9. Bông hoa Utah. Từ bờ sông Mississipi đến triền phía tây của rặng núi đá, những người dân cư Mormons khôngnngừng đấu tranh với thú dữ, đói khát, bệnh tật, và những đoàn người thù địch… Tất cả đều vượt qua nhờ ở tính kiên trì và quả cảm của giống người Anglo-Saxon. Tuy vậy, cuộc hành trình dài cùng với những nỗi thống khổ làm lung lay cả những trái tim vững vàng nhất. ai quỳ xuống, lầm rầm đọc bản kinh cầu tạ ơn khi họ nhìn thấy thung lũng Utah rộng lớn và ngập nắng mà giáo chủ của họ bảo rằng vĩnh viễn thuộc về họ. Young là nhà cai trị khôn khéo và kiên quyết. Ông ta cho vẽ bản đồ, lập quy hoạch cho thành phố tương lai, phân chia đất đai tuỳ theo địa vị của từng người. Ai giỏi nghề nào tiếp tục làm nghề ấy. Họ ngả cây, đốn gỗ, san đất, cắm rào, đào mương, xẻ rãnh và mùa hè năm sau đất đai được phủ màu vàng óng của lúa chín. Mọi trồng trọt và làm ăn đều phồn thịnh. Ngôi đền lớn dựng lên ở chính giữa thành phố mỗi ngày cao hơn, rộng hơn. Từ bình minh cho đến hoàng hôn, tiếng búa, tiếng cưa ngừng vang lên trong nhà thờ. bé Lucy được ngồi chiếc xe của tông đồ Stanggerson cùng với ba người vợ và đứa con trai mười hai tuổi của ông ta. Với sức bật của tuổi thơ, bé vượt qua được nỗi đau buồn mất mẹ và chẳng bao lâu, bé thích nghi với cuộc sống trong ngôi nhà động của mình và được các phụ nữ Mormons quý. Sức khoẻ của John cũng được phục hồi, ông tỏ ra là người dẫn đường hữu ích và người săn mệt mỏi. Ông nhanh chóng được những người đồng hành quý trọng. Khi đến vùng đất hứa, họ nhất trí cấp cho ông khoảnh đất to bằng phần đất của những kẻ được hưởng nhiều đặc quyền, chỉ kém có giáo chủ và bốn tông đồ: Stanggerson, Kim-bôn, Giôn-xtơn và Drebber. phần đất của mình, John dựng lên ngôi nhà gỗ vững chãi, rồi xây thêm dần và chẳng bao lâu ngôi nhà ấy trở thành biệt thự rộng lớn. Ông là người khéo léo và nhanh nhẹn trong mọi công việc, làm việc suốt từ sáng đến tối. Sau ba năm, ông vượt hẳn những người láng giềng. Sau sáu năm, ông rất sung túc và sau chín năm, ông trở nên giàu có. Và sau mười hai năm kể từ ngày những người Mormons đến sinh cơ lập nghiệp tại đây, có tới mười người có thể sánh kịp ông. Ở ông, chỉ có điều duy nhất khiến các người đồng giáo nghi ngờ: ông chưa để phụ nữ đến sống với ông theo phong tục đa thê. Ông đưa ra lý do gì, mà chỉ kiên quyết giữ vững ý định của mình. Người trách ông là thiết tha với đạo giáo, người cho rằng ông muốn làm giàu nên mới sống độc thân. Có người lại đến chuyện tình xưa, tóc vàng chết bên bờ Đại Tây dương. Mặc ai muốn gì , ông dứt khoát sống với đứa con nuôi. Ngoài chuyện này ra, về tất cả mọi mặt khác, ông nổi tiếng là tín đồ chính thống, công bằng chính trực. lớn lên trong ngôi nhà gỗ, giúp đỡ người bố nuôi trong mọi công việc. Nhờ khí trong lành vùng núi và hương thơm của cây cỏ, Lucy ngày càng cao lớn, khoẻ mạnh, đôi má hồng hào, bước chân dẻo dai, uyển chuyển. như vậy đó, cái nụ hoa trở thành bông hoa. buổi sáng tháng sáu, con đường cái bụi mù có hàng đoàn la dài chở đầy hàng về hướng Tây vì cơn sốt vàng vừa mới bùng lên ở California. Con đường đến đó chạy qua thành phố Salt-lake. đường còn có những đàn cừu và bê ăn cỏ ở những cánh đồng xa về và nhiều đoàn người di cư. Lucy cưỡi ngựa ra phố, hai má đỏ bừng bừng, mái tóc dài vàng óng bay phấp phới. lách đường qua giữa đám người và vật đông đúc kia với tài nghệ của người thành thạo. Như mọi lần, nàng cho ngựa phi như bay, chỉ nghĩ đến chuyện hoàn thành công việc cho bố. Người ta nhìn nàng với con mắt khâm phục và kinh ngạc, ngay cả những người da đỏ cũng xì xào về vẻ đẹp của nàng. Khi ra tới rìa thành phố đường bị nghẽn vì có đàn bò lớn từ đồng cỏ về, nàng thúc ngựa theo lối hở trong đàn bò. Nhưng vừa mới lọt vào trong đó đàn bò khép ngay lại và nàng bị vây vào giữa biển di động những con bò sừng cong dài. quen với việc chăn nuôi bò, ngựa, Lucy hốt hoảng mà vẫn thúc ngựa tiến lên. Rủi thay, cặp sừng của con bò húc mạnh vào sườn con ngựa. Nó hí vang, lồng lên, đứng thẳng hai vó sau, nếu nàng giỏi tất bị hất ngã xuống rồi. Mà ngã xuống bị cả đàn bò giẫm nát ngay. Tình thế rất nguy hiểm. Con ngựa càng lồng, càng va đụng vào những chiếc sừng nhọn hoắc của bò, và nó càng điên lên. cố giữ mình lưng ngựa, nhưng chẳng mấy chốc, ngột ngạt vì bụi cuốn lên mù mịt và hơi nước nồng nặc phả ra từ đàn bò, nàng choáng váng, đầu óc quay cuồng, tay cương lỏng . May thay, vừa vặn lúc ấy có bàn tay rắn chắc nắm lấy hàm thiếc con vật hoảng loạn, vạch lối qua đàn bò, đưa nàng đến rìa thành phố. - có bị thương ? Lucy ngước mắt lên nhìn gương mặt rám nắng, cương nghị rồi cười giòn giã: - Ồ, , may quá! Tôi bị phen hú vía. - Cũng may là còn ngồi vững yên – Người thanh niên kia có dáng dấp của người quen sống ở nơi hoang dã, vóc người cao lớn, cường tráng. mặc bộ đồ săn dày, cưỡi con ngựa nâu cao khoẻ, vai đeo khẩu súng dài – Chắc là con ông John? Tôi thấy ngựa từ nhà ra. Nhờ về hỏi cụ nhà còn nhớ ông Hope ở Saint Louis . Nếu đúng là ông John ấy cha tôi và cụ nhà là bạn thân với nhau. - Sao đến chơi, rồi hỏi thẳng cha tôi? thanh niên mừng rỡ trước lời mời gián tiếp: - Tôi rất muốn đến, nhưng em chúng tôi vừa mới ở núi về, quần áo chưa được chỉnh tề, gia đình phải miễn thứ cho chúng tôi. - Cha tôi phải cảm ơn nhiều, cả tôi nữa. Cha tôi rất quý tôi. Nếu tôi bị làm sao, chắc cha tôi buồn lắm. - Cả tôi nữa. - Cả nữa? Ô hay, quen biết gì tôi đâu? – Giọng vẫn mang vẻ nghịch ngợm, trêu chọc. Nghe thấy vậy, gương mặt rám nắng của thanh niên tối sầm lại khiến Lucy bật cười: - Ấy , tôi cố ý thế đâu. là bạn của cả gia đình rồi. phải đến chơi đấy nhé, còn bây giờ tôi phải đây. Tạm biệt! - Tạm biệt! Chàng trai tiếp tục theo mấy người bạn. họ mới thăm dò được mỏ bạc vùng núi Nevada và giờ đây họ về Salt-lake tìm chỗ vay mượn tiền để khai thác. Hope say mê kinh doanh, nhưng đến hôm nay, cuộc gặp gỡ này làm đảo lộn nếp sống của . Hình ảnh tươi mát và lành mạnh như ngọn gió lay động trái tim rắn rỏi của . Khi nàng khuất, bỗng nhận ra biến cố mới xảy ra trong đời , bây giờ tất cả mọi công việc đều quan trọng bằng vấn đề mới mẻ vừa được đặt ra. Chàng đến thăm ông John ngay tối hôm đó và nhiều buổi khác nữa. Bị giam chân ở thung lũng vì công việc, ông John háo hức muốn biết những tin tức bên ngoài trong mười hai năm qua. Những câu chuyện mà chàng kể làm say mê lẫn mgười cha. từng làm đủ các nghề: hướng đạo, săn thú, tìm vàng, chăn bò. Ở đâu có những chuyện phiêu lưu mạo hiểm đòi hỏi gan dạ và lòng quả cảm là ở đó có mặt chàng. buổi chiều hè, chàng ghìm con ngựa trước cổng trang trại của ông John. Lucy ra đón, chàng vắt dây cương lên hàng rào, rảo bước vào nhà. Nắm lấy hai bàn tay : - Lucy, có việc buộc phải xa, em ạ. chưa thể xin cha cho em cùng. Nhưng, hứa với , em đợi về nhé. - đâu, và bao giờ về? – hỏi, lo lắng và thẹn thùng. - Bọn bắt đầu khai thác những vùng mỏ mới ở Nevada, việc này chỉ mất độ hai tháng là xong. Buổi chia tay diễn ra vội vàng, song nhiều bịn rịn. Chàng lên đường được ba tuần. Ông John thấy lòng se lại khi nghĩ đến ngày trở về của chàng rể và việc mình xa rời đứa con . Tuy vậy, gương mặt ngời sáng của nàng làm ông vui lòng với hôn ước này. Trong thâm tâm, ông vẫn chịu để nàng lấy người Mormons. Theo ông, hôn nhân kiểu ấy là điều ô nhục. Riêng về điểm này, gì có thể lay chuyển được. Tuy nhiên, ông giữ kín quyết tâm ấy, nếu , ông gặp nguy hiểm. Đúng, điều nguy hiểm. nguy hiểm đến nỗi ngay cả những người ngoan đạo nhất cũng chỉ dám thầm những ý kiến của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Cả toà án dị giáo thời trung cổ ở Tây Ban Nha, lẫn những hội kín ở Ý đều chưa biết lập bộ máy nào ghê gớm bằng cái bộ máy phủ bóng đen lên toàn bộ vùng đất Utah. Nó như cái tai thắt ở khắp mọi nơi và có quyền lực vạn năng. Kẻ nào có ý tưởng thù nghịch với giáo phái bị mất tích cách bí hiểm. Vợ con họ chờ họ ở nhà nhưng họ bao giờ trở về để kể lại cho vợ con biết họ bị xét xử như thế nào. Trước hết, cái thế lực mơ hồ và ghê gớm này giáng xuống những kẻ dao động, những kẻ quy theo đạo Mormons mà sau đó lại muốn sửa đổi hoặc từ bỏ đạo này. Nhưng chẳng bao lâu, cái thế lực ấy mở rộng phạm vi hoạt động của nó. Số phụ nữ trưởng thành trong cộng đồng giảm dần, nhưng nếu thiếu đàn bà con chế độ đa thê trở thành giáo ghĩa vô giá trị. Đến khi ấy bắt đầu có những tin đồn lạ lùng có những người di cư bị giết hại, những khu trại bị cướp phá ở những nơi bao giờ thấy bóng người da đỏ. Tại nhà các tông đồ thấy xuất những người phụ nữ mới, nét mặt ủ ê, còn đượm nỗi kinh hoàng… buổi sáng, John sắp sửa thăm đồng bỗng nghe thấy chốt cổng ngoài hàng rào mở mạnh. người đàn ông mở cổng bước vào. Ông giật thót người, vì đấy chính là vị thủ lĩnh tối cao của người Mormons. Ông lo ngại, vội chạy ra cổng chào đón giáo chủ. Young lạnh lùng nhận lời chào của ông và theo ông vào phòng ăn, vẻ mặt nghiêm khắc. Young ngồi xuống chiếc ghế, nhìn chằm chằm vào John: - Giáo hữu John, các tín đồ cư xử như những người bạn tốt với ông. Chúng ta cứu vớt ông lúc ông sắp chết, chúng ta chia sẻ cơm ăn áo mặc cho ông, chúng ta cấp cho ông phần đất rộng lớn. Có đúng ? - Thưa đúng. - Để đổi lấy tất cả những ân huệ đó, chúng ta chỉ đặt ra có mỗi điều kiện là ông hãy tuân theo mọi quy định của đạo giáo. Ông hứa tuân theo, nhưng cứ như những điều ta nghe được ông tuân theo. - Có điều gì mà tôi tuân theo? Tôi chẳng đóng góp vào quỹ chung hay sao? Tôi chẳng siêng năng lễ hay sao? - Vợ ông đâu? – Young hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh – Ông hãy bảo những người vợ của ông ra đây để ta chào. - Đúng là tôi chưa lấy vợ. Nhưng phụ nữ ở đây rất hiếm và có nhiều người khác được quyền ưu tiên hơn tôi. Vả lại có con tôi trông nom tôi rồi. - Ta muốn với ông về đứa con này. Nó lớn, nó trở thành bông hoa của Utah và nhiều người quyền cao chức trọng nhìn nó với con mắt ưa thích. John thầm rên rỉ trong lòng. - Người ta bảo rằng con ông được hứa hôn với kẻ ngoại đạo. Có lẽ đó chỉ là những lời đồn đại nhảm nhí. Điều răn thứ mười ba của Joseph Smith dạy gì? “Con ngoan đạo phải lấy trong những người con được Chúa tuyển chọn làm chồng, vì lấy kẻ ngoại đạo là trọng tội”. Ông là tín đồ của Chúa, sao lại có thể để cho con vi phạm lời răn đó được? John trả lời, tay chỉ mân mê cái roi ngựa. Giáo chủ tiếp: - còn ít tuổi, chúng ta muốn nó lấy mái đầu bạc. Chúng ta cũng muốn ngăn cản nó chọn lựa. Stanggerson có con trai và Drebber cũng có con trai. Nó hãy chọn trong hai người ấy làm chồng. Họ đều giàu có, đều là những tín đồ chân chính. Ông có gì cần thưa lại với ta nữa ? John im lặng lát, vầng trán nhăn lại, cuối cùng ông : - Xin giáo chủ hãy tha cho chuyện đó. Con tôi tuổi còn non. Young đứng dậy: - Nó được tháng để chọn lựa. sau thời hạn ấy, nó phải quyết định. Bước qua ngưỡng cửa, Young còn quay lại, nét mặt hầm hầm, giọng vang vang: - John! Ông và con ông, các người thà cứ nằm phơi sương dải Sierra Blanco còn hơn là chống lại những mệnh lệnh của “Các vị Thánh ngày cuối”. Sau cử chỉ hăm doạ, Young quay và John nghe thấy tiếng chân nặng trình trịch lớp sỏi. Ông vẫn còn ngồi đó, tỳ khuỷu tay lên đầu gối suy tính, bàn tay dịu dàng khẽ đặt lên bàn tay ông. Ngước mắt lên, thấy gương mặt hoảng hốt của Lucy, ông hiểu là biết tình. Ông an ủi: - Con đừng lo, cha thu xếp. Con chịu khuất phục trước ý muốn của con người vừa rồi chứ? Lucy chỉ đáp lại bằng tiếng sụt sịt và nắm tay siết mạnh. - Tất nhiên rồi. Cha cũng muốn con chịu khuất phục. Hope rất xứng đáng với con, nó hơn tất cả bọn con trai ở đây gộp lại. Ngày mai có toán người Nevada, cha tìm cách nhắn tin. Nếu nó đúng là con người như ta biết, nó trở về nhanh hơn điện tín. Lucy cười qua những giọt nước mắt trước so sánh của người cha già. - Khi ấy về, ấy giúp được cha con mình. Nhưng con chỉ lo cho cha. Người ta kể những chuyện ghê sợ về những ai dám cưỡng lại mệnh lệnh của giáo chủ. - Nhưng ta cưỡng lại đâu. Ta còn tháng. Đến thời hạn ấy, chúng ta khỏi nơi đây rồi. - Rời bỏ nơi đây? - Chỉ còn cách đó. - Còn trang trại sao? - Cha chuyển thành tiền được càng nhiều càng tốt, còn bỏ lại hết con ạ. Cha chịu cúi mình như những người ở đây. - Họ để cho mình đâu, cha ạ. - Chờ Hope về, ta cùng thu xếp. Từ nay đến lúc đó, con có gì lo sợ và cũng đừng khóc. Nếu , khi gặp cha, nó trách cha đấy. John với con bằng giọng tin tưởng, tuy vậy, Lucy vẫn nhận thấy rằng tối hôm đó, ông cài cửa cẩn thận hơn mọi hôm, nạp đạn vào khẩu súng và treo trong phòng ngủ.
10. Chạy trốn Sáng hôm sau, John ra thành phố nhắn tin cho Hope. Về đến nhà, ông ngạc nhiên thấy có hai con ngựa buộc ở hai cái cọc bên cổng. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy trong phòng ăn có hai người trẻ tuổi. người mặt tái mét, dài ngoẵng, ngồi lút trong chiếc ghế đu, chân gác lên bếp lò. Người kia cổ to như bò mộng, nét mặt phì nộn, đứng trước cửa sổ, tay đút túi, huýt sáo bài hát. Cả hai nghiêng đầu chào khi John bước vào, và kẻ nằm dài chiếc ghế đu khơi chuyện: - Có lẽ ông biết chúng tôi. Đây là I-nốc Drebber, con trai Drebber, còn tôi là Giô-dép Stanggerson, con trai Stanggerson. Tôi cùng với ông khi Chúa chìa bàn tay ra và đưa ông trở lại bầy đàn chân chính. - Nơi người dắt dẫn mọi dân tộc, vào giờ phút thích đáng – Gã con trai kia tiếp bằng giọng mũi. John lạnh lùng gật đầu. Stanggerson tiếp: - Chúng tôi đến đây để xin con ông về làm vợ cho trong hai người chúng tôi. Tôi mới có bốn vợ, và giáo hữu I-nốc Drebber bảy vợ. Như vậy tôi có lẽ được quyền ưu tiên hơn. - ! ! – Gã kia vội kêu lên – Vấn đề phải ở chỗ có bao nhiêu vợ, mà là có thể nuôi được bao nhiêu vợ. Cha tôi vừa mới cho tôi mấy nhà xay thóc, nên tôi là người giàu hơn. - Nhưng triển vọng gia sản của tôi lại lớn hơn – Gã kia hung hăng đáp lại – Khi Chúa gọi cha tôi về hầu, tôi được thừa hưởng sản nghiệp thuộc da của cha tôi. Lúc đó tôi là tông đồ cấp cao hơn trong giáo hội. - Cứ để quyết định – I-nốc Drebber , cười mỉm với hình ảnh của mình trong gương. Trong lúc hai gã đối đáp nhau, John cố ghìm nén cơn giận để khỏi quất chiếc roi ngựa lên lưng họ. - Này, các , khi nào con tôi gọi các đến các mới được đến. Nó chưa gọi đừng có vác mặt tới đây. Hai gã trẻ tuổi nhìn nhau, ngơ ngác. Theo họ, đây là vinh dự lớn cho người cha lẫn . John quát lên: - Có hai lối ra khỏi phòng này, ra bằng cửa lớn và ra bằng cửa sổ. Các muốn ra bằng cửa nào? Gương mặt và bàn tay John mang vẻ hung tợn đến nỗi hai gã đứng bật dậy, vội vã bỏ về. John theo chân chúng đến tận cổng ngoài. Stanggerson tức sùi bọt mép: - Ông hối hận cho đến khi nhắm mắt. - Bàn tay Chúa giáng xuống đầu ông. Chúa trừng trị ông – Drebber cũng hét lên trước khi hai gã phóng ngựa bỏ . Ông già quay vào nhà, lấy tay chùi mồ hôi trán, với con: - Bọn chó má! Cha thà thấy con nằm trong nấm mồ còn hơn làm vợ trong hai đứa. - Con cũng quyết thế - trả lời với giọng rắn rỏi – Nhưng Hope chắc sắp về rồi. - Ừ, chắc cũng lâu, nhưng sớm ngày nào tốt ngày ấy. Quả vậy, người trại chủ mạnh khoẻ cần có người giúp đỡ. Trong suốt lịch sử của cộng đồng này, chưa từng có trường hợp nào chống lại uy quyền của giáo chủ cách ngang nhiên đến vậy. Những lỗi lầm mọn mà còn bị trừng trị ghê gớm số phận của kẻ bất phục tùng này ra sao? John biết rằng tài sản và danh tiếng của ông chẳng giúp ông được gì. có những người khác, giàu có và tiếng tăm như ông bị thủ tiêu và gia tài bị sung vào quỹ của giáo hội. Sáng hôm sau, ông thấy mẩu giấy gài tấm chăn ông đắp, đúng ngang ngực. mẩu giấy có dòng chữ in đậm nét: “Ngươi còn hai mươi chín ngày để sửa mình”. Mẩu giấy ấy làm John lo sợ hơn bất kỳ lời đe doạ nào. Hai mươi chín ngày ràng là thời hạn mà Young dành cho ông. Bàn tay gài mẩu giấy này rất có thể cắm mũi dao vào giữa tim ông. Sáng hôm sau nữa, John còn hoảng hốt hơn. Hai cha con vừa ngồi vào bàn ăn buổi sáng Lucy kêu lên tiếng kinh ngạc, giơ tay chỉ lên trần nhà. Ngay giữa trần có ai viết, có lẽ bằng cái que cời lửa, con số “28”. Lucy chắc thể hiểu ý nghĩa của con số đó, và John cũng cho con hay. Duy có điều, đêm hôm ấy, ông cầm súng canh rất khuya. Ông thấy bóng dáng ai, nghe thấy tiếng động nào, thế mà sáng hôm sau mặt ngoài cánh cửa có con số “27”. Cứ như vậy, ngày tiếp ngày, ông nhận thấy các kẻ thù vô hình của ông tính sổ đều đặn và ghi số ngày trong thời hạn dành cho ông. Những con số đó được viết khi tường, khi sàn, thỉnh thoảng lại ghi những tấm bìa đính ở cửa vườn hoặc ngoài hàng rào. cảm giác hãi hùng xâm chiếm lấy ông mỗi khi nhìn thấy những con số đó. Con số 20 trở thành 15, rồi 10, vẫn có tin tức gì về Hope. Mỗi lần có tiếng vó ngựa qua đường, người trại chủ già lại vội vã chạy ra hàng rào xem. Nhưng đến khi ông thấy con số 5 bị thay thế bằng 4 rồi 4 bị thay thế bằng 3 ông hết hy vọng. thân mình thông thuộc đường các dãy núi bao quanh vùng, ông biết mình bất lực. buổi tối, ông ngồi mình suy nghĩ miên man, vô vọng. Sáng hôm ấy, con số 2 tường và hôm sau là ngày của thời hạn đáng nguyền rủa. Trong bầu khí im lặng buổi tối, ông bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa rất . John nhảy vọt đến cửa, rút chốt, mở toang cánh cửa. Bên ngoài, cảnh vật rất yên tĩnh. Trong vườn, ngoài nhà, thấy bóng ai. Bỗng nhìn xuống chỗ gần chân mình, ông thấy người nằm áp bụng xuống đất, vặn vẹo bò vào trong nhà, nhanh và lặng lẽ như con rắn. Vào đến trong nhà, người ấy đứng bật dậy, đóng cửa lại và John nhận ra là Hope. Giọng khản đặc: - Bác có gì ăn ? – sà vào bàn, ăn hết chỗ thức ăn của bữa chiều còn lại, vừa ăn vừa hỏi chuyện – Lucy có khoẻ bác? - Nó khoẻ. Nhưng sao cháu lại đến đây bằng cách ấy? - Nhà bác bị vây kín. Cháu phải bò từ xa đến đây. Chúng ghê lắm, nhưng vẫn bắt nổi thợ săn của vung rừng núi. John phấn chấn xiết chặt bàn tay của người thanh niên: - Chúng ta tính sao đây? - Ngày mai là ngày cuối cùng, nếu ta ngay đêm nay hỏng mất. Cháu có con la và hai con ngựa buộc ở chỗ hẻm Đại Bàng. Bác có bao nhiêu tiền? - Bảy nghìn đô la. - Thế là đủ. Cháu cũng có chừng ngần ấy. Ta phải về phía thành phố Crason qua đường núi. Bác đánh thức Lucy dậy . lát sau, lợi dụng lúc đám mây bay qua làm đêm tối thêm, ba người thận trọng mở cửa sổ, vượt qua vườn, rồi nín thở, khi gập người lại làm hai, khi dán bụng xuống đất, tiến dần đến hàng rào, nơi có khe hở mở ra cánh đồng. Bỗng chàng vội kéo hai người nấp vào chỗ khuất. Kinh nghiệm của người thợ săn giúp cho chàng có đôi tai của mèo rừng. Ba người vừa nấp xong vào chỗ tối đen, nghe thấy cách chỗ họ vài mét tiếng hú buồn thảm của cú mèo. tiếng hú khác cũng ngay gần đấy đáp lại. Cùng lúc đó, bóng người lờ mờ từ khe rào mà họ định tiến tới ra, và tiếng hú ảo não kia lại nổi lên. Lúc ấy có bóng người khác nhô ra từ trong tối. Chiếc bóng đầu tiên, có vẻ là kẻ chỉ huy, : - Ngày mai, vào lúc nửa đêm, khi chim kêu ba tiếng. - . Có cần lại với giáo hữu Drebber ? – Bóng kia đáp lại. - Báo cho Drebber biết mật hiệu và chuyển lại cho các giáo hữu khác. Chín còn bảy? - Bảy còn năm – Bóng kia đáp lại rồi hai bóng người về hai hướng khác nhau. Tiếng bước chân của chúng vừa mới chìm xa, cả ba người liền đứng dậy, vượt qua khe rào, chạy nhanh qua cánh đồng tới đường cái. Ra tới đường cái, họ nhanh hơn. đường, họ chỉ gặp có mỗi người và kịp nấp tránh xuống bờ ruộng ven đường. Gần đến chỗ vào thành phố, người thợ săn rẽ sang con đường đất gồ ghề hẹp lên núi. ra lờ mờ trong bóng tối phía đầu họ là hai mỏm núi, giữa hai mỏm núi đó là hẻm Đại Bàng. Qua lòng suối cạn nước, họ tới chỗ khuất đằng sau mấy tảng đá lớn, thấy ngựa và la vẫn còn. ngồi lưng la, ông già với bọc tiền ngồi lên con ngựa, còn người thợ săn dắt con ngựa kia. Đường rất nguy hiểm, nhiều chỗ hẹp đến nỗi họ phải theo hàng . Tới chỗ hoang vắng và hiểm trở nhất của hẻm núi, bỗng Lucy khẽ kêu lên tiếng, giơ tay chỉ lên mỏm núi. hình người đứng tảng đá mọc chìa ra bên con đường, nổi bật thành bóng đen nền trời. Cùng lúc đó, người gác kia cũng nhìn thấy họ. tiếng “Ai?” lạnh sống lưng vang lên trong hẻm im lìm. - Lữ khách Nevada – Hope đáp, tay đặt lên khẩu súng treo ở yên ngựa. Họ thấy người gác lăm lăm khẩu súng, nhìn họ như chưa hài lòng với câu trả lời. - Được phép ai chưa? - Được phép của “Các vị Thánh ngày cuối” – John đáp. Những năm tháng sống với người Mormons dạy cho ông biết đấy là quyền lực cao nhất mà ông có thể viện ra. - Chín còn bảy – Tên gác hỏi mật hiệu. - Bảy còn năm – Hope đáp lại ngay, nhớ lại mật hiệu nghe được ở hàng rào bên vườn. - , và cầu Chúa phù hộ cho các người! Sau khúc đó, con đường rộng dần ra, bằng phẳng hơn và họ có thể cho ngựa nước kiệu. Ngoái lại đằng sau, họ thấy bóng người gác chống súng xuống đất, họ biết là họ được tự do.
11. Báo oán Những người chạy trốn suốt đêm, qua những đường đèo hiểm trở, dốc ngược và lởm chởm đá. Nhiều lần lạc đường, nhưng nhờ chàng trai thông thuộc vùng núi này nên họ lại tìm được phương hướng. Đến lúc trời rạng sáng, họ dừng lại bên thác nước cho ngựa uống và để ăn vội bữa sáng. Lucy và ông John rất muốn nghỉ lâu hơn, nhưng người thợ săn nhắc nhở: - giờ chúng bắt đầu đuổi theo. Thoát được hay là tuỳ ở tốc độ của chúng ta. Tới được thành phố Carson là thoát. Suốt ngày hôm ấy họ theo những con đường cheo leo, những hẻm núi hẹp và đến chiều, họ tính ở cách xa kẻ thù khoảng ba mươi dặm. Đêm đến, chọn chỗ nghỉ ở chân tảng đá mọc nhô ra để che bớt gió và nép người vào với nhau để có chút hơi ấm. Trước khi trời sáng, họ lên đường. thấy dấu hiệu nào có người đuổi theo, Hope cho rằng họ thoát ra ngoài tầm tay của cái tổ chức khủng khiếp. Đến khoảng trưa ngày thứ hai, chỗ lương thực ít ỏi mang theo bắt đầu cạn. Chàng trai lo lắng. Chọn chỗ khuất, chất đống ít cành cây khô, nhóm đống lửa lớn để ông John và Lucy sưởi, gió thổi mạnh và giá lạnh. Buộc ngựa xong, chàng khoác súng lên vai, kiếm thức ăn cho cả nhóm. Chàng vài kilômet vào hẻm núi, rồi tiếp sau hẻm núi khác mà gặp được loại chim thú nào. Cuối cùng, sau hai giờ tìm kiếm, chàng nản chí, toan quay trở lại, bỗng nhìn thấy con sơn dương, nó quay đầu về hướng khác, thấy chàng. Chàng ngửa người, tì súng lên mép tảng đá ngắm cẩn thận rồi mới bóp cò. Con vậy lảo đảo bên bờ vực rồi lăn xuống đáy thung lũng. Chàng xẻo lấy phần thịt, rồi vội vã quay trở lại chỗ cũ. Nhưng đường về bây giờ tìm mới khó vì lúc mải mê, chàng quá những hẻm núi quen thuộc. núi, đêm ập xuống nhanh và lúc trời tối mịt, chàng mới nhận ra đường về. Về đến đầu đường đèo – nơi chàng để ông John và Lucy ngồi chờ bên đống lửa – chàng bắt tay lên miệng hô vang tiếng “hôôôô”. Nhưng có tiếng hô nào đáp lại. hô tiếp tiếng nữa. Vẫn thấy có tiếng đáp, chàng cảm thấy nỗi lo sợ mơ hồ khó tả, vội vứt bỏ tảng thịt, lao chạy về phía trước. Sau chỗ ngoặt, chàng nhận ra đây là nơi mình nhóm lửa. Dưới đất hãy còn đống than cháy dở, nhưng xung quanh người và ngựa biến đâu mất! Chàng khơi lại ngọn lửa và xem xét khu vực chung quanh. Nền đất có nhiều vết chân ngựa cho thấy toán đông cưỡi ngựa đuổi kịp rồi sau đó lại rút . Cách đống lửa xa có mô đất mà lúc trưa thấy có. ràng là ngôi mộ vừa mới đắp. Bước lại gần, chàng thấy có cái gậy cắm vào giữa ngôi mộ, đầu gậy gài tờ giấy ghi vỏn vẹn: John Ferrier Trước ở thành phố Salt-lake Chết ngày 4 tháng 8 năm 1860 Đau đớn, chàng hối hả tìm khắp xung quanh xem có ngôi mộ nào nữa , nhưng thấy, Lucy bị bắt rồi. Nàng là vợ của con trai tông đồ Mormons nào đó. Khi hiểu ra số phận của vị hôn thê, chàng trai muốn lấy cái hẻm núi này làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Nhưng bản tính kiên cường lại trỗi dậy. Nếu như đời chàng từ nay còn ý nghĩa gì nữa, ít ra chàng vẫn có thể dùng nó để trả thù cho vợ. Cùng với bản tính kiên cường và nhẫn nại, chàng còn có chí căm thù bền bỉ mà chàng học được ở những người da đỏ. Gương mặt tái nhợt và dữ tợn, chàng quay trở lại chỗ bỏ tảng thịt, nhóm lửa, chuẩn bị cho mình đủ thịt ăn trong vài ngày rồi đứng lên, lần đường tìm về thành phố Salt-lake. Đến ngày thứ sáu, chàng về tới hẻm Đại Bàng. Tại đó, chàng có thể nhìn thấy nơi ở của Các vị Thánh ngày Tận thế. Chàng thấy có cờ bay phấp phới ở vài đường phố chính và vài dấu hiệu khác là có cuộc vui hay buổi lễ gì đó trong thành phố. Bỗng chàng nghe tiếng vó ngựa và thấy người về phía mình. Chàng nhận ra đó là Cu-pơ, người mà mình có lần giúp vài việc. Khi người đó tới gần, chàng bước lai: - còn nhớ tôi ? Tôi là Hope đây. Người Mormons này giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Quả thực, khó mà nhận ra kẻ lang thang, rách rưới, râu rậm tóc bù, mặt nhợt nhạt và dễ sợ này… Rồi vẻ ngạc nhiên mau lẹ chuyển thành vẻ lo ngại: - điên hay sao mà đến đây? Có lệnh bắt vì giúp hai cha con ông John chạy trốn. - Tôi sợ. Chỉ xin , vì tình bằng hữu cho tôi biết Lucy nay ra sao? - Hôm qua, người ta làm lễ cưới cho ấy. Kìa, can đảm lên chứ. Trông như người mất hồn. - khỏi phải bận tâm về tôi – Giọng Hope yếu ớt, đôi môi tái nhợt, ngồi bệt xuống tảng đá – bảo sao, lễ cưới ư? - Lễ cưới được tổ chức hôm qua, vì vậy mới treo cờ. Con trai Drebber và con trai Stanggerson tranh nhau khá găng. Cả hai gã đều nằm trong nhóm người đuổi theo họ và Stanggerson là kẻ giết người, cha của . Vì vậy, Stanggerson có vẻ được ưu tiên, nhưng khi việc này được đưa ra Hội đồng phía nhà Drebber thắng và giáo chủ giao cho Drebber. Dầu vậy, chẳng ai giữ ấy được lâu đâu vì hôm qua tôi thấy màu chết sắc mặt ấy rồi. Thế nào, đấy à? - Vâng, tôi đây – Hope đứng dậy, gương mặt đanh lại và đôi mắt ánh lên vẻ điên dại. - đâu? - đâu cũng vậy thôi – Hope đáp, rồi vác súng lên vai, rảo bước về phía đường đèo, tiến sâu vào trong lòng núi. Lời tiên đoán của Cu-pơ quả sai: trong đến tháng, Lucy héo hon rồi chết. Drebber tỏ ra đau buồn khi Lucy chết, vì lấy Lucy chủ yếu vì của cải của ông bố. Nhưng những người vợ khác của y thương khóc , và theo phong tục của người Mormons, họ thức trông xác suốt đêm trước hôm mai táng. ngồi xung quanh quan tài vào lúc trời chưa sáng, họ bỗng kinh ngạc và khiếp sợ khi thấy cửa bật mở và ra người đàn ông ăn mặc rách rưới, mặt sạm đen, con mắt điên dại, bước thẳng đến chỗ đặt thi hài, cúi đầu kính cẩn đặt đôi môi lên vầng trán giá lạnh rồi đỡ lấy bàn tay người chết, rút chiếc nhẫn cưới ra khỏi ngón tay và bằng giọng giống tiếng gầm rít của loài thú nhiều hơn tiếng người: - thể để cho người ta chôn cất nàng cùng với chiếc nhẫn này. Trong lúc đám phụ nữ chưa biết nên làm gì người đó biến mất. Trong nhiều tháng, người ta kể có kẻ kỳ quặc thường hay lẩn quất ở những cánh đồng bên ngoài thành phố hoặc trong những hẻm núi hoang vắng. hôm, viên đạn bắn qua cửa sổ nhà Stanggerson đập vào tường cách đầu y có bộ. Lại dịp khác, Drebber dưới chân dốc núi tảng đá lăn về phía y, y phải bổ nhào úp sấp mặt xuống đất mới thoát chết. Hai gã thanh niên ấy sớm phát ra người tiến hành những vụ mưu sát này, và chúng dẫn người tìm Hope nhiều lần nhưng bắt được chàng. Chúng phải cắt người canh gác nhà chúng, chúng bao giờ ra khỏi nhà mình hoặc khi trời tối. sau thời gian, những biện pháp này được nới lỏng: người ta còn thấy bóng dáng Hope đâu và chúng nghĩ rằng thời gian làm nguôi mối thù ở trong lòng người thợ săn trẻ tuổi ấy. Nhưng chí báo thù chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn chàng trai, còn chỗ cho tình cảm nào khác len vào nữa. Nhưng cuộc sống phơi sương dãi nắng, chẳng mấy chốc làm hao mòn sức khoẻ của chàng. Nếu chàng chết núi như con chó hoang ai báo thù cho? Mà nếu chàng cứ ở mãi núi thể tránh khỏi kết cục đó. Vì vậy, chàng trở lại vùng mỏ Nevada để phục hồi sức khoẻ và thu nhặt ít tiền để rồi có thể theo đuổi chuyện báo oán. Chàng định vắng độ năm là cùng, nhưng nhiều tình huống lường trước cho phép chàng rời khỏi khu mỏ trong năm năm. Tuy nhiên, sau thời gian ấy, ký ức về nỗi đau buồn và lòng khao khát báo thù vẫn mãnh liệt. Cải trang, chàng trở lại thành phố Salt-lake dưới cái tên giả và được biết những tin trái ý. Trước đó vài tháng xảy ra phân biệt trong đám người được Chúa tuyển chọn. vài thanh niên trẻ của giáo phái Mormons nổi dậy, chống lại quyền lực của các tông đồ và kết quả là số ly khai bỏ Utah ra , trở thành những kẻ ngoại đạo. Trong số đó có Drebber và Stanggerson. ai biết chúng đâu. Người ta kể rằng Drebber khéo léo thu xếp, chuyển hầu hết tài sản của ra thành tiền đem , còn Stanggerson được sung túc bằng. Nhiều người cho rằng dù lòng báo thù có cháy bỏng đến đâu, có lẽ cũng phải từ bỏ ý định của mình trước ngần ấy khó khăn, nhưng Hope . Với số tiền ít ỏi có, chàng hết thành phố này đến thành phố khác trong khắp nước Mỹ tìm kiếm tung tích của kẻ thù, vừa vừa nhận làm những công việc lặt vặt để kiếm thêm tiền sinh sống. Thời gian trôi , mái tóc đen lốm đốm bạc nhưng ông vẫn cứ , biết mệt mỏi, hề nản chí, dò tìm dấu vết của kẻ thù như con chó săn say mồi. hôm, ông thoáng nhìn thấy nét mặt qua khung cửa sổ, và biết đó là người mà ông lùng đuổi ở tại thành phố Cleverland, bang Ohio. Ông trở về căn buồng, sắp đặt kế hoạch báo thù. Thế nhưng Drebber khi nhìn qua cửa sổ nhà , cũng nhận ra kẻ lang thang ngoài phố kia và thấy ý định giết người trong ánh mắt người ấy. vội vã cùng với Stanggerson – khi ấy trở thành thư ký riêng của – đến nhà vị thẩm phán khai rằng bị kẻ tình địch cũ doạ giết. Tối hôm ấy, Hope bị tống giam vì ông sống lang thang, nhà cửa, nghề nghiệp nhất định, ông bị giam mấy tuần. Đến khi được thả, ông thấy nhà Drebber bỏ trống và được biết dã sang châu Âu cùng với tên thư ký riêng. lần nữa, người báo oán thất vọng, nhưng cũng lần nữa, mối thù dồn tụ qua năm tháng lại đẩy ông tiếp tục. đủ tiền xa, ông phải kiếm việc làm, dành dụm từng đô la cho cuộc hành trình sang châu Âu. Sau cùng, khi có tạm ít tiền để đủ sống, ông lên đường, đuổi theo các kẻ thù của mình từ thành phố này đến thành phố khác ở châu Âu, nhận làm bất cứ việc gì để sống. Thành phố Pétersbourg của Nga. Thủ đô Copenhague của Đan Mạch. Cuối cùng ông theo chúng tới thủ đô nước , và hạ sát được chúng.
12.Phần tiếp trong nhật ký của bác sĩ Watson Tuy chống cự kịch liệt nhưng người đánh xe tỏ ra hằn thù gì chúng tôi. Ông ta nở nụ cười thân thiện và tỏ ý mong rằng ông ta gây thương tích gì cho chúng tôi trong lúc xô xát. Ông ta với sherlock holmes: - Tôi chắc các ông dẫn tôi về Sở cảnh sát. Xe của tôi để dưới lòng đường. Nếu các ông vui lòng cởi trói chân cho tôi, tôi tự mình xuống. Greson và lestrade nhìn nhau suy nghĩ. Nhưng sherlock holmes cởi ngay dây trói. Holmes bảo hai nhà thám tử: - Các ông nên cùng với tôi. - Tôi đánh xe cho – lestrade . - Tốt lắm. Ông greson ngồi trong xe cùng với tôi. Bác sĩ watson! Cả nữa. Tất cả chúng tôi ra xe. Hope ngoan ngoãn bước lên xe. Tới Sở cảnh sát, viên thanh tra làm nhiệm vụ của mình cách bình thản, buồn tẻ: - Can phạm bị đưa ra xét xử ngay trong tuần. Trong khi chờ đợi, Hope, có muốn khai gì ? Hope từ tốn : - Lời khai của tôi khá dài. Tôi muốn được kể hết với các ông. - Ông có thể để đến khi ra toà khai cũng được. - Có lẽ tôi phải ra toà đâu. Các ông chớ hoảng hốt. Tôi có ý định tự tử. Ông có phải bác sĩ ? – Ông ta quay đôi mắt u tối và cháy bỏng sang phía tôi. - Phải. - Thế xin ông đặt tay vào đây – Với nụ cười hé nở môi, ông ta đưa hai cổ tay bị khoá lên ngực. Làm theo cầu của ông ta, tôi cảm thấy ngay những tiếng tim đập dữ dội. Lồng ngực ông ta rung lên bần bật như toà nhà mảnh mai bên trong chạy động cơ quá mạnh. Trong bầu khí im lặng của gian phòng, tôi có thể nghe thấy tiếng thổi và tiếng rung cũng xuất phát từ đó. - Ủa, ông bị bệnh phình động mạch chủ hả? – Tôi thốt lên. - Đúng vậy – Hope bình thản đáp – Tuần trước tôi khám bệnh, bác sĩ bảo bao lâu nữa nó vỡ tung. Bệnh nặng lên từ lâu trong những năm tôi phải sống ở ngoài trời, ăn đủ no, ngủ yên giấc. Tôi làm xong cái việc cần làm, dù có phải ra sớm cũng có gì hệ trọng. Tuy nhiên, tôi muốn kể lại câu chuyện của tôi để người ta đừng nghĩ tôi là tên sát nhân bỉ ổi. Viên thanh tra và hai nhà thám tử hội ý chớp nhoáng với nhau, xem có nên cho can phạm được phép kể như ông ta cầu . Viên thanh tra hỏi tôi: - Bác sĩ có cho rằng tính mạng can phạm có thể bị nguy ? - Rất có thể. - Trong trường hợp ấy, nhiệm vụ của chúng tôi là phải lấy lời khai của can phạm. Ông Hope, chúng tôi cho phép ông bắt đầu khai. - Tôi xin phép được ngồi – Hope – Bệnh phình động mạch này làm tôi dễ mệt lắm, nhất là sau cuộc vật lộn hồi nãy. Tôi ở bên bờ cõi chết. Vì vậy, tất cả những lời tôi ra đây đều là hoàn toàn . Tiếp đó, Hope bắt đầu kể câu chuyện của mình. Ông ta với giọng bình thản, từ tốn: - Hai kẻ ấy gây ra cái chết của hai cha con – và người cha – và vì thế, chúng rất đáng tội chết. Tuy nhiên, từ ngày đó đến nay, tôi có đủ bằng chứng để đưa ra trước bất kỳ toà án nào. Vì vậy, tôi quyết định đảm nhiệm cả vai trò quan toà lẫn đao phủ. bị thiệt mạng mà tôi ở lẽ ra làm vợ tôi cách đây hai mươi năm. Nàng bị ép buộc phải lấy tên Drebber này. Khi rút chiếc nhẫn khỏi ngón tay vợ tôi, tôi thề rằng trước lúc chết, con mắt của Drebber phải nhìn chính chiếc nhẫn này. Tôi săn đuổi bọn chúng qua hai lục địa. Khi tôi đến Luân Đôn, túi tôi hầu như còn xu nào, tôi cần tìm nghề. Cưỡi ngựa, đánh xe đối với tôi tự nhiên như bộ. Tôi đến gặp chủ xe, xin thuê chiếc xe. Tiền kiếm được cũng đủ sống. Cái khó nhất là thuộc đường vì các phố ở thành phố này là cái mê cung rắc rối. Nhưng tôi kiếm được cái bản đồ, và dần dần quen thuộc đường sá. Tôi phải mất thời gian mới tìm được địa chỉ của chúng. Chúng trọ tại gia đình ở Camberwell. Phát ra chỗ ở của chúng, tôi biết là nắm được chúng trong tay. Tôi để râu dài, và kiên trì theo dõi mà chúng nhận ra tôi. Bất kể chúng đâu, tôi đều theo sát gót, khi bằng xe ngựa, khi bằng chân. Theo bằng xe tốt hơn vì chúng thể bỏ xa tôi được. Chúng rất gian ngoan. Có lẽ chúng nghi bị theo dõi nên bao giờ ra khỏi nhà mình và cũng bao giờ ra khỏi nhà lúc đêm khuya. Trong hai tuần liền, ngày nào tôi cũng dùng xe theo chúng, nhưng bao giờ tôi thấy có tên nọ mà có tên kia. Drebber gần như lúc nào cũng say, nhưng Stanggerson luôn luôn tỉnh táo và cảnh giác. Theo dõi mãi, tôi vẫn chưa tìm thấy cơ hội nào. hôm, vào lúc xế chiều, khi lại phố Torquay, nơi chúng trọ, tôi bỗng thấy chiếc xe ngựa đến đỗ trước cửa nhà chúng. lúc sau, có người khiêng hành lý ở trong nhà ra xe, rồi Drebber và Stanggerson lên xe và chiếc xe lăn bánh. Tôi cho xe đuổi theo. Đến ga Euston, chúng xuống xe. Tôi nhờ đứa trẻ trông ngựa cho tôi và theo chúng ra sân ga. Tôi nghe thấy chúng hỏi giờ tàu Liverpool. Nhân viên nhà ga báo cho chúng biết là tàu vừa mới chạy, và phải mất tiếng đồng hồ nữa mới có chuyến sau. Stanggerson tỏ ra bực mình, Drebber trái lại có vẻ mừng rỡ. Tôi xán đến gần chỗ chúng. Drebber là y có công việc cần phải giải quyết và y bảo tên kia chờ, y quay trở lại ngay. Stanggerson trách móc, nhắc nhở là hai đứa đâu cũng phải có đôi. Drebber trả lời rằng đây là việc tế nhị nên y phải mình. Tôi nghe Stanggerson đáp lại như thế nào mà chỉ thấy Drebber chửi rủa rồi nhắc nhở cho Stanggerson biết rằng y chỉ là kẻ tôi tớ. Thấy vậy, Stanggerson kèo nèo thêm nữa và hai đứa thoả thuận là nếu Drebber kịp trở lại tàu y đến gặp Stanggerson tại khách sạn Holiday. Sau đó Drebber mình ra khỏi nhà ga. Khi cùng với nhau, chúng có thể bảo vệ lẫn nhau, nhưng nếu chúng tách riêng từng đứa đời chúng sắp tàn. Tuy thế, tôi hành động hấp tấp. Trong báo thù, có niềm sung sướng nếu kẻ thù của mình biết vì sao nó phải đền tội và ai là người bắt nó đền tội. Trước đó mấy ngày, người chịu trách nhiệm trông nom mấy ngôi nhà ở đường Brixton đánh rơi chìa khóa của ngôi nhà xe của tôi. Tôi trả lại cho ông ta chiếc chìa khoá, nhưng trước đó, tôi nhờ làm thêm chiếc. Với chiếc chìa ấy, tôi có nơi ra vào, nơi có thể tự do hoạt động. Nhưng việc đưa Drebber đến ngôi nhà ấy, là điều rất khó khăn. Ra khỏi ga, Drebber sà vào hai quán rượu. Ở quán thứ hai, y lưu lại đến gần nửa giờ. Ở quán này ra, chân y bước vững. Có chiếc xe ngựa đỗ ngay trước xe tôi. Y vẫy vẫy gọi và lên xe . Tôi theo chiếc xe này sát đến nỗi suốt quãng đường, mũi con ngựa xe tôi gần như chạm vào đuôi xe trước. Hai xe cứ vòng vèo lúc lâu rồi cuối cùng trở lại đúng cái phố mà Drebber ở trọ. Tại đó, chiếc xe ngựa kia dừng lại, cho xuống rồi xe ra . Tôi cho xe mình đỗ cách nhà chừng trăm mét, và ngồi chờ. Các ông cho xin cốc nước. Tôi khô cả họng. Tôi đưa cho ông ta cốc nước. - Xin cám ơn! Drebber vào nhà, tôi bình tĩnh ngồi khoảng khắc đồng hồ, bỗng nghe thấy tiếng cãi cọ trong nhà. Mấy phút sau, cửa mở tung và ra hai người đàn ông. là Drebber, và người thứ hai là thanh niên tôi chưa gặp bao giờ. thanh niên này nắm lấy cổ áo Drebber, kéo y ra tại bậc thềm, xô mạnh và co chân đạp bồi thêm cái nữa làm y ngã lăn sang tận bờ hè bên kia. ta giơ gậy lên doạ: “Đồ chó má! Tao dạy cho mày chừa thói lăng nhục người con lương thiện”. Drebber chạy đến góc phố, trông thấy xe tôi, nhảy lên xe, bảo tôi: “Đến khách sạn Holiday”. Lúc ấy, tim tôi đập rộn lên vì mừng rỡ. Tôi cho xe chạy từ từ, cân nhắc trong đầu nên làm gì. Tôi có thể đưa y ra thẳng ngoại ô và quãng đường vắng cho y giáp mặt lần cuối với tôi. Bỗng y bảo tôi đỗ xe trước quán rượu. Y ở lại trong quán cho đến giờ đóng cửa quán, và khi y bước ra, chân nam đá chân xiêu, tôi biết tôi có mọi thuận lợi trong tay. Các ông đừng nghĩ rằng tôi giết y cách chóng vánh. từ lâu, tôi tự bảo tôi dành cho y cơ hội sống sót, nếu y muốn. Trong quãng đời lang thang ở Mỹ, tôi làm nghề gác cổng kiêm việc quét dọn cho phòng thí nghiệm của trường đại học New York. hôm, trong buổi giảng dạy về các chất độc, vị giáo sư giới thiệu với sinh viên loại alcalôit mà ông ta chiết xuất từ thứ cây, có độc tính mạnh đến nỗi chỉ cần chút bằng hạt đậu cũng đủ làm chết người ngay tức khắc. Tôi đánh dấu bằng mắt cái lọ đựng thuốc độc ấy và khi mọi người ra về, tôi lấy trộm chút. Tôi cũng ít nhiều biết cách chế biến các hoá chất và với chút bột alcaloit ấy, tôi dập thành hai viên thuốc dễ hoà tan trong nước. Đồng thời tôi cũng làm ra hai viên thuốc khác, y hệt như hai viên này nhưng có chứa chất độc. Tôi bỏ viên độc và viên vô hại vào trong cái hộp. Lúc bấy giờ, tôi quyết định là, trong buổi giáp mặt cuối cùng, mỗi kẻ thù của tôi phải uống viên trong hộp và tôi uống viên thứ hai còn lại. Từ sau hôm đó, lúc nào tôi cũng mang theo người hai hộp ấy và chờ có lúc sử dụng. Lúc bấy giờ gần giờ sáng. Đêm tối đen như mực. Mưa như trút nước và gió thổi dữ dội. Ngoài trời ảm đạm nhưng trong lòng tôi vui sướng, hân hoan. Nếu ai từng mong mỏi thiết tha cái gì đó, trong suốt hai mươi năm trời, rồi bỗng có cái đó ngay trong tầm tay người ấy hiểu được những cảm xúc của tôi lúc bấy giờ. Tôi châm điếu xì gà để bình tâm lại. Vừa , tôi vừa như thấy ông John và nàng Lucy nhìn tôi và mỉm cười với tôi. Tôi dừng xe lại trước ngôi nhà ở đường Brixton. Suốt phố bóng người, tiếng động, chỉ trừ tiếng mưa rơi. Nhìn vào trong xe, tôi thấy Drebber ngủ như chết vì say. Tôi lay vai y: - Đến nơi rồi. - Tốt! – Y đáp lại. Tôi cho rằng y ngỡ là đến khách sạn, vì y xuống xe và theo tôi vào vườn lời nào. Tôi phải cạnh y, đỡ y. Tới cửa nhà, tôi mở cửa, đưa y vào gian nhà ngoài. - Tối quá! – Drebber dậm chân gắt gỏng. - Sáng ngay bây giờ đây – Tôi , đánh diêm châm ngọn nến tôi mang theo. - Này Drebber! – Tôi tiếp, quay mặt về phía y và giơ ngọn nến sát mặt tôi – Ta là ai đây? Y nhìn tôi lúc bằng con mắt lờ đờ của kẻ say và tôi thấy lên trong mắt y nỗi kinh hoàng làm nhăn nhúm cả mặt y. Y lùi lại, lảo đảo, mặt tái nhợt, mồ hôi giọt trán, hai hàm răng đập lập cập vào nhau. Tôi dựa lưng vào cánh cửa. Tôi cười rất to và khá lâu, rồi bảo Drebber. - Đồ chó đẻ! Tao săn đuổi mày suốt từ Salt-lake đến Pétersbourg. Nhưng lần này, mày còn chạy đâu được nữa, vì trong hai ta, tao hoặc mày nhìn thấy mặt trời sáng mai. Y lùi lại khi nghe tôi , vì tôi có thể đọc được nét mặt y là y tưởng tôi điên. Đúng là lúc ấy tôi điên . Thái dương tôi đập thình thình, tôi nghĩ có lẽ tôi bị cơn thần kinh nếu như tôi bị chảy máu mũi làm cho người tôi nhiều. Tôi đóng cửa lại, vung chiếc chìa khóa trước mặt y. - Mày nghĩ gì về Lucy bây giờ nào? trừng phạt đến tuy có muộn, nhưng cuối cùng cũng phải đến chứ. Tôi thấy môi y mấp máy, y có lẽ xin tôi tha tội: - Ông định ám sát tôi ư? – Drebber ấp úng. - Ai lại ám sát con chó dại? Mày có thương xót gì cái khi mày giằng nàng ra khỏi xác cha nàng. - phải tôi giết cha nàng – Y kêu lên. - Nhưng chính mày làm tan nát cõi lòng con người trong trắng ấy – Tôi gần như thét lên và giơ chiếc hộp thuốc trước mặt Drebber – Mày hãy chọn lấy viên và nuốt . Ở viên là cái chết, còn ở viên kia là sống. Để xem có công lý quả đất này , hay chỉ là chuyện may rủi. Drebber lùi vào góc phòng kêu lên những tiếng man rợ, xin tôi rủ lòng thương, nhưng tôi rút dao kề sát cổ y, làm y cuối cùng phải uống thuốc. Tôi nuốt viên thuốc còn lại, chúng tôi đối diện nhau trong phút, chờ xem ai sống và ai chết. Có lẽ tôi bao giờ quên được nét mặt y, khi những cơn đau đầu tiên báo cho y biết thuốc độc lan khắp người. Nhìn thấy thế, tôi cười khanh khách và giơ chiếc nhẫn của nàng ra trước mắt y. Phút đó quá ngắn ngủi vì tác động của chất alcalôit rất mau lẹ. Y quằn quại vì đau đớn, toàn thân và các cơ mặt co giật, rồi ngã vật ra sàn. Tôi lấy mũi giầy hất người y lại, đặt tay lên ngực y. Y chết hẳn rồi. máu ở mũi tôi ọc ra nhiều nhưng tôi để ý. biết lúc đó tôi nghĩ gì mà lấy máu tôi viết lên tường. Có lẽ định đùa trêu cảnh sát, đánh lạc hướng của cảnh sát, vì lúc đó lòng khoan khoái, tôi nhớ lại vụ người Đức bị ám sát tại New York, bên xác nạn nhân có chữ “Rache” làm báo chí kết luận là án mạng do những hội kín gây ra. Tôi nghĩ chuyện bí đối với người New York chắc cũng là bí đối với người Luân Đôn. Tôi bèn nhúng ngón tay vào chính máu tôi viết lên tường vào chỗ thuận tiện. Sau đó tôi trở ra xe. Đường vẫn có bóng người và trời vẫn mưa gió ào ào. Tôi được quãng, bỗng đút tay vào túi, thấy chiếc nhẫn đâu. Tôi hoảng hốt, cho rằng có lẽ đánh rơi khi cúi xuống xác Drebber. Tôi quay trở lại, để xe ở ngách phố và đánh liều trở lại ngôi nhà. Tới nơi, tôi chạm trán ngay phải viên cảnh sát ở trong nhà ra, tôi phải giả vờ say mới khỏi bị nghi ngờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ còn có việc là thanh toán nốt Stanggerson. Tôi biết Stanggerson ở khách sạn Holiday. Tôi lảng vảng quanh đó suốt ngày, nhưng thấy y ló mặt ra. Tôi sớm phát được cửa sổ buồng y, và sáng hôm sau, nhân có mấy cái thang ở lối đằng sau khách sạn, tôi dựng lên, gác vào cửa sổ buồng y và trèo vào. Tôi đánh thức y dậy, bảo y là phải trả lời về tội ác mà y gây ra cách đây hai mươi năm. Tôi mô tả lại với y cái chết của Drebber, rồi tôi cũng cho y được chọn trong hai viên thuốc. Y nhảy bổ vào tôi, định bóp cổ tôi. Ở vào thế tự vệ, tôi đâm y. Sau đó, tôi trở lại nghề đánh xe như trước, với ý định tiếp tục cho đến khi nào dành dụm đủ tiền để trở về nước Mỹ. Tôi đậu xe ở nơi đứa trẻ đến hỏi có người đánh xe nào tên là Hope , và bảo có người ở số 221B phố Baker muốn thuê xe. Coi là chuyện bình thường, tôi theo nó đến địa chỉ kia. Đến nơi, chưa hiểu đầu đuôi ra sao ông này thừa lúc tôi sơ ý, khoá ngay cổ tay tôi lại. Thưa các ông, đó là toàn bộ câu chuyện của tôi. Nghe xong câu chuyện, chúng tôi ngồi im lặng mất lúc, chỉ có tiếng bút chì sột soạt ghi nốt phần cuối bản tốc ký. Sau cùng, holmes : - Có điểm tôi muốn biết thêm. Người đến nhận chiếc nhẫn cho là ai vậy? - Tôi thể làm liên lụy đến những người giúp tôi. Tôi đọc được tin nhắn của ông. Tôi nghĩ đây có thể là cái bẫy, nhưng cũng có thể đúng là chiếc nhẫn mà tôi muốn tìm lại. Hình như bạn tôi khéo léo làm xong nhiệm vụ của mình? - Đúng thế - holmes tươi cười đáp. Viên thanh tra trịnh trọng tuyên bố: - Thôi, thứ năm tuần tới can phạm được đem ra xét xử. Tất cả các ông phải có mặt tại phiên toà. Từ nay đến khi ấy, tôi chịu trách nhiệm giam giữ can phạm. xong, ông gọi hai viên cảnh sát đến dẫn Hope , còn holmes và tôi lên xe về nhà.
13. Phần kết Người ta dặn chúng tôi phải có mặt tại toà vào hôm thứ năm, nhưng ngay đến hôm bị bắt, động mạch của Hope bị vỡ và sáng hôm sau, người ta thấy ông nằm dài sàn phòng giam, với nụ cười thanh thản môi. Tối hôm ấy, trò chuyện với nhau ở nhà, holmes bảo tôi: - greson và lestrade tức tối trước cái chết này. Nó làm cho họ mất dịp khoe khoang thành tích của họ. - Họ có thành tích gì trong vụ này đâu? - Nhưng mà thôi. có suýt nữa tôi bỏ lỡ mất vụ án lý thú này. Tuy đơn giản nhưng nó có nhiều điểm rất bổ ích. - đơn giản ư? - Thực ra, cũng khó đánh giá nó khác được – holmes mỉm cười trước vẻ ngạc nhiên của tôi – Bằng chứng về đơn giản của nó là, cần trợ giúp nào, chỉ chờ đến vài suy đoán rất bình thường, trong ba ngày tôi tóm cổ được thủ phạm. - Ừ, mà đúng. - Để giải quyết vấn đề như vậy, cái quan trọng là lập luận ngược chiều. Đây là phép tư duy rất bổ ích và rất dễ, nhưng ngày nay người ta thực hành mấy nữa. Trong công việc hàng ngày, lập luận theo chiều thuận thường là dễ hơn, vì vậy người ta quên mất cách lập luận theo chiều ngược. - Thú tực tôi chưa hiểu. - Con người ta, khi được nghe trình bày chuỗi việc hầu hết tiên đoán kết cục của những việc đó. Họ có thể tập hợp những kiện đó trong óc rồi suy ra điều phải xảy ra. Nhưng có mấy người, sau khi nghe nó đến cuối cùng, có khả năng suy ra những việc nào dẫn đến kết cục ấy. - Tôi hiểu. - Đây là trường hợp người ta cho biết cái kết cục và tự phải tìm ra tất cả những việc dẫn đến cái kết cục ấy. Tôi xin kể lại với các giai đoạn khác nhau trong cách lập luận của tôi. Như biết, tôi bộ khi gần đến trường, đầu óc hoàn toàn có dự kiến hay thiên kiến gì. Tôi bắt đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy những vệt bánh xe, loại xe hai chỗ chở thuê, và qua vài câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đậu ở đấy đêm trước. Tôi biết đây phải là chiếc xe nhà mà là xe chở thuê, căn cứ ở khoảng cách hẹp giữa hai bánh xe. Chiếc xe chở thuê thông thường ở Luân Đôn hẹp hơn nhiều so với xe nhà. Sau đó tôi chầm chậm theo lối qua vườn mà nền đất là loại đất sét, rất dễ nhận vết chân, đối với con mắt nhà nghề của tôi mỗi dấu vết mang ý nghĩa. Lấy vết chân là ngành trong khoa học hình rất quan trọng nhưng cũng bị coi . Tôi thấy những vết chân nặng nề của các viên cảnh sát, nhưng tôi cũng thấy những vết chân của hai người qua khu vườn này trước đám cảnh sát kia: ở đôi chỗ vết chân của hai người bị những vết chân cảnh sát đè lên, xóa . Qua đó, nó cho tôi biết có hai người lạ mặt đến đây hồi đêm, người rất cao lớn – căn cứ theo chiều dài của bước chân và người kia ăn mặc sang trọng, căn cứ theo vết giầy nhắn, thanh mảnh. Vào trong nhà, người giầy sang trọng nằm đó. Vậy , người cao lớn là kẻ gây ra án mạng. có thương tích người nạn nhân, nhưng qua những nét kinh hoàng lưu lại mặt, tôi đoán hẳn nạn nhân được báo về số phận mình trước khi chết. Những người chết vì bệnh tim hoặc vì nguyên nhân tự nhiên nào khác bao giờ nét mặt lại nhăn nhúm đến như vậy. Ngửi môi nạn nhân, tôi thấy có mùi chua chua, tôi kết luận, nạn nhân bị cưỡng bức uống thuốc độc. Chính vẻ căm thù và khiếp sợ biểu lộ mặt dẫn tôi đến suy đoán ấy. Tôi đến kết luận này bằng phương pháp loại trừ, vì có giả thiết nào khác có thể giải thích được tất cả những chi tiết kia. Cưỡng bức nạn nhân uống thuốc độc hoàn toàn phải là điều mới trong lịch sử hình . Tiếp theo đó là câu hỏi lớn: tại sao có vụ ám sát này? Tiền bạc phải là động cơ. Vụ này dính đến chính trị hay đến phụ nữ? Trước hết tôi ngả về giả thiết thứ hai. Những kẻ ám sát chính trị khi làm xong nhiệm vụ vội bỏ ngay. Ở đây ngược lại, thủ phạm để dấu vết trong khắp gian phòng, chứng tỏ y lưu lại đây khá lâu. Vậy đây là vụ thanh toán do hận thù cá nhân chứ phải là vụ án chính trị. Khi phát ra những chữ viết tường, tôi càng tin chắc suy đoán của tôi là đúng; đây quá là mưu mẹo nhằm đánh lạc hướng. Đến khi tìm thấy chiếc nhẫn tôi coi việc xác định giả thiết là xong. ràng thủ phạm dùng chiếc nhẫn này để gợi lại với nạn nhân người phụ nữ chết hoặc vắng mặt. Chính là khi đó tôi hỏi greson xem trong bức điện gửi Cleverland, ông ta có hỏi chi tiết gì đặc biệt về quá khứ của Drebber . Chắc còn nhớ gerson trả lời tôi là . Sau đó, tôi xem xét tỉ mỉ gian phòng. Việc này giúp tôi thấy tầm vóc, loại thuốc xì gà và móng tay dài của thủ phạm. Vì có dấu vết vật lộn nào nên tôi kết luận chỗ máu giây ra sàn nhà hẳn là máu mũi của thủ phạm lúc bị quá khích. Tôi thấy những vết máu này trùng hợp với những vết chân của thủ phạm. mấy ai, trừ phi là người thuộc tạng rất thừa máu, lại chỉ vì xúc cảm mà chảy máu mũi. Vì vậy, tôi dám nghĩ rằng thủ phạm chắc là người lực lưỡng, mặt đỏ vì xung huyết. Thực tế chứng minh là tôi đoán đúng. Ở ngôi nhà đó ra về, tôi vội vàng làm cái việc mà greson bỏ qua. Tôi điện cho Sở cảnh sát thành phố Cleverland, hỏi về những tình huống xung quanh cuộc hôn nhân của Drebber. Bức điện trả lời cho biết Drebber nhờ cảnh sát thành phố che chở cho mình khỏi bị kẻ tên là Hope ám hại. Kẻ này là tình địch của Drebber trong chuyện đương cũ và nay kẻ này có mặt tại châu Âu. Đến lúc ấy, tôi biết là nắm trong tay tất cả các đầu mối, chỉ còn có việc tóm cổ thủ phạm nữa thôi. Tôi tin chắc rằng người ấy cùng với Drebber vào ngôi nhà và người đánh xe chỉ là . Vết chân ngựa day day lại đường cho thấy có người giữ cương nó. Vậy người đánh xe lúc ấy ở đâu nếu phải là ở trong nhà? Bởi có ai dám gây ra án mạng ngay trước mắt người thứ ba để về sau người đó tố cáo mình. Cuối cùng, giả sử thủ phạm muốn theo dõi nạn nhân của mình qua các phố ở Luân Đôn liệu y còn tìm được cách nào tốt hơn là đóng vai người đánh xe ngựa . Tất cả những khía cạnh ấy buộc tôi phải tìm Hope trong số những người đánh xe ngựa ở Luân Đôn. Nếu y làm nghề đánh xe có lý do gì y lại tiếp tục nghề ấy. Trái lại, theo cách nhìn của y, mọi thay đổi đột ngột có thể làm cho người ta chú ý đến y. Chắc y cũng tiếp tục nghề cũ, ít nhất trong thời gian. Cũng có lý do gì để giả thiết rằng y sống dưới cái tên giả. Y cần gì phải đổi tên ở nước có ai quen biết? Tôi nhờ đến mấy chú bé lang thang, phái chúng đến hỏi tất cả các chủ xe Luân Đôn cho đến khi tìm được người mà tôi tìm. Chúng tìm được. Vụ giết Stanggerson là việc hoàn toàn bất ngờ, nhưng dù sao cũng thể ngăn ngừa được. thấy , tất cả những điều đó là chuỗi việc lô-gích móc nối nhau liên tục, kẽ hở, chỗ nào gián đoạn. - là tuyệt vời! – Tôi kêu lên – Công lao của đáng được mọi người biết đến. Phải đăng bài báo về vụ này. Nếu viết tôi viết thay . - làm gì tuỳ. Nhưng hãy xem đây. Holmes đưa cho tôi tờ báo. Đó là tờ “Tiếng vang” số ra trong ngày, và bài báo chỉ cho tôi chính là bài báo về vụ án. Bài báo viết: “Với cái chết đột ngột của Hope, kẻ bị tình nghi là thủ phạm gây ra hai án mạng: giết Drebber và Stanggerson, công chúng mất dịp được biết những tình tiết giật gân của vụ án bí . Có lẽ người ta bao giờ được biết những tình tiết ấy, tuy rằng theo nguồn đáng tin cậy, chúng ta được biết rằng hai án mạng này là kết cục của mối thù oán lâu năm có dính dáng đến tình và giáo phái Mormons. Hình như thời trẻ hai nạn nhân thuộc về giáo phái “Các vị Thánh ngày cuối” và thủ phạm Hope cũng là người gốc gác ở thành phố Salt-lake. Tuy vụ này đến kết cục công khai tại toà, song ít nhất cũng nêu bật lên cách làm việc có hiệu quả của ngành cảnh sát nước ta. ai biết rằng công lao này hoàn toàn thuộc về hai thanh tra nổi tiếng của Scotland Yard là các ông greson và lestrade. Thủ phạm hình như bị bắt giữ tại nhà người tên là sherlock holmes. Bản thân người này – với tư cách thám tử nghiệp dư – cũng tỏ ra có đôi chút tài năng. Hy vọng rằng, được những người như hai thanh tra kể dìu dắt, với thời gian, sherlock holmes học hỏi được nhiều và tấn tới hơn nữa. Chúng tôi tin chắc rằng hai thanh tra greson và lestrade được ngợi khen xứng đáng với những thành tích xuất sắc của họ”. Sherlock holmes cười lớn: - tôi bảo ngay từ đầu mà.