7. Bàn chân của qủy Sau những lần phá án ly kỳ nhất, đến năm 1897, con người mình đồng da sắt bắt đầu biểu lộ vài triệu chứng mệt mỏi. Tháng 3 năm đó, bác sĩ Moore Agar ở phố Harley ra lệnh cho Holmes phải nghỉ ngơi hẳn, nếu muốn tránh suy thoái tâm thần nghiêm trọng. Holmes chưa bao giờ để ý đến sức khoẻ của mình, nhưng khi nghe dọa vĩnh viễn mất khả năng làm việc, liền thay đổi khí. Do vậy vào đầu mùa xuân năm 1897, hai chúng tôi đến ngụ trong biệt thự bé gần vịnh Poldhu, ở mỏm cực của bán đảo Cornwall. Nơi đây rất thích hợp cho tính khí u buồn của con bệnh. Qua các cửa sổ của ngôi nhà , tường trắng, chúng tôi nhìn thấy trọn cái vòng bán nguyệt thê lương của vịnh Mounts, từ lâu đài là cửa của các thuyền buồm, với những mỏm đá ngầm. Ở phía đất liền, quang cảnh cũng khá ảm đạm. Đó là vùng rừng chồi mầu nâu. Xa xa, tháp chuông của nhà thờ đánh dấu vị trí của ngôi làng cổ. Khắp nơi rừng chồi này, người ta tìm thấy các dấu vết của chủng tộc diệt vong với những kiến trúc quái dị bằng đá, những mô đất hình thù kỳ lạ chứa đựng tro của người chết và những công trình quái đản có thể là những đài tưởng niệm tử sĩ trong thời kỳ xa xưa. Cái nơi huyền bí này kích thích mạnh mẽ tư tưởng của Holmes. dành khá nhiều thời giờ để dạo và suy ngẫm, lưu tâm đến ngôn ngữ xưa ở vùng Cornwall. Đối với , nó cùng tộc với ngôn ngữ của người Chaldée mà các thương nhân Phoenic đưa vào đó đường bán thiếc. Trước đây, khi Holmes vừa nhận được bưu kiện sách triết và bắt đầu viết luận án ngẫu nhiên chúng tôi lọt vào mảnh đất thơ mộng này. Tôi buồn rầu , nhưng Holmes vui vẻ vô cùng: bài toán với nhiều diễn biến và nhiều bí hiểm chờ đợi . Chúng tôi lọt vào chuỗi biến cố làm rung chuyển chỉ ở vùng Cornwall mà ở cả nước nữa. Người ta gọi đó là “Nỗi kinh hoàng của vùng Cornwall”. Tôi có rằng tại vùng đất Cornwall này, rải rác đó đây có những cái tháp làm dấu vị trí các ngôi làng. Làng Tredannick Wollas có nhà cửa qui tụ quanh nhà thờ cổ rêu phong. Linh mục chánh xứ Roundhay, 40 tuổi, là người dễ thương, có biết chút ít về khảo cổ học. Ông hiểu tất cả các ngõ ngách của địa phương và thường mời chúng tôi uống trà tại tòa chánh xứ. Nơi đây chúng tôi được giới thiệu với nhà quí tộc Mortimer Tregennis, người thuê căn hộ trong tòa nhà mênh mông của chánh xứ. Ông có dáng người gầy, da màu nâu, mang kiếng và còng lưng như bị tật. Tôi nhớ hôm đó trong cuộc thăm viếng ngắn ngủi tại tòa chánh xứ, nhân vật này ít u buồn, rụt rè và hình như ưu tư về chuyện riêng. Ngày thứ ba, 16 tháng 3, lâu sau bữa cơm sáng, lúc chúng tôi hút điếu thuốc trước khi ra rừng dạo chơi theo lệ thường, hai người đàn ông ấy đến. Linh mục chánh xứ với giọng xúc động: - Thưa ông Holmes, đêm hôm qua xảy ra việc bi thảm, làm chấn động nhất từ trước đến nay. Chúng tôi xem có mặt của ông tại đây, xứ đạo này, là phước lành, vì kiểm lại toàn nước , ông là người duy nhất mà chúng tôi cần trong giây phút này. Tôi nhìn nhà tu hành với cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhưng Holmes vứt thuốc, ngồi ngay ngắn lại. chỉ cái ghế dài. Hai người khách ngồi sát bên nhau. Ông Mortimer Tregennis tự chủ hơn vị tu sĩ, nhưng đôi mắt u buồn rực sáng và hai bàn tay run rẩy, cho thấy rằng ông ấy cũng xúc động như linh mục. - Ai , cha hay là tôi? - ông hỏi cha xứ. - Thưa cha! - Holmes - Chính cha phát việc nên tôi đề nghị cha trình bày. Tôi lần lượt quan sát nhà tu hành, ràng ông rất vội vã khi mặc quần áo, còn người ở trọ ăn mặc rất chỉnh tề. Vị linh mục : - Đêm qua, ông Tregennis đây đến chơi với hai người là Owen, George và em Brenda của ông tại Tredannick Wartha, rừng chồi. Ông về lúc hơn 10 giờ. Ba người còn lại tiếp tục đánh bài trong phòng ăn. Mọi người đều khoẻ mạnh và vui vẻ. Sáng nay, ông dậy sớm, dạo về hướng đó, xe của bác sĩ Richards đuổi theo, cho biết rằng mình vừa nhận được lời mời khẩn cấp từ Tredannick Wartha. Tất nhiên ông Mortimer Tregennis liền leo lên xe cùng . Khi tới đó, ông thấy tình trạng dị thường. Hai trai, em vẫn còn ngồi tại bàn, y hệt như lúc ông ra về. Các quân bài vẫn ở trước mặt họ, đèn nến cháy cạn chén, nhưng em tựa lưng vào ghế, chết cứng. Còn hai người trai ngồi la cười và hát như hai thằng điên. Cả ba, chết và hai điên, đều biểu lộ mặt họ cùng kinh hoàng vô cùng ghê rợn. Trong nhà có ai, trừ bà già Porter, người nấu bếp kiêm quản gia. Bà này khai rằng mình ngủ ngon lành, chẳng nghe tiếng động nào trong đêm. vật gì bị đánh cắp hoặc bị dời chỗ. Người ta đoán mò lung tung về tính chất của kinh hoàng. Holmes lặng thinh hồi lâu, chìm đắm trong cái thảm kịch quái dị. - Tôi đảm trách nội vụ. Cha tới đó chưa, thưa cha? - Chưa. Khi ông Mortimer Tregennis tường thuật các chi tiết đó, ngay tức khắc chúng tôi chạy tới đây. - Nơi xảy ra thảm kịch cách đây bao xa? - Khoảng dặm. - Như vậy chúng ta bộ. Nhưng trước khi , tôi muốn hỏi ông Mortimer Tregennis vài câu. Ông này ngồi im, mặt tái xanh, đường nét căng, nhìn Holmes cách lo âu, hai bàn tay co giật điên hồi. Đôi môi trắng bệch run rẩy từ khi nghe kể về biến cố lạ lùng giáng xuống đầu các em của ông. Ông ta cách nhiệt thành: - Tôi thành trả lời ông. - Xin ông hãy kể về tối hôm qua. - Tối hôm qua, tôi ăn cơm tối với cha chánh xứ và cả của tôi là George đề nghị đánh bài. Chúng tôi bắt đầu chơi lúc 9 giờ. Tôi đứng dậy ra về lúc 10 giờ kém 15. Lúc tôi về, mọi người vẫn ngồi quanh bàn, vui tươi hớn hở. - Ai mở cửa cho ông về? - Lúc đó bà Porter ngủ. Do đó chính tôi mở và đóng cửa chính. Cửa sổ cạnh bàn họ đánh bài đóng rồi. Nhưng bức mành có kéo xuống. Cửa lớn và cửa sổ sáng nay vẫn như cũ. Vậy là có lý do để rằng có kẻ vô danh lẻn vào nhà. Nhưng hai tôi điên vì sợ, còn Brenda chết. - Theo như ông tường thuật các kiện này quả là phi thường. Nếu tôi lầm ông thể giải thích được tấn thảm kịch này? - Holmes . - Quỷ sứ, thưa ông Holmes! Chỉ có quỷ sứ! - ông Mortimer Tregennis kêu lên - Sức mạnh của con người thể làm được như thế. - Nếu câu chuyện thuộc bình diện siêu nhân, tôi phải bó tay. Nhưng chúng ta thử vận dụng tất cả các giả thiết tự nhiên trước chấp nhận giả thiết huyền bí. Thưa ông Tregennis, dù ít dù nhiều, ông sống chung với gia đình phải ? Những người kia sống chung với nhau, còn ông ở riêng. - Vâng, thưa ông Holmes, chúng tôi là gia đình khai mỏ thiếc ở Redruth. Chúng tôi bán cái xí nghiệp của mình cho công ty và kiếm được số tiền khá lớn dành cho tuổi già. Tôi phủ nhận rằng chia chác có gây ra vài bực dọc trong thời gian. Nhưng giờ đây, tất cả vào quên lãng. Và em chúng tôi trở lại thân thiết với nhau. - Hãy suy nghĩ thêm về cái đêm đoàn tụ! Ông nhớ kiện nào có thể soi sáng cái bi kịch sao? Cố nhớ , ông Tregennis, chỉ cần chỉ dẫn nhất cũng có ích cho tôi. - Tôi thấy gì cả. - khí của gia đình cũng bình thường như mọi ngày? - Chưa bao giờ họ vui như thế. - Các và em của ông có vẻ gì lo lắng ? Họ có biểu lộ mối lo sợ mơ hồ về mối hiểm nguy nào đó ? - Tuyệt đối ! - Vậy là ông có chi tiết gì để giúp tôi? Mortimer Tregennis suy nghĩ nghiêm túc trong giây lát. - Tôi có nhớ điều. Trong lúc chúng tôi ngồi quanh bàn, tôi quay lưng ra cửa sổ, còn George nhìn ra cửa sổ. Có lần tôi thấy nhìn đăm dăm qua vai tôi đến nỗi tôi phải quay đầu ra sau và cùng nhìn. Bức mành kéo lên, cửa sổ đóng kín. Tôi thấy gì xa hơn các bụi cây bồn hoa. Và hình như tôi thấy cái gì đó di động. Tôi thể chính xác đó là con người hay con thú, nhưng tôi tin là có lạ. Tôi có hỏi xem ấy nhìn cái gì cho biết cũng có cảm giác như tôi. - Ông có kiểm chứng tại chỗ? - . Câu chuyện ngừng tại đó. - Ông rời họ và cảm thấy có điều gì sắp xảy ra chứ? - Tuyệt đối . - Tôi hiểu nhờ đâu ông hay tin sớm thế - Tôi luôn luôn thức sớm, và thường thường tôi bộ lúc trước khi dùng điểm tâm. Sáng nay mới vừa ra khỏi nhà ông bác sĩ đuổi kịp bằng xe. Ông cho tôi biết rằng bà lão Porter sai thằng bé chạy tới mời tôi. Tôi nhảy tót lên cạnh ông và cùng . Ngay khi tới nơi, chúng tôi đến cái căn phòng ghê rợn. Nến và lò sưởi tắt từ lâu. Họ ngồi trong bóng tối cho tới mặt trời mọc. Bác sĩ cho tôi biết, em tôi chết cách đó ít nhất là 6 giờ. thấy có dấu vết nào của bạo hành. ấy cúi đầu, ngồi chết trong ghế bành, George và Owen ca hát và thốt ra những thanh rời rạc như hai con khỉ khổng lồ. Tôi thể chịu đựng được cảnh tượng này. Chính gương mặt bác sĩ cũng trắng bình như tấm “ra”, gần ngất xỉu và chúng tôi còn phải lo chăm sóc ông ấy nữa. - Kỳ lạ ! - Holmes đứng dậy và lấy nón - Thực là kỳ lạ! Tôi nghĩ rằng ta nên tức tốc tới Tredannick Wartha. Tôi thú là ít khi gặp bài toán quái dị như vậy. Chúng tôi chọn con đường hẹp, ngoằn ngoèo quanh co để đến trường. Nghe tiếng lộc cộc của xe ngựa trước mặt chạy tới, chúng tôi nép sát lề. Khi xe đó chạy ngang qua, chúng tôi thấy khuôn mặt nhăn nhó, bị biến dạng cách kinh dị, mắt trợn trắng, răng nghiến ken két. - Các tôi! - Mortimer Tregennis kêu lên, mặt mày tái mét - Người ta mang họ Helston! Nhìn chiếc xe gập ghềnh xa dần, chúng tôi tiếp tục lộ trình. Căn nhà rộng và sáng sủa, khu vườn mênh mông được tô điểm bằng hoa xuân. Cái cửa sổ của phòng khách ngó ra vườn. Chính từ thửa vườn đó, ông Mortimer Tregennis nhìn thấy cái “quỉ quái” nào đó. Holmes chậm rãi và nghĩ ngợi, dạo qua các bồn hoa lối trước khi vào nhà. trầm tư đến nỗi vấp phải bình tưới, lật nhào nó, làm ướt chân chúng tôi. Vào bên trong, bà lão Porter đón tiếp chúng tôi. Bà ta mau mắn trả lời tất cả các câu hỏi của Holmes: suốt đêm bà hề nghe tiếng động nào. Đến sáng lúc vào xa-lông, bà ngất xỉu trước cảnh rùng rợn quanh cái bàn. Sau khi hoàn hồn, bà mở cửa sổ cho khí trời của buổi sáng tràn vào, rồi bà dọc lối , sai thằng bé trong trang trại mời bác sĩ. Bà còn muốn ở thêm tại đây ngày nào nữa. Ngay chiều nay bà ra , trở về với gia đình ở St. Ives. Chúng tôi leo lên cầu thang để nhìn xác . Trước đây, Brenda Tregennis là rất đẹp. Nhưng bây giờ người ta vẫn còn thấy mặt nhăm nhúm, vết tích của co giật hoảng sợ. Từ phòng của , chúng tôi xuống sa-lông, trường của bi kịch. Tro và đất còn trong lò sưởi. bàn có bốn khúc đèn nến cháy dở và bộ bài. Ghế dựa được xếp sát tường. Ngoại trừ chuyện đó, tất cả còn y nguyên. Holmes qua lại trong phòng. liên tiếp ngồi vào cái ghế sau khi đặt chúng trở lại vị trí của đêm qua. kiểm chứng những cái gì có thể thấy được ngoài vườn, khám nghiệm sàn trước và lò sưởi. - Tại sao lại đốt lò sưởi? Chật chội như thế này mà lại đốt lò sưởi, nhất là vào đêm xuân? Ông Mortimer Tregennis giải thích rằng đêm đó lạnh và ẩm. Đó là lý do lửa được đốt lên sau khi ông ta về. - Ông làm gì bây giờ, thưa ông Holmes? - ông ta hỏi. Holmes nhoẻn miệng cười rồi để bàn tay vai tôi: - Watson! Có lẽ tôi phải hút lại cái món thuốc lá, độc dược mà bài bác. Giờ đây chúng ta về, bởi vì tại đây tôi tìm được yếu tố nào mới mẻ và hữu ích. Thưa ông Tregennis, tôi liên lạc với ông và cha chánh xứ. Trong khi chờ đợi, tôi chúc cả hai người buổi sáng an hành. Về tới biệt thự Poldhu, Holmes nằm co ro trong ghế bành, chung quanh khói thuốc mịt mù, lặng thinh, chân mày cau lại, trán nhăn mặt, mắt nhìn vu vơ. Cuối cùng đặt cái tẩu xuống và đứng lên. - Watson này! Chúng ta cùng nhau dạo dọc các tảng đá vôi và kiếm những mũi tên bằng đá lửa có kết quả hơn là tìm đáp số cho bài toán này. Bắt trí óc làm việc mà có nguyên liệu đủ, giống hệt như cho máy nổ chạy mà đổ xăng vào. Chúng ta hãy rà soát lại tình hình cách bình thản trong lúc dạo. Tôi bắt đầu khẳng định rằng cả lẫn tôi ai chấp nhận cái giả thiết có quái. Chỉ còn lại cái kiện ba người là nạn nhân của can thiệp của người trần. Vậy thảm kịch xảy ra lúc nào? Nếu tin theo lời thuật lại của người kể chuyện tai họa xảy ra ngay sau khi Mortimer Tregennis về. Đó là điều quan trọng. Trong tất cả các phỏng đoán phải vài phút sau: Các lá bài hãy còn bàn, giờ ngủ qua lâu rồi. Tuy nhiên họ vẫn ngồi y chỗ, bàn ghế vẫn y nguyên. Tôi lặp lại rằng tai biến xảy ra ngay sau khi ông ta ra về và trước 11 giờ đêm. Như vậy là chúng ta phải kiểm lại các hành động của Mortimer Tregennis sau khi ông rời sa-lông. Các hành động của ông này đều có vẻ thoát khỏi mọi ngờ vực. hiểu rằng qua việc lật đổ cái bình tưới, tôi lấy được dấu chân rất của ông ta. Cát ẩm của lối tạo thuận lợi cho công việc này. Đêm trước cũng ẩm, nhớ , nhờ vậy, dựa vào dấu, tôi có thể phân biệt và theo dõi và đường của chàng. chàng có vẻ nhanh về phía tòa chánh xứ. Vậy khi chàng này mất dạng rồi, ai đến đó hốt hồn các tay bài. Làm sao nhận dạng người này và xác định nguyên nhân gây ra tội ác. Ta có thể loại trừ bà lão Porter ra? Có thể nào chứng minh rằng có người bò sát cửa sổ và tạo ra hiệu quả làm ai cũng sợ phát điên? Cái gợi ý độc nhất về hướng này phát xuất từ chàng Mortimer Tregennis rằng của ông ta thấy cái gì động đậy ngoài vườn. Đó là điều nực cười, vì đêm đó mưa, có mây, tối đen như mực. Bất cứ ai tới đó với ý định hù dọa cũng đều phải dán mặt vào cửa kính. Phía ngoài, dưới cửa sổ có bồn hoa có bề ngang 3 bộ. Tôi kiếm ra dấu chân nào. Trong trường hợp này, khó tưởng tượng ra kẻ vô danh có thể tại ra cảm giác hãi hùng như thế. Mặt khác, cho tới nay, chúng ta chưa tìm ra động cơ nhoi nào giải thích được mưu toan vừa quái đản vừa rắc rối. thấy những khó khăn của chúng ta chứ, Watson? - ràng là khó! - Tôi đáp. - Tuy nhiên, tôi tin rằng trong hồ sơ lưu trữ của , có thể tìm ra vài vụ án cũng tối tăm tương tự. Trong khi chờ đợi, chúng ta tạm xếp vụ này, chờ có thêm tin tức chính xác và dùng thời gian còn lại của buổi sáng này để săn đuổi con người thời đồ đá mới. Có lẽ tôi ca tụng cái khả năng siêu thoát tâm thần của Holmes. Tuy nhiên chưa bao giờ làm tôi kinh ngạc hơn buổi sáng mùa xuân đó tại vùng Cornwall. Trong suốt 2 giờ liền, Holmes thuyết trình về người Celtes, về các đầu mũi tên, về cái mảnh vỡ của lọ hũ cách lưu loát như hề bận tâm về bài toán hóc búa. Lúc xế chiều, khi chúng tôi về nhà, có người khách đến. Chúng tôi nhận ra khách từ xa. Thân hình khổng lồ, khuôn mặt xương, đôi mắt hung ác, mũi quặp, bộ tóc muối tiêu, râu quai nón vàng óng ở đuôi. Tướng mạo này quen thuộc tại London, cũng như tại châu Phi. Đó là bác sĩ Leon Sterndale, nhà săn sư tử và nhà thám hiểm lừng danh. Chúng tôi có biết ông ta có mặt trong vùng và đôi lần có thấy thoáng qua dáng dong dỏng cao của ông nổi bật trong rừng chồi. Ông làm quen với chúng tôi, chúng tôi cũng làm quen với ông vì ai cũng trọng thanh vắng của nhau. Ông sống đời dật, tại nơi sâu trong của khu rừng Beauchamp Arriance, chìm đắm trong sách vở và bản đồ. Ông tự lo việc nội trợ, và có vẻ để ý đến việc của người chung quanh. Tôi rất kinh ngạc khi nghe ông hỏi Holmes cách nồng nhiệt xem có tiến được bước nào trong việc giải thích cái thảm kịch. - Ông Holmes, cảnh sát địa phương hoàn toàn bối rối. Nhưng do kinh nghiệm dồi dào của ông, ông có thể đưa ra giả thiết hợp lý. Về phần tôi, lý do độc nhất khiến tôi tò mò là vì trong nhiều lần lui tới vùng này, tôi có quen gia đình Tregennis. Có thể rằng tôi xem họ như em của mình. bất hạnh đó khỏi làm tôi đau buồn. Tôi đến cảng Plymouth để chuẩn bị xuống tàu châu Phi. Nhưng sáng nay khi nghe tin, tôi vội vàng quay trở về để tiếp tay với các nhà điều tra. Holmes trố mắt: - Ông bỏ vé tàu vì chuyện này? - Tôi chuyến sau. - Ông là tốt bụng. - Chúng tôi là anhh em mà. - Đúng vậy! Các nạn nhân có họ hàng với ông. Hành lý của ông đều lên tàu rồi chứ gì? - Chỉ phần, phần lớn vẫn còn tại khách sạn. - Tôi hiểu rồi. Biến cố này chưa được báo chí đăng tải? - Chưa, nhưng tôi có nhận điện tín. - Tôi xin phép được biết tên người gởi? bóng mờ thoáng qua trán của nhà thám hiểm. - Ông quá tò mò, thưa ông? - Nghề nghiệp mà? Phải cố gắng lắm, bác sĩ Sterndale mới lấy lại bình tĩnh. - Tôi thấy có lý do để giấu ông, cha xứ là người đánh điện cho tôi. - Cám ơn, để trả lời câu hỏi của ông, tôi xin với ông rằng tôi chưa giải thích được trọn vẹn nội vụ. Tuy nhiên, tôi hy vọng tới kết luận. - Ông có thể chính xác rằng các ngờ vực của ông có hướng hẳn về phía nào ? - , tôi thể chính xác với ông được. - Như vậy là tôi mất thời giờ vô ích. Tôi còn lý do để kéo dài cuộc thăm viếng này. xong người khách chia tay với chúng tôi. đầy 5 phút sau, Holmes cũng ra , bám theo ông ta. Mãi cho tới tối, khi về bước uể oải. Qua diện mạo, tôi đoán biết chả có gì tiến bộ hơn. Holmes liếc qua cái điện tín nằm chờ, rồi liệng nó vào lửa, : - Của khách sạn Plymouth. Tôi biết tên của khách sạn qua cha xứ và tôi đánh điện để nắm chắc rằng bác sĩ Sterndale Leon dối. Hình như ông ta có ngủ đêm tại đó, và có số hành lý lên tàu trong khi ông ta quay về đây để chứng kiến cuộc điều tra. nghĩ gì, hả Watson? - Tại sao ông ấy để ý đến cuộc điều tra cách tha thiết thế? - Đúng! Đó là sợi chỉ mà chúng ta chưa lần đến. Vì tôi tin rằng chúng ta chưa qui tụ đủ các yếu tố. Khi đủ rồi các khó khăn của chúng ta chỉ còn là kỷ niệm. Sáng hôm sau, tôi cạo râu ở cửa sổ nghe tiếng vó ngựa chạy vội vã. Đến cửa chúng tôi, xe ngừng lại. Vị linh mục nhảy ngay xuống đất, lao vào lối trong vườn hoa. Chúng tôi chạy ra đón. Ông rối trí đến nỗi được ràng và câu chuyện bị đứt đoạn. - Chúng tôi là nạn nhân của quỷ. Xứ đạo của tôi luôn bị quỷ phá, Satan thân chinh! Chúng tôi lọt vào quyền năng của quỷ dữ… Ông lăng xăng hoa tay múa chân. Cuối cùng, ông đưa cái tin bất ngờ. - Ông Mortimer Tregennis chết đêm qua. Triệu chứng giống hệt như các người trước. Holmes nhảy dựng lên. - Cho chúng tôi quá giang! - Vâng! - Thưa cha! Chúng tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của cha. Nhanh lên! Nhanh lên! Tôi phải tới đó trước khi người ta xáo trộn trường. Người ở trọ chiếm hai căn phòng gác, cả hai đều ở góc. Căn dưới là phòng khách. Bên là phòng ngủ. Hai phòng ngó ra sân gôn trải dài cho tới tận cửa sổ. Chúng tôi tới đó trước cả pháp y và cảnh sát. Chưa có cái gì bị đụng tới hoặc dời chỗ. Phòng bốc mùi rất khó chịu. làm công vào trước mở cửa sổ, nếu tài nào thở nổi. Có thể do cái đèn dầu cháy dở bốc khói mù mịt cái bàn giữa phòng. Cạnh bàn, xác chết được đặt ngồi dựa vào ghế. Chòm râu quai nón nhọn chĩa ra phía trước, cặp mắt kính lật ngược trán; cái khuôn mặt gầy gò màu nâu hướng ra cửa sổ và cũng bị méo mó vì kinh hoàng y hệt như khuôn mặt xác chết của em. Tay chân bị còng queo và các ngón tay cong lên như ông ấy trải qua cơn khiếp đảm cùng cực. Ông mặc áo quần đầy đủ nhưng chúng tôi được biết ông ngủ giường và cái chết thê thảm xảy ra vào sáng sớm. Ngay khi vượt ngưỡng cửa của căn hộ, Holmes hoạt động năng nổ. ra ngoài bồn hoa nhảy cửa sổ trở vào, vòng quanh sa-lông; leo lên phòng ngủ gác như con chó săn hùng hổ khi tìm ra con mồi. Holmes nhìn quanh vào phòng rồi mở cửa sổ, có điều gì như kích thích thêm vì chồm ra ngoài và thốt ra những lời thích thú! Rồi lại tụt xuống cầu thang và nhảy cửa sổ, úp mặt sát cỏ, leo trở lên phòng lần nữa. Holmes tỉ mỉ khám xét cái thuộc loại làm theo chuẩn, rồi dùng bàn chân đo đạc. dùng kính lúp khám nghiệm tấm thiếc bên cái bóng đèn, cào cào tí tro còn dính ở phần vào phong bì rồi kẹp vào cuốn sổ con khi pháp y và cảnh sát xuất . ra hiệu cho mục sư rồi tất cả chúng tôi ra ngoài. : - Tôi sung sướng loan báo rằng các cuộc điều tra của tôi hoàn toàn tiêu cực. Tôi thể nán lại để thảo luận nội vụ với cảnh sát. Tôi thỉnh cầu cha xứ chuyển lời chào của tôi đến viên thanh tra và lưu ý ông ta về cái cửa sổ phòng ngủ và cái đèn trong sa-lông. Hai cái đó tách riêng ra gợi cho ta nhiều ý. Gộp lại, chúng đưa ta tới kết luận. Nếu cảnh sát muốn biết hơn, tôi sẵn sàng gặp bất cứ người đại diện nào của họ. Còn bây giờ, Watson à, chúng ta có việc làm ích lợi hơn tại chỗ khác. Có thể cảnh sát thích chõ mũi của tay nghiệp dư, hoặc có thể vì họ tự cho đúng hướng; nên trong hai ngày đầu, chúng tôi nghe về họ. Trong khi đó Holmes hút thuốc liên tục và suy ngẫm miên man, nhất là thường mình bộ ngoài đồng. thí nghiệm hé lộ cho tôi thấy hướng của cuộc điều tra. mua cái đèn giống y cái đèn chiếu sáng phòng của Mortimer Tregennis, đổ vào đó loại dầu giống y dầu dùng tại tòa chánh xứ rồi kỹ lưỡng đo thời gian dầu cháy. lại làm cái nghiệm khác có tính chất khó chịu hơn, tôi còn nhớ hoài. - còn nhớ , Watson? Chỉ có điểm tương đồng duy nhất giữa các lời tường thuật mà chúng ta được nghe. Đó là tác động của khí trong phòng người đầu tiên bước vào. còn nhớ Mortimer Tregennis có rằng bác sĩ gần ngất xỉu, té xuống ghế bành. cũng còn nhớ rằng bà lão có rằng chính bà cũng xỉu khi bước vào phòng. Còn trong trường hợp mới đây, chắc chắn chưa quên cái khí cực kỳ khó chịu của căn phòng của Mortimer Tregennis khi chúng ta đến, dù người làm mở cửa rồi. này như tôi được biết nhuốm bệnh về chuyện này. Watson à, hãy nhìn nhận rằng, những kiện này rất có ý nghĩa. Trong cả hai trường hợp, khí đều bị nhiễm độc. Trong cả hai trường hợp đều có cháy tiếp diễn trong phòng… Trong trường hợp thứ nhất, có bếp lửa; trong trường hợp thứ hai có cái đèn. Bếp là cần vì trời quá lạnh. Nhưng mà đèn, nếu dựa vào số dầu tiêu thụ được thắp khá lâu sau khi mặt trời mọc. Chắc chắn có tương lai giữa ba chuyện: cháy, khí ngạt thở và cuối cùng là hai cái điên và hai cái chết. Sáng tỏ chưa nào? - Hình như sáng tỏ. - Chúng ta có thể chấp nhận nó làm giả thiết xuất phát. Theo đó ta có thể cho rằng trong cả hai trường hợp, chất gì đó cháy và tạo ra chất khí cực kỳ độc hại. Đúng thế! Trong thí dụ thứ nhất, liên quan tới gia đình Tregennis, chất này được bỏ vào bếp lửa. Cửa sổ đóng, lửa đương nhiên theo khói vào trong ống khói. Hiệu quả chắc chắn kém độc hại so với trường hợp thứ hai trong đó chất độc có lối thoát. Kết quả thực tế cho thấy rằng suy đoán của ta sai. Trong trường hợp thứ nhất, chỉ có người đàn bà có lẽ vì thể chất yếu nhất nên gục chết, còn hai người chỉ điên, tạm thời hay vĩnh viễn chịu hiệu quả sơ khởi của chất độc. Trong trường hợp thứ hai, có chất độc dễ cháy giết chết người. Theo hướng này, tôi lục lọi trong phòng của Mortimer Tregennis với hy vọng kiếm ra chất đó. Đương nhiên phải khám nghiệm cái miếng thiếc che hoặc cái bóng đèn. Tại hai nơi này, tôi thấy có tro trắng viền bột nâu chưa cháy hết. Tôi có lấy phân nửa số bột nâu này, bỏ vào bì. - Tại sao chỉ phân nửa vậy, Holmes? - Tôi có quyền thọc gậy bánh xe của cảnh sát. Tôi có để lại cho họ toàn thể bằng chứng của những gì tôi thấy. Với chút xíu thông minh, họ kiếm ra. Giờ đây, chúng ta thắp cái đèn của chúng ta. Phải nhớ mở cửa sổ để khỏi chết sớm. hãy ngồi gần cửa sổ... À, muôn tận mắt thấy mọi việc ư? Được lắm! Tôi để cái ghế bành của để hai đứa mình cùng cách đều với chất độc, mặt đối mặt… Cửa lớn hả? Ta để nó hé mở. Giờ đây, chúng ta có thể canh chừng lẫn nhau và hãy ngưng cuộc thí nghiệm nếu các triệu chứng có vẻ báo động. Hiểu ? Tốt! Vậy tôi lấy cái bột trong phong bì và rắc nó cái đèn cháy. Xong rồi! Giờ đây, Watson ạ! Ta hãy ngồi xuống chờ các biến cố diễn biến. Vừa ngồi vào ghế bành mũi tôi ngửi mùi xạ hương, vừa nặng vừa khó chịu, muốn buồn nôn. Ngay cái hít đầu tiên, tôi mất hẳn kiểm soát của não bộ và trí tưởng tượng. đám mây đen ngòm và dày cộm bắt đầu quay trước mắt tôi. Tâm trí nhắc tôi có diện của đám mây đó. Những hình thù mờ ảo quay cuồng trong đám mây đen. Mỗi cái nhìn có vẻ báo hiệu về cái gì hung tợn tới, báo trước rằng quái vật khó tả, xâm nhập vào tôi cơn kinh hoàng lạnh xương sống xâm chiếm tôi. Rồi tôi cảm thấy tóc dựng đứng lên, mắt muốn lồi khỏi tròng, mồm há hốc, lưỡi cứng lại như da thuộc. Tôi thử kêu lên. Tôi nghe thấy tiếng của tôi như xa xôi và lạ tai. Cùng lúc đó, tôi thấy mặt của Holmes trắng như ma; cứng như xác chết, đầy đủ các triệu chứng của kinh hoàng, đầy đủ các đường nét tôi thấy các nạn nhân. Thấy được Holmes tôi hơi tỉnh. Tôi nhảy khỏi ghế bành, ôm chầm lấy Holmes, khập khiễng dìu nhau ra cửa, nhảy lăn xuống bồn cỏ nằm sát bên nhau, đăm đăm nhìn mặt trời sáng rực. hồi tỉnh trí nhớ về với chúng tôi. Ngồi cỏ, chúng tôi lau trán ướt đẫm mồ hôi và khám nghiệm lẫn nhau, khỏi rùng mình về cuộc thí nghiệm vừa qua. - Lấy danh dự mà , Watson à! - Holmes nới có phần ấp úng - Tôi vừa cám ơn vừa xin lỗi . Cuộc thử nghiệm đó đối với người nguy hiểm rồi, đằng này đến hai người. Tôi xin lỗi! - dư biết rằng - Tôi với xúc động - Được tiếp tay với làm cho tôi vui và hãnh diện vô cùng. - Có người liệt chúng ta vào hạng người điên ngay từ khi chúng ta chưa lao mình vào cái thí nghiệm hãi hùng ấy. Thú thực tới ngờ hiệu quả có thể đột ngột và nghiêm trọng đến thế! chạy vào nhà, trở ra với cái đèn cháy sáng tay, rồi liệng nó vào bụi gai. - Nên làm cho phòng thoáng khí! Tôi nghĩ bây giờ thấy ràng diễn biến của các thảm kịch? - . - Tuy nhiên, nguyên nhân hãy còn mịt mù. Hãy đến ngồi dưới vòm cây và nghiêm chỉnh thảo luận về nội vụ. Cái chất độc dường như vẫn còn trong cuống họng của tôi… Tóm lại, Mortimer Tregennis là thủ phạm trong thảm kịch thứ nhất, và nạn nhân trong thảm kịch thứ hai. Ta hãy nhớ lại rằng chuyện tranh chấp trong gia đình được tiếp nối bằng giải hoà. Cuộc tranh chấp đạt tới mức độ nào và cuộc giải hoà có thành ? Chúng ta biết gì cả. Tôi nhớ lại Mortimer Tregennis với cái đầu chồn, đôi mắt gian giảo đằng sau cặp kính và theo tôi y phải là loại người dễ dàng tha thứ cho bất cứ ai. Ngoài ra, còn nhớ các lời khai về cái gì đó quậy quọ ngoài vườn? Chính lời khai này thời đánh lạc hướng chúng ta về nguyên nhân đích thực của tấn thảm kịch. Chắc chắn y phải có động cơ. Cuối cùng, nếu phải y liệng chất độc đó vào lửa ai khác đây? Thảm kịch xảy ra ngay sau khi y ra về. Nếu có ai khác vào nhà gia đình phải rời bàn… Mặt khác tại cái vùng Cornwall yên bình này, khách đến sau 10 giờ đêm. Do đó chúng ta có thể nhận rằng tất cả các yếu tố đều qui kết Mortimer Tregennis là thủ phạm. - Rồi sau đó y tự tử? - Suy luận của nghịch lý đâu. Người bị lương tâm cắn rứt vì tội tày đình có thể do ăn năn lại giáng cho chính mình cái vận đen mình đem lại cho kẻ khác. Tuy nhiên, những mâu thuẫn vững chãi bác bỏ giả thiết này. May thay, có người độc nhất tại nước này biết và tôi thu xếp để chiều nay chúng ta được nghe đích thân ông ấy chuyện. À, ông ấy tới hơi sớm đó. Bác sĩ Sterndale hãy vào đây? Hai chúng tôi mới tiến hành thí nghiệm hóa học, do đó phòng khách của chúng tôi xứng đáng để tiếp đón khách quý. Tôi nghe cửa vườn kêu kĩu kịt: dáng vóc đồ sộ của nhà thám hiểm châu Phi nổi tiếng xuất lối . Với vẻ ngạc nhiên, ông về hướng cái vòm cây, nơi chúng tôi ngồi. - Ông có cho mời tôi, hở ông Holmes? Hồi nãy tôi có nhận tờ giấy và tôi đến đây. Tôi hiểu tại sao tôi phải tuân lời ông? - Sau khi cuộc chuyện này chấm dứt, chúng ta hiểu cái điểm đó. Trong khi chờ đợi, tôi hết sức cám ơn thuận tình đầy lễ độ của ông. Mong ông miễn chấp tiếp đãi ông giữa trời; vì ông bạn thân Watson của tôi và tôi gần hoàn tất chương trình phụ cho cái mục mà báo chí gọi là “Nỗi kinh hoàng của vùng Cornwall”. Do đó trong tạm thời, chúng tôi chọn bầu khí thuần khiết. Vì vấn đề mà chúng ta phải thảo luận liên quan đến ông cách rất riêng tư, nên ta tìm chỗ vắng vẻ, tránh “tai vách mạch rừng”. Nhà săn thú gỡ điếu xì gà ra khỏi miệng rồi nhìn Holmes đăm đăm. - Thưa ông, chuyện gì lại liên quan đến tôi cách rất riêng tư? - Về việc giết Mortimer Tregennis! - Holmes đáp. Gương mặt của Sterndale đỏ như gạch, mắt toé lửa, các mạch máu nổi u và sôi cục, cái trán căng phồng, ông ta tiến bước về phía Holmes, hai nắm tay xiết chặt... May thay, ông ngừng lại và qua cố gắng vượt bậc, lấy lại bình tĩnh tâm thần. Nhưng cái bình tĩnh mà ông biểu lộ đối với tôi có vẻ còn nguy hiểm hơn nổ bùng của giận dữ. - Tói sống giữa những người thổ dân và xa luật pháp quá lâu, đến nỗi trong chừng mực nào đó, tôi thay trời làm luật! Xin ông nên nhớ điều đó? Trong thâm tâm, tôi muốn hại ông. - Thưa bác sĩ Sterndale, tôi cũng muốn hại ông. Bằng chứng là tuy có nắm cái gì đó, tôi thưa chuyện với bác sĩ, chứ với cảnh sát. - Holmes từ tốn đáp. Sterndale ngồi xuống, có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc đời phiêu lưu của ông, ông bị chế ngự. Nhìn thái độ của Holmes ông thấy Holmes có tự tin và quyền lực bất khả bại: Trong khi chuyện, hai bàn tay to kềnh của ông liên tục xoè ra và nắm lại. - Ông muốn sao? Nếu ông muốn hù tôi ông chọn sai đối tượng. Đập mạnh quanh bụi cây là vô ích, thẳng vào đề , ông muốn gì? - Ông biết thôi. Lý do khiến tôi là vì tôi hy vọng thành của tôi được bác sĩ đáp lại. Bước thứ hai của tôi hoàn toàn tuỳ thuộc vào tính chất của biện minh của ông. - biện minh của tôi? - Đúng vậy, thưa ông. - Biện minh về việc gì? - Để khỏi bị cáo buộc về tội giết chết Mortimer Tregennis. Sterndale lấv mùi xoa lau trán. - Xưa nay ông thành công là nhờ cái khả năng hù dọa phi phàm? - Hù dọa - Holmes cương quyết trả lời - Là từ phía ông, chứ phải từ phía tôi, thưa bác sĩ. Để chứng minh điều đó, tôi kể cho ông nghe vài dữ kiện làm cơ sở cho cái kết luận của tôi. Dựa việc ông rời Plymouth mà về đây và gởi phiếu hành lý châu Phi trước, tôi kết luận tức khắc rằng ông là trong các yếu tố mà tôi phải xét tới, khi diễn lại tấn thảm kịch. - Tôi trở về vì… - Tôi còn nhớ các lý do ông nêu ra. Nhưng đối với tôi, các lý do đó có sức thuyết phục. Ông có tới đây hỏi xem tôi ngờ vực ai, tôi từ chối trả lời. Ông đứng ngoài chờ đợi lúc rồi về nhà. - Làm thế nào ông biết được? - Tôi theo ông. - Tôi có thấy ai đâu? - Nghề nghiệp mà! Ông ngủ đêm ngon lành tại biệt thự của ông. Và ông nghĩ ra vài kế hoạch mà ông bắt đầu thực sáng hôm sau. Sáng hôm sau, lúc mở cửa, ông lượm mớ sỏi đỏ gần cổng sắt. Sterndale rùng mình và rồi nhìn Holmes cách kinh ngạc. - Rồi ông nhanh bước về tòa chánh xứ, cách nhà ông khoảng 1 dặm. Tôi xin thêm rằng hôm đó ông mang đôi giày tennis như đôi này. Tới tòa chánh xứ, ông băng qua vườn cây ăn trái và hàng rào ngang để đến dưới cửa sổ của phòng ông Tregennis. Sáng rồi nhưng chưa ai thức cả. Ông móc sỏi trong túi và liệng lên cửa sổ bên . Sterndale nhảy dựng lên. - Tôi tin rằng ông là thân của quỷ sứ! - ông ấy la to. - Phải liệng hai hoặc có thể ba đợt ông ta mới ra của sổ. Ông ra dấu kêu xuống. Ông ta lật đật mặc quần áo xuống. Ông leo cửa sổ mà vào. cuộc chuyện ngắn ngủi xảy ra; trong lúc đó ông tới lui. Rồi ông ra ngoài, đóng cửa sổ lại, đứng ở bồn cỏ, hút xì gà và chờ cái điều chắc chắn phải xảy ra. Sau cùng, khi ông ta chết rồi, ông rút lui bằng con đường dùng dể tới. Giờ đây, thưa bác sĩ Sterndale, làm sao biện minh cho việc làm của ông? Động cơ nào thúc đẩy ông vậy? Nếu ông dối tôi, tôi quả quyết rằng nội vụ tuỳ thuộc vào mình tôi đâu. Khuôn mặt người khách tái xanh, ông lấy tay ôm đầu. Rồi trong cử chỉ bốc đồng, ông rút từ trong túi cái ảnh, liệng nó chiếc bàn thô sơ dưới vòm lá: - Đó là lý do tại sao tôi giết người! Đó là tấm ảnh bán thân của xinh đẹp. Holmes cúi xuống nhìn kỹ. - Brenda Tregennis? - Vâng, Brenda Tregennis, chính nàng. Từ mấy năm nay, tôi nàng. Từ mấy năm nay nàng cũng tôi. Đó là lý do tôi lui tới nghỉ ngơi tại Cornwall khiến nhiều người thắc mắc; tôi muốn gần thần tượng của tôi. Tôi thể cưới ta, vì tôi có vợ, vợ tôi bỏ tôi lâu rồi, tuy nhiên vì luật pháp quốc lằng nhằng quá, tôi ly dị được. Trong nhiều năm ròng rã, nàng vẫn chờ. Trong nhiều năm ròng rã tôi cũng chờ. thổn thức làm rung rinh dáng bộ đồ sộ của ông. Ông lấy tay để lên cuống họng rồi tiếp tục kể: - Cha xứ có biết. Hai chúng tôi có tâm với cha. Cha có thể cho ông biết rằng Brenda đúng là thiên thần. Đó là lý do vì sao ông ấy đánh điện cho tôi, và tại sao tôi quay về. mớ hành lý hoặc cuộc sống giàu sang ở châu Phi có ý nghĩa gì trước cái tin nàng thọ nạn. Đó là động cơ mà ông thiếu, ông Holmes à! - Ông hãy tiếp ! Bác sĩ rút trong túi ra cái gói, rồi đặt nó bàn. gói có mấy chữ “Radix pedis diaboli” (rễ chân quỷ), bên dưới có nhãn đỏ cho biết nó là thuốc độc. Ông đẩy cái gói đó về phía tôi. - Tôi đoán rằng ông là bác sĩ, thưa ông. Ông có nghe về cây thuốc này chưa? - Rễ cây chân quỷ? Chưa, chưa bao giờ? - có can chi đến kiến thức nghề nghiệp của ông. - ông ta - Tôi tin rằng ngoài cái mẫu mà tôi gặp tại Buda, có mẫu nào khác tại châu Phi đâu. Nó chưa được ghi vào sách thuốc hay sách độc dược. Loại rễ cây này có cái tên ngông do nhà truyền đạo kiêm thực vật học đặt ra. Nó được các phù thủy Tây Phi sử dụng làm thuốc độc để trừng phạt và họ giữ bí mật về cách điều chế. Cái mẫu này tôi kiếm được tại Ubangi trong trường hợp rất đặc biệt. Ông mở cái gói và để lộ mớ bột màu đỏ nâu giống thuốc lá. - Rồi sao nữa, thưa ông? - Holmes lãnh đạm hỏi. - Do tình đối với em mà tôi trở thành bạn của em nhà Tregennis. Tuy nhiên tranh chấp tiền bạc làm cho Mortimer bực bội. Tuy nhiên mối bất hòa được dàn xếp nhanh chóng. Sau này tôi vẫn tới lui y hệt như đối với mấy người kia. Y xảo quyệt già dặn, những đặc điểm khiến tôi nghi ngờ trung tín của y. Nhưng có lý do gì để tôi cãi lộn công khai với y. ngày nọ, cách đây hai tuần, y đến tôi và tôi cho y xem vài vật lạ ở châu Phi. Trong số này có bột rễ chân quỷ. Tôi có tiết lộ cho y cái tính chất dị thường của nó, đặc biệt là cái khả năng kích thích tế bào não bộ nắm quyền chỉ huy các cảm xúc sợ sệt. Tôi có với y rằng điên loạn hoặc cái chết chắc chắn đến với người thổ dân xui xẻo bị thầy cúng của bộ tộc trừng phạt bằng thứ này. Tôi có giải thích cho y rằng khoa học châu Âu thể phát ra lối hại người này. Bằng cách nào y lấy cắp, tôi biết. Tôi rời phòng giây lát nào cả, nhưng tôi chắc chắn vào lúc nào đó, có thể vào lúc tôi mở ngăn kéo hoặc cúi xuống các tủ kính. Tôi nhớ y có hỏi về tượng và thời gian thuốc thấm. Tôi ngờ y có những ý đồ đen tối. Tôi quên hẳn cuộc thăm viếng này cho tới khi cái điện tín của cha chánh xứ. Thằng khốn tưởng rằng tôi lên tàu và ở châu Phi vài năm. Nhưng tôi quay trở lại ngay tức khắc. Khi tôi dò qua các chi tiết, tôi biết ngay rằng thuốc độc của tôi bị y sử dụng. Tôi đến thăm ông lần đó là để chắc ăn rằng thể có giả thiết khác được. Quả nhiên đúng thế. Mortimer Tregennis là thủ phạm. Có lẽ y nghĩ rằng nếu tất cả em trong gia đình điên, mình y hưởng hết tài sản của họ. Y sử dụng bột chân quỷ làm cho hai em trai điên và giết em của y, Brenda, người duy nhất của tôi. Phải trị tội y bằng cách nào? Đưa ra luật pháp ư? Bằng chứng đâu? Tôi biết rằng các dữ kiện là đúng nhưng làm sao thuyết phục đoàn hội thấm quê mùa dốt nát. Tâm hồn tôi khát khao phục thù. Sau đêm trằn trọc, tôi rời nhà rất sớm. Biết trước là khó đánh thức y, tôi mới lấy mớ sỏi để liệng lên cửa sổ. Y xuống và để cho tôi vào nhà y qua cửa sổ phòng khách. Tôi trình bày cho y biết tội ác của y. Tôi cho y biết tôi đến với tư cách vừa làm phán quan, vừa làm người đao phủ. Tên khốn kiếp sụp xuống ghế khi thấy cái súng lục của tôi. Tôi thắp đèn, bỏ thuốc độc lên , rồi đứng bên ngoài cửa sổ, sau khi với y rằng: “Nếu mi rời căn phòng, ta bắn mi ngay!". Năm phút sau y chết. Holmes ngồi lặng thinh hồi - Ông có dự định gì - cuối cùng Holmes hỏi - Tôi dự định chết già tại Trung phi. Tôi chỉ mới hoàn thành nửa công trình tại đó - Bác sĩ hãy và hoàn tất cái phân nửa còn lại .. - Holmes - Tôi phải là người phá rối bác sĩ. Bác sĩ Sterndale đứng dậy, cúi đầu cách cung kính, rời khỏi vòm lá Watson này, cuộc điều tra của chúng ta có tính độc lập, đối xử của ta cũng độc lập, có tố cáo người đó ? - Chắc chắn là ! Tôi chưa bao giờ , Watson à! Tuy nhiên nếu tôi và người đàn bà tôi chết thê thảm như thế, có thể tôi cũng xử xự giống hệt người săn sư tử của chúng ta. Biết đâu được? (1) Rễ chân quỷ.
8. Cung đàn sau cuối Lúc đó là 9 giờ tối ngày 2 tháng 8, cái tháng 8 khủng khiếp trong lịch sử thế giới. Có thể rằng cơn giận dữ của Thượng đế đè mạnh lên thế giới suy đồi. yên lặng nặng nề và hồi hộp ngóng trông trôi bồng bềnh trong trung oi bức và im lìm. Mặt trời dã lặn, nhưng ở chân trời phía Tây kéo dài màu đỏ giống vết thương còn chảy máu. Bên , vô vàn ngôi sao rực sáng và bên dưới, đèn dầu của tàu bè nhấp nháy ở ngoài vịnh. Hai người Đức đứng dựa vào bao lơn bằng đá của sân thượng. Cái nhà thấp nằm thườn thượt sau lưng họ. Họ nhìn cái vòng cung to của bờ biển dưới chân đá bờ vôi kỳ vĩ, châu đầu trao đổi các câu chuyện bí mật. Đứng từ dưới nhìn lên, đầu đỏ rực của hai điếu xì gà giống như đôi mắt của quỷ dữ rập rình lúc đêm về. con người siêu việt, có thể về Von Bork như vậy! là tay cao thủ nhất trong đám điệp viên của hoàng đế Đức quốc. được giao phó số sứ mạng quan trọng ở . Tài ba của nổi bật trong tâm trí đám người quyền thế, nhất là người bạn đồng hành của lúc đó, nam tước Von Herling, bí thư trưởng sứ quán. Chiếc xe Benz 100 mã lực của nam tước chễm chệ đậu đường chờ chở về London. Viên bí thư : - Theo dự đoán của tôi, trong tình hình này, có lẽ ông nên quay về Berlin trong tuần này. Khi về tới đó, ông ngạc nhiên trước các cuộc đón tiếp, bởi vì tôi biết cấp cao nhất đánh giá thế nào về công việc mà ông thực được tại nước . Nam tước là người cao, to, năng chậm rãi, đầy tự tin, nên thành công lớn trong nghiệp chính trị. Von Bork cười vang: - Họ rất dễ gạt! thể kiếm đâu ra dân tộc ngây ngô hơn dân tộc này. - Tôi biết! - Gã kia đáp với vẻ vô tư - Họ có những cái giới hạn kỳ quặc mà ta nên vượt qua. Cái ngây ngô bên ngoài của họ là cái bẫy đối với người lạ đó. Cảm giác ban đầu là người mềm như bún. Nhưng khi vấp phải cái gì chắc như đá, ta phải biết ta chạm mức rồi. Thí dụ các quy ước về đảo quốc của họ, chúng ta thể coi thường được. - Ông muốn đến cái “nghi thức” (good form) và những cái tạp nham cùng loại? - Von Bork hỏi rồi thở dài. - Tôi muốn đến cái định kiến của người trong tất cả các cái thể kỳ quặc của nó. Đây, tôi xin kể cho ông nghe trong những ngộ nhận tai hại nhất của tôi. Ông thấy tôi thành công tới mức nào rồi. Tôi vừa nhậm chức liền được dự tiệc cuối tại biệt thự đồng quê của ông bộ trưởng. Mọi người ai giữ miệng giữ mồm cả. Von Bork gật đầu: - Tôi có dự. - Đúng thế! Và đương nhiên tôi có gởi về Berlin bản tóm lược tin tức thu nhặt được trong buổi tiệc đó. Khốn nạn cho tôi, ông thủ tướng của chúng ta lại chuyển qua nhận xét cho biết rằng ông biết những gì được tại buổi chiêu đãi. Ai có thể mường tượng đầy đủ cái nỗi khổ mà tôi phải chịu do vụ này. Do đó tôi có thể cam đoan với ông rằng, người mềm đâu. Phải hai năm sau tôi mới quên được cái scandal này. Còn ông… nhà đóng kịch… - ! Đừng gọi tôi là người đóng kịch. Đóng kịch dính liền với giả tạo. Ngược lại, tôi hoàn toàn tự nhiên. Tôi bẩm sinh là vận động viên mà. Tôi thích thể thao. - Là nhà thể thao, hiệu năng của ông tăng ràng. Ông chơi du thuyền với họ. Ông săn với họ. Ông ngang tài với họ trong bất cứ môn nào, chơi bốn môn phối hợp, ông đoạt giải nhất. Tôi còn nghe ông chấp nhận đánh quyền với các sĩ quan trẻ của họ. Kết quả là gì? Người ta phần nào coi ông. Ông trở thành ông già nghiền thể thao: người Đức uống rượu mạnh nguyên chất, đêm nào cũng nhảy, trác táng, trụy lạc. Cái biệt thự ở đồng quê của ông là trung tâm phát sinh phân nửa tệ đoan cho nước . Còn nhà thể thao là tay điệp viên tài ba nhất. - Ngài nam tước ơi! Tôi tin chắc chắn rằng bốn năm làm việc tại thể là bốn năm vô ích. Tôi chưa cho ông xem cái kho của tôi. Vui lòng vào đây! Cửa lớn của phòng làm việc mở ngay ra sân chơi. Von Bork đẩy cửa bước vào trước, vặn đèn. Sau khi cái dáng vóc đồ sộ sau vào cửa đóng chặt, tấm màn dày cửa sổ có lưới được kéo kỹ. Sau khi các biện pháp an toàn được thực và kiểm tra lại, quay về phía khách: - số giấy tờ còn tại đây. Hôm qua, vợ tôi và lũ gia nhân mang số nào quan trọng. Phần còn lại, tôi cầu tòa đại sứ bảo vệ chúng. - Tên của ông nằm trong danh sách tùy tùng riêng của ngài đại sứ có khó khăn gì đối với ông và hành lý còn lại. Nhưng, có thể chúng ta khỏi phải . quốc có thể bỏ mặc Pháp. Chúng ta chắc chắn giữa hai nước có hiệp ước ràng buộc nào? - Còn với Bỉ sao? - Đúng còn có nước Bỉ nữa! Von Bork lắc đầu. - Tôi tiên đoán quốc thể ngồi yên. Họ liên minh với Bỉ bằng hiệp ước đàng hoàng. Cái nhục đó, họ quên được đâu? - Ít ra, họ có hoà bình thời gian. - Còn vấn đề danh dự? - Hừ, ông bạn thân mến, chúng ta sống trong thời đại thực dụng. Danh dự là quan niệm thời Trung cổ. Mặt khác, quốc chưa sẵn sàng. Cái dự chi đến 50 triệu đủ để làm họ sáng mắt. Thỉnh thoảng có người tuyên bố lưu tâm giải quyết mối hiểm họa. Rải rác có những bực dọc và tuyên bố tìm cách xoa dịu nước Đức hiếu chiến. Nhưng ông có thể tin lời tôi rằng các điểm chính như tích trữ quân nhu, chuẩn bị đối phó với chiến tranh tàu ngầm, tổ chức làm chất nổ mạnh chưa rục rịch gì cả. Làm sao quốc có thể can thiệp được khi chúng ta làm họ mất giờ vào vụ Ireland, vụ phụ nữ đòi quyền bầu cử và... ngàn lẻ chuyện khác. - Họ càng phải nghĩ tới tương lai nữa chứ? - À, đó là vấn đề khác rồi. Tôi đoán rằng ta có kế hoạch cụ thể về quốc nên tin tức mà ông nắm được có tầm quan trọng sinh tử. Đối với nước , hoặc là hôm nay, hoặc là ngày mai. Nếu họ thích hôm nay, chúng ta sẵn sàng. Nếu là ngày mai, chúng ta lại càng sẵn sàng hơn. Theo ý tôi đánh giặc mà có đồng minh hay hơn là đơn thương độc mã. Thôi đó là chuyện của họ. Tuần lễ này là tuần lễ quyết định. có về mớ tài liệu… Trong góc phòng đầy kệ sách, bức màn phủ kín. Von Bork vén lên, tủ sắt to có đóng đai đồng lộ ra. Gã người Đức lấy chìa khoá khỏi dây đồng hồ, rọ rạy ổ khoá hồi lâu và cánh cửa nặng nề mở ra. - Hãy nhìn đây! - và lui lại bước. Ánh đèn chiếu sáng bên trong và viên bí thư sứ quán nhìn đăm đăm các ngăn đầy ắp tài liệu. Mỗi ngăn đều có mang nhãn. Mắt ông ta chạy từ ngăn này qua ngăn khác. “Chỗ cạn lội qua được”, “Phòng vệ duyên hải”, “máy bay”, “Ireland”, “Ai Cập”, “Các đồn lũy Portsmouth”, “Eo biển Manche”, “Rosythe”. Mỗi ngăn đầy ắp bản đồ và tài liệu. - Vĩ đại! - Viên bí thư sứ quán thầm, ông ta để xì gà xuống, vỗ tay nhè . - Chỉ trong bốn năm thôi, thưa nam tước, tệ đối với kẻ nhậu nhẹt, chơi bời, thể thao, phải ? Tuy nhiên cái quý nhất là bộ tài liệu sắp được mang đến, và chúng ta sẵn sàng để đón tiếp nó. Y chỉ tay vào ngăn có ghi 5 chữ: “Truyền tin trong hải quân”. - Hình như ông có hồ sơ về vấn đề này? - lỗi thời rồi! Bộ tư lệnh Hải quân được báo động, chả biết do đâu mà họ đổi tất cả các mật mã. Cú nặng quá, thưa nam tước. Đó là thất bại tệ hại nhất của tôi từ trước tới nay! Tuy nhiên nhờ xấp chi phiếu và nhờ chàng Altamont gan dạ, mọi việc biến đổi ngay đêm nay. Nam tước nhìn đồng hồ đeo tay rồi thở ra thất vọng. - là tôi thể chờ lâu hơn được nữa. Tôi hy vọng đem cái tin vui ấy về. Cái gã Altamont hẹn giờ chính xác sao? Von Bork đưa cho ông xem điện tín. “ đến đúng hẹn tối nay và mang các bu-gi-lửa mới – Altamont”. - Bu-gi-lửa? - Gã đóng kịch làm chuyên viên về xe hơi; còn tôi là chủ ga ra. Theo mật mã của chúng tôi mỗi tin tức mang lại đều được đặt tên theo các phụ tùng của xe hơi. Nếu “radiator” hiểu là thiết giáp hạm, “bơm dầu” hiểu là tuần dương hạm; và bu-gi-lửa hiểu là các tín hiệu của hải quân. - Điện tín đánh từ Portsmouth lúc 12 giờ. - Viên bí thư xem xét điện tín rồi - Nhân tiện xin hỏi: ông cho bao nhiêu? - Năm trăm bảng cho cái công tác đặc biệt này. Đương nhiên còn có lương nữa. - Gã như là con hạm. Bọn phản quốc rất hữu ích nhưng tôi luôn chi trả cho chúng cách miễn cưỡng. - Tôi luôn rất hào phóng với Altamont. làm việc rất đạt. Nếu tôi hậu hĩ, giao hàng tốt. Mặt khác đâu phải là kẻ phản quốc. Chúng ta ghét quốc thấm vào đâu so với mối thù của tên Mỹ gốc Ireland này. - Ủa, gốc Ireland sao? - Cứ nghe chuyện biết được nguyên quán của . Đôi khi tôi cũng hiểu lắm. ghét tiếng lẫn vua . Ông nhất định ra về sao? Chờ thêm vài phút nữa thôi! - Rất tiếc, tôi nán lại quá lâu rồi, hẹn ông vào sáng sớm ngày mai. Lấy được bộ mật mã truyền tin của hải quân , ông có thể đề chữ “kết thúc quang vinh” cho nhiệm kỳ phục vụ của ông tại đây. Sao? Đây là rượu Tokay à? Viên bí thư chỉ chai đóng nút kỹ và đầy bụi đặt cái mâm cùng với hai ly. - Xin mời ông nhâm nhi trước khi lên đường. - đâu, cám ơn nhiều! Liên hoan à? - Altamont rất sành rượu chát và rất thích rượu Tokay. Thằng cha này khó tính, tôi phải điếu đóm nó kỹ lắm. Dày công lắm đó! Hai người ra tới sân. Cuối sân, tài xế của nam tước cho máy nổ. - Tôi đoán kia là đèn của Harwich, - viên bí thư vừa mặc áo mưa vừa . - là im ắng! Có thể trước 8 giờ, tại đây có những đèn khác và bờ biển quốc là nơi kérn yên lành hơn. Bầu trời cũng hoàn toàn thanh bình nếu các “Zeppelin” (kinh khí cầu của Đức) dũng cảm của ta sai hẹn. Nè, ai ở đàng kia vậy? Đằng sau họ, cửa sổ duy nhất còn thắp đèn. Bên cái đèn để bàn, bà lão, khuôn mặt hồng hào đội mũ trùm, cặm cụi đan len. Thỉnh thoảng bà dừng tay để vuốt ve con mèo đen to ngồi ghế đẩu gần kề. - Đó là Martha, người hầu độc nhất mà tôi còn giữ. Viên bí thư cười . - Bà ta vô tư lự! Sung sướng ! Thôi chào ông Von Bork. Vẫy tay từ giã, ông ta leo lên xe và sau đó hai đèn trước của xe chiếu sáng trong đêm khuya. Ông ta ngả lưng dựa vào các gối ở băng sau của chiếc xe hơi lộng lẫy và tâm trí mê mải tưởng tượng đến cái thảm kịch gần kề tại châu Âu, để ý chiếc Ford con mà ông gặp trong làng. Von Bork từ từ về văn phòng. ngang qua sân, thầy bà lão tắt đèn ngủ. khí lúc này mới lạ đối với . Ngôi nhà bao la này chưa bao giờ im ắng và tối đen như thế này. luôn sống cùng gia đình với đoàn gia nhân rình rang. Nhưng cũng cảm thấy nhõm khi nghĩ rằng họ đều ở nơi an toàn, ngoại trừ người lão bộc. bắt đầu đốt sạch mớ tài liệu cho tới khi gương mặt thanh tú ửng đỏ. Rồi lấy va-li da, xếp vào đó mớ tài liệu quý giá trong tủ sắt. Khi vừa bắt đầu có tiếng xe dừng trước nhà. nén được tiếng la vì khoái trá, gài va-li lại, khoá tủ sắt rồi hối hả chạy ra sân. tới nơi đúng vào lúc chiếc xe con dừng lại trước cổng sắt. người đàn ông bước xuống nhanh chân tiến về phía . Trong xe chỉ còn người tài xế to con, râu kẽm, chờ. - Sao? - Von Bork nóng lòng hỏi. Thay vì trả lời, người khách chỉ hãnh diện huơ huơ gói bọc giấy nâu. - Tối nay, ông có thể hồ hởi bắt tay tôi. Này, tôi mang cái bánh cho ông. - Các tín hiệu? - Như trong bức điện, tất cả các cách truyền tin: semaphore, mật mã đèn, mã Marconi... Bản sao! phải bản chính! Nguy hiểm lắm! Nhưng hạng tốt, hàng đúng qui cách ông cứ tin vào tôi. Người mới tới vỗ mạnh vào vai gã Đức với thân thiện thô lỗ khiến gã này nhăn nhó. - Mời vào! Tôi ở nhà chỉ có mình, chỉ còn chờ . Đương nhiên chỉ nên lấy bản sao! Nếu bản chính mà thiếu toàn bộ như . Nhưng có chắc đúng là chính hiệu hay ? Người Mỹ gốc Ireland bước vào văn phòng và thả mình, sải tay, sải chân ghế bành: con người gầy, khoảng 60 tuổi, mặt xương và râu dê ngắn. Có thể lầm là bức kí hoạ chú Sam. Ở bên mép ngậm điếu xì gà tắt nửa chừng. Ngồi xuống xong tay này quẹt que diêm để mồi lại. - di chuyển được chuẩn bị chăng? - Người Mỹ nhìn quanh vừa suy nghĩ vừa - Nè , ông… - Mắt ông ta rơi vào cái tủ sắt mà bức màn che kín. - Tất cả tài liệu đều cất vào đây à? - Đương nhiên! - Kềnh càng kệch cỡm vậy à? Ông lại được liệt vào hạng gián điệp tầm cỡ sao? Ồ! Bất cứ tên trộm Mẽo tầm thường cũng mở được với đồ khui hộp. Nếu tôi biết trước rằng thư từ tôi viết đều bị tống vào chỗ quái quỷ này, tôi dại mà viết dòng! - Dù có tài ba cách mấy, thằng ăn trộm nào mở được tủ sắt này - Von Bork đáp. - dụng cụ nào làm suy suyển loại kim khí này ư? Có ổ khoá ? - Khoá đôi! có hiểu tôi muốn gì ? - Cho tôi biết chút! - Người Hoa Kỳ mỉm cười, . - Muốn mở tủ, phải biết chữ và con số… - Á, à! Tuyệt vời! - Đâu chỉ có đơn giản như vậy. Tôi đặt thợ cách đây bốn năm. có biết lúc đó tôi lựa chữ gì và số gì ? - Chịu thua! - Tôi chọn tháng “Tám” và “1914”. Đúng y chang như thực tế bây giờ! Khuôn mặt của người Mỹ gốc Ireland biểu lộ ngạc nhiên, thán phục. - Tuyệt diệu, ông là nhà tiên tri kỳ tài. - Tại nước tôi, ít người có khả năng tiên đoán cái ngày này? Tuy nhiên nó chình ình đây nè, ngày mai tôi đóng lại và chuồn êm. - Này, ông còn phải lo cho tôi nữa chứ. Tôi lưu lại cái xứ sở chết toi này đâu. Theo tôi dự kiến, nước nhảy dựng lên và phát điên trong vòng 8 ngày. Tôi thích qua bên kia biển Manche ngay từ bây giờ. - Nhưng mà là công dân Hoa Kỳ? - Đúng vậy, Jack James cũng là dân Mỹ nhưng vẫn bị bỏ tù. thể kêu gọi tình cảm của cảnh sát với cái lý rằng mình là công dân Hoa Kỳ. “Ở đây, luật chi phối”, tôi được trả lời như vậy. Nhân tiện luôn, hình như quý ông làm gì để che chở cho các điệp viên của mấy ông? - sao? - Von Bork hỏi lại cách cáu kỉnh. - Quý ông là chủ nhân phải nào? Quí ông phải thu xếp sao cho họ khỏi bị kẹt. Họ bị sụp và quí ông làm gì để kéo họ ra, như trường hợp của James? - Hoàn toàn do lỗi của . rành bằng tôi đâu. - Jack James có cái đầu lợn, tôi đồng ý với ông Còn trường hợp Hollisi? Tội nghiệp! Những ngày chót nó có hơi điên. Làm sao loạn trí khi phải đóng kịch từ sáng tới chiều với cả trăm người sẵn sàng tố cáo nó với cảnh sát. Giờ đây còn có Steiner... Von Bork rùng mình tái mét: - Chuyện gì xảy ra với Steiner? - Bị thộp rồi! Cảnh sát lục soát kho của y đêm qua. Nếu may mắn thoát được án tử hình. Đó là lý do tại sao tôi muốn đào thoát qua lục địa cùng với ông. Von Bork là người sắt đá, luôn tự chủ, nhưng cái tin này tác động mạnh đến : - Làm sao chúng biết được về Steiner được? Quả là vố nặng! - Rồi đây ông còn gặp vố nặng hơn bội phần vì tôi linh cảm rằng chúng bám sát tôi. - thể thế được ? - Tôi tin chắc như thế! Bà chủ nhà trọ của tôi được cảnh sát viếng thăm. Họ hỏi thăm bà ấy về tôi. Tôi còn đường nào khác hơn là chuồn càng sớm càng tốt. Nhưng tôi muốn biết tại sao cảnh sát hay biết Steiner là điệp viên thứ năm bị tóm kể từ khi tôi cộng tác với ông. Tôi biết ai là người thứ sáu, ông giải thích việc đó ra sao? Ông hổ thẹn khi người của ông bị thộp cổ liên tiếp như vậy sao? Von Bork đỏ sẫm mặt. - dám chuyện với tôi bằng cái giọng như vậy à? - Nếu tôi thẳng, thưa ông, tôi cộng tác với ông đâu. Tôi thẳng với ông những gì tôi nghĩ. Đối với các ông, những chính trị gia người Đức, khi điệp viên hoàn tất công tác, họ có vào nhà đá quý ông cũng chút áy náy nào cả. Von Bork nhảy xổm lên. - dám ngầm rằng tôi giao nộp điệp viên của tôi? - Tôi chưa tới đó, thưa ông! Nhưng có thằng mách lẻo đâu đây, ông có trách nhiệm nhận dạng nó. Tôi chuẩn bị về nước Hà Lan bé của tôi càng sớm càng tốt. Von Bork cố đè nén cơn giận, : - Chúng ta liên minh với nhau quá lâu. Giờ đây, lúc sắp chiến thắng lại tranh cãi? hoàn thành công tác tuyệt vời. chịu nhiều rủi ro mà tôi thể quên. Bằng mọi cách, hãy qua Hà Lan. Tại đó có thể đáp tàu thủy để New York. Trong vòng tuần nữa, còn tuyến đường nào an toàn cả. Giờ đây, tôi xin tiếp nhận cuốn sách và xếp vào hành lý. - Còn tiền? - Sao? - Phần thưởng 500 bảng ! Chàng pháo thủ này vô cùng ham ăn. Tôi phải cho y thêm 100 dollar phụ trội. Do đó tôi chỉ trao cái gói khi có thêm tiền. Von Bork cười cách cay độc: - Hình như cho rằng tôi là người có danh dự? muốn lấy tiền trước khi trao sách? - Ông muốn sao bây giờ? Chúng ta “tiền trao cháo múc” mà? - Được thôi, tùy ! ngồi vào bàn, viết chi phiếu, xé nó khỏi tập, nhưng vẫn cầm tay: - Suy cho cùng, bởi vì chúng ta tới cái mức cạn tàu ráo máng nên tôi thể tin , cũng như tin tôi. - quay lại phía gã người Mỹ: - Chi phiếu ở bàn, tôi xin xem nội dung trong cái gói, trước khi ông cầm phiếu chi. Gã người Mỹ làm thinh, trao cái gói cho . Von Bork tháo dây, gỡ hai lớp giấy gói, rồi trố mắt trước cuốn sách màu xanh, bìa mang mấy chữ mạ vàng: “Sách dạy nuôi ong”. Tên trùm gián điệp có thời gian để ngắm nghía lâu: bàn tay sắt bóp cổ y và miếng bọt biển thấm thuốc mê đập vào cái mặt nhăn thó của y. - Thêm cốc nữa nhé, Watson? - Sherlock Holmes đưa chai Tokay lên mời. - Rượu ngon, Holmes à! - Ngon tuyệt! Ông bạn ghế dài kia cho biết nó được lấy ra từ hầm rượu riêng của hoàng đế Franz Josef. Vui lòng mở cửa sổ vì mùi thuốc mê làm rượu mất ngon. Cửa tủ sắt hé mở. Holmes rút ra tất cả các bộ hồ sơ, xem xét kỹ lưỡng rồi xếp chúng vào va-li của Von Bork. Gã người Đức vẫn nằm dài tràng kỷ, ngáy khò khò, tay chân đều bị trói. - Chúng ta cần gấp gáp, Watson ạ! có ai quấy rầy ta cả. muốn nhấn chuông? Đâu có ai khác trong nhà, ngoại trừ bà lão Martha, người đóng trọn vai trò của mình. Chính bà ta là mật báo viên cho tôi. À, bà Martha, bà sung sướng khi hay tin mọi chuyện kết thúc tốt đẹp! Bà lão xuất tại ngưỡng cửa. Bà cúi mình và nhoẻn miệng cười, rồi quay về phía người nằm sóng soài tràng kỷ. - Ông ta khoẻ mà, chả đau ốm gì đâu! - Tôi cũng mừng cho ông ấy, ông Holmes à! Ông ấy là ông chủ tốt bụng. Ông ấy muốn tôi theo vợ ông ấy qua Đức hôm qua. Nhưng điều đó sai với kế hoạch của ông. - Nếu bà , tôi hài lòng tí nào! Bà lưu lại tôi mới an tâm, nhờ bà thông tin đó! - Viên bí thư sứ quán hôm nay có đến đây ông ạ. - Đúng, chúng tôi có gặp xe y. - Tôi những tưởng ngồi hoài và ông vướng khi gặp y. - hề gì! Hai chúng tôi chờ suốt nửa giờ mới thấy đèn bà tắt và biết rằng đường xá thông thương. Bà có thể lên London thăm tôi tại khách sạn Claridge. - Tốt lắm, thưa ông. - Bà chuẩn bị đầy đủ? - Vâng, thưa ông! Von Bork bỏ bưu điện 7 lá thư. Như thường lệ, tôi có ghi các địa chỉ. - Tốt lắm! Mai tôi xét vấn đề đó. Chúc bà ngủ ngon! Sau khi bà lão khuất, Holmes tiếp: - Mớ tài liệu này quan trọng lắm đâu. - Như vậy chúng vô dụng? - Tôi thế! Tài liệu này cho ta biết người Đức biết được cái gì. số lớn tài liệu này có được là do bàn tay của tôi, toàn là tài liệu giả mạo. Tuổi già của tôi có niềm vui nho nếu tôi thấy được tuần dương hạm của Đức ngược dòng Solent dựa theo bản đồ mìn mà tôi cung cấp. Còn , Watson? - Holmes ngừng lại, nắm vai người bạn cố tri, : - Hồi nãy tôi làm lơ, để ở lại xe. Nhìn kỹ , tôi thấy qua năm tháng, vẫn khoẻ. vẫn là cậu thanh niên luôn luôn vui tính mà tôi quen. - Tôi cảm thấy trẻ hơn 20 năm, Holmes à! Ít ra tôi cảm thấy sung sướng lúc nhận được điện tín của bảo đem xe hơi đợi tại Harwick. Về phần , cũng đâu có thay đổi gì nhiều, trừ cái râu dê gớm. - Đó là những hy sinh cho đất nước, bạn ơi. - Holmes đáp vừa vuốt chòm râu dê dưới cằm - Ngày mai con dê này chỉ còn là kỷ niệm. Cắt tóc đàng hoàng, chăm sóc thẩm mỹ cái mặt và xuất lại ở khách sạn Claridge. - Nhưng tự ý hưu trí rồi mà. Chúng tôi được tin sống đời dật bên bầy ong mật và sách vở tại nông trại thuộc South Downs mà. - Quả vậy! Đó là thành quả của cuộc đời bình lặng của tuổi vãn niên… - Holmes lấy cuốn sách bàn và đọc nguyên cái tựa: “Sách dạy nuôi ong với vài quan sát về sẻ đàn của ong chúa”. - Đó là kết quả của nhiều đêm suy tư và nhiều ngày làm việc. Tôi theo dõi thế giới của ong mật cũng như theo dõi thế giới lưu manh tại London. - Nhưng do đâu mà phải tái xuất giang hồ? - À, tôi vẫn còn chưa hết ngạc nhiên. Tôi dễ dàng cưỡng lại các vận động của ông Bộ trưởng ngoại vụ. Nhưng khi Thủ tướng đích thân xuống tại ngôi nhà hèn mọn của tôi… Watson à! chàng nằm tràng kỷ có phần cao tay hơn người của ta. Y thuộc loại thượng thặng. Tình hình rối beng và ai biết tại sao. Ở phía ta, có điệp viên bị nghi ngờ, có điệp viên bị bắt, nhưng bí vẫn còn đó. Cần phải khẩn cấp phanh phui. Vì đất nước, tôi ra nhận công tác. Tôi tốn hai năm cố gắng nhưng đó là hai năm đầy thích thú. Tôi khởi bằng việc hành hương qua Chicago, gia nhập hội kín Ireland. Nhờ đó tay chân của Von Bork để ý và đề bạt lên. Từ đó tôi được tin cậy. Và nhờ đó, phần lớn các kế hoạch của y bị phá vỡ và các điệp viên kỳ tài của y lần lượt sa lưới. Tôi canh chừng, Watson ạ, tôi chờ lúc trái chín... Này, ông ơi, tôi hy vọng rằng ông thấy mệt lắm! Von Bork, sau cái ngáp, chớp mắt, có nghe câu chót của Holmes. Y tuôn dây chửi thề bằng tiếng Đức. Trong lúc người tù chửi thề, Holmes tiếp tục khui các tài liệu… - Tuy có nhiều nhạc tính, nhưng tiếng Đức là ngôn ngữ có khả năng thể cao độ nhất. À, à! - Holmes tiếp tục trong lúc nhìn bức vẽ - Đây là đầu mối để bắt thêm con mồi khác! Tôi ngờ rằng Ủy viên hải quân là thằng chó chết đó. Tuy nhiên y cũng có bị tôi rình rập từ lâu. Người tù ngồi dậy cách khó khăn, rồi nhìn kẻ chiến thắng với thái độ thù hận và kinh ngạc. - biết tay tôi, Altamont. nghiệp cả đời tôi! biết tay tôi! - Cũng cái bài hát cũ rích, biết bao lần tôi nghe nó. Giáo sư Moriarty, đại tá Sebastian Moran… Thế mà tôi vẫn sống nhăn, vẫn lo cho con ong mật. Người tù vùng vẫy mưu thoát khỏi dây trói, nhìn Holmes với cặp mắt sát nhân và la lớn: - Đồ trời tru đất diệt! Đồ phản bội! - đúng đâu, tôi tệ đến thế đâu! - Holmes cười và - Nếu ông có thể đoán ra tôi. Altamont nguyên quán Chicago bao giờ có mặt đời này. Đó và tên giả của tôi. - Vậy ông là ai? - Tôi là ai, điều này đâu có gì quan trọng. Tuy nhiên vì ông muốn biết tôi phải cho ông biết. Đây phải là lần đầu tôi gặp các thành viên của gia đình ông. Trước đây tôi có số giao dịch làm ăn tại Đức và tên tôi có lẽ khá quen thuộc với ông. - Tôi rất muốn biết cái tên đó. - Chính tôi tiếp tay hoàn thành ly thân giữa Irène Adler và quốc vương Bohemia quá cố, khi hoàng đế Đức gửi người họ Heinrich của ông đến gặp tôi. Cũng chính tôi tránh cho cả của mẹ ông, bá tước Von und Zu Grafenstein khỏi bị mưu sát. Chính tôi là... Von Bork ngồi ngay dậy. - Người đó quả là độc nhất vô nhị đời này... - Xin cám ơn! - Holmes nghiêng người . Von Bork than thở, rồi nằm xuống ghế dài, tiếp. - Vậy mà phần lớn tin tức lại đến với tôi qua ông! Chúng có giá trị gì đâu? Tôi đóng góp được gì? Cuộc đời tôi bị tiêu tan cách vĩnh viễn. Vì tuyệt vọng, Von Bork tự bóp cuống họng mình. - Ông Von Bork, suy cho cùng, ông làm hết mình cho đất nước ông; tôi hết mình cho đất nước tôi Còn gì hợp tự nhiên hơn! Ngoài ra... - Holmes để tay mình lên vai con người ngã quỵ. - Ngoài ra dù sao cũng còn đỡ hơn là bị quật ngã bởi đối thủ tương xứng. Tài liệu ở trong va-li, Watson à! Nếu có thể, giúp đưa người tù . Chúng ta về London ngay bây giờ. Mỗi người nắm cánh tay, chúng tôi đưa Von Bork xuôi con đường trong vườn, con đường mà cách đó vài giờ cách rất tự hào. - Tôi hy vọng rằng ông được an vị đúng mức tiện nghi mà hoàn cảnh cho phép - Holmes , khi tất cả sẵn sàng chờ khởi hành - Tôi xin phép mồi điếu xì gà đặt vào miệng ông? Tất cả nhưng cái xoa dịu này đều đụng phải cơn thịnh nộ của gã người Đức. - Ông Sherlock Holmes, nếu chính phủ ông bao che các hành vi của ông đó là hành động chiến tranh! - Ông muốn sao về các hành vi của tôi và chính phủ ? - Ông là thám tử tư. ông có giấy phép bắt tôi. Cách làm việc của ông đều hoàn toàn bất hợp pháp và có tính lăng nhục. - Hoàn toàn bất hợp pháp ư? Bắt cóc công dân Đức? Và tước đoạt giấy tờ cá nhân của ông ta? - Đúng thế, tôi thấy rằng hai ông nhận ra việc. ngang qua làng tôi kêu... - Ông bạn thân mến! Nếu ông làm điều ngu xuẩn như thế, có thể ông tăng số lượng bảng hiệu quán ăn trong làng. “Quán thằng Phổ bị treo cổ”. Người chúng tôi kiên nhẫn lắm. Nhưng nay có hơi nổi nóng đó, tốt hơn là đừng trêu chọc nó! Ông Von Bork, ông theo chúng tôi cách êm thấm và nhàng cho tới Scotland Yard. Ở đó ông có thể cùng với ông bạn nam tước Von Herling, rồi hai ngài xem xét lại coi hai ngài có tên trong đoàn tuỳ tùng riêng của đại sứ Đức ? Về phần Watson, London quá xa đối với cái xe già cỗi của . Tôi có chi phiếu 500 bảng trong túi, tôi muốn lãnh càng sớm càng tốt, vì người viết phiếu hoàn toàn có quyền chống đối, nếu y được tự do đến ngân hàng!
Sir ARTHUR CONAN DOYLE Tàng thư của Sherlock Holmes 1. Người khách hàng nổi tiếng Holmes và tôi đều thích tắm hơi. lầu của cao ốc tại đại lộ Northumberland có cái góc tách biệt chứa tràng kỷ song đôi, chúng tôi choán 2 ghế này vào ngày 3-9-1902. Tôi hỏi Holmes ở đây có gì vui . Ðể trả lời, thò cánh tay dài ra khỏi các tấm drap để lấy cái bì thư trong áo choàng treo gần đó. - Cái này là của người gây rối. Tuy nhiên, cũng có thể đây là vấn đề sống chết. Tôi chả biết gì, ngoài nội dung của nó. Bức thư được gửi từ câu lạc bộ Carlton. Nội dung bức thư như sau: “Ngài James Damery được giới thiệu và tới nhà ông Sherlock Holmes vào lúc 4 giờ chiều mai. Ngài James muốn tham khảo ý kiến ông Holmes về vấn đề rất tế nhị và quan trọng. Do đó ngài hy vọng ông Holmes cố gắng thu xếp để được rảnh rỗi và xác nhận đồng ý qua điện thoại tại câu lạc bộ Carlton”. - Ðương nhiên là tôi đồng ý tiếp đón ông ta. có biết gì về cái ông Damery này ? - Tên ông ta là chìa khóa vạn năng để bước vào xã hội thượng lưu. - Tôi biết nhiều hơn chút. Ông ta nổi tiếng về cái tài thu xếp những việc tế nhị mà báo chí đề cập. còn nhờ ông ấy thu xếp cho ngài George Lewis trong vụ Hammerford Will ? Là người hào hoa phong nhã và có thiên khiếu về ngoại giao, ông ta cũng thực cần chúng ta. - Chúng ta? - Ðúng thế, nếu đồng ý. - Tôi rất hân hạnh. - Vậy đúng 4 giờ nhé. Lúc đó tôi ngụ tại căn hộ ở phố Hoàng hậu Anne, nhưng tôi tới phố Baker sớm hơn giờ hẹn. Ngài đại tá James Damery tỏ ra rất đúng giờ. Ðó là người to béo, lương thiện, hơi đua đòi chút, khuôn mặt cạo nhẵn, có giọng dễ nghe. Ðôi mắt sáng tỏa rộng trung thực, đức tính hòa nhã lộ đôi môi tươi cười. Cái mũ màu lợt, áo vét đen ngòm. Tất cả các chi tiết của y phục, từ hột trân châu cà-vạt cho đến đôi ghệt màu xanh tím bên đôi giày bóng loáng minh họa tính tỉ mỉ trong cách ăn mặc. Căn phòng hẹp có vẻ bị đè bẹp khi nhà đại quý tộc bước vào. - Ðương nhiên tôi cũng muốn gặp cả bác sĩ Watson. - ông vừa vừa cúi đầu lễ độ - hợp tác của ông ấy cực kỳ hữu ích, bởi vì lần này, thưa ông Holmes, chúng tôi phải đương đầu với kẻ nguy hiểm nhất Âu châu. - Tôi gặp nhiều đối thủ từng được gán cái danh hiệu “cao thủ”. - Holmes trả lời và cười. - Mời ngài dùng thuốc! Vậy ngài cho phép tôi nhé. Ðối thủ của ngài có nguy hiểm hơn cả cố giáo sư Moriarty hoặc hơn cả đại tá Sebastian Moran ? - Ông nghe đến nam tước Gruner? - Tên sát nhân người Áo? Đại tá Damery tháo bao tay và cười to: - Ông là bậc kỳ tài. Như vậy là ông biết thành tích của y? - Nghề nghiệp bắt tôi phải theo dõi kỹ các vụ án tại lục địa. Tôi tin chắc rằng giết vợ trong cái gọi là “Tai nạn tại đèo Splugen”. Tôi cũng biết ở và chẳng chóng chầy cũng tạo ra việc làm cho tôi. Nhưng nam tước Gruner giở trò gì mới? Tôi đoán là phải cái thảm kịch xưa diễn lại. - đâu, chuyện nghiêm trọng hơn. Trừng trị kẻ gây tội ác là quan trọng, nhưng ngăn ngừa tội ác lại càng quan trọng hơn. là khủng khiếp, thưa ông Holmes! Khi chứng kiến chuẩn bị biến cố ghê tởm, tình huống bẩn thỉu, thấy trước kết quả tai hại mà ta làm gì được để ngăn ngừa. Có ai lọt vào cảnh ngộ đau đớn như thế chưa? - Chuyện hiếm có! - Vậy là ông cảm thông với người khách hàng mà tôi làm đại diện. - Tôi ngờ ông chỉ là người trung gian. Vậy ai là đương chính? - Tôi khẩn khoản xin ông đừng hỏi thêm. Tên ông ấy cần được giữ bí mật. Tất nhiên ông được thù lao trọng hậu. - Tôi rất tiếc! - Holmes - Thưa ngài, tôi sợ rằng tôi phải từ chối đề nghị của ngài. Người khách vô cùng bối rối. Gương mặt tối sầm vì thất vọng. - Ông Holmes! Ông đặt tôi vào hoàn cảnh khó xử. Nhưng tôi đoán chắc rằng ông hãnh diện mà đảm nhiệm công việc, nếu tôi cung cấp đầy đủ chi tiết của nội vụ. Nhưng vì tôi hứa là tôi để lộ tên nhân vật. Và vì vậy, tôi chỉ xin trình bày tất cả những gì tôi được phép tiết lộ. - Nếu ông muốn! Nhưng ông nên nhớ, tôi hứa hẹn gì cả. - Ðồng ý! Chắc ông nghe về tướng quân De Merville? - Tướng quân De Merville nổi tiếng của Khyber? Tôi có nghe danh. - Ông ấy có tên là Violet De Merville, trẻ đẹp vẹn toàn. Chính ngây thơ này cần được đưa ra khỏi nanh vuốt của loài quỷ dữ. - Vậy là nam tước Gruner hốt hồn bé rồi? - đẹp trai, có giọng đường mật, dáng vẻ tiểu thuyết và kỳ dị của làm mê hoặc bé. Người ta đồn chinh phục biết bao nhiêu . - Nhưng làm thế nào lại quen được với ấy. - Họ gặp nhau trong chuyến chơi bằng tàu biển Ðịa Trung Hải. Ngài nam tước của chúng ta bám sát và cuối cùng chinh phục được con chim non. ta mê mệt . Ngoài ra, ta chả thiết đến cái gì khác. Mọi phương cách được thử để chừa bệnh, nhưng vô ích. Tóm lại, ta dự trù lấy vào tháng tới. ta trưởng thành và ta có ý chí sắt đá. Vậy ta làm sao ngăn cản chuyện này? - ta có biết những chuyện làm hồi còn ở Áo ? - có kể cho nghe những điều tai tiếng trong quá khứ của , nhưng luôn luôn trong chiều hướng của vị thánh tử đạo. ta chỉ nghe có chiều. - Tiếc thay, vì vô ý, ông tiết lộ danh tính của vị khách hàng của ông. Ðó là tướng De Merville. Người khách nhỏm mạnh ghế. - Tôi phủ nhận, nhưng chuyện buồn này làm tướng quân mất hẳn tinh thần. Gân cốt cứng cáp tại trận địa rêu rã, ông trở thành người bất lực trước thằng người Áo này. Tôi là bạn tri kỷ của ông ấy. Tôi xem bé đó như là con tôi ngay từ hồi nó còn mặc váy ngắn. Tôi thấy có lý do để cho Scotland Yard can thiệp vào. Chính tướng quân gợi ý tôi tới tìm ông với điều kiện là ông ta xuất đầu lộ diện trong nội vụ. Gương mặt Holmes sáng rực với nụ cười tinh nghịch: - Tôi cam kết với ông điều đó. Tôi sẵn sàng ra tay. Nhưng làm sao tiếp xúc với ông, khi cần? - Luôn luôn có thể tìm ra tôi qua trung gian của câu lại bộ Carlton. Trong trường hợp khẩn cấp, đây là số điện thoại riêng của tôi: XX.31. Holmes ghi chép, vẫn ngồi yên và cười ranh mãnh. Cuốn sổ tay vẫn còn để mở đầu gối. - Ðịa chỉ tại của gã nam tước, xin ông vui lòng ghi cho. Biệt thự Vernon, gần Kingston. Nhà lớn lắm. ta phất trong mấy cú đầu cơ tài chính gần đây. Do đó bội phần nguy hiểm. - ở tại London? - Vâng. - Ngoài nhưng điều vừa mới , ông có thể cho thêm những thông tin dồi dào hơn về chàng này ? - mê ngựa, mê . sưu tập sách và tranh. lại có ý thức thẩm mỹ cao nên rất có uy tín về việc đánh giá các đồ sứ Trung Hoa và có viết cuốn sách về nghệ thuật này. - bộ óc phức tạp! - Holmes - Tất cả các tội phạm lừng lẫy đều có bộ óc phức tạp. Ngài có thể thông báo với khách hàng của ngài rằng tôi đích thân chăm lo vụ này. Tôi tin rằng chúng ta tìm ra cách giải quyết. Sau khi khách ra về, Holmes chìm đắm trong suy tư làm như biết có diện của tôi. Cuối cùng trở về với thực tại. - Watson này, đoán được gì nào? - Tôi đoán gặp bé đó ngay. - Ông tướng còn làm bé động lòng tôi, người xa lạ, làm được gì. Tuy nhiên, nếu mọi phương cách đều thất bại tôi tính sau. Còn bây giờ, ta phải bắt đầu dưới góc cạnh khác. Có thể Shinwell Johnson giúp được tôi. Cho tới nay, tôi chưa có dịp nêu tên Shinwell Johnson bởi vì tôi chưa đến các vụ án bị phanh phui trong giai đoạn cuối của cuộc đời Holmes. Vào các năm đầu của thế kỷ này, Johnson trở thành phụ tá có tài năng. Trước đó, Johnson bị để ý dưới dạng thằng ác ôn nguy hiểm, bị nằm nhà đá hai năm tại Parkhurst. Sau đó ta ăn năn, hối cải và liên minh với Holmes. ta trở thành tay trong, được gài trong bọn côn đồ khét tiếng của London. Johnson cung cấp cho Holmes những tin tức đôi khi có tính quyết định. Nếu ta làm mật báo cho cảnh sát, bị lột mặt nạ ngay. Nhưng vì ta hợp tác trong những vụ việc mà kết quả sau cùng phải là việc truy tố ra tòa nên các bạn cũ của ta hề hay biết. Nhờ hào quang hai năm khổ sai, Johnson lọt vào tất cả các hộp đêm, các sòng bài với cái bộ óc phong phú cũng như năng khiếu quan sát, Johnson trở thành mật báo viên lý tưởng. Khó mà theo dõi tất cả các xoay xở của Holmes, bởi vì về phần tôi, tôi cũng có những nhiệm vụ nghề nghiệp phải chu toàn. ấy hẹn gặp tôi tại Simpson. Tại đây, ngồi trước bàn gần cửa sổ, báo cho tôi vài tin tức đồng thời quan sát làn sóng người đường trong khu náo nhiệt Strand. - Johnson săn mồi. - Holmes với tôi - Có thể y mang về vài cái rác rưởi móc từ những xó xỉnh tối tăm nhất của xã hội đen. Chính trong cái mớ rác rưởi đó, chúng ta sục sạo và khám phá ra các bí mật của đối tượng. - bé nhìn nhận những việc có, cái phát mới mẻ của có tác dụng gì? - Biết đâu, Watson. Tâm trí của người đàn bà là những bài toán khó hiểu. tội giết người có thể được bỏ qua, nhưng vi phạm vặt vãnh có thể làm đau nhói con tim. Nam tước Gruner có với tôi... - có chuyện với ? - À, tôi chưa thông báo các dự định của tôi cho . đây, tôi thích cận chiến. Tôi thích mặt đối mặt với đối thủ để tận mắt nhìn , xem “cái cốt” của là con gì. Sau khi giao việc cho Johnson, tôi kêu chiếc xe ngựa, đến Kingston và phải rằng vị nam tước rất khả ái. - nhận ra ? - Trước đó, tôi đưa ra danh thiếp. Ðó là đối thủ tuyệt hảo, lạnh như băng, năng ngọt lịm, nhưng nọc độc như nọc rắn hổ mang. Theo tôi, thực thuộc giai tầng quý tộc và tội ác. lịch mời bạn uống trà nhưng sẵn sàng bỏ thuốc độc hại bạn. Vâng, tôi khoái nghiên cứu nam tước Adelbert Gruner. - rất dễ thương! - Dễ thương như mèo, dễ thương mà giết người như ngóe. Cái cách đón tiếp tôi làm tỏ lộ bản chất của . “Tôi cũng đoán rằng thế nào tôi cũng gặp ông, ông Holmes à”, với tôi, “Có thể tướng quân De Merville thuê ông để ngăn cản đám cưới giữa tôi với con ông ta, Violet?” Tôi đáp: “Vâng!” “Thưa ông”, tiếp với tôi, “Ông chỉ làm tổn hại cái danh tiếng khá xứng đáng của ông. Ông thể nào thành công trong vụ này. Ông lao mình vào việc vô bổ, lại nguy hiểm. Ông cho phép tôi mạnh mẽ khuyên ông nên rút lui tức khắc?” “Lạ chưa?”, tôi đáp, “Ðó lại chính là lời tôi dự định khuyên ông. Tôi kính trọng cái khối óc của ông, thưa nam tước, và mấy phút sơ giao cũng chưa làm sút giảm kính trọng đó. Chúng ta hãy chuyện giữa người lớn với nhau. ai muốn lùi về quá khứ và gây phiền hà cho ông. Quá khứ là quá khứ? Ông bơi trong khúc sông trong lành. Nếu ông ngoan cố tiến hành đám cưới, ông đụng chạm tới số người có quyền thế. Họ ra tay phá ông cho tới khi ông bị đuổi khỏi nước này. Ông khôn nên để yên cho bé. Ông đâu có được thoải mái khi mà vài giai đoạn trong quá khứ của ông được tiết lộ cho ta?”. Vị nam tước có vài sợi lông thẩm mỹ lòi dưới mũi như ăng-ten của côn trùng. Chúng lay động vì khoái trá khi ông ta nghe tôi và ông ta cười rồi trả lời. “Xin tha thứ cho hả hê của tôi, ông Holmes. Tuy nhiên làm sao cười khi thấy ông đánh bài mà cầm bài, lá bài, thưa ông Holmes? Ông tuyệt đối có lá bài, chi đến nước bài?” “Ông tin như vậy à?” “Theo tôi biết là như vậy. Ông cho phép tôi giảng giải đầy đủ. Bài tôi tốt đến nỗi tôi có thể bày ra giữa bàn. Tôi có cái may mắn là chinh phục trọn vẹn tình của bé. ta tôi, mặc dù tôi cho biết tất cả các giai đoạn rủi ro trong quá khứ của tôi. Tôi cũng có dặn ta rằng vài kẻ mưu mô, vài kẻ nguy hiểm tới gặp và kể cho ta nghe các chuyện đó. Tôi cảnh giác ta và chỉ cách cho ta tiếp đón bọn đó. Ông có nghe đến cái hiệu quả sau thôi miên , thưa ông Holmes! Ông thấy nó cách cụ thể. Tôi chắc chắn ta từ chối tiếp ông đâu. ta nuông chiều tất cả ý muốn của cha ngoại trừ chi tiết .” Watson à, sau đó tôi kiếu từ với tất cả bình tĩnh và lạnh lùng. Nhưng khi vừa nắm lấy hột xoài mở cửa, tôi bị chận lại: “Nhân tiện luôn, thưa ông Holmes, ông có quen ông Le Brun, thám tử người Pháp ?” “Có!” “Ông có biết việc gì xảy ra cho ông ấy ?” “Hình như ông ta bị vài thằng du đãng ở Montmartre đánh đòn và bị tật suốt đời”. “Ðúng. trùng hợp lạ lùng, ông ấy xen vào công chuyện của tôi cách đó tuần! Ðừng xen vào chuyện của tôi, thưa ông Holmes, xui xẻo cho ông. Lời khuyên chót của tôi. Ông đường ông, tôi đường tôi, chúc đêm an lành!” Thế nào! nắm được câu chuyện chứ, Watson? - Tay hầu tước này có vẻ nguy hiểm! - Cực kỳ nguy hiểm. Tôi từng biết nhiều tên khoác lác, nhưng thằng này thuộc loại ít . - có bị bắt buộc phải bận tâm về đâu. lấy bé đó có sao đâu? - Vì chắc chắn giết chết người vợ sau cùng, nên ta cần phải ngăn cản cuộc hôn nhân mới này. Mặt khác, phải làm theo lệnh của khách hàng. Nhưng thôi, đừng có thảo luận điều này. Khi uống cà phê xong, theo tôi, bởi vì Shinwell đến báo cáo công việc. Shinwell Johnson đến phố Baker khi chúng tôi tới nơi. Ðó là tên khổng lồ, mặt hơi đỏ và thô, đôi mắt cực kỳ linh hoạt là dấu hiệu độc nhất của bộ óc xảo quyệt. Chắc chắn ta lặn ngụp trong giai tầng cặn bã. thế, cạnh ta, ghế dài còn có trẻ trung mảnh khảnh, tóc đỏ hoe, khuôn mặt thê lương, tái mét, bị tội lỗi và ưu phiền tàn phá đến nỗi người ta mường tượng được những năm tháng khủng khiếp mà nàng trải qua. - Tôi xin giới thiệu Kitty Winter, - Shinwell Johnson và lay động bàn tay béo phị. - Những gì ấy biết... ấy tự động ra. Tôi chộp được ấy, thưa ông Holmes, đầy giờ sau khi nhận được giấy của ông. - Tìm tôi khó - - Ai cũng có thể tìm ra tôi tại địa ngục của London. Chúng tôi là những bạn tâm giao. Nhưng mà, quỷ thần ơi, còn thằng nữa, thằng này lẽ ra phải ở tầng địa ngục tệ hơn, nếu có công lý cõi trần này. Ðó là cái thằng mà ông bận tâm, thưa ông Holmes. Holmes cười: - Tôi xin dự phần vào nguyện ước của , Winter? - Nếu tôi có thể giúp ông tống nó đến cái nơi mà nó phải ở theo luật, tôi rất sẵn sàng. Người khách nữ cách hăng hái. hận thù cao độ thoáng qua các đường nét căng thẳng và trong đôi mắt rực sáng. - Ông khỏi phải bận tâm về quá khứ của tôi, thưa ông Holmes. Quá khứ của tôi chẳng có gì hay ho. Tôi chỉ là con chuột nhắt trong nanh vuốt của con mèo Gruner. Chờ khi tôi có thể kéo nó... - vung hai bàn tay cách điên dại -... kéo nó xuống tới cái hố, nơi mà nó đạp quá nhiều người xuống. - biết chuyện gì rồi? - Shinwell Béo Ú với tôi. Thằng điếm chạy theo con ngốc đáng thương và lần này muốn cưới ta làm vợ. Phần ông, ông chắc biết quá nhiều về con quỷ này! - bé mất trí rồi. ấy nó như điên như dại. ấy được cho hay, nhưng ấy chịu nghe tí gì. - Ðược cho hay về vụ ám sát? - Vâng... - Chúa ơi! Con bé cừ ! Ông nhét bằng chứng vào cặp mắt ngu đần của nó? - có chịu giúp chúng tôi soi sáng ta ? - Còn gì nữa. Tôi chưa phải là bằng chứng bằng xương bằng thịt sao? Tôi kể cho ta nghe cái cách tôi bị đối xử. - ? - Sao lại ? - Nên thử làm coi! Thằng khốn đó thú nhận phần lớn các tội lỗi của nó và ta tha thứ cho nó rồi. Tôi tin rằng ta chịu trở lại vấn đề. - Tôi chứng minh rằng nó chưa thú hết tội - Winternói lớn tiếng. - Tôi có biết sơ qua về hai hoặc ba cái án mạng chưa bị phanh phui. với cái giọng êm như nhung, rồi thản nhiên nhìn tôi và tiết lộ: Nó chết được tháng rồi. nhiều, và tôi cũng chú ý lắm. Vì , bất cứ cái gì làm, tôi cũng thích thú, y hệt như con bé ngu đần đáng thương kia. Chỉ có chuyện làm cho tôi kinh hoảng. Quỷ thần ơi! có cuốn sách đóng bằng da nâu, có ổ khóa đóng kín và có huy hiệu của bìa. Hình như đêm đó say, nếu đâu có cho tôi xem? - Sách gì? - sưu tập đàn bà. hãnh diện về bộ sưu tập đàn bà của như người ta hãnh diện về những bộ sưu tập tiền xưa hoặc các loại tem. ghi đầy đủ trong sách đó những hình chụp lén, tên họ, và biết bao chi tiết khác. Ðủ hết! cuốn sách mà người đàn ông nào, ngay cả giới cặn bã cũng nhẫn tâm làm thế! Nhưng gã Adelbert Gruner đó viết: “Các linh hồn mà tôi hủy diệt”. Nhưng thôi, tôi bình luận nữa, bởi lẽ cuốn sách đó ích gì cho ông. Còn nếu nó hữu dụng làm sao lấy nó được? - Nó ở đâu? - Làm sao mà biết, bởi vì tôi tuyệt giao với hơn năm rồi. Khi còn sống chung, tôi biết nó được giấu ở đâu. Về nhiều phương diện, giống con mèo, có cái tính sạch và chính xác của mèo. Do đó, có thể quyển ấy ở trong tủ đồ gỗ. Chỗ trong văn phòng riêng của . - Tôi vào đó rồi! - Holmes đáp. - Ủa, rồi hả? Vậy ông đâu phải là tay mơ. Có lẽ gặp phải tay kỳ phùng địch thủ rồi. Văn phòng mà ông vào có cái tủ buýt phê lớn chứa đồ sứ Trung Hoa đặt giữa hai cửa sổ sau cái bàn, có cái cửa qua văn phòng riêng, nơi cất giấy tờ và ngàn lẻ thứ khác. - Ông ta sợ ăn trộm à? - Adelbert đâu phải đồ thỏ đế. Ðương nhiên dư sức bảo vệ mạng sống và tài sản của . Ban đêm có cả hệ thống chuông báo động. Mặt khác trong nhà có cái thứ gì đáng giá để quyến rũ bọn ăn trộm đâu? Ngoại trừ mớ đồ sứ Trung Hoa. - Ðồ vô giá trị! - Shinwell Johnson mạnh mẽ lớn - thằng cha, con mẹ chợ trời nào chịu mua món đồ của nó. - Ðồng ý! - Holmes - Nào Winter, đề nghị quay lại chiều mai lúc 5 giờ. Ðể tôi suy nghĩ về đề nghị gặp của . Tôi xem xét coi có thể thu xếp cuộc hẹn được . Tôi thành thực cám ơn cộng tác của . Có lẽ tôi khỏi cần phải nhắc lại rằng người khách hàng của tôi rất hào phóng. - - la to - Tôi đến đây vì tiền. Lôi được thằng khốn đó xuống bùn là tôi hả dạ! Nhét nó sâu xuống bùn và chân tôi đạp lên để giẫm nát cái mặt đáng nguyền rủa của nó! Tôi muốn cái gì khác. Tôi gặp ông vào ngày mai và bất cứ lúc nào. Béo Ú biết cách kiếm ra tôi. Phải tới chiều hôm sau, tôi mới gặp Holmes tại quán ăn quen thuộc ở Strand. nhún vai khi được hỏi xem cuộc hội ngộ có kết quả ? Holmes kể lại: - Tướng quân điện thoại cho hay rằng mọi chuẩn bị xong. Winter rất đúng hẹn, leo lên xe ngựa chung với tôi. Xe cho chúng tôi xuống lúc 5 giờ 30 tại tư dinh đồ sộ của ông tướng. người hầu mặt đồng phục đưa chúng tôi vào phòng khách lớn. bé ngồi đợi. ta mặt tái xanh, nghiêm trang, sắt đá và lạnh lùng như tuyết. Tôi biết cách mô tả bé, Watson à? Có thể trước khi câu chuyện kết thúc, gặp ta, chừng đó sử dụng năng khiếu văn sĩ của . bé đẹp, cái đẹp thanh thoát. Trong các kiệt tác của những nhà danh họa Trung Cổ, tôi gặp những khuôn mặt giống khuôn mặt của ta. Làm thế nào con thú dữ có thể đặt vuốt của nó con người như thế! Chuyện đó khó hiểu đối với tôi. biết rằng những cái khác cực hút lẫn nhau, người thiên về tâm linh bị cuốn hút bởi người ác thú tánh. Ðương nhiên là ta biết lý do của cuộc thăm viếng của chúng tôi. có mặt của Winter làm cho bé ngạc nhiên chút. Tuy vậy, ta vẫn chỉ hai ghế bành với vẻ mặt của bà trưởng tu viện tiếp nhận hai người cùi trước đây ăn mày. ta giọng như vang dội ư tảng băng. “Thưa ông, tôi có được nghe nhiều về danh tiếng của ông, thưa ông Holmes. Ông tới đây, theo tôi hiểu, là để vu khống vị hôn phu của tôi, Adelbert. Chỉ vì chiều theo ý cha tôi mà tôi tiếp ông, và tôi xin báo cho ông biết trước rằng lời nào của ông có ảnh hưởng đến các quyết định của tôi”. ta làm tôi đau nhói. Ngay lúc đó, tôi coi ta như con của tôi. Tôi hăng say biện giải, mô tả cho ta các tình huống địa ngục của người đàn bà chỉ biết tim người đàn ông sau khi lấy nhau, người đàn bà phải chịu khốn khổ của đôi bàn tay đẫm máu và đôi môi tanh tưởi. Tất cả các lời của tôi thể đem lại phút xúc động cái nhìn xa xăm của ta. Tôi nhớ lại những gì thằng ác ôn về cái tác động sau thôi miên. Quả vậy, ta có thể tưởng tượng rằng bé sống bên trái đất trong mê sảng. “Tôi nhẫn nại nghe ông , thưa ông Holmes. Hiệu quả của lời ông là đúng như hiệu quả mà tôi cho ông biết trước. Tôi biết rằng chồng chưa cưới của tôi trải qua rất nhiều cơn giông tố của những phê phán rất bất công. Ông là người cuối cùng trong loạt người vu khống. Có thể ông có mỹ ý với tôi, mặc dù tôi biết ông là người làm việc có thù lao, ông có thể bảo vệ quyền lợi của nam tước cũng như quyền lợi các kẻ thù của nam tước. Nhưng đó là quyền tự do của ông. Phần tôi, tôi muốn ông hiểu dứt khoát rằng, tôi ấy, ấy cũng tôi, còn dư luận đối với tôi chỉ như chó sủa lỗ . Nếu bản chất quý phái của ấy đôi khi có sai sót, có thể Chúa thu xếp để tôi đến nâng ấy lên vai vế cũ.” Quay qua phía Winter, ta thêm. “Tôi hiểu tại sao có diện của thiếu phụ trẻ tuổi này?”. Tôi sắp trả lời con bé bụi đời xen vào như cơn lốc. hãy tưởng tượng cảnh lửa gặp băng, mặt đối mặt. “Tôi với , tôi là ai?”, Winter nhảy dựng khỏi ghế và la lớn, miệng méo xẹo vì điên tiết. “Tôi là tình nhân cuối cùng của thằng đó. Tôi là trong trăm người đàn bà bị thằng đó cám dỗ, mê hoặc, tàn phá cuộc đời rồi liệng vào đống rác. Ðống rác, đối với có thể là nấm mồ, có lẽ lại hay hơn. Tôi nhắc lại, đồ ngu như chó, lấy nó, tiêu tùng! Hoặc nó đập nát tim hoặc nó vặn cổ ? kết quả là cái chết chắc chắn. Hôm nay, phải vì thương mà tôi . sống hay chết mặc xác . Chính vì muốn phục thù rửa hận. nên nhìn tôi cách miệt thị như thế, người đẹp ơi! Bởi vì người đẹp có thể sa sút cách tệ hại hơn, lâu lắm đâu”. “Tôi muốn phải những chuyện như thế này. Tôi lặp lại lần chót rằng tôi biết ba giai đoạn của cuộc đời của vị hôn phu của tôi. Trong đó ấy vướng phải thành phần đa mưu và tôi vững tin rằng ấy thành hối cải những sai trái cũ.” “Ba giai đoạn”, người nữ đồng hành của tôi thét to, “Ðồ ngu! Ðồ ngu cực kỳ!” “Ông Holmes, tôi cầu ông chấm dứt cuộc chuyện này. Tôi vâng lệnh bố tôi mà tiếp ông, chứ tôi đâu bị bắt buộc phải nghe các lời mê sảng của người này”. Winter chửi thề như bắp rang, nhào ra phía trước, nếu tôi nắm được cổ tay , Winter chụp tóc bé. Tôi kéo ta ra hướng cửa và nhanh nhẹn đẩy ta lên xe ngựa, tránh được tụ tập của những người hiếu kỳ. Về phần tôi, tuy tỉnh táo hơn, nhưng tôi cũng muốn phát điên khi vấp phải thái độ cao ngạo của người phụ nữ cố cứu mạng. Vậy là tôi báo cáo tình hình đầy đủ rồi đó. Ðương nhiên, tôi phải mở ra hướng khác. Tôi vẫn phải giữ nên lạc với , Watson! Có phần chắc là tôi dành cho vai trong vở kịch tới. Tôi đoán biết màn tới do họ chủ động đó. Holmes đoán đúng đòn thù của họ giáng trả. Ðúng ra là của thằng điếm đó. Tôi điếng người khi đọc tin tờ nhật báo. việc xảy ra giữa đại khách sạn Grand Hotel và nhà ga Charing Cross. tờ báo buổi chiều in hàng tít rất lớn bằng chữ đen nền vàng: “Sherlock Holmes bị mưu sát”. Tôi đứng như phỗng đá lúc lâu. Sau đó hình như tôi giật tờ báo từ tay người bán, và trả tiền báo rồi tức tối chui vào trước cửa tiệm thuốc tây để đọc: “Chúng tôi đau đớn hay tin ông Sherlock Holmes là nạn nhân của cuộc mưu sát. tại mọi dự đoán về tình trạng sức khỏe của ông là quá sớm. Biến cố xảy ra khoảng 12 giờ tại phố Regent, gần quán cà phê Royal. Hai người dùng gậy đập tới tấp thân và đầu ông Holmes. Các bác sĩ cho rằng đây là trường hợp nghiêm trọng. Ông được chở vào nhà thương Charing Cross nhưng ông nằng nặc đòi chở về nhà tại phố Baker. Những kẻ tấn công ăn mặc rất đàng hoàng. Họ thoát thân bằng cách chạy vào quán cà phê Royal rồi ra bằng cửa sau và tan biến đường phố đông người. Ðương nhiên họ thuộc giai tầng tội ác biết bao lần bị khốn khổ bởi tài năng của ông Sherlock Holmes”. Tôi nhảy lên xe ngựa, bảo chạy tới phố Baker. Tại cửa có xe của ngài Leslie Oakshott chờ. Khi vào hành lang, tôi gặp nhà giải phẫu nổi tiếng này. - Bệnh có gì nguy kịch - Bác sĩ Leslie Oakshott với tôi - Rách da đầu hai chỗ, trầy trụa tứ tung. Phải vá nhiều. Tôi có chích morphine, cần để ông ấy nghỉ ngơi, nhưng ông có thể vào gặp vài phút. Tôi hối hả bước vào căn phòng tối om. Holmes gọi tôi. Bức sáo được kéo xuống ba phần tư nhưng có tia sáng mặt trời lọt vào, nhờ đó tôi thấy có vết máu thoát ra lớp băng trắng đầu Holmes. Tôi ngồi gần , lắc đầu. - gì đâu, Watson! Ðừng giữ cái bộ mặt đưa ma đó - Holmes với giọng yếu ớt - nặng như người ta đâu! - là may! - Tôi đánh gậy cũng tệ, như biết, tôi đỡ được nhiều cú. Chúng có 2 người, tôi thua là do cái người thứ hai này. - Ðương nhiên là do gã nam tước khốn nạn đó giựt dây. Nếu cho phép, tôi xé xác nó ngay? - Ta thể làm gì trước khi cảnh sát thộp cổ mấy tên đồng phạm của nó. Chúng chuẩn bị kế hoạch chuồn hay lắm. Hãy chờ lúc. Tôi có kế hoạch mới. Việc thứ nhất phải làm là tung tin rằng bệnh trạng của tôi là rất nguy kịch. May mắn lắm sống thêm tuần. Hãy phao tin rằng tôi sảng điên. - Còn ngài Leslie Oakshott? - Ồ, khỏi lo, ông ấy phịa còn dữ hơn nữa. Tôi lo chuyện đó cho. - Còn gì nữa . - Còn chứ! Báo Shinwell Johnson, bảo đem cất giấu con bé bụi đời vào nơi an toàn. Bọn chúng làm thịt con bé. Khẩn trương lên, ngay đêm nay nhé! - Tôi ngay. Còn gì nữa ? - Ðể cái tẩu và bao thuốc bàn giùm. Tốt lắm! Mỗi sáng tới đây, chúng ta hoạch định kế hoạch hành động. Ngay đêm đó tôi thu xếp với Johnson để gởi Winter qua vùng ngoại ô, chờ tới lúc sóng lặng gió yên. Trong suốt sáu ngày, công chúng lầm tưởng Holmes thoi thóp, chờ chết. Các bản thông báo sức khỏe rất là bi quan, còn báo chí công bố những tin tức ảm đạm. Trong khi đó Holmes bình phục nhanh chóng. Ngày thứ bảy, người ta tháo chỉ các chỗ may. Cũng tối hôm đó họ loan tin mà tôi phải thông báo ngay cho Holmes. Trong đám hành khách con tàu rời Liverpool vào sáng thứ sáu, có tên của nam tước Adelbert Gruner. có những việc tài chính quan trọng phải giải quyết tại Hoa Kỳ trước ngày kết hôn gần kề. Sau khi nghe tin này, nét mặt Holmes tái mét. - Thứ sáu. Holmes la lớn - Vậy chỉ còn có ba ngày thôi. Thằng ác ôn này muốn chạy trốn. được đâu, Watson? Tôi muốn làm cái gì để giúp tôi. - tôi tới đây là để giúp . - Vậy dành 24 giờ tới để nghiên cứu kỹ lưỡng các đồ sứ Trung Hoa. Holmes giải thích thêm. Tôi cũng đặt câu hỏi nào. Mấy năm sống với tập cho tôi thói quen răm rắp vâng lời. Nhưng khi rời phòng của , dọc đường Baker, tôi biết làm sao chấp hành mệnh lệnh. Cuối cùng tôi đến thư viện ở quảng trường St. James, trình bày dự định của tôi cho người bạn thân tên là Lomax, phó quản thủ thư viện và quay về nhà với cuốn sách đồ sộ kẹp ở nách. Suốt đêm, suốt sáng hôm sau, tôi học được cả ngàn chuyện và nhồi nhét vào đầu cả ngàn cái tên. Ðầu óc nặng trĩu dưới gánh nặng của tài liệu này. Chiều hôm sau tôi đến nhà Holmes. ngồi chiếc ghế bành, đầu quấn băng. - Nếu tin theo các báo chí hấp hối? - Ðấy chính là điều tôi muốn phổ biến rộng rãi, còn học bài kỹ chưa? - Ít ra tôi có thể hiểu số điều. - Hoan nghênh! thấy đủ sức tranh luận cách khôn ngoan về đề tài đó chưa? - Dư sức. - Vậy, vui lòng lấy giúp tôi cái hộp lò sưởi? Holmes mở nắp, để lộ ra đồ vật được gói kỹ trong miếng lụa Ðông phương. - Phải cầm cho cẩn thận. Ðây là đĩa sứ đá trứng đời nhà Minh. Cho tới nay chưa có ai làm hay hơn. Có đủ bộ. Hình như có bộ thứ hai, ngoài bộ ở Hoàng cung Bắc Kinh. Nhìn đồ vật này, người sành điệu sướng phát điên. - Tôi phải làm gì? Holmes đưa cho tôi danh thiếp đó có in hàng chữ “Bác sĩ Hin Barton, 369 phố Half Moon”. - Ðêm nay mang tên này và đến nhà nam tước Gruner. Tôi biết vài thói quen của . Lúc 8 giờ 30 có thể rảnh. hãy gởi danh thiếp báo trước. với rằng mang tới mẫu của bộ sứ đời nhà Minh, hiếm có. đóng vai bác sĩ dễ thôi, nhưng cần đóng vai người sưu tập nhiều hơn. Bộ đồ sứ này tình cờ lọt vào tay , có nghe đồn nó thích đồ sứ, và sẵn sàng bán với giá cao. - Bao nhiêu? - Câu hỏi khôn ngoan đó. bị lộ diện mau chóng nếu biết giá cả của món hàng. Mẫu này do tướng quân của chúng ta mang lại. ngoa khi khẳng định là có cái thứ hai thế giới này. - Tôi có thể đề nghị bộ đồ sứ được đánh giá bởi chuyên viên? - tuyệt hảo hôm nay. Vì tế nhị, định giá mà đề nghị mời chuyên viên. - Nhưng chắc gì nó tiếp tôi? - Tiếp chứ! là tay chơi đồ cổ, quên rồi sao? Hãy ngồi xuống, tôi đọc cho chép! Khỏi cần xin hồi , chỉ báo đến và cho biết lý do. Ngay đêm đó, với cái đĩa quý giá tay và tấm danh thiếp mang tên bác sĩ Hill Barton trong túi, tôi lao mình vào cuộc phiêu lưu. Ngôi nhà và khoảnh đất chung quanh cho thấy rằng nam tước Gruner giàu sụ, đúng như ngài James . Những con đường dài uốn khúc giữa các bồn hoa lạ đưa tới cái sân vuông rải sỏi, có dựng nhiều bức tượng. Cơ ngơi này được sắp đặt bởi ông vua vàng của Nam Mỹ vào thời cực kỳ phát đạt. quản gia ăn mặc nghiêm chỉnh mở cửa cho tôi, rồi giao cho gia nhân mặc toàn đồ nhung sang trọng. Cuối cùng nam tước tiếp tôi. ta đứng gần cái tủ cao, đặt giữa hai cửa sổ, chứa phần bộ sưu tập đồ sứ Trung Hoa. Khi tôi vào, ông quay mặt về hướng tôi, tay cầm lọ màu náu. - Mời bác sĩ ngồi! Tôi ngắm nghía các báu vật của tôi và tự hỏi biết có thể thực thêm vào đó cái nữa ? Cái mẫu đời Ðường này thuộc thế kỷ thứ VII có thể làm ông thích. Tôi chắc chắn ông chưa bao giờ thấy khéo tay nào và pha trộn màu nào hài hòa hơn. Ông có mang theo cái đĩa đời Minh đấy chứ? Tôi mở gói cách cẩn thận và đưa cái đĩa ra. liền ngồi vào bàn, kéo cái đèn lại gần và quay đĩa qua lại, xem xét mọi khía cạnh. Trong lúc đó, ánh sáng màu vàng chiếu sáng khuôn mặt cho phép tôi ngắm cách thoải mái. thực đẹp trai, chiều cao trung bình nhưng dáng người thanh nhã, mềm mại. Khuôn mặt sạm nắng, vẻ Ðông phương, đôi mắt to đen nhánh, mơ màng, có sức cuốn hút đàn bà cách dễ dàng. Tóc và râu màu đen, râu kẽm, ngắn, mảnh mai, chải chuốt. Giọng hấp dẫn, điệu bộ sang trọng. Tôi đoán chỉ ngoài 30, nhưng thực ra, như sau này mới biết, 42 rồi. - Rất đẹp! Rất là đẹp! - khen luôn miệng. - Ông có bộ sáu cái? Có điều là tôi chưa bao giờ nghe về cái bộ đĩa tuyệt trần này. Tôi biết tại quốc có bộ có thể sánh với bộ này. Nhưng chắc chắn họ bán. Thưa bác sĩ Hill Barton, bác sĩ vui lòng tha thứ cho tò mò của tôi và cho tôi biết do đâu bác sĩ có được bộ này? - Ông thích nó à? - Tôi hỏi với vẻ bình thản. - Tôi biết nó là thứ thiệt. Về trị giá của nó, tôi đành phó thác cho định giá của chuyên gia. - Rất là bí hiểm! - thầm, với đôi mắt đen lấp lánh tia sáng ngờ vực. - Khi muốn mua những đồ vật có giá trị lớn như thế này, ai cũng muốn phăng cho tới ngọn ngành. Cái đĩa đẹp, quý, là điều ai chối cãi. Tôi mảy may ngờ vực. Nhưng tôi phải cân nhắc nhiều điều... Bác sĩ có quyền bán nó. - Tôi bảo đảm! - Thế tôi phải xét lại giá trị của lời bảo đảm này. - Các ngân hàng của tôi trả lời cho ông về uy tín của tôi. - Ðược thôi! Dù vậy việc buôn bán này có hơi dị thường! - Ông mua hay , tùy ông! - Tôi với vẻ cực kỳ bất cần - Tôi tới ông trước tiên, tại vì tôi được biết ông là người sành sỏi, chứ việc buôn bán này đâu có khó gì? - Ai với ông rằng tôi là người sành sỏi? - Tôi biết ông có viết cuốn sách về đề tài này. - Ông đọc rồi? - Chưa! - Chúa ơi! Càng lúc tôi càng rồi trí hơn. Ông là người sành sỏi kiêm nhà sưu tập. Ông có đồ vật giá trị lớn trong bộ sưu tập, thế mà ông chịu khó đọc cuốn sách độc nhất giúp ông tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của cái đồ vật này. Ông giải thích điều đó như thế nào? - Tôi rất bận. Tôi là thầy thuốc. Tôi có khách hàng phải phục vụ. - Ðó phải là lời giải đáp! Nếu ham chơi đồ cổ, người ta luôn dành thời gian cho nó bằng mọi cách. Trong thư, ông có ông là người sành sỏi. - Ðúng vậy! - Vậy tôi hỏi ông vài câu để kiểm nghiệm. Tôi buộc lòng phải với bác sĩ rằng cái màn buôn bán này mỗi lúc mỗi lù mù. Nào, ông biết gì về nhà Bắc Ngụy và vị trí của họ trong lịch sử đồ gốm? Tôi nhảy dựng khỏi cái ghế bành và giả đò nổi giận: - Ðiều này còn dung thứ được nữa. ông à? - Tôi la lớn - Tôi tới đây vì dành ưu tiên cho ông, chứ phải để bị hạch hỏi. Kiến thức của tôi về đồ sứ có thể thua sút ông, nhưng tôi từ chối trả lời những câu hỏi được đặt ra cách xấc xược! nhìn tôi đăm đăm, cái tính thơ mộng trong đôi mắt của biến mất. Rồi đột ngột, đôi mắt này rực lửa. Tôi thấy ngời sáng của bộ răng trắng của giữa cặp môi tàn nhẫn. - chơi trò gì? tới đây để dò xét tôi, mưu toan gạ gẫm tôi. Hình như Holmes gần chết và y sai đến đây canh chừng tôi. vào đây dễ dàng, nhưng thấy ra khỏi đây rất khó. nhảy dựng lên, tôi lùi lại, chuẩn bị đối phó. Có lẽ lúc đầu có nghi ngờ, qua cuộc thẩm vấn, thấy hơn. thọc tay vào hộc tủ, lục lạo túi. Thình lình tiếng động vang lên làm dừng lại để nghe. - À! - la lên rồi chạy vào căn phòng phía sau lưng. Tôi chạy ra đến cửa. Cửa sổ của căn phòng thứ hai ngó ra vườn bị mở toang hoác. Bên cạnh cửa sổ này, Sherlock Holmes xuất như con quỷ, sau đó, Holmes nhảy ra ngoài. Tôi nghe tiếng chân giẫm lên các nhánh nguyệt quế ngoài vườn. Chủ nhà nhảy theo, miệng gào thét như con cọp dữ. Và lúc đó chỉ trong giây, tôi thấy cánh tay đàn bà ló ra khỏi các cành nguyệt quế. Thình lình gã nam tước la thất thanh. Tiếng la rợn người. lấy hai bàn tay bụm mặt vừa gào vừa chạy vào phòng, đụng đầu vào tường, ngã sụm xuống thảm, cuộn tròn, quằn quại, rên la vang dội trong căn nhà mênh mông. - Cho tôi nước! Cho tôi nước! - la liên tục. Tôi vớ lấy bình nước bàn, hối hả chạy tới. Cùng lúc viên quản gia và nhiều người bồi phòng khác cũng chạy tới. Tôi còn nhớ rằng người trong bọn ngất xỉu khi nhìn thấy gương mặt của bị tàn phá cách dữ dội. Acid ngậm nhấm khuôn mặt , chảy thành giọt xuống tai và xuống cằm. con mắt trắng đục, con kia đỏ và sưng lên. Cái diện mạo mà ban nãy tôi tấm tắc khen thầm giờ đây nó giống như bức tranh đẹp bị nhòe, tèm nhem, trông rất gớm ghiếc! cách ngắn gọn, tôi trình bày những gì xảy ra. Vài người bồi phòng nhảy qua cửa sổ, lục lọi ngoài vườn nhưng trời tối đen và mưa bắt đầu rơi. - Chính là Kitty Winter. Ồ, con quỷ cái đó phải đền tội! Ðúng, nó phải đền tội. ôi! Ðau quá, thể nào chịu nổi! - nam tước Gruner la vang. Tôi rửa mặt bằng dầu, áp bông gòn vào da cháy rồi chích cho mũi thuốc giảm đau. bấu vào tay tôi, như thể tôi có quyền năng đem lại sống cho đôi mắt nhìn tôi chòng chọc. Có thể tôi khóc trước cái đại họa này, nếu tôi quên được cái lòng lang dạ thú của . Chính cái dã tâm của là nguồn gốc của mối đại họa hôm nay. Tôi ghê tởm khi cảm thấy bị bấu víu để cầu cứu. Bác sĩ chuyên môn của gia đình đến, tôi được nhõm. Tất nhiên thanh tra cảnh sát thể chậm chân. Tôi trình cái danh thiếp của tôi cho cảnh sát, mọi người đều biết tôi y như biết Sherlock Holmes. Rồi tôi rời cái nhà xui xẻo này. đầy giờ sau, tôi về tới phố Baker. Holmes ngồi trong ghế bành quen thuộc, lắng tai nghe cách kinh hoàng. Tôi mô tả thay đổi hình dạng của nam tước. - Có vay phải trả. Vay sao, trả vậy! - xong Holmes với tay lấy cuốn sách nâu để bàn. Ðây là cuốn sách mà con bé bụi đời với chúng ta. Nếu bé khăng khăng hủy bỏ đính hôn ta chịu thua thôi. Nhưng ta hủy bỏ cuộc đính hôn! Bắt buộc thôi, bất cứ người phụ nữ nào có lòng tự trọng, cũng đều phải khuất phục lẽ phải. - Cuốn sổ tình? - Cuốn sổ tình dục đúng hơn. Ngay khi con bé Winter cho biết, tôi hiểu ngay đó là vũ khí lợi hại. Tôi lặng yên, phát biểu gì vì sợ con bé giữ miệng được. Tuy nhiên tôi suy tính lại mãi. Tiếp đến tôi bị tấn công, đó là cơ hội để làm cho nam tước lầm tưởng mà đề phòng gì về phía tôi. Mọi việc trôi qua êm đẹp. Tôi tưởng đâu mình còn phải chờ lâu. ngờ dự định Mỹ. Tôi phải khẩn trương vì chịu để cuốn sổ này tại đây. Rất khó mà ăn trộm ban đêm, bởi vì có hệ thống báo động. Nhưng cướp đoạt vào ban ngày được, với điều kiện phải làm sao cho tâm trí của bị chi phối. Ðó chính là lý do tại sao và cái đĩa phải nhập cuộc. Khổ nỗi tôi phải biết chính xác cuốn sách nằm ở đâu. Mặt khác, tôi có nhiều thời gian, bởi vì kiến thức của về đồ sứ Trung Hoa có bao nhiêu. Ðó là lý do tôi cho mời con bé bụi đời vào phút chót. Có Chúa mới đoán được con bé giấu vật gì trong áo choàng của nó! Tôi lầm tưởng nó chỉ đến vì công việc của tôi, đâu có dè nó còn nghĩ tới chuyện riêng tư của nó. - Thằng ác ôn biết chính sai tôi ! - Tôi cũng khá lo. Nhưng cầm cự đủ thời gian để tôi chộp được cuốn sách! Kìa! Ngài James ngài tới, tôi mừng hết lớn. Ngài James thích thú nghe kể lại tất các biến cố. - kỳ công! Ðại kỳ công - Ông la to - Nếu thương tích của tệ hại như bác sĩ Watson mô tả cái kế hoạch phá đám cưới thành công, đâu cần tới cuốn sách bẩn thỉu này? Holmes lắc đầu: - Phụ nữ như De Merville xử bình thường như chúng ta dự đoán. ta càng thương bội phần, dưới các đường nét ghê tởm ở mặt của người tử vì đạo. đâu, chính cái mặt đạo đức của cần được tiêu hủy chứ phải cái mặt thể chất. Cuốn sách này làm cho ta bừng tỉnh. Tôi thấy có giải pháp thứ hai. Ðây chính là chữ viết của tên khốn nạn đó. ta thể phủ nhận. Ngài James mang cuốn sách về, cùng với cái đĩa quý giá. Tôi cũng cáo từ. Chiếc xe ngựa chờ, ông ấy nhảy lên, ra lệnh ngắn gọn cho người xà ích phóng xe nhanh. Dù ông ta cố lấy vạt áo choàng che phủ huy hiệu cửa xe, tôi cũng có đủ thời gian để nhận dạng cái huy hiệu đó. Tôi há hốc mồm, quay vào và đến phòng của Holmes. - Tôi phát khách hàng của mình là ai! - Tôi la lớn, hãnh diện vì cái tin tức mới của tôi - Nè, Holmes! Đó là… - Ðó là người bạn trung thực và nghĩa khí! - Holmes chận ngang bằng cách khoát tay làm dấu. Ba ngày sau, nhật báo The Morning Post loan báo rằng cuộc hôn nhân giữa nam tước Adelbert Gruner và Violet De Merville bị hủy bỏ. Số báo đó cũng tường thuật vụ Kitty Winter ra tòa vì tội tạt acid. Nàng được hưởng trường hợp giảm khinh nên bản án nặng lắm. Sherlock Holmes suýt bị truy tố vì tội trộm. Nhưng khi mục tiêu là tốt, và khách hàng là thế gia vọng tộc, luật pháp của quốc cũng co giãn và có nhân tính. Holmes khỏi ngồi vào ghế bị cáo.
2. Người lính bị vảy nến Watson bảo tôi hãy thử tường thuật trong các cuộc phiêu lưu của hai chúng tôi. Sở dĩ như vậy là vì tôi luôn mồm chê bai các bài tường thuật của Watson là nông cạn, thường thiên về mục đích thỏa mãn công chúng. Nhưng khi cầm viết tay, tôi lại thấy phải trình bày câu chuyện sao cho độc giả bị lôi cuốn. Câu chuyện tôi viết đây có lẽ thành công vì nó là trong những chuyện dị thường nhất trong bộ sưu tập của tôi, tuy được Watson chú ý tới. Đó là vào tháng 1-1903, ngay sau cuộc chiến Boer. Thân chủ tôi khi ấy là ông James M. Dodd, đến từ Briton. Watson khi ấy bận tíu tít với gia đình, nên trong hội, chỉ còn lại mình tôi tiếp khách. Tôi có thói quen ngồi quay lưng ra cửa sổ, khách ngồi ở ghế trước mặt, làm như vậy gương mặt họ được ánh sáng chiếu . Ông James M. Dodd có vẻ lúng túng, biết bắt đầu câu chuyện bằng cách nào. Tôi cũng gợi ý cho ông , vì ông càng bối rối, tôi càng có nhiều thời gian để quan sát. Sau cùng, tôi đưa ra vài kết luận. - Ông từ Nam Phi về! - Thưa đúng! - ông ấy đáp lại trong ngạc nhiên. - Ông là lính tình nguyện của đoàn kỵ binh Hoàng gia? - Thưa đúng. - Có lẽ là quân đoàn Middlesex? - Ông quả là phù thủy, thưa ông Holmes! kinh ngạc của khách làm tôi cười. - Khi hào kiệt dáng dấp hùng dũng bước vào phòng khách này, với khuôn mặt quá sạm nắng so với người chính quốc, và khi khách để mù soa trong tay áo, chứ phải trong túi, việc đoán gốc gác của khách đâu có gì khó. Ông để râu quai nón ngắn, chứng tỏ rằng ông đâu phải là lính tại ngũ. Ông lại mặc đồng phục của kỵ binh. Còn về quân đoàn Middlesex căn cứ vào danh thiếp của ông, tôi biết rằng ông là nhân viên hối đoái ở phố Throgmorton. Cái góc đường này thể đưa tới đơn vị nào khác hơn! - gì qua lọt nhận xét của ông! - Thưa ông Dodd, đâu phải sáng nay ông đến đây để thảo luận về khoa học quan sát. Có chuyện gì tại Tuxbury Old Park vậy? - Thưa ông... - Trong thư, ông xin gặp tôi, và lời lẽ khẩn thiết đến nỗi tôi chắc chắn có cái gì đột ngột và quan trọng xảy ra. - Ðúng thế! Tôi viết thư hồi xế trưa, nhưng từ lúc đó đến giờ, nhiều biến cố xảy ra. Phải chi đại tá Emsworth đuổi tôi ra khỏi cửa... - Ðuổi ra khỏi cửa? - Vâng. Ðại tá Emsworth là thân của quân kỷ, năng thô bạo. Nếu nể mặt Godfrey, tôi nhịn đâu. Tôi đốt thuốc và dựa lưng ra sau cách thoải mái. - Có lẽ ông nên giải thích hơn? - Tôi nhập ngũ hồi tháng giêng 1901, cách nay đúng 2 năm, và gặp Godfrey Emsworth. Nó tình nguyện nhập ngũ trước tôi. Hai đứa ở cùng đội. Nó là con trai độc nhất của đại tá Emsworth. Trong toàn quân đoàn, có đứa nào tốt hơn nó. Chúng tôi trở thành đôi bạn thân, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Rồi trong cuộc đụng độ gần đồi Diamond, gần Pretoria, nó bị trúng viên đạn của súng bắn voi. Tôi có nhận được hai lá thư của nó. Cái thứ nhất gởi từ bệnh viện Cape Town, cái thứ nhì gởi từ Southampton. Rồi sau đó bặt tin luôn. Khi chiến tranh chấm dứt, tất cả đều được giải ngũ. Tôi viết thư cho bố nó, hỏi thăm nó ở đâu. Tuyệt nhiên, có hồi . Tôi phải đợi, rồi lại viết lá thư khác. Lần này được phúc đáp: “Nó chu du thế giới, có thể phải cả năm mới về”. Thư ngắn và lời lẽ cộc lốc như thế đấy! Tôi vừa lòng thưa ông. Godfrey tốt bụng lắm. Nó thể bỏ rơi bạn bè như thế này. Ngoài ra, tôi còn biết rằng nó thừa kế tài sản kếch xù, và giữa bố nó và nó có trục trặc. Do đó tôi quyết định tìm hiểu việc. Nhưng vì cần sắp xếp việc nhà nên tuần rồi tôi mới có thời giờ lấy hồ sơ Godfrey ra và nhất quyết bỏ hết mọi công chuyện, chỉ chú tâm vào việc này mà thôi. Ông James M. Dodd thuộc loại người để kết bạn, thứ phải để gây thù. Ðôi mắt xanh của ông nghiêm khắc và khi chuyện hai hàm của ông khít lại. - Rồi ông làm gì? - Ðầu tiên tôi gởi lá thư cho mẹ nó ở Tuxbury Old Park, gần Bedford. Phải thẳng là tôi ớn cái ông già cộc lốc đó lắm: “Godfrey là bạn thí chân của cháu, cháu thể nào quên được các kỷ niệm chung. Nếu có dịp, cháu kể lại cho bác nghe cách chi tiết. Cháu muốn tới nhà bác, thăm hai bác và hỏi thăm tin tức của bạn cháu. Bác có thấy bất tiện ?”. Sau đó, tôi nhận được lá thư rất dễ thương. Bà cụ mời tôi đến nhà chơi. Tôi đến đó vào ngày thứ hai. Căn nhà của ông bà đại tá ở tại Tuxbury Old Park. Xuống xe lửa, có xe ngựa, tôi phải xách va-li bộ. Ðó là ngôi nhà bao la lọt giữa cái vườn mênh mông. Lão quản gia Ralph, già nua và rêu rã như ngôi nhà, vợ lão trước kia là vú em của Godfrey. Godfrey có với tôi về bà này nó thương bà như mẹ ruột. Do đó tôi đặc biệt lưu ý tới bà dù rằng cái bề ngoài của bà khá dị thường. Thân mẫu của Godfrey là người đàn bà thó, nhanh nhẹn khả ái. Chỉ có ông cụ là thể nào ưa được. Tôi được đưa vào văn phòng. Ông ngồi sau bàn: con người dềnh dàng, lưng hơi gù, da sạm đen, râu quai nón màu tro, lỗ mũi có mạch máu hồng nổi cộm lên như mỏ kền kền. Cặp mắt hung tợn màu tro dưới hai đám lông mày rậm rạp chòng chọc nhìn tôi. Tôi hiểu tại sao ít khi Godfrey đề cập tới bố nó. “Sao, bạn?”, ông hỏi tôi với giọng rổn rảng, “Tôi muốn biết các nguyên nhân của cuộc thăm viếng này?” “Thưa bác, cháu trong thư”. “Ðúng thế! Ông rằng ông quen Godfrey ở châu Phi. Chúng tôi có cách nào khác hơn là phải tin theo lời ông”. “Cháu còn giữ thư của nó trong túi đây”. “Ông cho tôi xem?” Ông liếc sơ hai cái thư rồi trả lại. “Rồi sao nữa?” “Cháu rất quý Godfrey. Nhiều ràng buộc và vô số kỷ niệm hợp nhất chúng cháu lại. Ðương nhiên cháu phải ngạc nhiên trước bặt tin của nó và phải tìm xem giờ nó ra sao”. “Tôi nhớ mang máng là viết thư cho ông biết rồi mà. Từ Nam Phi trở về, sức khỏe của nó suy sụp trầm trọng, vợ chồng tôi quyết định cho nó nghỉ ngơi hoàn toàn thay đổi hẳn khí. Tôi khẩn khoản cầu ông bạn giải thích cho các bạn khác của nó”. “Cháu xin ghi nhớ. Tuy nhiên cháu xin biết tên chiếc tàu và hãng hàng hải để có thể gởi cho nó lá thư”. Thỉnh cầu của tôi có vẻ vừa gây bối rối vừa chọc giận người chủ nhà. Ông cụ chau mày và gõ cộp cộp bàn như người đánh cờ bị chiếu bí. “Ông bạn thân mến, nhiều người bực bội trước cái cù nhầy của ông bạn và nghĩ rằng ông dai như đỉa đói”. “Thưa bác, tất cả chỉ vì thân tình với con trai bác”. “Ðúng. Tôi ghi nhận điều đó. Nhưng tôi cầu ông đừng hỏi thêm. Mỗi gia đình đều có chuyện riêng tư mà người ngoài thể nào hiểu nổi. Bà nhà tôi rất thích nghe về cuộc đời quân ngũ của Godfrey mà ông bạn khá rành, nhưng xin ông bạn hãy làm lơ hẳn cái tại và tương lai của nó”. Thưa ông Holmes, như vậy là tôi phải chấp nhận và tự nguyện giải quyết mù mờ về số phận của Godfrey. Tối hôm đó, bầu khí khá tẻ nhạt. Ba người trầm lặng ăn cơm trong gian phòng u, đèn đóm lù mù. Bà cụ háo hức muốn nghe tôi kể về con trai của bà, còn ông đại tá có vẻ u sầu. Cuộc thảo luận này làm tôi phật ý đến nỗi có dịp tôi liền cáo lui về phòng. Ðó là phòng trống trơn và cũng thê lương như phần còn lại của ngôi nhà. Tuy nhiên sau thời gian ngủ đồi cỏ Nam Phi, tôi đâu còn khó tánh về vấn đề chỗ ngủ nữa. Tôi vạch màn cửa ngắm cảnh vườn đêm dưới ánh trăng lưỡi liềm. Kế đó tôi ngồi gần lò sưởi và cố gắng đọc cuốn tiểu thuyết để tiêu khiển. Lão Ralph mang thêm than đến. “Tôi sợ ông bị thiếu than trong đêm khuya. Gió buốt, phòng rộng...”. Ông lão lưỡng lự như muốn điều gì. Khi tôi nhìn lên thấy ông đứng trước mặt tôi, vẻ đăm chiêu. “Thưa ông Dodd, xin ông tha thứ cho cái tội nghe lén những gì ông về cậu Godfrey trong bữa cơm tối. Ông biết , vợ tôi là vú của cậu ấy, còn tôi phần nào như bố nuôi của cậu vậy. Ðương nhiên chứng tôi có để ý đến cậu ấy. Ông có cậu ấy đối xử đẹp, phải ?” “Nó là người dũng cảm nhất quân đoàn. Có lần nó cứu tôi thoát chết. có nó, tôi đâu còn sống đến ngày nay”. Ông lão quản gia xoa đôi tay gân guốc. “ đúng với tính cách của cậu ấy. Cậu ấy luôn can đảm. Ông ơi, có cây cổ thụ nào ngoài vườn mà cậu ấy leo. Ngay từ thuở đó, cậu ấy cũng là cậu bé dũng cảm... và thưa ông, lớn lên cũng là người đàn ông dũng cảm!” Tôi nhảy dựng lên, la lớn: “Ông vừa “ là”... Vậy nó chết rồi sao? Emsworth ra sao rồi?” Tôi nắm cứng vai ông lão, nhưng ông vùng ra. “Tôi hiểu ông muốn gì, thưa ông. Ðề nghị ông hỏi ông chủ. Ông chủ biết đó”. Ông lão sắp rời phòng, tôi nắm cánh tay ông, níu ông lại, năn nỉ. “Mong ông trả lời câu thôi; bằng , tôi giữ ông lại suốt đêm: Godfrey chết rồi ư?” Ông lão thể nhìn thẳng vào mặt tôi. Ông ấy tựa như con thỏ bị thôi miên. Câu trả lời vuột khỏi môi ông! “Thà cậu ấy chết còn hơn!” Câu vừa đột ngột vừa hãi hùng! Ông vuột khỏi tay tôi, hối hả chạy ra khỏi phòng. Thưa ông Holmes, câu trả lời của ông lão hình như cũng chả giải thích được gì nhiều. Chắc chắn là bạn tôi bị kẹt trong vụ hình . Nếu cũng là cái gì nhục nhã làm nguy hại đến danh dự của gia đình ông đại tá khiến ông phải tống cậu con xa. Godfrey thích phiêu lưu, nên có thể bị bạn bè lôi kéo dễ dàng. Nếu vậy, nhiệm vụ của tôi là phải tìm để giúp nó. Trong lúc tôi nghĩ ngợi bỗng Godfrey Emsworth xuất trước mặt tôi... Người khách hàng của tôi ngừng vì xúc động sâu xa.. - Ông hãy tiếp. Vấn đề này có những dữ kiện hết sức đặc biệt. - Nó đứng ở phía ngoài cửa sổ! Phía ngoài! Nó áp sát mặt vào cửa kiếng. Hồi nãy tôi có là tôi ngắm trăng. Sau đó, tôi kéo màn nửa chừng. Hình dáng nó nằm gọn trong phần cửa sổ trống. Ðây là loại cửa sổ lớn nên tôi thấy nó từ đầu xuống gần hết chân. Nhưng gương mặt của nó làm tôi xúc động mạnh! Chưa bao giờ tôi thấy ai trắng bạch như thế. Khi thấy tôi nhìn nó, nó tức khắc nhảy lùi ra sau và biến mất trong đêm khuya. Thưa ông Holmes, có cái gì đó làm tôi thắc mắc vô cùng. Tôi đứng đó, trố mắt nhìn. Nhưng xông pha trận mạc trong 2 năm, tôi hoảng hốt lắm, nên khi Godfrey vừa khỏi tôi đứng tại cửa sổ. Cửa kẹt, nên tôi mở hơi lâu. Cuối cùng tôi ra được ngoài vườn. Tôi chạy dọc theo hướng nó chạy. Lối dài, mà trời lại mờ. Tôi thấy cái gì di động lờ mờ trước mặt tôi. Tôi tiếp tục chạy, kêu ngay tên nó, nhưng có kết quả. Cuối lối tôi đứng trước ngả rẽ năm sáu đường mòn về nhiều phía. Tôi đứng đó, chần chừ. Chính lúc này tôi nghe ràng tiếng cửa lớn đóng lại. phải đàng sau lưng tôi ở trong nhà chính, mà là ở trước mặt tôi, đâu đó trong bóng tối. Tôi nghe khá , vậy là Godfrey chạy trốn tôi? Chính nó đóng cửa lại sau khi vào nhà. Làm gì bây giờ. Qua đêm ngủ, tôi hy vọng tìm ra giả thiết có thể giải thích suôn sẻ các dữ kiện. Hôm sau, tôi thấy ông đại tá dễ chịu hơn, và sẵn dịp bà vợ ông nhắc rằng chung quanh vùng này có những nơi hay hay, tôi bèn xin phép họ được lưu lại thêm đêm nữa. Tôi biết chắc chắn rằng Godfrey lẩn trốn xa. Cái tư dinh bát ngát và nhiều hang hóc đến nỗi cả trung đoàn kỵ binh có thể tìm đủ chỗ núp an toàn. Nó có chứa bí mật nào rất khó mà phát . Nhưng mà cái cửa tôi nghe đóng phải của căn nhà chính. Tôi lục lạo khu vườn, lung tung cách tùy tiện, vì ông bà chủ nhà đều bận rộn công việc. Có nhiều căn nhà phụ . Nhưng ở cuối vườn, có cái nhà lập, khá bề thế, rất tiện lợi khi làm nhà ở cho người làm vườn hay người canh bọn ăn trộm. Phải chăng tôi nghe tiếng cửa của căn nhà phụ này đóng lại. Tôi giả vờ khoan thai tới gần, như thể thăm toàn khu đất. Ngay lúc đó, người đàn ông con, râu quai nón, nhanh nhẹn, trang phục màu đen, mũ lông nón tròn, xuất trước cửa. Lạ lùng thay, vừa ra khỏi cửa, ông ta vội vàng khóa cửa lại, và bỏ chìa khóa vào túi, nhìn chòng chọc vào tôi, hỏi: “Ông tới đây chơi vài ngày?”. Tôi danh tính rồi cho biết tôi là bạn thân của Godfrey. “Tiếc rằng nó du lịch. Phải chi nó có ở nhà, chắc mừng lắm”. Tôi bâng quơ. “Chắc chắn như vậy…”, ông ấy trả lời hơi lấp lửng. “Tuy nhiên, tôi đề nghị ông trở lại đây vào lúc khác thuận tiện hơn”. Ông ta chỉ bấy nhiêu rồi bỏ . Khi tôi quay lại thấy ông ấy đứng lẫn trong đám nguyệt quế, mắt canh chừng tôi. Khi ngang qua đó, tôi để ý kỹ ngôi nhà với cửa sổ kéo màn dày. Thoạt nhìn, có vẻ đó là căn nhà trống vắng. Tôi có cảm giác bị theo dõi nên tôi lững thững về phòng của mình. Ðêm đến, khi trời tối đen và mọi nơi đều im vắng, tôi lén nhảy qua cửa sổ, rón rén tới căn nhà huyền bí. Tôi với ông rằng các cửa sổ đều kéo màn dày. Giờ đây các cửa lại đóng kín mít. Tuy nhiên, xuyên qua khe hở của cửa sổ, ánh đèn leo lét lôi cuốn tò mò của tôi. May mắn cho tôi màn kéo kín hẳn. Qua khe hở, tôi thấy bên trong. Ðó là căn phòng khá vui, có cái đèn lớn và ngọn lửa sưởi. Trước mặt tôi là người đàn ông lùn mà tôi gặp hồi sáng, ông ta ngồi hút thuốc và đọc báo. - Báo gì? – Tôi hỏi. Thân chủ của tôi vẻ bất mãn về lời ngắt ngang của tôi - Có gì quan trọng ? - Đa phần là quan trọng. - Tôi thấy điều gì đáng lưu ý cả - Ông có để ý rằng báo đó là loại khổ lớn hay chỉ là tạp chí chuyên đề khổ ra hàng tuần ? - Tôi nghĩ điều đó quan trọng bằng điều này. Người thứ nhì ngồi quay lưng ra cửa sổ và tôi thề độc rằng đó là Godfrey. Tôi thấy mặt, nhưng tôi nhớ độ cong của đôi vai. Nó tì cùi chỏ, thái độ cực kỳ u sầu, quay lưng ra phía lò sưởi. Trong lúc tôi chưa biết phải phản ứng ra sao có người vỗ vai tôi: đại tá Emsworth! “Hãy theo tôi, ông bạn!”, ông cụ ra lệnh cho tôi với tiếng , rồi ông lặng thinh, về nhà chính. Tôi theo ông tới phòng của tôi. Khi ngang qua hành lang, đại tá lấy cái đồng hồ báo thức. “8 giờ rưỡi có tàu về London. Xe ngựa chờ sẵn ngoài cửa lúc 8 giờ”. Ông cụ giận run, mặt trắng bệch. Thú tôi cũng cảm thấy mình vừa lọt vào tình huống khó xử nên chỉ ấp úng biện bạch. “ dông dài làm gì!”, ông cụ cụt ngủn như thế, “Ông bạn khiếm nhã, đột nhập vào đời tư của kẻ khác. Ông bạn được tiếp như thượng khách nhưng lại xử như thằng gián điệp. Tôi muốn gặp ông bạn lại lần thứ hai”. Lúc đó tôi mất nhẫn nại và có phần thất kính: “Tôi nhìn thấy con trai ông và tôi chắc chắn ông giấu nó với đời. Tôi hiểu gì về lý do khiến ông buộc nó mai danh tích nhưng tôi biết chắc chắn rằng nó mất tự do. Tôi cho ông biết trước, thưa đại tá, khi tôi chưa an tâm về an ninh của nó! Tôi vẫn cố gắng tối đa để làm sáng tỏ vấn đề”. Ông già nhìn tôi với đôi mắt đầy ác cảm rồi ông quay lưng, rời khỏi phòng tôi. Về phần tôi, tôi chuyến xe 8 giờ 30 và thẳng tới đây xin ông chỉ bảo và giúp đỡ. Ðó là bài toán mà khách trình bày cho tôi. Bài toán có nhiều khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, nó có nhiều chi tiết lý thú. - Về những người hầu sao? - Tôi hỏi - Nhà đó có bao nhiêu người? - Theo tôi, chỉ có người quản gia và bà vợ. Ðời sống tại nhà đó khá đạm bạc. - Trong căn nhà phụ, có tôi tớ sao? - Cái lão có râu quai nón, thuộc đẳng cấp xã hội cao hơn. - Rất là lý thú. Ông có để ý xem coi có phần cơm nước được đưa từ tòa nhà này sang tòa nhà khác ? - Tôi nhớ có thấy lão Ralph xách giỏ về hướng căn nhà đó. Tôi nghĩ rằng đó là giỏ thức ăn. - Ông mở cuộc điều tra xung quanh chưa? - Có. Tôi chuyện với người trưởng ga và người chủ quán của làng. Tôi chỉ đơn giản hỏi họ có biết gì về bạn Godfrey Emsworth của tôi . Cả hai đều khẳng định với tôi rằng nó chu du thế giới. Sau chiến tranh, hình như nó có về rồi lại ra . Câu chuyện hiển nhiên được những người chung quanh chấp nhận, thắc mắc. - Họ tỏ vẻ nghi ngờ gì hay sao? - . - Câu chuyện đáng được lưu tâm. Ðược. Tôi cùng với ông tới Tuxbury Old Park. - Ngay hôm nay? - Lúc này tôi bận việc cần thiết khác. Ðầu tuần sau, tôi mới cùng với ông Dodd lên Bedford. đường , chúng tôi còn ghé rước người nghiêm nghị, có mái tóc đen màu xám bạc mà tôi thu xếp trước. Tôi với ông Dodd: - Tôi xin giới thiệu ông bạn cũ. diện của ông ấy có lẽ là thừa, trừ khi tình thế xoay chiều có mặt đó rất hữu ích. Thân chủ tôi có vẻ ngạc nhiên nhưng gì. xe, tôi hỏi ông việc mà tôi muốn cả người bạn đồng hành của chúng tôi cùng nghe. - Ông có rằng ông thấy mặt bạn ông ở cửa sổ. - Nó áp mũi sát vào kiếng, ánh sáng của đèn chiếu mồn . - Có thể là ai khác giống ông ta? - đâu! Chắc chắn là nó. - Nhưng ông gương mặt của ta có thay đổi? - Chỉ nước da thôi! Làm sao tả gương mặt nó bây giờ? Mặt nó trắng như bụng cá. - Trắng toàn thân ? - đâu! Tôi cho là như vậy. Tuy nhiên tôi chỉ thấy cái trán của nó khi nó áp sát vào cửa. - Ông có gọi ông ấy ? - Lúc ấy tôi điếng người. Tôi có đuổi theo nó, như với ông, nhưng vô ích thôi. Sau cuộc hành trình dài bằng xe ngựa, chúng tôi đến nơi. Chính lão quản gia Ralph mở cửa cho chúng tôi. Tôi thuê nguyên xe này và có dặn ông bạn thân cùng hãy ngồi lại ngoài xe. Ralph ăn mặt trong y phục qui ước nhưng khác lạ là có đeo đôi bao tay da màu nâu, ông lão lật đật cởi ra để lên bàn ở ngay cửa. Như Watson từng nhận xét: tôi được trời cho những giác quan bất bình thường. cái mùi yếu nhưng dai dẳng cũng làm xốn xang mũi tôi. Hình như nó phát ra từ cái bàn. Vừa bước vào, tôi lại quay ra sau để nón lên bàn và làm rớt nó. Khi cúi xuống lượm, tôi ghé mũi gần đôi bao tay. ràng là mùi dầu hắc. Giờ đây hồ sơ tôi đầy đủ. Than ôi! Khi đích thân tôi kể chuyện, tôi lại phơi bày các cái mánh của tôi, ngược lại Watson giấu nhem các khâu này. Ðại tá Emsworth có ở trong phòng. Tuy nhiên khi Ralph đem tin tới đại tá nhanh chóng ra ngay. Chúng tôi nghe được bước chân nhanh và nặng của ông ngoài hành lang. Ông mở mạnh cửa, ào ào vào văn phòng, râu quai nón xồm xoàm, khuôn mặt hơi cáu. Chưa bao giờ tôi gặp mặt ông lão khủng khiếp như thế! Ông cầm tay tấm danh thiếp của chúng tôi, xé thành nghìn mảnh. - Này cái ông tào lao, tôi với ông rằng tôi muốn thấy cái bản mặt đáng nguyền rủa của ông lần thứ hai. Nếu ông bất tuân, tôi có quyền sử dụng bạo lực. Tôi giết ông chết. đó, tôi giết ông. Còn ông... - Ðại tá quay lại phía tôi. - Lời đó dành luôn cho cả ông nữa. Tôi có biết cái nghề hạ lưu của mấy ông. Hãy phát triển tài năng của ông chỗ nào khác, phải chỗ này! - Tôi bao giờ rời khỏi nơi đây - Người khách hàng của tôi dằn từng tiếng - Trước khi nghe chính miệng Godfrey rằng nó bị áp bức gì! Người chủ nhà cực kỳ giận dữ, bấm chuông vang trời. - Ralph! Hãy điện cho cảnh sát, cầu viên thanh tra đưa tới đây hai cảnh sát viên. Bảo với họ rằng có 2 kẻ cắp đục tường tại nhà mình. - Cho tôi vài giây! - Tôi xen vào - Ông Dodd, ông phải biết rằng đại tá Emsworth có quyền làm như thế. Chúng ta có tư cách pháp lý nào tại đây. Ngược lại, tôi cũng khẩn thiết xin đại tá nhìn nhận rằng mọi việc làm của ông Dodd đều vì cậu con trai của đại tá. Tôi tin rằng nếu tôi được chuyện 5 phút với đại tá, tôi làm ông thay đổi quan điểm. - Tôi bao giờ để cho người khác ảnh hưởng đến mình - Người lính già đáp - Ralph, hãy thi hành lệnh tôi. Còn đợi gì nữa? Gọi cảnh sát cho mau! - Ðại tá bao giờ làm điều đó! - Tôi vừa tựa lưng vào cánh cửa lớn - can thiệp của cảnh sát gây ra cái tai họa mà đại tá muốn tránh. Tôi lấy sổ tay ra rồi viết từ, vỏn vẹn từ, rồi trao cho đại tá. - Chính đó là nguyên nhân khiến chúng tôi tới đây hôm nay. - Tôi thêm. Ðại tá đăm chiêu nhìn tờ giấy, và mọi bực bội đều biến khỏi gương mặt ông, trừ kinh ngạc. - Làm sao ông biết được? Ðại tá ấp a ấp úng rồi ngồi phịch xuống ghế dựa. Ðại tá ngồi trầm tư, lấy bàn tay gân guốc mân mê vài sợi râu, rồi chậm rãi : - Vâng, quý ông muốn gặp Godfrey quý ông được gặp. Nhưng nên nhớ là tôi hề cho phép, chính quý ông cưỡng chế tôi. - Ralph! Hãy báo trước cho Godfrey và ông Kent biết rằng trong 5 phút nữa, chúng tôi đến đó. Sau khi, 5 phút trôi qua, chúng tôi băng qua vườn, đến căn nhà bí mật. Ông lão lùn có râu quai nón đứng trước cửa, có vẻ sửng sốt: - Chuyện gì mà đột ngột vậy? Thưa đại tá, tất cả các kế hoạch của ta bị hỏng hết? - Ðành chịu vậy, ông Kent. Chúng ta bị bắt buộc. Godfrey có thể tiếp khách . - Có. Ông lão quay lại, đưa chúng tôi vào phòng trang hoàng rất nhiều thứ đồ gỗ. người đàn ông đứng quay lưng ra lò sưởi. Khi nhìn thấy người đó, Dodd dang tay nhào tới. - Ôi Godfrey, là... Nhưng người kia làm dấu xua đuổi. - Ðừng đụng đến tao, Jimmie. Hãy giữ khoảng cách! Ðúng, mày có thể mở mắt nhìn tao cho thỏa thích. Nhưng tao còn là thằng binh nhất Emsworth sáng giá thuộc đội B nữa, phải . Quả vậy, bề ngoài của ta rất dị thường. Người ta có thể đoán ra rằng trước kia ta rất đẹp trai, với khuôn mặt bị sạm nắng bởi mặt trời Nam Phi. Còn bây giờ khuôn mặt màu nâu, những vết trắng làm cho da bị phai màu từng mảng. - Ðó là lý do tại sao tao ra tiếp khách. - Tao phiền gì mày đâu, nhưng tao thích gặp mày mình. - quá bất ngờ đối với tao. - Tao muốn biết chắc rằng mày được vui vẻ, Godfrey. Tao nhận ra mày ngay lúc mày tới ngó qua cửa sổ. Sau đó lòng tao còn bình thản nữa. - Ông già Ralph cho tao hay tin và tao thể tới nhìn mày. Tao hy vọng mày thấy tao. Tao chạy hụt hơi khi nghe cửa sổ mở. - Vì lý do nào? - Ồ, câu chuyện ngắn gọn thôi – Godfrey vừa vừa đốt thuốc - Mày còn nhớ trận đánh vào buổi sáng nọ ở Buffelsspruit, ngoại ô Pretoria, tuyến đường sắt phía Ðông? Mày biết tao bị thương chứ? - Ðúng, tao có hay tin, nhưng biết chi tiết khác. - Ba đứa bọn tao bị lạc đơn vị. Simpson, mà bọn mình thường gọi là Baldy Simpson, Anderson và tao. Ðịa thế trắc trở. Bọn tao thám sát, bị lọt ổ phục kích của bọn Boer. Hai thằng kia tử thương. Tao bị bắn vào vai bằng viên đạn bắn voi. Tuy vậy tao bám cứng vào ngựa, nó phi khoảng vài dặm trước khi tao té xỉu lăn cù dưới chân ngựa. Khi tao tỉnh lại tối rồi. Tao đứng lên, nhưng thấy quá mệt. May thay có cái nhà gần đó: căn nhà khá lớn có hàng hiên và rất nhiều cửa sổ. Trời lạnh ghê gớm, cái lạnh kinh khủng, khác hẳn với cái lạnh khô ráo và lành mạnh ở . Tao bước khập khiễng, lê lết, mơ mơ màng màng. Tao nhớ mang máng là leo lên bực thềm, bước vào căn phòng rộng mênh mông có nhiều giường, tao bò lên đó. Cái giường rêu rã nhưng tao bất cần. Tao kéo “ra” đắp cái thân run cầm cập. lát sau, tao ngủ thiếp . Khi tỉnh dậy trời sáng. Tao có cảm giác rằng thay vì lọt vào được khu nhà an toàn tao lại sa vào cảnh ác mộng. Ánh nắng châu Phi ào ào tuôn xuống, xuyên qua các cửa sổ màn che. Trước mắt tao có thằng lùn, xíu, cái đầu to, bập ba bập bẹ tiếng Hà Lan, hai tay múa may lung tung. Sau lưng là đám đông. Khi nhìn kỹ, tao thấy họ có dáng vẻ của người bình thường: tất cả đều cong queo, méo mó, sưng phù. ai tiếng . Cái thằng lùn đầu to giận dữ. Nó gào thét như con thú, nó thộp tao bằng hai tay mất hình dạng, toan vứt tao xuống đất, dù máu từ vết thương của tao chảy lai láng, nó cũng mặc kệ. Con quái vật tí teo này mạnh như bò mộng. Tao chưa biết phải đối xử ra sao người có tuổi thốt ra vài câu dõng dạc bằng tiếng Hà Lan, và tên lùn bỏ . Ông già mới quay sang tao, kinh ngạc nhìn tao, hỏi: “ đến đây bằng cách nào? Tôi thấy kiệt sức và cái vai bị thương này cần được chăm sóc. Tôi là bác sĩ, tôi băng lại cho . Nhưng ở nhà thương của người cùi và mới vừa ngủ giường họ”. Có lẽ mày đâu cần tao phải kể lể dông dài hơn nữa, phải Jimmie? Ông bác sĩ này cố với tao rằng mặc dù cơ thể ông được miễn nhiễm, ông cũng bao giờ dám làm như tao. Sau đó, ông cho dời tao qua căn phòng đặc biệt và đối xử với tao rất tử tế. Tám ngày sau, tao được di tản qua tổng y viện Pretoria. Khi về đến nhà những triệu chứng bất thường xuất ; những gì mày thấy mặt tao.... Làm sao bây giờ? Tao ngụ tại căn nhà lập này. Gia đình có hai gia nhân có thể tin cậy hoàn toàn. Lại có căn nhà để tao sống. Ðể giữ bí mật tuyệt đối, y sĩ Kent bằng lòng ở chung với tao. Nếu lộ ra tí xíu bị sang cái địa ngục khác. Cả tao, cả mày, Jimmie... cả mày cũng biết được rằng, tại sao bố tao nhượng bộ mày. Ðó là điều tao bao giờ hiểu được. Ðại tá chỉ tay vào tôi, : - Ông này ép buộc ba. - Rồi ông ấy mở ra tờ giấy ghi chữ “cùi” - Ba thấy hình như ông ấy biết quá nhiều nên tốt hơn hết là cho ông ấy tất cả. - Và giờ đây, tôi biết hết rồi. - Tôi - Rồi đây có thể có những điều tốt đẹp xảy đến. Tôi nghĩ rằng chỉ có ông Kent mới biết bệnh nhân. Thưa ông, tôi xin phép hỏi ông, trong trường hợp này, bệnh của bạn tôi có gốc nhiệt đới hay bán nhiệt đới? - Tôi chỉ có những hiểu biết thông thường của y sĩ - Kent trả lời giọng lạnh nhạt. - Thưa ông, tôi hề nghi ngờ chuyên môn của ông. Chắc ông chấp nhận ý kiến thứ hai đó là với trường hợp này, ông sợ người ta đưa bệnh nhân vào trại cùi? - Ðúng thế! - Viên đại tá trả lời. - Tôi dự đoán cái tình huống này. Tôi có dẫn theo người bạn thân: với người này, quý vị có thể tin rằng bí mật của chúng ta vẫn được bảo vệ. Trước kia, tôi có giúp ông ấy việc. Giờ đây đương nhiên ông ấy sẵn lòng cho chúng ta ý kiến, đồng thời cũng là của chuyên gia. Ðó là ngài James Saunders. Mặt mày của ông Kent sáng rực vì ông mà được hầu chuyện với ngài James Saunders cũng giống như binh nhì được chuyện với đại tướng. - Tôi vô cùng hân hạnh – ông ấy đáp. - Vậy tôi mời ngài James đến tận đây, ông chờ ngoài xe. Trong khi chờ đợi, đề nghị đại tá đưa chúng tôi lên văn phòng của ông. Tại đây tôi giải thích. Giờ đây, tôi quả thấy thiếu vắng Watson. Watson biến hóa tài nghệ giản dị của tôi, khi tôi tự thuật, tôi hưởng được cái ngón nghề này. Mặc kệ! Tôi tường thuật hầu quý độc giả cái tiến trình tư duy y hệt như khi tôi trình bày nó cho các thính giả của tôi. Sau đó tôi bước vào phòng của đại tá có cả bà mẹ Godfrey tham dự. Tôi : - Cái tiến trình đó, khi quý vị loại trừ những gì thể chấp nhận, cái còn lại là chân lý, dù nó có vẻ khó tin . Có nhiều giả thiết. Trong trường hợp này, ta lần lượt xét từng cái , cho tới khi gặp cái nổi cộm. Ngay từ phút đầu, tôi có ba lời giải thích về cách ly chàng trai trong căn nhà thuộc lãnh địa của tổ phụ. Thứ nhất là y trốn vì tội đại hình. Thứ hai là vì y bị điên nên cần nhốt lại để khỏi bị đưa vào nhà thương điên. Thứ ba là y bị bệnh truyền nhiễm nên cần phải lập. Lời giải thích thứ nhất thể đứng vững. Nếu người thanh niên này phạm tội đại hình, mà chưa bị phát , gia đình phải tống y ra nước ngoài càng sớm càng tốt! Ai dại gì giấu y tại nhà? Bệnh điên dễ chấp nhận nhất. diện của người thứ hai trong ngôi nhà đó có thể được giải thích rằng: người thanh niên cần được canh chừng. kiện người hộ vệ khóa cửa khi ra ngoài củng cố thêm cho giả thiết này; nhưng mặt khác chàng có thể ra khỏi căn nhà , lần mò tới căn nhà chính để nhìn thoáng qua người bạn thân? Ông có nhớ , ông Dodd, khi tôi hỏi loại báo mà ông Kent đọc. Có thể nó là tờ “Dao mổ” hoặc tờ “Nhật ký Y học ”, mà nhờ đó có thể giúp đỡ tôi rất nhiều. Ngoài ra luật pháp đâu có cấm giam giữ người điên tại nhà nếu người này được chăm sóc đúng theo y tế và chính quyền được báo cáo đều đặn. Vậy làm sao giải thích cái quyết tâm giữ bí mật tuyệt đối? Lại lần nữa lý thuyết bệnh điên khớp với thực tế. Vậy chỉ còn có giả thiết thứ 3. Trong giả thiết thứ ba này, tất cả các dữ kiện dị thường đều được giải thích thỏa đáng: Bệnh cùi phải là hiếm hoi tại Nam Phi. chàng bị lây. Gia đình muốn đưa bệnh nhân vào trại cùi. Do đó phải giữ bí mật tuyệt đối để tránh đồn đại của quần chúng và can thiệp của nhà cầm quyền, y sĩ tận tụy và được trả lương trọng hậu chấp nhận chăm sóc bệnh nhân. Do đó, đâu có lý do gì cấm cản bệnh nhân dạo khi màn đêm buông xuống. Da bị trắng là hiệu quả thông thường của căn bệnh. Thế là tôi quyết định hành động như thể giả thiết này được xác nhận và chứng minh từ trước. Khi tới đây, tôi để ý rằng ông lão Ralph mang bao tay có khử trùng, các ngờ vực chót của tôi tiêu tan hẳn. Thưa đại tá, chỉ từ mà thôi, cũng đủ cho đại tá thấy rằng bí mật của đại tá bị lộ. Còn việc tôi viết, thay vì , là nhằm bảo dám với đại tá kín miệng của chúng tôi. Tôi hoàn tất bài phân tích ngắn này cửa mở và khuôn mặt khắc khổ của nhà khoa học tài danh về ngành da liễu xuất . Lần đầu tiên ông cởi bỏ bộ mặt lạnh lùng. Cái nhìn của ông rực sáng tình người. Ông về hướng đại tá, bắt tay ông ấy. - Nghề này của tôi thường là báo tin buồn, - ông - Nhưng lần này, ngược lại. Con trai của đại tá mắc bệnh cùi. - Sao? - Ðó là trường hợp cổ điển của bệnh gần giống như bệnh cùi, hay bệnh vảy nến, bệnh ngoài da. Da tróc vảy, khó coi. Bệnh dai dẳng, tuy nhiên có thể chữa được và chắc chắn lây. Ðúng thế, thưa ông Holmes, là trùng hợp dị thường! Tôi bao giờ hy sinh tiếng tăm của tôi để tuyên bố mà là vì trách nhiệm... Nhưng bà cụ xỉu kìa? Ðề nghị ông Kent lo cho bà sớm tỉnh lại sau cú sốc vì tin mừng này.
3. Viên đá của Mazarin Bác sĩ Watson sung sướng vô cùng khi lần nữa được quay trở về căn hộ gác ở phố Baker, nơi xuất phát của biết bao cuộc phiêu lưu kỳ thú. Ông nhìn các bản đồ phác họa tường, cái bàn loang lổ vì acid, và ngổn ngang những hóa chất để thí nghiệm, cái bao vĩ cầm dựng ở góc, cái xô than vẫn được dùng để đựng cái ống vố và thuốc lá. Cuối cùng ông nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Billy, chú hầu sâu sắc và tế nhị người giúp khỏa lấp cái hố sâu đơn côi và quạnh của nhà thám tử đại tài. - có thay đổi gì nhiều lắm hả Billy? Cả cháu cũng có thay đổi, tôi hy vọng ông ấy cũng thế. Billy ái ngại nhìn về hướng phòng ngủ đóng kín. - Có lẽ ông ấy ngủ. Ðã 7 giờ tối và cái ngày hè hôm đó rất đẹp. Bác sĩ Watson khá quen với thời khóa biểu bất thường của người bạn cố tri, nên hề ngạc nhiên chút nào. - Nghĩa là ông ấy theo dõi vụ nào đó? - Ðúng vậy, thưa ông. vụ mà ông ấy phải dốc toàn tâm toàn trí. Cháu lo cho sức khỏe của ông ấy lắm. Ông ấy tái mét, gầy , bỏ ăn. “Chừng nào ông mới thấy đói, hả ông Holmes?”, bà Hudson thường hỏi thế. “Bảy giờ rưỡi ngày mốt”, ông ấy trả lời như vậy. Bác sĩ thừa biết là ông ấy lo lắng tới mức nào khi lo vào vụ. - Biết! - Ông ấy bám theo ai đó. Hôm qua ông ấy ra người ta lầm tưởng là công nhân kiếm việc làm. Hôm nay ông ấy giả làm đàn bà, ông ấy ngụy trang hay lắm. - Mới đầu tôi còn bị lầm, nhưng bây giờ quen rồi. Billy cười nhoẻn, tay chỉ về cây dù to tướng dựa vào cái ghế dài. - Ðể ngụy trang làm bà lão đó. - Thuộc loại chuyện gì? Billy hạ giọng như thể sắp sửa tiết lộ bí mật lớn của quốc gia. - Cháu xin kể, thưa ông, nhưng phải tuyệt đối giữ miệng. Ðó là vụ Viên kim cương của Hoàng gia. - Vụ trộm kim cương trị giá khoảng 100.000 bảng ? - Ðúng thế, thưa ông. Phải kiếm cho ra, ông biết ? Ông thủ tướng và ông bộ trưởng nội vụ đều đến ngồi tại ghế dài này. Ông Holmes tiếp họ rất lịch , trấn an họ và hứa cố gắng tối đa. Có cả huân tước Cantlemere… - Thế à? - Ðúng thế, thưa ông. Ông có biết ông này ? mẫu người sắt đá, nếu cháu được phép thực lòng. Cháu khoái ông thủ tướng nhất, ông bộ trưởng cũng thế. Cháu có cảm giác đó là những người cần mẫn, lễ độ. Còn ngài huân tước, cháu thể chịu đựng được! Ông Holmes cũng cùng quan điểm với cháu, ông ạ. Hầu tước tin tài của ông Holmes, chống đối việc sử dụng ông Holmes, và còn cầu mong ông Holmes thất bại. - Ông Holmes biết ? - Ông Holmes luôn luôn biết tất cả những gì cần phải biết... - Vậy chúng ta hy vọng ông Holmes thắng và huân tước Cantlemere thất bại. Này Billy, cái màn căng ở cửa sổ để làm gì? - Ông Holmes mới móc nó cách đây ba ngày và có để cái ngồ ngộ ở đàng sau. Billy tiến tới, kéo cái màn ngăn cách căn phòng với cửa sổ. Bác sĩ Watson thể đè nén tiếng la vì ngạc nhiên. mẫu tượng lớn như của Sherlock Holmes, mặc áo ngủ, mặt hướng ra cửa sổ, nhìn xuống như thể đọc cuốn sách vô hình. Billy gỡ cái đầu ra, rồi giơ cao lên. - Ông Holmes luôn luôn cho đổi góc độ để có vẻ sống động. Chỉ khi nào bức sáo kéo xuống, cháu mới dám sờ tới nó. Khi bức sáo kéo lên, đứng bên kia đường, ông nhìn thấy ông Holmes! - Có lần chúng tôi cũng sử dụng cái màn này. - Với cháu đây là lần đầu! - Billy , tay kéo bức sáo để ngó ra đường - Phía bên kia đường có người rình. Cháu thấy người tại cửa sổ, ông nhìn thử xem. Bác sĩ Watson mới vừa bước tới cánh cửa phòng mở, cho thấy cái dáng vóc lêu nghêu của Holmes. Khuôn mặt bơ phờ, nhưng bước vẫn nhanh nhẹn như thường ngày. Holmes bước tới của sổ, kéo bức sáo xuống. - Ðủ rồi Billy! Nguy hiểm đấy! Sao hả Watson? Gặp tại căn hộ thân ái này là thích thú vô cùng. tới đúng lúc đấy! - Hình như vậy! - Cháu có thể lui, Billy... Tôi lo cho thằng bé quá, Watson à. Ðâu có thể để cho nó chịu nguy hiểm - Nguy hiểm gì? - Chết bất đắc kỳ tử! Tôi đợi đêm nay. - Ðợi cái gì? - Bị ám sát! - sao? - Tuy nhiên, trong khi chờ chết, ta phải hưởng chút tiện nghi phải . Rượu chưa bị cấm. Cái ống quẹt và hộp xì gà vẫn nằm tại vị trí cũ. hãy ngồi ghế bành để tôi nhìn thêm lần nữa. Tôi hy vọng chưa tập xong cái thói quen ghét cái tẩu và cái mùi thuốc khen khét của tôi. Mấy bữa rày, nhờ nó mà khỏi ăn cơm. - Tại sao lại ăn? - Năng lực bén nhọn hơn nếu ta ăn chay. - Nhưng còn cái hiểm họa? - À. Trong trường hợp mà đe dọa trở thành thực, hãy nhớ lấy tên và địa chỉ của kẻ sát nhân đem nộp cho Scotland Yard. Tôi xin chúc lành cho ! là bá tước Negretto Sylvius. Chép cái tên , Watson, chép ! 136 Moorside Gardens N.W. Xong chưa? Khuôn mặt của bác sĩ Watson đầy lo âu. - Cho tôi tham gia với. Tôi rảnh hoàn toàn trong 48 giờ. - Ðạo đức của chưa tiến, Watson ạ. Ngoài các tật xấu khác, nay có thêm tật dối. ràng có dáng vẻ của bác sĩ rất bận rộn. - đến nỗi thế đâu. Nhưng thể nhờ cảnh sát bắt sao? - Ðược chứ! - Thế tại sao nhờ cho rồi? - Tại vì tôi chưa biết viên kim cương nằm tại đâu. - Billy có với tôi về viên kim cương vương miện. - Đúng thế! Đó là viên đá Mazarin. Tôi thả mồi câu cá. Nhưng tôi lại có viên đá. - Và bá tước Sylvius là trong những con cá đó? - Ðúng thế! Đó là con cá mập. Thằng kia là Sam Merton, biết đánh quyền . Thằng Sam tệ đâu, nhưng nó bị bá tước xỏ mũi. Nó chỉ là con cá chốt ngu đần vẫy vùng trong lưới của tôi. - Bá tước Sylvius ở đâu? - Suốt buổi sáng nay tôi đứng sát bên . có thấy tôi ngụy trang thành bà lão chưa, Watson? Chưa bao giờ có bà lão nào quyến rũ như sáng nay. còn cầm dù giùm tôi trong lúc. “Xin phép bà!”. với tôi, giọng pha Ý. có cái dịu dàng của miền Nam trong cử chỉ lúc vui, nhưng khi buồn, là thân của quỷ sứ. - Có thể xảy ra thảm kịch? - Có lẽ! Tôi theo tới cửa hiệu của lão Straubenzee. Tay này làm cây súng hơi, tôi đoán thế. Và tôi có đủ cơ sở để nghĩ rằng cây súng đó giờ đặt tại cửa sổ trước nhà. thấy hình nộm của tôi rồi đó. Hình nộm có thể ăn đạn bất cứ lúc nào. Ủa! Có gì vậy Billy? Billy mang vào tấm danh thiếp đặt mâm. Holmes vừa nhìn vừa nhướng mày và cười thích thú. - Ðích thị là cái gã đó! Bất ngờ quá! ta cầm cây củi ngay phía cháy, chì . biết rằng nổi tiếng là thợ săn mồi to? ta định kết thúc đẹp đẽ bảng thành tích của mình, sau khi ghi được thêm tên tôi vào đó. - Ta báo cho cảnh sát! - Chưa cần! nhìn kỹ ra ngoài cửa sổ xem có ai thơ thẩn phía đó ? Watson dạn dĩ vén bức màn. - thằng to con đứng gần cửa lớn. - Sam Merton đó. trung thành nhưng ngu dại. Ông ta ở đâu rồi, Billy? - Tại phòng khách, thưa ông. - Khi ta bấm chuông cháu mời ông ấy lên. Dù thấy ta cũng cứ đưa vào. - Vâng! Watson đợi của lớn đóng rồi mới quay qua phía Holmes. - Coi chừng, Holmes, có thể nó tới giết . - Chuyện đó làm tôi ngạc nhiên! - Tôi xin được ở cạnh . - làm vướng tay, vướng chân tôi. - Tôi thể bỏ mặc được. - để tôi mình mà vẫn có vai trò. Thằng cha này tới vì lý do riêng của nó. Nhưng có thể nó ở lại vì lý do của tôi. Holmes lấy sổ tay nguệch ngoạc vài dòng. - thuê xe ngựa chạy đến Scotland Yard, trao cái này cho Youghal, thuộc Ban truy nã đại hình rồi quay lại đây với cảnh sát. Màn bắt bá tước xảy ra sau đó! - Ðược! - Trước khi về tới, có lẽ tôi kiếm ra cục đá. vừa bấm chuông vừa : - Chúng ta hãy vào phòng ngủ, phương án thứ hai đôi khi khá hữu ích. Ngoài ra tôi cũng muốn nhìn con cá mập của tôi trong khi nó thấy tôi. Vài phút sau Billy đưa bá tước Sylvius vào. Nhà săn, nhà thể thao và người hào hoa nổi tiếng to béo có nước da sạm nắng, với bộ râu xum xuê màu đen bao bọc cái miệng hung ác, môi mỏng, mũi dài và cong như mỏ chim ó. Khi cửa đóng lại sau lưng, ông ta quan sát căn phòng với cái nhìn hung tợn, mắt đăm đăm nhìn mỗi món đồ gỗ như sợ cái bẫy. Ông ta giựt mình khi thấy cái đầu lạnh lùng của người ngồi ghế bành trước cửa sổ. Lúc đầu gương mặt chỉ thể kinh ngạc, nhưng sau đó, tia hy vọng đen tối chiếu sáng đôi mắt khát máu. Ông ta nhanh chóng nhìn quanh rồi rón rén, cây gậy nặng nề giơ lên nửa chừng. Ông ta tới gần cái vóc dáng bất động, co mình để lấy đà tiếng lạnh lùng từ cửa phòng ngủ vọng tới. - Ðừng đập nó, thưa bá tước! Vị bá tước kinh ngạc. lại nâng cây gậy lên nhưng trước cái nhìn sắt thép và nụ cười chế nhạo, thấy cần phải hạ tay xuống. - Ðó là công trình nghệ thuật đẹp! - Holmes , vừa tiến tới hình nộm - Nhà vẽ kiểu áo quần Tavernier của nước Pháp nặn ra nó đó. Ông ấy cũng khéo tay trong việc nặn sáp như ông bạn Straubenzee của ngài khéo tay trong việc sản xuất súng hơi. - Súng hơi? Ông muốn gì? - Hãy để nón và gậy cái bàn tròn này. Cám ơn, xin vui lòng ngồi xuống, cởi súng lục luôn, được ? Cũng chả sao, nếu ngài muốn ngồi đè lên!... Ngài tới đúng lúc quá, tôi khát khao có được 5 phút riêng với ngài. Gã bá tước làu bàu, chân mày sụ xuống, vẻ dọa nạt. - Tôi cũng vậy, tôi muốn chuyện với ông. Tôi phủ nhận rằng tôi có dự định hạ ông. - Tôi cũng lờ mờ thấy rằng trong đầu ngài nung nấu dự án loại đó. hiểu tại sao ngài lại dành cho tôi quá nhiều lưu tâm? - Tại vì ông theo chúng tôi, tại vì ông sai người theo dõi tôi. - Người của tôi, tôi thề là có chuyện đó. - Láo toét! Tôi bị theo dõi và tôi sai người theo dõi lại chúng nó. Ðó là trò chơi có thể chỉ cần hai đối thủ. - Thưa bá tước, ngài tiếp xúc thẳng với tôi có hay hơn . Do nghề nghiệp tôi phải thân thiện phần nào với các tên ăn cướp thế giới. Còn ngài, thưa bá tước Sylvius, lui tới với bọn nó là coi được. - Ðúng vậy. - Hoan nghênh! Tuy nhiên ngài lầm khi cho ai đó là nhân viên của tôi. Gã cười lớn cách miệt thị. - Ðâu phải chỉ có mình ông là người có tài quan sát sắc bén. Hôm qua là người thất nghiệp già. Hôm nay là bà lão, suốt ngày chúng bám tôi sát gót. - vậy sao? Ngài quá! Tới phiên ngài, ngài lại ca tụng cái trò ngụy trang vặt vãnh của tôi. - Là ông? Chính là ông? Holmes nhún vai. - Trong góc kia là cái dù mà ngài có nhã ý xin cầm giùm... - Nếu tôi biết, bao giờ... - bao giờ tôi trở về nhà được chứ gì. Tôi biết mà! Tất cả chúng ta đều bỏ lỡ cơ hội, rồi sau đó lại hối tiếc. Nhờ ngài nhận ra tôi mà chúng ta còn gặp nhau hôm nay. Ðôi chân mày của gã bá tước sụp xuống cách nặng nề hơn. - Những lời ông chỉ làm cho khí ngột ngạt thêm. Ông theo dõi tôi để làm gì vậy? - Tôi cần tìm ra viên kim cương màu vàng? Bá tước ngả lưng ra sau cười cách gượng gạo. - Tôi thề... - ra ngài biết tại sao tôi bám theo ngài. Hôm nay ngài đến đây là để dò xem tôi biết việc tới mức độ nào và nếu cần, ngài ra tay thủ tiêu tôi? Phải khách quan mà , ngài thủ tiêu tôi là điều tôi cần, bởi vì tôi biết hết, trừ chi tiết mà chính ngài tiết lộ. - ư? - Phải. Ðôi mắt của Holmes chĩa thẳng vào mắt gã bá tước, teo lại như hai mũi dùi bằng thép. - Ngài quả là miếng nước đá trong suốt. Tôi thấy cho tới tận đáy lòng ngài. - Như vậy ông biết viên kim cương đó ở đâu Holmes. Gã vỗ tay rồi đưa ngón tay mỉa mai. - Vậy là ngài biết, như ngài vừa nhìn nhận. - Tôi có nhìn nhận cái gì đâu? - Nào, thưa bá tước Sylvius, ngài nên tỏ ra biết điều. Bằng , ngài gặp nguy hiểm. Gã bá tước nhìn lên trần nhà. Holmes nhìn ông ta cách chăm chú như người đánh cờ chiếu bí đối thủ rồi mở ngăn kéo, lấy ra cuốn sổ tay dày cộm. - Ngài có biết tôi nắm ai trong cuốn sách này ? - . - Chính ngài. - Tôi? - Ðúng vậy! Trọn vẹn tiểu sử của ông trong này, sót điều gì? - Cầu Chúa tha thứ! – gã bá tước la to - nhẫn nại của tôi có giới hạn, thưa ông Holmes. - Vâng, đầy đủ ở trong này, thưa bá tước. Các kiện có liên quan tới cái chết của bà lão Harold, người để lại cho ông lãnh địa Blymer mà sau đó ngài bán để nướng hết trong sòng bạc. - Ông nằm mơ? - Và nguyên cả cuộc đời của Minnie Warrender nữa! - Ông chả làm được gì với những cái đó. - Còn đây, câu chuyện hay hơn. Cuộc đánh cướp tàu hỏa sang trọng La Riviera vào ngày 13-2-1892. Và đây là cái chi phiếu giả mà ngài dùng rút tiền tại ngân hàng tín dụng Lyonnais cũng hồi năm 1892. - , điểm này ông sai? - tôi đúng trong cái điểm khác. Nào, thưa bá tước, trong khi đánh bài, mà đối thủ nắm hết các lá lớn, ngài nên bỏ bài . - Ðâu là cái mối liên quan giữa cuộc chuyện tầm phào này với viên kim cương? - Từ từ, thưa bá tước. Tôi có mớ tin tức có hại cho ngài đó, nhất là tôi có cả hồ sơ hoàn chỉnh để tố cáo ngài và vệ sĩ của ngài trong vụ này. - sao? - Tôi có lời khai của xà-ích chở ngài Whitehall, và của xà ích chở ngài từ đó về . Tôi có lời khai của người đại diện thương mại thấy ngài đứng gần tủ kiếng, tôi có luôn lời khai của ông Ikey Sanders, người chịu cho ngài cầm cái đó. Ðủ chưa? Các mạch máu trán của bá tước phồng to lên. Hai bàn tay sạm nắng, lông lá co thắt lại; ông ta muốn , nhưng chữ nghĩa đâu mất hết. - Tôi đập bài xuống bàn rồi. Tôi còn thiếu lá. Ðó là lá bài “viên kim cương”. Nó ở đâu? - Ông bao giờ biết! - Ngài bá tước! Ngài hãy biết điều! Hãy nắm vững tình thế! Ngài ngồi nhà đá 25 năm. Sam Merton cũng thế! Ngài được gì trong 25 năm đó! được gì cả! Tuy nhiên, nếu ngài chịu hoàn trả tôi thỏa hiệp với tội ác. Chúng tôi cần ngài lẫn Sam. Chúng tôi cần cục đá. Hãy trả nó lại cho chúng tôi ngài trở về nhà trong tự do và mãi mãi tự do, miễn là sống trong đàng hoàng. - Nếu tôi từ chối sao? - rất tiếc! Billy xuất khi nghe chuông reo. - Ngài bá tước, tôi đề nghị cho bạn thân của ngài tham dự vào cuộc chuyện này. cho đúng, ta cũng bị lâm nguy. Nè Billy, ở trước cửa lớn có chàng to con và xấu trai. Cháu mời ta lên đây. - Nếu ông ta từ chối sao, thưa ông. - Báo cho ta hay là bá tước cần gặp. ta lên ngay. - Ông làm gì? - Gã bá tước hỏi khi Billy khuất. - Bạn thân của tôi là bác sĩ Watson mới ra về. Tôi có khoe với ông ấy rằng trong lưới của tôi có con cá mập và con cá chốt. Giờ đây, tôi giở lưới. Tôi tóm cả hai con. Gã bá tước ngồi thẳng lưng lên và đưa tay ra sau lưng. Holmes chĩa về hướng về y đồ vật nổi cộm trong túi áo ngủ của mình. - Ông chết giường, ông Holmes! - Tôi cũng thường đoán như vậy. Tuy nhiên có cần phải chết giường ? Chắc ông chết đứng, chứ chết nằm đâu. Nhưng hãy chấm dứt các đoán mò bệnh hoạn này, tại sao dứt khoát chọn lấy vui vẻ của tại? tia chớp của mắt thú dữ sáng lóe trong cái nhìn của tên tội phạm. Holmes chuẩn bị ứng phó với mọi tình huống. Ðối thủ có vẻ kiêng dè. - Mân mê cây súng lục chả có ích gì! - Holmes cách bình thản. - Ngài thừa hiểu rằng ngài thể bắn, dù tôi có dành cho ngài đủ thời gian. Súng lục là những dụng cụ dơ và ồn, thưa bá tước. Nên sử dụng súng hơi. Ủa, hình như có bước của người bạn đáng nể? Chào ông Merton. Ðứng ngoài đường nãy giờ mỏi chân chưa? Tên võ sĩ quyền là thanh niên cốt cách nặng nề, vẻ mặt vừa ngu vừa lì. đứng cách vụng về ngoài cửa, trơ mắt ếch nhìn quanh. Thái độ của Holmes làm ngạc nhiên. nhận thấy mang máng rằng thái độ đó thân thiện nhưng biết phải chống trả như thế nào. quay qua ông chủ của . - Việc gì thế, bá tước? Thằng cha này muốn gì? Giọng của nghiêm trọng và khàn khàn. Gã bá tước vươn vai, Holmes trả lời thay. - Ðể tóm tắt tình hình, ông Merton, tôi có thể rằng mọi chuyện tới hồi kết cuộc. Tên võ sĩ tiếp tục hỏi chủ mình. - Thằng cha này đùa hả? Phần tôi, tôi cười được đâu. - Tôi ái ngại lắm! - Holmes - Tôi có thể đoán chắc rằng càng khuya, ông càng bớt vui. Bây giờ, nghe tôi đây, thưa bá tước Sylvius. Tôi rất bận, tôi có giờ để hoang phí. Tôi vào phòng tôi. Tôi cầu ngài xem đây như nhà ngài trong lúc tôi vắng mặt. Ngài có thể giải thích tình hình cho bạn ngài nghe. Tôi chơi bản nhạc bằng vĩ cầm. Năm phút nữa, tôi quay lại để lấy câu trả lời dứt khoát của ngài. Ngài hãy lựa chọn: hoặc ngài hoặc viên đá? Holmes ôm cây vĩ cầm, rời khỏi phòng. lát sau các nốt nhạc rên rỉ đầu tiên của điệu nhạc u buồn nhất trỗi lên từ phòng bên. - Chuyện gì vậy? - Merton hỏi với vẻ âu lo - biết cục đá? - biết quá nhiều điều liên quan tới cục đá. Tao sợ rằng biết hết rồi. - Chúa ơi! - Khuôn mặt của tên võ sĩ quyền tái xanh. - Ikey Sanders mách lẻo. - Nếu có tố cáo chúng ta, tôi thề phanh thây nó. - Ðiều đó chả ích gì cho chúng ta. Ðiều cần bây giờ là quyết định phải làm gì? - Chờ chút! - Gã võ sĩ , rồi nhìn cách ngờ vực về phía cửa. - Con chim lạc bầy mà lại ra lệnh này nọ. có nghe lén . - Làm sao vừa nghe vừa chơi vĩ cầm? - Ðúng vậy. Có thể có người đằng sau bức màn. Phòng này sao có nhiều màn quá! Nhìn qua nhìn lại, Merton thấy cái hình nộm tại cửa sổ. điếng người, nên lời. - Tuyệt! Ðó là bức tượng. – gã bá tước giải thích! - Giả hả? Giống y như ! Còn mớ màn này, dùng làm gì, thưa bá tước. - Ồ, bỏ qua mấy cái màn đó , đừng phí thời giờ. Chúng ta còn nhiều đâu. có thể tống mình vào tù, vì viên đá đó. - Nếu Ikey Sanders tố cáo, ta có thể bị nguy. - Tuy nhiên, ta làm ngơ nếu chúng ta cho biết viên đá ở đâu. - Sao? Trả lại ư? Từ bỏ 100.000 bảng ? - Phải chọn lựa thôi. Merton gãi đầu. - ta chỉ có mình. Ta chỉ cần vào phòng, thanh toán là xong mọi chuyện. Còn gì mà sợ? Gã bá tước ra dấu bảo đừng. - ta có súng trong người. Vả chăng, giết rồi làm sao trốn thoát. Hơn nữa, có thể nộp đầy đủ bằng cớ về chúng ta cho cảnh sát rồi. tiếng động mơ hồ ở phía cửa sổ. Hai người im lặng, ngóng tai, nhưng ở cửa sổ, hình nộm vẫn ngồi ở ghế bành, Merton : - Cái tiếng đó ở ngoài đường. Giờ đây, là phần việc của ông, ông chủ. Ông có đầu óc, chắc tìm ra kế để chúng ta thoát chân. Nếu viên đá là vô dụng ông thẳng với . - Tao bịp những tay cừ hơn ta nhiều! – gã bá tước . - Viên đá ở trong túi tao. Tao chịu cái rủi ro giao nộp nó. Ngay đêm nay, nó có thể ra khỏi nước và bị cắt thành 4 miếng tại Amsterdam trước ngày chủ nhật này. ta biết gì về Van Seddar đâu. - Vậy mà tôi tưởng Van Seddar ra vào tuần tới. - Ðúng ra là thế! Nhưng theo tình hình mới, nó phải chuyến tàu tới. Hoặc mày, hoặc tao phải mang viên đá ra tới phố Lime gặp Van Seddar. - Nhưng viên đá giả chưa làm xong mà? - Cứ cầm đá mà vậy. Ta đâu còn giờ. Lại lần nữa, với cái năng khiếu ngửi thấy nguy hiểm, gã bá tước dừng lại, nhìn về hướng cửa sổ. Ðúng rồi, tiếng động hồi nãy phát sinh từ ngoài đường. - Về phần gã Holmes - ông ta tiếp - Tao gạt cánh dễ dàng. làm cho chúng ta bị bắt đâu, nếu còn hy vọng lấy lại được viên đá. Chúng ta hứa với rằng nhận được cục đá. Chúng ta cho trật đường rầy. Ðến khi hay biết cục đá qua tới Hà Lan và chúng ta cao bay xa chạy. - Tuyệt vời! - Merton la lớn. - Mày hãy lên đường về bảo thằng Hà Lan nhanh lên. Phần tao, tao gặp con đỉa đó, cầm chân nó bằng màn xưng tội giả. Tao bịa với nó rằng viên đá ở Liverpool. Trời ơi, nhạc trời đánh, nhức óc quá! Trong lúc nó lục lạo tại Liverpool, viên đá qua tới Hà Lan, còn chúng ta bềnh bồng biển cả. Lại đây! Ðây là viên đá. - Tôi tự hỏi tại sao ông dám để nó trong túi mình? - Vậy để ở đâu bây giờ? Nếu chúng ta đánh cắp nó tại Whitehall thằng khác cũng có thể đánh cắp nó tại nhà tao. - Cho tôi xem nó chút. Gã bá tước nhìn người đồng phạm với vẻ hơi coi thường, và tỏ ý chê cái bàn tay bẩn thỉu, : - Mày cho rằng tao giữ nó luôn sao? Hãy tới gần cửa sổ để nhìn thấy báu vật cho ràng hơn. Ðưa ra ánh sáng đó, Sam à! - Xin cám ơn hai bạn! - Chỉ nhảy cái, Holmes rời khỏi ghế bành của hình nộm và giựt lấy cái báu vật ngàn vàng, tay cầm nó, tay chĩa súng lục. Hai tên trộm thụt lùi, mặt cắt còn chút máu. Trước khi chúng hoàn hồn, Holmes nhấn chuông. - Hỡi các bạn, hãy tuyệt đối tránh bạo lực. Các bạn hãy quý trọng các đồ gỗ của tôi. Các bạn có lối thoát đâu. Cảnh sát ở dưới nhà. Quá ngạc nhiên, gã bá tước còn giận dữ mà chỉ sợ hãi: - Ông Holmes, ông tài giỏi ! - ngạc nhiên của ngài là hoàn toàn hợp lý. Ngài đâu thể ngờ rằng trong phòng tôi còn có cái cửa thứ 2 trổ ra sau cái màn này. Khi tôi dời hình nộm , tôi sợ bị lộ quá chừng, nhưng vận may mỉm cười với tôi, và tôi có cơ hội nghe cuộc đối thoại đặc biệt của hai vị. - Chúng tôi nhìn nhận là mình thua, thưa ông Holmes. Tôi cho rằng ông là quỷ hình. – Gã bá tước tỏ dấu bị khuất phục. - ! Tôi chỉ là em của quỷ! - Holmes đáp với nụ cười lễ độ. Trí óc đần độn của Sam Merton bắt đầu hiểu ra. Có những bước nặng nề ở cầu thang, phá vỡ yên lặng. - Kỳ tài! Nhưng còn tiếng đàn? Tôi còn nghe tiếng đàn mà? - Merton . - nghe đúng trăm phần trăm! - Holmes đáp - Tiếng vĩ cầm tiếp tục thánh thót. Máy quay đĩa hát là phát minh kỳ diệu! Cảnh sát xuất , các tội phạm bị còng, bị đưa xuống xe ngựa chờ dưới đường. Bác sĩ Watson khen Holmes về cành nguyệt quế mới thêm vào cái vương miện của ta. Nhưng cuộc chuyện giữa hai người bị gián đoạn vì Billy mang danh thiếp vào. - Huân tước Cantlemere, thưa ông. - Ðưa ông ấy lên, Billy. Ðây là nhà quý tộc sáng giá, đại diện cho những quyền thế lớn. Ðó là nhân vật tuyệt hảo, rất trung thực, nhưng “hơi xưa” chút. Ta nịnh cụ ấy chút rồi đùa cụ ấy chơi. Ông biết chuyện gì vừa xảy ra đâu. Cánh cửa mở, người gầy gò bước vào, khuôn mặt khắc khổ, được tô điểm bằng bộ râu mép to và đen tương xứng với đôi vai cong và cái thân hình mảnh khảnh. Holmes tiến tới và bắt lấy bàn tay mềm nhũn. - Kính chào huân tước Cantlemere. Thời tiết còn lạnh nhưng trong căn hộ nhiệt độ đến nỗi nào. Ðề nghị ngài cởi bỏ áo choàng. - Cám ơn! Tôi thấy cần thiết. Holmes đặt bàn tay cánh tay áo choàng. - Xin ngài cho phép! Bạn tôi, bác sĩ Watson, trách rằng những thay đổi thời tiết như vầy là quái gở? - Tôi cảm thấy được, ông Holmes à! Tôi ở lâu đâu! Tôi đến xem cuộc điều tra của ông đến đâu rồi. - Thưa ngài, rất là khó khăn. - Tôi biết trước rằng ông là rất khó khăn. - nụ cười chế nhạo hé lộ trong lời và thái độ của nhà quí tộc già. - Cuối cùng mỗi chúng ta phát ra các hạn chế của bản thân mình, thưa ông Holmes. Tuy nhiên, mở mắt của ông cũng chữa lành tự mãn. - Ðúng vậy, thưa ngài! Tôi rất ân hận. - Tôi thấy trước rồi mà! Holmes mỉm cười - nụ cười tinh nghịch: - Tuy nhiên có điểm đặc biệt mà tôi hy vọng được ngài giúp đỡ? - Mãi tới bây giờ ông mới , tôi e là hơi trễ đó. Tôi ngỡ rằng phương pháp làm việc của ông giúp giải quyết tất cả. Nhưng thôi, dù sao tôi cũng sẵn sàng giúp ông. - Thưa huân tước, chúng ta có thể lập hồ sơ về bọn trộm. - Khi nào ta bắt được chúng kìa! - Ðúng vậy, nhưng mà vấn đề là làm sao còng kẻ tàng trữ đồ gian? - Có quá chủ quan và quá sớm . - Phải lập hồ sơ mới được. Theo ngài, phải làm sao để truy tố kẻ tàng trữ? - Trường hợp họ bị bắt quả tang giữ viên đá! - Ðiều đó, theo ngài, là đủ để bắt nhốt kẻ tàng trữ chứ gì? - Ðương nhiên! Holmes vốn ít cười lớn tiếng, nhưng lần này cười hô hố. - Nếu thế , kính thưa ngài, tôi cảm thấy đau lòng phải nhờ cảnh sát bắt ngài. Huân tước nổi trận lôi đình. - Ông suồng sã quá lố đó, ông Holmes. Trong 50 năm nay, tôi chưa hề gặp bỡn cợt nào tương tự. Tôi rối đầu vì quốc gia đại ; tôi thích và cũng có thời giờ để đùa cợt cách xuẩn ngốc như vậy. Tôi cần nhắc lại cho ông biết rằng bao giờ tôi tin vào khả năng của ông. Luôn luôn tôi chủ trương phải giao việc này cho cảnh sát công. Trân trọng cáo từ ông! Holmes nhanh nhẩu nhảy ra, chân lại ở cửa. - Xin chờ chút, thưa ngài! ra với viên đá Mazarin là tội ác tầy đình so với tội chỉ tàng trữ trong thời gian ngắn. - Ðã quá mức chịu đựng của tôi rồi đó. Hãy để cho tôi qua! - Ngài hãy thọc tay vào túi áo choàng của ngài xem! - Ông muốn gì? - Ngài cứ làm như vậy ! Nhà quý tộc bỗng điếng người, mắt nhấp nháy hên hồi, cà lăm cà cặp. Viên đá to màu vàng nằm trong tay run rẩy của ông. - Chúa ơi! Cái gì đây, ông Holmes? - Quá đột ngột, quá chấn động, phải , thưa huân tước. Xin ngài tha lỗi, tôi quá lố, khi bỏ cục đá vào túi ngài ngay từ đầu cuộc chuyện. Ông huân tước già nhìn đăm đăm vào khuôn mặt rạng rỡ của Holmes. - Thưa ông Holmes, tôi rất kinh ngạc. Quả là viên đá Mazarin! Chúng tôi mang ơn ông vô cùng. Ông đùa dai và thất kính, nhưng mà ông nhìn nhận. Phần tôi, tôi xin rút lại tất cả những gì về biệt tài siêu việt của ông. Nhưng... - Sau này tôi các chi tiết, thưa huân tước. Tôi tin chắc rằng cái thú vị mà ngài tìm thấy trong việc tường thuật cái kết quả vui vẻ về viên đá trong hoàng gia bù đắp cái thất kính vừa rồi của tôi. Billy, hãy đưa ngài huân tước xuống và báo cho bà Hudson hay rằng tôi rất hạnh phúc nếu được bà cho thầy trò ta bữa ăn tối thịnh soạn.