng và bí !
      - Ông biết vùng này chứ?
      - Tôi ở đây tới hai năm. Những người sống lâu ở địa phương gọi tôi là lính mới. Nhưng tôi kịp tìm hiểu từng ngõ ngách ở đây; giờ, tại đây ít ai hiểu khu này bằng tôi.
      - Chẳng lẽ việc này lại khó khăn đến thế?
      - Rất khó! Này nhé, ông hãy nhìn cái bình nguyên với những quả đồi kỳ lạ trồi lên ở đằng kia. Theo ông vì sao nó đáng chú ý?
      - Có thể phi nước đại đó.
      - Bất kỳ ai ở cương vị của ông cũng như thế, vậy ấy mà ít những sai lầm. Hãy nhìn xem có bao nhiêu bãi cỏ xanh đó?
      - Có lẽ ở đó đất tốt hơn phải ?
      Stapleton phì cười:
      - Trước mắt ông là vùng đầm lầy Grimpen rộng lớn. Tại đó, chỉ cần bước thận trọng là đời nhà ma. Mới hôm qua, tôi trông thấy con ngựa của ai đó lạc vào đấy và tất nhiên là bao giờ về nữa. Cái đầu của nó nổi lên mặt đầm lầy. Nó cố gắng ngoi lên nhưng rồi cuối cùng vẫn thoát khỏi. Ở đấy thậm chí vào mùa khô cũng nguy hiểm. Tuy vậy, tôi nhiều lần lọt vào ngay giữa trung tâm của nó và lần nào cũng trở về an toàn. Hãy nhìn xem, lại con ngựa bất hạnh nữa kìa!
      Trong khu cỏ lác có vật gì đó giãy giụa. Rồi phía đám cỏ thấp thoáng chiếc cổ ngoái lại cách đau đớn, khu đầm lầy vang lên tiếng kêu thê thảm. Tôi ớn lạnh, nhưng người bạn đường của tôi vẫn vững vàng.
      - Con thứ hai trong vòng hai ngày. Còn bao nhiêu con nữa bị chết, biết! Chúng quen thói bén mảng đến đây vào mùa khô và tưởng rằng có nguy hiểm. Vâng, vùng đầm lầy Grimpen là nơi kinh hoàng.
      - Tuy nhiên, chính ông lọt vào đấy được?
      - Vâng, ở đấy có hai, ba đường mòn mà người khôn ngoan có thể theo đó. Tôi phát ra chúng.
      - Nhưng ông cần vào cái chốn nguy hiểm ấy để làm gì?
      - Ông có trông thấy những quả đồi phía xa kia ? Đó là những cù lao ở giữa vùng lầy. Nhưng ở đó có bao nhiêu là bướm và thực vật quí hiếm?
      - Vậy à, tôi thử vào đó.
      Stapleton ngạc nhiên nhìn tôi.
      - Hãy xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu ông ! Tôi bị dằn vặt bởi cái chết của ông. Ông trở ra an toàn đâu. Tôi dám cả gan vào đấy chỉ vì tôi có hệ thống dấu hiệu phức tạp.
      - Ôi, cái gì thế? - Tôi kêu lên.
      Tiếng rống nghe thảm thiết đến mức khó diễn tả vang lên khu đầm lầy, lan tràn khắp trung; nhưng nó từ đâu vọng tới thể xác định được. Bắt đầu từ tiếng rên rỉ , thanh dần dần chuyển sang trầm trầm và lại rên rỉ đến não ruột. Stapleton lạ lùng nhìn tôi:
      - Khu đầm lầy này là đầy bí - Stapleton .
      - Nhưng cái gì vậy?
      - Các điền chủ rằng con chó của dòng họ Baskerville kêu la đòi lễ vật. Trước đây tôi cũng có dịp nghe tiếng nó, nhưng hôm nay là những tiếng kêu rất lớn.
      Lạnh toát người vì kinh sợ, tôi lướt nhìn bình nguyên rộng lớn lấm tấm điểm những bụi lau sậy xanh mướt trải dài đến tận chân trời. có tiếng xào xạc của lá, có cái gì động đậy. Chỉ có con quạ đậu cột đá phía sau chúng tôi kêu ầm ĩ.
      - Là người có họe thức, chắc ông tin vào thừng điều quỷ quái như thế. Vậy ông giải thích tiếng kêu đó ra sao? - Tôi hỏi.
      - Đôi khi tiếng hươu kêu cũng biến thành những thanh lạ lùng. Lúc trầm lắng, lúc vút lên, khi thế này khi thế khác, ai mà biết được!
      - , phải! Đấy chỉ là tiếng kêu của vật sống.
      - Cũng có thể. Có khi nào ông nghe giống chim đầm lầy kêu ban đêm chưa?
      - Chưa.
      - giờ, ở quốc loại này rất hiếm. Thế mà tại khu đầm lầy này tất cả lại có thể xảy ra. Tôi lấy làm ngạc nhiên nếu quả chúng ta vừa nghe tiếng của trong số những đại biểu cuối cùng của loại chim này.
      - Trong đời tôi chưa từng nghe thấy những thanh nào ghê rợn và nặng nề hơn.
      - đây là vùng đầy bí mà. Hãy nhìn ngọn đồi kia! Theo ông, cái gì thế?
      Sườn đồi dựng đứng được phủ bằng những vòng đá xám. Tôi đếm phải gần 20 vòng.
      - Chuồng cừu phải ?
      - , đó là nhà ở của các ông tổ tiên đáng kính của chúng ta. Người tiền sử ở khu đầm lầy này rất đông đúc. Về sau họ ai ở đây nữa nên tất cả tiện nghi nhà ở hãy còn nguyên vẹn, chỉ có mái là bị dỡ . Nếu muốn, ta có thể tới đó và nhìn thấy bếp lò và giường nằm.
      - Đúng là khu phố thực ! Ngươi tiền sử ở đây vào thời nào?
      - Đó là giống người ở thời đại đồ đá mới. Niên đại chính xác thể xác định được.
      - Giống người ấy làm gì?
      - Họ nuôi cừu và tìm quặng sắt. Hãy nhìn cái hố ở quả đồi đối diện kia. Đó là những dấu tích công việc của họ. Nếu thích, bác sĩ Watson, ông tìm thấy nhiều điều thú vị khu đầm lầy của chúng tôi. Xin thứ lỗi cho, có lẽ là con bướm Cyclope.
      con bướm bay qua chỗ chúng tôi, với tốc độ đáng kinh ngạc. Stapleton đuổi theo nó. Tôi kinh hãi nhìn thấy con bướm lao thẳng xuống đầm lầy, nhưng người bạn của tôi nhảy từ mô đất này đến mô đất khác. Vùng vẫy chiếc vợt xanh lá cây, trông ông ta giống như con bướm khổng lồ. Tôi đứng lại nhìn theo ông với cảm giác pha trộn giữa khâm phục và kinh ngạc. Tôi cũng hình dung ra là ông lao xuống và ra khỏi vùng đầm lầy. Đột nhiên tôi nghe thấy sau mình tiếng bước chân của ai đó. Tôi ngoảnh lại và nhận thấy người phụ nữ ở cạnh mình. ta xuất từ hương khói cuộn lên.
      Chắc chắn đây là Stapleton. khó lòng hình dung ra khác biệt giữa em trai. Ông ta là người tóc vàng, mắt xám, thiếu bản sắc, còn lại tóc đen duyên dáng, cân đối và cao dỏng. Những đường nét thon thả kiêu hãnh hài hoà đến mức gương mặt dễ thương trở nên cứng đờ nếu cái miệng tình tứ và đẹp. Thân hình lý tưởng bộ cánh đẹp đẽ. Lúc tôi ngoảnh nhìn lại cái nhìn của người phụ nữ hướng về phía Stapleton nhưng rồi ta rảo bước đến gần tôi. Tôi ngả mũ định giải tích có mặt của mình ở đây đột nhiên ta :
      - Hãy khỏi đây! Hãy trở về London ! Nhanh !
      Để trả lời, tôi chỉ có thể nhìn với vẻ kinh ngạc. Mắt sáng long lanh, chân dậm dậm tỏ vẻ sốt ruột.
      - Tại sao tôi phải rời khỏi đây? - Tôi hỏi.
      - Chớ có hỏi. - ta , nhanh và ngọt ngào - Xin hãy nghe lời khuyên của tôi! Hãy khỏi đây và đừng trở lại khu đầm lầy này nữa.
      - Nhưng tôi mới đến đây mà!
      - Lẽ nào ông hiểu là tôi chỉ mong điều tốt lành cho ông? Hãy ngay, bằng mọi cách! Khẽ chứ! tôi đến đấy! Ông đừng có với ấy lời nào... Làm ơn nhắc cây phong lan này cho tôi, nơi đây có rất nhiều phong lan, nhưng ông đến hơi muộn mất rồi: Tới mùa thu chúng bắt đầu tàn, và thiên nhiên ở đây phần nào mất vẻ đẹp của mình.
      Stapleton ngừng đuổi bướm, đến chỗ chúng tôi, toàn thân đỏ bừng, hổn hển.
      - Em đấy à? - Ông ta và cảm thấy nỗi bực tức trong lời chào hỏi.
      - Người nóng nực rồi đấy, Jack ạ!
      - Đúng, vừa đuổi bắt mẫu vật Cyclope tuyệt trần. ở đây, vào cuối thu, ít khi trông thấy chúng, tiếc làm sao.
      Ông ta với giọng dửng dưng, nhưng ngớt đảo mắt nhìn em sang tôi.
      - Hình như hai người kịp làm quen với nhau?
      - Vâng. Em với ngài Henry rằng bây giờ khu đầm lầy bớt đẹp rồi. Hoa phong lan tàn.
      - Cái gì? Em nghĩ ai ở trước mặt em vậy?
      - Ngài Henry Baskerville.
      - , phải đâu. Tôi là Watson, bạn của ngài Henry.
      Vẻ hoang mang khuôn mặt nhiều diễn cảm.
      - Nghĩa là chúng ta hiểu nhau.
      - Đúng, ông ấy có nhiều thời gian để chuyện trò đâu - Stapleton , tiếp tục tò mò nhìn em .
      - Em lầm bác sĩ Watson với người láng giềng của chúng ta. Rất có thể ông ta để ý bây giờ phong lan có nở hay . Nhưng dù sao, ông cũng rẽ vào chỗ chúng tôi ở Merripit chứ? - .
      Vài phút sau chúng tôi đến gần trang trại vẻ tiêu điều. Bao quanh trang trại là khu vườn . Cây cối ở đây cũng giống như khắp nơi trong khu đầm lầy: thấp bé và còi cọc. Phảng phất trong vùng là vẻ nghèo nàn và buồn bã. Người hầu mở cửa cho chúng tôi trong bộ áo ngoài màu vàng nhăn nheo, già cả y hệt như ngôi nhà. Nhưng chính các căn phòng lại khiến tôi ngạc nhiên bởi rộng rãi và vẻ lịch trong cách bài trí. Tôi thể thắc mắc: Điều gì đẩy con người học thức cùng em xinh đẹp đến chốn hoang vu này?
      - Chúng tôi chọn nơi kỳ cục để nương thân phải ? - Stapleton , hình như để trả lời những ý nghĩ của tôi - Dẫu sao chăng nữa, ở đây chúng tôi vẫn sống tốt, có đúng , em Beryl?
      - Vâng, rất tốt. - trả lời, nhưng dường như những lời của được tự tin cho lắm.
      - Tôi có trường học tại trong những địa phận miền Bắc - Stapleton - Đó là công việc khô khan và kém hứng thú, thế nhưng tôi bị cuốn hút vào. Lý do là gần gũi với tuổi trẻ. hạnh phúc biết bao khi chính mình truyền đến cho họ những kiến thức. Nhưng các trận dịch ở trong trường làm chết ba đứa trẻ. Phần lớn vốn của tôi sao hoàn lại được. Giá như ly biệt với những chú bé thân tôi buồn phiền, bởi lẽ đối với người say mê động vật và thực vật như tôi ở đây vẫn còn nhiều việc phải làm, và cả em tôi nữa. Đấy là người rất thích thiên nhiên.
      - Vâng, sống ở đây hẳn khiến ông buồn, nhưng chắc chắn làm em ông buồn.
      - , tôi buồn - trả lời.
      - Chúng tôi bận bịu với công việc khoa học, chúng tôi có thư viện lớn và những láng giềng thú vị. Bác sĩ Mortimer là người rất uyên thâm trong lĩnh vực của mình. Ngài Charles cũng là người láng giềng tuyệt vời. Ông sao nếu hôm nay tôi đến thăm ngài Henry? Việc đó cản trở ngài chứ?
      - Tôi tin là ngài rất vui khi được quen biết ông.
      - Vậy hãy làm ơn báo trước cho ngài biết. Còn bây giờ, bác sĩ Watson, hãy cùng lên lầu, tôi cho ông coi bộ sưu tập của tôi. Vào lúc chúng ta kết thúc bữa sàng được dọn xong.
      Nhưng tôi kịp nghĩ tới ngài Henry. Vẻ hiu quạnh của khu đầm lầy, cái chết của con ngựa, tiếng rống bí , những lời mập mờ của Stapleton. Tất cả khiến tôi buồn não lòng. Tôi từ chối lời mời ăn sáng và trở về nhà bằng chính con đường mòn hồi nãy.
      Thế nhưng, ngoài lối mòn ấy ra, ở đây còn đường khác ngắn hơn bởi vì lúc tôi còn chưa kịp ra con đường lớn trông thấy Stapleton ở ngay trước mặt mình. Nước da ửng hồng sáng lên đôi má càng khiến đẹp lộng lẫy hơn. ngồi tảng đá bên đường, thở mạnh, tay đặt lên ngực.
      - Tôi chạy suốt chặng đường để bắt kịp ông. - ta - Thậm chí mũ tôi cũng kịp mang nữa. Tôi phải gấp lên kẻo trai tôi phát vắng mặt của tôi Tôi nhầm ông với ngài Henry. Xin ông hãy quên tất cả những gì tôi . Điều đó có quan hệ gì tới ông đâu.
      - Tôi làm sao có thể quên được điều đó, thưa . Số phận của bạn tôi, ngài Henry, khiến tôi rất quan tâm. Hãy cho tôi biết vì sao lại cầu ông ấy trở về London?
      - Tính bất thường của phụ nữ mà.
      - phải, giọng và đôi mắt của . Chỉ mới đặt chân đến đây mà tôi cảm thấy có những bóng ma nào đó quanh tôi. Xin hãy rằng ngài Henry cần phòng ngừa như thế nào.
      thoáng do dự lướt khuôn mặt, nhưng chỉ khoảnh khắc sau lại trở nên bình thường.
      - Bác sĩ Watson ạ. Cái chết của ngài Charles gây chấn động mạnh trong em tôi. Chúng tôi thường xuyên gặp người khuất, vì ngài dạo chơi theo đường mòn này đến nhà chúng tôi. Giờ đây, việc trở về của người thừa kế ngài Charles làm tôi rất day dứt và tôi coi việc báo trước cho ngài biết về mối nguy hiểm này là cần thiết. Đấy là tất cả, tôi muốn điều gì khác nữa đâu.
      - Nhưng mối nguy hiểm nào?
      - Ông biết truyền thuyết về con chó chứ?
      - Tôi tin vào điều nhảm nhí ấy.
      - Còn tôi tin. Nếu ông có ảnh hưởng đối với ngài Henry, ông hãy đưa ngài ra khỏi đây... Đây là nơi rất nguy hiểm đối với dòng họ Baskerville. Vì sao ngài Henry cần phải sống ở nơi có mối nguy hiểm lớn đe dọa mình?
      - Ông ấy có lý do riêng. Nếu chưa bày tỏ ràng chưa chắc tôi thuyết phục ông ấy được.
      - Tôi biết điều gì nữa đâu.
      - Xin được phép đặt câu hỏi: Nếu đúng đấy là tất cả những gì cần với tôi tại sao lại sợ nghe thấy?
      - ấy muốn lâu đài Baskerville có chủ nhân. Điều đó ảnh hưởng xấu tới dân nghèo sinh sống khu đầm lầy. ấy nổi giận nếu biết rằng tôi gắng sức ngăn cản ngài Henry. Nhưng tôi làm xong nghĩa vụ của mình và tôi thêm điều gì cả. Bây giờ tôi phải đây, kẻo tôi biết. Xin tạm biệt.
      ta quay trở về, và chẳng bao lâu khuất sau mấy tảng đá, còn tôi lòng tràn ngập những nỗi khiếp đảm mơ hồ, hướng tới lâu đài Baskerville rảo bước.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 8: Bản phúc trình dầu tiên của bác sĩ Watson

      Lâu đài Baskerville, 13 tháng 10
      Holmes thân mến.
      Qua những lá thư và những bức điện của tôi, biết được tất cả những gì xảy ra trong thời gian gần đây tại xó xỉnh buồn bã nhất thế giới này. Càng ngày nỗi buồn của khu đầm lầy càng thấm sâu vào tâm hồn tôi Tôi cảm thấy nước đại lưu lạc ở nơi nào đó, xung quanh tôi toàn là những dấu tích sinh hoạt và lao động của con người thời tiền sử. Đây là hang động của họ, kia là các nấm mồ, và kia nữa là các tảng đá khổng lồ có lẽ chứng minh cho tinh thần của họ. Khi nhìn những triền núi bị đào bới bởi những công cụ thô sơ làm thành những hang động này, ta như quên mất là mình sống ở thế kỷ nào. Và nếu như dưới vòm mái thấp của trong những hang động đó đột nhiên xuất người choàng lông thú, râu ria xồm xoàm, đặt mũi tên có đầu bịt đá vào cung thấy rằng tồn tại của con người ấy thích hợp hơn so với tồn tại của . Điều lạ lùng hơn hết là tại sao những người này đều ở rất đông tại nơi chẳng màu mỡ chút nào. Tôi phải là nhà khảo cổ, nhưng theo tôi, đấy là bộ lạc bị đè đầu cưỡi cổ nên thỏa mãn với nơi mà bộ lạc khác từ chối.
      Tuy nhiên, tất cả những điều vừa hề có liên quan chút nào tới có mặt của tôi ở đây, và chắc có lẽ cũng hề làm quan tâm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn đủ sức quên thái độ thờ ơ của tới vấn đề: Mặt trời quay quanh trái đất hay trái đất quay quanh mặt trời. Vậy hãy chuyển sang những kiện có quan hệ trực tiếp với ngài Henry vậy. vài ngày gần đây nhận được tin tức nào, là vì tôi biết kể về cái gì cả. Thế nhưng từ khi kiện kỳ lạ vừa xảy ra, giờ đây chúng ta nắm được những tình tiết khá quan trọng đối với vụ án.
      trong những tình tiết ấy, là có người tù khổ sai náu trong khu đầm lầy. Có cơ sở vững chắc để rằng rời khỏi vùng này và sống yên ổn tại những trang trại đơn độc nào đó. Từ khi vượt ngục đến giờ, hai tuần trôi qua. khó tưởng tượng nổi người có thể sống qua thời gian như thế khu đầm lầy. ra ở đấy cũng có nơi trú chân. Bất kỳ hang đá nào cũng có thể thành nơi nương náu của . Nhưng thiếu ăn thể sống nổi, nếu bắt cừu để ăn, ràng là rời khỏi vùng này và người sống ở các trang trại yên tâm hơn.
      Chúng tôi, bốn người đàn ông khỏe mạnh, lực lưỡng sống ở lâu đài Baskerville trong tình trạng lúc nào cũng tự bảo vệ được mình, nhưng xin thú với : Khi nghĩ tới Stapleton, tôi lo ngại yên. Họ có những láng giềng gần gũi nên khó nhờ cậy vào giúp đỡ của ai cả. Người nữ hầu phòng, đầy tớ già, em trai - Đấy là tất cả những người sinh sống ở Merripit. Họ ở trong tay tên giết người này nếu đột nhập vào nhà của họ. Tôi và ngài Henry rất lo ngại cho họ, và thậm chí muốn để người chăn ngựa ngủ lại ở Merripit, nhưng Stapleton chịu nghe. Có điều là Nam tước bắt đầu quan tâm đặc biệt đến láng giềng xinh đẹp. Điều đó có gì đáng ngạc nhiên cả, bởi vì ông ta là người ưa hoạt động, còn , là người phụ nữ đẹp mê hồn. Trong có cái gì sôi nổi của người dân vùng nhiệt đới, ngược lại hẳn với ông . Vào thời gian này, trong ông ràng là có nào đấy nung nấu ông ta. Cứ xét theo mọi phương diện ông ta có ảnh hưởng lớn tới em mình. Nhiều lần trong khi chuyện, tôi có dịp bắt gặp những cái nhìn của hướng về ông mình hình như đón chờ đồng tình của ông.
      Ông đến thăm ngài Henry vào ngày hôm đó và sáng ngày hôm sau, ông đưa chúng tôi đến nơi diễn ra cố có quan hệ tới truyền thuyết về Hugo. Chúng tôi sâu vào khu đầm lầy tới vài dặm, lọt vào bình nguyên lớn, trông huyền ảo. lối hẹp nằm giữa những cột đưa chúng tôi tới bãi cỏ thoáng đãng. Ở giữa bãi cỏ có hai tảng đá lớn co lại ở phía khiến người ta liên tưởng tới những chiếc nanh khổng lồ của con quái vật nào đấy. Mọi thứ ở đây hoàn toàn phù hợp với mô tả khung cảnh bùng nổ tấn bi kịch xưa kia. Ngài Henry chăm chú quan sát mọi hướng, nhiều gần hỏi Stapleton rằng lẽ nào Stapleton lại tin vào sức mạnh siêu nhiên ảnh hưởng tới công việc của con người. Giọng ngài có vẻ khinh mạn nhưng ngài lại rất nghiêm chỉnh chú ý tới chuyện này. Stapleton trả lời cách dè dặt. Ông ta nhiều và tỏ ra thông cảm với nỗi lòng của Nam tước. Ông ta kể cho chúng tôi nghe vài trường hợp tương tự trong các gia đình khác và làm cho chúng tôi có cảm giác là ông cũng tin vào truyền thuyết về con chó của dòng họ Baskerville.
      Khi quay trở lại, chúng tôi tạt vào ăn sáng ở nhà Stapleton. Ngài Henry làm quen với Stapleton từ lúc nào chẳng . ta cuốn hút ngài ngay từ lúc mới gặp nhau. Lúc chúng tôi trở về thỉnh thoảng ngài lại về ta từ đó trở , ngày nào là chúng tôi gặp gia đình Stapleton. Hôm nay họ ăn cơm trưa ở chỗ chúng tôi và ngài Henry đến chuyến viếng thăm họ vào tuần tới.
      Hình như ông Stapleton mong mỏi người chồng tốt cho em của mình, vì tôi nhiều lần nhận thấy ông ta tỏ vẻ khó chịu trước săn đón của ngài Henry với ta. Có lẽ Stapleton gắn bó với em và sợ sống đơn độc mình. Trong thực tế, ràng Stapleton muốn tình bạn này chuyển thành tình , và theo quan sát của tôi ông ta bằng mọi cách, cố gắng để họ ở lại mình với nhau. Nhân thể thêm, nếu vụ án này bị mối tình làm rối rắm thêm lời dặn theo sát ngài Henry của hầu như được hoàn thành.
      Gần đây, bác sĩ Mortimer có ăn sáng ở chỗ chúng tôi. Ông khai quật ngôi mộ cổ ở vùng Long Down và tìm thấy chiếc sọ người tiền sử. Điều này khiến ông thích thú khôn xiết. em Stapleton có mặt sau bữa ăn. Theo cầu của ngài Henry, bác sĩ dẫn chúng tôi tới con đường rậm bóng cây để chỉ cho mọi người biết vào cái đêm thảm khốc ấy mọi chuyện diễn ra như thế nào. Con đường chạy dài, mờ ảo, cả hai phía đều có những rảnh đất trồng cỏ hẹp và những cây thủy tùng được xén tỉa làm thành bức tường khá dày.
      Nhà hóng mát đổ nát nằm ở phía cuối con đường. Chính giữa có hàng giậu dẫn ra khu đầm lầy mà cạnh đó ông Charles gẩy tàn tàn thuốc lá. Cửa bằng gỗ, có khoá. Vùng đầm lầy bao la trải ra phía sau nó. Tôi nhớ tới lý thuyết của về cố xảy ra ở đây và gắng hình dung tất cả điều đó. Khi đứng cạnh cửa hàng rào, Charles nhìn thấy cái gì đó từ khu đầm lầy tiến đến gần ngài. Bóng ma này khiến ngài sợ hãi đến kinh hoàng. Ngài bỏ chạy, chạy cho đến lúc ngã vật xuống, tắt thở vì kiệt sức. Thế nhưng, con vật nào khiến ngài chạy? Con chó chăn cừu nào đấy từ khu đầm lầy chăng? Hay là con chó ma quái, to lớn, đen thui và lặng thinh nọ? Cũng có thể đó là việc làm của bàn tay con người? Có lẽ Barrymore biết nhiều hơn những gì ông ta ra?
      Kể từ lá thư cuối cùng tôi viết cho đến giờ, tôi còn làm quen được với trong số những láng giềng của chúng tôi. Ông Frankland ở lâu đài Lafter, cách chúng tôi 4 dặm về phía nam. Đấy là ông già tóc bạc phơ, mặt đỏ và rất cáu kỉnh. Ông Frankland là người sùng bái pháp luật, tiêu cả tài sản vào các vụ kiện tụng đủ loại. Ông ta thưa kiện chỉ vì thích cãi cọ và ông sẵn sàng hầu tòa với tư cách bị cáo. Đột nhiên ông ngăn cấm việc lại cạnh lãnh địa của ông và thách thức hội đồng xứ đạo buộc ông mở lại con đường đó. Sau đó tự tay ông phá hàng giậu của ai đó và tuyên bố rằng ở đấy từ xưa con đường qua; mặc cho chủ nhân kiện ông vi phạm ranh giới đất đai của người khác. Ông biết rành rọt những đạo luật phong kiến và ông sử dụng những hiểu biết của mình: lần này ủng hộ làng bên cạnh, lần khác lại chống lại họ, vì thế dân làng ở đây khi kênh ông lên, khi đốt hình nộm ông. Người ta rằng hình như bây giờ trong tay ông Frankland có tới bảy vụ kiện, chắc chúng ngốn hết số tài sản còn lại của ông. Như vậy ông ta bị tịt ngòi và trở thành người vô hại.
      giờ ông Frankland tìm cho mình công việc rất kỳ quặc. Là người thích thiên văn học, lại có trong tay chiếc kính viễn vọng nên suốt ngày ông ngồi mái nhà mình quan sát khu đầm lầy với hy vọng phát ra tên tù vượt ngục.
      Sau khi thông báo cho tất cả những gì có thể thông báo được về người tù khổ sai chạy trốn, về em Stapleton, về bác sĩ Mortimer, về ông Frankland, bây giờ tôi kể về vợ chồng Barrymore, và về những kiện lạ lùng xảy ra vào đêm hôm nay.
      Tôi bắt đầu từ bức điện được chuyển từ London với mục đích xác nhận xem vào ngày hôm ấy Barrymore có ở nhà hay . Tôi có kể cho ngài Henry về thất bại này, ngài gọi ngay Barrymore đến.
      - Chú bé chuyển bức điện tận tay ông phải , ông Barrymore? - Ngài Henry hỏi.
      Barrymore ngạc nhiên nhìn ngài và suy nghĩ chừng phút.
      - . Lúc đó tôi ở gác thượng, và vợ tôi mang bức điện đến cho tôi.
      - Chính ông viết điện trả lời?
      - , tôi với vợ tôi nên trả lời ra sao. quay xuống dưới và viết.
      Buổi chiều Barrymore lại đề cập chủ đề này theo sáng kiến riêng của mình.
      - Ngài Henry, tôi hiểu tại sao ngài lại hỏi tôi về bức điện ấy. Phải, chúng tôi có lỗi gì đó, và làm mất tin cậy của ngài.
      Ngài Henry cố gắng thuyết phục Barrymore rằng điều đó phai như vậy và để an ủi ông ta, ngài tặng cho ông ta khá nhiều đồ dùng cũ của mình.
      Bà Barrymore rất đáng quan tâm. Đấy là người đàn bà rất đứng đắn, đáng kính. Nhưng, vào đêm đầu tiên khi đến đây, tôi nghe thấy những tiếng khóc thổn thức của bà. Và từ ngày đó nhiều lần tôi có dịp thấy dấu vết của những giọt nước mắt khuôn mặt bà. Có nỗi đau khổ nặng nề nào đó hành hạ người đàn bà này. Rất có thể đó là những nỗi giày vò của lương tâm trong sạch chăng? Có khi tôi nghi ngờ rằng Barrymore là tên bạo chúa trong gia đình. Tôi thường xuyên cảm thấy đấy là người kì cục, khả nghi. Và những kiện của đêm qua càng làm tăng thêm mối ngờ vực của tôi. Chắc biết tôi ngủ say lắm và tại lâu đài Baskerville, khi lúc nào cũng phải cảnh giác đề phòng tôi càng thức. Đêm qua lúc gần hai giờ, tôi nghe thấy những bước chân len lén cạnh phòng mình. Tôi trở dậy, mở cửa và nhìn ra ngoài hành lang, thấy loáng thoáng bóng của ai đó. Chiếc bóng của người tay cầm ngọn nến bước rón rén theo hành lang. Ông ta mặc áo lót, quần dài, chân đất. Tôi chỉ nhận ra được hình dáng lờ mờ của con người ấy, nhưng theo vóc người, tôi đoán đấy là Barrymore. Ông ta bước chậm chạp, lặng lẽ và trong từng cử động của ông có cái gì vụng trộm, lo ngại.
      Qua những lá thư của tôi, biết rằng cả hai hành lang được giao nhau bởi hành lang khác bao quanh lâu đài. Chờ cho tới khi Barrymore khuất, tôi bắt đầu lần theo vết của ông ta. Lúc tôi bước tới hành lang giao nhau ông ở hành lang phía bên kia và sau đó ánh sáng lóe lên trong cửa ra vào để ngỏ cửa căn phòng. Thế có nghĩa là ông ta vào đấy. Các phòng này có người ở, cũng có đồ gỗ. Bởi thế hành vi của Barrymore là hoàn toàn bí . Ông ta đứng ở đó, bất động vì ngọn lửa của cây nến hề lung lay. Tôi gắng bước nhàng hơn, vượt qua suốt hành lang rồi từ ngoài liếc nhìn qua cánh cửa hé mở.
      Barrymore đứng nép mình cạnh cửa sổ, đưa cây nến đến gần tấm kính. Tôi trông nghiêng thấy khuôn mặt ông đờ đẫn trong chờ đợi căng thẳng; mặt ông hướng ra bóng đêm mờ mịt của khu đầm lầy. Ông ta chăm chăm nhìn qua cửa sổ vài phút, sau đó ông khẽ rên rỉ và bằng cử chỉ nôn nóng, ông tắt ngọn nến . Lúc bấy giờ tôi quay trở về phòng mình và chẳng bao lâu tôi nghe thấy những bước chân lén lút phía ngoài cửa ra vào. Sau thời gian khá lâu, xuyên qua giấc ngủ mơ màng, tôi nghe thấy ở nơi nào đó có ai vặn chìa khóa trong ổ, nhưng khó xác định thanh này vọng tới từ đâu.
      Tôi hiểu cả những cái đó nghĩa là thế nào, nhưng trong ngôi nhà ảm đạm này, ràng có những việc làm bí nào đó được tiến hành. Sáng nay tôi chuyện với ngài Henry. Dựa những điều quan sát ban đêm của tôi, chúng tôi thảo ra kế hoạch hành động.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :