9. Cái bờm sư tử Sau khi giải nghệ, tôi rút về Sussex sống cuộc đời êm ả giữa thiên nhiên. Lúc đó, thỉnh thoảng Watson có tới thăm tôi. Biệt thự của tôi tọa lạc tại triền phía nam của dãy núi Downs, từ đó nhìn ra biển Manche. Tại đó, bờ biển toàn bằng đá vôi. Muốn xuống biển, phải theo đường mòn độc nhất, rất dài, khúc khuỷu, quanh co, dốc thẳng đứng và trơn trượt. Cuối đường môn này có bãi sỏi bề ngang 100 yard, khi nước lớn cũng bị chìm hẳn. Ðó đây có các chỗ trũng tạo thành những hồ tắm thiên nhiên đẹp mắt, nước được thay đều đặn vào lúc thủy triều lên. Cái bãi biển lý tưởng này trải dài mấy cây số, chỉ trừ tại điểm có cái vịnh con và ngôi làng Fulworth. Tôi, bà lão quản gia và đám ong mật quây quần với nhau trong lãnh địa mênh mông của tôi. Cách đó nửa dặm, là trường học “The Gables” nổi tiếng của ông Harold Stackhurst, với khoảng 20 thanh niên học nhiều nghề khác nhau dưới hướng dẫn của nhiều giáo sư. Ông Stackhurst là tay chèo cừ khôi thời thanh niên và có kiến thức tổng quát rất giỏi. Chúng tôi kết bạn với nhau từ ngày tôi mới tới. Ông là người địa phương độc nhất có thể tới nhà tôi hàn huyên ban đêm, hoặc chính tôi qua bên ông ta mà cần mời mọc. Khoảng cuối tháng 7-1909, cơn bão lớn càn quét biển Manche. Sóng lớn đập rầm rầm vào chân bờ đá vôi. Sau khi nước rút, còn lại những cái đầm. Vào buổi sáng, gió lặng, toàn thể cảnh vật được tắm rửa sạch . Trước khung cảnh quyến rũ, điểm tâm xong, tôi dạo vòng để hít thở khí trời trong lành. Tôi men theo đường mòn xuống bờ biển. Trong khi , tôi nghe tiếng kêu đàng sau: đó là ông Harold Stackhurst vẫy tay chào đón tôi. - Trời đẹp, ông Holmes! Tôi đoán thế nào cũng gặp ông tại đây. - Ông chuẩn bị bơi? - Vâng, tôi vẫn còn giữ những thói quen tốt. - Ông vừa trả lời vừa sờ cái túi căng phồng của ông. - Ðúng vậy, McPherson ra khỏi nhà sớm lắm. Tôi đoán cũng gặp ông ta tại đây. Fitzroy McPherson là giáo sư khoa học, có vóc dáng đẹp nhưng tim yếu vì đau thấp khớp nặng. Tuy vậy ông ta cũng còn là lực sĩ, giỏi về các môn thể thao. Mùa đông cũng như mùa hè, ông ta đều bơi. Tôi cũng là tay bơi, chúng tôi thường bơi với nhau ngoài khơi. Liền khi đó, hai chúng tôi thấy McPherson xuất đỉnh đá vôi, khởi điểm của đường mòn. Người ông thẳng đứng, nhưng lại lắc lư như kẻ say rượu. Thình hình ông giơ cao hai tay, la lên tiếng thất thanh, rồi té sấp xuống đất. Ông Stackhurst và tôi, đứng cách đó 50 yard, hối hả chạy tới, đỡ ông nằm lại. Mắt nhắm nghiền, mặt tái mét, McPherson hấp hối. Ông hai ba câu như muốn trối trăn... nhưng giọng quá yếu ớt. Chúng tôi chỉ nghe các tiếng cuối cùng: “Cái bờm sư tử” . Cái bờm sư tử? là lạ lùng và bí hiểm? Tuy nhiên tôi chắc chắn nghe mồn . Ðột nhiên McPherson muốn nhổm dậy, huơ tay nhưng ngã qua bên và trút hơi thở cuối cùng. Ông bạn Stackhurst sợ điếng người. Còn các giác quan của tôi ở tình trạng ứng chiến. McPherson chỉ mặc cái áo khoác mỏng, cái quần, chân mang đôi dép cột dây. Khi ông ngã xuống, chiếc áo khoác vai tuột ra, để lộ mình trần. Chúng tôi điếng người khi nhìn thấy cái lưng đầy rẫy những đường đỏ đậm như bị roi đồng mịn quất liên hồi. Chắc chắn chiếc roi có thể co giãn được vì các vết thương vẽ những đường cong vai và sườn. Cằm nhiều máu từ vết cắn môi dưới trong cơn đau. Trong lúc tôi quỳ cạnh xác chết, Stackhurst đứng như trời trồng bóng người chiếu xuống đất: Murdoch đến cạnh chúng tôi. Ian Murdoch là giáo sư toán, người cao ráo, da nâu, gầy gò, ít và hay giữ khoảng cách với mọi người đến nỗi có lấy người bạn. Hình như ông ấy chỉ sống trong vương quốc của những con số và những hình tròn, tách biệt hẳn với đời thường. Sinh viên cho ông ta là người kỳ cục, có lẽ trêu chọc ông cho vui nếu gặp những lần ông đổ quạu. lần nọ, vì bị con chó của McPherson quấy nhiễu, ông thộp đầu nó, quăng qua cửa sổ. Sau thành tích này, lẽ ra Murdoch bị đuổi nếu ông hiệu trưởng Stackhurst quí chuộng cái tài của Murdoch. Ðó là chân dung của nhân vật dị thường, phức tạp, đột ngột xuất cạnh chúng tôi. Murdoch có vẻ rất xúc động mặc dù chuyện con chó chứng tỏ rằng ông và người chết hề có thiện cảm với nhau: - Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi có thể giúp được cái gì? Tôi phải làm gì để giúp quý ông? - Hồi nãy ông có đứng cạnh McPherson ? Chuyện gì vậy? - , hồi sáng tôi ra trễ. Tôi đâu có tắm. Tôi thẳng từ nhà ra đây. Tôi có thể làm gì? - Chạy ra khi cảnh sát Fulworth trình bày nội vụ! đáp lại tiếng nào, Murdoch tức tốc chạy . Ðương nhiên là tôi thụ lý nội vụ. Trong lúc đó, Stackhurst vẫn còn bàng hoàng trước thảm kịch, quanh quẩn bên cái xác. Việc đầu tiên của tôi là tìm biết lúc đó có ai. Tôi đứng ở đầu đường mòn, nhìn nguyên cả bãi biển vắng tanh. Chỉ hai hoặc ba dáng người lờ mờ ở phía xa xa của ngôi làng Fulworth. Sau đó, tôi từ từ xuôi theo đường mòn. Thỉnh thoảng tôi gặp cùng dấu chân xuống rồi lại lên. ai khác ra bãi biển bằng con đường mòn này. Tại chỗ, tôi quan sát dấu của bàn tay mở rộng, cái ngón chĩa theo hướng lên: điều này có nghĩa là khi leo lên dốc, McPherson bị té. Tôi cũng thấy những lỗ thủng hình tròn: như vậy là ông ta nhiều lần sụp gối xuống. Cuối đường mòn là cái đầm lớn do nước ròng để lại. Khăn lau của ông còn vắt tảng đá. Khăn còn xếp và khô: ông có tắm. đám sỏi, tôi thấy vài mảng cát ghi dấu dép và dấu chân đất của ông. kiện cuối cùng này chứng tỏ rằng ông ta sắp sửa xuống nước, nhưng chiếc khăn khô cho thấy ông xuống nữa. Bài toán là như vậy. là chuyện lạ lùng McPherson ở ngoài bãi biển lâu hơn 15 phút, bởi vì Stackhurst có để ý khi ông này ra khỏi nhà, ông chuẩn bị để tắm, như đôi chân đất chứng minh. Nhưng ông đột ngột mặc áo quần trở lại rồi chạy mà kịp gài nút. Ra về mà tắm hoặc ít ra là lau khô? Tại sao McPherson lại đổi ý? Bị quất roi cách man rợ, bị hành hạ đến nỗi phải cắn môi chảy máu và chỉ còn đủ sức để ngược đường mòn rồi chết! Ai tấn công ông ta? Quả có những hang động dưới chân bờ đá vôi, nhưng mặt trời mới lên, chiếu sáng, ai có thể dùng làm nơi náu được. Có những dáng người xa tít bãi biển, nhưng họ ở quá xa, thể dính dáng với vụ án. Hơn nửa cái đầm mênh mông nơi mà McPherson có ý định tắm ngăn cách với những người đó. biển, vài chiếc xuồng đánh cá cũng ở khá gần. Các ngư phủ này có thể được thẩm vấn sau này. Như vậy có nhiều con đường mà chẳng có con đường nào đưa tới hướng điều tra nhất định cả. Khi tôi quay trở lại với xác chết có nhóm bu quanh. Ðương nhiên là có Stackhurst và Murdoch mới vào làng về cùng với Anderson, viên cảnh sát địa phương. chàng này to con, râu ngạnh trê, ràng thuộc nòi giống Sussex, câm lặng, chậm nhưng nhiệt tình. ta nghe chúng tôi trình bày, ghi chép và cuối cùng kéo tôi ra bên. - Ông Holmes à, xin ông tiếp tay. Ðối với tôi, đây là vụ lớn lắm. Tôi khuyên ta sai người báo cho cấp trực tiếp, mời pháp y, cấm cho ai sờ mó gì và giới hạn tối đa tăng thêm dấu chân. Sau đó, tôi lục túi nạn nhân, và tìm thấy mù soa, dao lớn và ví . Trong ví này lò ra miếng giấy con. Tôi đưa cho viên cảnh sát. Những dòng chữ nguệch ngoạc của phụ nữ: “Tôi có mặt tại đó, an tâm. Maudie”. Có thể nào đây là chuyện tình, cái hẹn? Nhưng mà hẹn tại đâu? Lúc nào? Viên cảnh sát để tờ giấy trở lại trong ví, rồi bỏ ví vào túi áo choàng. Sau khi dặn dò việc lục soát chân bờ đá vôi cho kỹ, vì còn gì cần kiếm nữa, tôi về nhà ăn điểm tâm. lát sau, Stackhurst tới nhà cho hay rằng xác chết được chở về trường The Gables để điều tra. Ông cũng mang lại vài tin tức chính xác và nghiêm trọng. Như tôi đoán trước, người ta kiếm được gì trong các hang động dưới chân bờ đá vôi. Nhưng khi khám xét các giấy tờ bàn của McPherson; vài giấy tờ cho thấy có liên lạc thân mật giữa ông giáo sư khoa học trẻ tuổi này với bé tên là Maud Bellamy ở làng Fulworth. Như vậy là biết được tác giả tờ giấy trong túi nạn nhân. - Cảnh sát lấy các bức thư, - Stackhurst - Tôi thể mang lại đây cho ông. Có thể dứt khoát với ông rằng đó là những bức thư tình. Nhưng tôi thấy có lý do vững chắc để móc chuyện tình này vào biến cố thê thảm, trừ khi quả có hẹn hò từ phía bé. - ai hẹn với bồ tại hồ tắm mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể đến đó bất cứ lúc nào. - Tôi bác bỏ. - Là ngẫu nhiên hoàn toàn khi có toán sinh viên theo McPherson. - ông Stackhurst . - Có phải là ngẫu nhiên ? - Tôi hỏi. Stackhurst cau mày suy nghĩ rồi : - Murdoch giữ họ lại để giảng chứng minh hình học quỷ quái gì đó trước bữa ăn sáng. Thằng khỉ! Trông bộ mặt nó là đủ thấy nó đau xót cách thành . - Vậy mà tôi tưởng họ mặt trăng mặt trời với nhau? - Quả có vậy, nhưng chỉ trong thời gian mà thôi. Kể từ năm nay, Murdoch lại là bạn của McPherson như đối với bất cứ ai khác. Tánh tình như thế! Bản chất có nồng nàn với bất cứ ai. - Tôi hiểu. Hình như ông có kể cho tôi nghe về vụ con chó bị xử tệ. - Vụ này được giải quyết êm xuôi rồi. - còn có gì để phải trả thù? - , tôi đoán chắc. Họ trở thành bạn thân của nhau. - Vậy ta phải quay về phía bé, ông biết ta ? - Mọi người đều biết ta. Ðó là hoa hậu trong làng. Hoa hậu xứng danh, ông Holmes à! Ði đâu cũng được trầm trồ. Tôi biết rằng McPherson bị cuốn hút. Nhưng tôi ngờ việc tới mức như các lá thư trao đổi cho nhau. - Gốc gác ấy ra sao? - ta là con của ông già Tom Bellamy, sở hữu chủ của tất cả các tàu biển và phòng tắm của làng Fulworth. Khởi chỉ là ngư phủ thường, nhưng giờ phất lắm. ông ta và cậu con trai điều khiển cơ sở. - Hay là ta vào làng vòng để xem mặt họ. - Viện cớ gì? - Dễ mà! Ðừng lo! Suy cho cùng, ông giáo sư McPherson này tự mình hành hạ mình đến mức độ man rợ như thế. Vậy, phải có bàn tay ở đầu roi, nếu ta đề ra giả thiết là nó giết ông ấy. Trong cái xó biển này, ông ấy có nhiều quan hệ lắm đâu. Ði vòng này, chúng ta kiếm ra động cơ của vụ án, và phăng ra thủ phạm. Làng Fulworth nằm sâu trong cái vịnh. Sau xóm nhà cổ và biệt thự đại được cất thửa ruộng nghiêng, Stackhurst đưa tôi tới trong các biệt thự này. - Ðấy là biệt thự The Haven, tên do chính Bellamy đặt. Ðối với người khởi bằng số , quả là tệ. Ơ, ơ… nhìn kìa, ông Holmes ơi! Cửa vườn vừa mở: người ra. Chúng tôi thể lầm lẫn trước cái dáng người cao lêu nghêu, gân guốc, ưỡn ẹo. Ðó là Murdoch. - Ồ! Ê! - Stackhurst la to. Murdoch chỉ gật đầu nhìn lấm lét như định làm lơ luôn, nếu bị ông hiệu trưởng chận lại. - tới đó làm gì vậy? - Stackhurst hỏi. Mặt của Murdoch đỏ rực, nổi cáu: - Thưa ông, tôi là nhân viên của ông, nhưng chỉ trong khuôn viên nhà trường. Tôi đâu phải báo cáo với ông về đời tư của tôi. Có lẽ trong lúc nào khác, ta có thể phản ứng khéo léo hơn, nhưng lúc bấy giờ Murdoch mất hẳn bình tĩnh. - Trong tình huống này, cách trả lời của ông là lếu láo ông Murdoch. - Câu hỏi của ông hồi nãy cũng đâu có lễ phép gì! - Ðây phai là lần đầu tiên tôi vấp phải ương ngạnh của ông. Lần này là lần cuối cùng. ông chuẩn bị càng sớm càng tốt để dạy nơi khác. - Tôi cũng có ý định này. Hôm nay tôi mất con người độc nhất để tôi có thể sống dưới mái trường này. xong, Murdoch bỏ . Ông hiệu trưởng giận sôi gan, im lặng đứng nhìn. - ràng là thể chịu đựng được nửa. Ý tưởng nảy sinh trong tâm trí của tôi lúc bấy giờ mà Murdoch vồ lấy cơ hội để cao bay xa chạy. ngờ vực mơ hồ hình thành trong đầu tôi. biết cuộc viếng thăm gia đình Bellamy soi tia sáng mới nào ? Stackhurst bình tĩnh lại và chúng tôi tiếp tục về hướng biệt thự The Haven. Ông Bellamy cỡ ngoài 40, có bộ râu quai nón màu đỏ hung rất đẹp. Nhưng tánh khí có vẻ đằm thắm lắm. - đâu, tôi thích chi tiết. Con trai tôi... - Vừa ông vừa chỉ thanh niên lực lưỡng ngồi ủ rũ, cau có trong góc phòng khách. - Con trai tôi cũng có ý hệt như tôi. Các dự định của ông McPherson đối với con Maud đúng đâu? Cái từ “kết hôn” bao giờ được thốt ra. Tuy nhiên cũng có những thư từ, những cuộc hẹn hò và những rối rắm khó khăn mà con trai tôi lẫn tôi đều bài bác. Con bé mất mẹ. Chúng tôi là điểm tựa độc nhất của nó. Chúng tôi quyết tâm... Lời của ông ta bị cắt ngang bởi xuất của bé. Vừa thấy , tôi hiểu ngay. Khuôn mặt đều đặn, nước da tươi mát, con người sắc nước hương trời này làm xao xuyến bao con tim đàn ông gặp . xô cửa bước vào, đứng trước mặt ông Harold Stackhurst với đôi mắt mở to: - Tôi biết Fitzroy chết. - - Xin hai ông thẳng cho tôi nghe chi tiết. - Có chàng ở trường đến cho chúng tôi hay.- Người cha giải thích. - Tôi biết chuyện đó có liên quan gì đến em tôi.- Người con trai lẩm bẩm. Maud nhìn qua cách giận dữ: - Thây kệ tôi, William! hãy để cho tôi giải quyết theo ý tôi. Theo những gì tôi biết ấy bị ám sát. Nếu tôi có thể tiếp tay tìm ra thủ phạm đó là việc vặt vãnh nhất mà tôi cần phải làm. Sau đó, lắng nghe trình bày ngắn của tôi. Qua đó tôi thấy ta vừa sắt đá, vừa quyến rũ. Có lẽ ta biết mặt tôi rồi nên quay qua phía tôi: - Hãy tiếp tay đưa bọn họ ra trước công lý, thưa ông Holmes. Tôi cam kết lúc nào tôi cũng dành trọn cảm tình cho ông và sẵn sàng cộng tác với ông, dù bọn sát nhân là ai? Tôi có cảm giác rằng trong khi chuyện, nhìn cha và với vẻ thách thức. - Cám ơn ! - Tôi đáp - Tôi cảm phục bản năng của phụ nữ trong những vụ như thế này. có “họ”. Vậy là theo , có nhiều thủ phạm trong vụ này. - Tôi biết rằng McPherson gan dạ, mạnh lắm. Nếu họ chỉ là người thể gây cho ấy những vết thương như thế. - Tôi có thể gặp riêng chút được . - Này Maud, tao nhắc lại với mày, đừng xía mũi vào việc này. - Người cha la to. nhìn tôi cách tuyệt vọng. - Tôi có thể làm gì bây giờ? - bao lâu nữa, mọi người biết các việc .- Tôi đáp - Cho nên tôi có trình bày tại đây cũng sao. Tôi thấy nên riêng với nhưng bố cho phép ông ấy tham dự cuộc chuyện giữa và tôi. Tôi về tờ giấy được tìm thấy trong túi ông McPherson. - Bất cứ ai điều tra vụ này cũng phải hỏi về tờ giấy này. Xin vui lòng cho biết thêm! - Tôi thấy có lý do gì để che giấu câu chuyện giữa chúng tôi. Chúng tôi đính hôn, chỉ chờ làm lễ cưới. Chúng tôi còn giữ kín vì bác của gần chết, có thề truất quyền thừa kế, nếu ấy cưới vợ trái với ý muốn của ông ta. - Lẽ ra con phải cho ba hay. - Người cha càu nhàu. - Con tâm với ba rồi, nếu ba có chút thiện cảm ... - Ba muốn con của ba giao du với những thanh niên ngoại tịch. - Thành kiến của ba như thế, con đâu dám cho ba hay trước chuyện kết hôn. Còn về tờ giấy hẹn ...? - ta ngừng lại, lục trong túi áo, rút ra tờ giấy vò nát. -... là để hồi tờ giấy này. ấy đọc to: “Em thân , Như thường lệ, tại điểm cũ, ở bãi biển, thứ ba, sau khi mặt trời lặn. Ðó là lúc duy nhất ra được. F.M” Rồi ấy thêm: - Thứ ba là hôm nay đây. Tôi dự định gặp ấy vào tối nay. Tôi cầm tờ giấy và lật ngược lại. - Bức thư ngắn này gửi bằng bưu điện. nhận nó bằng cách nào? - Ông cho phép tôi khỏi trả lời vì nó liên quan tới vụ án. Ngoài ra, tất cả những gì có liên quan, tôi trả lời đầy đủ. Cuộc thẩm vấn đem lại cái gì mới lạ. tin rằng vị hôn phu của có kẻ thù giấu mặt, tuy đồng ý rằng có nhiều người nhiệt tình ngấp nghé . - Xin phép được hỏi , ông Ian Murdoch có trong số người này ? ta đỏ mặt, có vẻ lúng túng. - Có dạo. Nhưng sau khi ấy biết rằng tôi rất thân thiết với Fitzroy tất cả thay đổi. Lại lần nữa, hình bóng con người lạ thường này dường như lộ thêm. Phải tìm hiểu quá khứ của chàng Murdoch này. Phải lục kỹ phòng của ta. Stackhurst tận tình giúp đỡ tôi vì ông ta cũng ngờ vực. Chúng tôi từ giã biệt thự The Haven với lòng khấp khởi mừng thầm nắm được đầu cuộn chỉ. tuần trôi qua. Cuộc điều tra vẫn giậm chân tại chỗ. Stackhurst kín đáo dò hỏi thêm về ông giáo sư dạy toán và lục soát phòng ngủ của ông ta. Nhưng có kết quả gì. Về phần tôi, tôi phải quay lại điểm xuất phát và cật lực làm việc, nhưng vẫn hoài công. Trong lúc đó bỗng xuất biến cố : vụ con chó. Bà quản gia của tôi nghe được trước tiên. - chuyện bi thương, thưa ông. Chuyện con chó của ông McPherson. - tối nọ, bà . với tôi như thế. Ít khi tôi khuyến khích bà chuyện tào lao. Nhưng lần này tôi nằng nặc đòi bà kể cho tôi nghe. - Chuyện gì về con chó? - Nó chết rồi. Nó chết vì thương tiếc chủ nó. - Ai vậy? - Chúa ơi! Người ta rùm beng. Nó nhớ chủ, bỏ ăn cả tuần nay. Hôm nay hai giáo sư trường The Gables gặp xác nó tại bãi biển. Ðúng ngay chỗ chủ nó bị giết. “Ngay chỗ.. chủ nó bị giết”. Mấy từ này vang dội trong óc tôi. Ðột nhiên, tôi có cảm giác mơ hồ rằng đây là chi tiết thiết yếu. Con chó trung thành với chủ, chuyện đẹp . Nhưng tại sao lại chết ở chỗ đó. Tại sao ở cái bãi biển quạnh này. Con chó cũng là nạn nhân chăng? Vô lý! Tôi có cảm giác mơ hồ như thế. chặp sau, tôi tới trường gặp Stackhurst. Theo cầu của tôi, ông mời Sudbury và Blount, hai sinh viên phát ra xác con chó. - Ðúng, nó nằm ngay bờ của cái đầm. - trong hai sinh viên xác nhận với tôi - Có lẽ nó lần theo vết chân của chủ nó. Tôi thấy xác con vật trung thành còn để đệm rơm ở cửa ra vào. Xác nó cứng đơ, đôi mắt lồi ra, chân cẳng vặn vẹo. đau đớn lộ xác chết, dường như nó gào rống thảm thiết. Sau đó, tôi xuống bãi tắm. Mặt trời lặn. Bờ đá vôi ngả bóng đen sì dưới mặt nước óng ánh. Quang cảnh là tịch. Ngoài hai con chim biển bay vòng vòng, có con gì khác nữa. Dưới ánh nắng chiều nhạt dần, tôi còn thấy dấu chân con chó ở chung quanh hòn đá mà chủ nó để khăn lau. Tôi đứng đó, suy ngẫm khá lâu. Chung quanh tôi, bóng đêm càng lúc càng dày thêm. Ðầu tôi đầy ắp những ý tưởng cuồn cuộn mà tôi cảm thấy cần tìm điểm hệ trọng quanh quẩn đâu đây tại nơi sặc mùi tử khí này. Cuối cùng, tôi chậm rãi, nặng nề bước về nhà. Ði hết đường mòn, lên bờ đá vôi, đột ngột tôi thấy lóe sáng trong đầu óc tôi cái điều thiết yếu mà tôi hằng mong muốn, cái gì liên quan đến vụ án, tuy còn rất lờ mờ. Tôi mường tượng thấy giả thiết cần phải kiểm chứng. Tôi chạy về nhà, lao lên cái gác xép chứa đầy sách. Lục lọi cả giờ, tôi tìm được cuốn sách bìa nâu mạ bạc. Tôi ngấu nghiến đọc đọc lại chương sách mà tôi vừa nhớ lại. Tôi ngủ được cho đến khi biết chắc chắn rằng tôi nghĩ sai. Rồi sáng đấy, tôi gặp phải trở ngại bực bội. Vừa uống xong tách trà, chuẩn bị xuống bãi biển tôi phải tiếp thanh tra Bardle, thuộc sở cảnh sát Sussex. Ông ấy nhìn tôi. - Thưa ông, tôi có nghe về những kinh nghiệm vô song của ông. Cuộc viếng thăm này có tính chất chính thức nhưng tôi phải thú thực rằng tôi xui xẻo khi gặp cái vụ này! Thưa ông, có cần thi hành thủ tục bắt giam hay ? - Bắt giam ông Ian Murdoch hả? - Vâng, thưa ông. Nghĩ cho cùng ai khác bây giờ? - Ta siết vòng vây, siết, siết cho tới khi cái vòng thu hẹp lại. - Nếu phải là ông ấy ai bây giờ? - Ông có bằng bằng chứng gì ? - Tính tình của Murdoch. Cái bí mật quanh con người này! Chuyện con chó bị quăng ra cửa sổ! Nhất là Murdoch chuẩn bị bỏ sở! lẽ ông lại làm ngơ cho y chuồn êm với hồ sơ bất lợi cho y như thế. - ông thanh tra cảnh sát xúc động hỏi tôi. - Ông có những khiếm khuyết lớn trong cái hồ sơ đó! Buổi sáng hôm ấy, Murdoch dạy sinh viên học cho tới phút chót và chỉ sau khi phát xác chết, ông ta mới tới. Ngoài ra, ông còn phải suy nghĩ đến kiện quan trọng là mình Murdoch có thể đánh bằng roi vào người như McPherson cho đến chết . Cuối cùng, còn phải xét đến dụng cụ gây ra các vết thương mình nạn nhân. cái roi co giãn hay cái gì cùng loại! Ông có khám nghiệm các dấu vết chưa? - Tôi có thấy! Cả pháp y nữa! - Phần tôi, tôi sử dụng tới kính lúp. Cái dấu vết có những đặc điểm lạ. - Ðặc điểm gì? Tôi mời ông thanh tra vào văn phòng của tôi, cho ông ta xem phóng ảnh. - Trong những vụ như vậy, đây là cách làm việc của tôi. - Tôi . - Ðương nhiên là ông lúc nào cũng nghiêm túc. - Chúng ta hãy xét kỹ cái vết roi ở vai phải. Ông thấy gì đặc biệt sao? - . - ràng là các vết roi đều, ở đây có máu chảy, chỗ kia . lằn roi khác, chúng ta cũng thấy như thế! Tại sao vậy? - Tôi có ý kiến gì cả. Còn ông? - tôi cũng còn lờ mờ, khi ta mô tả được cái dụng cụ tạo ra vết thương phăng ra thủ phạm ngay. - Tôi có ý kiến, - ông thanh tra cảnh sát , ngập ngừng - Nếu là dây thép gai nung đỏ mấy vết đâm là các điểm có gai. - so sánh của ông tinh ý . Do đó, tôi lại nghĩ đến cái đuôi con mèo có cột nhiều nút nhọn . - Vậy là ông tìm ra! - Trừ khi các kiện đó bắt nguồn từ nguyên nhân khác, ông Bardle à, ông phải thấy rằng hồ sơ của ông đủ để bắt người. Ngoài ra, còn lời trối của nạn nhân: “Cái bờm sư tử” nữa. - Ông có giả thiết nào khác , ông Holmes? - Có lẽ có. Nhưng tôi dám bàn đến khi chưa có cơ sở vững chắc. - Chừng nào? - Trong vòng giờ! Cũng có thể sớm hơn… Ông thanh tra cảnh sát gãi cằm và nhìn tôi cách bán tín bán nghi. - Tôi muốn đọc những gì trong đầu ông, ông Holmes à! Có lẽ là các thuyền đánh cá? - đâu, chúng ở xa lắm! - Vậy là thằng cha Bellamy và thằng con trai to con của y. Hai người này cũng bực bội McPherson. - phải đâu! Ông moi được gì ở tôi! - Tôi vừa cười vừa - Giờ đây, ông thanh tra à, chúng ta đều công tác riêng. Nếu ông rảnh, chúng ta hẹn gặp lại lúc 12 giờ. Chúng tôi chuẩn bị chia tay việc hãi hùng xảy ra, đánh dấu bước đầu của hồi tàn cuộc. Cửa nhà tôi bị đẩy mạnh toang hoác và người bước khập khễnh ở hành lang. Murdoch cà nhắc bước vào phòng tôi, mặt mày tái xanh, tóc tai bù xù, áo quần xốc xếch. - Brandy! Brandy! Nhanh lên! xong, ông ta ngã phịch xuống chiếc tràng kỷ. Bước theo sau ông ta là Stackhurst, thở hổn hển, đầu đội mũ, vẻ mặt hốc hác. - Ðúng thế, hãy cho ta uống Brandy. - Stackhurst kêu lớn - Hấp hối rồi. Ðưa ấy tới được đây là may đó. Dọc đường, ta ngất xỉu hai ba lần. Nửa cốc rượu mạnh tạo phép lạ. Murdoch phóng tay ngồi dậy và cởi áo vét. - Hãy cho tôi dầu, thuốc giảm đau để xoa dịu cái đau kinh khủng này. - ta rên rỉ. Ông thanh tra cảnh sát và tôi cùng thốt lên tiếng kêu hãi hùng khi nhìn thấy những vết roi đỏ au vai trần của nạn nhân, những vết roi giống hệt mình của Fitzroy McPherson. những đau nhức cùng cực mà hô hấp của nạn nhân thỉnh thoảng bị ngừng lại, mặt trổ màu đen, trán nhễ nhại mồ hôi và có lúc ông ta dùng tay đè mạnh lên tim như quá đau đớn. Chúng tôi cho ta uống thêm Brandy. Cứ mỗi lần uống, ta lại tỉnh dần. Bông thấm dầu xà-lách hình như làm dịu được vết thương bí hiểm này. Cuối cùng, ông ta gục đầu xuống gối, nửa ngủ, nửa xỉu, nhưng ít ra thấy bớt đau. Chúng tôi hỏi gì thêm được. Ngay khi chúng tôi hơi an tâm về tình trạng sức khỏe của Murdoch Stackhurst quay về hướng tôi. - Chuyện gì vậy hở Holmes? - Ông gặp ta ở đâu? - Dưới bãi biển, ngay chỗ McPherson chết. Nếu Murdoch yếu sức như McPherson ta đâu về đến đây được. Trong khi cố dìu ta, mấy lần tôi tưởng ta chết rồi. Về trường quá xa, tôi bèn ghé vào đây. - Ông thấy ta ở bãi biển? - Tôi dạo dọc bờ đá vôi nghe tiếng kêu. ta đứng gần bờ nước, lắc lư như người say rượu. Tôi lật đật chạy xuống, mặc áo quần qua loa rồi dìu về đây, ông Holmes. Ông phải tận lực để làm sáng tỏ vụ này. Với tài nghệ của ông, lẽ ông giúp được chúng tôi? - Tôi tin là tôi làm được! Hãy theo tôi, cả ông thanh tra nữa. Chúng ta xem. Có thể tôi giao nộp kẻ sát nhân cho ông. Bỏ Murdoch cho bà quản gia chăm sóc, chúng tôi xuống cái đầm chết người. bãi sỏi còn quần áo, khăn lau của Murdoch. Tôi chậm rãi quanh cái đầm. Các bạn tôi theo sau. Nước đầm sâu, khoảng 5 bộ, trong xanh như pha lê. Phía trong là dãy đá tảng. Tôi dọc bờ nước dưới chân dãy đá vôi, vừa nhìn kỹ xuống nước, khi tìm được điểm sâu nhất tôi kêu lớn, biểu lộ đắc thắng. - con sứa! - Tôi kêu to - Các ông hãy nhìn cái bờm của con sư tử. Con vật dị thường mà tôi chỉ cho mọi người thấy, giống lông bờm con sư tử. Nó cuộn lại như trái bóng. Nó nằm dưới đáy đá cách mặt nước độ yard. Nó có những cánh lông dài màu vàng điểm ánh bạc, co vào, giãn ra cách chậm chạp, nặng nề. - Nó gây tác hại nhiều rồi. Cho nó qua thế giới bên kia ! - Tôi kêu lớn - Hãy giúp tôi, Stackhurst. Chúng ta trừ hậu họa. Gần đó, có hòn đá to. Chúng tôi lăn xuống đầm. Khi nước lặng, chúng tôi thấy con vật nằm dưới đáy hòn đá. - Chuyện này vượt hẳn sức tôi. - ông thanh tra cảnh sát lớn - Tôi sinh ra và lớn lên tại đây, nhưng chưa bao giờ biết chuyện tương tự. Con vật này từ đâu tới chứ có ở địa phương Sussex này. - Ðó là cái may mắn của Sussex. Có lẽ cơn bão đưa nó tới. Thôi, hãy quay về nhà, tôi cho các ông biết kỷ niệm hãi hùng của người gặp gỡ lần đầu cái tai ương của biển cả này. Khi trở về văn phòng, chúng tôi mừng rỡ thấy Murdoch khỏe hơn, tuy chưa hoàn hồn và thỉnh thoảng còn bị đau nhói. cho biết là hiểu việc gì xảy ra, đơn giản là cảm thấy đau tận xương tủy khi bị các móc nhọn quất vào mình. cố gồng mình chạy lên bờ. Tôi đưa ra cuốn sách mà tôi moi gác xép và : - Ðây là cuốn sách rọi các tia sáng đầu tiên vào vấn đề nằm trong bóng tối mãi mãi. Quyển “Out of doors” của nhà quan sát nổi tiếng J.G. Wood. Chính ông ta suýt chết khi gặp con vật khủng khiếp này. Do đó, đây là tài liệu có cơ sở vững chắc. Cyanea Capillate là tên khoa học của thủ phạm. Tôi xin đọc qua đoạn: “Nếu bạn tắm mà gặp khối tròn, mềm, màu hung hung đỏ, như lông bờm sư tử điểm bạc, cuộn tròn như trái bóng bạn phải coi chừng, vì nó quất đau điếng người. Những sợi dây hình như vô hình này dài đến 50 bộ”. Rồi sau đó, tác giả tường thuật việc chính ông gặp con sứa này trong khi bơi ngoài khơi bờ biển Kent. “Cái mớ dây ấy để lại da tôi những vết thương màu hồng. Nhìn kỹ, các đường này là do tiếp nối của hằng hà sa số mụn nhọt li ti”. Wood lại giải thích: “Cái đau như xuyên qua ngực. Tôi gục xuống như thể bị trúng nhiều phát đạn. Mạch máu như ngừng lại, tim đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực”. Ông còn : “Tôi uống nguyên chai brandy và hình như nhờ rượu này mà tôi còn sống”. Sau đó, quay qua phía ông thanh tra, tôi : - Thưa ông thanh tra, tôi cho ông mượn cuốn sách này. Ông thấy nguyên nhân cái chết của McPherson. - Nhờ đó, hồ sơ của tôi được trong sạch. - Ian Murdoch thêm với nụ cười hơi gắng gượng - Tôi phiền trách ông đâu, thưa ông thanh tra. Và tôi cũng phiền trách ông đâu, thưa ông Holmes. Như vậy là nhờ vào kiện tôi chịu cùng tai nạn với bạn tôi mà tôi được giải oan. - đâu, ông Murdoch. Tôi tìm ra hướng . Phải chi đồng thời với phát này, tôi có mặt ở bãi biển chịu cuộc phiêu lưu hãi hùng này. - Mà làm sao ông biết được, ông Holmes? - Về mặt sách vở, tôi đọc lung tung, nhớ dai dẳng những chi tiết dị kỳ. Mấy tiếng “cái bờm sư tử” của McPherson ám ảnh tôi mãi. Tôi nhớ có đọc đâu đó tình huống khá bất thường. Có lẽ con sứa đó nổi mặt nước lúc McPherson đứng bờ nên các lời trối trăng của ông ta là lời cảnh giác với tôi. - Ít ra tôi được phục hồi danh dự - Murdoch và từ từ đứng thẳng người lên. - Tôi xin được giải thích thêm. Quả tôi có Maud. Nhưng từ ngày chọn bạn chí thân của tôi, là McPherson tôi chỉ còn có ý muốn giúp ấy tìm hạnh phúc. Tôi nguyện ước được sống gần họ, làm bạn tâm tình. Tôi thường làm con chim xanh giữa họ. Tôi chấp nhận làm điều đó, vì tôi nắm bí mật của họ và thân thiết đến nỗi tôi hối hả báo tin buồn cho ấy, sợ có ai khác cướp mất công trạng. ấy tiết lộ cái tình thân giữa ấy với tôi vì sợ rằng ông hiểu được thành của tôi mà gây nên rắc rối cho tôi. Tôi xin phép về trường. Tôi cần phải nằm nghỉ. Stackhurst giơ tay lên cao. - Hai chúng ta đều buồn bực như nhau - Stackhurst với Murdoch - tha thứ chuyện cũ của tôi. Trong tương lai, chúng ta hiểu nhau nhiều hơn. Khi họ cặp kè ra , tôi đứng lại mình với ông thanh tra cảnh sát. - Ông đạt mục đích - ông ta to - Tôi có đọc nhiều về ông, nhưng chưa tin. diệu kỳ. Tôi bắt buộc phải gật đầu nhận lời khen. - Lúc đầu tôi tỏ ra chậm chạp. Tôi hối tiếc vô cùng. Phải chi xác McPherson được tìm thấy dưới nước tôi nghĩ ngay tới con sứa. Chính cái khăn lau đánh lạc hướng. Ðương nhiên, nạn nhân đâu còn tâm trí để lau với chùi. Phần tôi, tôi lại nghĩ rằng McPherson hề nhảy xuống nước. Kết quả là tôi lạc lúc. Nào, thưa ông thanh tra, tôi thường qua mặt cảnh sát. Nhưng lần này quí ông được con sứa Cyanea Capillate phục thù giùm Scotland Yard.
10. Bà thuê nhà mang mạng che Suốt thời gian 23 năm hành nghề của Sherlock Holmes, tôi có 17 năm diễm phúc được cộng tác với , chọn lọc và lưu lại những ghi chép của ấy dưới cách trình bày trong sáng hơn. Cũng hoàn toàn sai lạc nếu suy đoán rằng tất cả các vụ án mà Holmes điều tra đều là những cơ hội để ta tỏ các năng khiếu đặc biệt về trực giác và quan sát của . Thường thường Holmes phải đổ mồ hôi mới hái được kết quả, nhưng đôi khi chỉ cúi xuống là có thể nhặt quả. Nhưng chính trong những vụ án mà Holmes khỏi phải trổ tài gì cả, ta mới thấy những trò bi thương nhất của loài người. buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được thư khẩn cấp của Holmes mời tôi đến đường Baker ngay. Khi vào nhà, tôi thấy ngồi trong phòng sặc mùi thuốc lá trước người đàn bà đứng tuổi có dáng dấp bà chủ nhà trọ ở thủ đô. Holmes giới thiệu: - Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. Khói thuốc làm phiền bà ấy đâu. Do đó có thể buông thả cái tật xấu của . Bà Merrilow có câu chuyện rất hay để kể cho chúng ta nghe. Chuyện này có thể có những diễn biến mà cần chứng kiến. - Rất sẵn sàng! - Thưa bà, nếu tôi gặp bà Ronder như bà muốn, tôi cần có nhân chứng. Do đó, bà phải thuyết phục bác sĩ Watson đây theo tôi. -Xin Chúa ban phước lành cho ông, thưa ông Holmes! - Bà chủ trọ lớn - Bà ấy rất cần gặp ông, cho nên ông có thể dẫn cả khu phố theo cũng được. - Khoảng , hai giờ chiều nay chúng tôi ra . Chúng tôi phải rà soát xem nắm vững các yếu tố của bài toán chưa. Bà rằng bà Ronder ở trọ nhà bà bảy năm, nhưng bà chỉ nhìn thấy mặt bà ấy có lần duy nhất? - Là quá đủ, thưa ông Holmes! - Mặt bà ta nát bấy hết à? - Chúa ơi! thể gọi là cái mặt được. Người giao sữa cho tôi đứng ngoài cửa, nhìn thấy lần: ta xúc động đến nỗi chai sữa tuột tay, đổ tứ tung. Hai ông hãy tưởng tượng biết mặt bà ấy ra sao! Khi tôi chợt nhìn thấy, bà ấy lập tức lấy tay che mặt ngay và : "Bà Merrilow, giờ đây bà hiểu tại sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm khăn voan". - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy ? - biết tí gì cả. - Khi dọn tới, bà ta đưa ra giấy tờ nào sao? - , thưa ông. Bà ta trả tiền mặt, lại trả trước rất nhiều, hề cò kè. Vào thời buổi khó khăn này, người nghèo túng như tôi ngu dại bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng như thế! -Bà ấy có giải thích tại sao lại chọn nhà bà ? -Nhà tôi xa đường cái, tương đối khá vắng vẻ. Ngoài ra, tôi lại chồng, con. Tôi đoán bà ấy thử nhiều chỗ khác rồi. Cuối cùng bà ấy thấy căn nhà tôi hợp với bà ấy hơn. - Bà có rằng bà ấy để lộ mặt, trừ trường hợp hoàn toàn ngẫu nhiên. Chuyện này khá dị thường đó. Do đó tôi hiểu vì sao bà tò mò. - Đâu phải, thưa ông! Đối với tôi khi mà tiền trọ thanh toán sòng phẳng… khó tìm khách trọ bình lặng hơn, ít rắc rồi hơn. - Vậy động cơ nào thúc đẩy bà tới đây? - Sức khoẻ của bà ta, ông ạ. Dường như bà ta giữ cái gì rất hãi hùng ở trong đầu. " giết người? cuộc ám sát?” Bà ấy la to về khuya như thế! Tiếng bà vang dội khắp nhà làm tôi sợ phát run! Sáng hôm sau, tôi tới thăm và : "Bà Ronder, nếu có điều gì u uất, bà nên tìm cha xứ hoặc cảnh sát. trong hai người này giải quyết cho bà". Bà ấy đáp: “Xin đừng đề cập tới cảnh sát; còn cha xứ làm gì để thay đổi được quá khứ..." Rồi bà thêm: "Dù sao, tôi cũng người nếu ai đó biết được trước khi tôi chết". Tôi bèn : "Nếu bà muốn nhờ tới cảnh sát công bà hãy nhờ đến cái ông thám tử mà mọi người đều biết tiếng...". Bà đồng ý ngay: "Tôi cần loại người như thế! Tại sao tôi nghĩ tới ông ấy sớm hơn? Bà vui lòng mời ông ấy đến đây. Nếu ông ta chịu nhắc rằng tôi là Eugenia Ronder, vợ của Ronder, người dạy sư tử. Bà hãy như vậy, đồng thời cho ông ấy cái tên Abbas Parva". Bà ấy viết tên đó cho tôi rồi kết luận: "Cái tên này khiến ông ta tới, nếu ông ta đúng là người tôi tưởng tượng". - Tôi tới! - Holmes - Được rồi, bà Merrilow. Tôi phải chuyện với bác sĩ Watson đến trưa mới xong. Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi có mặt tại nhà bà. Bà khách vừa ra khỏi nhà Sherlock Holmes nhào tới đống tài liệu chất dưới đất trong góc phòng. Vài phút sau, phòng khách xào xạc tiếng lật sách. tiếng hứ thoả mãn, báo cho tôi biết rằng Holmes tìm ra điều gì ngồi bệt xuống nền nhà, xếp bằng giữa đống sách báo, đùi tập báo mở rộng. - Hồi đó, tôi cũng ăn ngủ ngon, Watson? hãy nhìn vào lời ghi chép bên lề biết. Tôi chú thích rằng tôi cũng chả kết luận được gì cả. Nhưng tôi chắc chắn là cảnh sát tư pháp lầm. còn nhớ thảm kịch Abbas Parva ? - còn nhớ tí gì cả. - Lúc đó, còn sống chung với tôi. Cảm giác cá nhân tôi lúc đó chắc chắn là rất sơ sài vì người ta tìm ra được bằng chứng cụ thể nào. Ngoài ra, bên nào thuê mướn tôi cả. đọc mấy tờ báo này. - Đề nghị tóm lược trước. - Dễ thôi! Từ từ nhớ ra hết. Ronder là trong những giám đốc của các đoàn xiếc thú nổi tiếng vào thời đó. Nhưng về sau Ronder đâm ra rượu chè nên toàn đoàn và cả bản thân ông ta xuống dốc, chính vào lúc đó thảm kịch xảy ra. Đoàn ngừng lại đêm tại Abbas Parva, làn của vùng Berkshire, đường đến Wimbledon. Đoàn chỉ đóng trại, trình diễn, vì dân số Abbas Parva quá ít, đủ bù đắp chi phí buổi diễn. Trong những con thú, có con sư tử Bắc Phi rất đẹp, tên là Vua Sahara. Ronder và vợ thường trổ tài trong chuồng nhốt nó. Đây là hình chụp trong buổi trình diễn. thấy rằng Ronder to như heo nọc trong lúc bà vợ lại tuyệt đẹp. Cuộc điều tra cho biết rằng Vua Sahara có những biểu đáng ngại từ lâu. Tuy nhiên vì thói quen của nghề nghiệp nên vợ chồng Ronder coi thường các triệu chứng đó. Mỗi đêm, hoặc Ronder, hoặc vợ ta đem thức ăn đến cho sư tử. Có khi hai người cùng , có khi chỉ người. bao giờ họ để cho ai khác thay. Do đó, họ tin rằng con sư tử bao giờ hung ác với những người vú nuôi nó. Đêm đó, cách đây 7 năm, cả hai cùng vào chuồng. tai nạn khủng khiếp xảy ra và các chi tiết của tai nạn này chưa bao giờ được soi sáng. Hình như toàn đoàn đều bị đánh thức vào giữa đêm bởi tiếng gào rống của con thú và tiếng la khủng khiếp của bà Ronder, mọi người hối hả cầm đèn chạy ra khỏi lều. cảnh tượng hãi hùng xuất trước mặt họ: Ronder nằm sóng soài, sọ bị bể, da đầu bị tét, ở cách chuồng sư tử độ 10 yard và cửa chuồng mở toang. Gần cửa, bà Ronder nằm dưới chân con thú há miệng gào rống. Nó quào nát mặt bà đến nỗi ít ai tin là bà thoát chết. Nhiều nghệ sĩ của đoàn dưới hướng dẫn của Leonardo, lực sĩ, và hề Griggs dùng gậy lùa con sư tử vào chuồng. Người ta đoán rằng vợ chồng Ronder dự định vào chuồng, nhưng cửa mới mở, con thú nhảy ra vồ họ. Cuộc điều tra phát thêm điều gì, chỉ biết rằng bà vợ liên tục la lớn trong cơn mê sảng: "Đồ hèn! Đồ hèn", lúc được khiêng ra xe. Phải sáu tháng sau, bà mới lấy lại sức khoẻ để làm chứng. Nhưng cuộc điều tra bị xếp bỏ do phán quyết của toà cho rằng Ronder chết vì tai nạn. - Có giả thiết thứ hai à? - Tôi hỏi lớn. - Sao lại ? chàng Edmunds, thuộc sở cảnh sát Berkshire có để ý đến vài chi tiết . Chú bé này khá lắm! Sau đó chú lại thuyên chuyển qua Allahabad. Đấy là lý do tại sao lúc đó tôi để ý tới vụ án: Chú bé đến đây, hút thuốc và thảo luận. - Người gầy, tóc vàng. - Thấy chưa, từ từ nhớ lại mà! - Chú ấv để ý cái gì? -Tôi và chú ấy đều thắc mắc. Diễn lại việc thấy ổn. hãy đứng ở quan điểm con sư tử. Khi được thả ra, nó làm gì đây? Nó lao tới, nhảy , hai cái là tới sát Ronder, Ronder quay lưng chạy thoát thân, nhưng con sư tử quật vào ót ông ấy làm ông ngã lăn. Nhưng thay vì tiếp tục thả rong chơi, sư tử lại quay trở lại tìm bà Ronder đứng gần cửa chuồng, cào nát mặt bà ta. Lại còn tiếng thét của bà ấy hình như trách ông chồng. Thử hỏi con người xấu số này làm được gì để cứu bà. Vậy, bà trách ai? - Lý luận đúng lắm. - Còn chi tiết khác luôn ám ảnh tôi, khi tôi nhớ lại vụ án này. Dù ít đù nhiều chúng ta cũng biết rằng trong lúc con sư tử gào rống và bà Ronder la hét còn có tiếng đàn ông la thất thanh. - Có lẽ là Ronder? - Làm sao được, cái sọ vỡ rồi, ông này đủ sức để la to như thế. Ít nhất có đến hai nhân chứng xác nhận rằng có tiếng la khác của người đàn ông, ngoài ông Ronder. - Tôi đoán rằng toàn trại đều la hét... Đối với phần còn lại, có lẽ tôi có thể giải thích được. - ư? - Hai vợ chồng người dạy thú đứng cách chuồng 10 yard lúc con sư tử ra. Người chồng muốn chạy trốn bị quật nhào. Người vợ nảy ra sáng kiến chạy ngược vào chuồng, đó là cách duy nhất để náu. Ngay khi bà ấy đến cửa chuồng con thú vồ và quật ngã bà. Bà bực chồng vì ông này chạy trốn làm con thú bực dọc. Nếu cả hai đều trực diện với con thú có lẽ họ có thể dương oai được Đó là lý do tại sao bà ấy la "đồ hèn"! - Tuyệt hay, Watson! Nhưng miếng pha lê còn dính cọng rơm. - Cọng rơm nào? - Nếu cả hai người đều đứng cách chuồng đến 10 yard làm sao con sư tử ra được? - Có thể họ bị kẻ thù mở cửa cho con thú ra. - Và tại sao con thú tấn công họ rất dã man trong lúc nó quá quen với họ, thường đùa giỡn với họ trong chuồng? - Có thể có kẻ thù chọc giận nó trước rồi? Holmes suy tư lúc. - Giả thiết của có cơ sở, Watson! Edmunds tiết lộ với tôi là khi uống rượu, Ronder quậy dữ lắm, cầm roi rượt tất cả những ai dám cưỡng lại. Có thể xem các tiếng la "Đồ quái vật" mà bà Ronder thường la trong đêm khuya là những hồi tưởng liên quan đến những trò thô bạo của người chồng quá cố. Thôi, đoán già đoán non có ích gì, khi chúng ta chưa có đủ dữ kiện trong tay. Giờ ăn trước . Xe ngựa bỏ chúng tôi xuống trước nhà bà Merrilow. Bà ta đứng choán cửa chân chúng tôi lại, năn nỉ đừng hoặc làm điều gì để bà phải mất người khách trọ sộp. Trấn an bà xong, chúng tôi theo bà, leo lên cầu thang có trải đệm xơ xác. Cửa phòng hôi mùi mốc vì thoáng. Sau gần đời nhốt thú dữ trong chuồng, ngày nay người khách trọ như bị định mạng trả miếng lúc xế chiều. Bà Ronder ngồi ghế bành lung lay, trong góc tối tăm. Mấy năm bỏ nghề làm dáng bà sồ sề ra. Tuy nhiên, với thân hình tròn trịa hấp dẫn tại, cho thấy xưa kia bà là phụ nữ đẹp cân đối. Chiếc khăn voan dày cộm che kín mặt mày, cắt ngang làn môi, để lộ cái miệng tuyệt hảo và cái cằm trái xoan thanh tú. Giọng thanh tao cũng là yếu tố làm xao xuyến lòng người. - Tên của tôi đâu có xa lạ gì với ông, phải ông Holmes? - Bà ấy - Tôi đoán rằng thế nào ông cũng đến. - Vâng, thưa bà. Nhưng tôi hiểu tại sao bà biết tôi lưu ý đến chuyện của bà. - Tôi biết điều đó khi tôi bình phục lại và được ông Edmunds thẩm vấn. Tôi đâu có . Có lẽ tôi nên ngay từ lúc đó. - Tại sao bà lại dối với ông ấy? - Tại vì mạng sống của người nào đó tuỳ thuộc vào lời khai của tôi. Tuy đó là người xứng đáng, nhưng tôi muốn lương tâm tôi bị giày vò. - Bây giờ bà hết áy náy rồi chứ? - Hết rồi, vì người đó chết. - Vậy, tại sao bây giờ bà tới cảnh sát khai hết những gì bà biết? - Tại vì còn người nữa có liên quan. Đó là tôi. Tôi thể chịu đựng được cái tai tiếng rùm beng. Tôi còn sống bao lâu nữa, nhưng tôi muốn chết cách thanh thản. Tôi muốn tìm người có trí phán đoán đúng đắn lắng nghe tôi kể lại câu chuyện gớm ghiếc để khi tôi chết rồi, mọi chuyện đều được hiểu ràng. - Bà quá khen tôi, thưa bà? Nhưng tôi là người có trách nhiệm. Có thể sau khi nghe bà xưng tội, tôi lại thấy có bổn phận phải khai báo với cảnh sát. - Tôi nghĩ như thế, ông Holmes. Tôi hiểu tính khí và phương pháp làm việc của ông. Tôi theo dõi việc làm của ông từ mấy năm nay. Trong những ngày cuối cùng, cái thú độc nhất còn lại của tôi là đọc sách báo. Tôi có thể bị rắc rối, nhưng mặc kệ. Sau khi kể hết với ông, tâm trí tôi thanh thản. - Bạn tôi và tôi rất hân hạnh nghe bà . Bà ta đứng lên, tới hộc tủ lấy ra tấm ảnh. Đó là ảnh của lực sĩ, diễn viên nhào lộn rất đẹp trai. Ông ta khoanh tay bộ ngực nở nang, cười dưới bộ râu ngạnh trê rậm rạp. Nụ cười của " tay bẻ biết mấy cành thiên hương". - Leonardo đấy, - Bà ta . - Leonardo, người khổng lồ của gánh xiếc làm nhân chứng? - Đúng rồi. Còn đây, là ảnh chồng tôi. bộ mặt gớm ghiếc: con heo phị, hay đúng hơn con gấu mang mặt người. Ta thấy ràng cái miệng sôi sục thô bạo. Còn đôi mắt ti hí hiếm có. loại đâm thuê chém mướn. - Hai ảnh này giúp các ông hiểu đời tôi. Tôi là nghệ sĩ nghèo của gánh xiếc, khôn lớn lên bằng cơm gạo của đoàn. Tôi nhảy vòng lúc chưa tới 10 tuổi. Với cái dục vọng của con người đàn ông đó, vào ngày khốn nạn nọ, tôi trở thành đàn bà và tôi kết hôn với ông ấy. Kể từ đó tôi sống đời địa ngục. Ông ta là con quỷ có trọng trách hành hạ tôi. Mọi người trong đoàn đều hay biết. Ông ấy bỏ bê tôi, chạy theo những người đàn bà khác. Tôi mà than ông ấy trói lại, quất roi da. Mọi người đều thương hại tôi và nguyền rủa ông ta. Nhưng họ làm gì được? Họ sợ ông ấy như quỷ dữ. Lúc nào cũng hung tợn, còn khi say ông ta có thể giết người. Biết bao lần rắc rối với công lý vì đánh người hay bạc đãi thú. Nhưng vì ông giàu sụ nên tiền bạc đỡ qua cả. Các diễn viên thượng thặng bắt đầu xa lánh ông và đoàn xuống dốc, sống lay lắt qua ngày nhờ Leonardo, tôi, cùng chú bé hề Jimmy Griggs. Đâu còn gì thích thú để đùa cợt, nhưng thằng bé cũng cố gắng giữ trọn vai trò. Leonardo vào đời tôi ngày càng sâu. ấy đẹp trai như ông thấy. So với chồng tôi, ấy là thiên thần. ấy thương hại tôi, giúp đỡ tôi. Cuối cùng thâm tình biến thành tình , càng ngày càng sâu đậm và đam mê. Cái tình mà tôi luôn mơ tưởng nhưng bao giờ hy vọng thụ hưởng. Chồng tôi nghi ngờ, nhưng đê hèn, ông ấy sợ Leonardo. Ông ấy trả thù bằng cách hành hạ tôi nhiều hơn. đêm nọ, do tôi la hét dữ dội nên Leonardo chạy tới xe vợ chồng tôi và suýt có thảm kịch xảy ra. Sau đó, tình nhân tôi và tôi thấy rằng điều đó thể tránh khỏi. Chồng tôi đáng được sống. Leonardo tổ chức khéo lắm. Tôi để trút bớt tội mình vì chúng tôi cùng quyết tâm làm mọi chuyện để cùng nhau lập lại cuộc đời. ta làm cái chuỳ có gắn năm đinh sắt dài ở đầu, giống hệt các vuốt sư tử nhằm giáng đòn chí tử xuống Ronder mà cuộc khám nghiệm lầm lạc. Trời tối như mực khi vợ chồng tôi theo đúng lệ đem thức ăn cho sư tử. Leonardo núp sau chiếc xe kéo mà vợ chồng tôi phải qua trước khi đến chuồng. ấy quá chậm nên khi chúng tôi đến gần chuồng, ấy mới sẵn sàng và rón rén lần mò theo. Tôi nghe tiếng chuỳ vung lên và chồng tôi ngã xuống. Tôi mừng cách hoang dại và chạy tới mở khoá chuồng. Và lúc này mới xảy ra chuyện kinh tởm cho tôi. Có lẽ hai ông cũng hiểu rằng thú dữ đánh hơi mùi máu rất nhanh và mùi máu đánh thức bản năng hung bạo của chúng. Ngay khi tôi vừa rút các song sắt, con sư tử nhào ra vồ lấy tôi. Leonardo có thể cứu tôi nếu ấy chạy tới lấy chuỳ đập. Nhưng ta mất bình tĩnh. Tôi nghe ta la rồi quay lưng chạy thoát thân... đúng ngay lúc nanh con thú cắm sâu vào mặt tôi. Hơi thở nồng nặc và hôi thối của con thú làm tôi gần chết ngáp nên tôi chỉ cảm thấy cái đau . Tôi lấy tay gỡ hai cái hàm đồ sộ máu me của con thú vừa kêu cầu cứu. Tôi ý thức được toàn đoàn đều rung động và tôi nhớ nhóm người gồm Leonardo, Griggs và nhiều nữa kéo tôi ra khỏi vuốt con thú. Khi tôi bình phục, tôi soi kiếng và lúc đó tôi nguyền rủa con sư tử ... Tôi nguyền rủa nó tiếc lời vì... nó giết tôi luôn. Rồi tôi chỉ còn nguyện vọng: che kín bộ mặt ghê tởm này và sống kín nơi thân bằng quyến thuộc nào phát được. Chúng tôi im lặng hồi lâu. Rồi Holmes đưa bàn tay dài của ta ra vuốt bàn tay của Eugenia với mối thông cảm. - Bà là người đáng thương? - Holmes - Định mệnh quả khắt khe, khó dò. Còn Leonardo sau này ra sao? - Tôi gặp lại ấy và được tin tức gì về ấy. Có lẽ tôi sai lầm khi buông tha ấy chăng Nhưng tình của người đàn bà dễ dàng tan biến. Tuy ấy bỏ cho tôi bị sư tử quào, tuy ấy bỏ chạy thoát thân, nhưng tôi nhẫn tâm đưa ấy đoạn đầu đài. Về phần tôi, tôi lo nghĩ những gì xảy ra cho tôi. Còn gì hãi hùng hơn cuộc đời tại của tôi. - Ông ấy chết? - ấy chết đuối tháng trước. Tôi biết tin này qua báo chí. - Sau vụ án mạng, ông ấy làm gì với cái chuỳ 5 đinh? - Thưa ông Holmes, tôi chẳng biết gì cả. Nhưng gần chỗ chúng tôi đóng trại có cái hầm khai thác đá vôi, nước đọng thành ao sâu. Có lẽ nó chìm xuống đáy ao này. - Ồ, giờ đây nó đâu còn gì quan trọng nữa. Nội vụ xếp lại rồi. - Đúng thế! - người đàn bà lặp lại. - Nội vụ xếp lại rồi! Chúng tôi đứng lên để ra về. Đột ngột, Holmes quay về hướng người đàn bà đau khổ. - Cuộc đời của bà thuộc quyền của bà đâu - Holmes - Bà phải bảo trọng nó! - Nó còn ích lợi cho ai? - Tại sao bà xàm thế! bệnh nhân cam chịu số phận là cái gương quý giá nhất trong cuộc đời thiếu nhẫn nại này. Cách đối đáp của bà Ronder hãi hùng. Bà tháo khăn voan, bước ra ánh sáng: - Tôi tự hỏi biết ông có chịu đựng được nó ? là kinh tởm. có từ ngữ nào để mô tả cái khuôn mặt khi nó hoàn toàn tan nát. Hai con mắt long lanh cực đẹp giữa cảnh hoang tàn rợn người. Holmes đưa hai tay lên trong cử chỉ thương hại và phản đối thái độ trắng trợn đến tàn nhẫn của người đàn bà. Hai ngày sau, khi tôi đến nhà, Holmes hãnh diện chỉ cho tôi lọ dung dịch màu xanh lơ để lò sưởi. Tôi cầm lên xe. Lọ có dán nhãn "thuốc độc". mùi hạnh nhân dễ chịu toát ra khi tôi mở nút. - Acid pruxic? - Đúng rồi - Holmes đáp - Nó được gửi tới bằng đường bưu điện. “Tôi gửi tới ông cái cám dỗ tôi. Tôi nghe theo lời ông chỉ dạy”. Đó là bức thư gửi kèm Watson à, tôi tin rằng chúng ta có thể ra tên của người đàn bà can đảm gửi bưu kiện này.
11. Bí lâu đài Shoscombe Holmes nhìn đồng hồ có vẻ sốt ruột: - thân chủ mới đến? Ông ta trễ hẹn rồi. Này, Watson, có rành về đua ngựa ? - Có biết qua! - Vậy làm trợ lý cho tôi về ngành này. có biết ngài Robert Norberton ? - Có ông ta cư ngụ tại lâu đài cổ Shoscombe. Tôi khá rành nơi đó vì có lên chơi ngựa vào mùa hè. Suýt chút nữa ngài Norberton làm bận tâm. - Sao? - hôm nọ, ông ta dùng roi da nện tới tấp vào gã cho vay ăn lời cắt cổ. Suýt chút nữa có án mạng rồi. - Hay quá! Ông ấy thường lên cơn điên lắm sao? - Dù sao ông ấy cũng có tai tiếng là người nguy hiểm. Tay cưỡi ngựa liều lĩnh nhất nước mà! Cách đây mấy năm, ông ta về nhì trong giải toàn quốc! Theo lời đồn đại nay ông ta sa sút lắm. - phác họa tuyệt hảo. Tôi hình dung ra ông ta rồi. Giờ đây xin cho tôi biết lâu đài Shoscombe. - Có gì lạ đâu! Nó nằm trong công viên Shoscombe, ở đó có cái chuồng ngựa nổi tiếng và là khu trung tâm huấn luyện ngựa thôi. - Huấn luyện viên trưởng - Holmes tiếp - Tên là John Mason. phải tôi có thần thông gì đâu mà nhìn tôi lạ lùng thế, Watson? Lá thư của đây này. cho tôi biết thêm chi tiết về Shoscombe? - Ở đó có giống chó spaniel - Tôi tiếp - Loại chó thuần chủng quốc mà kỳ triển lãm chó nào cũng có mặt nó. Ðó là niềm kiêu hãnh của bà chủ lâu đài Shoscombe. - Bà ấy là vợ của ngài Robert Norberton? - Ông này có kết hôn bao giờ đâu. Ông ta sống tại nhà chị ruột. quả phụ, mệnh phụ Beatrice Falder. - Ai ở nhà ai? - Chủ bất động sản ấy là chồng bà ta, ngài James Falder. Còn Norberton này có dính dấp gì đến gia tài cả. Người chị chỉ được quyền hưởng huê lợi. Về sau lãnh địa về tay em trai của chồng bà. - Em trai của bà ta, ngài Robert này, xài tay. - Gần như thế. Tay đó sinh ra là để phá bà ta. Nhưng hình như bà ấy thương em lắm. Chuyện gì xảy ra trong lâu đài thế? - Ðó thính là điều tôi cần biết. Nhưng, người biết điều đó sắp vào kìa! Cửa mở và chú tiểu đồng đưa vào người cao ráo, râu cạo nhẵn, vẻ mặt cương nghị, khắc khổ. Ðó là ông John Mason. Ông ta lạnh lùng nghiêng mình cúi chào trước khi ngồi vào ghế do Holmes mời. - Ông có nhận được thư của tôi, ông Holmes? - Có, nhưng thư đâu có giải thích gì? - Chuyện quá tế nhị, lại rắc rối nữa. Chỉ có thể trình bày bằng miệng thôi. - Vậy chúng tôi sẵn sàng lắng nghe. - Ðiểm thứ nhất, thưa ông Holmes: có lẽ ông chủ tôi, ngài Robert điên rồi. - Vì sao vậy? - Thưa ông, người làm việc dị kỳ đôi lần còn khoan dung được, nhưng nếu họ luôn luôn làm chuyện quái dị ai cũng phải thắc mắc thôi. Tôi nghĩ rằng con “Hoàng tử” của Shoscombe và trường đua làm cho ông ta điên rồi. - Ông huấn luyện con ngựa con chứ? - Tôi huấn luyện con ngựa số tại quốc. Ngài Robert muốn thắng cuộc đua này. Ông ta đổ hết tiền vào nó. Ðó là cơ may cuối cùng của ông ta. - Có sao đâu? - Quần chúng đâu có biết là con ngựa đó tốt. Ngài Robert quỷ quyệt hơn bọn gián điệp. Ông chỉ phô trương con ngựa cùng mẹ khác cha của con “Hoàng tử”. ra con “Hoàng tử” chạy mau hơn! Ông ta đem đặt cả lâu đài Shoscombe vào đó. giờ ông ta lọt vào nanh vuốt bọn cho vay Do Thái, cho nên nếu con “Hoàng tử” thất bại tàn đời ông ấy. - Trò chơi ngu dại, nhưng có gì là điên đâu? - À, đêm ông ta ngủ, chỉ thăm chuồng ngựa. Ðôi mắt trở nên hung tợn, dễ nổi giận vì những chuyện lặt vặt và nhất là cách đối xử với mệnh phụ Beatrice. - Ủa, đối xử thế nào? - Hai chị em là đôi bạn thân nhất. Họ có cùng sở thích. Bà ấy cũng thích ngựa. Ngày nào cũng vậy, bà ấy xe ra thăm ngựa và bà đặc biệt thích con “Hoàng tử”. Con ngựa vểnh tai khi nghe bánh xe ngựa sột soạt đường sỏi và chạy ra xe để được thưởng miếng đường. Nhưng, giờ đây, tất cả những chuyện này còn nữa. - Tại sao vậy? - Bà ấy lơ là hẳn đối với con ngựa. Trọn tuần nay, khi chạy ngang qua chuồng ngựa, bà ấy chả thèm ghé lại. - Chị em họ cãi lộn với nhau à? - Nếu cãi lộn chắc chắn phải dữ dội lắm. Nếu tại sao ông ta tống khứ con chó spaniel ra khỏi nhà. Cách đây mấy ngày, ông ta dẫn chó đến cho lão Barnes, chủ quán ăn “Rồng Xanh” cách Shoscombe 3 dặm, tận Crendall. - Ðó quả là chuyện quái dị! - Vì bị đau tim và đau bao tử, nên bà ấy thể tiếp tục dạo với ông ta mỗi đêm. Tuy vậy, mỗi đêm ngài vẫn đến đó chuyện vãn đến hai tiếng đồng hồ. Nhưng những chuyện đẹp đẽ ấy nay còn nữa. Bà ấy buồn, nhăn nhó và đâm ra nghiện ngập. Bà ấy uống rượu, ông Holmes à. Uống như hũ chìm. - Trước kia có uống à! - Thỉnh thoảng, cũng có uống. Nhưng bây giờ mỗi đêm phải cả chai. Stephens, gia nhân, cũng xác nhận như vậy. Tất cả đều thay đổi. Chắc chắn có điều gì trầm trọng vô cùng. À, còn chuyện này mới lạ chứ! Mỗi đêm ngài Robert đều xuống hầm nhà mồ ở sau vườn. Ông ta xuống đó để gặp ai vậy? Holmes xoa tay. - Ông cứ tiếp, thưa ông Mason! Mỗi lúc ông làm chúng tôi say mê hơn. - Ông Stephens thấy ông ta xuống đó, ngay lúc nửa đêm, giữa cơn mưa tầm tã. Qua đêm sau, tôi thức chờ, ông chủ lại xuống. Chúng tôi rón rén theo sau. Ông ta tới cái nhà mồ có ma về đó, và lạ thay, người đàn ông đợi ông ấy tại đó! - Con ma về đó à? - Ðúng vậy, thưa ông. nhà mồ cổ lỗ bỏ hoang ngoài vườn hoa, ai biết xây dựng vào năm nào. Bên dưới có cái hầm có nhiều tiếng đồn trong vùng. Ban ngày tối im, ẩm thấp. Ðêm đến, đương nhiên thuê bạc triệu cũng ai dám xuống. Riêng người chủ khác. Suốt cả đời, ông sợ gì cả. Nhưng vào nửa đêm, có cái gì ở dưới đó? - Này ông dưới đó có người thứ hai. Chắc chắn đó là thằng giữ ngựa hay gia nhân. Sao ông nhận dạng hay gạn hỏi. - Tôi quen với người đó! - Làm sao ông biết được? - Tôi thấy y vào đêm thứ hai. Ðêm đó trời sáng trăng, ngài Robert ngang qua bụi cây nơi tôi và Stephens núp, khiến chúng tôi run như cầy sấy. Người thứ hai theo sau ông. Khi ông chủ xa, chúng tôi chui ra, làm ra vẻ dạo chơi dưới trăng, tình cờ gặp y. Tôi kêu y: “Nè! Ai đó?”. Y quay ra sau, mặt tái mét, nhìn chúng tôi rồi thét lên và ù té chạy. Tôi quen y. Y đến đó làm gì, chúng tôi cũng biết. - Ông thấy vì trời có trăng? - Ðúng vậy. Mặt y vàng như nghệ. ta như có cái gì đó rất hợp với ông chủ. Holmes lặng thinh suy tư. - Ai hầu hạ phu nhân Beatrice Falder? - Holmes hỏi. - Nữ bồi phòng của bà là Carrie Evans, thâm niên khoảng 5 năm rồi. - ấy tận tình với bà chủ chứ? Ông John Mason có vẻ lúng túng, hơi ngượng ngập. - ấy khá tận tình! Nhưng tôi là tận tình với ai. - Ông muốn gì vậy? - Tôi muốn ngồi lê đôi mách. - Vậy là tôi hiểu hết rồi. Theo bức chân dung mà bác sĩ Watson mô tả về ngài Robert người đàn bà nào được an toàn nếu ở gần ông ta. Ông có cho rằng bất hòa giữa hai chị em họ bắt nguồn từ điểm này . - Mọi người đều sầm xì về điều này! - Có thể là hay biết. Nhưng đột nhiên bà ấy bắt gặp và tìm cách đuổi bé. Em trai bà chịu. Vì là người tàn tật, bà ấy có phương cách nào để thực nên hầu phòng bị ghét bỏ vẫn tiếp tục phục vụ. Mệnh phụ tịnh khẩu, làm nư, uống rượu. Vì bà ấy nhăn nhó, ngài Robert bắt lại con chó. Ráp vậy có lớp lang chưa? - Cũng có thể, nhưng chỉ đến đó thôi! - Làm sao giải thích được việc ở nhà mồ? - , thưa ông. Lại còn thêm chuyện lạ nữa là tại sao ngài Robert lại đào xác chết? Holmes giật mình. - Chúng tôi mới biết hôm qua, sau khi gửi thư cho ông. Hôm qua, ông chủ London, tôi và Stephens chui xuống hầm mộ. Tất cả đều bình thường, ngoại trừ trong góc hầm có vết tích của xác người. - Ông báo cho cảnh sát rồi chứ? Thân chủ của chúng tôi cười: - Thôi ông ơi, tôi nghĩ là cảnh sát thụ lý điều chúng tôi phát đâu! Ðó là cái sọ và vài cái xương của xác ướp có thể xưa ngàn năm. Có điều lạ là các tàn tích này trước đây hề có tại đó. Chúng tôi khẳng định như thế. Chúng được xếp vào góc, giấu dưới tấm ván. - Các ông làm gì nữa? - Ðể chúng y tại chỗ. - Tuyệt hay! Ông là ngài Robert vắng hôm qua. Hôm nay về chưa? - Chúng tôi đoán ông ta về hôm nay. - Ông ta tống khứ con chó lúc nào vậy? - Ðúng tuần. Con chó sủa và tru rợn người khi tới gần nhà mồ xưa cổ ấy. Sáng hôm ấy, ông chủ gần như phát điên. Ông thộp cổ nó, tưởng đâu đập đầu nó. Nhưng ông bảo nài đem tặng nó cho lão chủ quán Rồng Xanh. - Tôi hiểu ông muốn chúng tôi giúp gì trong vụ này, ông Mason. Ông nên hơn. - Việc này có thể làm cho nội vụ hơn chăng. Thân chủ của chúng tôi . Và ông ta rút trong túi ra gói nhật trình, cẩn thận giở ra và đưa cho Holmes khúc xương cháy thành than. Bạn tôi chăm chú khám nghiệm. - Ông nhặt nó ở đâu vậy? - Dưới hầm lửa, bên dưới phòng của phu nhân Beatrice, nơi đặt nồi nước của hệ thống sưởi ấm. Ðã từ lâu dùng nữa, nhưng gần đây ngài Robert than thở rằng trời lạnh, nên phải đun lại. Chính Harvey, thuộc viên của tôi, phụ trách việc này. Sáng nay, y mang cái xương này tới tôi. Y bắt gặp khi cào tro bếp. Y rối trí về vụ này. - Tôi cũng vậy - Holmes . - Ý kiến của ra sao, Watson! Nó cháy thành than nhưng còn hình thù xương người. - Khúc của xương ống chân? - Tôi khẳng định. - Ðúng thế! - Holmes la lên rồi im lặng nghiêm nghị: - Chú bé phụ trách bếp nước này làm việc giờ nào? - Chỉ mỗi tối đến đổ nước vào! - Thế , ban đêm bất cứ ai cũng có thể đến đó? - Vâng ạ! - Từ ngoài vào đó được chứ! - Có cửa để ra ngoài. cửa khác để lên cầu thang theo hành lang đến phòng phu nhân Beatrice. - Chúng ta ở vùng nước sâu thẳm, ông Mason. sâu thăm thẳm! Ông rằng đêm qua ngài Norberton vắng nhà? - Vâng, thưa ông. - Như vậy chắc chắn ông ta đốt xương? - Ðúng vậy, thưa ông. - Cái quán ông tên là gì nhỉ? - Rồng Xanh! - Ở vùng Berkeshire đó, câu cá được nhiều ? Khuôn mặt của người huấn luyện viên hiền hậu lại lộ vẻ kinh ngạc, hơi ngớ ngẩn, nhưng ông ta cũng trả lời. - Tôi nghe có cá hương dưới sông, khúc gần cối xay gió và có cá chép trong hồ của lâu đài. - Chúng tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Chúng ta đâu phải thợ câu nhà nghề, phải Watson? Ông có thể đến gặp chúng tôi tại quán Rồng Xanh. Tối nay, chúng tôi đến đó. Chúng tôi đòi hỏi ông phải ra đó. Nhưng ông có cần nhắn tin hoặc chúng tôi cần gặp ông phải biết tìm ông ở đâu. Sau khi đào sâu thêm chút, chúng tôi đưa ra ý kiến có cơ sở. Chúng tôi xe điện hạng nhất xuống Shoscombe vào đêm trăng. Cái kệ đầu toa nhét đủ thứ đồ câu. Xuống xe, xe ngựa nhanh chóng đưa chúng tôi đến quán trọ kiểu xưa. Barnes, người chủ quán khoái thể thao huyên thiên về câu cá trong vùng, xem chúng tôi là người điệu nghệ? - Ông nghĩ gì về cá chép trong hồ lâu đài? - Holmes hỏi. Mặt ông chủ quán tươi bỗng sa sầm. - Ðề nghị ông đừng nghĩ tới hướng đó. Ông có thể bị trấn nước trước khi được con cá. - Gì mà dữ dằn vậy? - Ngài Robert rất ghét bọn gián điệp. Nếu hai ông đều phải là dân địa phương mà đến gần chuồng ngựa, đích thân ông nghênh đón. Ông ấy chẳng ngại làm chuyện liều đâu. Ðừng chọc ông ấy! - Người ta đồn rằng ông ta có con ngựa đăng ký vào cuộc tranh giải kỳ này? - Ðúng thế, con ngựa tuyệt hảo. Chúng tôi đều nhắm vào nó, dốc hết túi như ngài Robert. Xin phép được... - Ông ấy nhìn chúng tôi, dáng nghi ngại. - Hai ông cũng là dân đua ngựa? - đâu. Chúng tôi là người London mệt nhọc đổi gió tại Berkeshire này thôi. - Như vậy là hai ông lựa chọn đúng. Nhưng phải nhớ lời khuyến cáo của tôi về ngài Robert. Ông ta thuộc loại người làm trước, giải thích sau. - Ðương nhiên, thưa ông chủ. Này con chó đẹp nằm rầu rĩ ngoài cửa là của ai vậy? - Ông nhận xét là đúng. Thuần chủng Shoscombe đó. Ðộc nhất vô nhị trong toàn nước này. - Tôi giống ông. Tôi rất thích chó. - Holmes - Xin tha thứ cho tò mò của tôi! con chó giống như vậy giá bao nhiêu? - Vô giá, vượt hẳn khả năng của tôi. Chính ngài Robert biếu tôi đó. Vì vậy, tôi phải cột nó kỹ, nếu chỉ trong nhấp nháy nó quay về lâu đài ngay. Sau khi ông chủ quán rời chúng tôi, Holmes với tôi: - Trong tay chúng ta chỉ có vài lá bài, Watson à. Ván bài này phải dễ chơi đâu. Nhưng trong hai ngày, chúng ta có thể tìm ra đầu mối. Tôi tin rằng ngài Robert vẫn còn ở London. Tôi đề nghị tối nay chúng ta chui vào vùng cấm địa. Có vài chi tiết tôi muốn rà soát lại. - có giả thiết rồi à? - Sơ sơ như vầy, Watson à. chuyện xảy ra cách đây khoảng 8 ngày, làm xáo trộn sinh hoạt tại lâu đài Shoscombe. Chuyện gì à? Này, hãy xét lại người em chấm dứt việc thăm viếng người chị tật nguyền. Ông ấy tống khứ con chó mà bà chị cưng. Con chó thuộc quyền sở hữu của bà ấy, Watson! có thấy gì lạ ? - Thù vặt thôi? - Có thể. Hoặc là... ờ... tôi lại thấy... Ta hãy nghiên cứu lại tình hình. Từ lúc cãi lộn cứ tạm cho là có , phu nhân đổi thói quen, ở mãi trong phòng, có ra ghé thăm chuồng ngựa nữa, ràng nhất là đâm ra uống rượu. Nào, khớp nhau trăm phần trăm chưa. - Còn chuyện ở nhà mồ. - Chuyện đó lại phải theo lý luận khác. Có tới hai con đường đừng lẫn lộn nhé. đường liên quan đến mệnh phụ lơ mơ cách ảm đạm, thấy sao? - Tôi chịu bí thôi. - Bây giờ, qua con đường kia, liên quan đến ngài Robert nhiều hơn ông ta mê mệt về cuộc đua ngựa sắp tới, và lọt vào nanh vuốt của bọn Do Thái cho vay nặng lãi. Nơm nớp lo sợ trắng tay với cái lãnh địa phát mãi, ngựa tịch biên. Lại thuộc dòng máu liều, rút rỉa người chị với bồi phòng là công cụ ngoan ngoãn. Ðó, nãy giờ, chúng ta lần mò con đường chắc nịch chứ gì? - Vẫn chưa chuyện ở nhà mồ? - À còn cái nhà mồ dưới đất. Giả thiết rằng... đó là giả thiết động trời rằng... Ngài Robert thanh toán chị ruột mình? - Chuyện gì động trời vậy? - Ðành rằng, ngài thuộc thế gia vọng tộc. Nhưng trong đàn cừu, biết đâu lại chẳng có con chiên ghẻ. Ta cứ tạm chấp nhận giả thiết này . Ông ta chỉ có thể gây lại tài sản nếu thắng cuộc đua sắp tới. Muốn thế phải bỏ tiền để xoay xở. Gọn nhất là thanh toán cái xác của bà chị trám vào đó bằng người khác. Việc này thỏa hiệp với người bồi phòng nữ đâu phải là chuyện khó. Xác bà chị được đưa xuống nhà mồ, nơi ít ai lui tới. Ðêm đến, lén lút thiêu ở bếp nấu nướng sưởi. Ðó là nhưng điều mà chúng ta suy diễn được? có ý kiến gì, Watson? - khi mà chọn giả thiết kinh khiếp như vậy chuyện gì lại được? - Tôi định làm thí nghiệm vào ngày mai, Watson à. Trong tạm thời, ta chỉ thu gọn vào mấy nhân vật đó thôi nơi này, ta nhậu với chủ quán, về cá này cá nọ là trúng đài của ông ta liền. Biết đâu nhờ tán gẫu mà ta biết thêm chuyện hữu ích. Sáng hôm sau, Holmes phát chúng tôi quên mang theo lưỡi câu , nên ngày đó nghỉ câu. Khoảng hai giờ, chúng tôi dạo vòng và xin được chủ quán cho dẫn theo con chó tinh khôn. - Ðây là vùng tử địa - Holmes . Khi chúng tôi tới trước cái cổng hai lớp song sắt có gắn huy hiệu của dòng họ quý tộc. - Ông Barnes có cho biết, khoảng 12 giờ, phu nhân dùng ngựa dạo, và khi tới cổng, xe phải chạy chậm để chờ mở cổng. Watson, khi xe đến và lúc nó chạy chậm, hãy kiếm chuyện gì với xà ích. Phần tôi, ở đằng sau bụi cây và quan sát. Chúng tôi khỏi phải chờ lâu. chút sau, chiếc xe ngựa đồ sộ, màu vàng, mui từ lâu đài chạy xuống. Hai con ngựa xám đẹp lộng lẫy, nhịp bước. Holmes ngồi trong bụi với con chó. Tôi phất phơ lộ. Người gác cổng chạy ra. Xe chạy chậm lại, ngựa từng bước. Nhờ đó tôi có thể quan sát kỹ người xe. thiếu phụ trẻ, thân hình đều đặn, tóc vàng, ngồi bên trái. Bên phải là bà lão, khăn choàng che khuất mặt và tai. Chắc chắn là bà lão tật nguyền. Khi xe ra đường cái tôi ra hiệu lệnh. Xà ích ngừng xe lại. Tôi hỏi thăm ngài Robert. Cùng lúc đó, Holmes rời nơi nấp, thả con chó trung thành ra. Con vật vui mừng, sủa vang, leo lên xe. Trong nháy mắt, nguồn vui cuống cuồng của nó biến thành thịnh nộ đằng đằng sát khí, nó muốn xé tà áo bà lão. - Cho chạy, cho chạy. - giọng cứng cỏi ra lệnh. Ngựa ăn roi, chiếc xe phóng nhanh. Hai chúng tôi còn lại lộ. - Thấy chưa Watson, kế sách của ta tốt đẹp. - Holmes lớn và cột con chó lại. - Nó lầm tưởng là chủ nó, nhưng nó phát người nào khác. Chó chưa khi nào lầm. - Tiếng ra lệnh cho xe chạy là tiếng đàn ông - Tôi lớn. - Ðúng thế. Ta có thêm lá bài mạnh trong tay. Nhưng còn phải đổ mồ hôi nữa. Sau đó, hình như có chương trình gì nữa, chúng tôi xách đồ câu ra bờ sông gần cối xay gió, và bữa cơm tối chúng tôi có thêm đĩa cá hương tươi. Cơm xong, chúng tôi dạo đường hồi sáng, đến ngay cổng sắt của lâu đài. dáng vóc cao ráo chờ đợi chúng tôi. Chúng tôi nhận ra thân chủ John Mason. - Kính chào quý ông - ông ấy - Tôi có nhận được thư ông. Ngài Robert chưa về. Nhưng chúng tôi chuẩn bị đón ông ta đêm nay. - Nhà mồ cách lâu đài bao xa vậy? - Holmes hỏi. - Khoảng phần tư dặm. - Vậy khỏi lo ông ta bắt gặp. Ta cùng tới đó. - Tôi thể nán lại lâu đâu. Bởi khi về, ông ta gặp tôi ngay để hỏi thăm “Hoàng tử”. - Tôi hiểu. Chúng tôi tự xoay xở, ông Mason à. Ông chỉ cái nhà mồ rồi mặc chúng tôi. Trời tối như mực. Mason dẫn chúng tôi băng qua cái đồng cỏ tới khi gặp khối đen lù mù. Ðó là nhà mồ rêu phong, ăn sâu xuống đất. Chúng tôi chui qua cái lỗ toang hoác, trước kia là cái cổng tới cầu thang thẳng đứng đưa xuống hầm. Ông ta đánh que diêm. Cảnh vật được chiếu sáng lờ mờ cách thê lương, ảm đạm. Tường sắp sập được kê thêm bằng những cục đá thô thiển. Những cái hòm bằng đá được xếp về phía lên tận nóc. Holmes thắp chiếc đèn lồng, ánh sáng màu vàng của chiếc đèn tỏa ra cảnh tượng tang tóc, phản chiếu cái bảng đồng gắn các hòm. Bảng nào cũng đều ghi huy hiệu của dòng họ, dù ở vào cõi chết cũng vẫn còn kiểu cách. - Ông Mason, ông có về đống xương, vui lòng chỉ cho chúng tôi. - Ở góc này đây... Người huấn luyện ngựa bước tới rồi đứng lại như trời trồng khi ngọn đèn lồng chiếu sáng góc phòng. - Biến đâu mất rồi? - Tôi đoán trước. - Holmes vừa , vừa cười - Ta vẫn có thể tìm ra tro ở bếp nấu nước sưởi. - Ðiên sao. Ai lại thiêu xương của xác chết ngàn năm? - John Mason thắc mắc. - Ðó là lý do chúng ta xuống đây. - Holmes trả lời - Vì nghiên cứu của chúng tôi có thể kéo dài, tôi cần giữ ông lại. Nhưng chúng tôi chắc rằng chúng ta có giải đáp trước sáng mai. Khi John Mason rồi, Holmes bắt đầu làm việc. Trước tiên ấy khám nghiệm rất kỹ các hòm, từ chiếc hòm xưa nhất đến các hòm gần đây nhất. giờ sau, đến bên chiếc hòm bằng chì ngay cửa vào hầm. Tôi nghe tiếng la , biểu đắc chí của . Với kính lúp, khám kỹ cái mép của nắp hòm nặng nề. rút trong túi cái xà-beng và nạy nó lên. Nắp hòm vừa được giở lên với tiếng động mạnh, phần bên trong hòm vừa để lộ có gián đoạn đột ngột. Tiếng chân bước nhanh và nện mạnh xuống nhà mồ. luồng ánh sáng xuống dần cầu thang. Ði trước là người đàn ông đồ sộ. Người này xuống đứng trước cửa ra vào, thái độ hung tợn. Ánh đèn lồng giơ lên, chiếu sáng khuôn mặt nghiêm nghị, râu ngạnh trê. Ông ta nhìn quanh căn nhà mồ trước khi dừng mắt nhìn chúng tôi cách ngạc nhiên. ông hét to: - Mấy người là ai? Vào nhà tôi làm gì? Holmes trả lời, ông ta tiến xuống hai bậc cấp, giơ cao cây gậy cầm nơi tay, la lớn: - Có nghe tôi hỏi ? Các người là ai? Vào đây làm gì? Rồi ông quơ gậy. Thay vì rút lui để né tránh, Holmes tiến tới trước mặt ông ta: - Tôi cũng có câu để hỏi ông, thưa ngài Robert. - Holmes với giọng quả quyết - Ai đây? Sao bà ấy lại xuống đây? Holmes quay lại, lật hết cái nắp hòm sau lưng. Nhờ ánh đèn, tôi thấy xác chết gói gọn trong tấm vải trắng. Nhà quý tộc bước lui cách khập khiễng, dựa mình vào chiếc hòm đá. - Làm sao mấy ông biết được? - Tiếp đó, cái bản chất hung tàn nổi dậy, ông tiếp: - Can dự gì đến mấy ông? - Tôi là Sherlock Holmes. Cái tên này có lẽ ông nghe rồi. Dù gì nữa nhiệm vụ của tôi cũng như của mọi người công dân tốt, là buộc người khác tuân thủ pháp luật. Theo tôi, ông có nhiều điều phải trả lời trước luật pháp. Ngài Robert nhìn Holmes cách giận dữ, nhưng trước thái độ bình tĩnh của bạn tôi nên sau cùng nhà quý tộc dịu giọng: - Tôi xin thề trước Chúa, thưa ông Holmes, tôi vi phạm pháp luật. - ông ta - Thoạt nhìn là do tôi, tôi nhìn nhận là đúng. Nhưng tôi thể làm khác hơn. - Tôi hân hạnh đồng ý với ông. Nhưng theo thiển ý các biện bạch của ông nên trình bày với cảnh sát. Ngài Robert vươn vai. - Vâng. Nếu bắt buộc ra cảnh sát vậy. Nhưng kính mời quý ông quá bộ vào nhà và tùy nghi phán xét. Mười lăm phút sau, chúng tôi có mặt đông đủ ở phòng trưng bày khí giới của lâu đài cổ kính. Ngài Robert tạm vắng mặt chốc. Rồi, ông quay trở lại với hai người theo. Người thứ nhất, là thiếu phụ trẻ chiếc xe ngựa. Còn người kia là kẻ lùn tịt, mặt chuột có vẻ lấm lét. Cả hai đều ngạc nhiên vì ràng là nhà quý tộc có thời gian để giải thích với họ. Ngài Robert giới thiệu với chúng tôi: - Ðây là ông bà Norlett. Bà Norlett nhũ danh là Carrie Evans, là nữ bồi phòng tin cậy của chị tôi trong những năm qua. Tôi đưa họ tới đãy vì họ là hai người hiếm hoi có thể xác nhận những điều tôi . - Có cần thiết lắm , thưa ngài Robert. Ngài có biết rằng ngài làm gì . - Người đàn bà hỏi lớn. - Về phần tôi, tới phủ nhận mọi trách nhiệm - Người chồng . Ngài Robert nhìn y cách miệt thị. - Tôi nhìn nhận mọi trách nhiệm - ông ta - Giờ đây, thưa ông Holmes, hãy nghe lời khai của tôi. lời khai rất thành . Các ông biết khá về công việc làm ăn của tôi. Quý ông biết rằng tôi tin tưởng vào cuộc đua quốc gia này. Nếu tôi thắng, mọi êm ả. Nếu tôi thua... tôi cũng chả dám nghĩ đến. - Tôi hiểu hoàn cảnh của ông! - Tôi tùy thuộc vào chị tôi. Nhưng chị tôi chỉ được hưởng hoa lợi lãnh địa này nếu còn sống. Về phần tôi, tôi lọt vào nanh vuốt của bọn Do Thái. Tôi biết rằng ngày nào chị tôi chết, bọn chủ nợ đổ xô đến như đàn kền kền để xiết đồ đạc. Tất cả tong: chuồng ngựa, ngựa và tất cả. Vậy mà, chị tôi chết cách nay 8 ngày. - Ông thông báo cho ai cả? - Thông báo sao được. tiêu tan cả. Ngược lại, nếu tôi giấu nhẹm, tôi có cơ may thoát nạn. Chồng của bồi phòng, người này đây giả làm chị tôi trong thời gian ngắn này. Ðiều cốt yếu là mỗi ngày tái diễn cái màn bà ấy vẫn xe ngựa. Bởi vì ngoài chị bồi phòng, có ai vào phòng bà ấy mà biết thực. Bà ấy già cỗi, tàn rụi dần, ai cũng biết thế. - Chỉ có pháp y mới kết luận được. - Y sĩ riêng của bà ấy sẵn lòng xác nhận. - Tạm nhận như vậy . Rồi ông làm gì? - Ðương nhiên là xác chết đâu có thể để sình tại nhà. Ngay đêm đầu, ông Norlett và tôi cùng khiêng ra bỏ ở cái nhà dù cũ kỹ luôn đóng kín cửa, ai ra vào. Khốn nỗi, con chó tinh khôn cứ bám sát chúng tôi, đứng trước cửa sủa hoài. Tôi phải tống con chó và khiêng xác xuống hầm nhà mồ. Tôi xin bảo đảm với ông Holmes rằng tôi chưa hề thất lễ, thất kính với chị tôi. Tôi cảm thấy an tâm trước linh hồn người chết. - Lối xử của ông thể tha thứ được. Nhà quý tộc lắc đầu cách bực dọc. - Làm lễ cầu hồn là dễ thôi. Nếu ông ở hoàn cảnh tôi có lẽ ông nghĩ khác. Tôi thể khoanh tay nhìn tất cả hy vọng và dự án của tôi sụp đổ. Tôi vững tin rằng chị tôi được an nghỉ đàng hoàng nếu xác được đặt trong cái hòm của tổ tiên. Chúng tôi khui cái hòm cũ, lấy xương cốt cũ ra, đặt xác chị tôi vào đó. Norlett và tôi đem xương cốt của tổ tiên về lâu đài, đem thiêu dưới bếp nước. Ðó là câu chuyện của tôi. Holmes lặng thinh hồi. - Trong lời tường thuật của ông, có điểm còn lù mù. Cái đánh cuộc của ông hay cái hy vọng của ông về tương lai vẫn còn nguyên vẹn, cho dù các chủ nợ có đến tịch biên tài sản? - Con người cũng bị tịch biên. Cái đánh cuộc của tôi có nghĩa lý gì đối với họ? Tôi tin chắc chắn là họ đem con Hoàng tử ra dự cuộc đua. Người chủ nợ chính của tôi lại là kẻ thù tệ hại, thằng ăn cướp táng tận lương tâm mà tôi quất roi da vào mặt nó. Ông phải đồng ý với tôi rằng nó thù tôi đến chết. - Thôi được, ngài Robert. - Holmes vừa đứng dậy, vừa - Ðương nhiên, nội vụ phải được trình báo cho cảnh sát. Tôi phải cho cảnh sát hiểu vấn đề. Tôi làm rồi. Còn lối xử cá nhân của ông có hợp với đạo lý hay , tôi có quyền phán đoán. Watson à, nửa đêm rồi, chúng ta phải về thôi! Câu chuyện kỳ quái này lại có kết cục tươi sáng. Con Hoàng tử đoạt giải nhất tại cuộc đua quốc gia. Chủ nó lãnh được 80.000 bảng . Các chủ nợ hết lo lắng và ngài Robert còn dư tiền để gây dựng lại cuộc đời. Cảnh sát và tòa án cứu xét cách khoan dung các hành vi sai trái của ngài. Sau khi bị khiển trách vì khai tử trễ cái chết của người chị, nhà quý tộc may mắn kia chắc chắn kết thúc phần cuối cuộc đời trong danh dự, xứng đáng với tên tuổi của dòng họ.
12. Người bán sơn về hưu - có thấy ông ấy . - Ông lão mới ra đấy à? - Phải. - Ông ta là thân chủ của ? - Scotland Yard giới thiệu qua. Cảnh sát cảm thấy thể làm gì hơn. - Chuyện của ông ta thế nào? Holmes lấy bàn tấm danh thiếp bẩn. - Josiah Amberley. Cổ đông của công ty Brickfall & Amberley, sản xuất hàng mỹ nghệ. Chúng ta thấy tên công ty này nhan nhản các hộp sơn. Sau khi dành dụm được kha khá, ông ta rũ áo về vườn; lúc đó ông ta 61 tuổi, mua được ngôi nhà tại phố Lewisham. Tương lai có vẻ khá bảo đảm. - Thế là tốt quá rồi! Holmes đọc vài lời ghi nguệch ngoạc sau phong thơ. - Ông ta về hưu năm 1896! Ðến năm 1897 ông lấy bà vợ, hơn ông 20 tuổi. Bà ấy khá xinh, nếu bức ảnh này đáng tin cậy. Có tiền, có vợ đẹp lại thêm hoàn cảnh thong thả, là lộ trình thênh thang trước mặt. Nhưng chỉ đầy hai năm sau, ông lão trở thành kẻ khốn khổ, tàn tệ nhất trong đám khốn nạn dưới ánh sáng mặt trời này. - Chuyện gì xảy ra? - thằng bạn bất nghĩa và con vợ bất trung. Amberley có cái ghiền nhất đời: đánh cờ. Gần nhà có bác sĩ trẻ tuổi, tên Ray Ernest cũng mê cờ. Thế rồi, qua lại thường ngày, mối thân tình nẩy nở giữa ông bác sĩ và bà Amberley. Tuần trước, đôi gian phu dâm phụ cao bay xa chạy. Ðau đớn là chúng ôm theo cái két tiền dành dụm của ông lão. Chúng ta có thể tìm ra người phụ nữ ấy và lấy lại số tiền hay ? - làm gì? - Watson, bây giờ, chính làm. biết tôi bận vụ hai ông mục sư, đâu có thời giờ đến Lewisham. đến đó với tư cách là người đại diện của tôi. - Thôi được! Dẫu gì tại tôi cũng rảnh rỗi Thế là tôi đến Lewisham trong chuyến nhàng. Nhưng tôi ngờ, đầy tuần, vụ án này gây chấn động lớn toàn nước . Khi tôi trở lại phố Baker quá khuya. Holmes còn ngồi ghế bành, mắt lim dim nhìn khói thuốc nhởn nhơ bay lên trần nhà. Có lúc tôi tưởng Holmes ngủ trong lúc tôi báo cáo nếu tôi ngừng để lấy hơi, hoặc lúc lời tường thuật thiếu vài chi tiết chính xác: bấy giờ mắt Holmes mở to, sáng quắc nhìn tôi. - Ông Josiah Amberley đặt tên cho căn nhà của ông ta là “Haven”. Người ta có thể rằng ông lão là quý tộc khánh kiệt về sống chung đụng với giai tầng hạ lưu. Giữa khu đặc biệt này với những đường phố đơn điệu, những nhà gạch khiêm nhường lại trồi lên ốc đảo của lối kiến trúc cổ, đầy đủ tiện nghi đại: đó là ngôi nhà cổ kính, bao bọc bởi bức tường rêu... - Cắt bỏ khúc văn chương lãng mạn đó , Watson! - Holmes nghiêm giọng ngắt lời - Tôi cần biết đơn giản: tường gạch, cao... - Vâng. Tôi bao giờ biết đó là “Haven” nếu dò hỏi người lang thang ngoài đường. Tôi phải để ý đến thằng cha này vì người cao, da nâu, có râu ngạnh trê, thái độ nghênh ngang và có vẻ lính lắm. nhìn tôi cách tò mò khi trả lời tôi. Vừa qua cổng, tôi thấy ông Amberley từ nhà bước ra. Hồi sáng, tôi chỉ mới thoáng thấy ông ta thôi, bây giờ gặp lại, mới nhận ông ta là con người bất bình thường. - Ðương nhiên, tôi biết rồi! - Holmes - Nhưng cảm tưởng cá nhân của cũng cần cho tôi. - Ông ta ưu tư cùng cực, nhưng bệ rạc như ta tưởng: hai vai vẫn lực lưỡng như người khổng lồ, tuy dáng có vẻ nghiêng ngả. - Chiếc giày trái bị nhăn, chiếc giày phải còn bóng. - Tôi để ý đến điểm này. - Chân giả mà! Nhưng thôi, tiếp tục Watson. - Tôi lưu ý đặc biệt đến các lọn tóc bạc bẩn thỉu dưới chiếc mũ rơm và đặc biệt đến diện mạo của ông ta, những nét lõm sâu, sắc mặt dừ tợn. - Hay lắm, Watson! Ông lão gì với ? - Ông ta kể lể nỗi lòng khi cùng tôi dạo ngoài vườn. Chưa bao giờ tôi gặp khu vườn lôi thôi như thế. Cỏ mọc tứ tung, hoa dại tự do phát triển. Tôi tự hỏi người đàn bà đàng hoàng làm sao chịu đựng nổi cảnh này. Ông lão hình như ý thức được điều này và muốn sửa chữa, ở cửa chính có lọ sơn to tổ bố và ông cầm cọ sơn các nẹp gỗ. Ông ta đưa tôi vào phòng khách mới dọn dẹp và chúng tôi hàn huyên rất lâu. “Tôi đâu dám hy vọng rằng.. người như tôi làm sao được ông Sherlock Holmes đích thân giúp”, ông ta . “Nhưng ông phải hiểu rằng, đối với Sherlock Holmes, tiền bạc thành vấn đề”, tôi đáp. “Tất nhiên, ông Sherlock Holmes chỉ làm việc vì tính nghệ thuật. Nhưng ông ta cũng tìm thấy trong vụ này điều gì đó để nghiên cứu. Thưa bác sĩ Watson, đó là bội bạc cùng cực! Tôi có bao giờ từ chối điều gì với ấy? Có người đàn bà nào được nuông chiều đến thế. Còn thằng bác sĩ trẻ tuổi. Nó đáng tuổi con tôi. Thế mà, họ đối xử với tôi như thế đấy! Bác sĩ ơi! Cuộc đời này quá tàn nhẫn”. Ông ta lải nhải như vậy suốt giờ. Theo tôi, ông ta nghi ngờ gì về tình vụng trộm của bà vợ. Hôm đó, muốn lấy lòng vợ, ông lão mua hai vé thượng hạng tại rạp Haymarker. Vào phút chót, bà ta viện cớ nhức đầu, được, ông phải mình, ông ta có cho tôi xem cái vé chưa xé. - Hay lắm! - Holmes đáp - Hãy tiếp ! Hấp dẫn đấy! có xem cái vé ? Có ghi số ghế ? - Có chứ! - Tôi đáp với chút hãnh diện - Ðó là số 31, trùng với số thứ tự của tôi trong danh sách học sinh thời trung học nên rất dễ nhớ. - Hoan hô, Watson. Như vậy số ghế kia là 30 hay 32. - Ðúng thế! - Tôi đáp cách mỉa mai - Vào dãy B. - Ngoài ra, ông ta còn gì khác ? - Ông ta có cho tôi xem cái căn phòng kiên cố của ông. Thực vậy, nó kiên cố như ngân hàng, các cửa lớn, cửa sổ đều bằng sắt. Nhưng bà ta dùng chìa khóa giả cuỗm khoảng 7.000 bảng tiền mặt và chứng khoán. - Chứng khoán? Họ lấy để làm gì? - Ông ta hy vọng là chúng vô dụng vì ông báo cho cảnh sát, ông ta xem hát về khoảng 1 giờ đêm. Cửa lớn, cửa đều mở toang hoang, bọn trộm biệt tăm. Holmes suy ngẫm vài phút. - ông ta sơn! Sơn gì vậy? - Sơn lại hành lang và sơn xong cửa lớn cùng các nẹp cửa của văn phòng kiên cố đó. - Theo , việc làm này có kỳ cục ? Nhất là trong tình huống này! - Ông ta giải thích “Phải làm việc gì để giải khuây”. Quả là quái dị, nhưng tính tình lập dị là gốc của ông ta mà! Ông ta có xé bức ảnh của vợ trước mặt tôi với vẻ dữ dằn và bảo “Tôi bao giờ muốn gặp cái mặt đáng nguyền rủa này nữa”. - Hết rồi à, Watson. - Còn khi lên ga Blackheath, tôi thấy người đàn ông hối hả leo lên toa gần toa tôi. Ðó là người cao ráo, da nâu mà tôi hỏi thăm đường. Tôi lại gặp tại London Bridge và sau đó mất hút trong đám đông. Chắc là theo dõi tôi. - Có thể lắm! - Holmes đồng ý - người cao, da nâu, râu ngạnh trê, đeo kính râm, nghênh ngang, phải ? - Holmes, quả là phù thủy. Tôi đâu có nêu chi tiết kính râm mà biết? - Còn cái kẹp cà-vạt của hội Tam điểm nữa! - Ủa? - ra tất cả những gì đập vào mắt cũng lôi cuốn chú ý của tôi. Nhưng bỏ qua những cái quan trọng. - Tôi bỏ qua cái gì? - bạn đừng buồn. ai giỏi hơn đâu. Nhưng bỏ những chi tiết thiết yếu. Người láng giềng nghĩ sao về lão Amberley và bà vợ? Về bác sĩ Ernest? có hỏi thăm nhân viên bưu điện, vợ ông chủ tiệm tạp hóa gần đó ? - Đúng là tôi làm điều đó. - Tôi nắm được vài điều thiết yếu. Tin tức thu lượm xác nhận lý lịch của ông lão. Ông ấy nổi tiếng là người hà tiện, người chồng thô bạo, khó tính. Chắc chắn ông ta có số tiền lớn trong phòng kiên cố. Cũng đúng với thực là ông bác sĩ có chơi cờ với Amberley và chơi thân với vợ ông ta. Toàn chuyện thế đó, trơn tru, nhưng... nhưng... - còn thấy gì nữa? - Trí tôi làm việc... ừ... Thôi tạm ngừng, Watson à. Tối nay chúng ta hãy nghe nhạc. Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm. bàn có sẵn tờ giấy viết nguệch ngoạc: “Watson thân mến! Có vài điểm tôi cần bàn lại với ông lão Josiah Amberley. Tôi mong rảnh lúc 15 giờ vì tôi cần vào giờ đó! S.H.” Tới giờ hẹn, tôi mới gặp lại Holmes. ta về nhà với vẻ mặt nghiêm nghị, ưu tư. - Ông Amberley có đến ? - . - Vậy mà tôi đợi ông ta. chặp sau, ông già đó tới với vẻ mặt khắc khổ, mệt lả và bối rối. - Tôi nhận được điện tín, ông Holmes à. Tôi chẳng hiểu gì cả. Ông ta đưa cho Holmes xem. Holmes đọc lớn: “Tới ngay, đừng chậm trễ. Tôi có thể cho tin về mất mát mới đây của ông. Elman, nhà thờ chánh xứ”. - Ðiện tín đánh từ Little Purlington; lúc 14 giờ 10. Little Purlington thuộc quận Essex, hình như gần Frinton. Amberley, ông phải ngay. Cuốn danh mục của tôi đâu rồi? Ðây, có rồi! J.C. Elman, cao học, ngụ tại Mossmoor, thuộc Little Purlington... này, Watson, xem giùm lịch trình xe lửa. - Có chuyến lúc 17 giờ khởi hành từ ga Liverpool. - Tốt Watson nên theo ông. Có thể ông cần người giúp đỡ. Nhưng ông già có vẻ muốn lên đường, ông ta : - là phi lý, ông Holmes à. Người đó làm sao biết được tai họa của tôi? Ai lại tốn giờ và tiền bạc cách vô lối như thế! - Nếu có tin mới lạ, ông ấy đánh điện cho ông làm gì? Ðiện hồi cho biết ông lên đường ngay? - Chưa chắc tôi đâu. Holmes ra vẻ nghiêm khắc: - Ông làm cho cảnh sát và tôi có cảm tưởng hay về ông, ông Amberley. Ðã có lối mòn ràng mà ông từ chối lần theo. Chúng tôi nghĩ rằng ông muốn cuộc điều tra kết thúc chăng? Amberley tỏ vẻ hoảng sợ: - Ồ, đương nhiên phải . Thoạt nhìn khó tin linh mục lại biết chuyện này nọ, nhưng nếu ông cho là... - Tôi cho là như vậy! - Holmes trịnh trọng cắt ngang. Rồi kéo tôi qua bên và căn dặn. - Ðiều cần yếu là ông ta phải lên đường! - Holmes thầm với tôi - Nếu ông ta muốn trốn hoặc bỏ về chạy ngay tới bưu cục gần nhất gửi gọn cho tôi 2 chữ “vọt rồi”. Tôi thu xếp cho ông ta phải tìm tôi. Little Purlington nằm đường phụ nên phải là chỗ dễ đến. Trời đẹp, ấm, xe lửa chạy rề rề. Bạn đồng hành của tôi năng, chỉ thỉnh thoảng chua cay nhận xét chuyến ngu xuẩn. Chúng tôi lại phải thuê xe ngựa tới nhà linh mục chánh xứ, cách ga 2 dặm. Chúng tôi được tu sĩ bệ vệ và trịnh trọng đón tiếp. Bức điện hồi của chúng tôi còn để bàn. - Thưa quý ông! - ông ta hỏi - Chúng tôi có thể làm gì để giúp quý ông? Tôi giải thích: - Chúng tôi đến theo lời mời của bức điện của linh mục! - Bức điện của tôi? Tôi đâu có đánh điện cho quý ông? - Tôi muốn bức điện linh mục gửi cho ông Josiah Amberley về việc người vợ và tiền của ông ta. - Ðây là trò đùa khiếm nhã. Tôi bao giờ nghe đến tên chàng đó và tôi hề đánh điện tín cho ai cả?! Chúng tôi nhìn nhau cách ngạc nhiên: - Có thể có lầm lẫn! - Tôi - Có thể nào ở đây có hai nhà thờ chánh xứ ? Thưa linh mục, đây là bức điện mà chúng tôi nhận được, người ký tên là Elma. - Chỉ có nhà chánh xứ và linh mục chánh xứ duy nhất. Bức điện này là giả mạo đáng tởm, tôi kiện ra cảnh sát. Ông lão Amberley và tôi trở lại con đường chính của làng, có lẽ đó là con đường cổ nhất của quốc. Chúng tôi tới bưu cục nhưng đóng cửa. Nhờ điện thoại trong quán trước ga, tôi liên lạc được với Holmes. - Kỳ quá - Tiếng từ xa xôi dội vào tai tôi - Cực kỳ lý thú! Watson thân mến, tối nay có xe lửa, vô tình tôi đẩy vào quán trọ đồng quê. Nhưng có thiên nhiên và Amberley cũng được rồi. Tôi nghe tiếng Holmes cười và gác máy. Qua chuyến này, tôi thấy rằng lời đồn ông lão này hà tiện quả ngoa. Ông ta cằn nhằn về các khoản chi phí cho chuyến , lại cò kè về chi phí quán trọ. Khi về tới London, tôi với ông ta: - Chúng ta nên ghé qua phố Baker, Holmes có cần hỏi ta điều gì thêm ? - Nếu đó là những chỉ thị cuối cùng tôi thấy cũng chả ích lợi gì! - Amberley vừa vừa cười chế nhạo. Tuy vậy, ông ta vẫn theo tôi. Tôi đánh điện báo cho Holmes giờ về, nhưng tôi lại nhận được hồi : “ hãy đợi tôi tại Lewisham”. Tôi như bị rơi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Tại phòng khách của nhà ông Amberley lại có thêm người đàn ông với khuôn mặt nghiêm trọng, lạnh nhạt ngồi cạnh. Ông ta mang kính râm và cà-vạt mang kẹp của hội Tam điểm. - Tôi xin giới thiệu ông Barker. - Holmes - ông Josiah Amberley à, ông ta cũng quan tâm đến công việc của ông. Chúng tôi tuy hoạt động riêng rẽ nhưng cùng muốn hỏi ông điều. Ông lão ngồi xuống cách nặng nề, cảm thấy nguy hiểm gần kề. - Ðiều gì vậy, ông Holmes? - Chỉ điều này thôi, ông vứt mấy cái xác chết đâu? Lão ta nhảy dựng và la lên. Hai bàn tay xương xẩu huơ huơ trong trung, miệng há hốc. Trong thoáng, chúng tôi thấy chân tướng của Josiah Amberley. Khi ngồi lại xuống ghế, ông ta lấy tay che miệng như muốn chặn đứng cơn ho. Holmes đột nhiên nhảy lên như con cọp, nắm cổ họng ông ta, đè cổ, chân cho đến lúc mặt ông ta chạm sàn nhà. viên thuốc màu trắng từ miệng ông ta lọt ra. - có chuyện ấy được, ông Josiah Amberley à! việc phải theo tiến trình tự nhiên và đều đặn. Sao, Barker? - xe ngựa chờ ngoài cổng! – Barker trả lời. - Chúng ta cách bót cảnh sát chỉ vài trăm yard thôi. Tôi theo ông ra đó. Còn Watson, ở lại đây, nửa giờ sau tôi trở lại. lát sau Holmes quay lại với thanh tra trẻ. - Tôi để cho Barker lo làm thủ tục. Watson, chưa biết ông Barker. Ðó là đồng nghiệp tài danh của tôi ở duyên hải Surrey. Khi về người da nâu, cao ráo, tôi biết ngay là ai rồi. Ông ấy có nhiều thành tích đẹp, phải , ông thanh tra? - Ông ấy góp phần vào nhiều vụ. - Viên thanh tra trả lời dè dặt. - Ðúng, các phương pháp của ông ta chính quy. Cách làm việc của tôi cũng tương tự. Nhưng, đôi khi bọn này cũng hữu dụng đấy chứ? Ông muốn phải báo cho lão biết theo nghi thức, nhưng với thằng ăn cướp đó làm gì được lời đầu thú? - Có lẽ là . Nhưng sau cùng cũng đạt mục đích. Ông vui lòng cảm thông với chúng tôi. - Tôi dành ông đâu, ông MacKinnon à. Tôi đoán chắc với ông rằng tôi xin rút lui, ông Barker cũng chỉ làm theo chỉ thị của tôi thôi. Viên thanh tra cảnh sát có vẻ nhõm. - Ông quả là hào phóng, ông Holmes. Có lẽ lời khen hay chê đối với ông quan trọng. Nhưng đối với chúng tôi khác hẳn, khi mà báo chí bắt đầu tung tin ra. - Ðồng ý. Báo chí cũng phỏng vấn, ta nên chuẩn bị các lời đáp. Ông gì khi họ hỏi cái mấu chốt nào khiến ông ngờ vực và cuối cùng ông đề ra được giả thiết. Viên thanh tra lúng túng: - Hình như chúng ta chưa nắm chi tiết cụ thể, ông rằng trước mặt ba nhân chứng, tội phạm gần như thú nhận, qua việc mưu toan tự sát sau khi giết đôi gian phu dâm phụ. - Ông có những kiện nào khác? Ông có dự trù lục soát chưa? - Ba cảnh sát viên đường tới trường. - Như vậy bao lâu nữa, ông có mọi chứng cớ. Các xác chết có thể được chôn quanh quẩn đâu đó. Hãy lục dưới hầm rượu, ngoài vườn. Nhà này cổ lỗ quá, có thể được xây trước khi có nước máy. Thành ra xem đâu đó có cái giếng bỏ hoang. Hãy thử thời vận về các hướng đó! - Nhưng làm sao ông đoán được cái cách mà tội ác được diễn ra? - Trước hết, xin với ông về lão già Amberley này. kẻ quái đản đến nỗi tôi cho rằng nên cho lão vào nhà thương điên hơn là đưa chém. Lão là tên hà tiện kinh khủng. Cái nhen của lão biến vợ lão thành miếng mồi ngon cho bất kỳ tên sở khanh nào; và viên thầy thuốc mê cờ đến đúng lúc. Amberley đánh cờ có hạng, nên lão có trí thông minh đủ sức nghĩ ra các mưu mô khủng khiếp. Giống như các lão già hà tiện khác, lão ghen dữ dội. Khi lão già ngờ có mối tình bất chính, lão quyết định phục thù và lập kế hoạch cực kỳ quỷ quyệt. Hãy theo tôi ! Holmes đưa chúng tôi vào hành lang. quen thuộc như người trong nhà rồi ngừng trước chiếc cửa mở toang của căn phòng kiên cố. - Trời ơi! Mùi sơn khó chịu quá! - Viên thanh tra lớn. - Ông vừa gặp cái nút đầu tiên! - Holmes - Ông có thể cám ơn bác sĩ Watson là người để ý đến cái mùi này. Tại sao trong lúc gia đình rối ren mà lại cho tỏa cái mùi nồng nặc này? Dĩ nhiên là để khỏa lấp mùi khác, mùi tội lỗi, mùi gợi ngờ vực. Rồi tôi suy nghĩ về căn phòng này. căn phòng ai khác vào được. Tôi chỉ giải đáp sau khi thân hành khám nghiệm căn phòng. Sở dĩ tôi cho rằng vụ này rất nghiêm trọng vì tôi hỏi thăm rạp hát Haymarket và biết chắc chắn số 30 và 32 của dãy B thượng hạng có ai ngồi đêm đó cả. Như vậy Amberley đâu có xem hát. Lão ngu dại lộ cho bạn Watson biết số ghế của vé còn lại. Vấn đề là làm sao chui vào nhà của lão. Tôi sai nhân viên khác thám hiểm. Tôi nhờ bác sĩ Watson dẫn ông ta xa qua đêm. Tên của ông linh mục chánh xứ chỉ lục trong danh mục nhà thờ. ràng, minh bạch chưa nào? - Tuyệt vời! - Viên thanh tra . - ngại gì nữa, tôi phá cửa mà vào nhà. Tôi khoái cái màn đào ngạch lắm, nhưng thỉnh thoảng mới làm lần. Hãy quan sát những gì tôi phát được. Ông thấy cái ống dẫn khí đốt chạy dọc theo nẹp gỗ, ống này chạy vào phòng, đến cái hoa hồng giữa trần nhà. Bất cứ lúc nào, mở khóa phòng bị ngập khí đốt vì đầu ống trần đậy nắp. Cửa lớn, cửa mà đóng kín lại chỉ cần hai phút là đủ giết bất cứ ai ở trong phòng này. Do quỷ kế nào mà đôi tình nhân bị dụ vào đó tôi . Viên thanh tra lò dò khám nghiệm ống ga cách thích thú. - nhân viên của chúng tôi có ghi nhận mùi ga. - ông ta . - Nhưng lúc ấy cửa mở toang và việc quét sơn bắt đầu rồi. Theo lão già công việc bắt đầu từ hôm trước. Còn gì nữa, ông Holmes? - Có kiện bất ngờ. Rạng sáng, tôi chui cửa sổ nhà bếp ra bị người chặn lại hỏi: “Này, chàng kia, tới đây làm gì?”. Khi quay lại, tôi nhận ra đôi kính râm của Barker, người bạn đồng nghiệp của tôi. Chúng tôi cười sặc sụa. Tôi nghĩ rằng ông ta được gia đình bác sĩ Ray Ernest thuê và trong lúc dò la đến kết luận y hệt. Ông ta canh ngôi nhà này mấy ngày, lầm tưởng bác sĩ Watson là tòng phạm. Nghi ngờ, nhưng có cớ để hỏi han; còn gặp tôi nhảy cửa sổ thộp ngay. Tôi thông báo các phát của tôi và hai chúng tôi hợp tác để sớm hoàn tất nội vụ. - Tại sao hợp tác với chúng tôi? - Tại vì tôi muốn làm cái thí nghiệm nhoi. Quý vị đâu chịu “ngoài lề” như tôi! Viên thanh tra cười mỉm. - Chúng tôi đâu dám từ chối ông. Chúng tôi xin tất cả các kết quả. Và xin cám ơn ông nhiều. - Ðương nhiên! Thói quen của tôi mà! - Thưa ông Holmes, nội vụ cho ông trình bày là sáng tỏ rồi, chỉ còn phải tìm cho ra các xác chết. - Tôi chỉ cho ông chút bằng chứng - Holmes tiếp - Tôi chắc chắn rằng cả lão Amberley cũng chưa thấy. Ông thanh tra à, ông thu lượm được kết quả nếu ông “suy bụng ta, ra bụng người”, ông làm gì nếu ông lọt vào tình huống tương tự như cặp nạn nhân kia? Ông chỉ còn hai phút để sống và để phục hận cái người chế nhạo ông ở ngoài cửa? Ông làm gì? - Viết mẩu tin . - Ðúng. Ông muốn rằng công chúng hay biết ông bị chết, ông hãy để ý những gì được viết tường. Nhìn kìa! “Chúng tôi ...(We were...)”. Chỉ bấy nhiêu thôi! - Ông nghĩ gì về lời ghi này. - chàng nằm sóng soài, cách sàn nhà cả bộ, thoi thóp khi viết. Chưa hoàn tất tắt hơi! - ta muốn viết: “Chúng tôi bị ám sát” (We were murdered.). - Tôi cũng hiểu như ông. Nếu mình tìm ra cây viết chì đỏ ở các xác chết chúng ta càng hơn. - Ồ, chúng tôi lục lạo cho tới kỳ cùng. Còn các chứng khoán? Ðâu có bị mất cắp. Nhưng ông ta có chứng khoán đấy! Chúng tôi kiểm tra rồi. - Tôi đoán chắn với ông, lão già giấu chúng nơi an toàn rồi. Khi mọi rơi vào quên lãng, lão đột ngột tìm ra và láo rằng đôi gian phu dâm phụ vì ăn năn gửi trả. - Ông có lời giải đáp cho mọi thắc mắc. - Viên thanh tra - Ðương nhiên lão khai báo với chúng tôi. Nhưng, tôi thắc mắc tại sao lão lại nhờ đến ông? - Vì tự kiêu vụn vặt! - Holmes đáp - Lão tự cho là mình khôn ngoan, ai vượt được trí lão. Lão có thể khoác lác với hàng xóm rằng, lão ra tới cảnh sát thám tử tư đủ cả. Viên thanh tra cười to tiếng. - Quả ông là kỳ tài! Hai hôm sau, Holmes đưa cho tôi tờ báo North Surrey Observer. Những tít nóng bỏng, khởi đầu là “ kinh hoàng tại biệt thự “Haven” và kết thúc bằng “ thành công rực rỡ của cảnh sát”. cột dài chữ lí nhí kể lại các kiện theo thứ tự thời gian. Và đoạn chót: “ bén nhạy tuyệt vời giúp thanh tra phân biệt mùi nước sơn với mùi khác, mùi khí thắp chẳng hạn. bạo dạn suy đoán rằng cái phòng kiên cố cũng có thể là phòng tử thần. Cuộc điều tra sau đó đưa tới việc tìm ra xác chết trong cái giếng bỏ hoang được che lấp dưới cái nhà kho. Tất cả các điểm đó giúp minh họa trí thông minh tuyệt vời của các thám tử chuyên nghiệp”. - Tốt, Tốt, MacKinnon là người bạn tốt, - Holmes với nụ cười khoan dung – có thể sắp xếp vụ này vào trong những hồ sơ lưu trữ được rồi đấy, Watson à.