Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 11: Kho báu ARGA
      Người tù của chúng tôi ngồi trong khoang tàu trước chiếc hộp sắt, mà để chiếm hữu nó, y phải chờ đợi bao lâu nay và chiến đấu hung hãn. Y có cái nhìn táo bạo, nước da rám nắng. Khuôn mặt ngang dọc những đường nhăn. Nét mặt hằn sâu màu đồng hun thể cuộc sống dạn dày sương gió. Cái cằm râu rậm sừng sỏ chứng tỏ y phải là người có thể dễ dàng gạt khỏi mục tiêu nhắm. Y trạc tuổi 50. Mái tóc đen quăn lốm đốm rất nhiều sợi bạc. Bình thường, khuôn mặt cũng đến nỗi nào. Nhưng hàng mày rậm và cái cằm nhô hẳn ra tạo cho bắn vẻ khủng khiếp trong cơn giận dữ. ngồi, đôi tay bị còng, đầu cúi gằm, cặp mắt lanh lợi chớp chớp nhìn về cái hộp - Nguyên nhân mọi tội ác của . Trong tư thế cứng nhắc có tự chế, tôi nghĩ và phân biệt được nhiều nét buồn rầu hơn là giận dữ. lần y ngước mắt nhìn tôi và trong ánh mắt tưởngnhư có tia châm biếm....- Này, ông Johnathan Small, tôi tiếc là công việc lại kết thúc như thế này - Holmes vừa vừa châm điếu xì gà.
      - Thế còn tôi đây, thưa ông - Đáp lại - Tôi nghĩ tôi tìm ra cách tự minh oan cho mình khỏi vụ án này. Thế nhưng tôi có thể thề với ông kinh thánh là tôi hề đụng vào ông Sholto. Chính Tonga, con chó địa ngục ấy phóng ra trong những mũi tên độc địa của nó đấy. Tôi tuyệt đối nhúng tay vào, thưa ông! Tôi rất ân hận y như ông ta là người trong gia đình tôi vậy. Tôi dùng mẩu dây tẩn cho con quỷ ấy trận rồi; nhưng trước rồi, tôi còn cách gì cứu vãn được nữa.
      - Này, hãy hút điếu xì gà ! - Holmes bảo - Và ông cũng nên uống ngụm whisky, ông ướt đẫm cả người rồi. Nhưng mà này, ông tôi biết làm sao ông hy vọng người yếu như tên da đen ấy lại có thể bắt giữ được ông Sholto trong khi ông trèo lên bằng dây?- Dường như ông cũng biết như ông có mặt tại đó, thưa ông. Mặc dù ra ông đến khi còn ai. Tôi biết khá những thói quen trong nhà, và ông Sholto thường xuống lầu dùng cơm tối vào giờ đó. Tôi muốn giấu diếm gì trong vụ này. Cách biện hộ tốt nhất của tôi vẫn là lên đơn thuần. Phải chi là viên thiếu tá già kia, tôi đưa ta qua bên kia thế giới mà lòng nhõm, tôi ung dung cắt cổ y, cũng ung dung như tôi hút điếu xì gà này vậy! Xui . Cứ nghĩ tôi bị kết án vì ông Sholto em! tình tôi chẳng có lý do gì
      để gây gổ với ông ấy!
      - Ông Athelney Jones, thuộc Scotland Yard, chịu trách nhiệm về ông. Ông ấy đưa ông về nhà tôi. Tôi xin ông thuật lại chân câu chuyện. Nếu ông tuyệt đối thành , nếu ông chẳng giấu diếm gì, tôi hy vọng có thể giúp ông được. Tôi nghĩ tôi có thể dẫn chứng rằng chất độc tác dụng nhanh đến độ nạn nhân chết ngay trước khi ông bước vào phòng.
      - Về việc này đúng như vậy, thưa ông.
      Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ bị chấn động như thế khi tôi thấy ông ta, đầu quẹo vai, nhìn tôi với nụ cười diễu gớm ghiếc khi tôi vào bằng cửa sổ. Điều này làm tôi rất xúc động, thưa ông! Chắc là tôi giết Tonga nếu nó bỏ trốn
      trước. Ấy chính vì thế mà nó để lại cái chùy đá và số tên, theo như lời nó . Tôi chắc là việc này giúp ông tìm ra dấu vết chúng tôi, phải thế ạ? Mặc dầu tôi thấy ra được bằng cách nào ông theo dõi chúng tôi được đến tận cùng. Tôi đem lòng oán giận ông đâu, ông biết cho. Nhưng có điều lạ là tôi ngồi đây, trong khi tôi có quyền lợi chính đáng chiếm hữu nửa triệu đồng... Tôi dùng nửa cuộc đời thứ nhất của tôi để xây cái đập trong vùng Andaman; phần đời còn lại tôi có cơ hội tốt để đào hầm ở Dartmoor! Cái ngày tôi gặp tên lái buôn Achmet và kho báu Arga quả ngày tai họa! Thưa ông, cái kho báu ấy tự thuở nào vẫn là điềm bất hạnh cho những ai nắm giữ nó. Tên lái buôn bị ám sát. Còn thiếu tá Sholto sống trong nỗi sợ hãi và ô nhục. Riêng tôi, kho báu ấy chỉ mang lại cho tôi cả cuộc sống nô lệ.
      Lúc đó, Athelney Jones thò cái đầu tròn của ông ta vào:
      - Ơ, đúng là cuộc hội họp gia đình! - Ông thốt lên – ông Holmes ạ, tôi nghĩ tôi nếm thử chút whisky của ông. Thế là ta có quyền khen tặng lẫn nhau. Tiếc là ta bắt sống được tên kia Nhưng lúc ấy nào ta đâu có quyền chọn lựa! Dầu sao, ông Holmes ạ, ông cũng thừa nhận là ta tóm họ vừa đúng lúc. Ta phải xả hết tốc lực.
      - Khởi đầu tốt chung cuộc cũng tốt thôi, - Holmes - Nhưng tôi ngờ chiếc “The Aurora” lại nhanh thế!- Smith chiếc đò máy của y là trong những chiếc nhanh nhất sông, và nếu có thêm người phụ ở buồng máy bao giờ ta đuổi kịp. Y thề chẳng hay biết gì về vụ án mạng ở Norwood cả.
      - Đúng đấy! - Người tù của chúng tôi buột miệng lớn - Tôi chẳng tiết lộ điều gì với y. Tôi chọn chiếc đò máy của y vì nghe nó chạy như gió. Nhưng chỉ có thế thôi. Tôi trả tiền y rất hậu, và có hứa cho y phần thưởng xứng đáng nếu y đưa chúng tôi ra tàu Esmeralda đậu tại Gravesend, để khởi hành Brasil.- Thế nếu y làm gì đáng chê trách, chẳng có gì tai hại xảy ra cho y cả. Bắt tội phạm ta khá nhanh tay, nhưng kết án ta chậm hơn. là tức cười khi thấy Jones cứ làm ra vẻ quan trọng khi mọi việc bắt bớ xong. Tôi thoáng thấy nụ cười phớt qua khuôn mặt Shelock Holmes, thay đổi thái độ này qua được mắt .- Ta sắp đến cầu Vauxhall - Jones - Bác sỹ Watson, tôi đưa ông lên bờ cùng với cái hộp đựng kho báu. Khỏi cần với ông rằng như vậy là tôi nhận lãnh trách nhiệm rất nặng nề, bởi vì hoàn toàn nằm trong nguyên tắc. Nhưng ta thỏa thuận về điểm này rồi; tôi tự mâu thuẫn đâu. Tuy nhiên bổn phận tôi buộc tôi phải cho viên thanh tra hộ tống bác sỹ, vì giá trị to lớn của cái hộp. Chắc hẳn ông bằng xe?
      - Vâng, tôi nhờ.
      - tiếc là có chìa khóa để ta có thể tiến hành việc liệt kê sơ khởi. Các ông phải phá ổ khóa. Này, Small, chìa khóa đâu rồi?
      - Dưới đáy sông.
      - Hừm? là vô ích khi ông gây thêm cho chúng tôi cái trở ngại đó nữa. Ông tạo cho chúng tôi khá nhiều rắc rối rồi. Dầu sao, bác sỹ à, tôi cần dặn dò ông là phải rất cẩn thận. Bác sỹ hãy đem cái hộp về phố Baker. Chúng tôi đợi bác sỹ tại đó trước khi đến kho tang vật.
      Họ bỏ tôi xuống Vauxhall, tôi và cái hộp sắt nặng trịch, cộng thêm viên thanh tra khỏe mạnh và dễ mến. chiếc xe đưa chúng tôi đến nhà bà Cecil Forrester trong đầy 15 phút. Bà bồi phòng tỏ vẻ ngạc nhiên về cuộc viếng thăm muộn màng như thế; bà giải thích là bà Forrester tối ấy vắng và có lẽ về rất muộn. Nhưng Morstan có ở phòng khách. Tôi nhờ người đưa vào phòng khách với cái hộp. Viên thanh tra đồng ý ngồi lại trong xe.
      Morstan ngồi cạnh cửa sồ để mở, mặc chiếc áo trắng mờ đục nổi bật nhờ đường viền màu đỏ thắm ở cổ và ở thắt lưng. Dưới cái chao đèn, ánh sáng dịu tỏa chiếu đều đặn đến khuôn mặt thanh tú và những lọn tóc quăn mượt mà óng ánh của . Tựa lưng vào chiếc ghế mây, tay buông về phía, dáng trông sầu não, trầm tư. Nhưng khi nghe tôi vào, đứng hẳn dậy và đôi má xanh xao phớt hồng vì ngạc nhiên và vui mừng.
      - Tôi có nghe tiếng xe ngừng trước cửa - – Tôi nghĩ bà Forrester trở về quá sớm, ngờ lại là ông. Ông mang lại cho tôi tin gì vậy?
      - Còn hơn là "tin" nữa kia! - Tôi .Rồi tôi đặt cái hộp lên bàn.Tim tôi nặng trĩu, nhưng tôi cố làm ra vui vẻ:- Tôi mang đến cho cái còn qúy hơn tất cả tin tức thế giới này. Tôi mang đến cho gia tài. liếc nhìn chiếc hộp.
      - Vậy đây là kho báu đấy? - hỏi.
      Giọng thoáng vẻ thờ ơ khó tả.
      - Vâng, kho báu to lớn xứ Arga đấy! nửa về ông Thaddeus Sholto, nửa kia thuộc về . Mỗi người có khoảng chừng 200.000 đồng. có hình dung ra điều đó là như thế nào ? Ở nước hiếm có phụ nữ nào giàu hơn đấy. tuyệt vời sao?Có lẽ tôi hơi quá lời trong những biểu lộ niềm hân hoan, và giọng những lời tán tụng của tôi hoàn toàn có sức thuyết phục, tôi thấy khẽ nhướng mày và nhìn tôi với vẻ lạ lùng.
      - Nếu tôi có được - - Chính là nhờ ông chứ gì?
      - đâu! - Tôi đáp - phải nhờ tôi, mà là nhờ bạn Shelock Holmes của tôi. Với tất cả thiện chí tốt nhất đời, tôi cũng tài nào gỡ rối cái mớ bòng bong ấy được. Vả chăng suýt nữa là chúng tôi làm mất kho báu ấy vào phút chót...
      - Mời ông ngồi, bác sỹ Watson. Xin bác sỹ cho tôi nghe trọn câu chuyện .
      Tôi thuật lại cho vắn tắt những việc y như chúng diễn tiến từ lúc tôi gặp ta. Cái phương pháp truy tầm mới mẻ Holmes dùng, việc phát ra chiếc “The Aurora”, xuất của Jones, những công việc chuẩn bị, cuộc đuổi bắt điên cuồng sông Thames. Mắt sáng ngời, môi rung rung, lắng nghe những câu chuyện mạo hiểm của chúng tôi. Lúc tôi đến cái mũi tên nhắm trật chúng tôi trong đường tơ kẽ tóc mặt biến sắc nhợt nhạt, tưởng như sắp sửa ngất xỉu.
      - sao đâu? - thào, khi tôi đưa cho ly nước - Chỉ hơi khó chịu tí thôi; chấn động khi tôi hiểu ra rằng tôi đặt các bạn bè tôi vào nguy hiểm kinh khiếp đến thế.
      - Bây giờ mọi chuyện qua rồi - Tôi đáp - Ta hãy gạt sang bên những chi tiết buồn thảm ấy . Ta hãy đến cái gì vui vẻ hơn: kho báu đây rồi. Còn có gì vui hơn? Tôi được phép mang nó theo nghĩ rằng hài lòng là người đầutiên được trông thấy nó.- Tôi thích lắm chứ! - .Giọng thiếu vồn vã. Nhưng có lẽ nghĩ có phần thiếu lịch nếu tỏ ra hững hờ trước chiến tích khó mà giành giựt đến thế.- Chiếc hộp đẹp quá - vừa vừa xem xét nó - Tôi đoán nó được chế tạo tại Ấn Độ?- Vâng, tại Benares.- Lại nặng đến thế! thốt lên và nâng thử nó - Chỉ riêng cái hộp thôi cũng đủ có giá trị rồi. Thế chìa khóa đâu rồi?
      - Small ném nó xuống sông Thames rồi - Tôi đáp - Có lẽ phải mượn que củi của bà Forrester thôi.
      Ở mặt trước chiếc hộp có cái móc chắc chắn hình ông Phật ngồi. Tôi tìm cách nhét lần que củi vào bên dưới, và tạo lực đòn bảy. Ô khóa bung ra với tiếng "cắc" nghe . Tay run rẩy, tôi mở nắp ra. Cả hai chúng tôi rất đỗi kinh ngạc:
      Chiếc hộp trống trơn.
      Nó nặng đến thế cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. lớp sắt luyện dày gần 2 inch, bao bọc nó hoàn toàn. Nó được chế tạo kỹ lưỡng, đồ sộ vững chắc. Chiếc hộp chắc chắn được chế ra với mục đích đựng những vật quý giá. Nhưng bên trong, chẳng có lấy mẩu nào, có lấy mảnh kim loại hoặc đá quý. Chiếc hộp tuyệt đối và hoàn toàn trống rỗng.
      - Kho báu mất rồi - Morstan với giọng điềm tĩnh lạ thường.
      Nghe câu ấy và hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó, tưởng như cái bóng u ám đè nặng xa khuất khỏi hồn tôi. Trước kia tôi chưa thấy hết cái kho báu Arga đè nặng tôi đến mức nào.Tôi chỉ ý thức ra được điều này vào lúc kết cục kho báu bị gạt ra ngoài. là vị kỷ, hẳn nhiên rồi. Tôi bất chính và độc ác. Nhưng lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất: giữa hai chúng tôi bức tường vàng còn nữa.
      - Cám ơn, chúa tôi! - Tôi thốt lên tự đáy lòng mình.
      nở nụ cười thoáng qua rồi nhìn tôi vẻ tra vấn:
      - Tại sao bác sỹ lại thế?
      - Bởi vì giờ đây em lại ở trong tầm tay - Tôi , tay tôi đặt lên tay nàng - Bởi vì, Mary ơi, em: em chân thành như chưa có người đàn ông nào phụ nữ như thế. Bởi vì cái kho báu ấy với tất cả của cải của em khiến thốt nên lời được. Bây giờ nó mất rồi mới được với em là em biết chừng nào. Đấy, tại sao lại : "Cám ơn, chúa tôi".
      - Thế em cũng : "Cám ơn, chúa tôi" - nàng thầm.
      kẻ nào đó chắc chắn đánh mất kho báu vào đêm đó; nhưng riêng tôi, tôi vừa mới được kho báu khác.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 12: Cuộc đời kỳ lạ của Jonathan Small
      Ông thanh tra vẫn kiên nhẫn ngồi chờ tôi trong xe. Khi tôi đem cái hộp ra cho ông, nét mặt ông tối sầm lại.- Thế mất công toi phần thưởng! – Ông làu nhàu.- Ông Thaddeus Sholto giàu lắm! dù tìm lại được hộp châu báu, ông ấy cũng đền bù công khó nhọc của các ông- Tôi .- Công việc chẳng ra gì! – Ông lắc đầu chán nản – Ông Athelney cũng thấy thế.Quả thám tử Athelney Jones khi tôi cho ông ta xem chiếc hộp trống rỗng. Cả ba người: Holmes, tên tù và Athelney vừa mới tới. Họ thay đổi chương trình và quyết định trình diện tại đồn cảnh sát đường . Holmes nằm ườn ghế bành với vẻ uể oải thường lệ trong khi Jonathan ngồi thẳng người. Lúc tôi mở chiếc hộp cười phá lên. - Đây là trong những tội lỗi của đấy, Small! - Athelney Jones giận dữ .- Số châu báu đó là của tội. Khi tôi và ba thằng tù lại được hưởng nó, tôi cho ai chiếm nó cả. Dấu hiệu bộ tứ luôn tồn tại giữa chúng tôi. Đâu phải chúng tôi giết Achmet, rồi để cho bọn Sholto hay Morstan làm giàu! Các ông tìm thấy kho báu ở chỗ chiếc chìa khoá và thằng Tonga.
      - đừng hòng đánh lừa chúng tôi! – Athelney nghiêm nghị - Nếu ném kho tàng xuống sông, hẳn ném nguyên cả hộp.
      - Ném như vậy dễ dàng , nhung cũng dễ cho các ông tìm nó - ta bác lại với vẻ ranh ma - Người có đủ khôn khéo bắt được tôi cũng có đủ khôn khéo để mò cái hộp sắt, Nhưng khi tôi rải châu báu khúc sông dài 5 dặm khó đấy.
      - sai lầm nghiêm trọng. Nếu giúp đỡ công lý được khoan hồng – Viên thám tử .
      - Công lý! nền công lý đệp đẽ! Số của cải đó thuộc về ai, nếu thuộc về chúng tôi? Tôi đây. Hai mươi năm dài đằng đẵng các đầm lầy, làm việc suốt ngày, bị bọn coi tù hànhh hạ, suốt đêm bị cùm chân, bị muỗi đốt, run bần bật vì sốt rét....
      Jonathan thoát ra khỏi cái vẻ lầm lìcủa gã. Để mặc cho tình cảm lôi cuốn, gã tuôn ra hàng tràng, mắt toé lửa, tay vung vẩy khiến hai chiếc vòng khua loảng xoảng.
      - quên rằng chúng tôi kông biết gì về chuyện đó – Holmes điềm đạm – Khi chưa nghe câu chuện của đời chúng tôi thể rằng lẻ phải có ở về phía hay .
      - Thưa ông, ông đối xử với tôi rất tốt. Cho nên, tuy chính ông bắt tôi, nhưng tôi giận ông! Đấy là luật chơi... Tôi thấy ông có gì phải giấu giếm, câu chuyện đời mình. Vâng, cám ơn, xin đẩy ly về phía tôi, tôi khát cháy cổ rồi.“Tôi ra đời gần Preshore, trong hạt Worcestershire. Dân cư ở đấy là những trại chủ khá giả, quen biết nhau và thương nhau. Trái lại, tôi là kẻ vong mạng. Vào năm 18 tuổi, tôi bị dính vào cuộc ẩu đả ầm ĩ vì , cuối cùng tôi phải đăng vào lính, Ấn Độ mới thoát được. hôm, tôi tắm ở sông Hằng. Điều may mắn là John Holder, viên trung sĩ trong đại đội tôi, cũng xuống tắm. Tôi bơi ở giữa sông con cá sấu cắn tiện đứt chân tôi. Tôi ngất lịm và sắp chìm nghỉm Holder dìu tôi vào bờ. Sau năm tháng điều trị, tôi xuất viện với cái chân gỗ.
      Lúc đó, tôi chỉ còn là kẻ tàn tật vô dụng, chưa đầy hai mươi tuổi. Ngày kia, có người nào đó tên là Abel White tìm đốc công để giám sát nhân công bản xứ và đôn đốc họ làm việc trong đồn điền. Ông ta là bạn của đại tá chỉ huy đơn vị tôi. Ông đại tá nồng nhiệt giúp tôi chỗ làm đó. Phần lớn thời gian làm việc là ngồi mình ngựa nên cái chân cụt cản trở gì lắm. Tôi dong ruổi khắp đồn điền, giám sát công nhân và bắt tại trận những tên trốn việc . Lương bổng hậu, có chổ ăn ở tiện nghi . chung , tôi có gì phàn nàn nếu cứ sống nốt quãng đời còn lại ở cái đồn điền đó . Ông Abel là người nhân hậu .Ông thường tới thăm tôi và chúng tôi vừa hàn huyên vừa ngồi hút cùng cối thuốc.Nhưng rồi, cuộc nổi loạn bỗng bùng lên. Khắp xứ sôi sục như địa ngục với hai trăm ngàn con quỷ đen ngòm. Đồn điền của chúng tôi nằm ở Muttra giáp giới với các tỉnh Tây Bắc. Đêm đêm, bầu trời rực sáng lửa từ các đám cháy. Ngày ngày, hàng ngàn gia đình người Âu trẩy qua cửa chúng tôi, tiến về phía Arga, nơi có đồn binh gần nhất. Abel là người bướng bỉnh, ông tin chắc rằng người ta phóng đại tầm vóc cuộc nổi loạn, và tin tưởng cuộc nổi loạn chóng tàn. Ngồi dưới mái hiên, ông bình thản nhấm nháp ly whisky, rít từng hơi thuốc, trong khi cả xứ tràn ngập khói lửa! Dĩ nhiên, Dawson và tôi vẫn ở cạnh ông. Vợ chồng ông Dawson lo việc trong nom nhà cửa và giữ sổ sách. Ngày hôm ấy, tôi phải kiểm tra đồn điền khá xa. Buổi chiều khi tôi thong thả trở về thấy dưới hố có đống gì đó. Tôi tới gần và lạnh toát cả người khi nhận ra đó là vợ của Dawson. đoạn nữa, tôi thấy Dawson nằm úp mặt xuống đất, trong tay là khẩu súng lục hết đạn. Phía trước ta là xác chết của bốn người Cipayes chồng chất lênnhau. Tôi giục ngựa chạy thục mạng. Tôi thấy đám khói dày bốc lên từ nhà ông Abel. Lúc đó tôi hiểu tôi còn giúp đỡ gì cho chủ của tôi được nữa. Hàng trăm người đen đúa, lưng khoác áo choàng đỏ, nhảy nhót, gào rú quanh ngôi nhà bốc lửa. vài tên đưa tay chỉ tôi, và hai viên đạn rít bênh tai tôi. Tôi băng qua cánh đồng và tới được Arga vào lúc nửa đêm.
      Ở Arga có tiểu đoàn 3 khinh binh người Bengale, vài người Sikhs, hai phân đội kỵ binh và pháo đội. đội quân tình nguyện gồm các thương gia và tư chức được thành lập, tôi với chiếc chân gỗ cũng gia nhập vào đó. Đầu tháng 7, chúng tôi ra khỏi thành, chạm trán và đẩy lui quân nổi loạn được lúc, nhưng vì thiếu đạn nên lại phải rút lui, co lại trong thành.
      Arga là thành phố lớn tràn ngập những kẻ cuồng tín. Giữa những ngõ hẻm chật hẹp, ngoằn ngoèo, nhúm người ít ỏi chúng tôi đủ sức chống giữ. Vì vậy ông tư lệnh quyết định cho chúng tôi vượt sông, vào cố thủ trong cổ thành Arga. Cổ thành rộng nhiều mẫu tây. Từ trướng đến nay, người ta bỏ mặc nó cho bọ cạp và rắn rết. Ở đó có những căn phòng rộng lớn vắng ngắt, những lối ngoằn ngoèo và hệ thống hành lang phức tạp len lỏi khắp mọi ngõ ngách.
      Phía trước cổ thành có con sông dùng để bảo vệ nó. nhưng phí sau và hai bên hông có rất nhiều cửa, nên cần có người canh giữ. Mà quân số chúng tôi lại ít, chỉ đủ người để kiểm soát các góc thành và điều khiển các khẩu pháo. Vì vậy thể tổ chức toán lính canh ở mỗi vọng gác trong vô số cửa ngầm. phân đội trù bị được tổ chức ở trung tâm cổ thành và mỗi cổng thành được người da trắng và hai ba thổ dân canh gác. Tôi có nhiệm vụ canh gác tại cửa ngầm hèo lánh ở cánh Tây Nam. Tôi chỉ huy hai người lính Sikhs. Tôi phải bắn pháo hiệu trong trường hợp khẩn cấp để phân đội trung tâm đến tiếp ứng. Nhưng phân đội ở cách vị trí của tôi 200 bộ, con đường lại bị cắt bởi nhưng hành lang và lối ngoằn ngoèo, nên tôi nghĩ họ khó có thể tiếp ứng kịp thời trong trường hợp chúng tôi bị tấn công.Trong hai đêm đầu tiên, tôi canh gác cùng với hai tên lính vạm vỡ có ánh mắt dữ tợn là Mahomet Singh và Abdullah Khan. Họ tiếng khá sõi. Về phần tôi, đứng vọng gác, tôi nhìn con sông uốn lượn ở phía dưới và ánh đèn nhấp nhánh trong thành phố. Tiếng trống, tiếng la hét, gào rú của đám loạn quân nhắc cho tôi nhớ rằng mối đe dọa rình rập từ bên kia sông. Cứ mỗi hai giờ, sĩ quan kiểm tra vòng, để biết chắc là mọi vẫn tốt đẹp.
      Đêm thứ ba, thời tiết u ám. Mưa và lạnh thấu xương. Nhiều lần tôi cố gạ chuyện với hai người Sikhs, nhưng kết quả. Vào lúc 2 giờ sáng, tôi rút ống điếu và dựng cây súng bên cạnh, sửa soạn hút thuốc. Thoáng cái, hai tên ấy nhào lên người tôi. tên đoạt súng, chĩa vào người tôi, tên kia rút ra lưỡi dao lớn kê vào cổ họng tôi, rít lên rằng nó giết tôi, nếu tôi nhúc nhích.
      Ý nghĩ đầu tiên của tối là chúng thông đồng với quân nổi loạn, và chúng tấn công vào thành. Nếu cửa ngầm do tôi canh giữ lọt vào tay quân Cipayes cả cổ thành mất, phụ nữ và trẻ con tránh được số phận thảm khốc. tên thầm: “ được làm ồn! có gì phải lo cho bọn trong thành! có bọn chó nổi loạn ở phía này đâu”. Giọng ta có vẻ thàn. Tôi im lặng chờ xem họ muốn gì.
      - Thưa ngài, ngài hãy nghe cho kỹ! – Abdullah Khan – Bây giờ ngài phải lựa chọn: hoặc đứng về phe chúng tôi hoặc bị giết. Ngài có 3 phút để quyết định, trước khi toán tuần tra qua.
      - Tôi quyết định thế nào được khi các cho biết các muốn gì! Nếu việc có đụng chạm đến an nguy của cái thành, tôi thà chết còn hơn.- Hoàn toàn liên quan gì đến cái thành! Chúng tôi cầu ngài làm giàu! Ngài được phần tư kho tàng.
      - Kho tàng nào?
      - Vậy ngài hãy thề vong linh của cha ngài, danh dự của mẹ ngài, thánh giá của tôn giáo ngài, là tố cáo chúng tôi, đánh giết chúng tôi, cả lúc này và cả về sau nữa.
      - Tôi thề với điều kiện là thành này bị nguy.
      - Vậy, tôi và bạn tôi, xin thề rằng kho tàng được chia đều cho bốn chúng ta.
      - Nhưng chúng ta chỉ có ba người!
      - Còn phần của Dost Akbar nữa. Mahomet Singh, ra canh ở chỗ cửa ngầm ! Tôi kể hết cho ngài nghe.
      Ở phía bắc có tiểu vương rất giàu có. Khi cuộc nổi loạn bùng nổ, ông ta thu xếp để được lòng phe người Cipayes và cả phe người . Ông ta giữ vàng và bạc lại trong lâu đài, nhưng giấu ngọc ngà châu báu trong hộp sắt và giao cho người đày tớ trung thành. Người này tới đây giả dạng thương gia và lo việc cất giữ kho châu báu, chơ hoà bình trở lại. Như vậy, nếu phe nổi loạn thành công, ông ta giữ được số vàng. Nhưng nếu người thắng, ông ta giữ được số châu báu. Sau khi sắp đặt như thế, ông ta công khai đứng về phía người Cipayes thắng thế ở kế cận tiểu quốc của ông ta. Người thương gia giả mạo với cái tên Achmet kia giờ ở trong thành phố Arga, và muốn vào thành này. Y chung với người em với tôi là Dost Akbar, Dost Akbar hứa đêm nay đưa y đến đây.Tên thương gia kia có sống hay chết, đối với tôi nào có quan trọng gì. Lúc đó tôi tưởng tượng ra tất cả những việc tôi có thể làm khi trở về quê cũ, mọi người kinh ngạc khi thấy thằng bé vô tích ngày xưa, nay trở về với cái túi đầy vàng.- Ngài hãy suy nghĩ kỹ mà xem. Nếu ông tư lệnh bắt được tên thương gia, y bị xử bắn và kho tàng bị chính phủ sung công. Nhưng nếu chúng ta tóm được y, chúng ta chiếm được kho tàng. ai biết chuyện này. Có nguy hiểm gì đâu chứ?
      - Tôi đồng ý đứng về phía các !
      - Như thế mới tốt chứ! – ta vừa vừa trao khẩu súng lại cho tôi – Ngài thấy rằng chúng tôi tin cậy ngài ... Giờ đây, chúng ta chỉ còn chờ người thương gia kia tới.- Người em của biết những việc sắp làm ?- Chính ta nghĩ ra kế hoạch này. Giờ ngày hãy ra canh cùng với Mahomet Singh !
      Trời vẫn mưa. Gió mùa bắt đầu. Những đám mây nặng và u ám bay tản mạn khắp bầu trời. khó nhìn xa hơn tầm đá ném. Ở dưới cửa ngầm, nơi chúng tôi canh giữ có cái hào, nhưng ở vài chỗ hầu như cạn, nên người ta có thể vượt qua dễ dàng. Thình lìnhtôi thấy có ánh đèn ở phía bên kia hào. Ánh đèn biến mất sau các mô đất rồi lại ra, và tiến về phía chúng tôi.
      - Họ đây rồi! – Tôi kêu lên.
      - Ngài hô khẩu lệnh dừng lại như lệ thường – Abdullah Khan thầm – Ngài ra lệnh cho chúng tôi tới gặp họ, chúng tôi “ coi sóc” họ, còn ngài soi đèn để chúng tôi kiểm tra xem có đúng là nguời đó .
      Từ xa, ánh đèn tiến tới, chao đảo, đôi lúc dừng lại như ngập ngừng rồi tiếp tục tới. Sau cùng chúng tôi nhìn dược hai bóng người ở phía bên kia hào. Tôi để cho họ tuột xuống bờ dốc đứng, bì bõm lội qua chỗ hào có nước, leo lên nửa chừng dốc rồi mới hô lệnh dừng lại.- Ai đó? – Tôi hô lên, cơ hồ muốn nghẹn thở.- Những người bạn! - người đáp lại.Tôi đưa đèn ra, rọi lên người họ. Người thứ nhất là người Sikhs khổng lồ, có hàm râu đen nhánh. Người kia thấp bé, mập tròn, đầu quấn khăn vàng, tayy mang cái tráp bọc trong khăn. ta run rẩy, sợ sệt, ngớt dáo dát nhìn bốn phía như con chuột vừa ra khì tổ. Lúc ta nhận ra tôi là người Âu, anhh ta kêu lên nho , mừng rỡ và chạy về phía tôi.- Xin Ngài che chở cho tôi! – ta hổn hển - Tôi bị cướp, bị đánh đập, bị lừa phỉnh, vì tôi là bạn của người .- Trong bọc có cái gì vậy? – Tôi hỏi.
      - cái hộp sắt. Nó chỉ chứa hai món đồ gia đình. Tuy nhiên tôi hậu tạ ngài. Thưa ngài trẻ tuổi, ngài và quan Tổng trấn nữa, nếu quan Tổng trấn có lòng tốt cho tôi trú ở đây.
      - Đưa ta tới trạm gác chính – Tôi ra lệnh.
      Hai tên línhh Sikhs kèm ta , còn tên khổng lồ theo sau. Họ vào con đường tối. Tôi ở lại tường thành với cây đèn. Tôi nghe tiếng bước châncủa họ vang hành lang dài vắng lặng. Bất chợt, tiếng bước chân im bặt. rồi có tiếng kêu, tiếng động mơ hồ của cuộc vật lộn, tiếng đấm đá. lúc sau, tôi kinh hoàng nghe tiếng buớc chân gấp gáp về phía tôi, tiếng thở hổn hển của người cố chạy trốn. Tôi hướng ánh đèn xuống thấp, dọc theo con đường thẳng và thấy người mập tròn lúc nãy chạy nhanh như gió, mặt đầy máu. Gã khổng lồ người Sikhs bám theo bén gót, nhảy nhót như con hổ, con dao trong tay. Gã thương gia bỏ xa tên người Sikhs. Tôi biết rằng nếu ra được chỗ trống, ta chạy thoát. Lòng tôi thương xót ta, nhưng cái ý nghĩ về kho tàng làm cho tim tôi cứng lại. Tôi dùng cây súng ngáng chân ta, khiến ta ngã lăn tròn như con thỏ trúng đạn. Trước khi ta đứng dậy được, tên người Sikhs nhào lên... Như các ông thấy, tôi kể lại việc cách trung thực, dù có lợi cho tôi hay .
      Jonathan nín bặt, và đưa cả hai tay bị còng đón ly uýt-ki. Tôi phải thú nhận rằng con người này gây cho tôi cảm giác kinh tởm, chỉ vì vụ sát nhân được thực cách lạnh lùng và còn vì thái độ rất tự nhiên lúc ta thuật chuyện. Holmes và Athelney ngồi chồm tới trước, có vẻ như bị câu chuyện cuốn hút, nhưng vẻ kinh tởm cũng khuôn mặt họ.
      - Tiếp tục câu chuyện của ! - Holmes ra lệnh.
      - Abdullah, Akbar và tôi mang xác . Mahomet Singh ở lại canh. Những tên người Sikhs chuẩn bị chỗ chôn xác chết ở trong gian phòng rộng sụp đổ vài chỗ, cách đó quãng, qua những lối ngoằn ngoèo. Mặt đất nền sụp xuống, tạo thành cái huyệt tự nhiên. Chúng tôi đặt xác Achmet xuống, lấy gạch vụn phủ lên. Rồi quay trở lại. “Cái tráp châu báu” vẫn nằm ở chỗ người thương gia bị sát hại. cái chìa khoá buộc vào cái tráp bằng sợi dây lụa. Chúng tôi mở tráp ra và ánh đèn chiếu lên đống báu vật trông giống y như tôi từng mơ thấy hoặc đọc được trong các truyện thần thoại. sau khi nhìn ngắm chán chê, chúng tôi trút cái tráp ra dể đếm. Trong tráp có trăm bốn mươi ba viên kim cương hạng đẹp nhất, và chín mươi bảy viên ngọc lục bảo, trăm bảy mươi viên hồng ngọc, hai trăm mười viên kim ngọc, sáu mươi mốt viên mã não và số lớn đá quý khác... Chúng tôi đặt tất cả vào tráp và mang về cửa ngầm để cho Mahomet Singh coi qua. Ở đó, lời thể giữa chúng tôi được long trọng lặp lại. Chúng tôi thỏa thuận giấu kín số châu báu ở chỗ an toàn cho tới khi hoà bình trở lại đất nước, au đó mới chia đều nhau. Ngay lúc đó nên chia, vì nếu chúng tôi giàu có bị nghi ngờ; ngoài ra chúng tôi cũng có nhà cửa hay chỗ nào có thể dấu chúng được. Thế là chúng tôi mang cái tráp tới gian phòng chôn xác Achmet, đào cái hốc trong bức tường còn vững chãi nhất, đặt cái tráp vào, rồi phủ gạch lên. ngày hôm sau, tôi vẽ bốn bức hoạ đồ, đưa cho mỗi người bức, đánh dấu bộ tứ ở dưới. Sau khi ngài Wilson chiếm thủ đô Delhi và huân tước Colin giải toả thành Lucknow, quân nổi loạn bị đánh bật ra khỏi Agra.
      Hoà bình trở về đất nước, bốn chúng tôi hy vọng vào cái ngày chúng tôi có thể mang theo kho báu. Nhưng vị tiểu vương vốn là người đa nghi. Trong khi sai Achmet làm việc cho mình; ông ta cũng phái người khác theo dõi Achmet. Đêm đó người này thấy Achmet qua cửa ngầm , vào luỹ thành. Nghĩ rằng Achmet tìm dược nơi trú , ngày hôm sau người này mới vào thành, nhưng tìm ra bóng dáng Achmet. ta lấy làm lạ, mới cho viên đội biết. Viên đội đem câu chuyện thuật lại cho ông thiếu tá. Người ta tổ chức cuộc truy tìm và khám phá ra xác chết. Vậy là cả bốn đứa chúng tôi bị bắt và bị kết án vì tội giết người. Vấn đề châu báu được nêu ra trong phiên xử. Vị tiểu vương bị bắt và bị lưu đày, và ai quan tâm đến vấn đề này nữa. Ba người Sikhs bị tù chung thân, tôi bị kết án tử hình, sau đó bản án của tôi được sửa lại thành tù chung thân.
      Cả bốn chúng tôi bị cùm chân, hàng ngày phải lãnh những viên đá, cái đấm của bất kỳ tên cai tù nào, phải uống nước lã và ăn cơm hẩm. Nhưng chúng tôi vẫn đứng vững, chờ đợi ngày mai tốt đẹp hơn.
      Cuối cùng những ngày mai tốt đẹp ra. Tôi được chuyển tới Agra tới Madras rồi từ đó chuyển tời đảo Blair trong quần đảo Andamans. Trại tù này nhốt rất ít người da trắng nên chẳng bao lâu tôi được ưu đãi. Người ta để cho tôi được thong thả. Đó là nơi buồn tẻ, bị bệnh sốt rét hoành hành, bao quanh là rừng già đầy thổ dân bán khai luôn sẳn sàng bắn mũi tên tẩm độc vào người da trắng. Chúng tôi phải đào hào, đắp nền nhà, tu bổ đồn điền và làm hàng chục thứ công việc khác. Trong số các công việc đó tôi được giao nhiệm vụ phân phác thuốc men. Lúc nào tôi cũng mong muốn vượt ngục. Nhưng đảo cách xa đất liền hàng trăm kilômét, và vùng đó ít khi có gió. Việc vượt ngục là rất khó. Ông bác sĩ của trại tù là người còn trẻ và hiền hậu. Buổi tối, các sĩ quan trẻ thường tụ họp tại nhà ông để đánh bài. Bệnh xá nằm cạnh phòng họ. Khi cảm thấy đơn, tôi thường tắt đèn bệnh xá và ngồi cạnh quầy thuốc để nghe họ nòi chuyện và xem họ chơi bài. Trong bọn họ có thiếu tá Sholto, đại uý Morstan, trung uý Bromley Brown, cả ba chỉ huy các đơn vị bản xứ. Viên y sĩ cũng có mặt cùng với hai hay ba viên chức trại giam. Mấy viên chức này là những tay chơi giỏi, có những nước bài khéo.Đêm đêm, khi rời khỏi sòng bạc, các sĩ quan lại nghèo chút. Thiếu tá Sholto thua nặng nhất. Chẳng bao lâu ông phải ký giấy nợ. Ông lang thang suốt ngày, mặt tối sầm, và bắt đầu uống rượu. đêm kia, tôi ngồi trong lều đại uý Morstan và ông ta về nhà, ngang qua chỗ tôi.
      - Thế là hết đại uý ạ! – Ông ta thở dài lúc qua lều tôi - Tôi phải từ chức thôi. Tôi sạt nghiệp!
      - Đừng dại thế, ông bạn già! – Viên đại uý vừa vừa vỗ vai bạn – Tôi cũng gặp vận rủi nhưng....
      Tôi chỉ nghe được có như vậy, và điều đó làm tôi suy nghĩ. Hai ngày sau, viên thiếu tá thơ thẩn bờ biển, tôi liền thử thời vận:
      - Thưa thiếu tá, tôi muốn xin ý kiến thiếu tá.
      - Chuyện gì thế?
      - Thưa Ngài, tôi muốn hỏi Ngài là tôi phải trao kho tàng bí mật lại cho ai. Tôi biết chỗ dấu hơn nửa triệu đồng bảng. Việc làm đó có đáng cho tôi được giảm hình phạt ?
      - Nửa triệu hả? – Ông ta lẩm bẩm vừa quan sát tôi chăm chú, xem tôi có nghiêm chỉnh .
      - Thưa Ngài, ít nhất cũng được vậy. Điều đáng lưu ý là chủ nhân thực của nó bị phát vãng, nên ai chiếm được hưởng.- Trao cho chính phủ! – Ông ta lắp bắp.Nhưng ông ta ra điều đó với cái vẻ quá ít tin tưởng, khiến tôi nghĩ rằng tôi thắng.
      - Thưa Ngài, Ngài nghĩ rằng tôi phải báo cáo mọi chi tiết cho quan toàn quyền?– Tôi thản nhiên hỏi.- À à, đừng hấp tấp! Hãy kể cho tôi nghe . việc thế nào?
      Tôi hết cho ông ta, tất nhiên có thay đổi vài chi tiết để ông ta xác định được địa điểm. Khi tôi kể xong, ông ta ngồi im lặng , đôi môi mím chặt.
      - Việc này rất quan trọng - Cuối cùng ông ta - Chớ có với ai. Tôi gặp lại .
      Bốn mươi tám giờ sau, đại uý Morstan và ông ta cầm đèn tới tìm tôi vào lúc rất khuya.
      - Tôi muốn ông đại uý nghe chính miệng kể lại câu chuyện.- Ông thiếu tá .
      Tôi thuật lại câu chuyện lần nữa.
      - Có vẻ đúng đấy, phải ? Có đáng cho ta mạo hiểm ? - Thiếu tá hỏi.
      Đại uý Morstan gật đầu đồng ý. Thiếu tá :
      - Ông bạn tôi và tôi bàn nhau và chúng tôi kết luận rằng câu chuyện bí mật này liên quan gì đến chính phủ. Nó chỉ can hệ đến mình có quyền thu xếp theo ý riêng. Vấn đề đặt ra bây giờ là hoàn cảnh của thôi. Có lẽ chúng tôi cùng thảo luận xem chúng ta có thể thoả thuận như thế nào.Ông ta cố tỏ ra dửng dưng, nhưng đôi mắt ông ta lộ vẻ tham muốn và khích động.
      - Thưa các Ngài, người trong hoàn cảnh của tôi chỉ có thể cầu điều duy nhất! – Tôi trả lời, cũng cố tỏ ra bình thản, nhưng ra cũng bị kích động – Tôi cầu các Ngài giúp tìm lại tự do cho tôi và ba người bạn. Chúng toi chia cho hai Ngài phần năm số châu báu.- Hừ, phần năm! hấp dẫn lắm!- Năm chục ngàn bảng cho mỗi người, thưa Ngài!- Nhưng chúng tôi trả tự do cho các bằng cách nào đây? đói hỏi điều thể được!- đâu thưa Ngài – Tôi trả lời - Trở ngại duy nhất trong cuộc vượt ngục của chúng tôi là tìm đâu ra chiếc thuyền đủ sức vượt biển. Ở Calcutta có nhiều du thuyền , rất hợp cho công việc của chúng tôi. Các Ngài chỉ cần đưa về đây chiếc. Ban đêm chúng tôi lên tàu, còn các Ngài phải làm gì hơn là thả chúng tôi xuống tại nơi nào đó dọc bờ biển Ấn Độ.- Nếu chỉ mình – Ông ta lẩm bẩm.
      - Hoặc cả bốn chúng tôi, hoặc ai cả! Chúng tôi thề rồi.
      - thấy đấy, Morstan - Viên thiếu tá - Jonathan biết giữ lời hứa. ta trung thành với bạn bè. Tôi nghĩ rằng ta có thể tin tưởng ta.- Đây là công việc bẩn thỉu! – Viên Đại uý – Nhưng, như , tiền kiếm được giúp chúng ta trả nợ.- Vậy chúng thôi cố thoả mãn các điều kiện của , Jonathan. Nhưng, trước hết chúng tôi phải biết chắc là câu chuyện đó có . Cho tôi biết chỗ giấu cái tráp. Tôi xin nghỉ phép, theo tàu tiếp tế để đến tận nơi xem xét.
      - Xin hãy thong thả! – Tôi phản đối, vì khi họ càng nôn nóng tôi càng trở nên bình thản hơn – Tôi phải hỏi ý kiến của ba người bạn. Tôi với các Ngài, hoặc cả bốn chúng tôi hoặc ai cả?
      - Lố bịch quá! – Ông ta kêu lên – Ba thằng mọi đen có liên quan gì đến giao kèo giữa chúng ta?
      - Đen hay đỏ gì họ cũng là bạn của tôi, và chúng tôi hành động chung nhau.
      Trong cuộc gặp gỡ thứ nhì có Mahomet Singh, Abdullah Khan và Dost Akbar. Chúng tôi bàn cãi và thoả thuận như sau: “Chúng tôi cho hai viên sĩ quan mỗi người bức địa đồ. Thiếu tá Sholto Ấn Độ để kiểm tra việc. Nếu tìm được chiếc tráp, ông ta để yên nó ở đấy và tới chúng tôi chiếc du thuyền đầy đủ lương thực cho cuộc vượt ngục. Sau đó, thiếu tá Sơn- tô trở về nhiệm sở còn đại uý Morstan xin nghỉ phép để gặp chúng tôi ở Agra. Cuộc chia kho tàng diễn ra ở đó. Đại uý nhận phần mình và phần của Sholto”. Những lời thề long trọng nhất đánh dấu cho thoả hiệp của chúng tôi! suốt đêm đó tôi vẽ hai bức địa đồ cho họ, nhưng tên Sơn- tô bỉ ổi đó Ấn Độ và bao giờ quay trở lại. Tên khốn nạn cuỗm số châu báu. Kể từ ngày đó, tôi chỉ sống để trả thù. Tôi chỉ còn ý nghĩ trong đầu: vượt ngục, và tìm giết . bữa nọ, bác sĩ Somerton ốm, phải nằm nghỉ. Đám tù nhân rừng về mang thổ dân tới cho tôi. mắc bệnh rất nặng, tới nơi hẻo lánh nằm chờ chết. Tôi chữa cho ta khỏi bệnh. Hai tháng sau, ta lại được. Nhưng vì quyến luyến tôi, ta miễn cưỡng về rừng và ngớt quay lại quanh lều tôi.Đó là Tonga. Tonga có chiếc thuyền lớn và điều khiển thuyền rất giỏi. Lúc đó, tôi thoáng nghĩ tới cuộc vượt ngục. Tôi liền đem chuyện đó với ta, dặn phải đem thuyền tới bến tạm, có người canh giữ, vào lúc đêm tối. Tonga cũng phải chở theo nhiều túi nước dừa khô và khoai lang. Tonga rất thực thà và trung thành. ta đưa thuyền đến chỗ ấn định. Nhưng tình cờ lại có lính canh ở đấy. Đó là thằng Pathan hèn hạ, luôn tìm cách nhục mạ và làm hại tôi, súng vắt chéo ngang lưng. Tôi nhìn nhanh tìm cục đá có thể đập vỡ đầu , nhưng chẳng tìm đâu ra.
      Tôi bỗng có ý nghĩ lạ. Tôi lẳng lặng ngồi xuống và tháo cái chân gỗ ra. Nhảy ba bước dài, tôi nhào lên người . đưa súng lên vai, nhưng tôi đập chiếc chân gỗ lên mặt và làm vỡ sọ . Tôi ngồi dậy, lên thuyền. giờ sau chúng tôi ở giữa biển. Tonga chất lên thuyền những gì ta có, kể cả thần thánh của ta nữa. Chúng tôi cho thuyền trong mười ngày được chiếc tàu vớt.
      Cuối cùng, chúng tôi đặt chân tới quốc. Tìm ra chỗ trú của Sholto cũng chẳng khó khăn gì. Tôi liên hệ với người có thể giúp tôi. Chẳng bao lâu tôi biết Sholto vẫn còn giữ số châu báu. Tôi tìm mọi cách tiếp cận y. Nhưng y rất đa nghi và quỷ quyệt, luôn luôn có hai cựu võ sĩ và người hầu bên cạnh, chưa kể các con trai y nữa. ngày kia, hay tin y hấp hối, tôi đâm bổ vào vườn hoa của y. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy y nằm giường, hai đứa con y đứng hai bên. Tôi sắp sửa nhảy xổ vào, liều mạng với cả ba. Nhưng tôi nhìn thấy quai hàm trễ xuống, và tôi biết y vừa chết. Đêm đó, thừa lúc vắng người, tôi lẻn vào phòng y, lục lọi giấy tờ, hy vọng tìm thấy chỉ dẫn nào đó liên quan đến số châu báu. Nhưng chẳng có gì cả. Tôi quay về, lòng cay đắng và sôi sục. Nhưng trước khi , tôi nghĩ rằng những người bạn Sikhs của tôi hẳn hài lòng nếu tôi để lại dấu hiệu chứng tỏ lòng thù hận của chúng tôi. Vì vậy tôi khắc dấu hiệu bộ tứ, và gắn vào ngực y.
      Trong thời gian đó, để kiếm sống, chúng tôi phải bôn ba khắp các hội chợ và nhiều nơi khác, đem Tonga ra làm trò cho công chúng xem. Tonga nuốt thịt sống, nhảy những điệu múa chiến tranh. Bao giờ chúng tôi cũng kiếm được đầy mũ tiền trong các buổi trình diễn. Tôi cũng thường xuyên nhận được tin tức của biệt thự Pondicherry. Vài năm trôi qua mà chẳng xảy ra chuyện gì quan trọng, tôi vẫn dò tìm số châu báu. Cuối cùng tôi biết được cái tráp giấu ở phía phòng thí nghiệm của Sholto. Tôi lập tức chạy tới nơi và kiểm tra địa thế. Tôi thấy là với chiếc chân gỗ, tôi tài nào đu mình lên đó được. Cái cửa sổ mái gợi cho tôi giải pháp: Tonga dễ dàng chui qua cửa sổ. Tính toán giờ giấc ăn tối của Sholto xong, tôi đưa người bạn của tôi tới, cột vào lưng ta sợi dây dài. ta leo trèo như con mèo và thoát cái mái nhà. Nhưng rủi thay! Bartholomew Sholto vẫn còn ở trong phòng, chuyện rủi ro đó làm cho ta mất mạng. Tonga tưởng rằng giết ta có nghĩa là làm được việc rất tài giỏi, nên khi tôi lọt được vào phòng, ta hãnh diện như con công khoe mã. ta kinh ngạc khi tôi quật ngã ta, lấy dây định trói ta và mắng ta là đồ quỷ khát máu. Tôi lấy cái tráp, thòng dây thả xuống qua cửa sổ, cũng theo đường đó thoát xuống. Rồi Tonga kéo dây lên, đóng cửa sổ và theo đường cũ thoát ra.
      Tôi nghe có thuỷ thủ khoe tốc độ của chiếc tàu Rạng Đông của lão Smith. Tôi nghĩ là chúng tôi cần chiếc tàu đó để chạy trốn. Thế nên tôi thu xếp với lão Smith: “để lão đưa chúng tôi ra tới tàu lớn”.
      - Câu chuyện đáng chú ý ! – Sherlock Holmes :- Tình tiết ăn khớp nhau hoàn toàn. Phần cuối câu chuyện của cho tôi biết thêm điều gì mới mẻ, trừ chi tiết là mang sợi dây tới, trước đây tôi biết điều đó. Tiện đây tôi muốn thêm, tôi cứ tưởng Tonga sử dụng hết số tên độc, ngờ ta vẫn còn phóng mũi về phía chúng tôi.
      - Chỉ còn mũi cuối cùng trong ống xì đồng.
      - À, chắc vậy! Tôi nghĩ đến chuyện đó.
      - Các ông còn điều gì hỏi nữa ? – Tên tù nhân nhã nhặn hỏi.
      - Tôi cho là xong rồi, cám ơn !- Này Holmes! – Thám tử Athelney – Tôi chỉ an tâm khi tên tù này được nhốt sau song sắt! Xe dành cho ta nằm dưới đường. Xin cảm ơn hai bạn, chúc hai bạn ngon giấc!Khi tất cả hết, tôi :- Thế là tấn kịch của chúng ta đến hồi kết thúc. Nhưng này Holmes, tôi e đây là vụ cuối cùng mà chúng ta cùng thực chung: Tôi và Morstan làm lễ thành hôn.
      Holmes buông ra tiếng càu nhàu.
      - có lý do gì để phản đối lựa chọn này – Tôi đáp hơi khó chịu.
      - Hoàn toàn : ấy là trong số những người phụ nữ duyên dáng nhất mà tôi biết. Có lẽ ấy rất có ích trong loại công việc của chúng ta. Nhưng tình thuộc về cảm xúc, má tính cảm xúc luôn luôn đối lập với lý trí lạnh lùng và xác thực, là đức tính mà tôi cho là cao hơn hết. Về phần tôi, tôi bao giờ lấy vợ vì sợ rằng phán đoán của tôi vì thế mà sai lệch.
      - Tôi mong rằng trí khôn của tôi vượt qua được cuộc thử thách này. Nhưng có vẻ mệt mỏi rồi đấy, bạn!

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Phần 3: Con chó của dòng họ Baskerville

      Chương 1: Ông Sherlock Homes

      Sherlock Homes ngồi vào bàn và ăn sáng. Tôi đứng tấm thảm cạnh lò sưởi tay vân vê chiếc gậy mà người khách bỏ quên hồi hôm qua. Chiếc gậy to và rất tốt, được coi là “bằng chứng đáng tin cậy”. Mảnh bạc bề rộng khoảng 1 inch được đóng vào ngay phía dưới chỗ phồng lên của chiếc gậy. Có hàng chữ được kẻ miếng bạc: “tặng James Mortimer M.R.C.S., những người bạn ở C.C.H., 1884”.
      - Watson, ý kiến của ra sao?
      Holmes hỏi, dù ngồi quay lưng về phía tôi.
      - Do đâu biết tôi quan tâm tới cây gậy. Cứ như là mắt của ở phía sau gáy ấy? - Tôi .
      - À, có chiếc bình cà phê bằng bạc được đánh bóng loáng để ở trước mặt tôi. Nhưng thôi, chúng ta mất cơ hội để biết người chủ của chiếc gậy ta đến đây làm gì và vì sao lại bỏ quên vật kỷ niệm quan trọng như vậy... Vậy hãy tìm hiểu cây gậy và qua đó thử hình dung lại người chủ của nó, còn tôi ngồi nghe.
      - Theo tôi, bác sĩ Mortimer là thầy thuốc trạc tuổi trung niên, được bạn bè kính trọng.
      - Được đấy! - Holmes .
      - Là bác sĩ nông thôn, ông thường phải bộ những quãng đường xa.
      - Tại sao vậy?
      - Trước đây cây gậy rất tốt nhưng giờ đây nó bị mòn đến mức tôi thể hình dung nổi là nó ở trong tay bác sĩ thành phố.
      - Lập luận là sáng suốt.
      - Còn về hàng chữ “những người bạn ở C.C.H”, tôi cho rằng chữ cái “H” có nghĩa là “săn bắn”[1], có lẽ là hội những người săn nào đó. Ông ấy săn sóc sức khoẻ cho các thành viên của Hội và được họ tặng món quà này.
      - đạt được những kết quả thể ngờ - Holmes , ngả người ra ghế và bắt đầu hút thuốc – Tôi thể chú ý tới điều này: Trong khi ghi chép những cống hiến của tôi, thường đánh giá thấp những khả năng vốn có của mình. Nếu ánh hào quang xuất phát từ nơi , trong mọi trường hợp, là chất dẫn truyền ánh sáng. Có nhiều người tài năng trội hẳn lên, nhưng lại có khả năng kích thích tài năng ở người khác. Thú là tôi thường đánh giá sai về khả năng của đấy!
      Những lời của Holmes làm tôi hài lòng. Tôi tự hào vì tôi chẳng những thành công trong việc nắm bắt phương pháp của Holmes mà còn biết vận dụng nó trong các công việc.
      Holmes cầm lấy cây gậy chăm chú xem đến vài phút. Rồi sau đó đặt điếu thuốc lá qua bên, đến cạnh cửa sổ và quan sát cây gậy bằng kính lúp.
      - Chẳng có gì đặc biệt cả, nhưng rất là thú vị! – khi trở lại cạnh -văng.
      - Phải chăng có cái gì đó lọt ra ngoài quan sát của tôi? - Tôi hỏi, khỏi có cảm giác tự mãn - Hy vọng là tôi bỏ qua chi tiết quan trọng.
      - Than ôi! Phần lớn các kết luận của đều sai lầm. Khi tôi rằng chất kính thích tốt cho tôi điều đó cần được hiểu thế này: Những sơ sót của dẫn tôi đến con đường đúng đắn. Nhưng, trong trường hợp cụ thể này, phải là sai lầm hoàn toàn. Quả ông ta là y sĩ ở nông thôn, ông ta buộc lòng phải bộ con đường xa.
      - Vậy là tôi đúng?
      - Chỉ đến đó thôi.
      - Nhưng đó là tất cả rồi.
      - Chưa, chưa đâu, Watson thân mến. Chẳng hạn thế này nhé: Cứ giả thiết rằng bác sĩ nhận tặng vật của bệnh viện nào đó, chứ phải là Hội các thợ săn và nếu trước cửa bệnh viện[2] có tấm bảng mang các chữ C.C.H. cái tên này tự nhiên nảy ra là Charing Cross Hospital[3].
      - Rất có thể đúng - Tôi .
      - Tất cả đều gợi ý nên giải thích như thế. Còn nếu cho giả thiết của tôi là có cơ sở chúng ta có thêm nhiều tư liệu bổ sung cho việc tái lập đặc điểm của người khách này.
      - Được. Chúng ta cứ cho rằng chữ cái C.C.H. có nghĩa là “Bệnh viện Charing Cross”. Vậy những kết luận tiếp theo như thế nào?
      - có ý nghĩ gì nảy ra trong đầu hay sao. thử vận dụng nó .
      - Kết luận hiển nhiên là: Trước khi về nông thôn, con người này từng hành nghề ở London.
      - ràng là vào lúc bác sĩ rời khỏi bệnh viện để đến nông thôn, người ta biếu ông món quà này. Điều này liệu có đúng ?
      - Có thể như vậy.
      - Bây giờ hãy lưu ý là ông ta phải là trong những bác sĩ lãnh đạo của bệnh viện. Những bác sĩ lãnh đạo như vậy ắt hẳn có địa vị vững vàng với số thân chủ đông đảo và họ phòng khi nào rời bỏ thủ đô để lập nghiệp ở nông thôn. Vậy lúc đó ông ta làm gì? Phục vụ ở bệnh viện mà được làm bác sĩ chỉ đạo chuyên môn có nghĩa là...
      -... vai trò của ông chỉ lớn hơn chút so với vai trò của thực tập sinh.
      - Ông rời khỏi chỗ đó 5 năm trước đây. Hãy nhìn vào năm tháng ghi chiếc gậy. Như vậy, người bác sĩ này già như tưởng. Ông ta chỉ khoảng 30 tuổi. Đó là người dễ mến, tham vọng, đãng trí và rất con chó của mình, con chó to hơn giống terrier nhưng hơn giống mastiff.
      Tôi phá lên cười hoài nghi, còn Holmes ngả lưng vào -văng thả lên những vòng khói biến nhàng trong khí.
      - Bây giờ chúng ta tìm hiểu về tuổi tác của con người ấy, và cả về con chó của ông ta nữa - Tôi .
      Tôi rút từ giá sách ra quyển hướng dẫn y học và lật tìm. Có vài tên Mortimers ở đó, nhưng tôi lập tức tìm thấy tên của vị khách của chúng tôi.
      “Mortimers, James, thành viên của M.R.C.S.[4] từ năm 1882. Sinh ở Gripen, Dartmoor, học Devon. Từ 1882-1884: làm việc tại bệnh viện Charing Cross. Giải thưởng Jackson về môn Bệnh lý học so sánh với luận đề “Bệnh tật có phải là đột biến nghịch ?”. Hội viên thông tấn của Hội bệnh lý học Thụy Điển. Tác giả của bài báo “Vài tượng bất thường của đột biến nghịch” (Báo Lancet, 1882), “Chúng ta có tiến bộ ?” (Báo Tâm lý học, tháng 3-1883). Bác sĩ của các giáo xứ Grimpen, Thorsley và High Barrow.
      - Watson thân mến, lời nào tới hội săn bắn cả - Holmes , nở nụ cười tinh quái - Nhưng, ông ta đúng là bác sĩ nông thôn như nhấn mạnh.
      - Vậy suy diễn của tôi là đúng.
      - Vì sao tôi dùng những tính từ dễ mến, tham vọng và đãng trí: Chỉ có những người dễ mến mới nhận những món quà lúc chia tay, chỉ những người có tham vọng mới đổi phạm vi hành nghề từ London về nông thôn và chỉ những người đãng trí mới để lại chiếc gậy cùng tấm danh thiếp sau khi chờ đợi hơn tiếng đồng hồ.
      - Còn con chó?
      - Con chó theo chủ và ngậm chiếc gậy. Chiếc gậy được làm bằng gỗ cứng. Con chó cắn vào đoạn giữa, dấu vết của hàm răng in hằn rất . Phỏng đoán theo khoảng cách giữa các dấu răng đây là giống chó lông xoắn.
      Khi đến đó, Holmes bắt đầu lại lại trong phòng, rồi dừng lại cạnh cửa sổ. Trong các lời sau cùng của mang theo niềm tin quả quyết tới mức khiến tôi nhìn ngơ ngác.
      - Tại sao tin vào điều đó? Đơn giản là tôi trông thấy con chó ở cạnh cửa ra vào. Đấy, tiếng chuông của chủ nó đấy. Đừng khỏi đây, Waston, là bạn đồng nghiệp của ông ta. Điều gì khiến cho bác sĩ James Mortimer, con người của khoa học, lại đến tìm Sherlock Holmes, chuyên gia về tội phạm? có nghe tiếng bước chân cầu thang ? Mời vào!
      Vẻ ngoài của vị khách khiến tôi ngạc nhiên. Bác sĩ Mortimer là người gầy gò, cao ngẳng, cái mũi dài trồi lên giữa cặp mắt xám, ánh lên rạng rỡ dưới gọng kính vàng. Ông ta ăn mặc giống như bác sĩ, nhưng hơi luộm thuộm chút: áo và quần tây sờn rách. Lưng ông hơi khòm mặc dầu chưa già. Ngay lúc vừa bước vào phòng, ông rướn cả người về phía Holmes.
      - là may mắn! Tôi thể nhớ được là tôi để nó ở chỗ nào, ở đây hay là ở hãng tàu thủy. Mất cái gậy là điều khủng khiếp.
      - Vật kỷ niệm chăng? - Holmes hỏi.
      - Vâng, thưa ông.
      - Của bệnh viện Charing Cross phải ?
      - Vâng, những người bạn ở đó tặng, nhân ngày cưới của tôi.
      - Chúa ơi, tệ quá! - Holmes lắc đầu .
      Bác sĩ Mortimer bắt đầu chớp mắt cách ngạc nhiên.
      - Điều ấy có gì là xấu xa?
      - Chỉ vì chúng làm đảo lộn suy luận của chúng tôi. Thế có nghĩa đây là món quà cưới?
      - Đúng, thưa ông. Tôi lấy vợ, rời bệnh viện. Tôi phải tạo lập nghiệp cho riêng mình.
      - Ôi thế đấy! Chúng tôi quá lầm lẫn - Holmes - Còn bây giờ, bác sĩ Mortimer...
      - Xin cứ gọi tôi là ông Mortimer thôi, tôi chỉ là thành viên của Hội phẫu thuật Hoàng gia và chỉ là hạt cát trong bể học rộng lớn. Nếu tôi lầm, tôi có diễm phúc tiếp chuyện với ông Sherlock Holmes và với ông...
      -... Bác sĩ Watson. Ngay trước mặt ông.
      - Rất sung sướng được làm quen, thưa ông. Tên của ông thường được nhắc đến cùng với tên của bạn ông. Ông Holmes, tôi cảm thấy bất ngờ vì sọ của ông kéo dài đến thế và cánh cung lông mày của ông lại được phát trển mạnh đến thế. Cho phép tôi sờ vào cái đường thóp của ông. Thưa ông, người nào mà có cái sọ như vậy có thể làm nổi bật bất kỳ viện bảo tàng nhân chủng học nào. Xin đừng cho tôi là nịnh bợ, quả tôi ganh tị về cái sọ của ông đấy.
      Holmes mời khách ngồi, :
      - Tôi với ông, cả hai đều là những người nhiệt tâm với công việc của mình thưa ông. Nếu suy luận theo ngón tay trỏ của ông ông ưa loại thuốc cuốn hơn. Xin đừng khách sáo, hãy cứ hút !
      Bác sĩ Mortimer rút thuốc từ túi ra và ông vấn giấy với khéo léo đến kinh ngạc. Những ngón tay dài và hơi run run chuyển động khá mau lẹ
      Holmes ngồi yên lặng song những cái nhìn nhanh và thoáng qua lướt người vị khách chứng tỏ rằng rất quan tâm tới ông ta.
      - Thưa ông, tôi cho rằng - Cuối cùng - Cuộc viếng thăm hôm qua và hôm nay của ông chắc chỉ vì để khám nghiệm cái sọ của tôi?
      - Tất nhiên là . là trước mắt tôi đột nhiên xuất nhiệm vụ cực kỳ nghiêm trọng và cực kỳ khủng khiếp. Tôi coi ông là chuyên gia lỗi lạc thứ hai ở châu Âu...
      - Vậy kia đấy, thưa ông! Cho phép tôi tò mò hỏi ai ở vị trí thứ nhất vậy? - Holmes hỏi, giọng bực bội.
      - Ngài Bertillon[5], người được mọi người kính trọng.
      - Vậy tại sao ông đến chỗ ông ta?
      - Đó là nhà tư duy khoa học. Còn về thực hành, ông nhường bất cứ ai. Thưa ông, hy vọng là tôi quá mức...
      - Chỉ là chuyện vặt vãnh. Tuy nhiên, bác sĩ Mortimer ạ, ông xử hoàn toàn đúng nếu ngay bây giờ, ông kể cho tôi nghe vấn đề của ông ra sao và ông cần tôi giúp đỡ những gì.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 2: Nỗi bất hạnh của dòng họ Baskerville

      - Trong túi tôi có bản chép tay - Bác sĩ Mortimer .
      - Tôi nhận ra điều đó ngay từ lúc ông mới vào đây.
      - Bản chép tay xa xưa lắm rồi.
      - Đầu thế kỷ XVIII, nếu phải là đồ giả mạo.
      - Do đâu ông biết?
      - Với tôi, ông luôn cho tôi thấy mép bản chép tay đó, nó rộng khoảng 1, 2 inch. chuyên gia tồi nếu thể xác định được niên đại của tài liệu với sai số chừng , hai thập kỷ. Tôi xác định bản chép tay của ông ở vào năm 1738.
      - Chính xác là năm 1742! - Bác sĩ Mortimer rút bản viết tay từ túi áo bên phải ra. - Vật quý báu này được ngài Charles Baskerville trao cho tôi. Cách đây 3 tháng, cái chết của ngài làm xúc động cả vùng Devonshire. Tôi coi mình chỉ là bác sĩ riêng mà còn là người bạn tâm tình của ngài. Ngài là người có quyền lực, thông minh, rất từng trải.
      Holmes đưa tay ra nhận xấp giấy rồi trải nó đầu gối.
      - Watson này, có thấy những chữ “s” dài và chữ “s” ngắn viết xen nhau ? Chính chi tiết này giúp tôi xác định niên đại của văn tự.[1]
      Qua vai , tôi nhận ra những tờ giấy úa vàng. Phía trang giấy có dòng chữ: lâu đài Baskerville, phía dưới có các con số to, nét chữ rộng: 1742.
      - Đây có lẽ là bản ghi chép gì đó hay tờ cung khai.
      - Vâng. Bản ghi chép truyền thuyết lưu truyền trong dòng họ Baskerville.
      - Nhưng tôi chưa thấy được liên hệ giữa chúng với tại?
      - Thưa ông, vấn đề rất có liên quan và trì hoãn được, cần phải giải quyết nó trong vòng ngày đêm. Thủ bản có quan hệ trực tiếp tới vấn đề. Nếu được phép của ông, tôi đọc nó.
      Sau khi ngả người vào lưng ghế bành. Holmes khép các đầu ngón tay lại với nhau, nhắm mắt lại với tư thế hoàn toàn thoải mái. Bác sĩ Mortimer quay lưng về phía ánh sáng, và bắt đầu đọc truyện thời xưa:
      “Về nguồn gốc con chó của dòng họ Baskerville, có rất nhiều lời đồn đại khác nhau. Tuy nhiên, vì ta là hậu duệ trực tiếp của Hugo Baskerville, và vì ta được nghe chính cha ta kể lại, cũng như người được nghe chính thân phụ của người, nên ta phải viết lại câu chuyện này, bằng giấy trắng mực đen, tin tưởng chắc chắn rằng việc xảy ra đúng như lời kể. Ta mong muốn con cháu của ta nên hiểu rằng Công lý vốn luôn luôn trừng phạt mọi tội lỗi cũng có thể ban ân tha thứ, và mọi lỗi, dù nặng nề đến mấy, cũng có thể giải trừ được bằng cầu nguyện và hối cải. Ta mong ước câu chuyện này dạy cho con cháu ta biết rằng những dục vọng xấu xa gây cho gia đình ta biết bao đau khổ phải được kiềm chế để khỏi làm hại dòng họ ta nữa. Điều đó phải để các ngươi e sợ những hậu quả trong quá khứ mà chính là để cho các ngươi thận trọng trong tương lai.
      Các ngươi nên biết rằng vào thời cuộc Đại cách mạng 1642-1649, chủ nhân của điền trang Baskerville là Hugo - chắc chắn ông ấy là người vô đạo, báng bổ thần thánh, người hơi hoang dã. vậy, láng giềng của ông có lẽ bào chữa cho ông đến thế thôi, vì nên biết rằng cả xứ lúc ấy cũng chưa được khai hóa gì mấy. Nhưng tính tình hung bạo của ông ấy cả miền đều biết tiếng. Bỗng hôm, ông ấy si mê con tiểu điền chủ trong vùng. thiếu nữ thận trọng lẩn tránh ông, vì tai tiếng của ông làm kinh hãi. Vào ngày lễ Thánh Michel, với giúp sức của năm hay sáu đồng bọn, Hugo bắt cóc trong lúc cha và các vắng. Ông đưa về điền trang, nhốt gác, rồi cùng đồng bạn mở tiệc ăn mừng. Hẳn nhiên sợ đến điên người khi nghe những tiếng ca hát lẫn với những lời chửi rủa gớm ghiếc từ dưới nhà vọng tới: khi say sưa Hugo chẳng lịch gì và ngôn ngữ của ông đáng để thiên lôi thưởng cho lưỡi tầm sét! Nhưng trong cơn sợ hãi, đánh bạo làm điều mà những người đàn ông can đảm cũng phải ngần ngại: bám vào đám dây leo phủ mặt tường lần tới ống máng xối, leo xuống đất, chạy băng qua đầm lầy về hướng trang trại của cha, cách điền trang 9 dặm[2].
      lúc sau, Hugo rời bàn tiệc với ý định mang cho nữ tù nhân của mình ít thức ăn và rượu vang, và có lẽ mang tới cả nhiều điều tồi tệ hơn nữa. Ông thấy cái lồng trống rỗng và con chim xanh cất cánh bay cao. Thế là ông như bị ma quỷ nhập vào. Ông chạy như bay xuống cầu thang từng bốn bậc , ào vào phòng tiệc, nhảy lên đàn, đá văng tất cả bình rượu và thức ăn, thề trước mặt bạn bè rằng ngay trong đêm đó ông dâng cả xác và hồn cho quỷ sứ nếu ông bắt lại được . Trong khi cả bọn còn ngây người trước cơn giận dữ điên cuồng đó gã độc ác nhất trong bọn, hoặc có lẽ do uống say hơn hết, đề nghị thả chó ra đuổi theo . Lập tức Hugo chạy ra khỏi phòng, ra lệnh thắng ngựa và thả chó ra. Ông cho đàn chó ngửi chiếc khăn tay của , để cho chúng định hướng; rồi trong tiếng sủa hoang dại của đàn chó, cuộc săn đuổi diễn ra khu đầm lầy ngập ánh trăng.
      Các thực khách khác đứng ngơ ngác lúc. Nhưng lúc sau, họ chợt hiểu có chuyện gì đó sắp xảy ra. Thế là trong cảnh nhốn nháo cực kỳ, người đòi súng, kẻ đòi ngựa, kẻ khác kêu thêm vài bình rượu. Có 13 tên tỉnh táo hơn chút, nhảy phốc lên ngựa đuổi theo Hugo và đàn chó. Có ánh trăng sáng hướng dẫn, cả bọn thúc ngựa phi nước đại theo con đường mà nhất định phải chạy về nhà.
      được vài dặm, bọn họ gặp người chăn cừu. Họ lớn tiếng quát hỏi ta có trông thấy đàn chó . Người chăn cừu run sợ đến nỗi ra tiếng. Sau cùng, ta mới ấp úng rằng có trông thấy bị đàn chó rượt theo.
      - Nhưng tôi còn trông thấy chuyện khủng khiếp hơn kia. Hugo Baskerville cưỡi con ngựa cái đen vượt qua tôi, còn phía sau ông ta là con chó chắc là từ địa ngục sổng ra lẳng lặng chạy theo... Cầu Chúa đừng cho con phải gặp nó!
      Bọn kỵ sĩ say sưa chửi rủa người chăn cừu rồi tiếp tục đuổi theo. Nhưng chỉ lúc sau, cả bọn thấy lạnh toát người: họ nghe tiếng ngựa phi nước đại, rồi họ thấy con ngựa đen, sùi bọt mép, lao qua trước mặt họ, dây cương kéo lê đất và có người cưỡi. Cả bọn hãi, xúm xít lại sát nhau. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục tiến bước, mặc dù mỗi người trong bọn họ, nếu có mình, rất vui lòng quay ngựa trở về. Được lúc họ bắt gặp đàn chó. Đàn chó săn giống, nổi tiếng gan dạ mà bây giờ chen chúc nhau bên bờ cái dốc, vài con len lén lảng ra xa, những con khác lông dựng ngược, nhìn chăm chăm về phía đáy thung lũng trước mắt.
      Cả bọn kỵ mã dừng hẳn lại, tỉnh hẳn người! Phần đông chịu tới nữa, nhưng có ba người bạn của Hugo, những người can đảm nhất, hoặc có thể còn say rượu, cứ xuống cái dốc. Họ tới bãi rộng, có hai cột đá được dựng lên từ thời tiền sử, và bây giờ vẫn còn đó. Ánh trăng soi sáng vùng đất trống này: nằm giữa bãi cỏ là bất hạnh, chết vì sợ hãi và kiệt lục. Ba kỵ mã sợ xanh mặt, phải vì tử thi của , cũng phải vì cái xác của Hugo Baskerville. quái vật, con thú to tướng, đen ngòm, giống như chó nhưng to hơn chó rất nhiều, đứng mình Hugo. Trong khi cả ba người đứng chết sững con quái vật cắn xé cổ họng của Hugo rồi quay đầu nhìn họ, quai hàm trễ xuống và cặp mắt sáng long lanh. Thế là họ mất hết hồn vía, kéo cương quay đầu ngựa chạy thục mạng, vừa kêu rú vang động cả đầm lầy. Người ta quả quyết rằng người chết ngay đêm đó, còn hai người kia suốt đời cũng hoàn hồn.
      Đó là câu chuyện về nguồn gốc con chó mà người ta cho là kẻ giáng tai họa khủng khiếp xuống dòng họ chúng ta từ ấy đến nay. Sở dĩ ta chép lại chuyện này là vì điều gì được hiểu thấu ràng gây ít sợ hãi hơn những điều được hiểu ngầm hay được giải thích sai lạc. thể phủ nhận là nhiều người trong dòng họ chúng ta kết thúc đời mình cách đột ngột, đẫm máu và bí . Tuy nhiên, chúng ta có thể náu trong lòng nhân từ vô hạn của Chúa Quan phòng, là đấng sẵn lòng tha thứ những con cháu vô tội thuộc đời thứ ba hay thứ tư. Ta xin giao phó con cháu ta cho Chúa Quan phòng, và khuyên thêm các ngươi chớ lang thang vào khuh đầm lầy trong giờ tăm tối là thời khắc hoành haàh của ma quỷ.
      (Câu chuyện của Hugo Baskerville này truyền từ các con trai của ông ta, Rodger và John, nhưng truyền lại cho Elizabeth, em của họ).”
      Đọc xong, bác sĩ Mortimer dịch kính lên trán và dán mắt vào Holmes. Nhà thám tử ngáp dài, ném mẩu thuốc vào lò sưởi, :
      - Thế nào?
      - Theo ông, điều đó có thú vị ?
      - Tlhú vị đối với những người ưa thích truyện cổ tích.
      Bác sĩ Mortimer rút từ trong túi ra tờ báo được gấp làm tư.
      - Thôi được. Đây là số báo Tin vắn Devonshire ra ngày 14 tháng 5 năm nay. Trong đây có đăng bài tường thuật ngắn về các kiện liên quan tới cái chết của ngài Charles Baskerville được phát vài ngày trước đó.
      Holmes hơi rướn ngươi về phía trước. Bác sĩ Mortimer sửa lại chiếc kính, và đọc:
      “Cái chết mới được phát cách đây lâu của ngài Charles Baskerville, ứng cử viên có triển vọng của đảng Tự do trong kỳ bầu cử sắp tới, gây ra ấn tượng nặng nề cho cả miền Trung Devonshire. Mặc dầu ngài Charles đến sống tại lâu đài Baskerville chưa lâu, nhưng ngài chiếm được lòng mến và kính trọng của tất cả những ai từng tiếp xúc với ngài. Như mọi người đều biết, ngài Charles tiến hành việc kinh doanh rất có lãi ở Nam Phi. Với đầu óc sáng suốt, ngài thành công lớn và trở về quốc với gia tài đáng kể. Ngài đến ở tại lâu đài Baskerville chỉ mới 2 năm trước, đưa ra kế hoạch xây dựng lại thái ấp rất tuyệt vời. Lúc còn sống, nhiều lần ngài bày tỏ ý định cải thiện sinh hoạt cho những người đồng hương của mình, và nhiều người trong số những cư dân ở đây có lý do riêng để thương tiếc ngài. đóng góp hào phóng của ngài cho địa phương cũng như cho toàn địa phận được nhắc lại nhiều lần những trang báo của chúng tôi.
      Mặc dầu cuộc điều tra kết thúc nhưng cái chết của ngài Charles vẫn chưa sáng tỏ. Ngài goá vợ và là con người có nhiều đức tính lạ lùng. Mặc dầu rất giàu có, ngài vẫn sống giản dị, tổng số người phục vụ trong nhà ở lâu đài chỉ gồm cặp vợ chồng ông Barrymore: người chồng làm quản lý điền trang còn bà vợ làm quản gia. Theo những lời khai của họ - những lời khai này trùng hợp với những lời khai của bạn hữu gần gũi với người khuất - vào thời gian gần đây, sức khoẻ của ngài Charles có suy giảm. Ngài có bệnh đau tim. Bác sĩ James Mortimer, người bạn thân thiết, đồng thời là bác sĩ của gia đình ngài, cũng nhấn mạnh điều này trong bản cung khai của mình.
      việc diễn ra rất đơn giản. Ngài Charles Baskerville có thói quen trước khi ngủ thường di dạo vòng quanh lâu đài Baskerville chỗ lối dưới những hàng cây. Ngày 4 tháng 5, ngài Charles có ý định London vào sáng hôm sau và ra lệnh cho ông Barrymore chuẩn bị hành trang. Buổi tối, ngài dạo, trong thời gian đó, luôn luôn hút thuốc. Ông bao giờ trở lại. Lúc nửa đêm, khi nhận thấy cánh cửa dẫn tới lâu đài vẫn còn mở, Barrymore cảm thấy lo sợ, bèn đốt đèn lên và tìm ông chủ. Ngày hôm đó mưa dầm, những vết chân của ngài Charles in con đường. Khoảng giữa con đường này có cửa hàng rào nho dẫn tới khu đầm lầy than bùn. Nếu phán đoán theo vài tài liệu ngài Charles có đứng cạnh cánh cửa này vài phút và sau đó tiếp tục ... Thi thể của ngài được tìm thấy ngày hôm sau ở cuối con đường.
      Ở đây có điểm chưa : Barrymore là ngay sau khi ngài Charles rời khỏi cửa hàng rào đặc điểm của vết chân ngài có thay đổi (có lẽ ngài bắt đầu nhón mũi giày). Vào thời gian này, có người gipsy[3] buôn ngựa, tên là Murphy, qua khu đầm lầy, cách xa con đường. Ông ta nghe thấy những tiếng kêu, nhưng thể xác định là những tiếng kêu vọng tới từ hướng nào. tìm thấy dấu tích bạo lực nào cơ thể của ngài Charles. Nhưng gương mặt người chết bị biến dạng đến khó nhận ra. Tuy nhiên, tượng tương tự vẫn thường kèm với cái chết do ngạt thở và do suy kiệt trong hoạt động của tim. cơ sở pháp y, người ta tới kết luận về cái chết như sau: Người bị nạn chết vì bệnh. Điều này phù hợp với tình trạng bệnh lý từ lâu của ngài Charles. Bởi vậy dư luận mong sao người thừa kế ngài Charles mau chóng đến ở lâu đài và tiếp tục những sáng kiến cao cả mà người trước phải dừng lại. Như người ta người gần gũi nhất của ngài là ông Henry Baskerville, cháu ruột của ngài Charles. Theo nguồn tin cuối cùng có được của chúng tôi người thanh niên này sống ở Mỹ. Giờ đây người ta tìm kiếm và thông báo cho ta biết về các tài sản khổng lồ mà ta được thừa kế.”
      Bác sĩ Mortimer gấp tờ báo lại, bỏ vào túi:
      - Thưa ông Holmes, đó là tất cả những gì được thông báo về cái chết của ngài Charles Baskerville.
      - Vào thời gian trước đây tôi có dịp đọc vụ án này báo, nhưng khi ấy tôi phải giải quyết vụ án những viên ngọc ở Vatican và công việc với Giáo hoàng, bận tới mức bỏ qua vụ án đáng lưu ý ở quốc. Có nghĩa đây là toàn bộ những tin tức được công bố?
      - Vâng.
      - Vậy ông hãy cho tôi biết những chưa được công bố ! - Holmes ngả người vào lưng ghế bành, đan những ngón tay vào nhau, tỏ vẻ của vị quan toà công minh và nghiêm khắc.
      - Tôi chưa hề với bất cứ người nào, bởi vì tôi đồng ý với những dư luận nảy sinh từ cái đầu óc mê tín. Tôi còn động cơ nữa là nếu tôi ra những truyền thuyết kinh hoàng lại càng thổi bùng lên sợ hãi. Với hai lý do , tôi tự cho phép mình ra hết . Nhưng với ông, tôi có thể thẳng. Vì với người có khả năng thực nghiệm như ông, vấn đề đuợc giải thích gần với nhất.
      Khu đầm lầy có than bùn là nơi hoàn toàn vắng vẻ. Cho nên những láng giềng thường xuyên cố gắng gặp gỡ nhau. Vì thế, tôi thường xuyên gặp gỡ ngài Charles Baskerville, ngoài ra còn có ông Frankland ở biệt thự Lafter, ông Stapleton, nhà tự nhiên học, là những người trí thức trong vùng.
      Ngài Charles ưa sống độc, thế nhưng bệnh tình của ngài khiến chúng tôi gần gũi nhau. Ngài chuyển từ Nam Phi về những tư liệu khoa học rất quý và chúng tôi dùng nhiều buổi tối để trao đổi về giải phẫu học.
      Thời gian gần đây, cứ mỗi tháng, tôi lại cảm thấy thần kinh của ngài căng thẳng hơn lên. Ngài tin vào truyền thuyết tôi vừa đọc, nên những lúc dạo chơi lãnh địa của mình, ngài hề vào khu đầm lầy vào ban đêm. Ngài tin chắc là tai họa khủng khiếp luôn luôn đè nặng lên dòng họ ngài. Ý tưởng về bóng ma nào đó ám ảnh dai dẳng cho ngài được yên tĩnh. Ngài thường hỏi tôi là khi thăm bệnh nhân, tôi có nhìn thấy cái gì lạ , có nghe tiếng chó sủa ? Câu này ngài hỏi rất thường xuyên và mỗi lần hỏi, giọng ngài run run vì lo ngại.
      Ba tuần trước khi xảy ra tai nạn, tôi đến lâu đài vào buổi chiều. Ngài đứng ở cửa ra vào. Tôi bước xuống xe ngựa. Lúc đến gần ngài, tôi đột nhiên nhận thấy ngài nhìn qua vai tôi tới chỗ nào đó. Mắt ngài biểu lộ khiếp đảm cùng cực. Tôi ngoảnh đầu lại và kịp nhìn thấy ở ngay cuối con đường có con vật gì đó trông từa tựa như nai, đen và lớn. Ngài hoảng sợ tới mức buộc phải tới nơi con vật thoáng xuất và nhìn xem nó lẩn vào đâu. Nhưng ở đấy còn gì cả.
      việc này gây ấn tượng rất nặng nề đối với ngài. Suốt buổi tối, tôi ở chỗ ngài và thế là đến lúc nào đấy sau khi giải thích cho tôi biết nguyên do nỗi lo ngại của mình, ngài cầu tôi giữ gìn tài liệu này. Tôi buộc đề cập đến việc này vì nó có liên quan đến những gì xảy ra tiếp theo và ảnh của nó đối với tinh thần của ngài Charles.
      Cũng chính vì lý do đó mà tôi khuyên ngài Charles London. Trái tim của ngài dù khá hơn, nhưng nỗi lo ngại vẩn vơ như thế ảnh hưởng tốt đến nó. Tôi cho rằng, sau chuyến xa khỏi nguồn gốc của lo sợ giuú ngài lấy lại tinh thần. Ông Stapleton, người bạn khác của ngài, cũng đồng quan điểm với tôi. Tuy nhiên, ngay ở thời khắc cuối cùng xảy ra việc khủng khiếp.
      Sau khi tìm thấy thi thể của ngài, người quản gia phái người chăn ngựa đến chỗ tôi. Tôi làm việc muộn, nên tôi đến lâu đài sau giờ đồng hồ. Tôi kiểm tra tất cả những kiện có ghi trong biên bản điều tra. Tôi theo vết chân của ngài suốt con đường rậm rì cây cối, xem xét kỹ chỗ cạnh cửa hàng rào, nơi chắc có lẽ ngài dừng lại, để ý tới đặc điểm thay đổi của vết chân ngài và dám chắc rằng ngoài những vết đó ra, còn có những dấu vết khác con đường đất rải sỏi. Ngài nằm sấp, dang hai tay ra, những ngón tay bám chặt vào đất, bộ mặt của ngài méo mó đến mức tôi nhận ra ngài ngay. xây xát nào ở ngài. Thế nhưng Barrymore khai đúng trong bản điều tra. Theo lời của ông ta mặt đất cạnh thi thể dấu vết nào cả. ra ta xem kỹ. Cạnh thi thể ngài xa, có những dấu vết rất mới và rất .
      - Những dấu chân?
      - Vâng, những dấu chân.
      - Đàn ông hay đàn bà?
      Bác sĩ Mortimer nhìn chúng tôi đăm đăm và thầm :
      - Ông Holmes, đó là những vết chân của con chó khổng lồ!

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 3: Điểm mấu chốt
      Phải thú nhận là những lời này khiến tôi lạnh cả xương sống. Cả người Holmes ngả ra phía trước. Trong mắt loé lên những tia sáng lạnh lừng và hằn học. Mối quan tâm thức dậy trong .
      - Chính mắt ông nhìn thấy?
      - Như tôi nhìn thấy ông.
      - Vậy mà ông gì về chuyện đó.
      - Để làm gì chứ?
      - Sao có ai ngoài ông nhìn thấy?
      - Những dấu vết đó ở cách thi thể khoảng 20 yard và ai chú ý tới chúng. Chính tôi cũng nhận thấy, nếu nhớ tới truyền thuyết kia.
      - Chắc đầm lầy có nhiều chó chăn cừu?
      - Tất nhiên. Nhưng đó phải là dấu chân chó chăn cừu.
      - Những vết chân rất lớn phải ?
      - To tướng!
      - Nhưng nó lại gần tử thi?
      - .
      - Thời tiết lúc đó ra sao?
      - Ẩm và lạnh.
      - có mưa chứ?
      - .
      - Con đường ấy có gì?
      - Hai bên đường có hàng rào xanh và cao 12 feet, giữa là lòng đường rộng 8 feet.
      - con đường có cửa rào ?
      - Vâng, cửa hàng giậu này dẫn tới khu lầy.
      - Tới đó còn lối vào khác?
      - .
      - Phải chăng để tới con đường, chỉ có thể từ cửa hoặc qua cửa hàng rào.
      - Có lối khác: qua nhà hóng mát ở cuối con đường.
      - Ngài Charles đến đó?
      - . Ngài nằm cách đó khoảng 50 yard.
      - Bác sĩ Mortimer! Đây là câu hỏi rất quan trọng: Những dấu vết mà ông thấy, cỏ mà ở con đường?
      - thấy dấu vết cỏ.
      - Chúng ở phía có cửa hàng giậu phải ?
      - Vâng, ngay ở rìa đường, gần cửa rào.
      - Rất tuyệt! Còn câu hỏi nữa: Cửa hàng rào được đóng kín?
      - Chẳng những nó được đóng kín mà còn được khóa bằng ổ khóa treo.
      - Cửa cao bao nhiêu?
      - 4 feet.
      - Nghĩa là có thể trèo qua được?
      - Vâng.
      - tìm thấy cái gì ở ngay cạnh cửa hàng rào chứ?
      - . thấy cái gì đặc biệt cả.
      - Phải chăng ông để mắt đến đó?
      - . Chính tôi nhìn mà.
      - Nhưng vẫn tìm thấy gì?
      - Khó lòng nhận biết cái gì ở đó cả. Rất có thể ngài đứng cạnh cửa hàng rào chừng 5, 10 phút.
      - Tại sao ông lại nghĩ như thế?
      - Bởi vì tàn thuốc ngài hút hai lần rơi xuống.
      - Tuyệt vời! Điều đó bổ ích! Mà sao lại có dấu vết?
      - Chỉ có dấu chân của ngài nền đất sỏi. Tôi nhận ra dấu vết khác.
      Holmes vỗ đánh đét vào đùi mình:
      - Ôi! Nếu tôi ở đó chắc chắn đây là vụ án đáng chú ý. Sỏi đá. Đấy là trang sách, mà ở đó tôi có thể đọc được tất cả? Còn bây giờ mưa tẩy sạch nó, những gót giày của các điền chủ hiếu kỳ xéo lên nó... Ôi bác sĩ Mortimer! Tại sao ông gọi tôi ngay? tiếc biết chừng nào.
      - Tôi thể đến chỗ ông được, bởi vì khi đó tôi phải công bố những việc. Ngoài ra và ngoài ra...
      - Vì sao ông lại ngần ngại?
      - Có lĩnh vực nào đó mà những thám tử giàu kinh nghiệm nhất cũng phải bất lực.
      - Ông muốn rằng công việc đó có sức mạnh siêu nhiên?
      - Tôi như vậy.
      - nhưng nghi, đúng ?
      - Ông Holmes ạ, từ khi nỗi bất hạnh xảy ra, người ta cho tôi biết nhiều kiện khó lòng giải thích được.
      - Chẳng hạn...?
      - Trước khi xảy ra cái chết, vài người dân địa phương trông thấy trong khu đầm lầy sinh vật kỳ lạ phù hợp với mô tả về con quỷ của dòng họ Baskerville. Nó giống với bất cứ loài động vật nào được khoa học đến. Tất cả những người trông thấy đều khẳng định rằng: Đấy là bóng ma có kích thước khổng lồ, người toả sáng và trông rất quái đản. Tôi tìm hỏi những người này. Họ gồm ba người: người láng giềng của chúng tôi, ông này có cái nhìn rất tỉnh táo; người thợ rèn địa phương và điền chủ. Cả ba hầu như đều mô tả lại con chó được tới trong truyền thuyết.
      - nhà khoa học như ông mà lại tin vào tượng siêu nhiên này sao?
      - Chính tôi cũng mình tin cái gì.
      - Cho đến bây giờ, hoạt động của tôi chỉ trong phạm vi của thế giới này. Tôi đấu tranh với cái ác theo khả năng của mình; có điều, chống lại với ông tổ của cái ác quá sức đấy Tuy nhiên, ông phủ nhận rằng vết tích sỏi là cái gì rất thực chứ?
      - Cũng thể cho rằng con chó là thực, nếu nó cắn chết người. Ở con chó có cái gì đấy rất ma quái.
      - Tôi nhận thấy ông đứng vào hàng ngũ của những nhà thần bí rồi đấy, bác sĩ ạ. Và nếu ông đứng quan điểm ấy ông cần đến tôi làm gì? mặt, ông việc tìm hiểu thực trạng cái chết của ngài Charles là vô ích; mặt khác ông lại cầu tôi nắm bắt lấy thực trạng của nó.
      - Tôi chưa hề cầu ông làm việc đó.
      - Nếu thế, tôi có thể giúp ông được gì?
      - Bằng lời khuyên. Hãy cho tôi biết tôi cần xử với ngài Henry Baskerville như thế nào? - Bác sĩ Mortimer nhìn đồng hồ - 1 tiếng 15 phút nữa, ngài đến nhà ga Waterloo.
      - Đó là người thừa kế.
      - Vâng, chúng tôi dò hỏi tin tức về ngài và biết ngài điều hành trang trại của mình ở Canada. Đó là người trẻ tuổi, rất đáng kính trọng. Bây giờ tôi chuyện với ông ấy phải với tư cách thầy thuốc, mà với tư cách người thực di chúc.
      - có người nào khác muốn chiếm đoạt gia tài chứ?
      - . Người họ hàng duy nhất khác là ông Rodger Baskerville, em trai của ngài Charles. Họ có ba em tất cả: Người em giữa chết lúc trai trẻ, là cha của Henry, em út là Rodger, giống Hugo như hai giọt nước. Ở quốc, Rodger sống quen và sang Trung Mỹ và chết vào năm 1876 vì bệnh sốt rét. Tóm lại, Henry là người nối dõi cuối cùng của dòng họ Baskerville. giờ 5 phút nữa ngài có mặt ở sân ga Waterloo. Tôi liên lạc với ngài lúc ngài ở Southampton hồi sáng này. Vậy đấy, thưa ông Holmes, ông hãy xem, ông khuyên tôi phải làm gì?
      - Vì sao ông ta đến ngay thái ấp của dòng họ mình?
      - Vâng, tôi cũng tự hỏi như vậy. Nhưng, xin nhớ rằng tất cả những người trong dòng họ Baskerville sống ở đó đều chết cách bi thảm. Trước khi chết, ngài Charles căn dặn rằng tôi được đưa người nối dõi cuối cùng của dòng họ này đến chỗ đó. Đồng thời cũng thể quên điều này: nếu lâu đài có người ở tất cả những sáng kiến của ngài bị lãng quên, và địa phương đó được phát triển. Cho nên tôi đến đây nhờ ông khuyên bảo.
      Holmes trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng :
      - Tôi hiểu thế này: ông cho rằng sức mạnh tội lỗi nào đó làm cho vùng đất đó trở nên khá nguy hiểm đối với dòng họ Baskerville.
      - Dầu sao cũng còn vài cơ sở để tin như thế.
      - Thôi được. Nhưng nếu lý thuyết về những sức mạnh siêu nhiên của ông là đúng, chúng vẫn có thể hủy diệt được người nối dõi ấy, chỉ ở tòa lâu đài mà còn ở cả London. khó hình dung rằng con quỷ dữ chỉ có uy lực trong phạm vi hẹp như thế.
      - Nếu ông chưa gặp những tượng ấy, xin ông chớ vội cười cợt. Theo ông, người trẻ tuổi này vẫn cứ yên ổn, dù ông ta ở Devonshire hay ở London? Năm mươi phút nữa ngài đến. Hãy khuyên tôi nên làm gì!
      - Ông hãy gọi xe mui, rồi cùng với con chó của ông đến nhà ga Waterloo để đón ngài Henry Baskerville.
      - Rồi sau đó?
      - Sau đó ông chờ cho đến khi tôi nghĩ ra kế hoạch hành động. Cho tới lúc đó, xin ông đừng với ông ta điều gì.
      - Ông làm việc đó trong bao lâu?
      - ngày đêm. Tôi rất biết ơn ông, nếu ông có mặt ở đây vào 10 giờ sáng mai cùng với ngài Henry. Tôi muốn làm quen với ông ta.
      - Được.
      Mortimer ghi lại ngày và giờ của cuộc gặp gỡ cổ tay áo, rồi lơ đễnh nhìn quanh và bước nhanh ra khỏi phòng.
      Holmes gọi giật ông ta từ đầu cầu thang.
      - Còn vấn đề nữa, bác sĩ Mortimer, ông có là bóng ma xuất ở đầm lầy vào buổi sớm phải ?
      - Vâng, cả ba người đều kể như vậy.
      - Sau khi ngài Charles chết có gì nữa chứ?
      - Tôi biết, tôi nghe thấy gì nữa.
      - Cám ơn ông. Chúc ông mọi tốt đẹp.
      Holmes ngồi xuống chỗ mình ở góc -văng, mỉm cười điềm tĩnh và hài lòng, nụ cười đó thường gương mặt khi có nhiệm vụ xứng đáng nào đó.
      - chứ, Watson?
      - Nếu tôi giúp được điều gì đó.
      - Bây giờ chưa. Tôi nhờ giúp sức khi cần. Vụ án tuyệt vời! Có quan hệ với hàng loạt kiện. Khi qua chỗ Bradley nhớ rẽ vào đó và cầu ông ta chuyển cho tôi cân thuốc loại tốt nhất. Gắng đừng trở về trước buổi tối đấy. Nếu việc này làm xáo trộn gia đình lắm xin vui lòng trở lại đây thay vì về nhà, vì tôi muốn trao đổi ý kiến với ...
      độc và yên tĩnh cần thiết cho Holmes khi cân nhắc mọi chi tiết nhất của vụ án, thiết lập giả thiết này đến giả thiết khác, đối chiếu chúng với nhau, và xem xét những thông tin nào là căn bản và có thể xem thông tin nào. Bởi vậy, tôi ở câu lạc bộ suốt cả ngày và trở về phố Baker lúc 9 giờ tối.
      Tôi đẩy cửa phòng khách và hoảng hốt - có hoả hoạn chăng? Bởi vì trong phòng đầy khói, ngọn lửa đèn dầu lập loè. Mùi thuốc xộc vào mũi khiến tôi thấy ngột ngạt. Xuyên qua bức màn khói, tôi nhận ra Holmes ngồi thoải mái trong ghế bành. mặt áo dài, môi ngậm chặt chiếc tẩu thuốc. Xung quanh bày la liệt những cuộn giấy.
      - Bị cảm lạnh sao Watson?
      - . Quả cái thứ hương trầm này khó thở.
      - Vâng, đúng. Có hơi nhiều khói thuốc ở đây.
      - Hơi nhiều sao! Chẳng thể thở nổi.
      - Vậy hãy mở cửa sổ ra. Tôi thấy suốt ngày ở câu lạc bộ.
      - bạn thân mến ơi, đoán mò rồi!
      - Nhưng có đúng như vậy ?
      - Tất nhiên là đúng, nhưng làm sao ...
      nhìn vào bộ mặt bối rối của tôi và phá lên cười
      - Watson, hồn nhiên của quả là đáng mến! Nếu biết được tôi sảng khoái như thế nào, khi qua , tôi kiểm tra lại trí lực khiêm tốn của mình! từ nhà ra vào lúc có mưa. Buổi chiều trở về sạch có lấy vết bẩn. Cái mũ lễ và đôi giày cao cổ ở cũng sáng loáng như trước. Quả ngồi lì suốt ngày ở đâu đó. Ở đâu nữa? Phải chăng điều này quá ràng.
      - Đúng, rất ràng - Tôi đáp.
      - đời này đầy rẫy những điều hiển nhiên như thế, vậy mà mấy ai nhận ra chúng. nghĩ thế nào, tôi đâu? - Holmes hỏi.
      - cũng ngồi lì suốt ngày phải .
      - Ồ . Tôi đến Devonshire.
      - Bằng cách tưởng tượng hả?
      - Phải. vừa ra khỏi nhà, tôi liền cho người lấy tấm bản đồ khu đầm lầy. Trí óc tôi lục lọi khắp khu này suốt cả ngày. Và bây giờ tôi nắm được những chỗ ấy.
      - Bản đồ tỉ lệ lớn phải ?
      - Vâng, rất lớn. giở phần tấm bản đồ này ra và lưu ý ở giữa là lâu đài Baskerville.
      - Bao quanh lâu đài là rừng?
      - Rất đúng. Ở đây con đường nhiều bóng cây được nổi , nhưng nó ở bên phải của khu đầm lầy. Đây là khu nhà chính là làng Grimpen, địa bàn hoạt động của bác sĩ Mortimer. Còn đây là biệt thự Laften mà bác sĩ có nhắc đến; đây là dinh thự của nhà tự nhiên học Stapleton, nếu tôi nhớ sai tên; còn đây là hai trang trại, các cột đá và đầm lầy; cách trang trại này 14 dặm có nhà tù khổ sai Princetown. Cảnh hoang vắng trải ra giữa các điểm riêng rẽ này là nơi tấn bi kịch được trình diễn và rất có thể được trình diễn lần nữa.
      - Đúng vậy, chỗ đó rất hoang dã.
      - Nếu như con quỷ muốn xen vào công việc của con người, nơi nào thuận tiện cho nó bằng nơi này.
      - Nghĩa là cũng có khuynh hướng giải thích câu chuyện này bằng tính siêu nhiên?
      - Chúng ta cần phải giải đáp hai câu hỏi: Thứ nhất, ở đây có tội ác ? Thứ hai, tội ác liên quan tới cái gì và nó được tiến hành như thế nào? Nếu điều mà bác sĩ Mortimer dự đoán là đúng lúc ấy chúng ta buộc lòng phải hạ vũ khí. Nhưng trước hết, chúng ta cần phải kiểm tra tất cả các giả thiết khác. Mà kịp nghĩ về vụ án này chưa?
      - Suốt ngày nó rời khỏi đầu tôi.
      - có kết luận như thế nào?
      - Câu chuyện rất rắc rối.
      - Đúng, câu chuyện rất độc đáo, đặc biệt là trong vài chi tiết. Ví như đặc điểm thay đổi của các vết chân.
      - Bác sĩ Mortimer là hình như ngài Charles nhón chân phần của con đường.
      - Ông ấy chỉ nhắc lại lời của kẻ ngu dốt nào đó thốt ra vào thời điểm điều tra. Vì sao người này lại cần nhón chân?
      - Vậy ra sao?
      - Ông ta chạy, Watson ạ. Ông ấy chạy thục mạng để mong thoát nạn. Ông ta chạy và đồng thời tim của ông ta chịu đựng được. Ông ta ngã và chết.
      - Thoát nạn? Ai đe dọa?
      - Điểm nút vấn đề là ở đó. Cứ xét theo vài dấu vết trước khi chạy, ông ta mất trí và sợ hãi.
      - Tại sao nghĩ như thế?
      - Nếu cái làm cho ông ta sợ hãi đến từ khu đầm lầy chỉ có con người mất trí mới chạy về nhà mình mà chạy ngược lại. Còn nữa: Vào buổi chiều hôm đó ông ta chờ ai và tại sao lại gặp nhau con đường nhiều bóng cây mà phải ở trong nhà?
      - cho rằng ông ta chờ ai đó?
      - thử nghĩ mà xem: người đứng tuổi, bệnh tật dạo chơi vào buổi tối - có gì đáng ngạc nhiên về chuyện đó cả - Thế nhưng ngày hôm ấy ẩm ướt và lạnh lẽo. Khi để ý tới tàn thuốc lá, bác sĩ Mortimer khẳng định là ông ta đứng ở cạnh cửa hàng giậu khoảng năm mười phút. Ông ta đứng ở đó để làm gì? Nhân thể thêm, bác sĩ Mortimer có mắt quan sát đấy.
      - Hàng ngày vào các buổi tối, ông ta đều dạo như thế, trước khi ngủ.
      - Và mỗi buổi tối ông ta lại dừng lại ở cạnh cửa hàng giậu phải ? Chưa chắc. Đêm hôm đó ông ta chờ người ở đây. Đó là đêm trước chuyến London mà ông định sẵn. Hãy nhìn xem, Watson, như tất cả đâu vào đấy: Mắt xích này tới mắt xích khác. Còn bây giờ hãy làm ơn chuyển cho tôi cây đàn vi-ô-lông.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :