Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      2. Vòng tròn đỏ

      - Bà Warren ạ, bà có lý do chính đáng để ưu tư, và về phần tôi, tôi lưu tâm đến nhiều công việc nghiêm trọng hơn - Sherlock Holmes xong, tiếp tục cúi đầu xuống quyển album lớn.
      Tuy nhiên bà chủ nhà vẫn bám riết:
      - Năm ngoái, ông thu xếp công việc cho trong mấy người thuê nhà tôi, cái ông Fairdale Hobbs ấy!
      - Vâng, việc đáng kể.
      - Ông ấy nhắc luôn về lòng tốt của ông và về cái cách mà ông biết “làm cho ánh sáng phát sinh từ bóng tối”. Tôi nhắc lại lời của ông ấy. Tôi biết rằng hễ ông muốn là được…
      Holmes nhạy cảm trước những lời “ khéo” và cũng xúc động trước nhưng lời kêu gọi hảo tâm của mình. thở dài, ngẩng mặt lên, kéo lui cái ghế.
      - Ðược, bà Warren. Tôi lắng nghe bà đây. Xin phép bà cho tôi hút thuốc… Cám ơn , Watson! Nếu tôi lầm lo lắng vì người mướn nhà cứ ở riết trong phòng. Có gì đâu, nếu tôi mướn phòng của bà, bà cũng thấy tôi xuất mỗi ngày!
      - Có thể lắm, nhưng đây là chuyện khác. Tôi sợ, thưa ông Holmes, sợ đến nỗi mất ngủ. Nghe tiếng bước nhanh của ông ấy từ sáng tới khuya, nhưng bao giờ thấy mặt ông ấy. Chồng tôi cũng bực dọc như tôi, nhưng ấy làm suốt ngày. Còn tôi, căng quá. Tại sao ông ấy giấu mặt? Ngoài giúp việc, ở nhà còn ai…
      Holmes nghiêng ra phía trước để đặt các ngón tay mảnh mai của vai bà chủ nhà. Dường như có khả năng xoa dịu mọi trường hợp băn khoăn. sợ hãi biến khỏi đôi mắt của thân chủ: bà bình tĩnh trở lại.
      - Nếu tôi chăm lo vụ này bà phải kể ra tất cả các chi tiết. Bà cứ thoải mái suy nghĩ, và nhớ lại tất cả ? Bà có rằng người ấy dọn vào nhà cách nay 10 ngày và thanh toán tiền ăn, ở đủ 15 ngày.
      - Thưa ông, ông ấy có hỏi về các điều kiện tôi đề nghị 50 shilling tuần cho bộ xa-lông trong phòng ngủ đủ tiện nghi gác.
      - Rồi sao nữa?
      - Ông ấy đáp: “Tôi trả cho bà 5 bảng tuần, nếu bà chấp thuận các điều kiện của tôi”. Ông ta trao cho tôi tờ 10 bảng, và : “Bà nhận hai tuần lần, nếu bà chấp thuận, còn thôi, xin kiếu từ!”.
      - Ðiều kiện như thế nào? - Holmes hỏi.
      - Ðưa cho ông ta chìa khóa nhà. Ðâu có sao phải ông? Nhưng ông ta lại căn dặn thêm: khỏi phải bận tâm, và đừng bao giờ quấy rầy tôi.
      - Các điều kiện như vậy có gì bất bình thường cả!
      - Ðúng lý . Nhưng ông ấy ở 10 ngày rồi. Vợ chồng tôi và cả giúp việc đều gặp ông ấy. Chúng tôi chỉ nghe tiếng bước chân lui tới, tới lui, sáng, trưa, chiều, tối. Trừ buổi tối đầu tiên, ông ấy bao giờ ra khỏi nhà.
      - Ủa, ông ấy có ra khỏi nhà vào buổi tối đầu tiên?
      - Ðúng thế, thưa ông, và về rất khuya. Sau khi trả tiền, ông ấy cho tôi hay trước rằng ông vắng và dặn tôi đừng gài cửa. Nửa đêm tôi có nghe ông ấy về.
      - Còn các bữa ăn?
      - Ông ấy có dặn: Khi nào ông ấy nhấn chuông, chúng tôi phải mang cơm lên, đặt cái ghế trước cửa phòng. Rồi nghe tiếng thứ hai dọn sạch. Khi cần điều gì, ông ấy kẻ chữ in mảnh giấy để ghế.
      - Kẻ chữ?
      - Ðúng thế, kẻ chữ in bằng bút chì, chỉ ghi các từ cần thiết, dư, thừa: hoặc “XÀ PHÒNG” hoặc “BAO DIÊM”, hoặc “TỜ DAILY GAZETTE”. Mỗi sáng tôi mang điểm tâm và tờ báo lên.
      - Watson! - Holmes lớn rồi tò mò nghiên cứu các miếng giấy con con - Tự giam hãm trong nhà, điều đó có gì lạ. Nhưng kẻ chữ in là việc khác mọi người? nghĩ gì về cái tật kỳ cục này?
      - muốn giấu nét chữ.
      - Tại sao? Người chủ nhà trọ biết nét chữ của mình có sao đâu? Ngoài ra, tại sao lại viết cụt ngủn như thế?
      - Tôi cũng thắc mắc!
      - đề tài lý thú! Chữ được viết bằng bút chì tím, to đầu, loại thường. Này, để ý, giấy bị xé tại đây, ngay sát chữ, đến nỗi chữ “X” của “XÀ PHÒNG” gần như biến mất. Cần suy nghĩ, phải Watson?
      - thận trọng chăng?
      - Ðương nhiên! Chắc chắn có dấu tay, dấu của ngón cái, có thể làm lộ căn cước của người viết. Này bà Warren, bà rằng ông ta là người có râu, tầm vóc trung bình, da nâu. Bà đoán xem ông ấy bao nhiêu tuổi?
      - Thưa ông, quá ba mươi.
      - Bà có thể cố gắng moi trí nhớ để cung cấp thêm những chi tiết khác ?
      - Ông ta tiếng rất giỏi. Theo giọng hình như là người nước ngoài.
      - Ăn mặc ra sao?
      - Rất đàng hoàng. người thượng lưu. Quần áo màu sẫm, có gì đặc biệt để lưu ý.
      - Ông ta cho bà biết tên à?
      - , thưa ông.
      - Và thư từ hay khách khứa gì sao?
      - , thưa ông.
      - Buổi sáng, bà hay giúp việc vào phòng đó?
      - , ông ta tự quét dọn.
      - Ðấy là chuyện rất lạ. Ông ta có hành lý ?
      - Chỉ có cái bị to màu nâu. Thế thôi.
      - Vậy là có bất cứ thứ gì đưa ra khỏi phòng.
      Bà chủ nhà trọ lấy trong xách tay phong bì. Từ đó bà rút ra những que diêm cháy và tàn thuốc để lên bàn.
      - Mới sáng nay. Ðể mâm điểm tâm. Tôi cất giữ nó vì tôi nghe ông có thể suy đoán ngàn chuyện từ những cái vô cùng vặt vãnh.
      Holmes nhún vai:
      - có nghĩa gì cả. Ðương nhiên. Diêm đánh để châm thuốc. Căn cứ theo phần cháy. Phải que mới đốt được ống tẩu hoặc điếu xì-gà. Mà... này! chàng có râu quai nón, râu mép, bà có thế, phải ?
      - Ðúng, thưa ông.
      - Lạ lùng? Chỉ có người cạo râu nhẵn nhụi mới hút cái điếu thuốc này. Nhìn này, Watson! Dù khéo léo đến đâu, bộ râu mép của ta cũng bị cháy!
      - Có lẽ y hút qua cán.
      - đâu. Cái đầu điếu còn chất keo ràng. Tôi đoán rằng người này ăn rất ít, phải , bà Warren?
      - Ðúng ông ta ăn ít đến nỗi tôi biết làm sao ta sống được!
      - Hừm. Có lẽ phải chờ thêm yếu tố mới. cho cùng, bà có cớ để kêu ca. Bà nhận tiền cho thuê phòng, mặt khác, ông ta có gây phiền hà gì đâu. Ðó chỉ là người khách trọ bình thường. Chúng ta có quyền xâm phạm dật đó, trừ phi ta có cơ sở để quyết đoán rằng đó là cách trốn công lý. Tôi theo dõi kỹ. Bà hãy báo cho tôi tất cả những kiện mới và bà có thể tin cậy nơi tôi.
      Khi bà chủ quán trọ ra về, Holmes suy nghĩ.
      - Nội vụ ràng có những chi tiết kỳ thú. Có thể đây chỉ là trường hợp lập dị, cũng có thể là câu chuyện có chiều sâu mà thoạt nhìn thể chất. Cái ý tưởng đầu tiên xuất trong trí tôi là người trọ phải là người trả tiền thuê nhà.
      - Do đâu mà nghĩ như vậy?
      - Chuyện quái lạ là cái lần độc nhất mà người trọ ra ngoài ngay sau khi gửi phòng. Ông ta trở về? Ông ta hay là kẻ khác? Khi mà tất cả mọi người đều ngủ. Ngoài ra, người thanh toán tiền tiếng giỏi, còn người này viết. Lối hành văn cụt ngủn có thể nhằm che giấu kiến thức rất nghèo nàn về tiếng . Tôi vẫn thắc mắc rằng ở đây có “tráo người trọ”.
      - Ðể làm gì?
      - Ðấy là vấn đề. Chúng ta theo hướng này...
      Holmes lấy cuốn sổ lớn trong đó chữa các mục nhắn tin đăng các báo lớn của London.
      - A! - Vừa lật sổ Holmes vừa thốt lên - Quả là bản hợp xướng rên la than khóc! sọt rác chuyện tạp nham! Thằng cha này độc, nó thể nhận thư tín vì sợ lộ bí mật. Vậy bằng cách nào mà tin tức vào nhà được? Ðương nhiên phải qua mục nhắn tin, đây Cái nhắn tin cắt trong Daily Gazette lúc 15 giờ này: “Người đàn bà có con trăn đen tại câu lạc bộ trượt băng Hoàng Tử”. Mẫu khác: “Ðương nhiên Jimmy muốn làm mẹ đau khổ”. Hai cái này có lẽ dính dáng gì tới người vô danh của chúng ta. “Người đàn bà ngất xỉu xe buýt , Brixton...” cũng chả ăn nhập gì. “Mỗi ngày tim tôi thổn thức... rên khóc”. Watson ơi. Rên khóc cách vô liêm sỉ! À, đây “Nhẫn nại tìm ra cách liên lạc an toàn. Chờ đợi ở mục nhắn tin này - G”. Tin ngày nào? Sau ngày đến của người trọ tại nhà bà Warren hai ngày. Nghe xuôi tai ? Người vô danh đọc và hiểu tiếng , dù viết tốt. Xem coi có gì nối tiếp ? Có đây: Ba ngày sau: “Tôi chuẩn bị để thành công. Nhẫn nại và thận trọng. Mây mù tan - G”. Rồi bặt hẳn tuần. Nhưng giờ đây có chuyện chính xác hơn: “Ðường trống. Nếu tôi có dịp liên lạc bằng dấu hiệu, vẫn theo quy ước cũ - G”. Ðó là trong tờ báo hôm qua. Còn hôm nay có gì cả, tất cả đều thể ăn khớp hoàn toàn với người trọ tại nhà bà Warren? Ðợi thời gian ngắn nữa, tôi tin chắc rằng nội vụ trở nên dễ hiểu hơn.
      Holmes đoán đúng. Sáng hôm sau, tôi thấy đứng quay lưng vào lò sưởi, mặt hớn hở.
      - nghĩ gì về cái nhắn tin này, Watson? - Holmes vừa hỏi vừa lấy tờ báo bàn. - “Tòa nhà lớn màu đỏ có phủ đá trắng. Tầng ba. Cửa sổ thứ nhì bên trái. Sau hoàng hôn - G”. Cái tin này khá chính xác. Tôi đề nghị sau khi ăn sáng, chúng ta thám sát trong vùng nhà của bà Warren... A, chào bà Warren! Sáng nay, bà đem đến cho chúng tôi tin tức gì đấy?
      Vẻ mặt giận dữ của bà báo trước là có chuyện mới và chấn động.
      - Phải cho cảnh sát biết thôi, ông Holmes à. Tôi chịu đựng nổi, phải tống ra khỏi nhà. Tôi muốn hỏi ý kiến ông trước. Tôi thể nhịn được nữa! Ông nghĩ xem, ông chồng già của tôi bị tấn công?
      - Chồng bà bị đánh đập?
      - Dù sao họ cũng mạnh tay với ông ấy!
      - Ai mạnh tay?
      - Chính tôi rất muốn biết điều này, nhà tôi làm nhân viên bấm giờ tại công ty Morton và Waylights ở phố Tottenham Court. Ông phải rời nhà trước 7 giờ sáng. Sáng nay chồng tôi chưa được mười bước hai người đàn ông từ sau đến, lấy cái măng-tô phủ đầu ông, ném ông lên xe ngựa chờ sẵn bên lề đường. Chúng chở ông lòng vòng trong giờ rồi mở cửa xe, đạp ông xuống đường. Lồm cồm ngồi dậy, chồng tôi thấy mình ở phố Hampstead Heath. Ông liền lên xe buýt và thời nằm dài ở nhà. Tôi tức tốc đến đây báo cáo.
      - Rất hấp dẫn. Ông ấy có quan sát bọn đó ? Chúng ra làm sao? Ông ấy có nghe chúng chuyện .
      - , khi hồn vía lên mây còn biết gì? Ông cho rằng ông bị bùa, và nhớ mang máng có hai ba người đàn ông trong xe.
      - Bà cho rằng việc tấn công này có liên quan đến người bí mật cư ngụ trong nhà bà?
      - Chúng tôi sống tại đó 15 năm rồi, có bao giờ xảy ra câu chuyện như thế. Tôi chán ngấy rồi. Tiền bạc đâu có giải quyết được mọi chuyện. Tôi tống khứ trước tối nay.
      - Bà hãy chờ chút. Tôi bắt đầu thấy nội vụ có thể quan trọng hơn rồi đó. ràng là người trọ nhà bà bị đe dọa, kẻ thù của ông ta rình rập gần nhà, lầm lẫn chồng bà với ông vì sương mù buổi sáng, khi biết lầm, họ mới thả ông nhà ra. Nếu lầm, họ làm gì nào?
      - Vậy tôi phải hành động ra sao? - Bà Warren hơi bình tĩnh lại.
      - Tôi rất muốn gặp người khách trọ ở nhà bà - Holmes .
      - Tôi biết quý vị làm thế nào mà gặp ông ta, trừ khi phá cửa. Tôi luôn luôn nghe ông ta khóa cửa sau khi tôi mang điểm tâm lên và xuống lầu.
      - Ít ra ông ấy cũng phải ra cửa để bưng mâm vào. Chúng tôi ngồi rình ở đâu đó.
      Bà chủ nhà trọ suy nghĩ.
      - Thưa ông, đàng trước có cái kho cũ. Tôi bố trí cái gương, đề nghị quý ông nấp sau cánh cửa.
      - Hay quá! Mấy giờ ăn trưa?
      - Khoảng 1 giờ.
      - Vậy bác sĩ Watson và tôi đến đó đúng giờ. Kính chào bà Warren!
      Lúc 12 giờ 30, chúng tôi đến. Căn nhà cao bằng gạch màu vàng, nằm tại phố Great Howe, có đường đâm vào mặt đông bắc của viện bảo tàng. Vị trí gần ngã ba của nó, giúp nó nhìn bao quát con đường cùng các nhà xa hơn của đường này. Holmes cười đưa tay chỉ về trong các nhà nguy nga: nó nhô ra và dễ chú ý đến.
      - Thấy Watson. Toà nhà lớn màu đỏ có phủ đá trắng. Ðó là điểm hẹn. Chúng ta biết chỗ, lại biết mật mã nhiệm vụ dễ dàng. cửa sổ có tấm bảng đề hai chữ “cho thuê” . ràng là căn hộ trống và kẻ tòng phạm có thể chui vào. Nào bà Warren, có gì mới mẻ?
      - Tất cả sẵn sàng. Quý vị có thể lên, tôi đưa đường.
      thu xếp chỗ nấp tuyệt hảo. Ngồi trong bóng tối, chúng tôi cũng thấy cái cửa đối diện. Chúng tôi vừa an vị và bà Warren vừa rời khỏi chỗ chúng tôi tiếng leng keng văng vẳng báo cho chúng tôi biết rằng người khách trọ kỳ lạ kéo chuông. thoáng sau, bà Warren xuất với cái mâm. Bà đặt nó lên cái ghế cạnh cửa, rồi nặng nề bước xuống cầu thang.
      Ngồi chồm hổm trong góc cửa ép vào nhau, chúng tôi nhìn đăm đăm vào cái gương. Ðột ngột, sau khi tiếng bước chân của bà Warren xa dần, chúng tôi nghe chìa khóa khua lách cách, nắm đấm cửa xoay, hai bàn tay mảnh mai đưa ra bưng mâm cơm. Lập tức mâm được trả về chỗ cũ và tôi thấy trong khoảnh khắc, khuôn mặt hoảng hốt nhìn cái cửa kho hé mở. Rồi cửa lại đóng, chìa khóa lại khua lách cách. Tất cả lại yên tĩnh. Holmes lay tay áo tôi, và chúng tôi rón rén xuống cầu thang.
      - Tôi chúng tôi quay lại. - Holmes với bà chủ trọ chạy lại hỏi thăm. - Watson à, về nhà chúng ta thảo luận thoải mái hơn.
      Ngồi vào ghế bành, Holmes :
      - Ðúng như tôi dự đoán, thay thế người ở trọ. Ðiều dự đoán được đó là người đàn bà.
      - Bà ấy thấy chúng ta?
      - Ồ, chắc chắn bà ấy có thấy cái gì đó nên mới hoảng hốt. Câu chuyện trở nên dễ hiểu, phải ? cặp vợ chồng kiếm chỗ tị nạn tại London, để tránh hiểm họa vừa khủng khiếp vừa gần kề. Chúng ta có thể đo lường cái hiểm họa theo độ nghiêm ngặt của các cách đề phòng. Người chồng vì cần làm cho kỳ được cái gì đó, nên muốn rằng trong lúc đó, vợ ông ta phải được an toàn tuyệt đối. Bài toán dễ, nhưng được giải quyết cách hữu hiệu đến nỗi bà chủ nhà trọ hàng ngày mang thức ăn tới mà biết gì cả. Các mảnh giấy kẻ bằng chữ in, ràng là để giấu chữ viết của người phái nữ, vì sợ bị bại lộ. Do thể liên lạc trực tiếp được, ông ta phải dùng mục nhắn tin báo. Tối nay mọi đều đơn giản.
      - Nhưng mà cái gốc của câu chuyện là cái gì?
      - Câu hỏi khôn ngoan quá. quả là người luôn luôn thực tế. Gốc rễ của toàn câu chuyện là gì? Cái bài toán mà bà Warren đặt ra mỗi lúc lan rộng, và càng tiến xa càng để lộ những dữ kiện đen tối hơn. Kể từ phút này, ta có thể khẳng định rằng: là, vụng trộm ái tình bình thường. Bạn thấy nét mặt của người đàn bà khi cảm thấy có hiểm họa. Hai là tấn công lầm lẫn, mà ông chủ nhà trọ là nạn nhân. Các báo động cùng với nhu cầu tối thiết về bí mật cho thấy tính sinh tử của vấn đề. Mặt khác tấn công lầm cho ta thấy rằng kẻ thù hay biết có tráo người trọ. Rất là kỳ lạ, và phức tạp!
      - Tại sao lại bận tâm đến nó làm gì? Ðược lợi lộc gì?
      - Nghệ thuật vị nghệ thuật mà? Tôi biết rằng đôi khi cũng hành nghề y mà được lời xu?
      - Ðể học hỏi.
      - Phạm vi của học vấn là bao la. Phải học mãi, và bài học cuối cùng mới là bài quan trọng. Cho nên trước trường hợp có lợi cho học vấn, tuy chẳng được lợi gì về tiền bạc hoặc tiếng tăm ta cũng phải tham dự thôi. Ðêm nay, cuộc điều tra tiến bước khá dài.
      Khi chúng tôi trở lại nhà bà Warren, ánh sáng lù mù của đêm đông càng dày đặc thêm, ngả thành màu xám xịt, lốm đốm vàng do các cửa sổ và đèn đường. Chúng tôi vào phòng khách của bà chủ trọ. Ðèn tắt, chúng tôi nhìn ra ngoài, xuyên qua cửa kính, bất chợt ở bên kia đường với ánh sáng lấp lánh trong bóng đêm.
      - Ai đó xê dịch trong phòng. - Holmes thầm dán chặt cái đầu xương xẩu và nhọn hoắt vào cửa kính. - Ðúng thế, tôi thấy cái dáng của người ấy. cầm nến tay. quan sát bên này đường. Có lẽ muốn biết chắc rằng bà ấy chờ đợi. Kìa bắt đầu đánh tín hiệu kia kìa. Watson, cũng nên ghi các tín hiệu, để chúng ta so kết quả. Chỉ lóe sáng lần... chắc chắn là chữ A. Nè... bao nhiêu lần Watson, 20 chăng? Tôi cũng thế, vậy là chữ T... AT khá dễ hiểu... chữ T khác. Chắc chắn đấy là khởi đầu của cái từ thứ nhì. TENTA chấm. Chẳng lẽ hết rồi sao? ATTENTA? có nghĩa gì cả. Hoặc giả là AT, TEN, TA? Cũng gì hơn, trừ khi TA là hai chữ cái của tên ai đó. Kìa, lại tiếp tục Cái gì nhỉ? ATTE... Sao? Vẫn lối mật mã? Lạ kỳ, Watson à, vô cùng lạ kỳ. Lại dừng. . tiếp tục AT... sao? lặp lại lần thứ ba? ATTENTA, ba lần? còn đánh lại bao nhiêu lần nữa. , hình như xong rồi. rời cửa sổ rồi. nghĩ sao Watson?
      - điệp văn mật mã.
      Holmes đột ngột cười ép tiếng, biểu lộ thông hiểu.
      - Mật mã tối tăm lắm đâu. Tiếng Ý đấy! Chữ A đầu có nghĩa là điệp văn được gửi cho người đàn bà. Với chữ này, : “Coi chừng! Coi chừng! Coi chừng!”. Ðúng thế.
      - Phải là điệp văn rất khẩn cho nên mới lặp lại ba lần. Chờ xem kìa, quay lại cửa sổ.
      Lại lần nữa chúng tôi thấy dáng dấp lờ mờ của người đàn ông. Các tín hiệu được gửi tiếp nhưng nhanh hơn, nhanh đến nỗi khó theo dõi.
      - PERICOLO! Pericolo là gì, Watson? Pericolo là hiểm nguy chứ là gì. Ðúng rồi, đó là tín hiệu báo động. Y lặp lại: PERI... Chuyện gì vậy? Ánh sáng đột ngột tắt, toàn tầng lầu chỉ còn là băng đen bao quanh cao ốc. Tiếng báo nguy bị cắt ngang? Ai cắt và cắt bằng cách nào.
      Cùng ý tưởng nảy sinh trong đầu chúng tôi và Holmes nhảy dựng lên.
      - Nghiêm trọng rồi, Watson ơi. - la lớn - màn gian ác diễn ra. Tại sao bức điện văn bị gián đoạn đột ngột? Ta phải báo cho Scotland Yard. Nội vụ diễn tiến dồn đập.
      - muốn tôi tìm cảnh sát.
      - Có lẽ nên chờ cho tình hình nét hơn. Có thể có điều gì đó rất rắc rối. Nào Watson, chúng ta băng qua đường và quan sát cặn kẽ hơn.
      Trong khi chúng tôi nhanh chân hướng về phố Howe, tôi quay lại nhìn ngôi nhà chúng tôi vừa rời. Ðằng sau cửa sổ cao lờ mờ bóng của cái đầu, người đàn bà đứng lặng nhìn chòng chọc vào bóng đêm. Có lẽ chờ cái điệp văn bị đứt đoạn. Trước cổng tòa nhà ở phố Howe, người đàn ông, cổ áo choàng kéo cao dựa vào song sắt. Khi ánh sáng của đại sảnh rọi vào mặt chúng tôi, ông nhảy dựng.
      - Holmes! - ông la lớn.
      - Ủa, Gregson? - Holmes kêu to và bắt tay người thám tử của Scotland Yard - Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu phải Gregson? Việc gì vậy?
      - Cùng việc thôi, nhưng sao lại có can dự vào?
      - Qua nhiều mối chỉ, khác biệt với các đầu mối của ông nhưng thuộc cùng cuộn. Tình cờ tôi bắt gặp các tín hiệu.
      - Tín hiệu?
      - Ðúng thế, từ cái cửa sổ kia. Nửa chừng bị cắt đứt. Chúng tôi băng qua đường để tìm hiểu lý do. Nhưng ông thụ lý, tôi còn lý do để tiếp tục cuộc điều tra.
      - Chờ chút! - Gregson nhiệt tình kêu lên - Holmes, tôi thú rằng, hễ mỗi khi có tham gia tôi cảm thấy hăng hái hơn. Tòa nhà này chỉ có cửa duy nhất, do đó nó chạy thoát đâu.
      - Ai vậy?
      - Ha! Ha! Lâu lắm chúng tôi mới ghi bàn thắng.
      Viên thám tử lấy gậy dộng đất. Người xà ích, tay cầm roi ngựa, rời xe tứ mã bước qua.
      - Tôi xin phép giới thiệu ông với ông bạn Sherlock Holmes - Gregson với người xà ích - Ðây là ông Leverton, thuộc dịch vụ cảnh sát Pinkerton của Hoa Kỳ.
      - Tôi hân hạnh được biết ông! - Holmes .
      Người Hoa Kỳ với khuôn mặt trẻ, râu, mảnh khảnh, điềm đạm :
      - Tôi nghe danh ông lâu. Chỉ chờ bắt được thằng Gorgiano này…
      - Sao? Gorgiano của Vòng Tròn Ðỏ.
      - À, té ra ta cũng nổi tiếng tại Âu châu. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi đều biết bản mặt . chủ mưu khoảng 50 vụ án mạng, nhưng chúng tôi chưa nắm được bằng chứng cụ thể nào. Tôi bám sát từ New York. tuần nay, tôi theo sát gót. Tôi chỉ còn chờ cái cớ để thộp cổ. Gregson và tôi thấy lẩn trốn trong tòa nhà này. Chỉ có cửa ra, chạy thoát đâu. Từ lúc vào, ba người ra, nhưng phải là .
      - Ông Holmes có với tôi về các tín hiệu - Gregson - Tôi tin rằng như thường lệ, ông ấy sâu sắc hơn chúng ta.
      Holmes trình bày ngắn gọn. Người bạn Hoa Kỳ bực dọc, xoắn hai bàn tay vào nhau.
      - Chúng ta bị phát rồi! - Leverton la lớn.
      - Căn cứ vào đâu?
      - gởi điệp văn cho tòng phạm. Bè lũ chúng ở London này đông lắm. Chính vào cái lúc báo động đột ngột bị gián đoạn. Ðiều đó có nghĩa gì, nếu phải là thình lình thấy bọn chúng mình đứng ngoài đường, hoặc đột ngột biết có hiểm nguy đe dọa nên phải ngừng ngay tức khắc. Ông nghĩ sao, ông Holmes?
      - Theo tôi, chúng ta nên leo lên liền và quyết định.
      - Nhưng chúng ta có trát bắt giam ?
      - ở tại khu nhà bỏ trống trong những điều kiện khả nghi - Gregson đáp. - Tạm thời bấy nhiêu cũng đủ. Khi bắt rồi, chúng ta chờ New York tiếp tay để chúng ta nhốt . Phần tôi, tôi nhận trách nhiệm bắt ngay tức khắc.
      Các thám tử của nhà nước đôi khi thiếu trí tưởng tượng, nhưng rất thừa dũng cảm. Gregson leo lên gác, nhàng như lúc leo lên cái cầu thang lớn của sở Scotland Yard. Leverton trước, nhưng Gregson mạnh tay gạt ta qua bên. Những hiểm nguy của London phải là đặc quyền của người London.
      Cánh cửa của căn phòng ở phía trái của tầng ba, lúc đó hé mở, Gregson mở toang nó ra. Tối đen và im lặng. Tôi bật diêm, châm đèn xách tay của viên thám tử. Khi ngọn lửa sáng tỏ, chúng tôi đồng loạt kêu lên vì ngạc nhiên. sàn nhà, những dấu chân máu chảy dài từ căn phòng cửa đóng kín. Gregson dùng vai tung mạnh cửa, và đưa đèn lồng lên. Chúng tôi nhón chân, nhìn chăm chăm qua vai ông.
      Chính giữa căn phòng trống, xác của người khổng lồ nằm dài trong vũng máu. Mặt nhẵn nhụi, sạm nắng, méo mó kỳ lạ. Ðầu gối co lại, hai bàn tay xòe ra và đưa cao trong co giật trong lúc chết. Ở cổ, cán dao màu trắng cắm sâu vào đó. Cạnh bàn tay mặt của dao găm cán sừng lưỡi đôi nằm gần chiếc bao tay da dê đen.
      - Ðúng là Gorgiano Ðen! - Viên thám tử Hoa Kỳ la to - Ai đó nhanh tay hơn chúng ta.
      - Còn đây, cây nến cạnh cửa sổ, Holmes - Gregson cười đùa. - làm cái trò quỷ gì đó?
      Lúc đó, Holmes cầm cây nến cháy đưa qua đưa lại ngay trước cửa sổ rồi nhìn vào đêm tối. Cuối cùng, thổi cây nến và quăng nó xuống đất.
      - Tôi tin tôi đóng góp điều ích lợi. - Holmes khẽ rồi đứng lặng thinh.
      Trong lúc hai thám tử nhà nghề khám nghiệm tử thi, Holmes tiếp:
      - Trong lúc các chờ dưới đường có thấy ba người ra khỏi tòa nhà này? Các thấy ?
      - .
      - Các có để ý chàng khoảng 30 tuổi, cao, râu quai nón đen?
      - Có. ra sau cùng.
      - Ðó là hung thủ. Tôi có thể cung cấp dấu hiệu đặc biệt của vì chúng ta có dấu chân ràng của . - Vậy là đủ rồi chứ gì?
      - Chưa đủ, ông Holmes, London có tới mấy triệu người mà.
      - Quả là chưa đủ. Do đó, tôi mời bà này tới tiếp tay.
      Tất cả chúng tôi đều quay lại. Trong khung cửa lớn xuất người đàn bà cao lớn, rất đẹp. Ðó là người trọ tại nhà bà Warren. Bà từ từ bước vào, mặt tái xanh vì sợ sệt. Ðôi mắt hoảng hốt nhìn đăm đăm vào kẻ nằm sõng soài sàn nhà.
      - Các ông giết nó! - Bà thầm - Ồ, các ông giết nó?
      Tôi nghe bà hít khí sâu, rồi nhảy tung lên và vui mừng. Bà chạy quanh phòng, vừa múa vừa vỗ tay. Hàng ngàn lời cảm thán bằng tiếng Ý.
      - Nhưng mà quý vị? Quý vị là cảnh sát phải ? Quý vị giết Giuseppe Gorgiano phải ?
      - Chúng tôi là cảnh sát, thưa bà.
      Bà nhìn ngơ ngác sục sạo quanh gian phòng, hỏi:
      - Còn Gennaro đâu? ấy là chồng tôi, Gennaro Lucca. Tôi là Emilia Lucca, cả hai chúng tôi đều có nguyên quán tại New York. Gennaro đâu? ấy vừa gọi tôi từ cửa sổ này, và tôi chạy sang ngay mà?
      - Chính tôi vừa gọi bà - Holmes .
      - Ông? Làm sao kỳ vậy?
      - Mật mã đâu có gì khó khăn. diện của bà tại đây rất cần. Tôi thấy chỉ cần đánh cái từ “VIENI” bằng mật mã là bà ra ngay.
      Người đàn bà Ý nhìn thẳng vào Holmes với ánh mắt lo âu.
      - Tôi hiểu vì sao ông biết được mật mã đó! ấy ... - Bà ngừng ngang và thình lình mặt bà sáng đẹp vì kiêu hãnh và hân hoan. - À, Tôi hiểu rồi! Gennaro đẹp và diệu kỳ của tôi che chở tôi khỏi các nguy biến. Chính ấy giết con quái vật này! Ôi, Gennaro, là xuất chúng,
      - Thưa bà Lucca. - Gregson kêu lên vừa đặt bàn tay lên vai bà ta cách lạnh lùng như cách đối xử với các tên du côn. - tại tôi hiểu gì, nhưng bà đủ để tôi có cơ sở đưa bà về Scotland Yard.
      - Chờ chút, ông Gregson. Tôi tin rằng bà này rất nhiệt tình cung cấp mọi tin tức mà chúng ta cần. Thưa bà, bà vui lòng hiểu cho rằng chồng bà bị bắt, ra tòa vì tội giết người. Tất cả những gì bà có thể được xem là lời khai của nhân chứng. Nếu bà nghĩ rằng ông nhà hành động vì những lý do chính đáng bà nên khai đầy đủ.
      - Giờ đây thằng ác ôn này chết, chúng tôi còn gì phải sợ đâu. - Bà đáp - Nó là con quỷ, con quái vật. ông tòa nào phạt chồng tôi.
      - Vậy , - Holmes đề nghị - Chúng ta hãy đóng cửa này lại để trường vẫn y nguyên và trở về phòng bà, nghe bà .
      Nửa giờ sau, cả bọn chúng tôi ngồi trong cái xa-lông . Bà tiếng lưu loát nhưng chuẩn lắm.
      - Tôi sinh tại Posilippo, gần thành phố Naples của nước Ý. Tôi là con của Augusto Barelli, trước đây là đệ nhất thẩm phán kiêm dân biểu của vùng. Gennaro là nhân viên của cha tôi và tôi ấy. ấy có nhiều tiền, cũng có cái gì ngoài thân hình đẹp, sức mạnh và tính cương nghị. Cha tôi bằng lòng cho chúng tôi lấy nhau. Cả hai chúng tôi thoát ly gia đình, đám cưới được tổ chức tại Bari, Ý. Sau đó, tôi bán hết nữ trang để có đủ tiền Hoa Kỳ. Chuyện đó xảy ra cách nay 4 năm. Từ đó, chúng tôi liên tục ngụ tại New Yord.
      Lúc đầu chúng tôi gặp may. Nhờ chống trả vài thằng du thủ du thực, chồng tôi được lòng và được bao bọc của nhà quý tộc Ý có thế lực. Tên ông ấy là Tito Castalotte, người góp vốn chính trong công ty lớn Castalotte & Zamba, chuyên nhập khẩu trái cây lớn nhất tại New Yord. Ông Zamba là người tàn tật nên ông Castalotte độc thân xem Gennaro như con. Ðáp lại, vợ chồng chúng tôi cũng thương ông ấy như cha đẻ. Chúng tôi thuê và sắm sửa ngôi nhà tại Brooklyn. Tương lai của chúng tôi có vẻ vững vàng bỗng có đám mây đen bay tới.
      tối nọ, Gennaro đưa về nhà người đồng hương, tên Gorgiano, cũng sinh quán tại Posilippo. tên khổng lồ, quý vị nhìn thấy. Trong cái thân xác khổng lồ đó là cả con người lố bịch, hãi hùng. Trong căn nhà bé của chúng tôi, tiếng của vang rền như sấm và có lẽ chỉ cần huơ tay cái là tất cả đều nát vụn. Khi bị nhìn, đối tượng mất hồn như bị thôi miên. con người khủng khiếp. Cũng may là, hôm nay chết. tới lui nhiều lần. Cứ mỗi lần tới mặt mày của Gennaro biến sắc. Người chồng đáng thương của tôi luôn tái mét và câm lặng ngồi nghe điên sảng về chính trị và xã hội. Gennaro gì, tuy nhiên tôi là bạn tri của ấy, tôi thấy có các dấu hiệu lạ thường. Lúc đầu tôi tưởng đó chỉ là căm giận. Nhưng dần dà tôi hiểu rằng nó là cái gì nặng nề hơn. Ðó là sợ hãi: sợ hãi sâu xa, kín đáo, rối loạn thần kinh.
      đêm tôi ôm cổ và khẩn khoản nài nỉ giải thích cho tôi biết việc. Chồng tôi thổ lộ rằng trong lúc chao đảo trước các bất công của xã hội, gia nhập vào băng nhóm Vòng Tròn Ðỏ ở Naples, trực thuộc tổ chức Carbohari. Các lời thề và những bí mật của cái băng này khủng khiếp. Mắc vào đó rồi có cách nào thoát ra được. Khi chúng tôi qua Hoa Kỳ, những tưởng vĩnh viễn trốn khỏi gọng kìm. Nhưng hôm, chồng tôi gặp lại chính con người kết nạp tại Naples, thằng khổng lồ Gorgiano, giết người như ngóe với biệt danh “tử thần” ở miền Nam Ý. Gorgiano chạy đến New Yord để trốn cảnh sát. Nhưng tại đây, lại thành lập chi nhánh của cái tổ chức quái đản đó. Gennaro thổ lộ hết với tôi và cho tôi xem tờ giấy. đầu tờ giấy có vẽ vòng tròn đỏ. Ðó là giấy mời dự họp băng vào ngày giờ nào đó.
      Tôi có để ý mấy lúc gần đây cứ mỗi lần tới nhà, tên khổng lồ thường bắt chuyện với tôi và khi chuyện với chồng tôi, đôi mắt khủng khiếp của như cú vọ nhìn tôi đăm đăm. đêm nọ, tâm với tôi rằng tôi. Tôi ở nhà mình, Gennaro chưa về, đến gần tôi, siết tôi bằng sức gấu, hôn tứ tung và nài nỉ tôi ra với . Tôi vẫy vùng chồng tôi về. nhảy bổ tới, nhưng gã súc sinh quật ấy ngã quỵ rồi tháo chạy. Ðương nhiên, bao giờ tới nhà chúng tôi nữa. Nhưng từ đó, chúng tôi kẻ thù đội trời chung. Vài ngày sau tổ đảng họp, chồng tôi về nhà với vẻ mặt cực kỳ buồn bã. Quỹ của băng đảng bắt nguồn từ những cuộc tống tiền những người Ý giàu có. Chống lại là chết!
      Castalotte, bạn thân và ân nhân của chúng tôi nhận được giấy mời. Ông ta nao núng mà còn báo cảnh sát nữa. Tổ đảng quyết định trừng phạt. Ông ấy bị mưu sát và nhà cửa bị đặt chất nổ. cuộc rút thăm chỉ định người thi hành án. Tên khổng lồ mỉm cười khi thấy chồng tôi thọc tay vào túi thăm. Gennaro rút ra cái lệnh giết người có đóng triện vòng tròn đỏ. Thế là chồng tôi hoặc phải giết người bạn tốt nhất hoặc phải chịu hình phạt của băng đảng. Suốt đêm đó, chúng tôi ôm lấy nhau, an ủi nhau trước những thách đố hãi hùng chờ đợi. Giờ ra tay được ấn định vào hôm sau. Nhưng tới giữa trưa, vợ chồng tôi xuống tàu London. Tất nhiên chúng tôi báo tin cho vị ân nhân và cho cảnh sát để họ bảo vệ sinh mạng cho ông ấy.
      Phần còn lại, thưa quý vị, quý vị . Chúng tôi biết chắc rằng kẻ thù bám sát chúng tôi. Tên cướp này quyết báo thù, nhưng chúng tôi biết các trò xảo quyệt của . Chồng tôi khẩn trương thu xếp chỗ trốn an toàn cho tôi. Phần ấy, muốn liên lạc với cảnh sát Ý và Hoa Kỳ. Chính tôi cũng biết ấy ở đâu, và làm gì. Tất cả những gì tôi hay biết điều qua mục nhắn tin báo. Nhưng có lần nhìn qua cửa sổ, tôi thấy có hai người Ý rình rập nên tôi biết rằng tên gian ác tìm ra nơi lẩn trốn của chồng tôi. Cuối cùng chồng tôi nhắn tin cho tôi rằng ấy gửi tín hiệu cho tôi từ cửa sổ. Nhưng khi tín hiệu được phát ra, tôi chỉ thấy toàn là những lời cảnh giác rồi đột ngột bị gián đoạn. Vậy là ấy biết mình bị thằng khốn nạn bám sát. thời, thưa quý vị, vợ chồng tôi còn gì phải sợ. Về phía luật pháp, tòa án có kết tội chồng tôi hay ?- Này, ông Gregson - Viên thám tử Hoa Kỳ hỏi. - Tôi biết quan điểm của người , chứ ở New York tôi chắc chắn chồng bà này được mọi người khen ngợi.
      - Bà ấy phải theo tôi và gặp ông giám đốc sở. - Gregson trả lời. - Nếu cảnh sát được xác nhận về bản tường trình của bà ấy, tôi tin rằng hai vợ chồng bà đều có gì để sợ cả. Nhưng có điều tôi thể hiểu nổi, Holmes à, ma quỷ nào đưa vào vụ này vậy.
      - Vì muốn học hỏi, ông Gregson! Chúng ta khát khao học hỏi mà! Này Watson, lại có thêm mẩu chuyện bi thương và kỳ dị để làm phong phú thêm bộ sưu tập. Nhân tiện, chưa tới 8 giờ và người ta tấu nhạc tại công viên Covent, đề nghị chúng ta đến đó ngay.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      3. Hai lỗ tai trong hộp carton

      Hôm đó, ngày của tháng 8, trời nóng khủng khiếp. Phố Baker giống như lò lửa. phản chiếu của ánh nắng bức tường gạch vàng của ngôi nhà trước mặt làm nhức mắt. Các bức mành đều kéo lên phân nửa. Holmes nằm cuộn tròn trường kỷ, đọc , đọc lại bức thư mới vừa nhận hồi sáng. Vì Holmes có vẻ quá suy tư, tôi bỏ tờ báo xuống và dựa lưng vào ghế, nhìn . Im lặng và nóng bức! Bất thình lình, Holmes lên tiếng, cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi:
      - Đúng đấy, Watson! - - Đó quả điều phi lý.
      - Rất phi lý! – Tôi tán đồng.
      Bất chợt tôi nhận ra là Holmes hiểu được điều tôi suy nghĩ. Tôi nhỏm dậy và ngạc nhiên nhìn .
      - Điều này có nghĩa là gì hả Holmes? Nó vượt ra ngoài những gì tôi có thể tưởng tượng!
      Holmes cười thân mật với cái vẻ lúng túng của tôi.
      - còn nhớ , lúc trước, khi tôi có về lối suy diễn trong tác phẩm của Poe, mà trong đó nhân vật có thể suy diễn được cách suy nghĩ của bạn ta. Khi đó, cho rằng đó chỉ là tưởng tượng của tác giả. Theo nhận xét của tôi, dựa thói quen của , tôi biết hoài nghi.
      - Ồ, đâu!
      - Có thể theo là như vậy, Watson thân mến, nhưng đôi lông mày của lại biểu thị ngược lại. Như khi bỏ tờ báo xuống và bắt đầu suy tư, tôi bắt đầu quan sát và theo , căn cứ những thói quen của mà tôi biết.
      Nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn về câu trả lời này.
      - Như trong câu chuyện mà kể với tôi, người đó suy diễn từ những hoạt động của người mà ta quan sát. Nếu tôi nhớ lầm hình như người đó vấp cục đá, ngước nhìn sao trời v.v… Nhưng còn tôi ngồi yên ghế? Vậy thấy được những gì?
      - để ý đấy thôi! Những đặc tính đó thường gắn liền với mỗi người và biểu thị chính xác cảm xúc của người ấy.
      - Tức là đọc được luồng suy nghĩ của tôi dựa những đặc tính của tôi?
      - Đôi mắt của tất cả! Nó thể ra tất cả những điều suy nghĩ của .
      - Tôi đâu có!
      - Tôi kể cho nghe nhé! Sau khi đặt tờ báo xuống, nhìn tôi trong khoảng nửa phút mà suy nghĩ điều gì. Nhưng sau đó, đôi mắt nhìn thấy bức ảnh của tướng Gordon và tôi thấy là bắt đầu luồng suy nghĩ. Nhưng ý nghĩ đó chỉ thoáng chút. Mắt lại hướng nhìn vào bức ảnh của Henry Ward Beecher đầu quyển sách của . Rồi nhìn lên tường, và ý nghĩ bắt đầy nảy sinh. nghĩ rằng cái bức ảnh đó nên đặt ở đối diện, tương xứng với bức của Gordon.
      - chính xác đến mức tôi ngạc nhiên đấy! - Tôi kêu lên.
      - Đến khi đó tôi khó có thể lạc đường. Nhưng khi bắt đầu nghĩ về Beecher, về những tính cách của ông ta. Đôi mắt giãn ra, nhưng lại nhìn bức ảnh và mặt lộ vẻ suy nghĩ, ắt hẳn nghĩ đến những kiện quan trọng trong nghiệp của Beecher. Tôi biết chắc, vì khó có thể làm điều này mà nghĩ về kiện mà ông ta làm ở miền Bắc trong thời kỳ nội chiến, mà nếu tôi nhớ lầm từng biểu thị căm phẫn của đối với kiện này. rất khỏe mạnh, vì vậy tôi biết rằng thể nghĩ về Beecher liên tưởng đến điều đó. Sau lúc, tôi lại thấy mắt hướng về bức ảnh nữa và tôi nghi ngờ rằng suy nghĩ về cuộc nội chiến. Tôi thấy môi mím lại, mắt nhấp nháy và bàn tay siết lại với nhau. Tôi cho rằng nghĩ về can đảm trong hoàn cảnh giống nhau mà hai người phải chiến đấu. Nhưng rồi mặt lại ngơ ngẩn, đầu khẽ lắc lư; buồn bã và kinh hãi về chán ngán của cuộc sống. Tay sờ vào vết thương cũ và chợt mỉm cười cho tôi thấy ổn định của tình hình quốc tế chiếm lĩnh suy nghĩ của . Đến đây tôi đồng ý với về phi lý của chiến tranh. Và tôi mừng vì những suy diễn của tôi là đúng.
      - Tất nhiên rồi! Và bây giờ hãy giải thích ! Thú là lúc đó tôi rất kinh ngạc…
      - Nó chỉ là bề nổi thôi, Watson ạ. Trong tay tôi còn có vấn đề mà có thể tỏ ra khó hơn là những suy nghĩ tôi đọc được ở . có nghe tin về gói bưu kiện gởi cho bà Susan Cushing ở phố Cross, Croydon ?
      - Tôi chưa biết gì về chuyện đó.
      Holmes đưa tôi tờ Daily Chronicle. Tôi cầm lấy và đọc:
      gói hàng ma quái!
      “Bà Susan Cushing, ngụ tại phố Cross, Croydon, là nạn nhân của trò đùa thô lỗ. Hồi 2 giờ chiều hôm qua, bưu tá phát cho bà bưu kiện , được gói bằng giấy nâu. Bên trong là cái hộp bìa cứng chứa đầy muối hột. Khi đổ muối ra, bà kinh hoàng thấy có hai lỗ tai người còn khá mới.
      Cái hộp này gởi từ Belfast vào buổi sáng. Người gởi ghi tên. Bà Cushing năm nay 50 tuổi, sống độc thân và dật, gần như bao giờ có thư tín. Tuy nhiên, cách đây vài năm, hồi còn ngụ tại Penge, bà có cho ba sinh viên y khoa ở trọ, nhưng sau đó phải lấy phòng lại vì họ làm ồn ào và về bất thường. Cảnh sát đoán rằng trò đùa này là của trong ba sinh viên đó. Các sinh viên này có nguyên quán tại Belfast. nay ông Lestrade mở cuộc điều tra”.
      - Tạm gác tờ báo qua bên. - Holmes , sau khi tôi đọc xong mẩu tin - Chúng ta hãy chuyện về ông bạn Lestrade. Sáng nay tôi mới nhận được thư ông ấy, ông ấy viết: “Ông Holmes, tôi nghĩ rằng vụ này hợp với sở thích của ông. Cảnh sát chúng tôi cũng tin là làm sáng tỏ được vấn đề bí hiểm. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cảm thấy có vài khó khăn khi tìm đầu mối để khởi động. Chúng tôi điện cho bưu điện Belfast, nhưng hôm đó có quá nhiều bưu kiện và ai nhớ riêng cái bưu kiện này, giả thiết cho rằng tác giả là sinh viên y khoa là đáng tin nhất. Nếu ông có dư thời gian để hoang phí, tôi rất hân hạnh được gặp ông. Tôi có mặt tại nhà bà Cushing hoặc tại sở suốt ngày”. Nghĩ sao đây, Watson? cảm thấy đủ sức chịu nắng và cùng tôi xuống Croydon ?
      - Tôi chỉ đợi có bấy nhiêu?.
      - Hãy gọi xe ngựa và bỏ thêm xì-gà vào hộp.
      Lestrade đón chúng tôi tại ga. Ði bộ năm phút, chúng tôi đến phố Cross. Con đường rất dài, hai bên có nhà gạch hai tầng xinh xắn và sạch , bậc thang nào cũng trắng tinh. Ở các ngưỡng cửa những mụ lắm mồm mặc tạp-dề ngồi xấu thiên hạ. Ði thêm đoạn, Lestrade dừng lại và gõ cửa. trẻ ra mở cửa cho chúng tôi. Bà Cushing ngồi trong phòng. Bà có khuôn mặt điềm tĩnh, đôi mắt to, dịu hiền, tóc lốm đốm bạc, cuộn thành lọn đầu. lưới bao tóc đan dang dở để đầu gối, bên cạnh chiếc ghế đẩu là cái giỏ đầy ắp lụa đủ màu.
      - Ðồ quái quỉ đó ở ngoài kia chứ. - Bà với Lestrade, khi chúng tôi bước vào - Tôi ước mong quý ông mang chúng càng sớm càng tốt.
      - Chắc chắn như vậy, thưa bà. Tôi còn chờ ông bạn Holmes đến quan sát trước diện của bà.
      - Tại sao cần phải có mặt tôi?
      - Phòng khi ông ấy hỏi này nọ.
      - Còn hỏi gì nữa? Tôi lại nhiều lần rằng tôi chẳng biết tí gì.
      - Ðương nhiên, thưa bà. - Holmes lấy giọng xoa dịu, can thiệp - Tôi hiểu rất rằng bà vô cùng bực bội.
      - Ông sai, thưa ông. Tôi là phụ nữ thích sống dật. Quả là cái gì hoàn toàn mới mẻ với tôi khi bị nêu tên báo đấy, ông Lestrade. Nếu quý ông muốn xem xin mời ra ngoài đó.
      Lestrade chui vào chái sau vườn, lấy ra cái hộp bằng bìa vàng, miếng giấy màu nâu và đoạn dây. Chúng tôi ngồi xuống ghế dài ở cuối lối . Holmes ngắm nghía từng vật .
      - Đoạn dây rất đáng lưu ý! - Holmes nhận xét và đưa ra chỗ sáng rồi đưa lên mũi ngửi - Ông nghĩ gì về đoạn dây này, ông Lestrade?
      - Nó bị thấm dầu hắc.
      - Ðúng như vậy. đoạn dây thấm dầu hắc? Có lẽ để ý rằng bà Cushing cắt nó bằng kéo, nó bị tưa ở hai đầu. Ðiều này quan trọng.
      - Tôi thấy được quan trọng này. - Lestrade lắc đầu.
      - Cái thắt nút còn nguyên và khá đặc biệt.
      - Nút thắt rất khéo tay, tôi chú ý điểm này - Lestrade đáp cách tự mãn.
      - Về đoạn dây đủ rồi, - Holmes - Chúng ta hãy nhìn qua tờ giấy gói. Giấy nâu bốc mùi cà phê, ngửi thấy sao? Tôi tin rằng điều này ai tranh cãi. Ðịa chỉ được ghi hơi nguệch ngoạc: “Bà S. Cushing, phố Cross, Croydon” bằng ngòi viết to. Chữ y trong danh từ Croydon, lúc đầu được viết chữ “i”, sau đó được sửa thành “y”. Tuồng chữ của người đàn ông học vấn hạn chế, vì chưa quen thuộc lắm với thành phố Croydon. Tốt rồi! Cái hộp màu vàng dùng để đựng nửa cân thuốc lá, có gì đặc biệt trừ hai vệt do móng tay cào ở góc trái. Hộp đựng muối hột, loại thường dùng để muối da sống và da thuộc thỏ. Giữa hộp muối là hai vật dị kỳ của hồ sơ chúng ta.
      Vừa , vừa lấy hai lỗ tai, đặt chúng miếng ván để đầu gối, rồi tỉ mỉ khám nghiệm. Lestrade và tôi đứng hai bên, lần lượt nhìn khuôn mặt căng thẳng của Holmes. Sau cùng, bỏ chúng vào muối trở lại và ngồi lặng thinh lúc.
      - Hai lỗ tai này phải của cùng người! - Holmes .
      - Vâng, tôi có thấy. Tuy nhiên, nếu là trò đùa của sinh viên thực tập trong phòng mổ tai người hay hai người đâu có gì quan trọng.
      - Quả vậy! Nhưng đây phải là trò đùa.
      - Chắc chắn ?
      - Chắc chứ! Tại nhà thương, sinh viên thực tập các xác chết. Hai lỗ tai này còn tươi. Chúng bị cắt bằng vật cùn, trong khi các sinh viên luôn luôn sử dụng con dao mổ rất bén. Ngoài ra, người có chút ít kiến thức y khoa nghĩ tới chất formol hoặc cồn để ngâm, ai dùng muối thô. Tôi nhấn mạnh rằng đây phải là trò đùa mà là vụ án hình nghiêm trọng.
      Tôi hơi lạnh xương sống khi nghe mấy từ này và nhất là khi nhìn các đường nét rắn rỏi khuôn mặt Holmes. Lestrade lắc đầu:
      - giả thiết về trò đùa có nhiều khe hở. Tuy nhiên, giả thiết của ông cũng có những khe hở to tướng. Cảnh sát chúng tôi biết rằng từ 20 năm qua, người phụ nữ này sống cuộc đời rất kín đáo, đáng kính, tại Penge cũng như tại đây. bao giờ bà ta vắng mặt lâu hơn ngày. Thế tại sao kẻ sát nhân lại gởi cho bà ta các bằng chứng tội ác của ?
      - Ðó là bài toán mà ta phải giải đáp. - Holmes trả lời - Phần tôi, tôi cho rằng lý luận của tôi đúng và phải có nhũng án mạng xảy ra. , mảnh mai, có lỗ đeo bông phải là lỗ tai của đàn bà. Cái kia là lỗ tai đàn ông, sạm nắng, phai màu nhưng vẫn có lỗ để đeo khoen. Hai người này có lẽ chết, nếu , chúng ta nghe về họ. Hôm nay là thứ sáu. Cái bưu kiện được gởi vào sáng thứ năm. Như vậy thảm kịch xảy ra vào thứ tư hoặc thứ ba hoặc sớm hơn. Nếu hai người này bị ám sát chính hung thủ gởi đến cho bà Cushing như là bằng chứng về tội ác đó. Thế người gởi bưu kiện là đối tượng của chúng ta. Nhưng sao lại gởi cho bà Cushing? Lý do gì? Có thể để cho bà ta hay rằng tội ác hoàn tất, hoặc có thể để dày vò bà ấy. Trong trường hợp thứ nhì, bà ta biết hung thủ là ai. Bà ta có biết hay ? Tôi tin là bà ấy biết. Nếu bà ta biết là ai, tại sao bà lại báo cho cảnh sát? Nếu bà đem chôn hai lỗ tai, chỉ có Chúa mới biết. Nhưng nếu bà ta ấy muốn che giấu, tiết lộ danh tánh của rồi. múi chỉ rối?
      Holmes vừa vừa nhìn vu vơ. Thình lình nhảy dựng lên .
      - Tôi cần hỏi bà Cushing đôi điều.
      - Vậy tôi xin kiếu từ. Tôi còn phải theo dõi vụ khác. Theo tôi, ta chả moi móc thêm được gì nơi bà Cushing. Các nên tìm tôi lại sở. - Lestrade .
      - đường ra ga, chúng tôi ghé. - Holmes đáp.
      lát sau, chúng tôi trở lại căn phòng của già, bà để cái lưới bao tóc đan dang dở xuống đầu gối, nhìn chúng tôi bằng đôi mắt xanh, sắc sảo nhưng khá thành .
      - Thưa ông, tôi tin chắc rằng – Bà với chúng tôi - Ðó là lầm lẫn. Tôi lại với chàng Scotland Yard, nhưng ta chỉ cười. Tôi kẻ thù nào đời này. Tại sao tôi bị giễu cợt như thế này?
      - Tôi đồng ý hoàn toàn với bà. - Holmes lấy ghế ngồi bên cạnh và - Tôi tin chắc chắn rằng...
      Bỗng dừng lại. Tôi thấy nhìn chòng chọc cái hình nghiêng của bà Cushing nhưng khi bà ngạc nhiên quay lại thản nhiên trở lại. Lúc đó, tôi bắt đầu chú ý bộ tóc xẹp xuống và hoa râm của nữ chủ nhân, cái mũi , đôi bông tai của bà, cái diện mạo bình thản của bà và thấy có gì có thể làm cho Holmes xúc động cả.
      - Có vài điều thưa ông, tôi phát ngấy các câu hỏi. - Bà Cushing bực dọc la lớn.
      - Bà có hai em ?
      - Làm sao ông biết?
      - Khi vào phòng này, tôi để ý tấm hình ba người phụ nữ treo lò sưởi: người là bà, còn hai người kia giống bà lắm.
      - Ông đúng! Ðấy là hai em Sarah và Mary của tôi.
      - Còn đây đúng là tấm hình khác của em út của bà đứng cùng với người đàn ông chụp tại Liverpool. Dựa y phục đó là nam tiếp viên hàng hải. Vào lúc đó, có lẽ họ chưa làm đám cưới.
      - Ồ, ông có thiên khiếu quan sát khá cao?
      - Nghề nghiệp của tôi!
      - Ừ, ông đúng. Nhưng vài ngày sau, chúng lấy nhau. Khi ấy Jim Browner phục vụ tuyến Nam Mỹ khi chụp hình. Nhưng mê vợ đến nỗi thể xa vợ lâu ngày, nên chuyển qua phục vụ chiếc tàu Liverpool - London.
      - À, chiếc Conqueror?
      - , chiếc May Day. Jim có đến thăm tôi lần tại đây trước khi nhậu nhẹt trở lại. Sau đó, say bí tỉ mỗi khi lên bờ. Hễ có tí rượu vào là quậy như thằng điên. Buồn thay cho cái ngày bắt đầu nhậu trở lại. Trước hết coi thường tôi rồi gây gổ với Sarah và giờ đây, vì Mary liên lạc thư tín với tôi nữa nên tôi chả biết chúng nó sống ra sao.
      ràng là bà Cushing được dịp tuôn hết nhưng ấm ức trong lòng ra. Như các người sống dật, bà ta tỏ ra rụt rè lúc đầu, nhưng sau đó tỏ ra cực kỳ thèm khát bày tỏ tâm . Bà cung cấp cho chúng tôi nhiều chi tiết về người em rể, rồi đến mấy sinh viên y khoa mướn nhà. Bà kể cho chúng tôi nghe các tật xấu của họ, tên tuổi của họ và nơi họ làm việc. Holmes chú ý nghe tất cả, thỉnh thoảng chận lại để đặt câu hỏi.
      - Về em thứ của bà là Sarah, tại sao hai bà đều độc thân mà lại sống chung với nhau?
      - Ôi, ràng là ông biết tính của Sarah. Khi mới dọn về Croydon, chúng tôi ở chung với nhau. Nhưng cách đây hai tháng, chúng tôi phải chia tay. Tôi muốn xấu em tôi, nhưng nó cực kỳ khó tính, lại hay xen vào chuyện của mọi người.
      - Bà rằng hai em cãi lộn với nhau ở Liverpool?
      - Ðúng thế. Tuy nhiên, có lúc hai đứa nó thân thiết nhất đời này. Nó tự động lên đó sống chung với vợ chồng Mary. Nay Sarah luôn luôn chống đối Jim Browner. Khi xuống đây, Sarah vẫn mãi về tật say sưa, tính tình thô bạo của im. Tôi nghĩ rằng Jim chịu nổi việc Sarah xen vào gia đình của mình.
      - Cám ơn bà. - Holmes , rồi đứng dậy cúi chào – Bà vừa rằng bà Sarah ngụ tại phố New ở Wallington. Thôi xin tạm biệt, và thành chia buồn với bà.
      Khi chúng tôi vừa ra, xe ngựa chạy ngang. Holmes chặn nó lại:
      - Wallington có xa đây ?
      - Khoảng hơn dặm, thưa ông.
      - Tốt lắm, lên xe , Watson, chúng ta phải đập sắt khi nó còn nóng. Tuy nội vụ đơn giản, nhưng vẫn còn cần vài chi tiết. Này xà ích, khi chạy tới bưu điện dừng lại nhé?
      Holmes gởi bức điện ngắn. Xe lại lên đường, dựa lưng vào thành xe, mũ kéo sụp để tránh nắng. Xe ngừng trước ngôi nhà khá giống căn nhà của bà Susan Cushing. Holmes bảo xe chờ. Khi gõ cửa người đàn ông dáng điệu trầm ngâm, trang phục đen, đội mũ láng bóng, bước ra.
      - Bà Cushing ngụ tại đây? - Holmes hỏi.
      - Bà Sarah Cushing đau rất nặng. Từ hôm qua, bà bị kích động trầm trọng. Với tư cách y sĩ, tôi thể cho phép ông vào thăm. cầu ông ghé lại 10 ngày sau.
      Ông ta đóng cửa lại, và xuống đường.
      - Có sao đâu, . - Holmes cách hồ hởi.
      - Có gặp được, ấy cũng muốn chuyện nhiều với .
      - Tôi cũng chả cần ấy nhiều. Tôi chỉ muốn nhìn ấy thôi - quay qua người lái xe - hãy đưa chúng tôi tôi đến quán ăn đàng hoàng chút. Watson, cơm trưa xong, chúng ta tìm ông bạn Lestrade.
      Cả hai chúng tôi đều ăn cơm khá ngon. Holmes chỉ về nhạc. hào hứng kể lại cái cách nào mà mua cây đàn Stradivarius với 55 shilling trong lúc trị giá tối thiểu là 500 guineas tại tiệm cầm đồ Do Thái. Cao hứng, tới nhạc sĩ vĩ cầm người Ý là Paganini. Trong suốt giờ, mê say kể các giai thoại về con người phi thường này. Xế chiều, khi nắng hơi dịu, chúng tôi đến sở cảnh sát. Lestrade đợi chúng tôi tại cửa.
      - Có bức điện cho ông, ông Holmes à.
      - À, có hồi rồi?
      mở bức điện, liếc qua, rồi nhét vào túi.
      - Mọi chuyện đều êm xuôi - .
      - Ông tìm ra được cái gì? - Lestrade hỏi.
      - Tôi tìm ra tất cả.
      - Cái gì? Ông đùa à? - Lestrade trố mắt nhìn Holmes.
      - Tôi rất nghiêm túc. tội ác đê tiện xảy ra và tôi tin rằng tôi nắm được mọi chi tiết.
      - Còn hung thủ?
      Holmes hí hoáy vài chữ sau lưng danh thiếp của rồi đưa cho Lestrade.
      - Ðó là danh tích của nó. thể bắt nó trước chiều mai. cầu đừng nêu tên tôi trong vụ này vì vấn đề này tầm thường thôi?
      Hai chúng tôi ra ga trong lúc Lestrade hân hoan ngắm nghía tấm danh thiếp.
      Trong lúc chúng tôi vừa tán gẫu vừa hút xì-gà, Holmes với tôi rằng vụ án này cần phải ngược từ hậu quả tới nguyên nhân.
      - Tôi viết thư cầu Lestrade cung cấp các chi tiết mà chúng ta còn thiếu. Ông ấy kiếm ra sau khi bắt được hung thủ. Chắc chắn bắt được bởi vì ông ta rất kiên trì khi hiểu mệnh lệnh, chính bản tính này giúp ông ta thăng tiến trong Scotland Yard.
      - Hồ sơ của chưa xong à?
      - Gần xong. Chúng ta biết ai là người chủ động trong cái vụ thô bạo này. Nhưng ta chưa biết được danh tánh của nạn nhân.
      - Tất nhiên, rút ra kết luận của riêng rồi chứ? Tôi đoán rằng nghi chàng Jim Browner.
      - Nặng hơn là nghi!
      - Tuy nhiên tôi chỉ thấy lờ mờ thôi!
      - Ngược lại là khác, quá sáng tỏ. Chúng ta tiếp cận vấn đề. Lúc khởi , chúng ta thấy gì? già bình dị, đáng kính và cái ảnh tiết lộ cho tôi biết rằng ấy có hai em trẻ hơn. Ngay tức khắc, tôi nghĩ rằng bưu kiện được gởi cho trong hai người đó, chớ phải gởi cho người chị cả. Tôi để cái ý tưởng này qua bên, tự nhủ rằng phải kiểm nghiệm và phản bác nó. Rồi chúng ta khám nghiệm cái hộp màu vàng.
      Dây buộc thuộc loại dùng cột buồm, nhuốm mùi thơm của gió biển. Khi tôi để ý rằng nút được thắt theo lối của thủy thủ, bưu kiện được gửi từ hải cảng và lỗ tai người đàn ông có lỗ và đeo vòng theo thói quen của giới thủy thủ, tôi tin chắc chắn rằng các diễn viên của tấn kịch thuộc giới biển.
      Khi tôi xem địa chỉ của bưu điện, tôi thấy người nhận là S. Cushing. Ðương nhiên cả hai người cùng có họ là Cushing và chữ đầu của tên hai chị em đều là chữa S hoa. Vậy chữ S hoa này có thể là Susan Cushing mà cũng có thể là Sarah Cushing. Trong trường hợp này phải tiếp tục điều tra thêm. Khi tôi sắp khẳng định với già rằng chắc chắn có nhầm lẫn, tôi đột ngột ngưng lại, còn nhớ chứ. Là bác sĩ, hẳn thừa biết rằng: có lỗ tai nào giống hệt lỗ tai nào. hề có hai lỗ tai giống hệt nhau. Trong số báo “Nhân loại học” năm ngoái, tôi có viết hai chuyên luận ngắn về đề tài này. Khi nhìn bà Cushing, và thấy tai bà ta khá giống với cái tai trong hộp: đường đinh ốc cùng độ mỏng, tai cùng độ cong, cái sụn bên trong cùng độ ngoằn ngoèo. căn bản, hai lỗ tai rất giống nhau. Tất nhiên, tôi nhận tức khắc tầm quan trọng lớn lao của nhận xét này. ràng nạn nhân là người cùng họ với bà Cushing. Tôi hỏi bà Cushing về gia đình của bà được nghe các chi tiết mà vẫn còn nhớ đó.
      Trước tiên, em kế của bà tên là Sarah. Hai người sống chung với nhau cho tới những ngày gần đây! Ðó chính là nhầm lẫn về địa chỉ bưu kiện. Tiếp đến, chúng ta được nghe về James Browner , lấy út, chúng ta được biết rằng có dạo bà Sarah dọn nhà đến sống chung với gia đình Browner. Cách đây vài tháng, họ cắt đứt mọi liên lạc đến nỗi khi cần liên hệ với bà Sarah, Browner phải gởi đến địa chỉ cũ.
      Ðến đây chúng ta thấy vì sao chàng Browner dám từ bỏ mọi việc làm lương hậu để được sống gần vợ, lại thỉnh thoảng say túy lúy. Chúng ta có đủ lý do để tin rằng vợ ông ta bị giết cùng với người đàn ông. Ghen tuông có thể là động cơ chính của vụ giết người. Nhưng tại sao kẻ giết người lại gởi bằng chứng tội ác đến cho Sarah Cushing? Có lẽ vì khi sống tại Liverpool, bà ta xen vào các biến cố. nên để ý tuyến hải hành có dừng lại tại Belfast, Dublin và Waterford. Nếu Browner phạm tội ngay trước khi lên tàu May Day, Belfast là điểm đầu tiên mà có thể gởi các bưu kiện quỷ quái.
      Tới giai đoạn này, ràng chúng ta phải đưa ra giả thiết thứ hai, dù tôi nghĩ rằng nó vững lắm. kẻ si tình bị xua đuổi có thể giết ông bà Browner và lỗ tai đàn ông là của người chồng và lỗ tai đàn bà là của người vợ. Do đó, tôi đánh bức điện cho bạn thân tôi là Algar, thuộc sở cảnh sát Liverpool, cầu ông ấy kiểm lại xem bà Browner có ở nhà , và ông Browner có lên tàu May Day . Kế đó chúng tôi Wallington để viếng thăm bà Sarah. Tôi hăm hở muốn biết xem bà này có cái lỗ tai giống chị mình . Ngoài ra, bà ấy có thể cung cấp cho chúng ta vài tin tức quan trọng.
      May mắn thay, hồi bưu điện cho biết ba ngày nay, nhà bà Browner đóng cửa và những người láng giềng cho biết bà xuống miền Nam thăm hai người chị, trong khi đó sở hàng hải xác nhận rằng ông Browner xuống tàu May Day và chiều mai tàu này đến sông Thames. Khi đến nơi, bị Lestrade thộp cổ. Khi đó chúng ta có đủ mọi chi tiết cần thiết.
      Hai ngày sau, Holmes nhận được phong bì lớn đựng bức thư của viên thám tử và tài liệu đánh máy gồm nhiều trang.
      - Lestrade chộp rồi! - Holmes - Có lẽ cần biết thư gì? Tôi đọc cho nghe.
      “Ông Holmes thân mến.
      Thi hành kế hoạch mà chúng ta đề ra để kiểm chứng các giả thiết của chúng ta...(hai chữ “chúng ta” nghe ấm áp làm sao, phải Watson?), tôi đến bến Albert chiều qua lúc 6 giờ và leo lên tàu May Day. Sau khi dò hỏi, tôi phát rằng trong thủy thủ đoạn của nam tiếp viên tên là James Browner. Trong chuyến , người này xử bất bình thường. Tôi xuống phòng , và gặp ngồi cái rương, hai tay ôm đầu, thân hình ngã tới ngã lui. Ðó là người to cao, lực lưỡng, râu, da sạm nắng. nhảy dựng lên khi nghe tôi đọc lệnh bắt . Tôi đưa còi lên môi để cầu viện sụm xuống rồi lặng lẽ đưa tay cho tôi còng. Chúng tôi nhốt vào xà lim tại sở, và có tịch thu cái xắc của y, trong đó chỉ có con dao to, theo thói quen của thủy thủ. Lời khai của được ghi bằng tốc ký và được đánh máy thành ba bản. Chúng tôi gởi đến ông bản.
      Như tôi thấy ngay từ đầu, nội vụ đơn giản như trò chơi trẻ con, tuy nhiên đa tạ ông về giúp đỡ quý báu dành cho tôi.
      Trân trọng kính chào.
      G. Lestrade”
      - Hừ - Holmes - Nội vụ đơn giản như trò chơi trẻ con, nhưng chắc chắn ông ta thấy như vậy lúc đến nhờ vả ta. Cũng chả sao. Bây giờ ta hãy xem Jim Browner khai cái gì.
      “Tôi thú nhận rằng tôi sao nhắm mắt ngủ được nữa. Thỉnh thoảng tôi thấy cái đầu của , nhưng cái đầu của ta xuất thường hơn. Tôi bao giờ còn độc nữa, họ luôn ở bên cạnh tôi. ủ dột và nhăn nhó, còn ta luôn có cái nhìn kinh ngạc. Tôi muốn chạy tội đâu. Nhưng tất cả đều do lỗi của Sarah, chị ruột của nàng.
      Họ có ba chị em. Chị cả là người đàng hoàng, tử tế. Người thứ nhì là con quỷ sứ. em út là thiên thần. Sarah 33 tuổi. Mary 29 khi lấy tôi. Vợ chồng chúng tôi sống hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố Liverpool. ngày kia, vợ tôi mời Sarah đến ở tuần rồi tháng và cuối cùng ở luôn với vợ chồng chúng tôi. Lúc đó, tôi uống rượu. Chúng tôi sống tiết kiệm và tương lai của vợ chồng chúng tôi sáng như đồng dollar mới. Mỗi cuối tuần tôi đều ở nhà. Khi nào tôi ra khơi trễ vì chờ chất hàng tôi nằm nhà cả tuần và tôi có dịp sống gần với chị vợ hơn. Ðó là người đàn bà đẹp, cao lớn, tóc nâu, linh hoạt, hung ác, với đôi mắt sáng quắc như lửa. Nhưng khi có Mary bên tôi chỉ còn biết có mình nàng. Tôi long trọng thề như thế. Ðôi khi tôi có để ý và thấy rằng Sarah muốn ở mình với tôi, hoặc muốn tôi đưa chơi. đêm nọ, tôi từ tàu trở về nhà và vợ tôi vắng, chỉ có Sarah ở nhà.
      - Mary đâu? - Tôi hỏi.
      - Ồ, ấy trả tiền gì cho ai đó.
      Tôi bồn chồn, đứng ngồi yên.
      - Dượng thể cảm thấy hạnh phúc trong năm phút khi Mary vắng sao?
      - Tốt lắm!
      Tôi cả nể, đưa tay ra cho chị ta. Tức chị ta ôm chặt lấy nó trong hai bàn tay bừng bừng sinh khí. Tôi nhìn chị ta chòng chọc và chúng tôi hiểu hết, khỏi cần thành lời. Chị ấy đứng sát tôi, gì, rồi để tay vai tôi.
      - Có sao đâu Jim! - Chị ta với nụ cười giễu cợt, rồi tung tăng khắp phòng.
      Khốn nạn là kể từ ngày đó. Sarah ghét cay ghét đắng tôi. Tôi thề là ngoa. Tôi ngu xuẩn để chị ấy tiếp tục sống chung với chúng tôi. Ðúng thế, tôi quả là thằng ngu! Tuy nhiên tôi gì với Mary. Sinh hoạt của chúng tôi vẫn diễn tiến như cũ. Nhưng sau thời gian, tôi nhận thấy Mary thay đổi, trước kia nàng rất ngây thơ, hoàn toàn tin tưởng vào tôi. Giờ đây nàng trở nên kỳ dị, đa nghi. Nàng muốn biết tôi đâu, làm gì, nhận thư của ai, có gì trong túi và nàng giở nghìn linh trò xuẩn động khác. Càng ngày, nàng càng quái dị, khó chịu hơn. Vợ chồng cãi vã ồn ào chỉ vì chuyện vớ vẩn. Tôi chả hiểu gì cả. Bấy giờ, Sarah thường tránh mặt tôi, nhưng hai chị em nàng gắn bó như bóng với hình. Giờ đây tôi mới hiểu rằng lúc đó Sarah đầu độc vợ tôi, mưu phá gia đình tôi. Tôi buồn, bắt đầu nhậu trở lại.
      Thế là Mary có thêm cái cớ để trách móc tôi và cái hố cách biệt giữa hai vợ chồng càng ngày càng sâu thêm. Rồi xuất của thằng thủy thủ Alec Fairbairn làm cho việc trở nên trầm trọng hơn nữa. có tài kể chuyện. thường xuyên đến nhà chúng tôi. Tuy nhiên, ngày nọ, biến cố làm tôi nghi ngờ và kể từ đấy tôi mất an tâm.
      Hôm đó, tôi đột ngột trở về nhà. Khi đẩy cửa vào phòng khách, tôi thấy mặt vợ tôi đầy nét hân hoan. Nhưng khi biết người bước vào nhà là tôi, nàng sa sầm mặt lại, im lặng, quay cách thất vọng. Thế là quá , chỉ có Alec Fairbairn mới có bước giống tôi. Nếu gặp lúc đó, tôi giết ngay. Nhìn thấy ngọn lửa giận hờn trong cặp mắt của tôi, Mary chạy tới để tay lên vai tôi:
      - Ðừng, Jim, đừng.
      - Sarah đâu rồi? - Tôi hỏi.
      - Dưới bếp.
      - Sarah! - Tôi lớn bước vào bếp - Từ nay thằng Fairbairn được phép bước vào nhà tôi nữa.
      Con quỷ cái Sarah kinh ngạc nhìn tôi:
      - Tại sao?
      - được hỏi! Ðó là lệnh của tôi!
      - Ồ, nêu các bạn thân của tôi xứng đáng vào nhà này, cả tôi cũng xứng đáng.
      - Chị muốn làm gì tùy ý, nhưng nếu thằng đó mà vào đây lần nữa, tôi gởi cho chị cái lỗ tai kỷ niệm.
      Ngay đêm đó, Sarah rời nhà tôi. Nhưng chị ta dọn ra cách nhà tôi bao xa và cho giới thủy thủ mướn phòng. Fairbairn tới đó đều đặn và Mary qua lại đó với chị mình. Vợ tôi đến đó bao nhiêu lần, tôi biết. Có lần, tôi rình theo và khi tôi bước vào nhà Fairbairn, trèo tường thoát thân. Tôi với vợ tôi rằng tôi giết chết nàng nếu nàng tái phạm. Sau đó, tôi dẫn nàng về nhà. Mary khóc nức nở, mặt trắng như giấy. Từ đó Mary lại càng ghét tôi. tuyệt vọng khiến tôi càng uống rượu nhiều và nàng càng kinh miệt tôi. Ðúng vào lúc đó, Sarah quay về sống chung với chị cả tại Croydon. Thời gian êm ả trôi qua cho tới tuần rồi là lúc khởi đầu đổ nát.
      Tôi lên tàu May Day để tuần. Nhưng vì tàu trục trặc, tôi phải trở về cảng trong 12 giờ. Tôi về nhà hy vọng thấy Mary tươi cười. Nhưng khi tôi quẹo vào đường tối, tôi gặp chiếc xe ngựa chạy ra và vợ tôi ở trong đó, bên cạnh có Fairbairn. Cả hai người đùa to tiếng, chúng ngờ tôi quan sát chúng từ bên kia đường. Tôi thú rằng từ lúc đó, tôi mất hẳn tự chủ. Tôi chạy bộ đuổi theo chiếc xe ngựa, tay là khúc gỗ sồi. Nhưng trong khi chạy, tôi nghĩ ngợi và giảm tốc độ để quan sát đôi gian phu dâm phụ. Chúng dừng lại tại ga. Ở các ghi-sê người ta chen nhau. Tôi có thể chen vào gần mà chúng hay. Chúng mua vé New Brighton. Tôi cũng . Tôi leo lên toa thứ ba sau toa của chúng. Tại Brighton, chúng dạo bờ biển. Tôi theo sau chúng vài trăm yard. Cuối cùng tôi thấy chúng thuê chiếc tàu, có lẽ chúng hóng mát. Trời có sương mù . Cách nhau vài trăm yard cũng thấy nhau. Tôi cũng thuê chiếc xuồng và chính tôi chèo lấy. Theo làn nước, tôi thấy xuồng của chúng tách bến. Khi ra khỏi bờ khoảng hơn dặm, sương mù phủ kín, chỉ có ba chúng tôi giữa biển cả mênh mông.
      Tôi bao giờ quên khuôn mặt của chúng khi nhận ra người chèo xuồng sát bên. Mary thét lên. chàng chỉ chửi thề như thằng điên và toan dùng chèo đập tôi. Tôi né được và nện cho y chèo nát đầu. Tôi chừa ấy ra, dù ấy dâm loạn. Nhưng khi ả ôm lấy thằng dâm phu, kêu lên: “Alec!”, tôi điên người, nện cho ả chày. ả gục bên cạnh. Như con thú dữ say máu, tôi rút dao ra...
      Vậy đó, tôi khai báo khá đủ. Tôi cảm thấy niềm hân hoan man dại khi tôi nghĩ tới lúc Sarah nhận món quà phục thù thâm độc của tôi. Rồi tôi cột hai xác chết vào xuồng, gỡ miếng ván ở đáy thuyền chờ cho đôi gian phu dâm phụ chìm sâu xuống đáy biển. Tôi dự đoán rằng chủ xuồng cho là chúng lạc trong sương mù và phiêu dạt đâu đó ngoài đại dương. Tôi lau chùi, chèo vào bờ, trở về tàu. Ðêm đó tôi chuẩn bị cái bưu kiện gởi cho Sarah Cushing. Xong rồi! Tôi hết . Ông có thể treo cổ tôi ngay! Tôi đau khổ, vì cứ mỗi lần nhắm mắt là trông thấy hai khuôn mặt đó. Họ nhìn tôi với những cặp mắt hốt hoảng, như lúc họ chợt thấy tôi trong sương mù. Tôi giết họ nhanh chóng, nhưng họ lại giết tôi từ từ. Lại đêm nữa. Tôi chết hoặc phát điên trước khi trời sáng. Lạy các ông đừng để tôi mình trong xà lim.
      - Ý nghĩa của toàn câu truyện là gì vậy, Watson- Holmes để xấp tài liệu xuống bàn rồi trịnh trọng hỏi tôi.

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      4. Các Bản Vẽ Tàu Ngầm Bruce Partington



      Trong tuần lễ thứ ba của tháng 2 năm 1895, làn sương mù vàng dày đặc phủ lên London. Từ thứ hai cho tới thứ năm, đứng tại các cửa sổ của đường Baker thể nào thấy dãy nhà trước mặt. Holmes sử dụng ngày đầu tiên của tuần đó để tham khảo số tài liệu và hai ngày sau được dành cho đề tài: “ nhạc thời Trung cổ”. Nhưng vào ngày thứ tư, sau điểm tâm, thấy rằng liên tiếp mấy ngày qua, các cuộn sương mù nhớp nhúa xám xịt nặng nề lửng lơ đường phố, vẫn còn đọng lại thành từng giọt nhờn nhợt các cửa kính, cái tính dễ nổi nóng của bộc phát. bước sải trong phòng khách bé, cắn móng tay, vấp chân vào đồ gỗ, nguyền ̉a rảnh rỗi.

      - Báo chí có tin gì hả Watson?

      Tôi thừa biết rằng đối với Holmes, hai chữ “tin gì” có nghĩa là “tin về hình ”. Hôm đó có đăng tin về cuộc cách mạng, về cuộc chiến có thể bùng nổ, về các lời đồn đại rằng chính phủ đổ. Các tin tức loại này nằm ngoài phạm vi của Holmes. Ở mục tin vặt, mẩu tin nào đáng được lưu ý. Holmes than thở rồi tiếp tục sải bước qua lại.

      - Bọn tội phạm hình ở London là ngu. Watson, hãy nhìn qua cửa sổ mà xem. Đâu thấy mặt người ràng? Trong sương mù dày đặc này, thằng ăn cướp hay thằng giết người có thể ngang dọc tại thủ đô như cọp giữa rừng già nhiệt đới. Con mồi chỉ hay biết sau khi nằm trong nanh vuốt.

      - Có nhiều vụ trộm vặt. - Tôi .

      Holmes hít hít cách miệt thị:

      - Cái sân khấu vĩ đại với ánh sáng bệch bạc, thuận lợi cho những vở kịch hay hơn ngàn lần. Xã hội có diễm phúc khi tôi có tính cướp bóc.

      - Quả diễm phúc.

      - Thí dụ tôi là trong đám giang hồ tứ chiếng London chết với tôi. Chỉ cần tung ra giấy mời giả, hoặc câu hẹn láo là xong. May mắn sao các xứ Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... nơi mạng người được xem như cỏ rác, có nạn sương mù này, chắc ta thoát khỏi cái đơn điệu chết người này.

      Người làm bước vào với bức điện tín. Holmes mở ra và cười lớn:

      - Ngày của những phép lạ - Holmes - Mycroft đến.

      - Sao lại gọi là phép lạ?

      - Tại sao ư? Như thể bạn gặp xe lửa điện chạy đường mòn ở đồng quê. Mycroft có đường ray riêng mà ấy bao giờ rời chúng. Cái căn hộ tại Pall Mall, cái câu lạc bộ Diogène, Văn phòng nội các là các t́n xe lửa điện của . Chỉ có lần ấy đến đây. Hôm nay tai họa gì khiến ấy tới đây?

      - ấy giải thích sao?

      Holmes đưa cho tôi bức điện tín. “Muốn gặp em về vụ Cadogan West. đến, Mycroft”.

      - Cadogan West? Cái tên này gợi lên cho tôi điều gì?

      - Đối với tôi cũng chả gợi lên tý gì cả. Nhưng trước kiện Mycroft phá lệ, có thấy tôi rối bời ? Thực ra, có biết Mycroft là ai ?

      - Tôi có biết ấy khi chúng ta giải quyết vụ “Người thông ngôn Hy Lạp”. rằng Mycroft có chức vụ trong guồng máy nhà nước.

      Holmes mỉm cười:

      - Lúc đó tôi chưa quen nhiều, nên phải giữ miệng. đúng khi tin rằng ấy là viên chức. Nhưng cũng sai khi rằng lúc ấy bản thân Mycroft là Nhà nước quốc.

      - Khiếp !

      - Mycroft lĩnh lương 450 bảng năm, là người tuyệt đối có tham vọng gì. Mycroft chức tước gì, nhưng lại là người rất cần thiết cho đất nước.

      - Bằng cách nào?

      - Vị trí của Mycroft là vô song. đời này, ấy đặc biệt có bộ nhớ phi phàm. Các kết luận của các Bộ được đệ trình mỗi ngày. ấy là bộ phận đầu não điều tiết, tổng hợp các thông tin đó. ông bộ trưởng cẩn nhận xét thông tin liên quan tới hải quân Ấn Độ, Canada? Với tài liệu cung cấp chỉ có Mycroft mới có khả năng nhìn tổng thể và giải thích ngay tác động của các yếu tố. Sơ khởi ấy được sử dụng như công cụ để tiết kiệm thời gian. Nhưng thời ấy trở nên tối cần. Trong đầu ấy, mọi việc được xếp theo thứ tự hẳn hoi. Khá nhiều việc phải chờ ý kiến của ấy rồi mới quyết định. ấy sống trong chính giới. ấy hề phân tâm vào chuyện nào khác trừ phi để đấu trí cho vui. Thỉnh thoảng ấy cũng xen vào vài vấn đề lặt vặt của Hôm nay là ngày Thượng đế giáng trần, biết Mycroft cần gì ở tôi? Cadogan West là ai? Liên quan gì đến Mycroft?

      - Tôi biết rồi! - tôi kêu lên sau khi lục lọi chồng báo - Đúng rồi, chính y. Cadogan West là chàng thanh niên chết sáng thứ ba trong xe điện ngầm.

      Holmes sững người, lắng nghe.

      - Chắc chắn là chuyện quan trọng, Watson à. cái chết, buộc tôi phải thay đổi thói quen tất nhiên thể là cái chết bình thường. Chắc nó có liên quan với ấy. Nội vụ là tầm thường, nếu tôi nhớ lầm. chàng từ xe điện ngầm ngã xuống. hề bị mất mát gì, nên có lý do để ngờ vực có chuyện đen tối, đúng Watson?

      - cuộc điều tra tiến hành và phát thêm những dữ kiện mới mẻ. Xem kỹ lại thấy đó là chuyện khá lạ kỳ - Tôi đáp.

      - Căn cứ vào tác động của nó đối với tôi, tôi đồng ý rằng nó phải là chuyện vặt vãnh.

      Holmes thu mình lại trong ghế bành.

      - Nào Watson, các dữ kiện mới là những gì?

      - Arthur Cadogan West, 27 tuổi, độc thân, thư ký tại xưởng hải quân Woolwich.

      - Viên chức? Hèn chi liên quan tới Mycroft.

      - ta đột ngột rời Woolwich vào tối thứ hai. Violet Westbury, vị hôn thê của ta, là người gặp ta cuối cùng. ta từ giã ấy cách đột ngột lúc 7 giờ 30 trong sương mù. Họ hề cãi nhau. ấy chả hiểu ra làm sao cả, chỉ biết rằng xác ta được công nhân xe điện ngầm phát gần ga Aldgate.

      - Hồi mấy giờ?

      - Xác được phát vào 6 giờ sáng thứ ba, nằm bên trái, xa đường sắt, tuyến phía đông gần xe, ở nơi kết thúc đường hầm. Đầu bị vỡ, có thể do bị ngã. Nếu xác được khiêng trong đường phố gần đó ra, phải qua cửa người bấ đứng, điều này khá .

      - Rất tốt. Chuyện khá . Xô ngã hoặc bị quăng xác từ tàu xuống. Cứ tiếp tục?

      - Các tàu chạy gần đó từ Tây sang Đông có chuyến thuộc loại nội thành, có chuyến từ Willesden hay ngoại thành vào. Có thể đoán chắc rằng khi rơi xuống, chàng này hướng Tây Đông vào lúc khá khuya. Tuy nhiên khó xác định ta lên tàu lúc mấy giờ.

      - xem vé.

      - ta có vé đâu?

      - có vé? Đó mới là điều cực kỳ dị thường. ai có thể vào bến xe điện ngầm mà có vé. Như vậy rất có thể chàng này có vé đàng hoàng, nhưng bị lấy để che giấu tên ga mà ta lên tàu. Đó là giả thiết. ta làm rơi toa, đó là giả thiết thứ hai. Nhưng có chi tiết lạ, hình như ta bị lấy cắp gì phải ?

      - , đây là danh sách đồ vật tìm thấy trong người nạn nhân: cái ví với 2 bảng 15, cuốn chi phiếu do chi nhánh Woolwich của Nân hàng Capital & Counties phát hành. Chính nhờ cuốn chi phiếu này mà nhận diện được. Còn có hai vé hát của đêm đó là gói tài liệu kỹ thuật.

      Holmes lớn tiếng biểu lộ hài lòng:

      - Chúng ta có tất cả. Nhà nước , hải quân công xưởng Woolwich, tài liệu kỹ thuật, Mycroft của tôi. Dây chuyền khép kín. Nhưng ấy tới kia, nếu tôi lầm.

      giây đồng hồ sau, chúng tôi đón Mycroft Holmes to lớn và oai phong, có cái trán kẻ cả, đôi mắt sắt thép linh hoạt, đôi môi là cương nghị. Theo gót ông là thám tử Lestrade. Chẳng nới chẳng rằng, viên thám tử bắt tay chúng tôi. Mycroft Holmes cởi áo choàng và thả mình ghế bành.

      - vụ vô cùng bực bội, Sherlock à. thích thay đổi thói quen. Tuy nhiên thấy cần phải đến đây? Chưa bao giờ thấy Thủ tướng bối rối đến thế. Còn tại Bộ tư lệnh hải quân họ cãi nhau như mổ bò. Chú đọc báo chứ?Vừa đọc xong. Mà tài liệu kỹ thuật gì vậy?

      - À, cái chết là ở chỗ đó. May thay, chưa tiết lộ chính xác. Nếu biết, báo chí làm om sòm. Tài liệu ở trong túi người thanh niên là các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington.

      Mycroft Holmes với giọng trịnh trọng để nhấn mạnh tầm quan trọng của tài liệu.

      - Các bản vẽ này có tầm quan trọng sinh tử trong tất cả các bí mật của Nhà nước. Cách đây hai năm, số tiền kếch xù được trích từ ngân sách quốc gia để mua độc quyền sáng chế. Mọi biện pháp được áp dụng để giữ bí mật cho công việc. Các bản vẽ cực kỳ rắc rối, được để trong tủ sắt vô cùng chắc chắn trong văn phòng gần công xưởng hải quân; các cửa lớn và cửa sổ đều bất khả xâm phạm. Với bất cứ lý do nào, các bản vẽ này đều được rời văn phòng đó. Dù kỹ sư trưởng của hải quân có muốn tham khảo, cũng phải tới văn phòng này tại Woolwich. Nhưng dù kỹ lưỡng đến thế, các tài liệu đó vẫn bị lọt vào túi thư ký trẻ. Về phương diện Nhà nước, chuyện này quả là nhục nhã.

      - Lấy lại được rồi mà?

      - ! Đâu có lấy lại được. Trong 10 bản vẽ bị trộm tại Woolwich có 7 cái trong túi của Cadogan West. Còn ba cái quan trọng nhất mất hút. Sherlock à, chú phải dẹp mọi chuyện để lo việc này! Suy đoán vặt vãnh các vấn đề linh tinh đâu có lý thú gì. Chú phải giải đáp câu hỏi tại sao Cadogan West ăn cắp các bản vẽ? Các bản vẽ bị thiếu bây giờ ở đâu? chết trong trường hợp nào? Xác được đưa tới điểm đó bằng cách nào? Hãy giải đáp các câu hỏi đó! Tổ quốc ghi công chú.

      - Tại sao tự giải quyết lấy? có tầm nhìn xa hơn em.

      - Có thể, nhưng trước tiên phải thu gom các yếu tố chi tiết. Chú cung cấp cho tôi các tin tức này. Tôi ngồi tại ghế bành mà tổng hợp. Chạy đây, chạy đó, thẩm vấn các công nhân, năng lộn xộn, bò sát mặt đất, khám nghiệm này nọ bằng kính lúp... phải là nghề của . Chú là người độc nhất có thể xoay xở để giải quyết vụ này. Rất có thể, chú có tên trong bảng phong tước quý tộc kỳ tới...

      Holmes mỉm cười và đầu:

      - Nếu em tham dự trò chơi này, chỉ vì thích nó, vì đầu đề của bài toán do đề ra có những dữ kiện lý thú. Em sẵn sàng đảm nhận, vui lòng cho thêm vài yếu tố phụ.

      - tờ giấy này có vài yếu tố thiết yếu, cũng có kèm theo địa chỉ cần dùng. Người quản lý các tài liệu này là ngài James Walter. Ông có thâm niên cao, lại là nhà quý tộc được trọng vọng tại thủ đô. Lòng ái quốc ai nghi ngờ được. Ông là trong hai người có chìa khóa tủ sắt đó. Tôi có thể thêm rằng các bản vẽ chắc chắn nằm trong văn phòng vào giờ làm việc từ sáng thứ hai và ngài James quay về London khoảng 3 giờ, mang theo chìa khóa. Suốt buổi tối hôm bị đánh cắp, ông lưu lại nhà đô đốc Sinclair ở quảng trường Barclay.

      - kiện có được kiểm chứng ?

      - Có! Đại tá Valentine Walter, em ruột của ngài James, làm chứng cho việc ông rời khỏi Woolwich. Còn đô đốc Sinclair làm chứng cho đêm ở London. Ngài James còn là yếu tố trực tiếp trong vấn đề.

      - Ai giữ cái chìa khóa kia?

      - Ông Sidney Johnson, thư ký cao tuổi nhất chuyên về vẽ. Bốn mươi tuổi, có vợ, 5 con, ít , khó chịu, nhưng được xem là công chức mẫu mực. Đồng nghiệp ưa có lẽ vì ông làm việc rất nghiêm. Ông ấy khai và lời khai này chỉ được xác nhận bởi vợ ông, rằng ông rời khỏi nhà vào tối thứ hai, sau khi từ văn phòng về và chìa khóa của ông hề rời khỏi dây đeo đồng hồ.

      - hãy về Cadogan West.

      - Thâm niên 10 năm và được tiếng tốt. ta nổi tiếng là người sôi động và nóng nảy, nhưng được tiếng là người chính trực và thanh liêm. Chúng tôi phiền trách gì về ấy. Tại văn phòng, ấy là phụ tá của Sidney Johnson. Mỗi ngày ta phải đích thân sắp xếp các bản vẽ, người nào khác được phép động tới chúng.

      - Tối hôm đó ai cất các bản vẽ trong tủ sắt?

      - Sidney Johns

      - Như vậy tên người ta ăn trộm đâu phải là chuyện khó. Tài liệu được tìm thấy trong người của Cadogan West, điều đó có vẻ là dứt khoát rồi phải ? - Holmes .

      - Đúng. Nhưng giả thiết này bác lại nhiều điều trong bóng tối. Trước hết, tại sao ăn cắp chúng? - Mycroft .

      - Vì tiền, đúng ?

      - có thể kiếm ra mấy ngàn bảng cách dễ dàng.

      - có thể đưa ra cho em giải thích khác ?

      - .

      - Vậy phải chọn giả thiết của em: Cadogan West đánh cắp tài liệu, bằng cách sử dụng chìa khóa giả.

      - Như vậy phải dùng nhiều chìa khóa giả. Vì phải mở cả cửa tòa nhà, cửa phòng nữa.

      - Như vậy là y có nhiều chìa khóa đôi. Y ăn cắp tài liệu, đem lên London bán cái bí mật của đề án, rồi thu hồi, đem trả về tủ sắt vào sáng sớm hôm sau, để ai hay biết . Chúng ta giả thiết rằng đường về Woolwich, bị giết và bị ném khỏi toa.

      - Ga Aldgate là nơi ta tìm thấy xác . Ga này nằm chệch xa ga London Bridge lộ trình bình thường để Woolwich.

      - Chúng ta có thể tưởng tượng ngàn lý do khiến y bỏ qua ga London Bridge. Thí dụ y có thể say sưa chuyện với người ngồi cùng toa: cuộc chuyện có kết cục đưa tới cái chết, có thể y có mưu toan rời khỏi toa, bị ngã ra khỏi tàu và người đối thoại đóng cửa lại. Sương mù dày đặc nào ai trông thấy gì đâu.

      - Dựa vào những gì chúng ta có, có lối giải thích hay hơn. Tuy nhiên, Sherlock, chú hãy suy nghĩ lại xem, chú có bỏ sót yếu tố nào . Có thể, vì cần thảo luận sâu thêm, chàng Cadogan West quyết định mang mớ tài liệu đó lên London. Tất nhiên có cuộc hẹn với điệp viên người nước ngoài. Đằng này hắni vé xem hát, cùng với vị hôn thê được nửa lộ trình, rồi mới biến mất .

      - Đó là ngụy trang. - Lestrade xen vào, tỏ ra bồn chồn trước cuộc thảo luận giữa hai em.

      - giả đò khá dị thường, tôi đưa ra nhận xét thứ nhất. Và đây là nhận xét thứ hai: nếu như ta có đến London và có gặp điệp viên nước ngoài, ta phải thu hồi các bản vẽ trước sáng hôm sau, nếu bị bại lộ. ta lấy cắp mười, nhưng chỉ còn có bảy cái trong túi. Vậy ba cái kia đâu? Chắc chắn ta dễ dãi trước mất mát này. Ngoài ra tiền thưởng đâu? Lẽ ra phải có số tiền kếch xù trong túi .

      - Đối với tôi mọi đều sáng tỏ như ban ngày. - Lestrade . - đánh cắp bản vẽ để bán, gặp điệp viên. Hai bên mặc cả chưa xong, bỏ nhưng điệp viên nước ngoài lại theo. xe điện, người này ám sát , cướp lấy các tài liệu quan trọng nhất và ném khỏi toa xe. Giả thiết này giải thích êm xuôi nhất.

      - Tại sao ta có vé lên tàu?

      - Vé tiết lộ tên cái ga gần nhà điệp viên nhất. Do đó người ta lấy và thủ tiêu rồi!

      - Giỏi, Lestrade rất giỏi - Holmes khen - Giả thiết của đứng vững đó. Nhưng nếu giả thiết đó đúng nội vụ được xếp lại. Tên phản bội chết, và các bản đồ của tàu ngầm Bruce Pardington có lẽ nằm bên kia bờ biển Manche. Ta còn làm cái gì nữa?

      - Còn các hành động! - Mycroft la lớn và đứng dậy. - Trực giác của tôi bác bỏ giả thiết . Chú hãy vận dụng cái biệt tài của chú. Hãy ra trường! Hãy hỏi thăm các nhân chứng. Trong suốt đường danh vọng của chú, chưa bao giờ chú có cơ hội tốt hơn để phục vụ đất nước!

      - Được! - Holmes và nhún vai - Bọn em lên đường ngay. Còn Lestrade, ông vui lòng theo chúng tôi. Trong hoặc hai giờ, chúng ta bắt đầu thăm ga Aldgate. Tạm biệt Mycroft. Em gửi cho báo cáo vào tối nay, nhưng em trước, đừng hy vọng nhiều.

      giờ sau, Holmes, Lestrade và tôi đứng đường xe điện ngầm, tại đó nó ra khỏi đường hầm, ngay lối vào ga Aldgate. ông lão lễ độ thay mặt cho công ty tiếp chúng tôi. Ông :

      - Đây là chỗ tử thi nằm. ta thể từ kia rơi xuống được, bởi vì có tường cao mà. Chỉ có thể rơi từ tàu và theo chúng tôi đoán là chuyến tàu 12 giờ đêm thứ hai.

      - Các toa được khám nghiệm chưa. Có vết tích của ẩu đả ?

      - có vết tích đánh đấm gì cả, cũng tìm ra vé tàu của ta.

      - Có thấy cửa lớn hãy còn mở ?

      - !

      - Sáng nay có thêm nhân chứng mới. - Lestrade - hành khách chuyến tàu ngang qua Aldgate lúc 11 giờ 40 tối thứ hai, khai rằng ông ta có nghe tiếng “bịch” do vật nặng rơi như xác người rơi xuống đất ngay trước khi tàu đến ga. Ngay lúc ấy, vì sương mù dày đặc nên thấy được gì. Ông ấy chả khai báo gì cả. Nào, ông nghĩ gì đó, ông Holmes?

      Holmes nhìn đăm đăm đường ray vòng cung khi ra khỏi đường hầm. Tuyến Aldgate là cái nhánh nên có bộ phận bẻ ghi. Giờ đây cái nhìn soi mói của chăm chăm vào cái bộ phận bẻ ghi. khuôn mặt nhọn và nhạy cảm của , tôi thấy miệng co lại, lỗ mũi run , trán nhăn. khẽ.

      - Bộ phận bẻ ghi. Hừm, bộ phận bẻ ghi.

      - Sao? Ông gì?

      - Hình như tuyến này có nhiều bộ phận bẻ ghi?

      - Đúng, ít lắm.

      - Đồng thời là khúc quanh. Vừa có bẻ ghi vừa có khúc quanh. Khá đơn giản.

      - Sao, ông Holmes, ông thấy gì?

      - ý tưởng thôi. Tuy nhiên nội vụ trở thành hấp dẫn tột độ, nhất vô nhị! Quả vậy, tại sao lại có vết máu đường.

      - Gần như là !

      - Nhưng nó là vết thương trầm trọng mà!

      - Xương vỡ, nhưng vết thương bên ngoài đáng kể.

      - Dù sao, tôi vẫn đoán phải có vết máu. Ta xem qua cái toa?

      - được đâu, ông Holmes à. Đoàn tàu tháo ra, các toa phân phối qua các tàu khác.

      - Ông Holmes, - Lestrade xen vào - Các toa được khám nghiệm kỹ lưỡng rồi. Tôi thân hành giám sát mà.

      Holmes có cái khuyết điểm lớn là chịu đựng được khi thấy người khác sâu sắc bằng mình.

      - Có lẽ là như vậy. phải tôi muốn nhìn qua các toa đâu. Watson, thôi . Chúng ta còn việc gì ở đây. Ông Lestrade, tôi cho rằng cuộc điều tra của chúng tôi tiếp tục tại Woolwich.

      Tại London Bridge, Holmes thảo điện tín cho Mycroft. đưa cho tôi xem trước khi gửi: “ ánh sáng lập lòe trong đêm đen, nhưng có thể tắt. Trong khi chờ đợi, cầu sai người làm cho em bản danh sách đầy đủ các điệp viên ngoại quốc nổi tiếng tại cùng với các địa chỉ đầy đủ của họ. Sherlock”.

      Khi ngồi xe lửa Woolwich, ấy với tôi:

      - Watson à, dù việc gì xảy ra nữa, chúng ta cũng phải cảm ơn Mycroft cho chúng ta tham dự vào vụ hứa hẹn có nhiều hấp dẫn.

      Cái khuôn mặt nhọn của Holmes thể năng lực cao độ khi yếu tố mới kích thích trí thông minh của . Tôi nghĩ đến con chó trong chuồng: tai xẹp, đuôi quặp. Vậy mà nó chạy đường săn mồi mắt sáng quắc, các thớ thịt dài, căng phồng. Kể từ sáng nay, thay đổi diễn ra trong Holmes. :

      - Có chất liệu, có phạm vi hoa. Tôi quả ngu dại vì thấy ngay các khả năng của nội vụ.
      - Cho tới giờ này, tôi chả thấy gì cả.

      - Nên nhớ là tôi chưa thấy toàn bộ đâu, nhưng tôi đường mòn đầy triển vọng. Người thanh niên bị giết ở nơi khác, và xác chết nằm mui tàu.

      - mui ư?

      - Lạ lắm phải . Có phải ngẫu nhiên mà xác chết được phát ngay chỗ tàu chuyển mình và hơi nghiêng vì vòng tại bộ phận bẻ ghi? Có phải đó là nơi dễ dàng nhất để vật gì đó mui tàu phải rơi xuống? Qua vấn đề các vết máu, nếu xác bị mất máu ở chỗ khác, tất nhiên còn đủ máu để rơi rải đường ray. yếu tố tự mình nó cũng có nhiều ý nghĩa, phải ? Kết hợp nhiều cái như vậy lại, chúng càng có nhiều ý nghĩa hơn.

      - Chúng cũng giải thích thiếu vắng của vé tàu? - Tôi lớn.

      - Đúng thế! Rất ăn khớp với nhau.

      - Dù vậy, chúng ta cũng chưa thấy gì sáng tỏ. Lời giải thích của làm cho các việc trở nên dị thường hơn.

      - Có thể lắm! - Holmes đồng ý, vẻ mặt đăm chiêu.

      Holmes rơi vào trạng thái trầm cảm cho tới khi tàu ngừng lại ga Woolwich. gọi xe ngựa rồi rút trong túi ra tờ giấy của Mycroft.

      - Chiều nay chúng ta phải thăm vài nơi. Người đầu tiên là ngài James.

      Viên chức nổi tiếng này ngụ trong biệt thự đẹp có bồn cỏ chạy dài xuống tận sông Thames. Khi chúng tôi đến, sương mù tan và ánh sáng yếu ớt của mặt trời chiếu rạng. quản gia ra mở cửa.

      - Ngài James từ trần sáng nay.

      - Chúa ơi! - Holmes kinh ngạc lớn. - Ông ấy chết như thế nà

      - Kính mời ông vào nhà gặp người em của ngài, đại tá Valentine.

      - Vâng.

      Chúng tôi được đưa vào phòng khách sang lắm. lúc sau, chúng tôi được tiếp chuyện với người khoảng 50 tuổi, cao lớn đẫy đà, cằm được tô điểm bằng vòng râu đỏ hoe! Đó là người em út của ông kỹ sư vĩ đại. Đôi mắt hung tợn, đôi má lởm chởm những râu cạo xát, đầu tóc chải, biểu lộ đau đớn giáng xuống cái gia đình này. Ông đứt đoạn:

      - Tại vụ tai tiếng ghê tởm đó. tôi có ý thức danh dự bén nhạy nên thể trây mặt lâu hơn. Tim ông tan nát, ông luôn hãnh diện vì phục vụ của mình, ông chịu nổi chấn động.

      - Trước đây, chúng tôi hy vọng ông ấy có thể cung cấp cho vài chỉ dẫn giúp giải quyết câu chuyện.

      - Tôi tin chắc rằng ấy cũng chẳng hiểu gì nhiều, cũng như ông và tất cả mọi người. ấy thông báo cho cảnh sát tất cả những gì ấy biết. Tất nhiên ấy tin chắc rằng Cadogan West có tội. Phần còn lại hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết của ấy.

      - Ông thể cung cấp cho chúng tôi tin tức nào đem thêm ánh sáng mới cho nội vụ?

      - Tự thân tôi biết gì, ngoài những gì đọc hoặc nghe. Tôi xin lỗi, xin ông thông cảm cho hoàn cảnh chúng tôi giờ. Tôi xin phép được coi cuộc chuyện này chấm dứt tại đây.

      đường về bằng xe ngựa, Holmes với tôi:

      - Đây là diễn biến hoàn toàn bất ngờ. Tôi biết rằng đây có phải là cái chết tự nhiên hay ông này tự sát. Trong trường hợp thứ nhì, chúng ta có thể suy đoán rằng ông ấy hối hận vì sơ sót. Ngay bây giờ, chúng ta hãy qua gia đình Cadogan West.

      Ở ven ranh thành phố, ngôi nhà bé tươm tất che chở bà mẹ lâm cảnh tang tóc. Bà cụ bất hạnh này chả giúp đỡ chúng tôi được gì cả. Cạnh bà có c mặt tái xanh, tự giới thiệu là Violet Westbury, hôn thê của chàng trai và là người cuối cùng gặp nạn nhân.

      - Tôi chả hiểu gì cả, ông Holmes ạ. Kể từ khi thảm kịch xảy ra, tôi có chợp mắt được đâu. Tôi chỉ suy nghĩ ngày lẫn đêm. Cadogan West là người trung thực, nghĩa hiệp và ái quốc nhất đời. ấy có thể tự chặt tay mặt hơn là bán bí mật quốc gia. Tất cả những ai quen biết ấy đều cho rằng nghi ngờ ấy là điều phi lý.

      - Nhưng mà các dữ kiện sờ sờ ra đó, thưa Westbury.

      - Tôi thể hiểu được?

      - Ông ấy cần tiền?

      - đâu, ấy thanh đạm nên tiền lương kể như thừa thãi. ấy tiết kiệm đến mấy trăm bảng và chúng tôi định kết hôn vào dịp năm mới này.

      - Ông ấy có biểu lộ triệu chứng rối loạn tâm thần. Nào, hãy tuyệt đối thành .

      Con mắt sâu sắc của Holmes phát thay đổi trong các cử chỉ của ta.

      hổ thẹn, rồi ngập ngừng.

      - Dạ có. - Cuối cùng khai - Tôi có cảm giác rằng ấy lo lắng về chuyện gì.

      - Từ hồi nào?

      - Khoảng tuần, ấy đăm chiêu, lo lắng. Tôi có hỏi lý do. ấy nhìn nhận có ưu tư, nhưng liên quan tới công vụ. “Quá nghiêm trọng để tiết lộ, dù là đối với em”. ấy với tôi và tôi thể biết nhiều hơn.

      Holmes làm ra vẻ rất nghiêm nghị:

      - Hãy tiếp, dù rằng thấy phản bội ấy. tại tất cả chúng ta đều bí mà.

      - đôi lần, tôi có cảm giác ấy muộn tiết lộ điều gì đóột tối nọ, ấy về tầm quan trọng của tài liệu bí mật và tôi nhớ có nghe rằng gián điệp ngoại quốc chắc chắn trả nhiều tiền.

      Gương mặt Holmes trở nên nghiêm nghị hơn.

      - Chỉ có bấy nhiêu?

      - ấy rằng chúng ta cẩu thả đối với những chuyện cùng loại. Bọn phản bội trộm tài liệu dễ ợt!

      - ấy chỉ mới tâm mới đây thôi ư?

      - Vâng, rất mới.

      - hãy về cái đêm cuối cùng.

      - Chúng tôi dự định xem hát. Sương mù dày đến nỗi chúng tôi thấy rằng xe ngựa cũng vô ích. Chúng tôi bộ. qua văn phòng của ấy, thình lình ấy nhảy bổ vào trong sương mù.

      - năng gì cả?

      - Chỉ kêu lên tiếng thôi. Tôi đợi, nhưng ấy trở về. Tôi bèn về nhà. Sáng hôm sau, sau giờ mở cửa công sở, người ta tới thẩm vấn tôi. Khoảng 12 giờ, chúng tôi hay tin dữ. Ồ, thưa ông Holmes, nếu có khả năng, ông hãy cứu lấy danh dự của ấy.

      Holmes lắc đầu cách buồn thảm:

      - Nào, Watson. Chúng ta qua nơi khác, qua văn phòng, nơi mà các bản vẽ bị đánh cắp.

      Khi ngồi vào xe, Holmes thêm:

      - Tất cả khá bất lợi cho chàng thanh niên và các cuộc điều tra của chúng ta chỉ củng cố thêm cái cảm giác hay này. Dự định làm đám cưới là động cơ của tội ác. Đương nhiên, cần tiền, bị ám ảnh, nên ra. gần như biến bé thành đồng phạm khi tâm với ấy về các kế hoạch của mình.

      - Dù sao cái tính khí cũng đóng vai trò

      - Tại sao bỏ người vợ ở ngoài đường và nhảy bổ làm chuyện phi pháp?

      - Có những cái phản bác đáng kể. Đây là vụ vô cùng khó gỡ.

      Ông Sidney Johnson, viên chánh thư ký tiếp chúng tôi tại văn phòng với tôn kính. Đó là người đeo kính, gầy, cau có, thể đoán tuổi được, má hóp, đôi tay run run.

      - là khủng khiếp, ông Holmes.

      - Ông có hay rằng ông sếp chết?

      - Chúng tôi từ đằng đó tới đây.

      - Tất cả đều tan vỡ: sếp chết, Cadogan West chết, tài liệu bị đánh cắp. Khi chúng tôi đóng cửa vào tối thứ hai, sở này vẫn hoạt động như tất cả các sở khác của Chính phủ, Chúa ơi! Nghĩ tới đáng tởm, thằng Cadogan West cả gan làm việc tày trời.

      - Như vậy là ông cho rằng ta có tội?

      - Tôi thấy có giải pháp thứ hai. Tuy nhiên tôi tin cậy y như tin cậy vào chính bản thân tôi.

      - Sở đóng cửa vào mấy giờ tối thứ hai?

      - Hồi 5 giờ.

      - Chính ông đóng?

      - Tôi luôn là người sau cùng rời khỏi sở.

      - Lúc bấy giờ các bản vẽ ở đâu?

      - Trong tủ sắt này. Đích thân tôi để vào.

      - Có người bảo vệ nào chịu trách nhiệm về tòa nhà này?

      - Có chứ, nhưng ông ấy đồng thời canh chừng các tòa nhà khác nữa, ông ta là chiến sĩ cao niên, hoàn toàn đáng tin cậy. Ông ta thấy gì xảy ra cả. Đêm đó sương mù dày đặc.

      - Giả dụ Cadogan West muốn vào tòa nhà sau giờ đóng cửa, y phải cần đến ba chìa khóa mới lấy được giấy tờ trong tủ sắt, phải vậy .

      - Đúng thế, chìa khóa cửa ngoài, chìa khóa phòng và chìa khóa của tủ sắt.

      - Ngài James có phải là người rất cẩn thận hay ?
      - Phải, về các chìa khóa đó, ông luôn luôn móc nó vào cùng vòng, tôi thường thấy như vậy.

      - Và ông ấy luôn luôn mang chùm chìa khóa về London?

      - Ông ấy với tôi như thế!

      - Còn cái chìa khóa của ông bao giờ rời khỏi ông chứ?

      - bao giờ.

      - Vậy, nếu Cadogan West là thủ phạm, phải thuê làm những chìa khóa đôi. Tuy nhiên chúng tôi thấy chìa nào trong xác của y. Ngoài ra, nếu thư ký trong sở này muốn bán bản vẽ, chuyện giản dị là sao chép, chứ ai lại đánh cắp các bản chính như xảy ra?

      - Để sao đúng các bản vẽ, phải có trình độ kỹ thuật cao.

      - Tôi suy đoán rằng: ngài James hoặc ông, hoặc Cadogan West, các ông đều có kiến thức kỹ thuật này?

      - Tất nhiên, nhưng tôi cầu ông đừng mưu kéo tôi vào nội vụ, thưa ông Holmes. Thảo luận dông dài như thế này có ích lợi gì khi mà các bản vẽ đều được tìm thấy trong người của Cadogan West.

      - Chịu rủi ro khi ăn cắp các bản chính trong khi có thể sao chép cách an toàn! Quả là chuyện lạ!

      - Lạ ... Tuy nhiên y làm điều lạ lùng đó.

      - Trong vụ này, càng sâu càng thấy thêm khó hiểu. Còn thiếu vắng ba bản vẽ. Theo tôi được biết, đấy là ba bản chính yếu?

      - Đúng thế!

      - Vậy là ông đồng ý rằng người sở hữu ba bản vẽ đó, tuy thiếu bảy bản vẽ kia, vẫn có thể đóng tàu ngầm Bruce Pardington?

      - Chính đó là điều tôi khai tại Bộ tư lệnh Hải quân. Nhưng hôm nay sau khi suy nghĩ lại, tôi còn quả quyết như trước nửa. Những cái van đôi với đường rãnh ăn khớp với nhau được vẽ trong bản vẽ nằm trong mình Cadogan West. Nếu tự chế ra những cái van này, người nước ngoài thể đóng chiếc tàu ngầm đó được Tất nhiên đó phải là trở ngại thể vượt qua.

      - Dù sao ba cái thiếu vắng là những cái quan trọng nhất?

      - Đúng thế!

      - Tôi xin phép tham quan vòng, vì thấy cần hỏi ông nữa.

      Holmes khám nghiệm ổ khóa của tủ sắt, cửa lớn của căn phòng và sau cùng quan sát các cánh sắt của cửa sổ. Chỉ khi chúng tôi quay về bồn cỏ, Holmes mới hồ hởi trở lại. Ngoài cửa sổ có cây nguyệt quế mà nhiều nhánh có dấu vết bị bẻ quẹo hoặc bị gãy. Holmes khám nghiệm các dấu vết này bằng kính lúp, đồng thời cũng quan sát dấu tay lờ mờ đó. Cuối cùng, sau khi cầu ông chánh thư ký đóng các cánh sắt của cửa sổ, Holmes lưu ý tôi rằng chúng sít sao lắm và cho thấy từ ngoài, người ta có thể theo dõi những gì xảy ra bên trong.

      - Các dấu vết hư hỏng vì chúng ta đến trễ tới ba ngày, có thể chúng chả có ý nghĩa gì cả. Nào Watson, có lẽ còn gì quan trọng để tìm hiểu tại Woolwich. Kết quả là mỏng manh, có lẽ về London gặt hái được khá hơn.

      Tuy nhiên, trước khi rời Woolwich, chúng tôi gặp người bán vé tàu quả quyết rằng có thấy Cadogan West, mà ông ta quen mặt, London Bridge bằng chuyến tàu 8 giờ 15. mình với vé hạng ba. Nét mặt bực dọc, ta rối trí đến nỗi rất vụng về. Khi nhận tiền thừa trả lại, chính ông phải giúp đỡ ta. Dò lại bảng chỉ dẫn, chúng tôi nhận thấy rằng chuyến tàu 8 giờ 15 là chuyến tàu đầu tiên mà Cadogan West có thể , sau khi rời người vợ sắp cưới khoảng 7 giờ 30.

      - Chúng ta hãy ôn lại. - Holmes , sau nửa giờ im lặng suy tư - Chưa bao giờ ta gặp vụ khó như thế này. Mỗi lần bước thêm bước, lại gặp thêm bức tường. Cuộc điều tra của chúng ta tại Woolwich đến kết luận thuận lợi cho lắm. Các dấu vết thu lượm tại cửa sổ khớp với giả thiết kém ảm đạm hơn. Thí dụ, điệp viên nước ngoài có tiếp xúc với y. Cuộc tiếp xúc này có thể diễn theo các cách thức nào đó mà y thấy khó tiết lộ. Tuy vậy, y cũng khá bạo để xì ra chút với vị hôn thê của mình. Giờ đây, đường xem hát với , y thấy qua sương mù, cũng chính người điệp viên đó về hướng văn phòng. Tính tình nóng nảy, y quyết định ngay và đặt nhiệm vụ là tất cả, y theo dõi qua cửa sổ, thấy tài liệu bị ăn cắp, nên rình đuổi kẻ trộm. Vậy là ta giải quyết được cái khúc mắc giữa ăn trộm tài liệu hay sao chép Người lạ mặt đó phải ăn cắp tài liệu vì y thể sao chép chúng tại chỗ. Tới đây, tất cả đều ăn khớp với nhau.

      - Rồi sau đó?

      - Sau đó, vì tình huống đặc biệt, chàng thanh niên phải bắt kẻ trộm và báo động.

      - Tại sao y làm.

      - Có thể tại vì kẻ trộm là trong các thượng cấp của y. Giả thiết này giải thích cách xử của Cadogan West. Hoặc giả rằng trong sương mù, ta lạc và lên đường London ngay để tìm kiếm kẻ trộm tại nhà nó. Giả thiết rằng ta biết địa chỉ của nó. Chuyện phải là khẩn cấp lắm, bởi vì ta bỏ bé đứng mình trong sương mù. Tới đây lối tẻ lạnh trở lại và lỗ hổng to tướng nằm chắn giữa giả thiết của tôi. Dữ kiện rằng xác của Cadogan West cùng với bảy bản vẽ trong túi được đặt mui xe điện ngầm? Trực giác buộc tôi khởi từ đầu kia của sợi chỉ. Có lẽ ta nên nhận dạng đối tượng của ta và theo hai lối, thay vì .

      Tất nhiên có điệp văn chờ chúng tôi tại đường Baker. tổng thư văn trao đến. Holmes nhìn qua rồi trao cho tôi.

      - Ḅn gián điệp nhãi nhép này nhung nhúc, nhưng kẻ có khả năng làm chuyện phi thường nhiều đâu. Các tên đáng lưu ý là Adolph Meyer ở số 15 phố George Đại Đế, Westminster; Louis La Rothiere, Campden Mansions, Notting Hill và Hugo Oberstein, số 13 Caulfield Gardens, Kensington. chàng này có mặt tại London vào thứ hai, nhưng người ta đoán chắc rằng y còn ở đây nữa. Vui mừng khi hay tin rằng các chú có thấy tia sáng. Nội các nóng lòng chờ báo cáo của chú. có những lời khiển trách từ giới rất cao gửi xuống. Tất cả quyền lực của quốc gia đều đặt dưới quyền sử dụng của chú nếu có cầu. Mycroft”.

      - Tôi ngại rằng - Holmes cười và - Toàn thể kỵ binh và bộ binh của Nữ hoàng cũng chả giúp gì được tôi trong vụ này.

      Holmes trải bản đồ lớn của London rồi cúi xuống nhìn.

      -… À, à! - Sau đó, Holmes với vẻ hài lòng. - việc xoay theo chiều thuận lợi hơn, Watson à! Tôi tin chắc rằng ta gỡ rối được.

      Holmes vỗ vai tôi và đột ngột cười to tiếng:

      - Tôi ra ngoài để thám sát qua loa. Tôi làm điều gì quan trọng nếu thiếu . ở lại đây: chắc chắn tôi quay lại trong hay hai giờ. Nếu thấy quá lâu lấy giấy bút và bắt đầu tường thuật việc em mình cứu nguy đất nước như thế nào.

      Tôi chờ suốt đêm, mỗi lúc bồn chồn hơn. Cuối cùng khoảng sau 9 giờ, sứ giả đến với tờ giấy này:

      “Tôi ăn tại quán Goldini Gloucester, Kensington. cầu tới gặp tôi ngay. Nhớ mang theo kìm nạy cửa của bọn ăn trộm, đèn ló, cây kéo và súng lục - S H”.

      Tôi nhét tất cả các thứ lỉnh kỉnh vào trong áo choàng và bảo xe đưa tôi đến địa chỉ . Trong cái quán cũ Ý sang trọng, Holmes ngồi trước bàn tròn .

      - ăn gì chưa? Vậy uống cà phê với tôi, hay nhâm nhi cốc ca-cao. Hãy hút điếu thuốc của chủ hiệu. Có mang theo dụng cụ ?

      - Hoan hô! Tôi tóm tắt những gì tôi làm và qua về việc chúng ta làm. Chắc chắn chưa đồng ý với tôi về việc xác chết được vứt lên mui toa. Tôi quả quyết như thế, chứ phải bị vứt ra từ cửa toa.

      - phải từ cầu rơi xuống mui toa?

      - thể được! Nếu khám nghiệm các mui xe, thấy rằng chúng hơi cong, lại có bờ ngăn. cứ tin chắc rằng xác chết được vứt lên mui toa.

      - Bằng cách nào?

      - Chỉ có giải thích đúng đắn mà thôi. biết tàu chạy giữa trời xuyên qua vài chỗ của khu West End. Tôi nhớ lờ mờ rằng, ngày nọ khi tôi tàu điện ngầm, tôi thấy những cửa sổ ngay đầu tôi. Nếu tàu điện ngừng ngay dưới trong các cửa sổ này, vứt xác lên mui xe là chuyện dễ như trở bàn tay.

      - thể như vậy được?

      - Chúng ta bắt buộc phải nghĩ rằng khi các khả năng khác đều hợp với thực tế, cái còn lại dù quái dị nữa, vẫn là . Các giải thích khác đều sai hết rồi. Khi tôi phát tên điệp viên quốc tế sừng sỏ, vắng mặt tại London lại ở tại ngôi nhà trông xuống đường xe điện ngầm nỗi hân hoan bừng hẳn lên như ngạc nhiên.

      - Chính vì thế...

      - Vâng, chính vì thế mà Hugo Oberstein, số 13 Caulfield Gardens trở thành đối tượng của tôi. Tôi bắt đầu làm việc tại ga Gloucester. nhân viên dễ thương đưa tôi ra đường tàu điện ngầm và giúp tôi thấy chẳng những cầu thang của cao ốc Caulfield Gardens ngó ra đường tàu mà tôi còn biết thêm kiện quan trọng hơn là gần đó đường tàu điện gặp đường sắt, nên các đoàn tàu điện phải đậu lại vài phút.

      - kỳ diệu, Holmes ạ! Vậy là giải bài toán.

      - Chưa hẳn. Ta có tiến tới, nhưng mục tiêu hãy còn xa. Sau khi ngắm nghía các bức tường phía sau của cao ốc Caulfield Gardens, tôi quan sát mặt tiền và kiểm chứng rằng con mồi của ta bay . Nhà của y mênh mông, các tầng , theo tôi có đồ gỗ. Oberstein sống tại đó với gia nô độc nhất, có lẽ là đồng phạm được tin cậy hoàn toàn. Ta phải nhớ rằng: Oberstein vào lục địa là để thanh toán cái chiến lợi phẩm vừa rồi chứ phải để chạy trốn. Y có lý do để sợ trát bắt giam hoặc trát lục soát. Y bao giờ dự kiến chàng nghiệp dư vào khám nhà.

      - Hay là xin cái trát để hợp pháp hóa việc làm của chúng ta.

      - Đâu có bằng cớ cụ thể!

      - Lục soát để kiếm được cái gì?

      - Có thể là tìm bức thư lý thú.

      - Tôi thích điều đó, Holmes à!

      - Watson à, canh ngoài đường. Còn tôi tự dành cái vai tội đại hình. phải là lúc để chúng ta bàn tán. Hãy nghĩ tới Mycroft tới Bộ tư lệnh Hải quân, tới nội các, tới viên chức cao cấp đợi tin. Chúng ta phải hành động thôi.

      Để trả lời, tôi đứng lên:

      - có lý! Chúng ta phải hành động thôi.

      Holmes cũng đứng lên bắt tay tôi:

      - Tôi biết chắc rằng bao giờ bỏ rơi tôi vào phút nguy nan.

      Trong chớp nhoáng tôi đọc trong mắt tình cảm gần như trìu mến. Ngay sau đó lấy lại tự chủ và tỏ ra thực tế.

      - Chỉ cách đây khoảng nửa dặm thôi, chúng ta cứ thong thả thôi. nhớ đừng có bỏ quên dụng cụ. Việc bị cảnh sát bắt rắc rối đáng tiếc.

      Tới nơi, Holmes thắp đèn lồng để chiếu sáng cái cửa

      - Trở ngại đáng kể. Nó chắc chắn được phòng vệ bằng song sắt và được đóng chốt kỹ. Ta thoải mái hơn nếu ở ngoài sáng, có cái vòm thấp hơn chút để dự phòng trường hợp cảnh sát viên quấy rầy chúng ta.

      lát sau, cả hai chúng tôi trèo qua bức tường , lọt vào cái sân trong nhà. Vừa đến góc có nhiều bóng tối nhất, chúng tôi nghe bước của cảnh sát viên ngay đầu chúng tôi. Khi ông ta xa rồi, Holmes cúi xuống và đập mạnh vào cánh cửa dưới thấp cho tới khi cửa mở. Chúng tôi lọt vào hành lang tối om và đóng cửa lại. Holmes trước để leo lên cầu thang bằng đá trần. Đèn lồng chiếu ánh sáng màu vàng vào cửa sổ thấp.

      - Chắc chắn là cái cửa sổ này.

      Holmes đẩy mạnh.

      Cùng lúc đó chúng tôi nghe tiếng gầm , thô, dần đà lớn dần, trở thành tiếng gào thét: đó là đoàn tàu điện ngầm chạy bên dưới chúng tôi trong đêm tối. Holmes chiếu sáng dọc bệ cửa đầy khói đen dày từ đầu máy phun lên. Diện tích vệt đen này có chỗ bị quệt nguệch ngoạc hoặc bị xóa hẳn.

      - thấy chỗ chúng đặt tử thi chưa. À Watson, cái gì kia? vệt máu, chắc chắn mà.

      chỉ cho tôi những chỗ nhạt màu bệ cửa sổ.

      - Kìa, vệt máu khác đá cầu thang. Chúng ta hãy ở lại đây chờ đoàn tàu khác ngừng.

      phải đợi lâu, đoàn kế tiếp gào rống khi ra khỏi đường hầm giống hệt đoàn trước rồi tiếng thắng ken két rít lên và đoàn tàu ngừng lại ngay bên dưới chúng tôi. Chỉ cách khoảng 4 bộ giữa bệ cửa sổ và cái mui của toa. Holmes nhè đóng cửa sổ lại.

      - Thực tế ăn khớp với giả thiết. nghĩ sao, Watson?

      - kiệt tác, chưa bao giờ nhận xét hay đến thế!

      - Nghi tôi nghĩ rằng tử thi rơi xuống từ mui. suy nghĩ ràng là dở. Và mọi việc được suy ra từ đó. Nhưng khổ nhọc của chúng ta chưa dứt đâu. Có thể tại đây chúng ta gặp vài điều hữu ích.

      Chúng tôi leo cầu thang nhà bếp, lọt vào hành lang nối liền các văn phòng của tầng hai. căn phòng là ăn, giản dị tới mức khắc khổ. Căn thứ nhì là phòng ngủ cũng chả đem lại yếu tố nào mới mẻ. Căn cuối có vẻ hứa hẹn hơn, do đó Holmes ra công khám nghiệm nó cách lớp lang. Đầy dẫy sách báo của nơi được dang làm văn phòng, Holmes nhanh chóng khám xét mỗi ngăn kéo, mỗi tủ. Nhưng sau giờ lục soát, kiếm ra được gì.

      - Con chó tinh khôn này xóa dấu vết đường nó . Đây là cái may mắn chót của chúng ta.

      Chỉ còn cái hộp bằng sắt trắng để bàn giấy. Holmes mở nó bằng cái kéo. Bên trong có nhiều cuộn giấy đầy số và tính. Có cuộn giấy chữ được lặp lại liên tục: “sức ép của nước”, “sức ép inch vuông”. Có thể chúng liên quan tới tàu ngầm? Bực bội, Holmes vứt chúng qua bên. Còn lại trong phong bì chứa vài mẫu cắt trong báo. để chúng ra bàn, bỗng khuôn mặt của sáng ra.

      - Có ý nghĩa gì đây, Watson. Nè, loạt điệp văn trong cột nhắn tin ở góc phải của trang báo ngày tháng, có lẽ là tờ Daily Telegraph.

      Các điệp văn khớp nhau. Đây là cái đầu tiên:

      “Tôi đợi tin tức sớm hơn. Đồng ý về các điều kiện. Viết thư qua địa chỉ thiếp. PIERROT.”

      Cái kế tiếp:

      “Quá rắc rối mô tả được, cần phải làm báo cáo tường tận. Tiền trao, cháo múc. PIERROT.”.

      Rồi đến bức điện văn này:

      “Cấp bách lắm rồi, tôi phải rút lại đề nghị, nếu hợp đồng được thực . Hãy cho cái hẹn bằng thư. Tôi xác nhận lại bằng cách nhắn tin

      Cuối cùng là:

      “Tối thứ hai. Gõ hai tiếng, sau 9 giờ. Chỉ có chúng ta mà thôi. Đừng nghi ngại quá. Tiền mặt khi giao hàng. PIERROT.”.

      - việc gần như trọn vẹn, Watson à. Phải chi thộp được thằng ở đầu kia.

      bàn, Holmes suy nghĩ trong giây lát.

      - Suy cho cùng, có lẽ khó đâu. Chúng ta chả còn gì để làm tại đây. Ta phải tới báo Daily Telegraph và xứng đáng kết thúc ngày công tác tốt đẹp.

      Sáng hôm sau, Mycroft và Lestrade mau mắn tới điểm hẹn. Holmes tường thuật chuyện đêm qua. Viên thám tử chuyên nghiệp lắc đầu khi nghe việc phá cửa, đục tường của chúng tôi.

      - Trong ngành cảnh sát - Lestrade thầm - Chúng tôi thể làm những điều tương tự. Đó là lý do vì sao ông thành công nhiều hơn chúng tôi. Tuy nhiên ngày nào đó, ông quá xa và gặp rắc rối đó.

      - Vì quốc, vì Tổ quốc, vì cái đẹp, phải Watson. Hai con vật hy sinh bàn thờ Tổ quốc. Còn Mycroft, nghĩ sao?

      - Tuyệt Sherlock, đáng phục! Nhưng rồi tới đâu nữa?

      Holmes cầm tờ Daily Telegtaph nằm bàn.

      - Mấy chưa đọc cái nhắn tin của hôm nay à?

      - Sao? Lại nhắn tin?

      - Đúng thế.

      Đây là nội dung:

      “Tối nay gõ 2 tiếng. Chỗ hẹn cũ. Giờ cũ. Tối quan trọng. an toàn của bạn lâm nguy. PIERROT.”

      - Chúa ơi! - Lestrade la lớn - Y tới, ta thộp thôi.

      - Đó là điều tôi nghĩ, khi tôi thuê đăng cái nhắn tin. Nếu ông vui lòng, mời ông đến gặp lại chúng tôi khoảng 8 giờ tại Caulfield Gardens. Giải đáp gần kề.

      Khoảng 9 giờ, tất cả chúng tôi đều ngồi trong văn phòng của tên điệp viên ngoại quốc, nhẫn nại chờ con mồi. giờ trôi qua, rồi giờ nữa, lúc 11 giờ, khi chuông nhà thờ kế cận ngân vang, chúng tôi tưởng hy vọng tiêu tan Lestrade và Mycroft bồn chồn ghế, cứ hai phút lại nhìn đồng hồ lần, Holmes ngồi như phỗng đá, mắt nửa nhắm, mắt nửa mở, cảnh giác cao độ. Thình lình ngẩng đầu.

      - Nó đến! - Holmes .

      người rón rén qua cửa. Đứng lại rồi quay ra sau, chúng tôi nghe những bước chậm và hai tiếng động cửa. Ngoài lan can, đèn lồng được vặn thấp xuống. Holmes mở cánh cửa trông ra đường: bóng đen lọt vào bên trong. khép cửa lại rồi gài chốt. Chúng tôi nghe : “ lối này!”.

      Ngay sau đó, con mồi đứng trước mặt chúng tôi. Holmes sau nó. Khi nó quay lại thốt lên tiếng la ngạc nhiên và sợ sệt bị Holmes tóm cổ, ấn và trong phòng. Sau khi tên tù lấy lại bình tĩnh cửa đóng lại và Holmes tựa lưng vào cửa. Tên tù nhìn quanh, lảo đảo rồi ngã bất tỉnh xuống sàn nhà. Cái mũ rộng vành của nó tung ra, xuất các đường nét thanh tú và chòm râu quai nón đỏ hoe của đại tá Valentine Walter. Holmes thốt ra tiếng huýt sáo vì ngạc nhiên.

      - Lần này có thể liệt tôi vào hạng con lừa, Watson. Đâu phải con mồi mà tôi dự kiến.

      - Ai hả? - Mycroft háo hức hỏi.

      - Em trai của ngài James Walter.

      Chúng tôi dã khiêng cái xác ngất xỉu để lên tràng kỷ. Lát sau ngồi dậy nhìn quanh với khuôn mặt méo mó vì kinh hoàng và lấy tay sờ lên trán như người tin vào giác quan mình.

      - Nghĩa là sao? Tôi tới đây để chuyện với ông Oberstein mà

      - Tan vỡ hết rồi, đại tá ơi! - Holmes đáp - Tôi thú thực hiểu tại sao bậc trượng phu quốc có thể xử như vậy. Tất cả liên lạc thư tín giữa ông với Oberstein, chúng tôi nắm hết. Và các tình huống về cái chết của Cadogan West cho phép chúng tôi đưa ra lời khuyên: hãy lấy lại chút uy tín bằng ăn năn và thú tội thành . Chúng tôi cần chính ông cho thêm vài chi tiết.

      rên rỉ và lấy tay che mặt, câm miệng.

      - Chúng tôi biết ông cần tiền cấp bách. Ông thuê làm chìa khóa giã từ các chìa do ông giữ và ông quan hệ với Oberstein. Người này trả lời cho ông qua cột nhắn tin của tờ Daily Telegraph. Chúng tôi biết ông tới văn phòng trong sương mù vào buổi tối thứ hai. Ông bị Cadogan West phát và theo dõi, người thanh niên cao đẹp này có cơ sở để theo dõi ông từ trước. Cadogan West chứng kiến màn ăn trộm nhưng thể báo động vì còn cho rằng có thể ông tuân lệnh ông đến lấy bản đồ. Quên hẳn người , Cadogan West bám sát ông trong sương mù cho tới tận nhà này. Tại đây, Cadogan West lộ mặt và bị ông giết.

      - ! Trước mặt Chúa, tôi thề rằng tôi giết nó! - Người tù của chúng tôi kêu lớn.

      - Vậy ông cho chúng tôi biết Cadogan West chết như thế nào trước khi bị vứt xác mui tàu điện ngầm.

      - Tôi xin thú mọi chuyện diễn ra đúng như ông trình bày. Tôi phải trả món nợ vì chơi chứng khoán. Oberstein đề nghị đưa tôi 5000 bảng , cứu tôi khỏi khánh kiệt. Tuy nhiên về cái tội giết người tôi hoàn toàn vô tội.

      - cầu ông hơn.

      - Mấy lúc gần đây, West nghi ngờ tôi và theo dõi tôi nhưng tôi hay biết trước khi ta tới nhà này.

      Sương mù bữa đó dày đặc, cách ba yard có thấy gì đâu. Tôi gõ hai lần và Oberstein ra mở cửa. Từ cánh cửa hé mở, West nhảy bổ tới, hỏi chúng tôi lấy bản vẽ làm gì. Oberstein liền cầm cái dùi cui đập vỡ đầu West, ném xác người thanh niên ra ngoài hành lang. Chúng tôi biết phải làm sao thanh toán cái xác này, chính lúc đó Oberstein mới các chuyến tàu đậu dưới cửa sổ sau nhà. Trước tiên, Oberstein xem xét các bản vẽ tôi mang tới. :

      - Ba bản này rất quan trọng, phải để lại đây.

      - được đâu, náo loạn khủng khiếp tại Woolwich nếu tôi mang trả lại!

      - Tôi phải giữ lại, bởi vì chúng quá rắc rối, có thời gian để sao chép.

      - Tất cả đều phải được trả lại ngay trong đêm - Tôi .

      suy nghĩ lúc rồi :

      - Thôi được, tôi giữ lại ba bản, còn mấy bản kia, ta bỏ vào túi chàng này. Khi xác chết bị phát nó lãnh đủ hết.

      thấy có giải pháp khác, chúng tôi làm như gợi ý: chúng tôi rình rập nửa giờ tại cửa sổ chờ chuyến tàu dừng lại. Sương mù dày đặc. Do đó chúng tôi dễ dàng vứt xác của Cadogan West lên mui xe. Đối với tôi, công việc chấm dứt tại đấy.

      - Còn của ông?

      - tôi gì với tôi, dù có lần bắt gặp tôi cầm mấy cái chìa khóa của ông. Tôi tin rằng ông ngờ vực tôi. Qua mắt ông, tôi nghĩ rằng ông biết tôi là thủ phạm. Như các ông biết, ông bao giờ nhìn mặt tôi nữa.

      yên lặng ngự trị căn phòng.

      - Đề nghị ông hãy làm lương tâm và giảm thiểu hình phạt của mình - Mycroft .

      - Tôi phải làm gì?

      - Oberstein cùng với các bản vẽ ở đâu?

      - Tôi biết.

      - Thằng khốn đó cho ông địa chỉ ư

      - có dặn, nếu cần viết thư cho tại khách sạn Le Louvre ở Paris.

      - Như vậy là được rồi - Holmes .

      - Tất cả những gì thuộc phạm vi khả năng của tôi, tôi làm hết. là nguyên nhân của suy sụp của tôi.

      - Đây là giấy bút, ngồi xuống viết theo lời tôi đọc: “Thưa ông, có lẽ ông nhận thấy ông còn thiếu chi tiết thiết yếu. Tôi còn giữ bức vẽ bổ sung toàn bộ. Tuy nhiên, tôi xin thêm 500 bảng nữa. Tôi gửi qua bưu điện, tôi chỉ nhận vàng hoặc giấy bạc ngân hàng. Tôi sẵn sàng nước ngoài để gặp ông, nhưng xuất ngoại của tôi chắc chắn gây ra tiếng ồn ào. Tôi đề nghị được gặp ông 12 giờ trưa thứ bảy tại quán ăn của khách sạn Charing”. Xong rồi, có chết nó cũng tới nhà.

      chạy tới. Đó là điểm lịch sử, lịch sử gián điệp có khi còn hấp dẫn hơn lịch sử công khai. Oberstein vì háo hức muốn hoàn tất nghiệp của đời mình, lọt vào bẫy và bị 15 năm tù. Trong va li của , có các bản vẽ của tàu ngầm Bruce Pardington. chuẩn bị bán đấu giá cho các hải quân châu Âu. Đại tá Walter chết trong tù. Còn Holmes quay về cuộc nghiên cứu nhạc. Tác phẩm được phát hành bằng vốn tư, người sành nhạc khen nó là công trình có giá trị.

      Vài tuần sau, tình cờ tôi hay tin rằng Holmes đến thăm cung điện Windsor. mang về viên ngọc bích tuyệt đẹp gắn kẹp cà vạt. Khi tôi hỏi, trả lời rằng, đó là quà tặng của mệnh phụ phu nhân kiều diễm. Tôi biết đấng mẫu nghi đó là ai và tôi tin rằng cái kẹp cà vạt đó luôn luôn nhắc nhở nhớ tới chuyến tìm bản vẽ của chiếc tàu ngầm Bruce Pardington.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      5. Sherlock Holmes hấp hối

      Bà Hudson, chủ nhà trọ của Sherlock Holmes là người cực kỳ kiên nhẫn. Chẳng những căn hộ của Holmes lúc nào cung đày ấp những người quái dị, mà Holmes lại lôi thôi lếch thếch cực cùng, ghiền nhạc vào giờ ngủ của mọi người, thói quen tập bắn súng lục trong phòng, các cuộc thử nghiệm hóa học vừa kỳ lạ, vừa hôi thối, các thô bạo và nguy hiểm bao quanh biến thành người thuê nhà bê bối nhất tại London. Tuy nhiên thanh toán tiền thuê nhà cách vương giả. Tôi chắc chắn rằng với tiền thuê căn hộ đó trong mấy năm bằng với số tiền mua toàn bộ ngôi nhà của bà Hudson. Bà này kính trọng và sợ ; bao giờ bà dám làm mất lòng . Bà cũng thương mến , bởi vì đối với phái yếu, Holmes cực kỳ dễ thương và lễ phép. Vì tôi biết mức độ tận tuỵ của bà Hudson, nên tôi chăm chú nghe câu chuyện bà kể tại nhà riêng của tôi trong năm thứ hai sau khi lấy vợ. Chuyện liên quan đến tình trạng đáng thuong của nhà thám tử tư tài ba này.
      - Ông gần chết rồi, thưa bác sỹ! - Bà báo như thế - Ông suy sụp cách đây 3 ngày, ngày nào tôi cũng tưởng ông qua khỏi. Ông muốn mời bác sỹ. Sáng nay tôi thấy xương của ông gần như đâm thủng da mặt. Trong cơn sốt, ông nhìn tôi bằng đôi mắt rực lửa, tôi nổi nóng: ‘Ông có cho phép hay cũng mặc, tôi mời bác sỹ ngay bây giờ.’ Ông ấy đáp: ‘Trong truờng hợp đó, tôi muốn bà mời Watson’. Tôi chạy vắt giò lên cổ tới đây ngaỵ Bác sỹ hãy đến đó mau để còn kịp vuốt mắt ông Holmes.
      Tôi kinh hoàng. Trong lúc ngồi xe ngựa tới phố Baker, tôi hỏi chi tiết, đuợc bà chủ nhà trả lời như sau:
      - Tôi biết gì nhiều. Ông ấy điều tra ở phía dưới khu Rotherhithe, gần sông Thames và mang bệnh này về. Ông nằm liệt giường vào ngày thứ tư và ngồi dậy nổi. Ba ngày nay ăn uống gì cả.
      - Sao bà mời bác sỹ?
      - Ông ấy đâu có chịu. Ông dư biết ông khó tính mà. Tôi đâu dám cãi lời. Ông còn sống mấy phút nữa đâu, chỉ nhìn sơ cũng đoán được.
      Quả cảnh tượng nát lòng chờ đợi tôi. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngày sương mù tháng 2, căn phòng ảm đạm thê lương lại thêm cái khuôn mặt xương xẩu cạn kiệt từ giường nhìn tôi, càng làm tôi lạnh người. Đôi mắt bốc lửa của cơn sốt, má đỏ au, những vẩy đen dán chặt vào môi, đôi tay run lập cập, tiếng rên rỉ, co giật từng cơn. Khi tôi vào, Holmes nằm bất động hoàn toàn. Khi nhìn thấy tôi, ánh chớp thoáng qua trong cái nhìn của :
      - Watson, tôi trải qua giai đoạn ngặt nghèo, phải ? - Holmes với giọng yếu ớt.
      - Holmes! - Tôi la lớn và bước tới.
      - Lui, lui ngay! - Holmes hùng hổ ra lệnh cho tôi - nếu tới gần, tôi mời ra khỏi nhà!
      - Tại sao?
      - Đó là ý muốn của tôi
      ràng bà Hudson ngoa. ấy dễ tính tí nào. Tuy nhiên, nhìn tình trạng đó, tôi vô cùng ái ngại.
      - sao, Holmes?
      nghiêm khắc của tan biến.
      - giận tôi chứ? Đó là vì quyền lợi của , Watson à! - Holmes từng tiếng.
      - Quyền lợi của tôi ư?
      - Tôi biết bệnh của mình. Đó là bệnh thường xảy ra trong giới phu ở Sumatra; căn bệnh mà người Hà Lan rành hơn chúng ta. Nhưng cho tới nay, họ cung phải bó taỵ Có điều chắc chắn là, nó truyền nhiễm khủng khiếp và ai mắc bệnh phải chết.
      Holmes năng cách cuồng vội. Hai bàn tay gầy gò run rẩy, ra lệnh cho tôi đứng yên.
      - Bệnh lây lan qua sờ mó, Watson à. Đúng rồi qua xúc giác. Đứng xa sao.
      - Vậy tôi phải dừng bước sao? Làm sao tôi có thể tránh né nhiệm vụ với bạn cố tri?
      Tôi bước tới nhưng Holmes lại giận dữ.
      - Nếu đứng yên tại đó, tôi tiếp chuyện với . Bằng về .
      Tôi tôn kính các biệt tài của Holmes đến nỗi tôi bao giờ dám coi thường lệnh , kể cả những lệnh mà tôi hiểu. Nhưng hôm đó tất cả bản năng nghề nghiệp của tôi đều trỗi dậy. Trong tất cả các phạm vi khác, ấy là chủ tôi; nhưng trong căn phòng này và người bệnh này, tôi lại là chủ của ấy.
      - Holmes à, người bệnh chỉ là trẻ thơ. chịu hay cũng mặc, tôi khám bệnh và chữa trị cho .
      ấy nhìn tôi đăm đăm.
      - Nếu bị bắt buộc, tôi phải đuợc điều trị bởi thầy thuốc mà tôi tin tưởng.
      - tin vào tài năng của tôi?
      - Vào tình bạn của tin chứ, nhưng nghĩ cho kỹ, chỉ là bác sỹ tổng quát, kinh nghiệm rất hạn chế và học vị rất tầm thường. xót xa phải như thế. cho tôi chọn lựa. Tôi đau xót lắm.
      - năng như thế là bất xứng, Holmes à. Chính cái cách năng của cho tôi thấy tình trạng tâm thần của . Nhưng nếu anhkhông tin tôi tôi tìm các danh y của thủ đô này.
      - quá tốt bụng! - Holmes thốt ra, vừa gầm gừ vừa rên xiết - muốn trình diễn ngu tối của à? biết gì, biết gì về sốt Tapannuli? biết gì về nhiễm độc đen Formosa.
      - Tôi chưa bao giờ nghe tới!
      - Ở phương Đông có nhiều bệnh lạ lắm... - ngừng để thở. - ...Tôi biết đuợc khá nhiều qua những cuộc nghiên cứu y khoa hình . Do các nghiên cứu đó mà tôi bị mắc bệnh. làm đuợc gì đâu.
      - Có thể. Tôi đuợc biết rằng bác sỹ Ainstree, cuốn tự điển sống về bệnh nhiệt đới, có mặt tại London này. Đừng bảo thủ quá. Tôi tìn ông ấy ngay bây giờ.
      Tôi cương quyết quay về hướng cửa. Bỗng tôi giật mình hoảng hốt. Chỉ trong giây đồng hồ, người hấp hối nhẩy bổ ôm chặt lấy tôi, và tiếng chìa khóa kêu cái cách trong ổ khóa. ấy chập chững rồi ngã đùng xuống giường, cạn kiệt, thở hổn hển.
      - Tha lỗi nhé. Lỡ đến đây rồi phải ngồi đó chờ ngẫu hứng của tôi thay đổi. - đứt quãng, luôn xen kẽ những giây phút ngừng để thở. - ... luôn lo cho tôi, tôi biết . Tôi nhượng bộ , nhưng cho tôi thời gian để lấy lại sức cái . Bây giờ chưa được đâụ Mới có 4 giờ, đến 6 giờ đuợc ra về.
      - Đó là xuẩn ngốc Holmes à.
      - Chỉ hai giờ mà thôi, Watson! Tôi hứa rằng tôi cho về lúc 6 giờ. Gắng chờ .
      - Tôi tin rằng tôi có tự do chọn lựa.
      - Đúng thế, Watson à cám ơn! Tôi cần người trải drap giường đâu. Hãy đứng ra xa, Watson à. Ngoài ra tôi cần đưa thêm điều kiện khác. cầu viện: nhưng phải người nêu tên, mà người tôi chỉ định.
      - Tùy .
      - Đó là hai tiếng hay nhất. có thể đọc mớ sách kia để giải khuây. Tôi hơi mệt. Lúc 6 giờ, chúng ta chuyện trở lại.
      Nhưng định mệnh buộc chúng tôi chuyện trở lại. Vài phút đầu, tôi ngồi nhìn đăm đăm cái hình dạng người nằm trơ trơ giường. Tấm ra che phủ gần hết khuôn mặt và hình như ngủ. Rồi vì thể đọc đuợc gì, tôi chậm rãi giáp phòng, nhìn chân dung các tên sát nhân nổi tiếng trang hoàng nơi các bức tường. Cuối cùng, tôi tới trước lò sưởi. mớ hổ lốn gồm có ống vố, bao da đựng thuốc sợi, ống tiêm, dao , vỏ đạn súng lục nằm la liệt kệ... Ở ngay giữa hộp bằng ngà voi, có nắp, có khe trượt. Thấy đồ vật đẹp nên tôi thò tay cầm lấy ...
      - Đừng!
      la lên tiếng vang rền như sấm, ngoài đuờng cũng nghe đuợc. Tôi nổi da gà, tóc dựng đứng. Tôi quay lại và hoảng vía trước cái nhìn hoang dại trong khuôn mặt nhăn nhó.
      - Để nó xuống ngay tức khắc! Tức khắc!
      Đầu Holmes rơi lại xuống gối và thở phào nhõm khi tôi để cái hộp lò sưởi trở lại.
      - Tôi thích người ta sờ vào đồ đạc của tôi. biết mà, làm tôi giận quá mức. Bác sỹ chọc bệnh nhân phát điên. Ngồi yên ông bạn, và để tôi nghỉ ngơi!
      Biến cố này làm tôi vui tí nào. nóng nảy thô bạo và vô cớ của Holmes, tỏ rối loạn thần kinh. Trong các sụp đổ, sụp đổ của tâm trí siêu việt rất là bi thương. Tôi ngồi tuyệt vọng, câm như hến, chờ thời hạn quy định trôi qua. Hình như cũng canh giờ cách sít sao, vì trước 6 giờ chút, bắt đầu với giọng bực dọc.
      - Watson, có tiền trong túi ?
      - Có.
      - Bao nhiêu đồng silver?
      - Khá đủ.
      - Bao nhiêu đồng nửa crown.
      - Năm.
      - À, quá ít, bỏ vào hầu bao. Còn tiền khác bỏ vào túi trái của quần dài. Cám ơn, làm vậy có quân bình hơn.
      mê sảng xuẫn động, ấy run lập bập, thốt ra từng tiếng giữa cơn ho thổn thức.
      - Giờ vặn ga lên. Canh sao khóa bao giờ đuợc xoay quá nửa vòng. Cám ơn, đúng vậy. Đừng! Khỏi hạ bức sáo. Giờ vui lòng để thư từ sách báo bàn này vừa tầm tay tôi. Cám ơn! Giờ mang lại đây vài thứ trong mớ hổ lốn lò sưởi. Tốt lắm. Có cái kẹp gắp đuờng, vui lòng dùng nó để cầm cái hộp bằng ngà đem về ở đây, giữa các tờ báo. Đuợc, giờ tới ông Culverton Smith, số 13 phố Hạ Burke.
      , lòng tôi còn muốn kêu đồng nghiệp nữa vì Holmes mê sảng đến nỗi tôi sợ dám bỏ ấy mình. Tôi thấy ta có vẻ thích đuợc gặp người vừa nêu tên.
      - Tôi chưa bao giờ nghe đến tên đó - Tôi đáp.
      - Có thể lắm. Có thể ngạc nhiên khi biết rằng, người rành về bệnh này phải là bác sỹ mà là chủ đồn điền. Ông Culverton là nhà trồng trọt nổi danh tại đảo Sumatra. nay, ông ta có mặt ở London. Trước đây, bệnh dịch hoành hành trong đồn điền của ông, tách biệt với mọi tiếp cứu y khoa buộc ông phải đích thân nghiên cứu nó và ông đạt đuợc những kết quả khả quan. Do đó đến trước 6 giờ chắc chắn gặp. Nếu thuyết phục đuợc ông ấy đến đây và chia sẻ với chúng ta cái kinh nghiệm hiếm có của ông tôi hy vọng đuợc cứu sống.
      Tôi ghi lại lời của Holmes như biết những lần ngắt đoạn để thở hoặc bởi co giật của đôi tay, sức khỏe của càng tồi tệ hơn kể từ khi tôi tới thăm. Má đỏ hơn, mắt có quầng rực lửa hơn, trán nhễ nhại mồ hôi lạnh.
      - cho ông ấy biết tình trạng của tôi - Holmes căn dặn - mô tả cho ông ấy cảm giác chính xác của về tình trạng chờ chết và hôn mê của tôi. Thực vậy, tôi thắc mắc tại sao toàn cái sàn đại dương khối rắn chắc làm bằng vỏ sò, vì vỏ sò hằng sa số mà. À, tôi sảng, óc chi phối óc, chuyện thiệt lạ. Tôi vừa gì thế, Watson?
      - Tôi phải làm gì khi gặp ông Culverton?
      - Ừ, đúng rồi, tôi nhớ ra rồi! Mạng sống của tôi tùy thuộc vào cuộc gặp gỡ này. Cố gắng năn nỉ, nghe Watson! Giữa ông ấy và tôi có chuyện hiềm khích đó. Cháu trai của ông ấy, Watson ạ. Tôi thấy có bất nghĩa nghiêm trọng. Tôi giải thích cho ông ấy, thằng bé chết, cái chết thê thảm. Ông ấy ghét tôi. dỗ ngọt ông ấy, Watson, bằng mọi cách, hãy đua ông ấy tới đây. Ông ấy có thể cứu tôi, chỉ có ông ấy mà thôi.
      - Tôi đua ông ấy tới đây bằng xe ngựa, dù phải sử dụng vũ lực.
      - Đừng! Đừng làm như thế! Thuyết phục thôi, và phải về đây truớc khi ông ấy tới. Đặt điều láo sao đó để về trước. Đừng quên, chưa bao giờ hiểu về tôi đó. Hiển nhiên là có tương sinh tương khắc để hạn chế tăng truởng của muôn loài. Tôi và mỗi đứa chúng ta đóng vai trò của mình. Thế giới bị xâm lăng bởi sò huyết ? đâu, vì khủng khiếp lắm. Truyền đạt cho ông ấy tất cả những gì nghĩ về tôi.
      Tôi ra , tâm trí nghi vẫn vơ về cảnh trí thông minh siêu quần bạt chúng năng, ngớ ngẩn như đứa con nít đần độn. trao chìa khóa cho tôi. Tôi mang chìa khóa để ấy tự nhốt mình. Bà Hudson đứng đợi ngoài hành lang, run lập cập và nước mắt đầm đìa. Khi tôi xuống cầu thang, tôi nghe tiếng cao vót và chói tai của Holmes hát bài điên loạn. Khi tôi gọi xe ngựa người đàn ông băng qua đuờng trong sương mù.
      - Ông Holmes ra sao, thưa ông?
      Đó là người quen biết lâu năm: thanh tra Morton thuộc Scotland Yard, mặc thường phục.
      - Ông ấy đau nặng lắm!
      Viên thám tử nhìn thẳng vào mặt tôi cách kỳ di.. Tôi thấy vẻ mặt hả dạ của ông ta.
      - Tôi có biết - Ông ta thầm.
      Chúng tôi chia tay. Tới nơi, tôi xuống xe. Phố Hạ Burke hai bên có nhà đẹp nằm trong khu giữa Notting Hill và Kensington. Nhà tôi tìm có bề ngoài hùng vĩ với các balcony bằng sắt, cửa lớn đồ sộ với hai cánh tay nắm bằng đồng bóng loáng. Cảnh đuợc bổ sung cái hài hòa bằng quản gia đứng thềm, dưới ánh sáng màu hồng phát sinh từ đèn điện để ở đằng sau.
      - Vâng, ông Culverton có ở đây. Bác sỹ Watson ư? Vâng, tôi trình danh thiếp của ông.
      Học vị và danh tính khiêm nhường của tôi hình như tác động gì đến ông Culverton. Xuyên qua cánh cửa hé mở, tôi nghe tiếng lớn, giọng hùng hổ, gây hấn:
      - Ai? Muốn gì? Trời ơi! Staples, bao lần tôi với rằng tôi muốn bị Quấy rầy trong những giờ nghiên cứu.
      tiếng của người quản gia.
      - Nhưng mà tôi tiếp y. Tôi để công việc của mình bị gián đoạn. Này, rằng tôi vắng nhà. Bảo ông ấy trở lại vào buổi sáng, nếu quả cần gặp tôi.
      Lại có tiếng thầm van lơn.
      - , , cứ chuyển lời của tôi. Phải đến vào buổi sáng. thôi, tôi muốn ai quấy rầỵ
      Tôi nghĩ tới Holmes nằm giường bệnh và có lẽ chờ giúp đỡ từng giây. Mạng sống của Holmes tùy thuộc vào lanh lẹ của tôi. Trước khi người quản gia kịp xá trước xá sau, tôi gạt y qua bên và lọt vào trong phòng. tiếng thét lên giận dữ! người đàn ông đứng lên khỏi ghế bành, gần lò sưởi. Tôi thấy khuôn mặt to tướng màu vàng, da mỡ và thô, cằm đôi nặng trịch, mắt xám, cau có, nhấp nháy dưới đôi chân mày rậm rạp. Chênh vênh góc đầu cao, hói, cái mũ chỏm bằng nhung đỏ đuợc đặt cách xinh xinh. Cái sọ đồ sộ. Tuy nhiên khi nhìn xuống, ta kinh ngạc thấy người này lùn tịt.
      - Cái màn gì đây? -Ông ta la lớn - Sao lại đột kích vào đây nhu vậy? Tôi bảo sáng mai tôi mới tiếp mà.
      - Tôi vô cùng hối tiếc - Tôi - Công chuyện quá khẩn cấp! Ông Sherlock Holmes!
      Tên của Holmes tạo ra hiệu quả phi thường. Tất cả vết tích giận dữ biến khỏi khuôn mặt người đàn ông con. Diện mạo trở nên căng thẳng, ngóng tin:
      - Ông Holmes nhờ ông tới đây?
      - Tôi mới rời ông ấy.
      - Ông ấy ra sao?
      - Trong tình trạng tuyệt vọng. Đó là lý do khiến tôi tới đâỵ
      Chủ nhà chỉ cho tôi cái ghế, rồi quay lưng lại ngồi xuống. Nhìn cái kính soi để lò sưởi, tôi thấy mặt ông, nụ cười ác độc, ghê tởm rực sáng. Nhưng khi ông ta quay về hướng tôi, các đuờng nét của ông hoàn toàn bình thản:
      - Tôi rất buồn trước cái tin này - Ông chậm rãi - Tôi chỉ quen ông Holmes qua vài công việc phải hợp tác với nhau. Tôi vô cùng kính trọng tài năng và tính tình của ông ấy. Ông ấy thích nghiên cứu tội ác, y hệt như tôi thích nghiên cứu về bệnh. Kia là những nhà tù của tôi - Ông chỉ tay về dãy chai lọ mỗi cái bàn ngang - Vài thằng trong đám sát nhân của thế giới thọ hình trong các lọ đó.
      - Do kiến thức đặc biệt của ông mà ông Holmes ước mong đuợc gặp ông. Ông ấy coi ông là danh tài và nghi rằng ông là ngườì duy nhất có thể cứu sống ông ấy.
      Người đàn ông con nhảy dựng lên và cái mũ chỏm rơi xuống thảm.
      - Sao? Tại sao ông Holmes cho rằng tôi có thể cứu sống ông ấy?
      - Tại vì ông rành về các bệnh ở Đông phương.
      - Nhưng do đâu ông ấy cho rằng bệnh của mình là bệnh Đông phương.
      - Vì trong cuộc điều tra hình , ông có làm việc với công dân Trung Hoa tại bến tàu.
      Ông Culverton cười khoái trá, cúi nhặt cái mũ chỏm.
      - A! Đấy là nguyên nhân, đúng thế ạ? Tôi hy vọng rằng bệnh đến nỗi nghiêm trọng như bạn đoán. Từ bao lâu rồi?
      - Ba ngày.
      - Hôn mê ?
      - Thỉnh thoảng thôi.
      - Ừm, ừm! Có vẻ nghiêm trọng. đáp lời kêu cứu là vô nhân đạo. Nhưng tôi rất ghét bị quấy rầy lúc làm việc, bác sỹ Watson à! Nhưng việc này có tính đặc biệt. Tôi theo ông ngay.
      Nhớ lời Holmes dặn....
      - Tôi còn cái hẹn khác. Tôi xin khiếu từ.
      - Đuợc thôi, tôi mình. Tôi có địa chỉ của ông Holmes, ông yên tâm. Trong vòng nửa giờ hay hơn chút, tôi có mặt tại đằng đó.
      Tôi buớc vào phòng của Holmes, lòng nặng trĩu. Có thể có chuyện lành xảy ra trong lúc tôi vắng mặt. Tôi nhõm khi biết rằng khả quan hơn. Holmes vẫn còn dáng con ma, nhưng còn bậy nữa. Vẫn năng yếu ớt, nhưng sáng suốt và rạch ròi chưa giã từ ta.
      - Sao, gặp đuợc ông ấy ?
      - Có, ông ta đến.
      - Tuyệt, Watson! Tuyệt! sứ giả tài ba.
      - Ông ấy muốn theo tôị
      - Ý, đừng. thể đuợc! Ông ấy có hỏi tôi bệnh gì ?
      - Tôi có với ông ấy về người Trung Hoa ở khu Esat End.
      - Đúng như thế! làm tất cả những gì mà người bạn tốt phải làm. Giờ đây, phải tạm rời khỏi sân khấu.
      - Tôi phải chờ để nghe ý kiến của ông ấy.
      - Đuong nhiên! Nhưng ý kiến của ông ta thành và có giá trị hơn nhiều nếu ông ấy thấy có ngưới thứ ba. Có đủ chỗ để nấp sau đầu giường tôi.
      - Thế nào?
      - Đâu có chỗ nào khác đâu! Chỗ khác bị lộ. Nhưng tại chỗ đó, ngay tại chỗ đó, tôi tin là đuợc mà....
      Thình lình, Holmes ngồi dậy và khuôn mặt hốc hác lộ vẻ hung hăng.
      - Kìa có tiếng bánh xe, Watson. Nhanh lên, nếu thương tôi, và nhớ ngồi im dù có việc gì xảy ra... dù có việc gì xảy ra, nghe chưa? im lặng tuyệt đối. đuợc cựa quậy, chỉ nghe thôi.
      Chỉ giây lát, cái sức mạch cố hữu đột ngột tan biến hẳn rồi cái giọng chỉ huy nhường chỗ cho những lời thầm vô nghĩa của người hôn mê. Từ nơi nấp, tôi nghe tiếng bước chân lên cầu thang và cửa mở rồi đóng lại. Tiếp đó, lạ lùng thay, yên lặng dài ngự trị. Thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi tiếng rên rỉ và hơi thở nặng trịch của người bệnh. Tôi tưởng tượng rằng khách đứng gần giường và quan sát Holmes. Cuối cùng im lặng nặng nề đó chấm dứt.
      - Holmes! - Ông khách la lớn - Holmes! - Tiếng ông giống tiếng ai đó đánh thức người ngủ mê - Ông nghe đuợc tiếng tôi gọi hay sao, Holmes?
      Có tiếng sột soạt, như thế ông khácg lay mạnh đôi vai của bệnh nhân.
      - Là ông đấy ư.... ông Smith ....? - Holmes thào - Tôi đâu ... dám ... hy vọng ông đến.
      Khách cười lớn tiếng.
      - Cũng là bất ngờ đối với tôi nữa. Tuy nhiên, ông thấy , tôi có mặt tại đâỵ
      Than hồng, Holmes à! Than hồng.
      - Ông quả là hào hiệp .... Tôi thán phục các kiến thức đặc biệt của ông.
      Người khách cười nửa miệng.
      - Ông thán phục chúng nó. May thay ở London này chỉ có ông thán phục chúng nó. Ông có biết bệnh ông là bệnh gì ?
      - Cùng bệnh thôi - Holmes đáp.
      - A, ông nhận ra các triệu chứng của nó à?
      - Tôi quá rành.
      - Tôi ngạc nhiên khi thấy các triệu chứng giống nhau. Như vậy là tàn đời ông rồi. Thằng Victor đáng thương chết vào ngày thứ tư, tuy nó trẻ và can đảm. Như ông nhận xét, là nó mắc bệnh phương đông khá hiếm ngay giữa lòng London. bệnh mà tôi lại là người độc nhất nghiên cứu kỹ. trùng hợp kỳ lạ, hả ông Holmes?
      - Tôi dư biết ông là tác giả.
      - Ồ ông biết sao? Nhưng ông thể chứng minh đuợc đâu. Ông nghĩ sao về người dám rêu rao như vậy về tôi, để rồi phảỉ bò lê dưới đất van xin tôi cứu giúp khi lâm bệnh?
      Tôi nghe hơi thở hổn hển của người bệnh.
      - Cho tôi uống nước. - Holmes thào.
      - Gần đứt rồi, ông bạn à. Nhưng tôi muốn ông chết trước khi chúng mình có cuộc chuyện ngắn. Đó là lý do tại sao tôi đưa nuớc cho ông nè. Coi chừng đổ! Tốt! Ông có hiểu tôi muốn ?
      Holmes càu nhàu.
      - Vui lòng giúp tôi - Holmes hổn hển - Tôi thề rằng tôi quên những gì tôi . Chữa lành cho tôi tôi quên điều đó.
      - Quên cái gì?
      - Trường hợp cái chết của Victor. Ông mớí nhìn nhận rằng ông giết nó. Tôi quên chuyện đó.
      - Ông quên hoặc nhớ tùy thích. Tôi thấy ông trong hàng ngũ nhân chứng đâu. Thay vào đó, tôi thấy ông trong hàng ngũ khác, ông bạn thân . Việc ông biết cháu tôi chết cách nào, điều đó còn quan trọng đối với tôi. Chúng ta chuyện về nó mà chuyện về chính ông.
      - Đúng thế!
      - Thằng cha tìm đến tôi... Tôi quên tên y rồi... Y với tôi rằng ông mắc bệnh tại khu East End trong giới thủy thủ.
      - Tôi tin như vậy!
      - Ông hãnh diện về cái óc của ông phải , Homles? Ông tưởng rằng ông khôn lắm, phải ? Vậy giờ ông gặp người khôn hơn ông, duy nhất lần! Giờ đây ông hãy cố gắng hồi tưởng chuyện cũ. Ông thấy trường hợp khác trong đó ông có thể mắc bệnh?
      - Tôi nghĩ ra, tâm trí tôi sút kém rồi. Tôi van ông giúp tôi nhớ lại.
      - Vâng, tôi giúp ông. Tôi giúp ông hiểu cách dễ dàng tình trạng nay của ông và tại sao ông lâm vào tình trạng này? Tôi cho ông biết điều này trước khi ông chết.
      - Hãy cho tôi cái gì đó để giảm đau.
      - Đau nhói phải ? Đúng rồi. Bọn cu-li thét lên lúc gần chết! Đau nhói như bị rút gân, tôi chắc chắn mà?
      - Đúng, đúng! Gân tôi bị rút!
      - Này! Nghe đây! Ông có nhớ biến cố bất thường xảy ra bao lâu trước khi có các triệu chứng này?
      - , nhớ gì cả.
      - Suy nghĩ lại xem?
      - Bệnh gần chết mà suy nghĩ cái gì?
      - Tôi cố gắng giúp ông, ông có nhận đuợc vật gì gởi qua bưu điện ?
      - Qua bưu điện?
      - Đúng, cái gói, có nào?
      - Tôi mệt quá rồi, tôi nữa đâu!
      - Nghe đây, ông Holmes.
      tiếng động như thể y lay động người sắp chết và tôi phải tự kìm mình để chạy ra.
      - Ông phải nghe tôi, ông có nhớ cái hộp? cái hộp bằng ngà voi? Nó đến hôm thứ tư, ông mở nó ra... ông nhớ ?
      - Vâng, tôi có mở nó ra, có lò xo nhọn đầu bên trong. trò chơi khăm...
      - phải trò đùa đâu. Đến chết mới biết! Đồ ngu ngốc, tự chuốc lấy cái chết! Ai bảo ông cản đuờng tôi? Nếu ông để tôi yên, tôi hại ông làm gì?
      - Tôi nhớ ra rồi - Holmes bập bẹ - Cái lò xo ... nó đâm tôi chảy máu. Cái hộp kia ... bàn đó.
      - Đúng cái này. Chúa ơi! Tôi bỏ túi đem về. Như vậy là đâu còn bằng cớ gì nữa. Giờ đây, ông biết chết và đừng có ân hận nhé! Ông biết quá nhiều về cái chết của Victor Savage. Tôi giúp ông theo nó. Gần kề rồi Holmes à. Tôi ngồi đây chờ ông chết.
      Tiếng của Holmes bây giờ quá thể nghe đuợc.
      - Cái gì? - Culverton - Hết ánh sáng sao? À, bóng đèn của ti bắt đầu buông xuống, phải chăng? Đúng thôi. Tôi thắp đèn sáng choang để nhìn thấy lúc ông chết ...
      Ông băng qua căn phòng và đèn rực sáng căn phòng
      - Ông bạn thân còn cần giúp đỡ mọn nào khác?
      - điếu thuốc và que diêm!
      Suýt chút nữa mừng rỡ và kinh ngạc xô tôi ra khỏi nơi trú . Holmes với thanh bình thường, tuy còn yếu. Nhưng tôi nhận tiếng của ấy. yên lặng kéo dài, và tôi đoán rằng Culverton trố mắt tròn xoe nhìn người bệnh.
      - Thế nghĩa là gì? - Y cách cụt ngủn và chát chúa.
      - Cách tốt nhất để diễn xuất - Holmes - Là phải nhập vai. Ông có tin rằng ba ngày nay tôi ăn uống gì, trừ cốc nước mà ông có lòng tốt mới đưa cho. Nhung đối với điếu thuốc quả khó khăn hơn! À, có thuốc đây.
      Tôi nghe thấy tiếng diêm quẹt.
      - Tôi khỏe nhiều rồi. Hay quá! Bước chân của người bạn thân chăng?
      Những bước chân vang dội đằng xa lại. Cánh cửa mở, thanh tra Morton xuất .
      - Đâu vào đó cả rồi. Đây chính danh là thủ phạm! - Holmes .
      Viên cảnh sát lên vài sáo ngữ cần thiết rồi kết luận:
      - Tôi bắt ông về tội giết người tên Victor Savage.
      - Và ông còn có thêm tội danh mưu sát ngườì mang tên Sherlock Holmes nữa -Holmes vừa nhận xét vừa cười - Ngoài ra trong túi măng-tô của tù nhân còn có cái hộp mà ta nên lấy lại. Nó hữu ích vào lúc tòa xử.
      tiếng động của xô đẩy , tiếng va chạm của đồ sắt và tiếng kêu đau.
      - Cựa quậy chỉ làm ông đau đớn hơn mà thôi! - Viên thanh tra của sảnh sát - Vui lòng đứng yên.
      Tôi nghe tiếng lách cách của đôi còng khóa lại.
      - Gài bẫy hay - Tiếng giọng cao thốt lên - Chính ông Holmes mới là người ra tòa chứ phải tôi; ông ấy mời tôi đến chữa bệnh, nên tôi mới đến. Giờ đây ông cứ láo , láo tùy thích ông Holmes ạ! Tuy nhiên lời của tôi vẫn có giá trị hơn lời của ông.
      - Chúa ơi - Holmes lớn - Tôi quên hẳn chứ. Ông bạn Watson thân ! ra đây! Tôi xin lỗi 1000 lần! Tôi giới thiệu với ông Culverton vì hai người gặp nhau lúc đầu hôm. Có xe ngựa bên dưới ? Tôi xuống sau, xin phép thay quần áo! Tôi cũng có ích phần nào cho quý vị tại sở cảnh sát.
      Trong lúc nốc cốc rươụ vang, ăn bánh biscuit và mặc quần áo, Holmes với tôi:
      - Chưa bao giờ đói như hôm nay. Như biết, tôi đều đặn lắn về ăn uống, do đó đối với tôi, nhịn đói tác động mạnh như đối với nhiều người khác. Tuy nhiên tôi cần dàn cảnh để bà Hudson tưởng lầm mà báo động với , và tới phần thông báo cho Culverton Có phiền , Watson? Nên nhớ rằng trong các biệt tài của , ngụy trang có chỗ đứng. Nếu bị tôi bịp có khả năng thuyết phục Culverton đến đuợc. Do biết tính khí thú vật của y, tôi chắc rằng y tới để chiêm ngưỡng kiệt tác của mình.
      - Còn cái vẻ bề ngoài. Holmes! Khuôn mặt thây ma?
      - Nhịn ăn, nhịn uống ba ngày liền làm sao còn đẹp trai đuợc, Watson. Ngoài ra lấy khăn lau thấm nước quẹt cái là xong thôi. ít vaseline trán, cà dược trong mắt, son má và vấn mảnh sáp môi là khá đạt. Trang điểm là đề tài mà tôi thường có ý muốn viết ra lược thảo. lung tung về đồng nửa crown, về sò huyết hoặc bất cứ cái quái dị làm cho ngườì ta lầm tưởng mình sảng.
      - Nhưng tại sao muốn tôi đến gần, bởi vì đâu có rủi ro truyền nhiễm?
      - Còn phải hỏi! Bộ tưởng tôi coi tài năng y khoa của à? Cho đến gần, để nhận ra màn kịch này sao?
      Đứng xa bốn thước gạt đuợc. Nếu gạt đuợc ai thuyết phục Culverton tới nạp mình? Còn cái hộp, đụng tới nó đâu đuợc. Nhìn nó, thấy cái lò so nhọn đầu có thể bung ra như lưỡi rắn lục. Chính bằng dụng cụ tương tự mà thằng bé Victor đáng thuong bị giết chết. Thư từ của tôi như biết khá tạp nhạp, nên tôi luôn thận trọng khi nhận các bưu kiện. Tôi ngụy trang có tài tình ? Khi làm việc xong tại sở cảnh sát, ta chén nhé.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      6. Quý bà mất tích

      - Đúng kiểu Thổ phải ? – Holmes bất chợt hỏi trong khi nhìn chằm chằm vào đôi giày bốt của tôi.
      Tôi chống cây gậy, và tôi nghĩ là nó thu hút ý nghĩ của ấy.
      - Đồ đó chứ! – Tôi hơi ngạc nhiên – Tôi mua nó ở tiệm Latimer, phố Oxford.
      Holmes mỉm cười, với vẻ kiên nhẫn mệt mỏi.
      - Ý tôi là cái nhà tắm hơi kiểu Thổ! Tại sao lại đến đó, vừa đắt vừa thoải mái bằng nghỉ ngơi ở nhà.
      - À, mấy hôm trước tôi cảm thấy hơi bị nhức mỏi. Tắm hơi kiểu Thổ, theo y học, cuộc vệ sinh toàn diện nhất. Mà Holmes này! Tôi nghi ngờ gì về mối liên hệ logic giữa đôi giầy bốt với các nhà tắm Thổ, nhưng có thể và chi tiết hơn được ?
      - Bài học về suy luận cũng biết rồi mà – Holmes , với chút giễu cợt trong ánh mắt – Tôi minh họa cho thấy hơn nếu liên tưởng đến việc bằng chiếc xe ngựa nào lúc sáng nay.
      - Tôi thích minh họa. có thể giải thích được – Tôi bắt đầu cáu.
      - Bravo, Watson! lời khuyên rất logic. Rồi, đầu tiên tôi biết được gì. Trước hết là chiếc xe ngựa. có để ý là tay và vai áo choàng bên trái của có vệt nước bị bắn lên ? Nếu ngồi giữa chiếc xe ngựa bị điều này! ràng là ngồi bên! Và điều đó có nghĩa là có người ngồi cạnh .
      - Điều đó hiển nhiên.
      - Nhìn chung, có điều gì vô lý.
      - Nhưng còn đôi giầy ống và cái nhà tắm?
      - Cũng dễ như ăn kẹo. có thói quen giày theo cách nhất định. Tuy nhiên tôi nhìn thấy cách buộc giày giống với cách thường làm của . đoán ra điều gì rồi chứ? Có người buộc giày cho . Chỉ có thể là thợ đóng giày hoặc chú nhóc phục vụ ở nhà tắm. Nhưng thể là thợ đóng giày trong khi đôi giày gần như mới nguyên. Như vậy chỉ còn lại cái nhà tắm. Có điều gì vô lý ? Nhưng, cho tất cả cái đó, cái nhà tắm Thổ phục vụ mục đích khác.
      - Ý sao?
      - làm vậy vì cần thay đổi. Cho phép tôi gợi ý rằng ý nhé. Tại sao ở Lausanne làm thế, Watson thân mến? Những vé hạng nhất và những chi tiêu hoang phí?
      - sang trọng! Nhưng sao?
      Holmes tựa lưng vào ghế và rút sổ tay ra.
      - trong các hiểm nguy lớn trong xã hội là người đàn bà đơn du lịch. Bà phiêu bạt từ nơi này sang nơi khác, sống tại khách sạn hoặc tại các nhà trọ tư nhân. Bà giống như chú gà con lạc giữa bầy chồn cáo. Khi bị nhốt rồi ít ai hay biết. Đó là trường hợp mà tôi nghi là xảy ra cho quý bà Frances Carfax.
      - Ðó là bà nào vậy? - Tôi hỏi.
      - Quý bà Frances, là người duy nhất còn sống của gia đình cố hầu tước De Rufton. Bà được thừa kế nhiều của cải gồm đồ nữ trang Tây Ban Nha rất xưa bằng bạc hoặc bằng kim cương mài rất khéo. Những kim cương mà bà gắn bó đến nỗi chịu gửi cho ngân hàng, trái lại bà mang theo mình khắp thế giới.
      - Chuyện gì xảy đến cho bà vậy?
      - À, chuyện gì ư. Bà còn sống hay chết. Ðó là bài toán của chúng ta. Bà có những thói quen đều đặn. Từ 4 năm nay, cứ 15 ngày là viết thư cho bà Dobney, người quản gia già ở Camberwell. Chính bà Dobney đến gặp tôi. Gần 5 tuần rồi, chả có tin tức gì của bà ta cả. Bức thư cuối cùng được viết từ khách sạn National ở Lausanne. Hình như vị mệnh phụ kia rời khách sạn mà để lại địa chỉ. Gia đình giàu có này rất lo lắng, những số tiền vô cùng lớn lao đặt dưới quyền sử dụng của chúng ta để làm sáng tỏ vấn đề.
      - Bà Dobney có phải là nguồn tin tức độc nhất hay . Quý bà Frances chắc chắn còn có những người nhận thư khác?
      - Chỉ có người nhận thư độc nhất, đó là ngân hàng. Các sổ chi phiếu của họ là những nhật ký gọn gàng. Ngân hàng của bà ấy là ngân hàng Sylvester. Tôi có kiếm tra lại tài khoản của bà. Cái chi phiếu áp chót bà ký để thanh toán tiền khách sạn ở Lausanne. Kể từ đấy, bà chỉ ký thêm chi phiếu.
      - Ký cho ai và ký từ đâu?
      - Cho Marie Devine, nhưng thấy ghi nơi ký. Tiền được ghi tại ngân hàng Credit Lyonnais ở Montpellier cách nay chưa tới ba tuần. Ðó là chi phiếu 50 bảng .
      - Marie Devine là ai?
      - Người hầu của bà ta. Chúng ta chưa biết tại sao ta được chi phiếu này? Tuy nhiên các tra cứu của chắc chắn làm sáng tỏ cái bí mật này.
      - tra cứu của tôi?
      - biết rằng, tôi chưa có thể rời London khi mà lão già Abrahams vẫn còn sống trong kinh hoàng. Lại nữa, cơ quan Scotland Yard cảm thấy bị bỏ rơi nếu tôi vắng và vắng mặt của tôi làm cho giới sát nhân cựa quậy. Vậy là Watson, phải , và nếu cần hỏi ý kiến của tôi tôi sẵn sàng trả lời, dù ngày hay đêm. Tôi chỉ lấy giá rẻ là 2 penny cho lời khuyên.
      Hai ngày sau, tôi tới khách sạn National ở Lausanne. Nơi đây tôi được ông Moser đón tiếp nồng hậu. Vị giám đốc này cho tôi biết quý bà Frances ở tại khách sạn nhiều tuần lễ và được nhiều người ái mộ. Bà vẫn đẹp, có thể lúc còn trẻ, bà là hoa khôi. Ông Moser biết gì về số nữ trang của bà. Nhưng các nhân viên có để ý tới cái rương nặng trịch trong phòng của bà luôn được khóa kỹ. hầu Marie Devine cũng được mến như bà chủ. ấy vừa hứa hôn với nam bồi phòng tại khách sạn nên tôi xin địa chỉ của dễ dàng. ngụ tại số 2 Rue de Trajan, tỉnh Montpellier của Pháp. Tôi ghi chép kỹ lưỡng và tự hào rằng dù cho Holmes có ở đây cũng thu lượm tin tức nhiều hơn.
      Còn điểm vẫn mù mờ. Tôi thu lượm được chi tiết nào giải thích ra đột ngột của bà mệnh phụ ở Lausanne, bà rất sung sướng. Mọi người tin rằng bà ở lại suốt mùa này trong căn hộ xa hoa, ngó ra hồ. Bà ra vào ngày đẹp trời, hề báo trước, bỏ hẳn tuần lễ tiền khách sạn. Jules Vibart, vị hôn phu của hầu là người độc nhất đưa ra giả thiết. cho rằng ra đột ngột này có liên hệ với thăm viếng trước đó hay hai ngày của chàng to con, râu quai nón đen.
      - thằng mọi! thằng mọi - Jules Vibart với tôi. - Ông ta ở đâu đó trong thành phố. Người ta thấy y chuyện cách say đắm với bà mệnh phụ trong cuộc dạo hồ, rồi y có đến khách sạn. Bà ấy từ chối gặp y.
      Ðó là người , ai biết tên. Ngay sau đó mệnh phụ dọn nhà. Vị hôn thê của Jules Vibart cũng chú ý đến mối tương quan giữa cuộc viếng thăm và dọn nhà. Jules Vibart đưa ra được cái động cơ khiến Marie bỏ bà chủ. Nếu muốn biết, tôi phải Montpellier hỏi ngay ta. Chương đầu các điều tra của tôi kết thúc như thế.
      Tôi dành chương hai cho nơi mà quý bà Frances Carfax, sau khi rời Lausanne. Trong chiều hướng này, tôi vấp phải . Nếu bà ta giấu lộ trình, tại sao hành lý được ghi ràng là Baden? Và cả bà lẫn hành lý cũng tới cái thành phố nước khoáng này, theo lộ trình rất ngoằn ngoèo. Tôi được biết điều này qua ông giám đốc công ty du lịch địa phương. Do đó tôi lên đường Baden sau khi gửi cho Holmes bản tường trình. Tôi nhận hồi ca ngợi đượm mùi hài hước.
      Tại Baden, tôi tìm ra vết tích của bà khó lắm. Bà ta ở khoảng 15 ngày tại Englischer Hof. Trong khi lưu ngụ tại đó, bà làm quen với ông bà tiến sĩ Shlessinger: đó là gia đình truyền giáo từ Nam Mỹ về. Giống như nhiều người đàn bà đơn khác, người đàn bà này tìm quên nỗi buồn trong tôn giáo. Nhân cách của tiến sĩ, lòng mộ đạo và tận tụy của ông, cộng với việc ông tĩnh dưỡng sau cơn bệnh mà ông vướng phải trong khi truyền đạo, tạo ra cảm giác rất tốt đẹp nơi bà. Theo tường thuật của giám đốc khách sạn sáng nào ông cũng ngồi phơi nắng ghế dài ngoài hàng hiên mỗi bên người đàn bà canh chừng.
      Sau khi bình phục, ông cùng vợ lên đường London và quý bà Frances Carfax cũng rời khách sạn để theo họ. Chuyện đó xảy ra cách đây ba tuần và kể từ đó, ông giám đốc có tin tức gì nữa. Về phần nữ hầu, ra vài ngày trước, khóc như cha chết và báo cho các nữ bồi phòng khác rằng rời bà chủ cách vĩnh viễn. Trước khi , tiến sĩ Shlessinger thanh toán tiền lương cho toàn nhóm. Ðã kết luận, ông giám đốc còn tiết lộ rằng ông phải là người duy nhất lo lắng cho số phận của quý bà Frances Carfax.
      - Cách đây khoảng tuần, có người khác tới đây hỏi tôi những câu hỏi tương tự.
      - Ông ấy có tiết lộ danh tánh ? - Tôi hỏi.
      - . Nhưng tôi biết là người , người hơi khác thường.
      - thằng mọi, phải ? Tôi vừa vừa ra dấu theo cách thức của ông bạn nổi tiếng của tôi.
      - Ðúng thế. Ðó là cái từ rất tương xứng với y. Ông hãy tưởng tượng con người đồ sộ, râu ria xồm xoàm, da đồng. Ðúng ra, y nên ngụ tại quán trọ đồng quê hơn là tại khách sạn danh tiếng. người cứng cáp và hung hãn. người mà tôi bao giờ dám dậm chân.
      Bí mật dần dà lộ từng đường nét, y hệt dáng từ từ thoát ra khỏi sương mù, người đàn bà mộ đạo bị săn đuổi bởi chàng ma quái và kiên gan. Bà ấy sợ y, bằng bà đâu có trốn khỏi Lausanne. Y đuổi theo bà ta. Chóng chầy cũng đuổi kịp. Kịp rồi chưa? Có có phải là lý do khiến bà im bặt. Các người khổ ải tháp tùng bà có khả năng che chở bà khỏi hung bạo của thằng mọi thô lỗ? Ý đồ gớm ghiếc nào làm động lực cho cuộc săn lùng này? Ðó là bài toán tôi phải giải đáp.
      Tôi viết thư cho Holmes, thông báo nhanh chóng và nghiêm túc mà tôi vận dụng để vào cội rễ của nội vụ. Ðáp lại tôi nhận được lá thư bảo tôi mổ xẻ lỗ tai trái của tiến sĩ Shlessinger. Holmes có tật hay pha trò, đôi khi lố bịch, nên tôi bận tâm với cái trò giễu cợt sai chỗ này. cho đúng, khi tôi vừa đến Montpellier và tìm hầu Marie thư của Holmes đến nơi.
      Tìm lại và khai thác này là khó đối với tôi. Là người tận tình, này chỉ rời chủ sau khi biết chắc rằng chủ có gì nguy hiểm và cũng vì gần ngày lấy chồng. tâm rằng chủ của có tỏ ra cáu kỉnh với lúc ở Baden. Có lần hỏi bà chủ xem có ngờ vực lương thiện của mình . Chính việc này góp phần làm dễ dàng chia tay. Mệnh phụ Frances có cho 50 bảng làm quà đám cưới.
      - Tôi nghi ngờ kẻ vô danh kia khiến bà chủ tôi bỏ Lausanne qua Baden. Chính tôi thấy y nắm cổ tay của bà chủ tôi cách lộ liễu trong cuộc du ngoạn hồ. Y có vẻ hung hãn, dữ tợn.
      còn cho rằng vì sợ y mà mệnh phụ Frances phải tháp tùng theo vợ chồng tiến sĩ Shlessinger qua London. bao giờ bà tiết lộ tí gì với cả. Tuy nhiên qua nhiều dấu hiệu, hầu biết rằng bà chủ mình sống trong tình trạng sợ hãi. tới đó, đột ngột đứng dậy, khuôn mặt bấn loạn vì ngạc nhiên và sợ hãi.
      - Nhìn kìa! - kêu lên - Thằng khốn săn mồi. Nó là người mà tôi vừa đến.
      Qua cửa sổ của phòng khách , tôi thấy người cao lớn, râu đen ưỡn ra trước, chầm chậm xuôi theo đường phố, mắt nhìn các số nhà. ràng, y tìm hầu. Tôi nhảy bổ ra và kè y ngay.
      - Ông là người ?
      - Thí dụ là thế . - Y gầm gừ.
      - Tôi có thể biết được quí danh?
      - được?
      Tôi cụt hứng, nhưng vẫn dõng dạc hỏi:
      - Bà Frances Carfax ở đâu?
      Y trố mắt nhìn tôi, hỏi lại:
      - Ông làm gì bà ấy? Tại sao ông săn đuổi bà ấy. Tôi cầu được trả lời.
      ta gào thét lên vì giận dữ rồi vồ lấy tôi. Tôi đấm đá tệ, nhưng y mình đồng da sắt, lại hung hăng như cọp. Y thộp cổ tôi và tôi sắp ngã công dân Pháp râu ria lởm chởm trong đồng phục xanh, từ quán rượu chạy ra, tay cầm cây gậy ngắn, đập mạnh vào cánh tay trước của hung thủ. Y buông tôi ra, đứng im nhìn tôi trừng trừng và muốn vồ lấy tôi lần nữa. Thình lình y cười chế nhạo, bỏ tôi lại và vào cái biệt thự tôi vừa chạy ra. Tôi quay lại, cám ơn người cứu mạng đứng cạnh tôi lề đường.
      - Nào, Watson! - Người này - quậy rối bời, làm ơn quay về London với tôi bằng chuyến tốc hành đêm nay.
      giờ sau, Sherlock Holmes với trang phục thường nhật ngồi trong phòng khách sạn của tôi. giải thích cho tôi có mặt bất ngờ và đúng lúc của . rời London, hóa trang thành công nhân, ngồi trong quán rượu chờ tôi.
      - Watson, tiến hành cuộc điều tra lớp lang cách kỳ diệu. Tôi thấy sơ hở nào cả. Tuy nhiên, tất cả hoạt động của có thể được tóm tắt như vầy: báo động tứ tung để chẳng kiếm ra được cái gì cả.
      - Có thể hơn tôi? - Bị chạm tự ái, tôi đáp.
      - phải “có thể” mà là “chắc chắn”. Ðây là bá tước Philip Green, đồng hương và ngụ cùng khách sạn với . Chính ở ông, tôi chờ đợi khởi điểm cho cuộc điều tra tốt hơn.
      Trong cái mâm , bản đồ được trình lên cho chúng tôi. Người mang mâm là nhân vật râu ria xồm xoàm mới đánh tôi ngoài đường. Ông này nhảy dựng lên khi thấy tôi.
      - Nghĩa là sao, ông Holmes. Nhận được lời nhắn của ông, tôi tới đây ngay. Nội vụ có gì hên quan tới cái ông này?
      - Tôi xin giới thiệu cùng ông, người bạn cố tri và cộng tác viên của tôi, bác sĩ Watson, tiếp tay với chúng ta trong vụ này.
      Người lạ đưa bàn tay đồ sộ, sạm nắng và thốt ra vài lời xin lỗi.
      - Tôi hy vọng làm ông bị thương. Khi nghe ông cáo buộc tôi quấy phá bà ấy, tôi điên tiết, lúc đó tôi tự chủ được. Thôi, điều trước tiên tôi muốn là vì sao ông biết được dính líu của tôi.
      - Tôi có tiếp xúc với bà nữ quản gia của mệnh phụ.
      - Bà lão Susan Dobney đội cái mũ ? Tôi nhớ lắm!
      - Bà ấy nhớ ra ông trong những ngày xa xưa đầy thú vị, lúc ông chưa Nam Phi.
      - À, vậy là ông hiểu câu chuyện của tôi. Tôi còn phải che giấu ông điều gì. Tôi thề với ông, ông Holmes à, đời này chưa có người đàn ông nào thương người đàn bà hơn mối tình tôi dành cho Frances. Lúc đó tôi là thằng mọi con, tôi biết. Nhưng tôi tệ hơn nhiều đứa cùng tuổi. Nhưng ấy có tâm trí thuần khiết như tuyết, nên hay biết vài tội lỗi của tôi lúc thiếu thời, muốn chuyện với tôi nữa. Tuy vậy ấy thương tôi: đó là cái kỳ diệu? thương tôi đủ để mãi mãi sống độc thân. Thời gian sau, khi tôi làm nên nghiệp tại Barbeton, tôi tìm lại ta và năn nỉ. Tôi được biết chưa lấy chồng. Tôi gặp ta tại Lausanne và cố gắng thuyết phục. Con tim ấy hơi xiêu lòng, nhưng ý chí của vẫn sắt đá. Khi tôi muốn gặp trở lại rời bỏ thành phố. Tôi tới Baden và biết được rằng hầu của ấy ở lại Montpellier này. Tôi thô bạo vì tôi sinh trưởng trong môi trường thô bạo, nên khi nghe bác sĩ Watson hỏi tôi tự kiềm chế được. Nhưng vui lòng cho tôi biết Frances ra sao rồi?
      - Phải đoán mò thôi - Sherlock Holmes đáp - Về London, ông ngụ tại đâu, thưa ông Green?
      - Tại khách sạn Langham.
      - Vậy tôi đề nghị ông quay về London và hãy sẵn sàng đón nhận mọi tình huống. Tôi dám nuôi nhưng hy vọng hão huyền, nhưng ông nên vững tin rằng, tất cả những gì có thể làm được được làm cho mệnh phụ. giờ tôi thể gì hơn. Watson chuẩn bị va-li . Tôi điện cho bà Hudson để sẵn đĩa , đĩa lớn, chuẩn bị đón hai lữ khách đói khát về đến vào sáng mai, lúc 7 giờ 30.
      điện tín chờ chúng tôi tại đường Baker. Sau khi đọc xong, Holmes trao cho tôi. Nó chỉ có mấy chữ: “Bị răng cưa hay rách. Xuất xứ từ Baden”.
      - Nội dung gì lạ vậy?
      - Có lẽ còn nhớ câu hỏi của tôi về cái lỗ tai trái của nhà truyền giáo. đâu có trả lời.
      - Tôi rời Baden, làm sao dò hỏi được?
      - Ðúng thôi. Chính vì lẽ đó mà tôi đặt câu hỏi với viên giám đốc khách sạn Englischer Hof và được trả lời như thế.
      - Nó báo việc gì?
      - Nó cho biết rằng chúng ta đương đầu với chàng xảo quyệt và nguy hiểm. Tu sĩ, tiến sĩ Shlessinger, nhà truyền đạo tại Nam Mỹ, tên của là Holy Peters, trong các thằng ăn cướp táng tận lương tâm nhất mà đất Australia sinh ra. Biệt tài của là dụ dỗ các , các bà đơn bằng tín ngưỡng. Vợ của người tên Fraser. Bọn họ nồi nào úp vung nấy. có cái tai dị hình do bị cắn trong cuộc ẩu đả vì rượu. Như vậy mệnh phụ đáng thương lọt vào tay cặp vợ chồng quái này.
      - Chết cũng là giả thuyết!
      - Nếu bà ấy chưa chết, chắc chắn bị nhốt kỹ đến nỗi thể viết thư cho bà Dobney hoặc cho các bạn bè khác. Có thể bà ấy chả bao giờ đến London?
      - Có thể bà ấy chỉ ngang qua thôi. Chúng hiểu rằng người ngoại quốc như chúng khó bịp được cảnh sát . Nhưng cũng có thể bọn này biết rằng London là nơi tốt nhất để nhốt ai đó! Bản năng của tôi bảo tôi rằng bà ấy ở London. Cho tới giờ này, vì chưa có phương cách để biết địa điểm, chúng ta đành phải chờ. Ðêm nay tôi vòng và thông báo cho ông bạn Lestrade hay.
      Nhưng cả cảnh sát lẫn nhóm của Holmes cũng đủ sức làm sáng tỏ . Giữa mấy triệu người dân London việc kiếm ba người đó chẳng khác nào mò kim đáy biển. Thử nhắn tin báo: vô hiệu? Theo đuổi chăng tới đâu. Canh chừng các sào huyệt của giới sát nhân: vô ích.
      Nhưng tuần sau, ánh sáng lóe lên. món nữ trang bằng bạc và vài viên kim cương kiểu cổ ở Tây Ban Nha được đem đến cầm thế tại đường Westminster. Người đem cầm, theo người ta trình bày với chúng tôi, có dáng cao, to, cạo râu nhẵn nhụi, ra vẻ là nhà tu. Tên và địa chỉ y cho, chắc chắn là giả. Người ta để ý đến cái lỗ tai, đại để mô tả tương ứng với các đặc điểm của Shlessinger. Lúc 3 giờ, người bạn râu quai nón xồm xoàm ngụ tại khách sạn Langham lại tới thăm để lấy tin: đó là lần thứ ba trong giờ sau khi có chỉ dẫn mới. Ông ta tiều tụy vì âu lo.
      - Phải chi tôi được giao phó nhiệm vụ gì đó? - Ông ta cứ than thở liên tục như thế.
      Cuối cùng Holmes xoa dịu:
      - Nó cầm nữ trang, chẳng bao lâu nữa, chúng ta chộp được thôi?
      - Ðiều đó có nghĩa là Frances chả có gì nguy hại, phải .
      Holmes nghiêm túc lắc đầu:
      - Nếu chúng nhốt bà ấy từ hôm đó đến nay, đương nhiên chúng thể thả bà ấy ra. Tàn đời chúng còn gì! Do đó chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận tệ hại nhất.
      - Tôi có thể làm gì?
      - Chúng quen mặt ông ?
      - .
      - Có thể nó lại ra hiệu cầm đồ. Trong trường hợp đó, chúng ta lại bắt đầu làm việc. Hơn nữa, tại hiệu cầm đồ cũ, người ta tò mò, hỏi han gì, nên nếu nó thiếu tiền, nó quay lại đó. Tôi giới thiệu ông với hiệu này và họ để cho ông ở lại cửa hiệu của họ. Nếu con mồi dẫn xác đến, ông theo nó về nhà. Nhưng phải kín đáo và nhất là được hung bạo. Tôi muốn ông lấy danh dự thề rằng làm gì nếu chưa được phép của tôi.
      Trong hai ngày, bá tước Philip Green (ông ta vốn là con của vị đô đốc danh tiếng, người chỉ huy hạm đội biển Azof trong cuộc chiến Crimé) mang tin tức gì về. Tối ngày thứ ba, ông chạy xống xộc vào phòng khách của chúng tôi, mặt tái xanh, mọi bắp thịt trong cơ thể đồ sộ đều run rẩy.
      - Có kết quả, có kết quả.
      Trong niềm phấn chấn, ông ấy năng đầu đuôi. Holmes xoa dịu vài câu rồi mời ngồi vào ghế bành.
      - Nào, vui lòng truyền đạt tin tức cho chúng tôi theo thứ tự hẳn hoi.
      - Bà vợ đến, cách đây chưa đầy nửa giờ. Lần này là bà vợ, nhưng cái đồ đeo ở cổ đem cầm, lần này cũng giống cái trước. Bà ấy cao lớn, tái xanh, với đôi mắt láu lỉnh.
      - Ðúng là con mẹ ấy.
      - Nó rời cửa hiệu, tôi theo. Nó ngược phố Kenstington, vào cửa hiệu mai táng?
      - Rồi sao nữa? - Holmes hỏi với tiếng run run.
      - Con mụ ấy chuyện với người đàn bà ngồi sau bàn giấy tôi bước vào. “Muộn rồi đó”, tôi nghe con quỷ cái đại loại như thế. Người đàn bà trong cửa hiệu năn nỉ: “Ông ấy về kịp. Chút nữa thôi ông ấy có xin thêm thời gian, bởi vì đây là cái kiểu rất đặc biệt”. Cả hai mụ đều ngừng và nhìn tôi. Tôi giả vờ hỏi giá cả này nọ rồi cáo từ.
      - Tốt lắm, rồi sao nữa?
      - Mụ ấy cũng , tôi nấp sau cái cổng. Tôi nghĩ rằng mụ ta có ngờ vực nên mụ có nhìn quanh, rồi lên xe ngựa. May mắn là tôi cũng gọi được cái xe để đuổi theo. Mụ ấy xuống tại số 3 quảng trường Poultney. Tôi núp vào góc và nhìn kỹ căn nhà.
      - Có thấy ai ?
      - Cửa sổ được thắp sáng, trừ cái ở tầng dưới. Bức mành được kéo xuống, do đó tôi chả thấy gì bên trong. Tôi đứng đó, chưa biết phải làm gì xe thùng có phủ mui ngừng lại; bên trong có hai người. Họ leo xuống, khiêng cái hòm ra khỏi xe, leo lên bực thềm. Con mụ vợ mở cửa. Tôi đứng xa lắm. Mụ thấy tôi và tôi tin rằng mụ ấy nhận ra tôi. Tôi thấy mụ ta giật mình rồi lật đật đóng cửa lại. Tôi nhớ lời hứa với ông, nên trở về báo cáo.
      - Nhiệm vụ của ông hoàn thành mỹ mãn. - Holmes và nguệch ngoạc vài chữ tờ giấy. - Chúng ta thể làm gì nếu có trát tòa. Ông phục vụ chính nghĩa của chúng ta bằng cách mang giấy này tới nhà cầm quyền và xin trát tòa. có khó khăn đó! Tuy nhiên tôi nghĩ rằng bán nữ trang là cũng đủ bằng cớ, Lestrade lo chi tiết.
      - Nhưng trong khi chờ đợi, chúng có thể giết ấy. Cái hòm nghĩa là thế nào? Mua cho ai? Nếu phải là cho bà ấy?
      - Chúng ta làm tất cả những gì có thể làm được. Ông bạn, chúng ta để mất giây phút nào. Hãy tin cậy nơi chúng tôi. Giờ đây, Watson à! - Holmes , sau khi người khách hàng của chúng tôi xuống cầu thang. - Ta vận dụng lực lượng chính qui. Phần chúng ta, như thường lệ là những người chính qui, thi hành chương trình hành động riêng. Tình huống ngặt nghèo đến nỗi chúng ta phải sử dụng những biện pháp liều lĩnh. Ði mau đến quảng trường Poultney.
      Trong lúc xe ngựa chạy nhanh dọc tòa nhà Quốc hội rồi vượt cầu Westminster, Holmes ôn lại nối tiếp của các kiện.
      - Bọn cướp này lường gạt người đàn bà khốn khổ, đưa về London sau khi thuyết phục bà ấy cho bồi phòng nghỉ việc. Nếu bà ấy có viết thư thư bị giữ lại. Qua trung gian của đồng phạm, chúng mua cái nhà có đồ đạc. Tới nơi, chúng cầm tù mệnh phụ và đoạt lấy nữ trang. Chúng bắt đầu bán và cho là an toàn vì tin rằng có ai mà để ý tới số phận của bà ấy! Nếu chúng thả bà ra, bà tố cáo chúng. Vậy là phải nhốt bà ấy. Vì thể nào nhốt mãi mãi được, nên phải giết chết.
      - ràng là vậy.
      - Tuy nhiên, hãy lý luận hướng khác. Giờ đây chúng ta khởi đầu từ người đàn bà mà từ cái hòm. Màn này chứng tỏ rằng, người đàn bà bất hạnh chết. Nó cho thấy đám ma hợp lệ, có giấy phép chôn đàng hoàng. Trong trường hợp chúng giết mệnh phụ, chúng vùi xác đâu đó ngoài vườn. Ðằng này tất cả đều hợp lệ, công khai. Tại sao? Chắc chắn là tại vì chúng làm bà ấy chết cách có thể gạt pháp lý, có lẽ bằng thuốc độc. Nhưng chúng khờ dại để y sĩ tới gần bà ta, trừ khi đó là tòng phạm.
      - Giả thuyết này khó tin lắm?
      - Chúng làm giấy giả được ?
      - Nguy hiểm cho chúng lắm. , tôi tưởng tượng chuyện đó bao giờ. Dừng lại, bác xà ích! Ðây là cửa hiệu mai táng, vì chúng ta vừa qua tiệm cầm đồ. vào , Watson. Dáng dấp gây tin tưởng hơn. Hỏi xem mấy giờ ngày mai động quan.
      Bà chủ nhà đáp mau mắn là 8 giờ ngày mai.
      - Thấy , Watson. Ðâu có gì bí hiểm! Sáng như ban ngày! Họ sợ gì cả. Tôi thấy có giải pháp nào hay hơn là tấn công ngay. có vũ khí ?
      - cây gậy!
      - Chả sao, chúng ta đủ sức mạnh mà. Kẻ có chính nghĩa mạnh gấp ba. - Holmes . - Chúng ta thể chờ cảnh sát. Bà xà ích, cho chúng tôi xuống. Bây giờ chúng ta cũng thử thời vận như từng làm đôi lần trong quá khứ.
      giật chuông tại cửa ngôi nhà lớn tăm tối. Cửa mở liền. người đàn bà cao lớn và tái xanh xuất dưới ánh sáng yếu ớt của hành lang.
      - Các ông cần gì? - Mụ cộc lốc và nhìn kỹ chúng tôi trong bóng tối.
      - Tôi muốn gặp tiến sĩ Shlessinger - Holmes đáp.
      - Ở đây có ai tên như vậy cả.
      Mụ ấy đáp, định đóng cửa, nhưng Holmes lọt vào trong cái cửa hé mở.
      - Tốt thôi. Vậy chúng tôi muốn chuyện với người đàn ông ngụ tại nhà này, dù y mang tên giả nào nữa. - Holmes cách cương quyết.
      Mụ ấy lưỡng lự rồi mở toang cửa ra.
      - Mời vào! đời này, chồng tôi chả sợ ai cả.
      Mụ ta ra đóng cửa lại và đưa chúng tôi vào xa-lông bên trái, mụ ta vặn thêm gas cho đèn sáng trước khi vào nhà trong.
      - Chút nữa, ông ấy ra. - Mụ ta .
      Chúng tôi vừa mới nhìn quanh cái căn phòng bụi bặm bị mối đục cửa mở, đưa vào người đàn ông cao lớn, đầu sói, râu. Khuôn mặt đồ sộ, hơi đỏ, má phệ và vẻ nhân từ giả trá, ông ta giọng nhợt nhạt:
      - Quí vị lầm rồi. Tôi tin chắc rằng người ta chỉ đường sai. Ðề nghị quí vị xuống sân, chút nữa...
      - Ðủ rồi, chúng tôi có thời gian - Holmes cắt ngang - là Henry Peters, nguyên quán ở Adélaide, gần đây mang tên tiến sĩ Shlessinger, nguyên quán ở Baden và Nam Mỹ. Tôi chắc chắn về điều này như 1 với 1 là 2.
      Peters nhảy dựng lên, nhìn cay độc vào mặt chúng tôi.
      - Ông là gì cả đối với tôi, ông Holmes à. Ông tới nhà tôi làm gì vậy?
      - Tôi muốn biết ông làm gì mệnh phụ Frances Carfax, người rời Baden cùng với vợ chồng ông.
      - Tôi cũng muốn được ông cho biết bà này ở đâu - Peters vẫn lạnh lùng . - Bà nợ tôi 100 bảng và để trả nợ, bà để lại cho tôi hai món nữ trang mạo hóa mà con buôn thèm nhìn. Bà ấy quyến luyến vợ tôi khi chúng tôi ở Baden... Ðúng là lúc đó tôi mang tên khác. Bà ấy bám sát chúng tôi qua đây. Tôi thanh toán giùm tiền khách sạn và chi phí này nọ. Qua tới đây, bà ấy biến đâu mất? Và như tôi , bà để lại cho chúng tôi hai món nữ trang vô giá trị để trừ nợ. Nếu ông tìm ra bà ta, tôi cũng thưởng tiền cho ông.
      - Tôi muốn kiếm bà ấy - Sherlock Holmes : - Và tôi lục nát căn nhà này cho tới khi tìm ra bà ấy mới thôi.
      - Trát tòa đâu?
      Holmes đưa khẩu súng lục ra.
      - Tạm dùng trát này trong khi chờ cái khác tốt hơn.
      - Thế à? Ông chỉ là thằng ăn trộm trèo tường.
      - Nếu ông muốn! - Holmes trả lời cách vui vẻ - Bạn đồng hành của tôi cũng là kẻ cướp nguy hiểm. Và cả hai chúng tôi viếng thăm nhà ông.
      Người đối thoại của chúng tôi mở cửa la to:
      - Ði kiếm cảnh sát, Annie.
      Có tiếng chân đàn bà chạy ngoài hành lang. Cửa cổng mở ra rồi đóng lại.
      - Thời gian có hạn - Holmes với tôi. - Này Peters, nếu ông ngăn cản, ông gặp những rắc rối lớn. Cái hòm đâu rồi?
      - Hỏi làm gì?
      - Có xác chết trong đó! Tôi muốn xem cái xác đó.
      - bao giờ, nếu được đồng ý của tôi.
      - Vậy khỏi cần xin phép.
      Bằng cử động nhanh nhẹn, Holmes đẩy Peters qua bên và vào hành lang. cửa hé mở, chúng tôi bước vào, đó là phòng ăn. Holmes vặn gas để tăng thêm ánh sáng rồi giở nắp hòm. Dưới đáy hòm có hình dạng người hốc hác, ánh sáng chiếu rọi khuôn mặt già cỗi nhăn nheo. tàn ác nào, bệnh nào có thể biến mệnh phụ Frances ra nông nỗi này. Mặt của Holmes bộc lộ ngạc nhiên, nhưng đồng thời cũng chắc chắn có nhõm.
      - Cám ơn Chúa! - thầm - Ðây là người khác!
      - ràng là ông lại lầm lạc nữa rồi, ông Holmes. – Peters theo chân chúng tôi và lớn.
      - Người chết này là ai?
      - Là vú già của nhà tôi, tên là Rose Spender. Chúng tôi đưa bà cụ từ trạm xá nhà dưỡng lão Brixton về. Chúng tôi có mời bác sĩ Horsom ở số 13 Firbank Villas... Ghi địa chỉ này cho kỹ, ông Holmes nhé! Bà cụ được chăm sóc tận tình đúng theo lòng bác ái của Chúa. Ba ngày sau, bà cụ chết. Giấy cho chôn ghi là do già cỗi, nhưng đó chỉ là ý kiến của bác sĩ. Còn ông, đương nhiên ông biết nhiều hơn. Chúng tôi giao cho công ty mai táng Stimson đường Kenmington. Tám giờ sáng mai làm lễ. Có cái gì mờ ám đâu, ông Holmes? Ông hố lớn rồi. Phải chi chụp hình được cái bản mặt đáng tức cười của ông khi giở nắp hòm? Ông tưởng ông gặp quý bà Frances Carfax, nhưng ngược lại, ông chỉ thấy bà lão 90 tuổi.
      Dưới những mũi tên của đối thủ, Holmes giữ được khuôn mặt điềm đạm, nhưng co bóp của hai bàn tay biểu lộ bồn chồn:
      - Tôi lục soát nhà ông - Holmes .
      - A, ông tưởng... - Chủ nhà kêu to trong lúc có tiếng nới đàn bà và những bước nặng nề vang dội ở ngoài hành lang. - Ðể coi! Ði lối này, quý ông! Hai người này dùng vũ lực vào nhà tôi và tôi đuổi chịu . Xin giúp tôi đuổi họ ra.
      đội trưởng và nhân viên cảnh sát đứng ở ngưỡng cửa. Holmes đưa tấm thiệp của mình ra.
      - Ðây là tên và địa chỉ của tôi. Còn đây là bạn thân của tôi, bác sĩ Watson.
      - Chúng tôi biết ông nhiều. Tuy nhiên, hai vị thể nán lại đây, nếu có trát tòa.
      - Ðương nhiên tôi biết điều đó.
      - Bắt ông ấy - Peters la to.
      - Chúng tôi biết nhiệm vụ của chúng tôi - Viên đội trưởng uy nghiêm . - Ông Holmes, ông phải rời khỏi nơi đây.
      - Vâng.
      Giây lát sau, chúng tôi ra tới đường. Holmes lấy lại bình tĩnh, nhưng tôi sôi sục vì giận và nhục. Viên đội trưởng tháp tùng chúng tôi.
      - Rất tiếc, thưa ông Holmes. Ðó là luật.
      - Ðúng thôi, ông đội ông thể làm khác.
      - Tôi tin ông có lý do vững vàng khi vào đó. Tôi có thể giúp gì cho ông?
      - người đàn bà mất tích, ông thượng sĩ à! Chúng tôi tin bà ấy ở trong nhà đó. Tôi chờ trát, lâu lắm đâu.
      - Tôi đứng canh, ông Holmes à. Nếu có gì mờ ám, tôi bỏ qua đâu.
      Mới 9 giờ, chúng tôi bắt đầu cuộc săn đuổi. Trước tiên, chúng tôi thuê xe đến viện dưỡng lão Brixton, và được biết vài ngày trước đây có hai nhà từ tâm đến xin bà lão đần độn có thể trước kia là tôi tớ của họ và được cho phép chở bà . Cái chết của bà này làm cho ai ngạc nhiên cả. Kế đó, chúng tôi qua nhà của y sĩ ông ta được mời đến, chứng kiến bà lão chết vì già cỗi; sau đó ông có khám tử thi và ký phép cho chôn. Holmes :
      - Tôi đảm bảo với quý rằng tất cả đều trăm phần trăm hợp lệ; có cái gì mờ ám cả. Trong nhà có gì khả nghi. Duy có điều lạ là họ túng thiếu mà họ lại dám thuê gia nhân?
      Sau rốt chúng tôi tới Scotland Yard. Có những khó khăn về thủ tục xin trát tòa. thể xin được chữ ký của quan tòa trước ngày mai. Cái ngày hôm đó kết thúc như vậy, trừ chuyện này: Khoảng 12 giờ đêm, viên thượng sĩ báo cho biết rằng ông có thấy đằng sau cửa sổ của cái nhà đáng nghi ngờ ấy ánh lửa lập lòe qua lại, nhưng ai ra vào cả. Chúng tôi chỉ biết phải nhẫn nại chờ. Sherlock Holmes quá cáu kỉnh và bực dọc. Tôi ngủ, mặc ta kéo thuốc liên tục. Cặp chân mày rậm của nối liền nhau thành đường thẳng. Mấy ngón tay dài nhạy cảm của tay ghế bành. tìm tất cả các giải pháp có thể cho các bí . Nhiều lần trong đêm, tôi nghe bước chân qua lại trong căn hộ. Cuối cùng sau khi tôi thức dậy, nhảy bổ vào phòng tôi.
      - Mấy giờ động quan. Tám giờ phải ? Bây giờ là 7 giờ 20 rồi. Watson à! Tôi sử dụng ra sao cái óc tí xíu mà trời ban cho! Nhanh lên, nhanh lên! vấn đề sống chết, và cơ may để chết là trăm . Nếu ta tới muộn, tôi tha thứ cho tôi về chuyện đó.
      Năm phút sau, chúng tôi ngồi trong xe ngựa. Mặc dù tài xế đánh ngựa tới tấp, khi ngang đồng hồ Big Ben, cây kim chỉ 8 giờ kém 25 và đổ vang 8 giờ khi chúng tôi xuống xe ở Brixton. Tuy nhiên mọi người cũng đều trễ. Lúc 8 giờ 10 xe tang còn đậu trước cổng nhà. Khi con ngựa sùi bọt mép của chúng tôi ngừng lại, ba người khiêng quan tài ra đến ngưỡng cửa. Holmes ào ào chạy tới trước mặt họ để cản đường.
      - Lui lại. - la lớn vào bọn đạo tì rồi đặt tay vai người gần nhất. - Ðem quan tài trở vào nhà tức khắc?
      - Ông muốn gì nữa? Tôi hỏi ông lần nữa? Ông có trát tòa ? - Peters thét lên giận dữ.
      - Trát đường tới đây, cái hòm này ở lại trong nhà cho tới khi có trát tòa tới.
      Tiếng của Holmes đầy quyền uy đến nỗi các đạo tì khựng lại. Peters lẩn trốn vào nhà. Họ tuân theo lệnh Holmes. - Nhanh lên, Watson tuộc-nơ-vít đây - Holmes thét lên khi hòm được đặt bàn
      - Còn đây cái tuộc-nơ-vít khác cho bạn. Thưởng bảng nếu nắp được mở trong vòng phút! ngập ngừng gì hết Ra tay! Tốt! cái nữa! cái nữa. Cùng nhau kéo nó lên. Tốt. À, hay lắm.
      Kết hợp sức mạnh, chúng tôi giở được nắp hòm. Từ trong bốc ra mùi thuốc mê nồng nặc. xác được trải dài, đầu bịt băng thấm nhựa thuốc phiện. Trong nhấp nháy, Holmes gỡ hết, để lộ khuôn mặt cứng đơ của người đàn bà đẹp, cỡ 40 tuổi. lấy tay dựng đứng phần thân và duy trì nó ở thế ngồi.
      - Bà ấy sống , Watson. Còn tồn tại tia sinh lực nào ? Chúng ta đến quá trễ.
      Trong nửa giờ, chúng tôi có cảm giác là trễ, do hiệu quả của thuốc mê hoặc do bị làm ngạt thở , mệnh phụ Frances có thể tới mức còn hy vọng gì nữa. Cuối cùng nhờ hô hấp nhân tạo, chích ê-te và nhờ tất cả những gì mà khoa học có thể có. làn sương kính và nhấp nháy của mi mắt báo cho chúng tôi biết rằng sống từ từ trở lại. xe ngựa ngừng trước nhà. Holmes kéo sáo lên.
      - Lestrade cầm trát tòa tới. - Holmes loan báo - Ông ấy kiếm bắt các con mồi lẩn trốn và đây...- Những bước nặng nề ngoài hành lang. - Và đây là người có nhiều quyền hơn chúng ta, để chăm sóc mệnh phụ này. Kính chào ông Green. Tôi nghĩ rằng ta nên chở mệnh phụ nhà thương càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi, bà lão vẫn có thể tiếp con đường tới nơi an nghỉ cuối cùng. Watson, có lẽ nên ghi thêm câu chuyện này vào mớ hồ sơ của . Nó minh họa sơ sót tạm thời mà dù cái tâm trí quân bình nhất đời cũng mắc phải. Những sơ hở tương tự thường xảy ra cho mọi người. May mắn cho kẻ nhận ra kịp và kịp thời sửa chữa. Tôi có quyền kiêu hãnh về điều này. Ðêm trước, tôi cứ thắc mắc rằng, đâu đó chỉ dẫn, câu lạ tai, nhận xét kỳ dị đến với tôi nhưng tới gạt bỏ chúng. Rồi thình lình trong ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, các lời đó trở lại trong ký ức tôi. Ðó là nhận xét của bà chủ cửa hàng mai táng, như Philip Green tường thuật lại. “Bà ấy : - Ông ấy về đến ông ấy có xin thêm thời gian, bởi vì cái kiểu đặc biệt.” Bà ấy về cái hòm, như vậy là kích thước vượt ra ngoài lệ thường. Tại sao? Tại sao? Thình lình tôi nhớ đến chiều sâu của nó và cái hình người bé khô đét bên trong. Tại sao cái hòm rộng mênh mông mà chỉ để chứa cái xác tí tẹo, nếu phải để chứa thêm cái xác thứ hai? Hai xác được chôn với giấy phép độc nhất. như ban ngày, thế mà đầu óc tôi rối mù? Quả là may mắn nhoi nếu tìm ra bà ta trong tình trạng còn sống, nhưng cuối cùng quả có may . Theo tôi biết mấy người đó giám tự mình cầm đao cầm súng giết ai đó. Họ có thể chôn bà mệnh phu mà ai biết tí gì. Watson, có thể dựng lại quang cảnh cách dễ dàng. quan sát cái xó hãi hùng gác, nơi mà mệnh phu bị nhốt lâu ngày? Họ cho bà ấy ngửi thuốc mê tối đó, đưa bà ấy xuống, cho thêm thuốc mê vào hòm để chắc chắn rằng bà thể tỉnh lại, rồi vặn ốc cái nắp hòm. Mưu trước tinh vi ? mưu trước mới mẻ trong lịch sử tội ác. Nếu cái nhà cựu truyền giáo này bị Lestrade còng tay chắc chắn sau này ta nghe thêm những chiến tích kinh rợn hơn!

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :