Chương 5: Cuộc viếng thăm của người khách lạ. Các hoạt động trong buổi sáng hôm đó là quá nhiều, cho nên đến chiều, tôi thấy mệt. holmes nghe hoà nhạc mình còn tôi nằm dài chiếc -văng, cố chợp mắt lấy vài tiếng, nhưng sao ngủ được. Trí óc tôi bị kích thích quá mạnh vì những việc diễn ra và chứa đầy những giả thiết, những điều tưởng tượng kỳ quái nhất. Càng nghĩ, tôi càng thấy giả thiết của holmes cho rằng nạn nhân bị đầu độc là kỳ quái. Nhưng nếu nạn nhân phải chết vì thuốc độc vì cái gì, bởi lẽ cơ thể có thương tích nào cả. Và máu sàn là máu của ai? Chừng nào những câu hỏi ấy chưa được giải đáp, tôi cảm thấy giấc ngủ khó mà đến được. Holmes vắng nhà khá lâu. Lâu đến nỗi thể nào ở nơi hoà nhạc tất cả ngần ấy thời gian. Bữa ăn tối dọn ra xong, mới về. - là kỳ thú – holmes vừa vừa ngồi vào bàn ăn – Darwin cho rằng khả năng tạo ra nhạc và thưởng thức nhạc tồn tại ở con người từ lâu, trước khi con người biết . Có thể vì lẽ ấy mà ngày nay chúng ta chịu ảnh hưởng êm ái của nhạc. Trong tâm hồn chúng ta còn lưu lại những ký ức mơ hồ về những thời kỳ mông muội ấy. - Đó là tư tưởng rất vĩ đại – Tôi nhận xét. - Tư tưởng của chúng ta phải vĩ đại ngang tầm với tự nhiên khi ta muốn tìm hiểu tự nhiên. Nhưng sao thế? Vụ án mạng làm bồn chồn à? - Đúng thế. - Tôi hiểu tâm trạng . Trong vụ này có khía cạnh bí . Nó kích thích trí tưởng tượng. Khi mà trí tưởng tượng bị kích thích ta thấy khủng khiếp. đọc báo buổi chiều chưa? - Chưa. - Bài tường thuật kẻ lại chi tiết khi người ta nhấc xác nạn nhân lên có chiếc nhẫn rơi ra. đến chiếc nhẫn càng hay. - Vì sao? - hãy đọc lời nhắn tin này. Sáng nay tôi gửi đăng các báo, ở mục “Của rơi”: “ nhặt được chiếc nhẫn cưới đường Brixton, đoạn từ quán rượu “Con hươu trắng” đến góc phố Holland Grove. Ai đánh rơi, mời đến gặp bác sĩ watson ở số nhà 221B, phố Baker nhận về, từ tám giờ đến chín giờ tối nay”. - Tôi xin lỗi mượn tên . Nếu dùng tên tôi thế nào trong hai tên ngốc kia cũng nhận ra và dính vào đây. - sao cả. Nhưng nhỡ có ai đến, tôi lại có chiếc nhẫn nào. - Ồ, có chứ, nhẫn đây! – holmes đưa cho tôi chiếc nhẫn – Chiếc nhẫn này được đấy chứ, giống chiếc kia như in. - Ai đến xin lại của rơi này? - Còn ai vào đấy! Kẻ mặc chiếc áo khoác ngoài màu nâu, có bộ mặt đỏ giày mũi vuông. Nếu đích thân đến phái tên đồng loã. - Liệu có cho là quá nguy hiểm ? - đâu. Con người ấy dám liều mọi chuyện hơn là để mất chiếc nhẫn. Theo tôi, đánh rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống xác nạn nhân. Lúc ra khỏi nhà, thấy mất chiếc nhẫn nên vội vã quay lại, nhưng lúc ấy cảnh sát tới vì vô ý để ngọn nến vẫn cháy. Lúc bấy giờ phải giả vờ say để đánh tan mọi nghi ngờ do có mặt của . cho rằng mình đánh rơi chiếc nhẫn sau khi ra khỏi nhà. Trong trường hợp đó, làm gì? hối hả tìm đọc các mục đăng “Của rơi”. mừng lắm. Việc gì phải sợ bị bẫy. đến cho mà xem. Trong vòng giờ nữa. - Rồi sao nữa? - Ồ, khi ấy, có thể để mặc tôi với . có súng đấy ? - Tôi còn giữ khẩu súng ngắn với mấy viên đạn. - nên lau chùi và nạp đạn vào. Ta gặp con người rất liều mạng. Tôi về phòng riêng và làm theo lời khuyên của holmes. Khi tôi trở lại với khẩu súng, bàn ăn được dọn sạch và holmes bận với môn giải trí ưa thích của mình: gảy dây đàn vĩ cầm. Thấy tôi vào, : - Câu chuyện thêm nhiều chi tiết đậm đà. Tôi vừa mới nhận được điện trả lời từ Mỹ. Cách nhìn nhận vấn đề của tôi được xác nhận là đúng. - Cụ thể là…? – Tôi sốt sắng hỏi. - Cất súng . Khi nhân vật của chúng ta xuất , hãy chuyện với cách bình thường và để mặc tôi xử . Đừng làm hoảng lên bằng những lời quá gay gắt. - Bây giờ 8 giờ rồi. - Được, tới trong vài phút nữa. hé mở cánh cửa chút. Thế được rồi. Bây giờ tra chìa khoá vào ổ khóa trong . Cám ơn! A! Nhân vật của chúng ta đến rồi kia. Trong lúc , tôi nghe tiếng chuông giật mạnh. holmes nhàng đứng dậy, kê lại ghế của mình gần cửa. Có tiếng chân người hầu vang lên trong phòng tiền sảnh, tiếng chìa khoá vặn trong ổ khoá và tiếng cửa mở. giọng thanh thanh nhưng khá rắn rỏi: - Đây có phải là nhà bác sĩ watson ? Chúng tôi nghe thấy câu trả lời của người hầu, nhưng cánh cửa khép lại và có người bước lên cầu thang. Bước chân ngập ngừng, dè dặt. holmes lắng tai nghe, có vẻ hơi ngạc nhiên. Có ai đó bước chậm chạp ngoài hành lang rồi gõ cửa khe khẽ. - Mời vào! – Tôi hét to. Sau lời mời của tôi, bà cụ rất già, da nhăn nheo bước vào. Bà cụ hình như bị chói mắt vì ánh sáng trong phòng. Bà cúi đầu xuống chào rồi cứ đứng nhìn chúng tôi với con mắt hấp háy đầy ghèn, bàn tay run rẩy lục tìm cái gì trong túi. Tôi liếc nhanh nhìn holmes. Nét mặt biểu lộ vẻ thất vọng. Bà lão rút trong túi ra tờ báo: - Thưa các ông quý hoá, tôi đọc được mẩu tin này báo nên mới đến – Bà lão lại cúi chào lần nữa – Đó là chiếc nhẫn của con tôi, tên nó là Sa-ly, nó lấy chồng cách đây năm và chồng nó làm việc tàu thuỷ. Chồng nó sao khi về thấy vợ còn chiếc nhẫn cưới nữa. Thằng đó vốn là đứa thuần tính, nhất là khi rượu vào. Thưa hai ông, con tôi tối qua nó xem xiếc với… - Đây có phải là chiếc nhẫn của ấy ? – Tôi hỏi. - Xin tạ ơn Chúa! Tối nay, con Sa-ly mừng lắm đấy. Đúng là chiếc nhẫn của nó. - Nhà cụ ở đâu? – Tôi hỏi và cầm lấy bút chì. - Số 13 phố Duncan khu Houndsditch. Xa đây lắm và mệt lắm. Giọng holmes đanh lại: - có rạp xiếc nào từ Brixton đến khu Houndsditch cả. Bà cụ quay sang holmes, nhìn chằm chằm: - Ông này hỏi nhà tôi. Còn nhà con Sa-ly ở số 3 khu Mayfield đường Peckham. - Tên cụ là gì? - Tên tôi là Soi-ơ, chồng nó là Đen-nít, đứa nhanh nhẹn và khá ngoan khi ở biển, ai nấy đều quý hoá. Nhưng khi nó lên bờ ôi dào, rượu chè, trai … - Cụ Soi-ơ, nhẫn của cụ đây – Tôi ngắt lời bà cụ khi thấy holmes ra hiệu – Chiếc nhẫn này đúng là của con cụ, tôi rất vui lòng trả lại cho chủ của nó. Lầm bầm mãi những lời cảm ơn và chúc tụng, bà cụ cất chiếc nhẫn vào trong túi rồi lại lê chân bước xuống thang gác. Holmes lao vội về phòng khi bà cụ vừa mới ra khỏi phòng. Vài giây sau, trở lại, người trùm trong chiếc áo măng-tô lớn và cái khăn quàng kín cổ kín mũi. - Tôi theo bà lão đây. chờ tôi ở nhà nhé. Cổng nhà vừa mới khép lại sau lưng người khách già holmes xuống hết cầu thang. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy bà già bước chầm chậm qua đường và bạn tôi ở cách đó xa. Lúc holmes , kim đồng hồ chỉ 9 giờ tối. Tôi ngồi hút thuốc và đọc sách. Chuông đồng hồ điểm 10 giờ, tôi nghe tiếng chân những người hầu ngủ. Mười giờ, đến lượt tiếng chân rắn rỏi hơn của bà chủ nhà lên giường. Gần đến nửa đêm có tiếng mở khoá cửa. holmes vừa mới thò đầu vào buồng, tôi thấy ngay là hỏng việc. Nét mặt holmes có vẻ vừa buồn cười vừa bực bội, hai tâm trạng đó hình như vật lộn với nhau cho đến khi vẻ buồn cười thắng thế bật cười thành tiếng, buông mình xuống chiếc ghế bành, tự giễu mình: - Giá mà Scotland Yard biết chuyện này, họ được trận cười chế nhạo. - Có chuyện gì vậy? - Khi được đoạn đường mụ già bắt đầu khập khiễng, lộ là đau chân. Được quãng nữa, mụ đứng lại, gọi chiếc xe ngựa ngang qua. Tôi vội mon men đến gần, nhưng lo như vậy là thừa, vì mụ to đến nỗi đứng ở bên kia đường cũng nghe . Mụ hét lên: “Cho tôi đến nhà số 14 phố Duncan, khu Houndsditch”. Tôi nghĩ bụng mụ này xem ra có vẻ ngay đấy. Khi thấy ràng mụ ngồi vào trong xe rồi, tôi mới thu mình nhảy lên ngồi nấp trong nhíp xe, đây là trò mà người thám tử nào cũng sở trường. Thế rồi xe chạy, chạy mãi, dừng lại giây nào cho đến khi tới phố Duncan. Sắp đến nhà, tôi từ chỗ ngồi nhảy xuống, vẩn vơ ngoài phố, mắt vẫn rời chiếc xe. Tôi thấy xe dừng lại, người đánh xe nhảy xuống. Sán lại gần, tôi thấy tức tối xem xét khoang xe trống và tuôn ra tràng câu chửi. Đến hỏi nhà số 13 tôi được biết chủ nhà là người làm bánh ngọt tên là Kê-uýt và ông chưa nghe đến tên Soi-ơ lẫn Đen-nít bao giờ. Tôi kinh ngạc: - Mụ già chuồn khỏi xe trong khi xe chạy mà và người đánh xe đều biết? - Để cho bị lừa như vậy, chính chúng ta mới là bà già. Đó chắc là gã trai trẻ, nhanh nhẹn, đóng kịch giỏi, cải trang khéo. Có lẽ biết bị theo dõi nên dùng cái mẹo ấy để lừa tôi. Điều đó chứng tỏ rằng nhân vật mà chúng ta tìm kiếm có những người bạn tài ba. Thôi bây giờ có vẻ mệt đấy, bác sĩ ạ. nên ngủ . Tôi để holmes ngồi mình bên lò sưởi, và rất khuya tôi còn nghe thấy những thanh nỉ non khe khẽ cây đàn của . Tôi biết suy ngẫm về bài toán kỳ quặc mà muốn giải đáp.
Chương 6: Greson tìm thấy gì. Các báo hôm sau đăng đầy những bài viết về “Vụ án bí ở Brixton”. Dưới đây là nội dung tóm tắt số bài. Tờ “Tin điện hằng ngày” nhận xét: “Trong lịch sử khoa hình , chưa mấy khi xảy ra tấn bi kịch với những tình tiết kỳ quặc hơn thế. Nạn nhân mang tên Đức, những chữ bằng máu tường, động cơ ám sát có. Tất cả những chi tiết ấy cho thấy án mạng này là do những kẻ tị nạn chính trị và những kẻ hoạt động xã hội gây ra. Các đảng phái cấp có nhiều chi nhánh hoạt động tại Mỹ, và nạn nhân có lẽ vi phạm các luật lệ thành văn của các đảng phái ấy nên bị trừng trị”. Bài báo kết thúc bằng lời khiển trách chính phủ và cầu chính phủ giám sát chặt chẽ hơn các ngoại kiều trú ngụ đất . Tờ “Lá cờ” bình luận: “Những vụ trọng án như vụ này diễn ra dưới chính thể tự do. Chúng sinh ra từ hỗn tạp trong dân chúng và suy yếu của chính quyền. Nạn nhân là người Mỹ sinh sống ít lâu tại Luân Đôn. Ông ta ở trọ thời gian tại nhà bà Sác-pen khu Camberwell. Thư ký riêng của ông ta là Stanggerson cùng với ông ta trong các chuyến . Hai người từ biệt bà chủ trọ hôm thứ ba, ngày mồng 4 tháng này và ra ga Euston để đáp chuyến tàu tốc hành Liverpool. Sau đó ít lâu, người ta thấy hai người đứng với nhau sân ga. Sau nữa biết gì về họ cho đến khi người ta tìm thấy xác ông Drebber trong ngôi nhà bỏ trống đường Brixton cách nhà ga Euston hàng mấy dặm đường. Nạn nhân đến đây bằng cách nào và chết như thế nào? Những câu hỏi này hãy còn nằm trong màn bí mật. Chúng tôi vui mừng được biết các thanh tra greson và lestrade cùng bắt tay vào vụ án và tin rằng hai quan chức mẫn cán và tài năng ấy sớm rọi ánh sáng vào vụ khó hiểu này”. Tờ “Tin hàng ngày” kết luận: “ còn nghi ngờ gì nữa, đây là án chính trị. chuyên chế của chính quyền các nước ở lục địa Châu Âu xua đuổi về bờ biển nước ta nhiều người có thể trở thành những công dân tốt nếu họ bị ám ảnh và kích động bởi ký ức về những nỗi đau khổ và gian truân của họ. Trong đám người ấy có luật hết sức nghiêm ngặt, nó kết án “tử” cho bất cứ ai vi phạm nó. Cần phải tìm cho ra viên thư ký Stanggerson để hỏi số chi tiết liên quan đến nạn nhân. Cuộc điều tra tiến được bước khi tìm ra được địa chỉ nhà trọ của nạn nhân. khám phá ấy hoàn toàn nhờ tài năng của ông greson”. Holmes và tôi rất buồn cười khi đọc những dòng này: - Tôi bảo với mà, dù có thế nào, lestrade và greson vẫn được tán dương. ngốc bao giờ cũng tìm được ngốc hơn để khâm phục mình. - Nhưng gì thế này? – Tôi kêu lên vừa vặn lúc ấy có nhiều tiếng bước chân ở dưới nhà cùng với những lời gắt gỏng của bà chủ nhà. - Đó là đội cảnh sát nghiệp dư ở phố Baker – holmes nghiêm trang trả lời. Cùng lúc đó khoảng hơn chục đứa trẻ lem luốc ùa vào phòng chúng tôi. - Nghiêm – holmes hô lên và bọn trẻ con xếp thành hàng như dãy những bức tượng - Lần sau các cháu đợi ở ngoài phố nhé, chỉ để cho mình Uy-ghin lên báo cáo thôi. Uy-ghin có tìm thấy ? - ạ, chúng cháu chưa tìm ra! – đứa trong bọn trẻ thưa. - Kém thế! Tiếp tục cho đến khi tìm ra. Tiền thù lao đây – holmes chia cho mỗi đứa đồng si-linh – Bây giờ, các cháu hãy toả nhanh khắp nơi rồi trở về đây với báo cáo có kết quả hơn. Bọn trẻ chạy ào xuống cầu thang, lát sau nghe thấy tiếng chúng léo nhéo ngoài phố. - Mấy đứa trẻ này còn hữu ích hơn tá cảnh sát. Nhìn thấy ai có vẻ là người nhà nước, người ta lo giữ miệng rồi. Trái lại, bọn trẻ này len lỏi được vào khắp nơi và nghe được đủ mọi thứ chuyện. Chúng bị ai để ý và luồn lách nhanh như chạch. - sử dụng chúng cho vụ Brixton đấy à? - Đúng. Có điểm tôi muốn tìm hiểu. Đây chỉ là vấn đề thời gian, rồi thể nào cũng ra. Thế nào? Ai kia như greson ngoài phố. ta mang hai chữ “hớn hở” ghi từng nét mặt. ta đến chỗ ta đây. Có tiếng chuông giật mạnh và vài ba giây sau, nhà thám tử có mái tóc vàng lên cầu thang, bước ba bậc và lao vào phòng chúng tôi như tia chớp. greson vồ lấy tay holmes, siết chặt và reo lên: - Ông sherlock holmes thân mến, ông hãy khen ngợi tôi . Tôi làm sáng tỏ hết, như ban ngày. Hình như có thoáng lo lắng lướt qua gương mặt diễn cảm của bạn tôi. Holmes hỏi: - Ông muốn là ông tìm được hướng đúng rồi à? - Hướng đúng! Ồ, chúng tôi tóm được hung thủ rồi. - Tên là gì? - Ác-tơ, thiếu uý hải quân – greson dài giọng, ưỡn ngực, xoa hai tay vào nhau. Holmes thở phào, hé nở nụ cười và : - Mời ông ngồi và thử điếu xì gà . Chúng tôi rất muốn biết ông tiến hành công việc như thế nào. Ông dùng cốc uýt-ki pha nước nhé. - Xin vâng. Những nỗ lực ghê gớm mà tôi phải bỏ ra trong hai ngày qua làm tôi bải hoải cả người. - Chúng tôi rất hân hạnh được ông quá bộ đến chơi – holmes , giọng nghiêm trang – Xin ông cho biết ông làm thế nào để đến kết quả hết sức đáng khen ấy. Greson ngồi sâu trong chiếc ghế bành, khoan khoái rít xì gà rồi bỗng nhiên vỗ đùi đánh tét cái: - Trong vụ này, chàng lestrade ngốc nghếch cứ tưởng mình khôn ngoan hoàn toàn nhầm đường. ta tìm viên thư ký Stanggerson mà Stanggerson dính líu đến vụ này hơn gì đứa trẻ chưa ra đời. Hẳn bây giờ lestrade tóm cổ rồi. Ý nghĩ ấy khiến cho greson cười sằng sặc mãi: - Ông tìm ra hướng của ông như thế nào? – holmes hỏi. - Khó khăn đầu tiên đặt ra với tôi là tìm cho ra tung tích nạn nhân. Có người thường cứ ngồi ở nhà chờ người ta đọc các lời nhắn tin của mình báo mà đến cung cấp tin tức cho mình, greson làm việc như thế ông bác sĩ, ông còn nhớ chiếc mũ bên cạnh nạn nhân ? - Có, chiếc mũ của cửa hàng Underwood và con số 129, đường Camberwell – holmes trả lời. - Tôi tin tưởng ông để ý. Ông đến cửa hàng chưa? – greson chột dạ hỏi. - Tôi đến – holmes đáp. greson thở phào yên tâm: - Chớ bao giờ coi thường cơ hội, dù là . - Đối với bộ óc lớn, có gì là - Giọng holmes triết lý. - Đúng thế. Tôi đến cửa hàng Underwood hỏi chủ hiệu, xem ông ta bán cho ai chiếc mũ kiểu như vậy. Chủ hiệu xem sổ sách thấy người mua tên là Drebber, trọ tại nhà bà Sác-pen. - Giỏi lắm, rất giỏi! – holmes khẽ . - Tôi đến gặp bà Sác-pen. Tôi thấy bà ta mặt tái mét và buồn rầu. con hai mắt đỏ hoe và miệng run rẩy khi nghe tôi hỏi chuyện. Chi tiết ấy thoát khỏi con mắt quan sát của tôi. Ông sherlock holmes, ông biết đấy, khi ta dò đến gần hướng đúng, các dây thần kinh của ta như run lên. Tôi mới hỏi hai mẹ con: “Bà và biết gì về cái chết của ông Drebber ?”. Người mẹ gật đầu. con oà khóc. Tôi hỏi: - Ông Drebber rời nhà bà ra tàu vào lúc mấy giờ? Bà ta cho biết là vào lúc tám giờ. Người thư ký của ông ấy là Stanggerson có hai chuyến tàu, chuyến chạy vào lúc 9 giờ 15 và chuyến kia vào lúc 11 giờ. Họ phải kịp chuyến thứ nhất. - Đó là lúc bà gặp ông ta lần cuối cùng phải ? – Tôi lại hỏi. Người mẹ có vẻ hốt hoảng. Mấy giây sau bà ta mới được tiếng “vâng”. Mấy phút im lặng trôi qua, con : - Mẹ ạ, ta nên thẳng với quý ông đây. Chúng tôi lại gặp ông Drebber. Bà Sác-pen giơ hai tay lên trời, gieo mình xuống ghế, kêu lên: - Cầu Chúa tha tội cho con! Con giết con đó! - Ác-tơ muốn ta thẳng ra – con đáp với giọng rắn rỏi. Tôi bảo họ: - Bà và nên kể hết với tôi. Những lời khai nửa vời còn tệ hại hơn là khai gì cả. Bà mẹ mắng con: - Mong sao tai họa rơi xuống đầu mày – Rồi quay sang tôi – Tôi xin kể hết. Ông đừng nghĩ rằng tôi lo cho thằng con trai tôi. Nó hoàn toàn vô tội. Tôi lo là lo rằng dưới con mắt ông và con mắt người khác, nó có thể bị coi là có liên can. Dù sao, chắc chắn là thể nào có chuyện đó. Tính tình nó, nghề nghiệp nó, những hành vi qua của nó chứng minh cho nó. - Tốt nhất là bà đừng có giấu giếm gì hết. Hãy tin rằng nếu con bà vô tội vì thế mà nó có tội thêm đâu. Bà mẹ bảo con : - Có lẽ con để mặc mẹ với ông khách hơn – con ra và bà tiếp – Thưa ông, tôi có ý định kể với ông, nhưng vì con tôi hớ, tôi còn cách nào khác. - Đó là điều tốt nhất – Tôi . - Ông Drebber ở trọ nhà tôi trong ba tuần cùng với người thư ký là ông Stanggerson. Ông này là người điềm tĩnh, kín đáo, nhưng ông chủ của ông ta thô lỗ, hung tợn. Ngay tối hôm đầu đến trọ, ông ấy tỏ ra rất xấu tính. Ông ấy có những cử chỉ và lời ăn tiếng sàm sỡ với các chị hầu. Và với cả con tôi, có lần bất thần ông ấy ôm chặt lấy nó và ôm nó. - Việc gì bà phải chịu đựng những chuyện ấy. Tôi nghĩ bà có thể tống khứ họ chứ? - Lạy Chúa! Giá mà tôi nhận cho ông ấy trọ ngay sau tối đầu tiên! Nhưng ông ấy trả tiền trọ cao, mà nay là mùa vắng khách! Tôi ở goá, thằng con trai tôi trong hải quân tốn kém cho tôi lắm. Vì vậy tôi cố chịu đựng. Nhưng lăng mạ cuối cùng này quá lắm. Vì thế, tôi bảo ông ấy tìm chỗ trọ khác. Và hai thầy trò ông ấy bỏ . - Rồi sao nữa? - Nhìn họ ra , tôi thấy người. Thằng con trai tôi lúc này nghỉ phép. Tôi hé răng với nó về chuyện này vì tính nó nóng nảy và rất quý em . Nhưng! đến giờ sau, có người giật chuông ngoài cửa và tôi thấy ông Drebber quay lại. Ông ấy cứ xông vào buồng nơi tôi ngồi với con tôi, làu bàu những câu đầu đuôi, đâu như về chuyến tàu mà ông ấy nhỡ phải. Sau đó, ông ấy quay sang con tôi, rủ nó trốn . Con tôi hoảng sợ, toan bỏ nhưng ông ấy nắm lấy cổ tay nó, cố kéo nó về phía cửa. Tôi kêu lên và đúng lúc ấy thằng Ác-tơ chạy đến. Chuyện gì diễn ra lúc bấy giờ, tôi biết nữa. Tôi nghe thấy những lời chửi rủa và tiếng xô xát. Tôi quá sợ, dám ngẩng đầu lên. Đến khi dám nhìn tôi thấy con trai tôi đứng ở giữa cửa, tay cầm cái gậy, cười to. Nó : “Thằng này chừa rồi, dám quấy rầy nhà mình nữa đâu. Để cho con theo xem nó xem sao”. Sau đó, nó cầm lấy mũ và ra . Sáng hôm sau, chúng tôi nghe tin ông Drebber chết cách bí . Lời khai ấy do chính mồm bà Sác-pen ra kèm theo những tiếng thở dài và những chỗ ngắt quãng. Tôi ghi bằng tốc ký lời khai của bà ấy để khỏi có nhầm lẫn sai sót. - Rất lý thú – holmes và cố ghìm cái ngáp – Rồi sau ra sau? - Khi bà Sác-pen khai xong, tôi thấy vụ này quy lại còn có mỗi điểm. Tôi chiếu luồng mắt của mình vào bà ta theo cái cách mà tôi luôn luôn thấy có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi con trai bà ta về nhà lúc nào. - Thưa, tôi biết. - Bà biết à? - Vâng, nó có chìa khoá cửa riêng. - Nó về sau khi bà ngủ? - Vâng. - Bà ngủ vào lúc mấy giờ? - Khoảng mười giờ. - Như vậy con trai bà vắng nhà ít nhất hai giờ? - Vâng. - Cũng có thể là vắng bốn hoặc năm giờ? - Vâng. - Nó làm gì trong thời gian ấy? - Tôi biết – Bà ta trả lời, mặt lại tái . Cố nhiên, sau đó tôi tìm ra trung uý Ác-tơ. Tôi đem theo hai viên cảnh sát và bắt giữ . Khi tôi đụng vào vai , hỏi tôi, hãy còn hăng như con gà chọi: - Chắc ông bắt tôi vì tội đồng loã trong cái chết của tên vô lại Drebber chứ gì? Chúng tôi gì với đâu mà đoán ra. Câu hỏi ấy, là rất đáng ngờ. - Rất đáng ngờ - holmes đồng tình. - còn giữ cái gậy to mà theo lời khai của mẹ , cầm khi đuổi theo Drebber. cái gậy to bằng gỗ sồi. - Vậy giả thiết của ông là thế nào? - theo Drebber đến tận đường Brixton. Đến đấy, giữa hai người lại cãi nhau nữa, và trong lúc xô xát, Drebber bị gậy vào bụng và chết ngay tức khắc, để lại dấu vết gì. Đêm hôm ấy trời mưa, đường vắng nên Ác-tơ lôi xác nạn nhân đến tận ngôi nhà trống. Còn về ngọn nến, những vết máu và chữ viết tường, chẳng qua chỉ là những cái mẹo nhằm đánh lạc hướng nhà chức trách thôi. - Rất hay! – holmes khích lệ - Ông greson, quả thực ông tiến bộ đấy. Ông còn xa hơn nhiều. Nhà thám tử kia trả lời với vẻ kiêu hãnh: - Tôi tự hào là giải quyết vụ án này khá suôn sẻ. Gã thanh niên khai rằng theo Drebber được lúc Drebber phát ra và nhảy lên chiếc xe để bỏ xa . Điều làm tôi thích thú là lestrade lao theo hướng tắc tị. Ông ta chẳng thu lượm được điều gì. Nhưng, ơ kìa, thiêng chưa, vừa đến ông ấy xuất . Quả vậy, lestrade lên cầu thang trong khi chúng tôi mải chuyện trò, và bây giờ ông ở trong phòng. Vẻ tự tin và ung dung thường có của ông, nay biến đâu mất. Nét mặt lo lắng, quần áo xộc xệch, ràng lestrade đến với ý định nhờ holmes giúp đỡ, và khi nhận ra đồng nghiệp của mình cũng có mặt ở đây, lestrade tỏ ra ngại ngùng, lúng túng. Lestrade đứng như trời trồng giữa phòng, tay mân mê chiếc mũ biết để đâu, cuối cùng : - Đây quả là vụ án cực kỳ khác thường, tài nào hiểu được. - A! Ông tưởng thế à, ông lestrade? – Giọng greson đắc thắng – Tôi cũng đoán rằng ông đến kết luận ấy. Ông có tìm được viên thư ký Stanggerson ? - Viên thư ký Stanggerson – Giọng lestrade nghiêm trọng – bị ám sát vào lúc 6 giờ sáng nay tại khách sạn Holiday.
Chương 6: Greson tìm thấy gì. Các báo hôm sau đăng đầy những bài viết về “Vụ án bí ở Brixton”. Dưới đây là nội dung tóm tắt số bài. Tờ “Tin điện hằng ngày” nhận xét: “Trong lịch sử khoa hình , chưa mấy khi xảy ra tấn bi kịch với những tình tiết kỳ quặc hơn thế. Nạn nhân mang tên Đức, những chữ bằng máu tường, động cơ ám sát có. Tất cả những chi tiết ấy cho thấy án mạng này là do những kẻ tị nạn chính trị và những kẻ hoạt động xã hội gây ra. Các đảng phái cấp có nhiều chi nhánh hoạt động tại Mỹ, và nạn nhân có lẽ vi phạm các luật lệ thành văn của các đảng phái ấy nên bị trừng trị”. Bài báo kết thúc bằng lời khiển trách chính phủ và cầu chính phủ giám sát chặt chẽ hơn các ngoại kiều trú ngụ đất . Tờ “Lá cờ” bình luận: “Những vụ trọng án như vụ này diễn ra dưới chính thể tự do. Chúng sinh ra từ hỗn tạp trong dân chúng và suy yếu của chính quyền. Nạn nhân là người Mỹ sinh sống ít lâu tại Luân Đôn. Ông ta ở trọ thời gian tại nhà bà Sác-pen khu Camberwell. Thư ký riêng của ông ta là Stanggerson cùng với ông ta trong các chuyến . Hai người từ biệt bà chủ trọ hôm thứ ba, ngày mồng 4 tháng này và ra ga Euston để đáp chuyến tàu tốc hành Liverpool. Sau đó ít lâu, người ta thấy hai người đứng với nhau sân ga. Sau nữa biết gì về họ cho đến khi người ta tìm thấy xác ông Drebber trong ngôi nhà bỏ trống đường Brixton cách nhà ga Euston hàng mấy dặm đường. Nạn nhân đến đây bằng cách nào và chết như thế nào? Những câu hỏi này hãy còn nằm trong màn bí mật. Chúng tôi vui mừng được biết các thanh tra greson và lestrade cùng bắt tay vào vụ án và tin rằng hai quan chức mẫn cán và tài năng ấy sớm rọi ánh sáng vào vụ khó hiểu này”. Tờ “Tin hàng ngày” kết luận: “ còn nghi ngờ gì nữa, đây là án chính trị. chuyên chế của chính quyền các nước ở lục địa Châu Âu xua đuổi về bờ biển nước ta nhiều người có thể trở thành những công dân tốt nếu họ bị ám ảnh và kích động bởi ký ức về những nỗi đau khổ và gian truân của họ. Trong đám người ấy có luật hết sức nghiêm ngặt, nó kết án “tử” cho bất cứ ai vi phạm nó. Cần phải tìm cho ra viên thư ký Stanggerson để hỏi số chi tiết liên quan đến nạn nhân. Cuộc điều tra tiến được bước khi tìm ra được địa chỉ nhà trọ của nạn nhân. khám phá ấy hoàn toàn nhờ tài năng của ông greson”. Holmes và tôi rất buồn cười khi đọc những dòng này: - Tôi bảo với mà, dù có thế nào, lestrade và greson vẫn được tán dương. ngốc bao giờ cũng tìm được ngốc hơn để khâm phục mình. - Nhưng gì thế này? – Tôi kêu lên vừa vặn lúc ấy có nhiều tiếng bước chân ở dưới nhà cùng với những lời gắt gỏng của bà chủ nhà. - Đó là đội cảnh sát nghiệp dư ở phố Baker – holmes nghiêm trang trả lời. Cùng lúc đó khoảng hơn chục đứa trẻ lem luốc ùa vào phòng chúng tôi. - Nghiêm – holmes hô lên và bọn trẻ con xếp thành hàng như dãy những bức tượng - Lần sau các cháu đợi ở ngoài phố nhé, chỉ để cho mình Uy-ghin lên báo cáo thôi. Uy-ghin có tìm thấy ? - ạ, chúng cháu chưa tìm ra! – đứa trong bọn trẻ thưa. - Kém thế! Tiếp tục cho đến khi tìm ra. Tiền thù lao đây – holmes chia cho mỗi đứa đồng si-linh – Bây giờ, các cháu hãy toả nhanh khắp nơi rồi trở về đây với báo cáo có kết quả hơn. Bọn trẻ chạy ào xuống cầu thang, lát sau nghe thấy tiếng chúng léo nhéo ngoài phố. - Mấy đứa trẻ này còn hữu ích hơn tá cảnh sát. Nhìn thấy ai có vẻ là người nhà nước, người ta lo giữ miệng rồi. Trái lại, bọn trẻ này len lỏi được vào khắp nơi và nghe được đủ mọi thứ chuyện. Chúng bị ai để ý và luồn lách nhanh như chạch. - sử dụng chúng cho vụ Brixton đấy à? - Đúng. Có điểm tôi muốn tìm hiểu. Đây chỉ là vấn đề thời gian, rồi thể nào cũng ra. Thế nào? Ai kia như greson ngoài phố. ta mang hai chữ “hớn hở” ghi từng nét mặt. ta đến chỗ ta đây. Có tiếng chuông giật mạnh và vài ba giây sau, nhà thám tử có mái tóc vàng lên cầu thang, bước ba bậc và lao vào phòng chúng tôi như tia chớp. greson vồ lấy tay holmes, siết chặt và reo lên: - Ông sherlock holmes thân mến, ông hãy khen ngợi tôi . Tôi làm sáng tỏ hết, như ban ngày. Hình như có thoáng lo lắng lướt qua gương mặt diễn cảm của bạn tôi. Holmes hỏi: - Ông muốn là ông tìm được hướng đúng rồi à? - Hướng đúng! Ồ, chúng tôi tóm được hung thủ rồi. - Tên là gì? - Ác-tơ, thiếu uý hải quân – greson dài giọng, ưỡn ngực, xoa hai tay vào nhau. Holmes thở phào, hé nở nụ cười và : - Mời ông ngồi và thử điếu xì gà . Chúng tôi rất muốn biết ông tiến hành công việc như thế nào. Ông dùng cốc uýt-ki pha nước nhé. - Xin vâng. Những nỗ lực ghê gớm mà tôi phải bỏ ra trong hai ngày qua làm tôi bải hoải cả người. - Chúng tôi rất hân hạnh được ông quá bộ đến chơi – holmes , giọng nghiêm trang – Xin ông cho biết ông làm thế nào để đến kết quả hết sức đáng khen ấy. Greson ngồi sâu trong chiếc ghế bành, khoan khoái rít xì gà rồi bỗng nhiên vỗ đùi đánh tét cái: - Trong vụ này, chàng lestrade ngốc nghếch cứ tưởng mình khôn ngoan hoàn toàn nhầm đường. ta tìm viên thư ký Stanggerson mà Stanggerson dính líu đến vụ này hơn gì đứa trẻ chưa ra đời. Hẳn bây giờ lestrade tóm cổ rồi. Ý nghĩ ấy khiến cho greson cười sằng sặc mãi: - Ông tìm ra hướng của ông như thế nào? – holmes hỏi. - Khó khăn đầu tiên đặt ra với tôi là tìm cho ra tung tích nạn nhân. Có người thường cứ ngồi ở nhà chờ người ta đọc các lời nhắn tin của mình báo mà đến cung cấp tin tức cho mình, greson làm việc như thế ông bác sĩ, ông còn nhớ chiếc mũ bên cạnh nạn nhân ? - Có, chiếc mũ của cửa hàng Underwood và con số 129, đường Camberwell – holmes trả lời. - Tôi tin tưởng ông để ý. Ông đến cửa hàng chưa? – greson chột dạ hỏi. - Tôi đến – holmes đáp. greson thở phào yên tâm: - Chớ bao giờ coi thường cơ hội, dù là . - Đối với bộ óc lớn, có gì là - Giọng holmes triết lý. - Đúng thế. Tôi đến cửa hàng Underwood hỏi chủ hiệu, xem ông ta bán cho ai chiếc mũ kiểu như vậy. Chủ hiệu xem sổ sách thấy người mua tên là Drebber, trọ tại nhà bà Sác-pen. - Giỏi lắm, rất giỏi! – holmes khẽ . - Tôi đến gặp bà Sác-pen. Tôi thấy bà ta mặt tái mét và buồn rầu. con hai mắt đỏ hoe và miệng run rẩy khi nghe tôi hỏi chuyện. Chi tiết ấy thoát khỏi con mắt quan sát của tôi. Ông sherlock holmes, ông biết đấy, khi ta dò đến gần hướng đúng, các dây thần kinh của ta như run lên. Tôi mới hỏi hai mẹ con: “Bà và biết gì về cái chết của ông Drebber ?”. Người mẹ gật đầu. con oà khóc. Tôi hỏi: - Ông Drebber rời nhà bà ra tàu vào lúc mấy giờ? Bà ta cho biết là vào lúc tám giờ. Người thư ký của ông ấy là Stanggerson có hai chuyến tàu, chuyến chạy vào lúc 9 giờ 15 và chuyến kia vào lúc 11 giờ. Họ phải kịp chuyến thứ nhất. - Đó là lúc bà gặp ông ta lần cuối cùng phải ? – Tôi lại hỏi. Người mẹ có vẻ hốt hoảng. Mấy giây sau bà ta mới được tiếng “vâng”. Mấy phút im lặng trôi qua, con : - Mẹ ạ, ta nên thẳng với quý ông đây. Chúng tôi lại gặp ông Drebber. Bà Sác-pen giơ hai tay lên trời, gieo mình xuống ghế, kêu lên: - Cầu Chúa tha tội cho con! Con giết con đó! - Ác-tơ muốn ta thẳng ra – con đáp với giọng rắn rỏi. Tôi bảo họ: - Bà và nên kể hết với tôi. Những lời khai nửa vời còn tệ hại hơn là khai gì cả. Bà mẹ mắng con: - Mong sao tai họa rơi xuống đầu mày – Rồi quay sang tôi – Tôi xin kể hết. Ông đừng nghĩ rằng tôi lo cho thằng con trai tôi. Nó hoàn toàn vô tội. Tôi lo là lo rằng dưới con mắt ông và con mắt người khác, nó có thể bị coi là có liên can. Dù sao, chắc chắn là thể nào có chuyện đó. Tính tình nó, nghề nghiệp nó, những hành vi qua của nó chứng minh cho nó. - Tốt nhất là bà đừng có giấu giếm gì hết. Hãy tin rằng nếu con bà vô tội vì thế mà nó có tội thêm đâu. Bà mẹ bảo con : - Có lẽ con để mặc mẹ với ông khách hơn – con ra và bà tiếp – Thưa ông, tôi có ý định kể với ông, nhưng vì con tôi hớ, tôi còn cách nào khác. - Đó là điều tốt nhất – Tôi . - Ông Drebber ở trọ nhà tôi trong ba tuần cùng với người thư ký là ông Stanggerson. Ông này là người điềm tĩnh, kín đáo, nhưng ông chủ của ông ta thô lỗ, hung tợn. Ngay tối hôm đầu đến trọ, ông ấy tỏ ra rất xấu tính. Ông ấy có những cử chỉ và lời ăn tiếng sàm sỡ với các chị hầu. Và với cả con tôi, có lần bất thần ông ấy ôm chặt lấy nó và ôm nó. - Việc gì bà phải chịu đựng những chuyện ấy. Tôi nghĩ bà có thể tống khứ họ chứ? - Lạy Chúa! Giá mà tôi nhận cho ông ấy trọ ngay sau tối đầu tiên! Nhưng ông ấy trả tiền trọ cao, mà nay là mùa vắng khách! Tôi ở goá, thằng con trai tôi trong hải quân tốn kém cho tôi lắm. Vì vậy tôi cố chịu đựng. Nhưng lăng mạ cuối cùng này quá lắm. Vì thế, tôi bảo ông ấy tìm chỗ trọ khác. Và hai thầy trò ông ấy bỏ . - Rồi sao nữa? - Nhìn họ ra , tôi thấy người. Thằng con trai tôi lúc này nghỉ phép. Tôi hé răng với nó về chuyện này vì tính nó nóng nảy và rất quý em . Nhưng! đến giờ sau, có người giật chuông ngoài cửa và tôi thấy ông Drebber quay lại. Ông ấy cứ xông vào buồng nơi tôi ngồi với con tôi, làu bàu những câu đầu đuôi, đâu như về chuyến tàu mà ông ấy nhỡ phải. Sau đó, ông ấy quay sang con tôi, rủ nó trốn . Con tôi hoảng sợ, toan bỏ nhưng ông ấy nắm lấy cổ tay nó, cố kéo nó về phía cửa. Tôi kêu lên và đúng lúc ấy thằng Ác-tơ chạy đến. Chuyện gì diễn ra lúc bấy giờ, tôi biết nữa. Tôi nghe thấy những lời chửi rủa và tiếng xô xát. Tôi quá sợ, dám ngẩng đầu lên. Đến khi dám nhìn tôi thấy con trai tôi đứng ở giữa cửa, tay cầm cái gậy, cười to. Nó : “Thằng này chừa rồi, dám quấy rầy nhà mình nữa đâu. Để cho con theo xem nó xem sao”. Sau đó, nó cầm lấy mũ và ra . Sáng hôm sau, chúng tôi nghe tin ông Drebber chết cách bí . Lời khai ấy do chính mồm bà Sác-pen ra kèm theo những tiếng thở dài và những chỗ ngắt quãng. Tôi ghi bằng tốc ký lời khai của bà ấy để khỏi có nhầm lẫn sai sót. - Rất lý thú – holmes và cố ghìm cái ngáp – Rồi sau ra sau? - Khi bà Sác-pen khai xong, tôi thấy vụ này quy lại còn có mỗi điểm. Tôi chiếu luồng mắt của mình vào bà ta theo cái cách mà tôi luôn luôn thấy có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi con trai bà ta về nhà lúc nào. - Thưa, tôi biết. - Bà biết à? - Vâng, nó có chìa khoá cửa riêng. - Nó về sau khi bà ngủ? - Vâng. - Bà ngủ vào lúc mấy giờ? - Khoảng mười giờ. - Như vậy con trai bà vắng nhà ít nhất hai giờ? - Vâng. - Cũng có thể là vắng bốn hoặc năm giờ? - Vâng. - Nó làm gì trong thời gian ấy? - Tôi biết – Bà ta trả lời, mặt lại tái . Cố nhiên, sau đó tôi tìm ra trung uý Ác-tơ. Tôi đem theo hai viên cảnh sát và bắt giữ . Khi tôi đụng vào vai , hỏi tôi, hãy còn hăng như con gà chọi: - Chắc ông bắt tôi vì tội đồng loã trong cái chết của tên vô lại Drebber chứ gì? Chúng tôi gì với đâu mà đoán ra. Câu hỏi ấy, là rất đáng ngờ. - Rất đáng ngờ - holmes đồng tình. - còn giữ cái gậy to mà theo lời khai của mẹ , cầm khi đuổi theo Drebber. cái gậy to bằng gỗ sồi. - Vậy giả thiết của ông là thế nào? - theo Drebber đến tận đường Brixton. Đến đấy, giữa hai người lại cãi nhau nữa, và trong lúc xô xát, Drebber bị gậy vào bụng và chết ngay tức khắc, để lại dấu vết gì. Đêm hôm ấy trời mưa, đường vắng nên Ác-tơ lôi xác nạn nhân đến tận ngôi nhà trống. Còn về ngọn nến, những vết máu và chữ viết tường, chẳng qua chỉ là những cái mẹo nhằm đánh lạc hướng nhà chức trách thôi. - Rất hay! – holmes khích lệ - Ông greson, quả thực ông tiến bộ đấy. Ông còn xa hơn nhiều. Nhà thám tử kia trả lời với vẻ kiêu hãnh: - Tôi tự hào là giải quyết vụ án này khá suôn sẻ. Gã thanh niên khai rằng theo Drebber được lúc Drebber phát ra và nhảy lên chiếc xe để bỏ xa . Điều làm tôi thích thú là lestrade lao theo hướng tắc tị. Ông ta chẳng thu lượm được điều gì. Nhưng, ơ kìa, thiêng chưa, vừa đến ông ấy xuất . Quả vậy, lestrade lên cầu thang trong khi chúng tôi mải chuyện trò, và bây giờ ông ở trong phòng. Vẻ tự tin và ung dung thường có của ông, nay biến đâu mất. Nét mặt lo lắng, quần áo xộc xệch, ràng lestrade đến với ý định nhờ holmes giúp đỡ, và khi nhận ra đồng nghiệp của mình cũng có mặt ở đây, lestrade tỏ ra ngại ngùng, lúng túng. Lestrade đứng như trời trồng giữa phòng, tay mân mê chiếc mũ biết để đâu, cuối cùng : - Đây quả là vụ án cực kỳ khác thường, tài nào hiểu được. - A! Ông tưởng thế à, ông lestrade? – Giọng greson đắc thắng – Tôi cũng đoán rằng ông đến kết luận ấy. Ông có tìm được viên thư ký Stanggerson ? - Viên thư ký Stanggerson – Giọng lestrade nghiêm trọng – bị ám sát vào lúc 6 giờ sáng nay tại khách sạn Holiday.
7. tia sáng trong đêm tối. Cả ba chúng tôi đều sững người. greson bật dậy khỏi ghế đánh đổ chỗ rượu uýt-ki còn sót trong ly. Tôi lặng lẽ nhìn holmes, thấy mím môi, cau mày lẩm bẩm: - Câu chuyện thêm rắc rối. - Mà nó khá rắc rối rồi – lestrade làu bàu, ngồi xuống ghế - Tôi đến đúng lúc mọi người bàn luận phải. - Này, ông lestrade, tin ấy có …chính xác ? – greson ấp úng hỏi. - Tôi vừa mới có mặt ở phòng của Stanggerson. Tôi là người đầu tiên thấy xác ông ấy. - Chúng tôi vừa mới được nghe cách hình dung vấn đề của ông greson – holmes – Ông lestrade, ông có thể cho chúng tôi biết ông thấy và làm những gì ? - Tôi thú nhận là tôi nghi Stanggerson có dính líu vào cái chết của Drebber. Vì vậy nên tôi cố tìm ra tông tích viên thư ký. Ngày mồng 3, người ta thấy hai thầy trò họ đứng cùng với nhau tại nhà ga Euston vào lúc tám giờ rưỡi. Đến hai giờ sáng thấy xác Drebber tại đường Brixton. Vấn đề đặt ra với tôi là xác định xem Stanggerson làm gì và sau đó ta làm gì. Tôi đánh điện Liverpool, miêu tả hình dáng Stanggerson và cầu cảnh sát sở tại kiểm tra các tàu biển nhổ neo Mỹ. Sau đó, tôi sục sạo tất cả các khách sạn, các quán trọ xung quanh nhà ga Euston. Tôi tự bảo rằng nếu hai người chia tay nhau Stanggerson kiếm khách sạn khu vực lân cận để qua đêm và sáng hôm sau trở lại nhà ga. - Rất có thể hai người hẹn trước với nhau ở nơi nào đó – holmes đưa ra ý kiến của mình. - Đúng thế. Tôi mất cả tối hôm qua điều tra mà kết quả. Sáng nay, tôi lại bắt tay vào việc từ sớm và khoảng tám giờ, tôi đến khách sạn Holiday. Khi tôi hỏi trong khách sạn có người khách nào tên là Stanggerson người ta trả lời là có. - Ông là người mà ông ta chờ phải ? – Người ta hỏi tôi – Ông ấy chờ người từ hai hôm nay. - thời ông ấy ở đâu? - ở trong phòng ông ấy, gác. Ông ấy cầu chúng tôi lên gọi ông ấy vào chín giờ sáng. Chú bé đánh giày trong khách sạn dẫn tôi đến phòng Stanggerson, chỉ cho tôi cửa phòng và toan xuống tôi bỗng nhìn thấy dòng máu đỏ rỉ qua khe cửa, chảy ngang qua hành lang và đọng lại thành vũng dọc tấm gỗ lát chân tường, mé bên kia hành lang. Tôi kêu lên tiếng và chú bé đánh giày quay lại. Cửa buồng khoá phía trong. Chúng tôi lấy vai xô tung ra. Cửa sổ gian buồng để mở và bên cạnh cửa sổ là xác người đàn ông mặc đồ ngủ ở tư thế nằm phủ phục. Nạn nhân chết khá lâu vì tay chân cứng và lạnh. Lật xác lên, nhân viên khách sạn nhận ra ngay đó là người đến thuê phòng dưới cái tên Stanggerson. Nạn nhân bị nhát dao găm đâm vào mé sườn. mũi dao sâu đến tận tim. Bây giờ, đây là điều quái gở nhất trong vụ này. Các ông tưởng tượng xem có gì bên dưới cái xác? Holmes cắt lời: - Chữ “Rache” viết bằng máu. - Đúng thế - Nỗi khiếp sợ lộ trong giọng của lestrade và tất cả chúng tôi đều lặng lúc. Trong các hành động của tên hung thủ lạ mặt kia có cái gì tuần tự và bí hiểm làm cho các tội ác của càng thêm khủng khiếp. Lestrade tiếp: - Có người trông thấy hung thủ. người bán sữa đến cửa hàng của mình bằng lối men theo các chuồng ngựa ở mé sau khách sạn. ta thấy cái thang, thường vẫn để nằm dưới đất, nay được dựng lên, áp vào cửa sổ mở rộng ở tầng hai. ta qua chỗ cái thang rồi bỗng ngoái lại thấy người tụt xuống. Người đó bình thản, ngang nhiên, khiến bán sữa tưởng là bác thợ mộc đến làm việc cho khách sạn. ta có cảm tưởng người kia có vóc dáng cao lớn, mặt đỏ sậm và mặc bộ đồ nâu. Hung thủ có lẽ ở lại trong phòng ít lâu sau khi hạ sát nạn nhân vì chúng tôi tìm thấy chậu nước mà rửa tay nhuộm màu máu, và thấy có những vết máu khăn trải giường bình tĩnh chùi dao. Tôi nhìn sang holmes khi nghe lời miêu tả hình dáng hung thủ rất khớp với miêu tả của bạn tôi. hỏi: - Ông có tìm thấy gì trong phòng khả dĩ cho biết thêm về hung thủ ? - có gì. Stanggerson còn có trong túi cái ví tiền của Drebber nhưng hình như đó là điều thông thường giữa hai người vì Stanggerson là người chi tiêu mọi thứ. Ở hai vụ án này, động cơ chắc chắn phải là tiền bạc. có giấy tờ, sổ sách gì trong túi nạn nhân, ngoài bức điện gửi từ Cleverland cách đây tháng ghi vẻn vẹn: “H ở Châu Âu”. Bức điện ký tên. - Còn gì khác nữa ? – holmes hỏi tiếp. - cuốn tiểu thuyết đặt giường, cái tẩu thuốc để chiếc ghế cạnh giường. bàn có cốc nước, và bậc cửa có cái hộp đựng hai viên thuốc. Holmes ngồi bật dậy, reo lên vui vẻ: - Khâu cuối cùng! Cuộc điều tra của tôi thế là trọn vẹn! Hai nhà thám tử kia nhìn khó hiểu. Bạn tôi với vẻ tin tưởng: - Tôi có trong tay tất cả những sợi dây đan bện với nhau cách rắc rối. Tất nhiên, còn có những chi tiết cần phải bổ sung. Tôi dẫn ra đây bằng chứng về những điều tôi biết. Ông có đem theo mấy viên thuốc ấy ? - Tôi có đây – lestrade liền giơ ra cái hộp trắng - Tôi giữ lấy nó cùng với cái ví và bức điện, định đem về nộp cho Sở cảnh sát. Tôi đem theo những viên thuốc này cũng là tình cờ thôi vì tôi coi chúng có gì quan trọng. - Xin ông đưa cho tôi – Holmes bảo – Này, bác sĩ, đây có phải là những viên thuốc thông thường ? Hai viên thuốc trông rất giống những viên thuốc thông thường. Đó là những viên thuốc tròn, , màu ngọc xám và gần như trong suốt. Tôi nhận xét: - Viên thuốc trong và , tôi nghĩ nó dễ hoà tan trong nước. - Đúng thế - holmes – Bây giờ, xin các làm ơn xuống nhà đem hộ tôi lên đây con chó già ốm yếu mà hôm qua bà chủ nhà nhờ giúp nó sớm về chầu tổ tiên. Tôi xuống nhà, ôm con chó lên. Mắt nó lờ đờ, hơi thở hổn hển. Thực vậy, mõm nó trắng như tuyết cho thấy nó sống quá cái thời hạn sống thông thường của con chó. Tôi đặt nó xuống tấm nệm rơm. - Bây giờ tôi bẻ trong hai viên thuốc này ra làm đôi – holmes vừa vừa làm – Tôi cất nửa vào trong hộp để dùng về sau. nửa kia, tôi bỏ vào chiếc cốc này cùng với thìa nước. Ta thấy ông bạn bác sĩ của chúng ta đoán đúng là nó dễ tan trong nước. - Nó có dính dáng gì đến cái chết của Stanggerson đâu? – lestrade , giọng bực tức. - Kiên nhẫn chút! Có dính dáng nhiều lắm. Bây giờ tôi pha thêm vào chút sữa cho dễ uống. Đem cho chó, ta thấy nó vội vã tớp ngay. Con vật uống hết chỗ nước pha sữa ấy, rồi liếm đĩa. Vẻ nghiêm trang của holmes khiến chúng tôi im lặng quan sát con vật. Nó nằm xuống chiếc ghế đệm, hơi thở nặng nề, sức khỏe của nó tăng lên hoặc giảm sau khi uống. Holmes rút đồng hồ ra xem và mỗi phút trôi qua, bực bội và thất vọng càng nét mặt . bặm môi, gõ tay lên bàn, thể nôn nóng cao độ. Tôi thấy thương trong khi các nhà thám tử kia nở nụ cười giễu cợt. - thể có chuyện ngẫu nhiên – Cuối cùng holmes kêu lên, từ chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như con dã thú trong phòng – Đây thể là việc ngẫu nhiên được. Chính những viên thuốc mà tôi ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta gặp lại chúng ở cái chết của Stanggerson. Vậy mà giờ chúng lại có tác dụng gì cả, thế là làm sao? Tôi đoán ra rồi! Reo lên tiếng mừng rỡ, holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả nửa vào cốc nước, cho thêm sữa rồi cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa mới chạm vào chỗ nước ấy là toàn thân nó co giật dữ dội rồi nó nằm vật ra ngay đơ. Holmes hít hơi thở dài, quệt mồ hôi đọng trán: - Trong hai viên thuốc vừa rồi, viên chứa thuốc độc cực mạnh còn viên kia vô hại. Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó ngay trước khi mở hộp. Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn tôi còn đầy đủ lý trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng tỏ giả thiết của holmes là đúng. Tôi thấy hình như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan . - Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng – holmes tiếp - Ấy là vì ngay từ đầu cuộc điều tra, các ông nắm được các dấu vết quan trọng ở trước mắt các ông. Tôi có cái may mắn là để lọt cái dấu vết ấy, và tất cả những việc diễn ra sau đấy đều xác nhận giả thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này vô cùng khó khăn nếu như ta tìm thấy xác nạn nhân hè đường kèm theo chi tiết nào trong số những chi tiết phụ lạ lùng và khác thường. Những chi tiết kỳ quái ấy, làm cho vụ án khó khăn thêm mà… Greson nghe bài diễn văn của holmes với vẻ hết sức nôn nóng, cuối cùng kìm được thêm nữa: - Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phải bắt được hung thủ. Bây giờ chúng tôi xin hỏi thẳng là ông biết hung thủ là ai chưa? Lestrade phụ hoạ thêm: - greson có lý, ông holmes ạ. Chúng tôi cố công gắng sức nhưng đều thất bại. Tôi cũng thêm ý kiến: - Mọi chậm trễ torng việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó có thời gian gây thêm án mạng mới. Bị mọi người dồn ép như vậy, holmes có vẻ lưỡng lự. tiếp tục lại lại trong phòng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lông mày nheo lại như thói thường ở trong những lúc mải mê suy nghĩ. Cuối cùng, holmes đột ngột dừng lại, nhìn thẳng vào mặt chúng tôi: - xảy ra án mạng nào nữa. Các ông hỏi tôi có biết tên hung thủ . Có, tôi biết. Tôi dự định bắt từ lâu rồi, nhưng đây là việc cần phải thận trọng, vì là kẻ lực lưỡng, khôn ngoan, liều lĩnh và được kẻ khéo giúp sức. Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta nắm trong tay mọi bằng chứng tố cáo ta còn có cơ hội bắt , nhưng nếu có chút nghi ngờ nào thay tên đổi họ và tan biến vào bốn triệu dân của thành phố này. Tuy muốn làm tổn thương đến tự ái của hai ông, nhưng tôi coi những người ấy mạnh hơn cảnh sát của Scotland Yard, bởi vậy tôi cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, mình tôi chịu. Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà phương hại đến các bố trí của tôi tôi làm ngay. Greson và lestrade, người đỏ mặt đến tận chân tóc, người mắt long lên vì tò mò ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người chưa kịp lời nào có tiếng gõ cửa. thằng bé Uy-ghin ló đầu vào, giơ tay chào: - Thưa ông, cháu gọi được chiếc xe ạ. - Giỏi lắm! – holmes nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra vòng khoá tay bằng thép, tiếp: - Các ông ở Scotland Yard sao dùng loại khoá tay này nhỉ. Các ông xem lò xo bật có lẹ : vòng khoá bập vào trong nháy mắt. Lestrade mỉa mai: - Cái khoá kiểu cũ cũng khá tốt nếu như ta tìm được người để khoá. - Được rồi, được rồi – holmes cười mỉm – Bác đánh xe giúp tôi tay để buộc những chiếc va-li này. Uy-ghin bảo bác đánh xe lên đây. Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi năng như thể sắp đâu xa mà chẳng trước gì với tôi cả. Trong phòng có chiếc va-li . Holmes cầm lấy chiếc va-li tìm cách xiết chặt cái dây đai. mải làm người đánh xe vào: - Bác đánh xe, giúp tôi tay thắt mấy cái đai này lại – holmes , quay đầu lại. quỳ gối xuống sàn, cúi người chiếc va-li. Người đánh xe bước lại, vẻ lầm lì và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va-li. Ngay lúc ấy, có tiếng lò xo bật đánh tách cái và holmes đứng thẳng người lên, con mắt sáng ngời: - Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Hope, kẻ giết Drebber và Stanggerson. Toàn bộ việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến nỗi tôi kịp nhận ra. Tôi còn nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng và giọng vang vang của holmes, gương mặt bàng hoàng và dữ dội của người đánh xe khi ta nhìn cái khoá tay sáng loáng như có phép thần thông xiết chặt lấy hai cổ tay ta. Tất cả chúng tôi đứng ngây ra như phỗng dễ đến hai phút. Gầm lên tiếng, người đánh xe vùng ra khỏi tay holmes, lao mình qua cửa sổ. Các ô cửa mảnh khảnh gẫy tan cùng với các ô kính nhưng chưa nhô hẳn được người ra ngoài cả greson, lestrade lẫn holmes chồm lên người , lôi ngược vào trong phòng. Gã đánh xe khỏe và hung dữ đến nỗi nhiều lần vùng ra được khỏi tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay bị rách toạc nhiều chỗ khi lao qua cửa kính, nhưng chống cự của hề giảm chút nào. Mãi đến khi lestrade thọc tay được vào sau cổ áo , làm suýt nghẹt thở, mới im. Dù sao chúng tôi phải trói cả chân tay lại mới cảm thấy yên tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy, mệt nhoài. - Ta có chiếc xe của bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải . Bây giờ, nào các ông – holmes tươi cười – Tấm màn bí đến đây được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu gì hỏi.
8. Bình nguyên chết. Nằm ở phần giữa Bắc Mỹ là dải đất hoang vu và cằn cỗi. Trong nhiều năm dài, nó như cái hàng rào ngăn chặn bước tiến của nền văn minh. Suốt từ dãy núi Sierra Nevada đến bang Nébraska, từ con sông Yellowstone ở phía Bắc đến bang Colorado ở phía Nam là cả vùng hoang vắng im lìm. Cảnh vật thay đổi tuỳ theo từng vùng. Nơi là những rặng núi hùng vĩ với những đỉnh cao đầy tuyết, nơi là những thung lũng tối đen, sầu thảm. Nơi lại là những con sông chảy xiết với dòng nước ào ào băng qua những hẻm núi và những cánh đồng bao la, mùa đông tuyết trắng, mùa hè xám xịt. Tuy nhiên, tất cả những cảnh vật rất khác nhau ấy đều có chung những đặc điểm là cằn cỗi, là hiểm ác, là đói khát. ai sinh sống tại xứ sở vô vọng này. Hoạ hoằn mới có toán người da đỏ vượt qua nó, tìm những vùng đất săn bắn mới, song họ cũng phải lánh xa những cánh đồng ấy và trở lại những đồng cỏ cũ của họ. Con sói náu mình trong bụi cây xơ xác, con chim ó đập cánh nặng nề và con gấu xám vụng về kê chân trong những khe núi u tối. Đó là những dân cư hiếm hoi ở dải đất hoang vu này. khắp thế giới, thể có cảnh tượng nào sầu thảm hơn cảnh tượng trải ra dưới mắt khi ta đứng ở triền phía bắc rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống. Trải dài ra xa đến tận cùng của tầm mắt là vùng đồng bằng mênh mông phẳng lì, nham nhở những khoanh đất và những bụi cây lùn tịt. Ở tận cùng chân trời nổi lên dãy núi dài với sườn núi dựng đứng và đỉnh núi loang lổ tuyết. cả vùng đất bao la, có dấu hiệu về sống, có lấy cánh chim bầu trời xanh biếc, có lấy vật di động mặt đất thê lương. Bao trùm lên tất cả sa mạc mênh mông này chỉ có im lặng, ghê rợn. Ở vừa mới là có thứ gì liên quan đến sống dải đất này. Điều đó hoàn toàn đúng. Khi đứng rặng núi Sierra Blanco nhìn xuống dưới, ta nhận thấy có con đường mòn xíu, như sợi chỉ ngoằn ngoèo uốn khúc qua sa mạc và chìm ở cuối tầm mắt. Những bánh xe in lằn xuống thành rãnh con đường này, bàn chân của nhiều kẻ phiêu lưu dẫm lên đó. Rải rác dọc con đường có rất nhiều vật gì trăng trắng, bóng lên dưới ánh nắng mặt trời và nổi lên lớp đất buồn thảm. Hãy lại gần, nhìn xem. Đó là những chiếc xương. Chiếc to và thô kệch, chiếc hơn, xương to là xương bò, xương là xương người. suốt con đường dài hai nghìn kilômet, rải rác hài cốt của những kẻ ngã xuống. Ngày 4 tháng 5 năm 1847, có người bộ hành đơn đứng ở đúng vị trí nhìn xuống cảnh ấy. Khó được tuổi ông ta khoảng bốn mươi hay sáu mươi. Khuôn mặt gầy và dữ tợn, xương trồi lên nhọn hoắt dưới lớp da đen sạm và nứt nẻ, tóc dài và đen, râu có nhiều sợi bạc, hai con mắt lõm sâu trong hai hốc mắt rực lên ánh khác thường, và bàn tay xương xẩu nắm lấy khẩu súng trường. Ông ta đứng đó, dựa người vào khẩu súng, bộ mặt chỉ còn da bọc xương cũng như bộ quần áo rộng thùng thình đôi chân và đôi tay khẳng khiu chỉ nguyên nhân của vẻ tàn tạ và già nua: người này sắp chết vì đói và khát. Ông ta lần bước xuống khe núi rồi lại leo lên tận mỏm đồi thấp này để nhìn xem chỗ nào có dấu hiệu của nước. Ông ta lo lắng nhìn về phương Bắc, phương Đông rồi phương Tây và hiểu rằng những cuộc hành trình tứ xứ của mình kết thúc ở đây, tảng đá cằn cỗi này. - Tại sao lại phải là ở đây, sau hai mươi năm nữa? – Ông ta thào rồi ngồi xuống dưới bóng tảng đá. Trước khi ngồi, ông ta đặt khẩu súng và túi đồ buộc trong chiếc khăn quàng. Tức cái túi ấy vọng ra tiếng rên nho và gương mặt ra. - Bác làm cháu đau rồi đấy – giọng trẻ thơ khẽ trách. - ư, cháu? – Người đàn ông trả lời, ân hận – Bác lỡ tay mà. Vừa ông ta vừa cởi tấm khăn xám, để lộ ra bé gai khoảng năm tuổi. Đôi giày nhắn với chiếc váy hồng đỏm dáng dưới chiếc tạp dề lên chăm sóc của người mẹ. đứa trẻ xanh xao và mệt mỏi, nhưng bị suy sụp bằng người đồng hành của nó. - Còn đau , cháu? – Người đàn ông lo lắng hỏi, vì đứa bé vẫn xoa những búp tóc quăn vàng óng rối bù đằng sau gáy. - Bác hôn vào đây chữa đền cháu – Đứa bé với vẻ nghiêm trang , tay chỉ vào chỗ đau – Mẹ cháu vẫn làm thế. Mẹ cháu đâu rồi? - Mẹ cháu rồi. Tí nữa cháu gặp mẹ cháu. - rồi ạ? Lạ nhỉ, mẹ cháu mà chào cháu. Bác ơi, khát quá! có nước sao? Bác có gì để ăn sao? - có, cháu ạ. Cháu cố chờ chút rồi ổn. Cháu dựa đầu vào bác đây, như thế cháu cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu có cái gì đấy? - Cháu có cái này đẹp lắm – Đứa bé reo lên, giơ ra hai mẩu mi-ca óng ánh – Khi về đến nhà, cháu cho cháu. - Rồi cháu thấy những thứ còn đẹp hơn thế. Chỉ cần cố nán chờ lát. Cháu còn nhớ lúc chúng ta rời khỏi dòng sông ? - Dạ có. - Thế đấy! lúc ấy chúng ta tính gặp được con sông khác. Nhưng chúng ta gặp sông. Nước mỗi lúc ít. Chỉ còn hai giọt cho các cháu , và…và… - Và bác rửa mặt được – Đứa bé xen ngang, giọng nghiêm trang, mắt nhìn chằm chằm vào bộ mặt nhem nhuốc của ông già. - Đến nước uống còn có, cháu ạ. Ông Ben-dơ là người đầu tiên ra , rồi đến da đỏ Pi-tơ, rồi bà Grê-go, rồi Giôn-ni, và sau cùng là mẹ cháu. - Thế là mẹ cháu… Mẹ cháu cũng chết rồi! – Đứa bé kêu lên, lấy tạp dề che mặt và khóc nức nở. - Phải, tất cả chết hết, chỉ còn lại có bác cháu ta. Lúc đó ta tưởng may ra có thể tìm thấy nước ở mạn này. - Bác bảo là cháu và bác chết hết à? – Đứa bé thôi khóc, ngẩng bộ mặt đầm đìa nước mắt lên. - Ta nghĩ chắc gần như vậy. - Sao bác ngay? – Đứa bé reo lên với tiếng cười vui vẻ - Bác làm cháu sợ quá! Nếu bác và cháu chết được gặp mẹ cháu. - Phải, cháu đến với mẹ cháu. - Cả bác nữa. Cháu kể là bác tốt với cháu biết bao. Mẹ cháu ra đón bác ngay cổng Thiên đường, với cái xô đầy nước và những chiếc bánh ngọt bằng lúa mạch nóng. Còn lâu nữa bác? - lâu lắm đâu. bầu trời xuất ba cái chấm tiến về phía họ, mỗi lúc to hơn. Chẳng mấy chốc, ba cái chấm ấy trở thành ba con chim nâu to lớn, chúng bắt đầu lượn thành vòng tròn đầu hai kẻ lang thang, rồi đậu những tảng đá mọc chìa ra. Đó là những con ó của miền Tây, những con chim báo hiệu cái chết. - Ô, gà, bác kìa! – Đứa bé kêu lên vui vẻ, chỉ về phía những con chim mang điềm gở, vỗ hai tay vào với nhau để xua chúng bay – Bác ơi, có phải là Chúa tạo ra vùng này ? - Ừ. - Chúa tạo ra vùng đất đằng kia, ở bang Illinois. Chúa tạo ra bang Missouri – Đứa trẻ tiếp. - Chắc là Chúa khác tạo ra đất này. Đất ở đây còn xa mới bằng được các nơi kia. Chúa quên làm cho ở đây có nước và cỏ cây. - Này, bác cháu ta cầu kinh nhé? – Người đàn ông dè dặt hỏi. - đến tối đâu. - cần đến tối. - Thế bác, sao bác cầu kinh? – Đứa bé hỏi, đôi mắt ngạc nhiên. - Ta thuộc. Ta đọc kinh từ khi ta mới cao bằng nửa khẩu súng này. Cháu cầu kinh, bác đọc theo. - Thế bác phải quỳ xuống – Đứa bé rải tấm khăn xuống đất để quỳ - Bác phải đặt bàn tay như thế này. Như thế là ngoan hơn. Hai người quỳ gối bên cạnh nhau tấm khăn . Gương mặt bầu bĩnh của đứa trẻ và bộ mặt gân guốc dữ tợn của người đàn ông cùng ngửa lên bầu trời. Cầu kinh xong, họ lại trở về ngồi bên bóng của tảng đá cho đến khi đứa trẻ ngủ thiếp . ba ngày đêm liền, ông ta cho phép mình dừng bước hoặc nghỉ ngơi. Từ từ mí mắt ông ta cụp xuống, đầu gục xuống mỗi lúc thấp hơn cho đến khi bộ râu hoà vào những búp tóc vàng và cả hai vào giấc ngủ sâu lắng, mộng mị. Nếu thức đêm nửa giờ nữa, ông ta được thấy cảnh tượng kỳ lạ. Từ xa, từ rất xa, bốc lên đám bụi mờ mờ, rất và rất đến nỗi khó phân biệt nó với lớp sương mù. Những đám bụi ấy tiếp tục bốc lên, lớn lên cho đến khi tạo thành đám mây bụi rệt. rồi đám mây ấy cũng ngừng lớn lên. Ở những mảnh đất phì nhiêu hơn, ai thấy cảnh ấy cũng cho rằng đây là đàn bò rừng tiến về phía mình. Nhưng ở vùng đất hoang vắng này, điều đó thể có. Khi đám mây bụi đến ra những mui vòm phủ bạt của những chiếc xe ngựa vượt sa mạc, và hình bóng thấp thoáng của những người cưỡi ngựa có vũ khí, cho thấy đây là đoàn xe rất dài tiến về phía Tây. Đầu đoàn xe tới chân núi mà đuôi đoàn xe vẫn còn chìm khuất ở cuối đường chân trời. Phụ nữ bước khó nhọc dưới gánh nặng vai. Trẻ em chạy lon ton bên cạnh các cỗ xe hoặc tò mò nhìn vào những thứ dưới mui vải bạt. Từ khối người to lớn này vang lên tiếng ì ầm hỗn độn, xen lẫn tiếng ngựa hí và tiếng bánh xe rầm rập. Tiếng ì ầm ấy lớn đến vậy song vẫn đánh thức nổi hai ông cháu. đầu đoàn người di cư là nhóm khoảng hai mươi người cưỡi ngựa. Đến chân tảng đá, họ dừng ngựa, quay lại với nhau, dường như để hội ý. người râu, tóc hoa râm, nét mặt độc ác : - Giếng nước ở về phía bên phải, giáo hữu ạ. người khác tiếp: - Ở về phía bên phải rặng núi Sierra Blanco. Theo đường đó, chúng ta tới con sông Rio-Grande. Người thứ ba lớn: - Ta chớ sợ hãi trước xuất của dòng nước. - Đấng tối cao làm cho dòng nước tuôn ra từ đá, từ bỏ đám dân mà Người tuyển chọn. - A men! A men! – Cả nhóm người đáp lại. Họ sắp sửa lại lên đường người reo lên tiếng kinh ngạc và chỉ tay về tảng đá ở phía đầu họ. Ở chỗ ấy có mẩu vải màu hồng phấp phới bay. Nhìn thấy thế, họ ghìm ngựa lại, cầm súng lăm lăm trong khi những người khác phi ngựa đến tăng cường. Những tiếng “bọn da đỏ” được lan truyền cửa miệng mọi người. - Ở đây có bọn da đỏ - người đứng tuổi xem chừng là thủ lĩnh – Ta vượt núi. - Giáo hữu Stanggerson, tôi xin trinh sát – người trong toán . - Tôi nữa. Tôi nữa – Khoảng chục giọng khác cùng vang lên. Người tên là Stanggerson trả lời: - Các bạn trẻ hãy để ngựa lại đây, chúng ta chờ. Thoáng cái, mấy người trai trẻ xuống ngựa, chạy bay lên sườn dốc đứng. Sau thoáng, bóng của họ nổi bật nền trời. Người thanh niên báo động cho cả đoàn dẫn đầu, cả toán theo sau. Bỗng họ thấy gã giơ cả hai tay lên trời với động tác của người quá đỗi ngạc nhiên. Khi họ đến chỗ gã, họ cũng kém kinh ngạc. Nằm dựa tảng đá là người đàn ông và bé . Đầu đứa bé đặt mảnh áo nhung ngực người đàn ông. Đôi môi hồng hé mở của đứa bé để lộ hàm răng trắng đều đặn. đôi chân bụ bẫm mang tất dài xỏ trong đôi giày xinh xắn tương phản với đôi chân khẳng khiu, khô đét của người đàn ông. Đậu đỉnh tảng đá, nhìn xuống cặp lữ khách kỳ quặc này là ba con ó lớn. Thấy đám người mới đến, chúng kêu lên những tiếng thất vọng, rồi chờ đợi nữa, nặng nề vỗ cánh bay . Tiếng kêu của những con chim đánh thức hai người họ. Họ nhìn xung quanh với vẻ cực kỳ sửng sốt. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn xuống bình nguyên, thấy đám người chen chúc, ông ta đưa bàn tay xương xẩu lên dụi mắt, lẩm bẩm: - Ta mê sảng chăng? Đứa bé nắm lấy gấu tạp dề, im lặng nhìn khắp xung quanh. người trong đám ấy đặt đứa bé lên vai mình, trong khi những người khác dìu người đàn ông về chỗ các xe ngựa. Người đàn ông : - Tôi tên là John. Cả đoàn người hai mươi mốt người chỉ còn lại có tôi và đứa trẻ này. Những người kia chết ở đằng kia, phía phương Nam. - Có phải con ông đấy ? - Bây giờ nó mới là con tôi. Kể từ hôm nay, nó mang tên là Lucy. Thế còn các ông là ai? – Ông ta tò mò nhìn những người cứu mình. trong số những người trai trẻ kia đáp: - Chúng tôi gần mười nghìn người. Chúng tôi là những đứa con bị ngược đãi của Chúa, những người dân được thiên thần Mérona tuyển chọn. Người đàn ông đáp: - Tôi chưa bao giờ được nghe . Vị thiên thần ấy tuyển chọn quá nhiều đấy. - được giễu cợt những điều thiêng liêng – Giọng người kia nghiêm khắc – Chúng tôi là những tín đồ ở các Thánh kinh của thiên thần Mérona. Chúng tôi xuất phát từ Nauvoo bang Illinois, nơi chúng tôi dựng lên ngôi đền của đạo chúng tôi. Chúng tôi tìm nơi náu xa bọn người bạo tàn vô Chúa, nơi mà chúng tôi phải tìm ra ở trung tâm sa mạc. Cái tên Nauvoo gợi lại vài ký ức cho John. Ông : - Tôi biết rồi. Các ông là người Mormons. - Phải – Đám người kia đồng thanh trả lời. - Các ông định đâu? - Chúng tôi biết. Bàn tay của Chúa dẫn dắt chúng tôi thông qua vị giáo chủ. Ông phải ra trình diện trước giáo chủ. Lúc đó, họ xuống đến chân đồi. Nhiều tiếng kêu kinh ngạc và thương xót vang lên khi họ thấy hai người lạ mặt kiệt quệ. Đám người kia dừng lại mà dẫn họ tiếp cho đến khi tới chiếc xe khác biệt hẳn với các xe khác. Chiếc xe này có sáu ngựa kéo trong khi các xe khác chỉ hai hoặc bốn ngựa. Ngồi bên cạnh người đánh xe là người đàn ông tuổi quá ba mươi, nhưng cái đầu bề thế và nét mặt kiên nghị cho thấy là kẻ biết điều khiển người khác. Khi đám người kéo tới, người ấy bỏ quyển sách xuống, chăm chú nghe kể lại. Sau đó, người ấy quay sang hai kẻ phiêu bạt: - Nếu các người muốn được thu thập vào đoàn chúng tôi, ta chỉ có thể nhận các người như những tín đồ thuộc đạo giáo chúng ta. Thà để cho xương các người phơi trắng sa mạc hơn là để cho các người trở thành vết hư trong chúng ta. Các người có muốn gia nhập đoàn chúng tôi với điều kiện ấy ? - Tôi xin gia nhập với bất kỳ điều kiện nào. - Giáo hữu Stanggerson, hãy mang đồ ăn và thức uống đến cho , và cả đứa trẻ nữa. Giáo hữu còn có nhiệm vụ dạy cho tín ngưỡng của chúng ta. Thôi. Ta thôi. Tiến lên! Tiến về Sion! - Tiến lên! Tiến về Sion! Đám người Mormons đồng thanh nhắc lại, và những tiếng đó truyền từ miệng người này sang miệng người khác dọc theo cả đoàn người dài dằng dặc cho đến khi chìm thành thanh mơ hồ ở tít xa xa. Tiếng roi ngựa quất, tiếng xe kéo kẹt chuyển mình, cỗ xe lớn lăn bánh trước, rồi cả đoàn xe lần nữa lại ra theo con đường mòn lượn khúc bình nguyên. Stanggerson đưa họ đến cỗ xe của mình, ở đó dọn sẵn bữa cơm. - Các người chớ quên rằng bây giờ và mãi mãi sau này các người là thành viên của đạo giáo chúng tôi.