Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      10. Ba Sinh Viên


      Trong năm 1895, Sherlock Holmes và tôi tới ngụ tại thành phố lớn có nhiều trường đại học. Lúc đó chúng tôi trọ trong nhà cho thuê có đồ đạc, gần thư viện, để Holmes nghiên cứu đề tài mà thích. buổi tối, chúng tôi tiếp ông Hilton Soames, giám thị và giảng viên tại trường trung học St. Luke.
      - Thưa ông Holmes, chuyện rất khổ tâm vừa xảy ra ở St. Luke. Và nếu may mắn đưa ông tới đây biết xoay sở ra sao.
      - Tôi bận, và mong bị mất tập trung. Tôi lòng muốn ông nhờ tới cảnh sát hơn.
      - . thể được! Khi luật pháp khởi động chẳng có cách gì làm cho nó ngừng lại. Mà nhà trường muốn bị mang tai mang tiếng. Ông là người duy nhất có thể giúp chúng tôi, thưa ông Holmes.
      Tính nết Holmes khá hơn kể từ khi rời bỏ bầu khí quen thuộc của con đường Baker. có những cuốn sách to lớn, những cuộc phân tích hóa học, bừa bộn quen thuộc của , được thoải mái. Vả chăng nhún vai để bày tỏ đồng ý. Ngay đó người khách ngừng tuôn ra những câu hối hả.
      - Thưa ông Holmes, ngày mai bắt đầu cuộc thi lấy học bổng. Tôi là trong số các giám khảo về môn tiếng Hy Lạp. Tôi chọn đề thi là bài dịch khá dài mà chưa thí sinh nào dịch qua. Bản văn được đem in. Tất nhiên là thí sinh nào biết được và chuẩn bị bài làm có nhiều hi vọng hơn. Chính vì thế mà chúng tôi luôn luôn giữ kỹ.
      Hôm nay, vào lúc 3 giờ, các bản in thử được nhà in gửi đến tôi. Tôi phải đọc lại cẩn thận để bản văn được hoàn toàn đúng ngữ pháp. Tới 4 giờ rưỡi, tôi vẫn đọc chưa xong. Thế mà tôi lại bận dự tiệc ở bên ngoài trường. Tôi để các bản in thử bàn giấy và vắng mặt khoảng tiếng đồng hồ. Những cánh cửa ở trường là cửa kép: bên ngoài làm bằng gỗ sồi và bên trong là lớp thảm bồi. Khi trở về, tôi ngạc nhiên khi thấy có chìa khóa gắn trong ổ. Thoạt đầu tôi ngỡ là mình để quên chìa khóa! Nhưng tôi lục tìm trong các túi, chìa khóa của tôi vẫn ở trong túi. Cái chìa khóa thứ hai do người hầu của tôi, tên là Bannister giữ. Ông này sống với tôi suốt 10 năm và là người ngay thẳng. Chìa khóa đó, đúng là chìa khóa của ông ta. Ông ta vào phòng tôi để xem tôi có muốn uống trà , và khi ra, ông để quên... Bannister hẳn vào trong phòng vài phút sau khi tôi ra ngoài. Trong bất cứ ngày nào khác, việc đó có gì quan trọng. Nhưng hôm nay, nó rất là thảm hại.
      Nhìn lên bàn giấy, tôi thấy ngay là có người lục lọi giấy tờ của tôi. Những bản in thử in ba tờ giấy dài. Tôi để chúng cùng chỗ. Và giờ đây tôi thấy ba tờ nằm ba nơi: tờ nằm sàn nhà, tờ ở gần cửa sổ và tờ nằm ở vị trí cũ.
      Holmes hơi nhổm người dậy.
      - Tờ thứ nhất nằm sàn nhà, tờ thứ hai ở gần cửa sổ và tờ thứ ba nằm ở vị trí cũ? – hỏi.
      - Đúng vậy, thưa ông Holmes. Ông làm tôi kinh ngạc đấy! Làm sao ôn gbiết được điều đấy?
      - Mong ông cứ tiếp tục câu chuyện.
      - Trong lúc lâu, tôi tự nhủ là Bannister tự tiện xem giấy tờ của tôi. Ông ta đoan chắc với tôi là . Vậy có ai đó, khi ngang trước cửa phòng tôi, thấy cái chìa khóa và đoán rằng tôi ra ngoài nên người đó bước vào xem các bản in thử. điều tệ hại, khi mà sinh viên được biết trước đề thi, lợi thế lớn của ta trong cuộc đua giành học bổng với các bạn đồng học.
      Bannister gần như ngất khi chúng tôi khám phá ra rằng những bản in thử bị đổi chỗ. Tôi cho ông ta uống vài giọt brandy và để ông ta ngồi xuống ghế rồi khám xét tỉ mỉ căn phòng. cái bàn gần cửa sổ, tôi tìm thấy những miếng gỗ vỏ bút chì được gọt. Còn có mẩu ruột bút chì bị gãy. ràng là kẻ ranh mãnh chép vội chép vàng bài thi. Vì luống cuống y làm gấy cây bút chì và gọt lại.
      - Tuyệt vời. Ông gặp may! - Holmes kêu lên.
      - Chưa hết. Tôi có cái bàn rất mới, được phủ bằng lớp da màu đỏ rất đẹp. Mặt bàn trơn và sạch. Thế mà tôi bắt gặp vết đứt dài 3 inch; phải là vết xước mà là vết đứt; ở mặt bàn có cục bột đen , trong đó có vài hạt giống như là mạt cưa. Tôi tin chắc là những dấu vết đó do kẻ chép đề thi để lại. Tôi thấy dấu chân nào mà cũng chẳng thấy dấu vết nào khác có thể tìm ra đó là ai. Giữa lúc tôi hoàn toàn nản chí sực nhớ ra ông ở trong thành phố này. Xin hãy giúp tôi, ông Holmes! Cuộc thi phải bị hoãn lại cho đến khi nào các đề thi mới được in xong. Tất nhiên tôi phải giải thích lý do bằng cách khai ra . Như vậy vụ tai tiếng nổ ra. Tôi mong muốn được dàn xếp công việc theo cách kín đáo nhất.
      - Tôi rất sung sướng được lo vụ này - Holmes , đứng lên và mặc áo choàng ngoài vào - Có ai tới thăm ông sau khi những bản in thử được đem tới ?
      - Có. Daulat Ras, sinh viên người Ấn ở cùng trong cầu thang; ta vào phòng và hỏi tôi vài chi tiết về cuộc thi.
      - ta là thí sinh?
      - Vâng.
      - Lúc đó các tờ giấy để bàn giấy của ông?
      - Nó còn được quấn thành cuộn.
      - Nhưng người ta có thể đoán ra đó là những bản in thử?
      - Chắc chắn là như vậy.
      - có người nào khác vào phòng ông hay sao?
      - .
      - Có ai đoán biết là các đề thi dang có tại đó?
      - ai, ngoại trừ nhà in.
      - Ông Bannister cũng biết chứ?
      - Phải. Tất cả mọi người đều biết!
      - Bây giờ Bannister ở đâu?
      - Ông ta bị bệnh. Tôi để ông ta lại trong ghế bành. Tôi vội vàng tới đây.
      - Ông để cửa mở à?
      - Tôi cất giấy tờ vào trong ngăn tủ có khóa.
      - Nếu người sinh viên Ấn Độ mà đoán biết cuộn giấy đó là những bản in thử người đụng tới đề thi là người tình cờ bắt gặp, mà trước đó, họ hề biết là đề thi có mặt ở đó.
      - Dường như vậy.
      Holmes cười cách khó hiểu. :
      - Vậy , hãy tới nhà ông xem sao, thưa ông Soames.
      Căn phòng được dùng làm văn phòng của ông giáo có cửa sổ thấp, gắn lưới sắt, nó nhìn ra cái sân cũ của trường. cửa ra vào mở ra cầu thang đá. ông giám học ở tầng . Ba sinh viên ở các tầng , mỗi người tầng. Khi chúng tôi tới trường, gần như vào đêm. Holmes quan sát kỹ khuôn cửa sổ từ mé ngoài.
      đứng nhón chân, nghển cái cổ dài ra mà ngó vào trong phòng.
      - vào trong phòng qua ngả cửa chính. Màng lưới sắt của cửa sổ ắt hẳn cho y xuyên qua đây - Ông giám học .
      - vậy sao? - Holmes khi ném tia nhìn kỳ lạ về phía thân chủ - Thế chúng ta nên vào trong xem xét tiếp.
      Ông giám học mở cửa chính ra và dẫn chúng tôi vào trong văn phòng. Chúng tôi đứng lại ngưỡng cửa trong lúc Holmes quan sát tấm thảm, :
      - Ở đây chúng ta chẳng tìm ra được dấu vết nào. Trời quá khô ráo! Ông Bannister dường như bình phục. Ông để ông ấy lại trong ghế bành. Cái ghế nào?
      - Cái ghế gần bên cửa sổ.
      - Giờ đây các ông có thể vào được rồi - Holmes . - Tôi xem xong tấm thảm. Trước hết chúng ta hãy quan sát cái bàn . Hiển nhiên là người nọ lấy những bản in thử, tờ này tiếp tờ kia. Người đó ngồi vào cái bàn gần bên cửa sổ, bởi vì từ đó, có thể canh chừng việc trở về qua ngả cửa chính mà bỏ trốn.
      - thể làm thế. Bởi vì tôi trở về qua ngả cửa , phía bên kia.
      - A, đó là điều rất hay! Xin hãy cho tôi xem ba tờ giấy thi. có dấu vết ngón tay. ! Thoạt đầu lấy tờ giấy này và chép. cần phải mất bao nhiêu thời gian để làm công việc này? Tối thiểu cũng mất 15 phút. Đoạn vứt tờ giấy chép xong xuống đất, rồi lấy tờ thứ hai. hẳn chép được nửa của tờ giấy thứ hai thấy ông về, nên phải bỏ trốn, rất hấp tấp, bởi vì kịp xếp lại các tờ giấy này như cũ. Ông nghe thấy những tiếng chân hối hả cầu thang khi ông trở về qua ngả cửa ngoài sao?
      - .
      - viết hết sức vội vã nên làm gấy đầu bút chì, và phải vót lại. Điều này rất đáng chú ý, Watson. Cây bút chì này có chiều dài bình thường và ruột bút chì mềm. Vỏ bên ngoài màu xanh đậm. Tên nhà sản xuất được khắc bằng chữ nhũ màu bạc. Cái mẩu còn lại dài gần 1 inch. Thưa ông Soames, hãy tìm cây bút thuộc loại đó, và ông tìm ra được người cần tìm. Tôi còn dám rằng con dao nhíp lớn, rất cùn.
      Ông giáo sư hơi bị choáng ngợp trước dòng thác những thông báo đó.
      - Tôi theo kịp ông về số điểm, nhưng về cái chiều dài ...
      Holmes đưa cho ông ta coi mẩu vỏ bút chì có những chữ NN mà có bất cứ chữ nào khác tiếp theo sau.
      - Ông thấy chứ?
      - ngay đến giờ đây cũng chưa ...
      - Watson, những chữ NN này có thể là gì? Hai chữ cuối của từ. biết rằng Johann Faber là nhà sản xuất bút chì. Cây bút chì còn lại khúc ngắn tiếp theo chữ Johann ...
      nghiêng cái bàn dưới ánh sáng đèn điện.
      - Nếu người đó viết giấy mỏng tôi tìm thấy dấu vết kiểu chữ của y cái mặt phẳng nhẵn bóng này. Nhưng , tôi thấy gì hết. Hãy thử xem cái bàn giấy của ông. Tôi đồ chừng đám này là đống chất đen lợt mà ông với tôi. Hình chóp và rỗng. Ông đúng, những hạt mạt cưa ở bên trong. Điều này là đáng chú ý! Và vết đứt, đúng là vết rách, bắt đầu bằng vết xước mỏng và chấm dứt bằng cái lỗ rách xơ ra. Cánh cửa này dẫn tới đâu?
      -Vào phòng ngủ của tôi.
      - Kể từ lúc xảy ra câu chuyện, ông có vào trong phòng đó lần nào ?
      - . Ngay tức khắc, tôi tới đằng nhà ông.
      -Tôi mong muốn được xem qua. Căn phòng duyên dáng, với cái kiểu kiến trúc cổ này! Chờ chút, để tôi quan sát cái sàn nhà này... Tôi thấy gì cả. Còn tấm ri-đô này? Ông treo quần áo ở đằng sau. Nếu ai đó muốn nấp trong căn phòng này y trốn vào đây, bởi cái giường quá thấp và phòng vệ sinh đủ rộng. Chẳng có ai đâu, chắc vậy?
      Theo cái cách mà Holmes nhấc tấm ri-đô lên, tôi hiểu là sẵn sàng ứng phó với mọi . ra, góc nhà đó chứa đựng cái gì khác hơn là vài bộ quần áo treo những cái mắc áo. Holmes xoay gót và bất thình lình cúi xuống.
      - Này! Cái gì đây nhỉ? - reo lên.
      Đó là cái tháp chất đen, giống hệt với cục mà chúng tôi thấy bàn ở văn phòng. Holmes nhặt lên và quan sát nó.
      - Người khách của ông để lại những dấu vết ở trong phòng ngủ cũng như văn phòng ông đây này.
      - vào đây để làm gì?
      - Ông quay về theo ngả mà tiên liệu được, và chỉ được báo động khi ông đến trước cánh cửa. bèn quơ lấy tất cả những gì có thể tố giác và hối hả chui vào phòng ngủ của ông đế trốn.
      - Vậy trong suất thời gian tôi chuyện với Bannister trong văn phòng, người đó ở trong phòng ngủ của tôi hay sao? Thưa ông Holmes, liệu có khả năng nào khác được chúng ông chưa quan sát cửa sổ phòng tôi.
      - Những ô vuông hình thoi, sườn bằng que chỉ, ba miếng kính rời, xoay những bản lề khá lớn đủ cho người có thể lách mình qua.
      - Đúng vậy. Và nó mở ra góc sân. Người đó vào phòng qua ngả cửa sổ, để lại những dấu vết trong phòng mà y qua, đoạn bỏ theo cửa chính để ngỏ mà ra ngoài.
      Holmes lắc đầu :
      - Ông bảo với tôi rằng có ba sinh viên sử dụng cái cầu thang này và thường hay ngang trước cửa phòng ông?
      - Vâng.
      - Và cả ba đều dự thi? .
      - Vâng.
      - Ông có nghi ngờ người nào ?
      - Đây là vấn đề rất tế nhị.
      - Tôi chẳng muốn phát biểu chút nào khi chưa có chứng cớ.
      - Tầng lầu Gilchrist, người hoàn hảo và là lực sĩ đẹp. ta chơi trong đội bóng bầu dục và khúc côn cầu của nhà trường, là tay vô địch môn chạy vượt rào và nhảy xa. Thân phụ là ngài Jabez Gilchrist, nhà quý tộc bị phá sản các trường đua ngựa. Người con trai đó nghèo nhưng làm việc chăm chỉ và thông minh.
      Tầng lầu hai là nơi Daulat Ras cư ngụ. chàng Ấn Độ này rất trầm tĩnh và kín đáo. học tập tốt, nhưng tiếng Hi Lạp yếu. chăm học và có phương pháp.
      Tầng lầu chót có Miles McLaren. ta rất siêng học, trong những học sinh sáng suốt nhất của trường. Nhưng ta lại thất thường, nghịch ngợm, vô nguyên tắc. Trong năm thứ nhất, ta suýt bị đuổi học vì vụ đánh bài. Trong suốt quý này, ta chơi rong và ắt hẳn phải nhắm tới kỳ thi với nỗi kinh hoàng.
      - Vậy là ông nghi ta?
      - Tôi dám xa tới thế. Nhưng người có hành vi như thế dễ bị người khác nghi ngờ.
      - Giờ đây, tôi muốn gặp ông Bannister.
      Đó là người bé , trạc 50 tuổi: Nước da trắng, râu; tóc hoa râm, mặt tròn trịa, có thoáng qua những chứng giật gân mặt và các ngón tay cứ luôn luôn bắt chéo vào nhau rồi lại buông ra.
      - Chúng tôi điều tra về cái vụ may mắn đó, Bannister! - Chủ ông ta .
      - Vâng, thưa ông.
      - Hẳn ông để cái chìa khóa lại cửa? - Holmes hỏi ông ta.
      - Vâng, thưa ông.
      - Phải chăng là khác thường, khi ông lơ đễnh đúng vào cái ngày mà những tài liệu lại để ở trong phòng?
      - hoàn toàn đáng tiếc, thưa ông.
      - Ông vào đây lúc mấy giờ?
      - Khoảng bốn giờ rưỡi, giờ chủ tôi dùng trà.
      - Ông ở lại trong bao lâu?
      - Khi thấy ông chủ có ở đây, tôi bỏ ngay.
      - Ông có nhìn vào các giấy tờ để bàn ?
      - , thưa ông.
      - Làm thế nào mà ông lại có thể để cái chìa khóa ở trong ổ khóa?
      - Tôi bưng khay trà. Tôi tự nhủ là quay lại lấy chìa. Thế rồi tôi quên luôn.
      - Cánh cửa bên ngoài có bộ phận đóng tự động ?
      - , thưa ông!
      - Thế là nó vẫn mở suốt trong thời gian đó.
      - Vâng.
      - Bất cứ ai từ trong phòng cũng có thể ra bằng cửa đó.
      - Vâng.
      - Khi ông chủ trở về và cho gọi ông, ông rất bối rối?
      - Vâng. Tôi hầu hạ ở đây lâu và việc như vậy chưa bao giờ xảy ra. Tôi gần như bị ngất xỉu.
      - Tôi biết. Ông ngồi tại đâu khi ông bắt đầu cảm thấy khó thở?
      - Ở đây gần bên cánh cửa.
      - là kỳ cục. Ông tới ngồi trong cái ghế bành đằng kia, trong góc này. Tại sao ông ngồi ở những cái ghế khác?
      - Đối với tôi điều đó có gì là quan trọng. Miễn sao tôi được ngồi xuống...
      - Tôi tin là ta dính dấp vào vụ này, thưa ông Holmes - Giám học .
      - Ông vẫn ngồi đó khi chủ ông bỏ ?
      - Chỉ trong hay hai phút. Đoạn tôi đóng cửa lại rồi leo lên phòng tôi.
      - Cám ơn, thế là đủ - Holmes trả lời - Ồ, còn điều này nữa: ông với trong ba sinh viên rằng có biến cố vừa xảy ra chứ?
      - Tôi lời nào.
      - Rất tốt. Giờ đây, chúng ta hãy dạo trong chốc lát ngoài sân.
      Ba ô vuông màu vàng lấp lánh ánh sáng ở phía chúng tôi .
      - Ba con chim của ông đều ở trong tổ - Holmes khi ngước lên nhìn - Này chuyện gì xảy ra vậy? trong ba người tỏ ra khá dao động?
      Đó là người sinh viên Ấn Độ chợt ra bức mành cửa. ta lại lại trong phòng.
      - Tôi muốn được nhìn thấy họ gần hơn chút - Holmes .
      - Dạ được. Mấy phòng đó nằm trong cái phần cổ xưa nhất của nhà trường và thỉnh thoảng chúng tôi đưa khách tới đó tham quan. Các ông hãy cùng với chúng tôi.
      - Cần nhất là đừng có gọi tên! - Holmes thầm khi chúng tôi gõ cửa phòng Gilchrist.
      thanh niên to con, dong dỏng cao, mái tóc màu gai, mở cửa và ngỏ lời chúc mừng khi được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Phòng thiếu những di tích của lối kiến trúc xưa. Holmes bị lôi cuốn mãnh liệt bởi trong những di tích đó, khiến muốn vẽ lại cuốn sổ tay; làm gẫy bút chì, hỏi mượn chủ nhà cái bút chì và sau cùng hỏi mượn con dao nhíp dể gọt lại. Việc đó xảy ra trong phòng của người sinh viên Ấn Độ. Nhưng mưu toan thứ ba của chúng tôi bị thất bại. Cánh cửa mở ra và chúng tôi chỉ nhận được tràng những lời lẽ kém nhã nhặn.
      - Tôi cóc cần biết các ông là ai! chỗ khác mà xem! Tôi bận học thi, các ông nghe chưa?
      - người vui tính - Người hướng dẫn chúng tôi , trong lúc xuống cầu thang - Tất nhiên ta biết tôi là người gõ cửa. Tuy nhiên ta cư xử cách bất lịch và đáng nghi ngờ.
      Câu trả lời của Holmes lại khá bất ngờ:
      - Ông có thể cho tôi biết chiều cao đích xác của ta ?
      - ta cao hơn người Ấn Độ nhưng thấp hơn Gilchrist? Tôi nghĩ là 5 bộ 6...
      - Điều đó rất quan trọng. Và giờ đây, thưa ông Soames, xin chúc ông đêm an lành - Holmes .
      Người hướng dẫn chúng tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên và lòng tuyệt vọng của ông.
      - Lẽ nào ông lại bỏ rơi ông cách đột ngột đến thế. Ngày mai thi rồi. Tối nay tôi buộc phải làm cái gì đó minh bạch, dứt khoát. Tôi thể giữ nguyên kỳ thi nếu người ta đụng vào những bản in thử đó.
      - Hãy cứ giữ nguyên. Sáng mai tôi đến đây sớm và chúng ta bàn lại vấn đề. Rất có thể là lúc đó tôi nắm được những yếu tố mới, khả dĩ giúp ông thoát ra khỏi cảnh ngộ này. Từ đây tới đó, ông đừng thay đổi gì cả.
      - Được lắm, thưa ông Holmes.
      - Ông cứ yên tâm. Tôi đem về hai cục hình chóp đen cùng những mẩu vỏ bút chì. Xin chào ông.
      Khi ra tới sân, chúng tôi quan sát những khuôn cửa sổ lần nữa. Người Ấn Độ vẫn tiếp tục sải bước trong phòng. Hai người kia nhìn thấy. Khi ra tới đầu đường, Holmes hỏi:
      - Watson, trò chơi ba người. hãy chọn lựa ! Người nào?
      - Cái nhân vật thô bạo ở cao. ta là người “có tiếng” hơn cả. Cái chàng Ấn Độ cũng khéo vờ vĩnh. Tại sao ta lại cứ sải bước trong phòng.
      - Rất nhiều người bách bộ để thử cố học thuộc lòng cái gì đó.
      - chàng nhìn chúng ta với chán ghét...
      - Nếu có bọn người lạ đột nhập vào phòng vào buổi tối trước ngày thi, có thái độ như thế nào? Cái bút chì, con dao nhíp, tất cả đều được hết. Duy gã nọ là bắt tôi phải suy nghĩ.
      - Gã nào?
      - Bannister. Ông ta chơi trò gì?
      - Tôi có cảm tưởng rằng ông ta rất thà.
      - Cả tôi cũng thế. Và đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao người lương thiện đến thế mà lại...? Đây là cửa hàng giấy bút lớn: Chúng ta tìm kiếm từ nơi này.
      Trong thành phố chỉ có bốn cửa hàng giấy bút lớn. Holmes đưa những mẩu vỏ bút chì ra và hỏi mua thứ bút đó. Lần nào người ta cũng đưa ra thứ bút mà Holmes tìm kiếm. Bạn tôi nhún vai với cử chỉ nhẫn nhục vui vẻ.
      - may rồi. Chúng ta chẳng tới đâu cả. Chín giờ rồi bạn ơi!
      Sau bữa ăn tối muộn màng, Holmes động gì tới vụ đó nữa. Tám giờ sáng, vào phòng tôi.
      - Tới giờ St. Luke rồi. có thể bỏ bữa điểm tâm được ?
      - Được thôi, có gì mới ?
      - Có.
      - rút ra được những kết luận gì?
      - Tôi giải quyết xong vấn đề. Tôi ra khỏi giường hồi 6 giờ, làm việc cật lực trong hai tiếng đồng hồ và bộ 5 dặm đường để tìm cái gì đó. hãy coi cái này!
      lòng bàn tay Holmes có ba cái chóp bằng đất sét đen, sền sệt.
      - Ngày hôm qua chỉ có hai thôi mà?
      - Và sáng hôm nay, có thêm cái nữa. Nơi xuất phát của cái thứ ba cũng là nơi xuất phát của hai cái kia. Nào, chúng ta hãy gặp ông bạn Soames.
      Ông thầy đáng thương ở trong tình trạng bồn chồn trong phòng ngủ của ông. Chỉ còn vài giờ nữa là cuộc thi bắt đầu và ông còn tự hỏi biết nên giải thích tất cả hay cứ để mặc cho kẻ phạm tội dự thi. Ông nhạy ùa về phía Holmes với hai cánh tay dang thẳng, :
      - Tôi sợ ông nản chí. Cuộc thi có tiến hành ?
      - Cứ tiến hành.
      - Nhưng, tên vô lại ..?
      - dự thi.
      - Ông biết là ai?
      - Biết. Bởi vụ này cần phải được giữ kín, nên chúng ta lập ra thứ như “tòa án đặc biệt” . Mong ông ngồi đây, Watson ngồi vào đây. Tôi ngồi vào ghế bành của ông ở chính giữa. Chúng ta đủ oai nghiêm để làm cho tâm hồn phạm tội phải sững người vì sợ hãi? Xin ông vui lòng gọi chuông.
      Bannister vào phòng và suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước cảnh đó. Holmes với Bannister:
      - Mong ông vui lòng đóng cánh cửa đó lại. Giờ đây, ông hãy về việc xảy ra hôm qua.
      Bannister tái mét tới tận chân tóc:
      - Tôi thưa tất cả rồi.
      - Ông còn gì để thêm sao?
      - , thưa ông.
      - Trong trường hợp này, tôi phải gợi ra với ông vài ý kiến. Ngày hôm qua khi ngồi cái ghế bành này, có phải ông chọn cái chỗ đó cất để ý che giấu đồ vật có thể tiết lộ người vào phòng này .
      Bộ mặt Bannister tím ngắt.
      - , thưa ông.
      - Đó chỉ là gợi ý? - Holmes với giọng ngọt ngào - Tôi có khả năng chứng minh điều đó. Nhưng có điều chắc chắn là ngay khi ông Soames vừa xoay lưng , ông đưa người trốn trong phòng ngủ ra ngoài.
      Bannister liếm cập môi khô:
      - có ai cả, thưa ông.
      - A! đáng tiếc! Cho tới giây phút này, ông vẫn có thể ra , nhưng tôi biết là ông dối.
      Bộ mặt của Bannister chỉ còn bộc lộ thách thức buồn bã.
      - có ai cả, thưa ông.
      - Coi nào, ông Bannister.
      - , thưa ông, có ai cả.
      - Thôi được, ông hãy tời đứng gần bên cửa ra vào phòng ngủ. Bây giờ, thưa ông Soames, tôi mong ông leo lên phòng chàng trai Gilchrist, cầu cậu ta xuống đây.
      lát sau, ông thầy cùng với cậu sinh viên bước vào. Đó là thanh niên đẹp trai, lực lưỡng, mảnh và cao, mềm mại, dáng linh hoạt, vui mắt, ta có bộ mặt cởi mở. Cặp mắt xanh của chăm chú nhìn chúng tôi trước khi đặt lên Bannister với dáng vẻ rụng rời.
      - Hãy đóng cửa lại - Holmes - Giờ đây, ông thấy là chúng ta hoàn toàn tách biệt với bên ngoài. ai nghe chúng ta chuyện. Vậy chúng ta có thể chuyện với tất cả lòng thẳng thắn. Chúng tôi muốn biết, làm thế nào mà ông, người trọng danh dự, lại phạm vào lỗi lầm như trong ngày hôm qua?
      Chàng thanh niên lảo đảo và ném lên Bannister tia nhìn oán trách.
      - Nhưng, thưa ông Gilchrist, tôi gì hết - Người đầy tớ kêu lên.
      - Nhưng bây giờ ông - Holmes trả lời - Coi nào, chàng trai! Sau cái điều vừa thoát ra khỏi cổ họng Bannister, địa vị của ông hẳn là bớt đẹp. Ông chỉ còn có cơ may: Thành nhận lỗi.
      Trong lúc, Gilchrist giơ bàn tay lên thử chế ngự mối cảnh xúc và bất thình lình ta quỳ gối xuống bên cạnh bàn, vùi mặt vào trong hai bàn tay và khóc nức nở. Holmes dịu dàng :
      - Coi nào, coi nào. Lỗi lầm là bản chất của con người, có thể thích để cho tôi thay ? đính chính nếu tôi bị lầm lẫn. đồng ý chứ? Tốt. Thưa ông Soames, kể từ lúc ông rằng có ai biết những bản in thử ở trong văn phòng ông, vụ này làm cho tôi thích thú. Chúng ta có thể gạt bỏ người thợ in, bởi vì nếu muốn, ta có thể chép những bản văn đó ngay trong nhà mình. Tôi cũng loại bỏ người Ấn Độ: Nếu những bản in thử còn quấn thành cuộn, ta thể đoán được rằng, đó là cái gì. Mặt khác, có thể có trùng hợp như thế này: người nào đó vào trong văn phòng ông và tình cờ nhìn thấy đề thi nằm ở bàn! Tôi cũng gạt bỏ luôn giả thiết đó.
      Cái người vào đây phải là người biết nơi này có bản in thử. Vì sao người ấy biết được?
      Khi tôi tới gần bàn giấy của ông, tôi quan sát khung cửa sổ. Ông làm tôi cười khi ông tin rằng có ai đó lẻn vào văn phòng bằng ngả đó. giả thiết như thế là phi lý. Tôi tính chiều cao cần thiết mà người đó có thể ngang cửa nhà này và người ấy phải biết trước loại giấy tờ nào nằm bàn ông. Tôi cao 6 bộ và chỉ cần hơi gắng sức là tôi trông thấy xấp giấy bàn. Vậy, nếu trong ba sinh viên của ông, người có thân hình cao, là mục tiêu của tìm kiếm. Tuy nhiên, lúc đứng trong văn phòng, tôi rút ra được điều gì, nhưng ông mô tả với tôi rằng Gilchrist là nhà vô địch chạy vượt rào và nhảy xa . Thế là tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi cần có những chứng cớ xác minh.
      Chàng thanh niên này tập nhảy suốt buổi chiều sân thể thao. trở về, mang theo đôi giày nhảy, là thứ có gắn những mũi nhọn, như ông thấy. Khi ngang qua cửa phòng ông, nhờ thân hình cao, trông thấy nhưng bản in thử đó để bàn, còn cánh cửa có chìa khóa để quên. thôi thúc đẩy vào phòng và để xem coi đó có phải là đề thi của ngày hôm sau ? Nếu bị bắt gặp, có thể rằng tới để hỏi ông thầy câu gì đó.
      Khi thấy đó đúng là đề thi, đành chịu thua cám dỗ. để đôi giày có gắn mũi nhọn lên bàn. Thế để cái gì lên cái ghế bành kê gần bên cửa sổ này?
      - Đôi bao tay - Chàng trai trả lời.
      Holmes nhìn Bannister với tư thế của người thắng cuộc.
      - đặt đôi găng tay lên thành ghế và lấy từng tờ giấy để chép lại. nghĩ rằng ông thầy trở về qua lối cổng chính, và trông thấy. Thế nhưng ông thầy lại trở về qua cổng . Bất thình lình, nghe thấy tiếng gõ của thầy ở đằng sau cánh cửa. vội vàng quơ lấy đôi giày nhảy và bỏ trốn trong phòng ngủ, bỏ quên đôi bao tay thành ghế. Vết khắc mặt bàn in bên, nhưng lại hằn trong hướng tới phòng ngủ. Điều đó cho thấy thủ phạm trốn trong phòng. Đất bám chung quanh mũi nhọn vương lại bàn, mẩu đất thứ hai tuột ra và rơi xuống trong phòng. Sáng nay tôi tới sân nhảy và thấy hố đó đầy thứ đất đen dính chắc này. Tôi mang về ít và tôi cũng ghi nhận rằng người ta rắc mạt cưa lên mặt đất để các lực sĩ khỏi bị trượt chân. Tôi có đúng , ông Gilchrist?
      Chàng sinh viên đứng lên.
      - Đúng, thưa ông.
      - Nhưng có gì để thêm sao? - Ông Soames kêu lên.
      - Có, thưa thầy. Tôi có nhiều điều để thêm. Nhưng khám phá ra đó làm tôi kinh ngạc. Tôi có lá thư gửi thầy. Tôi viết vào giữa đêm mà lương tâm yên ổn. Thư đó đây. Đây là câu đầu tiên: “Tôi quyết định dự thi; người ta đề nghí với tôi chỗ là trong sở cảnh sát ở Rhodésia; tôi sang Nam Phi ngay tức khắc”.
      - Tôi sung sướng được biết có ý định lợi dụng sơ sót của tôi. Nhưng tại sao lại đổi ý?
      Gilchrist chỉ vào Bannister :
      - Đây là người đưa tôi trở lại con đường ngay thẳng.
      - Coi nào, Bannister! - Holmes kêu lên - Sau điều tôi vừa giải thích, ông hiểu rằng chính ông để cho chàng trai này ra khỏi phòng, bởi ông ở lại mình trong phòng và ông khóa cửa lại sau khi bỏ . Ông có muốn cho chúng tôi biết tại sao ông hành động như vậy .
      - Thưa ông, thời, tôi phục vụ như người quản gia nơi nhà thân phụ của chàng trai. Khi cụ bị phá sản, tôi trở thành nhân viên thuộc trường này, nhưng tôi bao giờ quên được ông chủ cũ. Tôi chăm sóc con trai cụ hết sức mình để tưởng nhớ thời êm đềm xa xưa. Hôm qua, khi tôi vào trong văn phòng này, cái đầu tiên mà tôi trông thấy, đó là đôi bao tay của cậu đặt ghế bành. Tôi biết, nếu ông giám học cũng trông thấy chúng, là cậu bị phát . Thế nên tôi bèn “ngất xỉu” cái ghế bành này và gì có thể làm tôi động đậy, mãi cho tới khi ông Soames ra. Người chủ trẻ của tôi rời khỏi chỗ nấp và thú nhận với tôi. Thuở xưa, tôi từng đặt cậu ấy ngồi đầu gối tôi. Về phần tôi, là tự nhiên khi tôi làm đủ mọi cách để cứu cậu ấy? Mặt khác, tôi với cậu rằng chẳng nên làm như thế. Ông có chê trách tôi , thưa ông Holmes.
      Holmes đứng lên nồng nhiệt với Bannister và ông Soames rằng vấn đề được giải quyết êm đẹp. Quay sang chàng trai, Holmes tiếp:
      - Về phần , người bạn trẻ, tôi tin chắc rằng ở chân trời xa xôi kia, tương lai xán lạn chờ đón .

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      11. Cái Kính Kẹp Mụi Bằng Vàng


      Những ngày cuối tháng 11-1894. Buổi tối thật buồn. Holmes dùng kính lúp để ́ đọc những gì còn sót lại của một câu văn viết da cừu, trong lúc tôi say mê đọc một cuốn chuyên luận về phẫu thuật. Bên ngoài gió gào rú, mưa dông mạnh. Tôi tới bên cửa số nhìn xuống đường phố vắng tanh. Những ngọn đèn đường chiếu sáng một mặt đường bùn lầy. Một chiếc xe ngựa chạy tới, làm nước văng tung toé. Holmes đặt kính lúp xuống và gấp mảnh da cừu lại:

      - Thật may mắn là bọn mình phải ra ngoài. Tôi ngán cái trò tìm đoán này: thật tội nghiệp cho đôi mắt! Ồ, có chuyện gì thế?

      Nổi bật tiếng gió vù vù, tiếng móng ngựa đập đôm đốp dọc theo nhà rồi tiếng bánh xe ngừng lại, kêu cọt kẹt khi cọ vào vỉa hè. Chiếu xe ngựa đậu lại trước nhà chúng tôi.

      - Ông này muốn gì đây? - Tôi kêu lên khi thấy một người đàn ông từ xe bước xuống.

      - Muốn gì à? Người đó muốn chúng ta. Và chúng ta muốn những cái áo choàng ngoài, những khăn choàng ̉, những đôi giày cao su và tất cả những gì mà loài người phát minh ra để bảo vệ trước thời tiết xấu. Hãy chạy xuống dưới, và mở cửa ra mau, bởi vì vào giờ này tất cả những người có đạo đức đều ngủ cả rồi!

      Khi ánh sáng ngọn đèn trong gian tiền sảnh chiếu người khách, tôi nhận ra ngay đó là Stanley Hopkins, một thanh tra trẻ tuổi.

      - Ông ấy có nhà ? - ta ném cho tôi câu hỏi khi bước vào.

      - Hãy lên ! - Holmes trả lời từ phía - Chắc đêm nay ấp ủ những ý đồ đen tối chống lại chúng tôi?

      Viên thanh tra leo vội lên cầu thang, từng bốn bậc một. Nước áo mưa của ta chảy ròng ròng. Tôi giúp ta cởi nó ra, trong lúc Holmes khơi cao ngọn lửa.

      - Hãy đến gần ngọn lửa mà sưởi ấm đôi chân. Đây là một điếu xì-gà. Bác sĩ ta sẵn lòng làm một chén thuốc, trong có nước sôi và một quả chanh. Có chuyện gì quan trọng lắm nên luồng gió độc địa này mới thổi tới đây?

      - Ông đọc tin giờ chót của các báo chưa? Về vụ án Yoxley đó mà.

      - !

      - Được. Đó là bản tin vắn, đầy rẫy những sai lầm. Chuyện đó xảy ra trong vùng Kent, cách Chatham 7 dặm và cách đường xe lửa 3 dặm. Người ta báo cho tôi bằng điện tín vào lúc 3 giờ 15, tôi tới Yoxley Old Place vào hồi 5 giờ. Tôi mở cuộc điều tra, rồi quay trở về Charing Cross bằng chuyến xe lửa cuối cùng và thẳng tới đây.

      - Vậy là chưa thấy vụ này? - Holmes hỏi.

      - Đây là vụ rối rắm nhất trong tất cả những vụ mà tôi đảm trách. có động cơ gây ra tội ác; có người bị chết, nhưng sao hiểu được tại sao có người muốn giết ta?

      Holmes mồi một điếu xì-gà và ngồi nép vào trong ghế bành.

      - Chúng tôi nghe đây.

      - Cách đây vài năm, một người đứng tuổi, giáo sư Coram đến mua một căn nhà ở vùng quê Yoxley Old Place. ông ta đau ốm, tàn tật, một nửa thời gian nằm liệt giường, nửa thời gian còn lại chống gậy quanh nhà. ông được láng giềng quý. Họ thường tới thăm ông và coi ông như nhà thông thái. Đám gia nhân gồm có người quản gia lớn tuổi, bà Marker, và người hầu Susan Tarlton. Đó là hai phụ nữ trung hậu.

      Ông giáo sư viết một cuốn sách. Năm vừa qua, ông thuê một thư ký. Hai người đầu làm được việc, người thứ ba là một thanh niên tốt nghiệp đại học, đáp ứng được những mong muốn của giáo sư. Mỗi sáng, ghi chép lại những gì ông chủ đọc; và buổi chiều, đọc kỹ những câu trích dẫn có quan hệ với công việc ngày hôm sau. thể nào tìm ra được một điều gì đó chống lại chàng Willoughby Smith này, hoặc là lúc ta hãy còn , hoặc là lúc ta theo học ở đại học. Tôi xem các bằng cấp và những lá thư tiến cử. ta luôn luôn là người trầm tĩnh, siêng năng, thật thà và đứng đắn. Ấy thế mà bị giết sáng nay trong văn phòng của giáo sư và những tình huống chỉ dẫn một cách dứt khoát rằng đây là một vụ ám sát.

      Gió vẫn gào thét bên cửa sổ. Chúng tôi ngồi sát gần ngọn cửa, trong lúc viên thanh tra khai triển câu chuyện.

      - Trong khắp nước , chúng ta gặp một ngôi nhà nào cách biệt và thoát ra khỏi những ảnh hưởng bên ngoài như căn nhà đó. Nhiều tuần lễ qua mà một người lạ nào vượt qua hàng rào sắt quanh nhà. Ông giáo sư bị cuốn hút vào trong công việc Chàng thanh niên quen biết ai trong lối xóm, nghĩa là ta sống y như ông chủ. Hai người đàn bà bị một mối quan hệ nào lôi họ ra khỏi nhà. Người làm vườn là một quân nhân về hưu tên là Mortimer. Ông ta ở trong nhà, nhưng sống trong một căn nhà ba gian ở đầu đằng kia khu vườn. .

      Người hầu khai rằng, sáng nay, trong khoảng từ 11 đến 12 giờ, bà treo những tấm màn trong căn phòng ở cao, mé trước nhà. Giáo sư còn ngủ. Bà quản gia bận rộn tận cuối căn nhà. Willoughby Smith tới phòng ngủ mà dùng như là văn phòng riêng. Nhưng bà ta lại nghe tiếng bước chân ra, bước dọc theo hành lang và xuống văn phòng ở ngay mé dưới, nơi bà làm việc. Bà trông thấy , nghe thấy tiếng cánh cửa văn phòng đóng lại, nhưng ít lâu sau, một tiếng kêu kinh hoàng vang lên trong căn phòng phía dưới. Một tiếng thét chói tai và quá khác thường khiến cho bà phân biệt được là tiếng của đàn ông hay đàn bà. Cùng lúc đó có tiếng té ngã vang lên, làm rung chuyển cả ngôi nhà, rồi sau đó hoàn toàn im lặng. Bà ta sững người, nhưng sau đó lấy lại can đảm và chạy xuống nhà dưới. Cánh cửa văn phòng đóng kín. Bà mở ra. chàng Willoughby Smith nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên bà thấy một vết thương nào; nhưng khi bà thử đỡ ông lên có máu chảy ở dưới ̉. Vết thương thật nhưng cái động mạch nhánh bị cắt đứt. Hung khí là một con dao nhíp loại , dùng để cắt xi gắn niêm phong, một loại dùi mà thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp trong những căn phòng ̉ xưa có cán bằng ngà và một cái lưỡi sắc. Nó là một trong những vật dụng văn phòng của giáo sư.

      Thoạt đầu bà ta tưởng Willoughby Smith chết, nhưng khi bà lấy nước trong một cái bình rưới lên đầu mở mắt ra; thào: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”. xong, chết. Bà hầu phòng quả quyết rằng chính tai bà nghe câu đó. Giữa lúc ấy, bà quản gia cũng tới nơi xảy ra tội ác. Bà này để người hầu ở lại bên cạnh xác chết và bà vội vàng chạy lên phòng ông chủ để báo tin. Ông giáo sư ở trong phòng, ngồi dậy, bị dao động một cách khủng khiếp. Bà Marker làm chứng rằng giáo sư vẫn còn mặc quần áo ngủ và ông thể mặc quần áo được, nếu phụ giúp của người làm vườn. Ông giáo sư khai rằng ông nghe thấy tiếng kêu, nhưng ông biết gì khác. ông thể nào giải thích được những lời sau cùng của người thư ký trẻ: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”. Ông cho rằng đó là do tác dụng của mê sảng. Ông tin rằng chàng thanh niên có kẻ thù nào. Giáo sư phái người làm vườn trình cảnh sát địa phương.

      Một lát sau, viên cảnh sát trưởng triệu tôi tới. có cái gì bị dời chỗ. Những mệnh lệnh nghiêm ngặt được ban ra để cho một ai lại những lối trong vườn dẫn tới nhà. Thưa ông Holmes, đây là cơ hội mơ ước để ông đem ứng dụng những lý thuyết của ông, nó tuyệt đối thiếu một thứ gì…

      - Chỉ thiếu có ông Sherlock Holmes. - Bạn tôi trong một nụ cười gần có phần chua chát - Được, chúng tôi xin nghe phần tiếp theo. Vậy làm gì?

      - Trước lết, tôi mong ông liếc qua cái sơ đồ này.

      ta mở bản phác họa và trải nó ra đầu gối Holmes. Tôi đứng lên và quan sát nó qua bạn tôi.

      - Nó rất sơ sài. Sau này ông tự mắt quan sát phần còn lại. Giờ đây, điểm thứ nhất: Nếu kẻ sát nhân vào trong nhà, y qua lối nào? Chắc là qua lối vào trong vườn (A) và qua cánh cửa dành cho người giúp việc (8-), từ đó thẳng tới văn phòng (C). Tất cả mọi ngả đường khác đều đưa ra những khó khăn lớn. Lối y bỏ trốn cũng được thực hiện qua ngả đó, bởi vì hai lối ra khác của căn phòng, một bị chặn bởi Susan chạy tới (D) và lối kia dẫn thẳng vào phòng của giáo sư). Vậy là tôi chú tâm vào lối trong vườn, bị làm nhão bởi một cơn mưa. Tôi tìm thấy một dấu chân nào lối .

      Ngược lại, có ai đó men theo lối bằng cách bước cỏ khiến cho để lại những dấu vết. Tôi thế tìm ra một dấu chân ràng nào, nhưng cỏ bị rạp xuống: hẳn là cỏ bị bàn chân của kẻ sát nhân đạp lên, bởi vì người làm vườn cũng như hai bà già kia, ai dạo trong vườn vào buổi sáng và còn ban đêm trời đố mưa.

      - Lối này dẫn tới đâu? - Holmes hỏi.

      - Tới con đường.

      - Chiều dài là bao nhiêu?

      - Gần 100 yard.

      - Ở cái chỗ mà lối đụng vào hàng rào, ắt hẳn thu thập được những dấu vết?

      - Ở đó, lối lại được lát đá.

      - Thế còn con đường, phía bên kia hàng rào?

      - Đúng là một vũng bùn.

      - Tốt. Hãy trở lại với những dấu vết cỏ: chúng về hướng nào?

      - thể được. có những đường viền.

      - Một bàn chân lớn hay một bàn chân ?

      - thể nào xác định được!

      Holmes thở dài, mất kiên nhẫn:

      - Vấn đề này còn khó hiểu hơn là đọc miếng da cừu! Thế rồi, làm gì?

      - Tôi biết chắc là có một ai đó từ bên ngoài vào trong nhà. Sau đó tôi quan sát cái hành lang (F) có lót một tấm lác nếu đan bằng sợi dừa: một dấu vết nào. Cuộc khám xét đó đưa tôi vào ngay trong căn phòng. Đồ đạc chính là một cái bàn lớn đặt hai chồng ngăn kéo được liền với nhau bằng một thứ như tủ buýp-phê. Các ngăn kéo đều mở, cái tủ buýp-phê bi khoá. Dường như những ngăn kéo bao giờ đóng lại và chúng chứa những đồ vật đáng giá nào. Trong tủ buýp-phê có vài tờ giấy quan trọng, nhưng dường như người ta đụng tới và ông giáo sư khai với tôi là một giấy tờ nào bị mất cả. Chắc chắn là có vụ trộm nào xảy ra.

      Thi hài của chàng trai gần bên cái tủ. Vết thương ở bên tay phải gần ̉ và trổ từ sau ra trước; khó mà kết luận rằng đây là một vụ tự tử.

      - Ngoại trừ trường hợp mà ta bị ngã xuống trúng con dao. - Holmes .

      - Rất đúng! Nhưng chúng tôi lại tìm thấy con dao ở cách thi hài khá xa, vậy là giả thiết đó đứng vững. Vả lại còn có những lời trăn trối của nạn nhân. Và sau chót, đây là bằng chứng rất quan trọng mà người chết nắm chắc trong bàn tay phải co quắp lại.

      Stanley Hopkins rút từ trong túi ra một cái hộp . ta mở rộng tờ giấy và trưng ra một cái kính kẹp mũi bằng vàng với hai mẩu dây bằng lụa đen đong đưa. thêm:

      - Willoughby Smith có một thị lực hoàn hảo! Vậy cái kính kẹp mũi này được giật ra từ mặt hoặc người của kẻ sát nhân.

      Holmes cầm lấy và quan sát nó chăm chú. đặt kính lên mũi, thử đọc, tới bên cửa sổ và nhìn xuống đường phố, đoạn gỡ nó ra và đặt dưới ánh đèn. Sau cùng, bật ra một tiếng cười , đến ngồi vào bàn và viết vài hàng một tờ giấy rồi dưa cho Stanley Hopkins.

      - Đây là cái mà tôi có thể làm cho . Chúng ta thấy là nó có ích hay .

      Viên thanh tra ngạc nhiên, cất cao giọng, đọc tờ giấy:

      “Người ta tìm kiếm một bà có dáng vẻ lịch thiệp, ăn vận thanh lịch. Bà có cái mũi dày một cách dị thường và haisát gần hai bên mũi. Bà có vầng trán nhăn, hai bờ vai còng. Chắc chắn là trong những tháng gần đây bà đến hiệu kính ít nhất hai lần. Vì những tiệm kính nhiều lắm, ắt hẳn khó khăn gì dể tìm ra dấu vết của bà”.

      Holmes cười trước cái vẻ ngơ ngác của Hopkins. :

      - Cặp kính kẹp mũi rất dễ cho ta suy diễn. Về việc cái kính là của một phụ nữ, tôi suy diễn từ mảnh dẻ của cái kính và từ những lời sau cùng của nạn nhân. Về điều dáng vẻ thanh tao và lịch thiệp: cái kính này làm bằng vàng, cho thấy chủ nó giầu sang, tất nhiên bà phải ăn mặc thanh lịch. Hai cái kẹp của kính quá rộng, chứng tỏ rằng cái mũi của bà này rất nở ở dưới đáy. Tôi có một khuôn mặt hẹp, dài, ấy thế mà tôi thể nhìn vào chính giữa hoặc gần trung tâm những tròng mắt này. Vậy đôi mắt của bả ta được đặt sát bên sống mũi. Một phụ nữ mà thị lực bị suy giảm đến như thế suốt đời, chắc chắn có chăng nét đặc trưng về cơ thể hợp với thị lực đó, như là một vầng trán nhăn, và những bờ vai bị còng.

      - Đúng! Tôi theo dõi rất sát những suy diễn của , ngoại trừ một điều: làm thế nào mà biết bà ta hai lần tới tiệm kính? - Tôi hỏi.

      Holmes cầm cặp kính kẹp mũi trong bàn tay.

      - Những cái kẹp được viền bằng những vòng xíu bằng bần, ngõ hầu làm dịu sức ép mũi. Một trong những cái vòng đó bị phai mầu và hơi cũ, nhưng cái kia mới. Vậy là một cái bị rơi và bà thay cái khác. Theo ý tôi, cái vòng cũ hơn cũng lâu tới quá vài ba tháng. Và bởi chúng giống y như nhau, tôi suy luận ra rằng bà đó trở lại lần thứ hai ở cùng một nơi.
      - Ông thật tuyệt vời! - Hopkins kêu lên, miệng há hốc vì khâm phục - Tôi có trong tay tất cả những hiển nhiên đó mà tôi chẳng hề suy luận ra một điều .

      - Bạn thân mến, bạn còn có điều gì khác để với chúng tôi ?

      - . Ông cũng biết như tôi… Và có thể còn nhiều hơn tôi nữa. Chúng tôi điều tra về có mặt có thể có của một người đàn ông hoặc một người đàn bà xa lạ; hoặc ở con hoặc ở tại nhà ga: có kết quả! Điều làm tôi băn khoăn là thiếu những động cơ gây ra tội ác.

      - À! Chỗ đó, tôi có khả năng giúp được . Nhưng ngày mai, chúng ta gặp nhau tại hiện trường, được ?

      - Ta tới Yoxley Old Place từ 8 đến 9 giờ.

      - Chúng ta đáp chuyến tàu đó. Này, Hopkins, cũng gần một giờ sáng rồi. Cái trường kỷ kê trước lò sưởi thuộc quyền sử dụng của đó.

      Sáng hôm sau chúng tôi xuống tàu ở một ga xép cách Chatham vài cây số. Thời gian thắng một con ngựa vào đôi càng xe độc mã đủ để chúng tôi quất một bữa điểm tâm xoàng xĩnh. Khi tới Yoxley Old Place chúng tôi làm việc ngay. Một cảnh sát viên đón chúng tôi ở hàng rào quanh vườn.

      - Thế nào, có gì mới Wilson?

      - , thưa ông.

      - Người ta vẫn chưa báo gì về một người lạ trong xứ à?

      - , thưa ông. Ở dưới ga, họ tin chắc là có một người lạ nào tới hoặc .

      - điều tra trong các quán ăn và các nhà trọ?

      - Tất cả mọi người đều theo đúng luật lệ với những lý do vắng mặt đều chấp nhận được và kiểm tra.

      - Từ đây Chatham xa lắm. Bất cứ ai cũng có thể xuống đó và đáp tàu mà chẳng bị ai để ý tới... Đây là lối trong vườn mà tôi với ông, thưa ông Holmes

      - Ở phía nào có những dấu vết ở cỏ?

      - Qua đây! Trong cái dải chật hẹp giữa lối và những khoảng đất trồng hoa trong vườn.

      - Đúng, đúng! Có một ai đó qua ngả này. Người đàn bà xa lạ của chúng ta hẳn bước rthận trọng, bởi vì phía này bà hẳn để lại một dấu vết lối phía bên kia một dấu vết còn hơn nữa, khoảng đất trồng hoa thật mềm, phải ?

      - Bà ta phải là người điềm tĩnh một cách khác thường.

      Bất thình lình Holmes tập trung tư tưởng.

      - là bà ta ra qua ngả này?

      - Vâng, có một lối nào khác.

      - cái dải cỏ này à?

      - Chắc chắn rồi.

      - Hừm! Vậy đúng là một kỳ tích rất đáng chú ý… Rất đáng chú ý! Thôi! Chúng ta hãy xa hơn. Cái cánh cửa vườn này thường được mở rộng, tôi đoán thế. Vậy là bà khách chỉ có việc vào. Vì nghĩ về một vụ ám sát có trong đầu bà ta; nếu , mang theo một vũ khí nào đó thay vì sử dụng con dao nhíp bàn giấy. Bà ta trong hành lang, để lại dấu vết khi qua cái chiếu dệt bằng sợi dừa. Rồi bà ta tới trong văn phòng này… Bà ta ở nơi đây bao lâu?

      - Chừng 15 phút thôi. Bà Marker khẳng định như vậy.

      - Người đàn bà xa lạ vào trong văn phòng này và làm gì? Bà ta tới cái tủ. Tại sao? phải để tìm một cái gì đó trong những ngăn kéo. Nếu trong ngăn kéo mà có một cái gì quan trọng ắt hẳn chúng được khóa lại. , bà ta tìm một cái gì đó trong tủ buýp-phê bằng gỗ này. Coi này, thế còn cái vết xước này, đây này. Này Watson, hãy đánh cho tôi một que diêm. Tại sao lại với tôi về cái vết xước này, Hopkins?

      Cái vết mà Holmes quan sát bắt đầu từ mặt đồng hồ bên mé phải có khóa và nó kéo dài khoảng 4 inch nước véc-ni.

      - Tôi thấy nó. Nhưng luôn luôn chúng ta thấy chung quanh một có khóa có những vết xước giống như vết này. Vết này hoàn toàn mới… Rất mới. hãy nhìn xem chỗ bị cào xước này, màu đồng mới bóng làm sao. Một vết xước cũ hẳn lâ màu của mặt có khóa. Hãy dùng kính lúp của tôi mà coi. Chúng ta nhận thấy lớp véc-ni ở chỗ này, giống như đất ở mỗi bên của một luống cày. Bà Marker có ở đây nhỉ?

      Một bà đứng tuổi, có nét mặt ủ ê, bước vào.

      - Sáng hôm qua bà có quét bụi cái bàn giấy này ?

      - Có.

      - Bà có để ý thấy cái vết xước này ?

      - , tôi thấy nó.

      - Ai giữ chìa khoá tủ này?

      - Ông giáo sư gắn nó trong sợi dây đeo đồng hồ của ông.

      - Đó có phải là một cái chìa thông thường ?

      - , chìa khóa hiệu Chubb.

      - Tốt lắm bà Marker, bà có thể về. Thế là chúng ta tiến được chút đỉnh. Người nữ khách của chúng ta vào trong phòng, tiến lại gần bàn giấy, và mở ra hoặc thử tìm cách mở tủ ra. Trong lúc vội vã rút cái chìa khoá ra, bà gây nên vết xước cánh cửa. Willoughby Smith tóm lấy bà, nhưng bà quơ lấy món đồ đầu tiên nằm trong tầm tay, tình cờ lại là con dao nhíp, và đâm vào ta để buông bà ra. ngờ cú đâm lại làm chết người. Willoughby Smith gục xuống và bà bỏ trốn: có thể bà lấy được món đồ hoặc chưa lấy được. Thế còn bà hầu phòng Susan có ở đấy ? Bà Susan ơi, có thể nào có ai đó lại có thể ra khỏi cửa này sau khi bà nghe thấy tiếng kêu ?

      - thể nào được. Khi họ xuống cầu thang, tôi ắt hẳn trông thấy ai đó trong hành lang. Hơn nữa, người ta mở cửa ra, nếu mở cửa ra tôi nghe thấy rồi.

      - Thế là giải quyết dứt một điểm. còn nghi ngờ chút nào về việc người đàn bà đó bỏ bằng cùng một con đường mà bà ta vào. Cánh cửa dẫn thẳng tới phòng của giáo sư à? có lối nào qua ngả phòng của giáo sư sao

      - , thưa ông.

      - Vậy chúng ta hãy theo lối đó và tới làm quen với ông giáo sư. Ồ, Hopkins! Đây là điều rất quan trọng: Hành lang dẫn vào phòng giáo sư cũng được trải chiếu đan bằng sợi dừa phải ?

      - Phải, nhưng có gì là quan trọng.

      - Tôi thấy chi tiết đó rất là đáng chú ý. hãy vào và giới thiệu tôi.

      Đằng cuối của dãy hành lang có vài bậc thềm dẫn đến một cánh cửa. Người hướng dẫn chúng tôi gõ cửa, rồi chúng tôi đẩy nhau vào trong phòng của ông giáo sư.

      Đây là một căn phòng rất lớn, sách chất đầy các kệ và nằm chồng đống trong tất cả mọi xó góc, hoặc xếp chồng dưới những tầng giá dọc theo căn phòng. Cái giường kê chính giữa. Chủ nhà ngồi dựa lên những cái gối. Một bộ mặt trơ xương, nhìn nghiêng như chim đại bàng hướng về chúng tôi, cặp mắt đen sắc sảo nép mình trong những hốc mắt sâu và được che chở bởi đôi lông mày rậm sệ xuống. Mái tóc và bộ râu ông đều bạc phơ như tuyết, chỉ khác là râu chung quanh miệng bị vàng khè một cách kỳ lạ. Một điếu thuốc lá tàn dần giữa cái mớ lông trắng đó và khí trong phòng thật ngột ngạt vì khói thuốc. Ông chìa một bàn tay ra bắt tay Holmes: những ngón tay ông cũng bám đầy chất nicotine.

      - Ông hút thuốc chứ, thưa ông Holmes? - ông bằng một thứ tiếng chê vào đâu được dẫu rằng có ẩn tàng một tiết xa lạ - Tôi xin mời ông hút một điếu. Còn ông, thưa ông? Thuốc hút và công việc, đó là tất cả những gì còn nơi tôi.

      Holmes mồi điếu thuốc và ném những tia nhìn lén qua khắp căn phòng.

      - Thuốc hút và công việc của tôi, nhưng giờ đây chỉ còn lại có thuốc hút. Than ôi, đứt đoạn mới nguy hại làm sao! Nào ai có thể ngờ một tai họa như vậy? Một thanh niên xứng đáng được quý mến đến thế! Tôi đoán chắc với ông là chỉ sau vài tháng khởi công, ấy trở thành một ̣ng viên đáng phục. Ông nghĩ sao về chuyện này

      - Tôi chưa nghĩ gì.

      - Tôi mang ơn ông rất nhiều, nếu như ông làm sáng tỏ được vụ này. Với một người tàn phế ham chuộng sách như tôi, vụ này làm tôi bị tê liệt luôn: tôi tin rằng tôi bị mất ngay cả đến năng lực suy nghĩ. Nhưng ông là chuyên gia phá án những vụ bí mật, ông có khả năng giữ được thế quân bình trong bất kỳ tình huống nào. Chúng tôi thật may mắn có ông ở gần bên!

      Trong lúc ông giáo sư , Holmes lại trong một phần căn phòng. Tôi nhận thấy hút thuốc nhanh chóng khác thường.

      - Đây là một vố quá nặng nề! - ông tiếp - Đây là tác phẩm lớn của đời tôi, cái chồng giấy mà ông trông thấy xếp mặt bàn cạnh đó, tôi phân tích những tài liệu tìm thấy trong các tu viện giáo phái Coptic ở Syrie và ở Ai Cập; tác phẩm của tôi làm đảo lộn các nền móng của tôn giáo được phát hiện. Giờ đây, xét vì sức khoẻ suy nhược và mất mát người ̣ng , tôi tự hỏi biết rồi ra tôi có thể hoàn tất được nó hay chăng. Chúa ơi, ông Holmes, thế là ông hút thuốc còn nhiều hơn tôi nữa?

      - Tôi là một người sành điệu! - Holmes , khi lấy một điếu thuốc thứ tư trong hộp và nối vào cái mẩu còn cháy của điếu thuốc trước - Thưa giáo sư, tôi tin rằng vào giờ xảy ra tội ác, ông nằm giường và rằng ông biết gì cả. Tôi chỉ muốn nêu ra với ông một câu hỏi: theo ý ông, người thanh niên muốn gì trước khi trút hơi thở cuối cùng qua câu: Giáo sư... Chính là bà ta đó.

      Ông giáo sư lắc đầu.

      - Susan là một người đàn bà quê mùa và ông thừa biết ngốc nghếch của loại người đó. Tôi nghĩ rằng trong cơn mê sảng, chàng tội nghiệp thầm vài từ rời rạc và rằng chị ta dựa vào đó mà tạo ra một câu chẳng có ý nghĩa gì cả.

      - Ông có một lời giải thích riêng tư nào để đề xuất với chúng tôi hay sao?

      - Có thể là một tai nạn. Có thể là... Có thể là một vụ tự tử. Mấy người trẻ tuổi giữ kín những mối lo âu và những nỗi khổ đau của họ… Một chuyện yương lỡ làng.

      - Nhưng còn cặp kính kẹp mũi?

      - A! Tôi chỉ là một nhà trí thức. Một người chỉ biết nghiên cứu và mơ mộng. Tôi có khả năng giải thích những việc thực tiễn của đời sống. Nhưng ít ra chúng ta cũng biết rằng những bằng chứng của tình có thể có những hiện tượng bề ngoài thật lạ lùng. Dù thế nào nữa, xin ông hãy dùng thêm điếu thuốc nữa. Thật là thích thú khi gặp người biết thưởng thức chúng đến thế. Một cây quạt, một đôi găng tay, cặp kính đeo mắt… Ai biết được là một người sắp chấm dứt cuộc sống ràng buộc cho món đồ nào một giá trị tượng trưng? Ông đây xác nhận với tôi là có những dấu chân cỏ: dù sao, một chi tiết tương tự, một nhầm lẫn luôn luôn là điều có thể xảy ra! Còn về con dao nhíp, nó có thể bị kẻ bất hạnh ném , khi ta ngã xuống. Có thể là các ông thấy tôi là ấu trĩ, nhưng cứ theo tôi thấy, Willoughby Smith tự sát.

      Holmes dường như bị ngạc nhiên về cái lý thuyết mà vừa nghe. tiếp tục sải bước trong gian phòng, vừa suy nghĩ vừa hút hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Sau cùng, :

      - Thưa giáo sư, xin cho tôi biết ông cất giữ cái gì trong phần chính giữa bàn giấy ông?

      - Chẳng có gì có thể gợi lòng tham của kẻ trộm. Những giấy tờ của gia đình, những lá thư của bà vợ… Những bằng cấp mà nhiều viện Đại học trao tặng cho tôi. Đây là chìa khoá, ông hãy tự mình xem lấy.

      Holmes đón lấy cái chìa khoá và quan sát nó trong một lát. Đoạn giao trả cho người giữ.

      - ! Tôi tin là nó có thể giúp ích cho tôi được điều gì nhiều. Tôi ưa thích được xuống dưới vườn một cách bình thản để suy nghĩ về tất cả nội vụ, ngõ hầu có thể rút ra được một điều gì từ cái lý thuyết về tự sát mà ông triển khai. Tới hai giờ trưa, chúng tôi quay lại và chúng tôi tường trình với ông về tất cả những gì có thể xảy ra.

      Holmes tập trung tư tưởng một cách lạ lùng. Chúng tôi im lặng bách bộ trong vườn, rồi tôi thể ngăn mình hỏi xem có một hướng điều tra nào

      - Cái đó tuỳ thuộc vào những điếu thuốc lá mà tôi vừa hút. Có thể là tôi bị lầm.

      - Làm thế nào mà...?

      - Rồi thấy. Nếu tôi bị lầm cũng chẳng có gì là tai hại lắm. Đương nhiên, chúng ta vẫn còn cái hướng tiệm kính, nhưng tôi theo những hướng tắt, mỗi khi tôi thấy có con đường đó. A! Đây là bà Marker tốt bụng Chúng ta hãy chuyện với bà.

      đầy hai phút, chinh phục được người đàn bà này, tán chuyện với bà cứ y như quen biết bà từ nhiều năm qua.

      - Vâng, đúng như ông đó. Cụ chủ hút thuốc thật là kinh khủng Suốt ngày và đôi khi suốt đêm. Buổi sáng, tôi thấy phòng cụ… Tội nghiệp ông Smith đáng thương, ông cũng là một người hay hút thuốc nhưng hút nhiều như giáo sư. Sức khoẻ của cụ…. thật, tôi biết là cụ khoẻ hay yếu hơn!

      - Nhưng hút thuốc nhiều đâu còn ăn ngon miệng được?

      - Vậy tôi chẳng hiểu gì hết.

      - Tôi đoán chừng rằng ông giáo sư ăn ít?

      - Ồ, cái đó cũng còn tùy?

      - Tôi cam đoan là sáng nay cụ dùng bữa điểm tâm và cụ cũng chẳng ăn thật thà trong bữa, sau những điếu thuốc mà tôi thấy cụ hút.

      - Ông bị lầm rồi! Sáng nay, cụ ăn rất nhiều, cụ dặn bữa trưa dọn một dĩa lớn món sườn non! Tôi là người đầu tiên ngạc nhiên, bởi vì kể từ hôm qua, sau lúc tôi trông thấy ông Smith nằm sóng soài đất, tôi đụng tới bất cứ nón ăn nào. Úi cha, thế gian phải có người thế này người thế khác chứ, đúng vậy ? Cho nên cụ giáo sư vì thế mà ăn mất ngon.



      Suốt buổi sáng, chúng tôi thơ thẩn trong vườn. Stanley Hopkins xuống dưới làng để kiểm tra một lời đồn đại về một người đàn bà lạ mặt mà sáng nay lũ trẻ trông thấy con đường từ Chatham tới. Về phần Holmes, tôi chưa bao giờ thấy thờ ơ trước một vụ như vụ này. Ngay cả cái tin mà Hopkins đem về cho biết rằng cảnh sát thẩm vấn những đứa trẻ và rằng mấy em đó trông thấy một người đàn bà có nhận dạng giống hệt với người mà Holmes miêu tả, cũng lôi ra khỏi lãnh đạm. Ngược lại, dỏng tai lên nghe bà Susan, trong lúc hầu bàn, báo cho biết rằng buổi sáng trước ông Smith ra khỏi nhà và chỉ trở về chừng nửa tiếng đồng hồ trước khi xảy ra thảm trạng. Bất thình , Holmes đứng lên và xem đồng hồ, rồi :

      - Hai giờ rồi! Chúng ta phải lên gặp giáo sư.

      Ông già vừa dùng xong bữa trưa và cái đĩa đựng thức ăn trống trơn, chứng tỏ ngon miệng mà bà Marker ghi nhận. Điếu thuốc lá phì phèo trong miệng ông. Ông thay quần áo và ngồi trong ghế bành ở một góc bên ngọn lửa.

      - Thế nào, ông Holmes, ông làm sáng tỏ được bí ẩn được chưa?

      Ông đẩy cái hộp thuốc lá lại phía Holmes. Cùng lúc đó, Holmes cũng duỗi tay ra. Hai tay của hai người làm đổ tung cái hộp. Trong một lúc lâu, tất cả chúng tôi đều quỳ xuống đất để nhặt những điếu thuốc lá văng vào trong những xó góc rất khó tìm. Khi đứng lên, tôi thấy đôi mắt Holmes long lanh và cặp má hồng lên: giương ra lá cờ quyết đấu. trả lời câu hỏi của ông chủ nhà:

      - Có, tôi làm sáng tỏ được điều bí ẩn.

      Stanley Hopkins và tôi chăm chú nhìn với vẻ ngạc nhiên. những nét khổ hạnh của ông giáo sư có thoáng qua một cái gì như một nét cười ngạo.

      - Đúng vậy ư? Trong vườn à?

      - , ở đây.

      - Ở đây? Bao giờ?

      - Ngay lúc này!

      - Chắc chắn là ông đùa cợt rồi, vụ này quá nghiêm trọng, nên hợp với đùa cợt

      - Tôi rèn và thử từng mắt một trong sợi xích của tôi, thưa giáo sư; và tôi tin chắc rằng sợi xích đó vững chắc. Vì động cơ nào mà giáo sư tuân theo, hoặc giáo sư thủ một vai trò nào trong tấn thảm kịch này, tôi chưa có khả năng để . Trong vài phút nữa, chắc chắn là tôi được chính miệng giáo sư ra. Trong khí chờ đợi, tôi lặp lại những việc theo ý giáo sư, để giáo sư biết là tôi còn cần được chỉ bảo thêm điều nào.

      Ngày hôm qua, một người đàn bà vào trong văn phòng giáo sư, Bà ấy tới với ý định lấy một số tài liệu ở trong bàn giấy. Bà ấy có một chìa khoá riêng. Cái chìa khoá của giáo sư phải là chiếc chìa khóa dã tạo ra một vết xước mặt đánh véc-ni của ổ khóa. Vậy giáo sư phải là một tòng phạm. Bà nọ tới để đánh cắp tài liệu của ông và ông hay biết gì về những ý định của bà ta.

      Ông giáo sư thả khỏi cặp môi một đám mây khói thật dày:

      - Điều đó cũng là lý thú như là bổ ích! Ông có gì để thêm vào sao? Bởi vì ông theo dõi người đàn bà tới đó, ông có thể nào cho chúng tôi biết là bà ta ra sao ?

      - Thoạt đầu, bà ta bị người thư ký của ông tóm bắt và bà ta đâm ta để bỏ trốn. Tôi nghiêng về việc coi cái thảm hoạ này như một việc rủi ro, bởi vì tôi tin chắc rằng người đàn bà này có ý định gây ra một vết thương trầm trọng đến thế. Nếu là kẻ sát nhân họ phải có khí giới. Kinh hoàng về việc mà bà làm, bà bỏ trốn như một người điên. Nhưng trong lúc giành giật, bà ta bị mất cái kính kẹp mũi. Vì bị cận thị quá nặng, bà lầm đường. Bà theo một hành lang mà cứ tưởng rằng đó là hành lang đưa bà vào đây. Cả hai hành lang đều được lót chiếu đan bằng sợi dừa. Và khi bà nhận ra sai lầm quá muộn và bà hiểu rằng lối rút lui của bà bị chặn. Bà thể quay gót trở lại. Bà cũng thể đứng mãi một chỗ. Bà phải tiếp tục tiến lên phía trước, tiến lên trong hành lang, leo lên một cầu thang đẩy một cánh cửa ra: bà thấy mình lọt vào trong phòng ông.

      Ông già miệng há hốc nhìn Holmes. sửng sốt và sợ hãi trộn lẫn gương mặt. ông ́ gắng buông ra một tràng cười lớn và nhún nhường

      - Hoàn hảo, thưa ông thầy bói! Nhưng rất lấy làm tiếc, bên trong cái “mu rùa” của ông có một khuyết tật : tôi ở trong phòng này suốt cả ngày.

      - Tôi biết điều đó, thưa giáo sư. - Holmes đáp.

      - Và ông muốn hỏi vì sao tôi nằm ở đây mà nhận thấy người đàn bà bước vào phòng tôi?

      - Giáo sư chuyện với người đàn bà đó. Ngài nhận ra bà ta. Ngài giúp bà ta ẩn mặt.

      Lần nữa, ông giáo sư lại phá ra cười. Ông đứng hẳn lên. Đôi mắt lấp lánh như hai cục than hồng, kêu lớn lên:

      - Ông Sherlock Holmes, ông điên rồi! Ông toàn những điều tầm bậy tầm bạ! Tôi mà lại giúp cho bà ta trốn thoát ư? Thế bây giờ bà ta ở đâu?

      - Bà ấy ở đây này! - Holmes , tay chỉ vào một tủ sách cao kê trong một góc phòng.

      Tôi thấy ông già giơ hai cánh tay lên. Một co giật kinh khủng làm cho mặt ông ta biến dạng. Ông buông mình xuống ghế bành. Cùng lúc đó, cái tủ sách mở tung và một người đàn bà từ bên trong vọt ra.

      - Ông có lý! - Bà ta kêu lên với một tiết xa lạ - Ông đúng! Tôi đây!

      Mặt bà dơ dáy. Nhưng, trông bà ta có một cái gì đó nó toát lên kính trọng và cảm phục!

      Stanley Hopkins đặt một bàn tay lên cánh tay bà ta và bắt giữ bà, nhưng bà gạt ta ra một cách nhàng với vẻ mặt nghiêm khắc khác thường. Ông già ngồi khuỵu xuống trong ghế bành, nhìn bà với đôi mắt tuyệt vọng. Bà già :

      - Thưa ông, tôi là tù nhân của ông! Từ chỗ ẩn nấp, tôi nghe tất cả và tôi biết là quý ông hiểu được thật. Chính tôi giết chàng trai đó. Nhưng như ông , đó là do rủi ro. Tôi còn biết là trong tay mình có một con dao, bởi vì trong tuyệt vọng, tôi chốp lấy vật đầu tiên mà tôi thấy bàn.

      - Thưa bà, tôi tin chắc việc là như vậy. Tôi thấy bà được khoẻ trong người.

      Bà ta tái xanh, dưới lớp bụi bặm, mặt bà trắng bệch. Bà ngồi xuống mép giường, trở lại bình tĩnh:

      - Tôi chỉ còn có một chút thời gian. Nhưng tôi muốn cho quý ông biết thật. Tôi là vợ của người đàn ông này. Ông ta phải là người . Ông ta là người Nga. Nhưng tôi tên ông ta.

      Lần đầu tiên ông già cựa quậy, kêu lên:

      - Chúa ban phước lành cho em, Anna!

      Bà nhìn ông, khinh bỉ:

      - Tại sao phải bám víu cuộc đời khốn khổ hả Sergey. Nó làm hại những người tốt, chứ đâu chỉ riêng ông? Tôi làm thay đổi được gì, nhưng tôi có được thanh thản khi tôi bắt đầu bước quá ngưỡng cửa của cái nhà đáng ghét này. Nhưng tôi hoặc là quá muộn.

      Tôi chính là vợ của người đàn ông này. Khi chúng tôi lấy nhau, ông ta 50 tuổi, còn tôi là một thiếu nữ xuẩn ngốc. Chuyện đó xảy ra bên nước Nga, trong một trường đại học... Mà tôi nêu tên ra!

      - Chúa ban phước lành cho em, Anna! - Lão già lặp lại trong một tiếng thầm.

      - Lúc đó, chúng tôi là những nhà cách mạng: ông ấy, tôi và nhiều người khác nữa. Khi một sĩ quan cảnh sát bị giết chết liền đó có nhiều vụ bắt bớ. Để cứu mạng mình và để lĩnh một món tiền thưởng lớn, chồng tôi phản bội ngay chính vợ mình và các đồng chí của mình. Vậy là tất cả chúng tôi bị bắt theo chỉ điểm của chồng tôi. Một vài người trong chúng tôi bị đưa lên đoạn đầu đài và nhiều người khác bị đày sang Sibérie.

      Tôi ở trong đám những người đó, nhưng tôi bị tù chung thân. Chồng tôi tới định cư tại nước với số tiền dơ bẩn. Nhưng ông ta biết rằng nếu tổ chức của chúng tôi biết nơi cư trú của ông công lý được thực thi ngay.

      Ông lão vươn tay ra, rút lấy một điếu thuốc:

      - Em tùy ý sử dụng số phận đời đó, Anna! Em luôn luôn tốt với mà!

      - Trong số các đồng chí thuộc tổ chức, có một người từng là bạn trai tôi. ấy cao thượng, vô tư và gắn bó: tất cả những cái mà chồng tôi được như thế. ấy ghét bỏ bạo lực. ấy viết thư cho tôi để thuyết phục tôi đứng về “phe ôn hòa”. Chồng tôi đánh cắp lấy những lá thư của ấy và cuốn sổ nhật ký của tôi.ông đem giấu chúng , tìm cách làm cho chàng trai đó bị xử bắn. Nhưng Alexey chỉ bị lưu đầy sang Sibérie, hiện lao động trong một hầm muối. Hãy nghĩ tới việc đó, tên hèn nhát! Ngày hôm nay, vào cái giờ mà ta đây, con người cao đẹp kia sống như một nô lệ. Còn ta, ta là người nắm giữ mệnh mi trong tay, thế mà ta lại để cho mi được sống.

      - Em luôn luôn là một tâm hồn cao thượng, Anna! - Lão già kêu lên, khi rít điếu thuốc lá.

      Bà đứng lên, nhưng lại ngã về phía sau với một tiếng kêu đau đớn :

      - Tôi cần phải cho xong. Khi mãn hạn tù, tôi bắt đầu tìm cuốn sổ tay và những lá thư mà một khi nó tới được chính phủ Nga, chắc chắn ấy được trả tự do. Tôi biết lão già này sang nước . Sau nhiều tháng truy lùng, tôi tìm ra nơi trốn tránh của y. Tôi biết là y vẫn còn giữ cuốn sổ tay, bởi vì trong lúc tôi còn bị lưu đày ở Sibérie, tôi nhận được một lá thư của y đầy những lời trách móc và những câu trích dẫn rút ra từ trong cuốn nhật ký. Nhưng y là một người hèn hạ, chắc trả lại cho tôi. Vậy tôi phải đích thân lấy lại thôi. Với mục đích đó, tôi thuê một thám tử tư vào trong nhà này làm thư ký riêng. Đó là người thư ký thứ hai của mi đó, tên tồi? Cái người rời bỏ mi thật vội vã. ta biết những giấy tờ đó được cất giữ trong phần giữa của bàn giấy mi và lấy cái dấu chìa khoá. ta muốn xa hơn. ta thông báo cho ta biết sơ đồ căn nhà và bảo ta rằng buổi sáng, trước lúc giữa trưa, văn phòng luôn luôn trống vắng vì người thư ký phải làm việc tại trong phòng này cùng với mi.

      Tôi thu hết can đảm lấy lại cuốn sổ. Tôi vừa lấy lại được những giấy tờ và đóng cái tủ lại người thanh niên nắm lấy tay tôi. Tôi từng gặp ta buổi sáng. Chúng tôi gặp nhau đường và tôi xin cho biết giáo sư ở đâu. Lúc đó tôi biết ta làm việc ở đây.

      - Đúng thế! - Holmes - Người thư ký quay về nhà và với ông chủ về người đàn bà mà vừa gặp. Rồi , trong hơi thở sau cùng, ́ đưa tin rằng chính bà là người đàn bà mà ta vừa với ông chủ.

      - Hãy để cho tôi hết! - Bà ta với một giọng khẩn thiết trong lúc mặt bà co lại một cách đau đớn - Tôi vùng vẫy và ta ngã xuống, lập tức tôi vội chạy ra khỏi phòng, nhưng tôi lạc vào trong phòng của tên hèn này. Y đe doạ là tố giác tôi. Tôi nếu y làm thế, mạng sống của y bị chấm dứt. Nếu y bỏ rơi tôi lại cho luật pháp tôi bỏ rơi y cho tổ chức. Y buộc lòng phải che chở cho tôi. Y ném tôi vào trong cái chỗ trốn lánh tối tăm này. Y dùng bữa trưa trong phòng, ngõ hầu có thể nuôi tôi. Y thoả thuận rằng khi cảnh sát rời khỏi nhà, y để cho tôi trốn trong ban đêm với điều kiện là tôi trở lại nữa. Nhưng ông Holmes ngăn trở dự định của chúng tôi…

      Bà rút từ trong vạt áo ra một gói thêm:

      -… Và giờ đây, đây là cái cứu Alexey. Tôi xin gởi gắm gói này vào lòng tôn trọng danh dự và lòng công lý của ông. Hãy cầm lấy, và trao lại cho toà Đại sứ nước Nga. Giờ đây, tôi hoàn thành nhiệm vụ, và...

      - Ngưng lại! -Holmes kêu lên.

      nhảy chồm tới và giật ra một cái lọ .

      -Muộn quá rồi! - Bà thầm khi lăn xuống giường - Quá muộn rồi! Tôi uống thuốc độc trước khi ra khỏi nơi trú ẩn. Đầu tôi quay cuồng! Tôi chết đây! Hãy nhớ đến cái gói.

      đường về London, Holmes giải thích cho chúng tôi biết rằng nếu chàng trai tóm bắt được cái kính kẹp mũi biết bao giờ chúng tôi mới tìm ra đáp số. :

      - Nhìn những tròng kính, tôi biết chủ cặp kính bị cận thị nặng, như thế khi mất kính bà ta dễ lạc đường. Khi bảo tôi hãy tin là bà một dải cỏ hẹp mà để lại dấu chân, tôi trả lời rằng việc đó hẳn là một kỳ tích. Tôi thật nghĩ rằng kỳ tích đó thể nào thực hiện nổi; nếu , bà ta phải có một cặp kính thứ hai. Vậy là tôi phải xem xét nghiêm túc cái giả thiết theo đó bà ta chưa ra khỏi nhà. Khi nhận thấy hai dãy hành lang giống hệt nhau, tôi nghi bà có thể bị lầm đường và trong trường hợp này bà vào phòng ông giáo sư. Do đó tôi theo giả thiết này.

      Tôi kiểm tra rất kỹ căn phòng khi hy vọng tìm ra một nơi trú ẩn. Tấm thảm được chải kỹ và liền một tấm nên tôi bỏ ý nghĩ về một cánh cửa mở xuống hầm. Có thể có một nơi kín đáo đằng sau các cuốn sách. Như các đều biết, điều đó thường gặp trong những thư viện xưa. Mặt khác, tôi thấy những cuốn sách được xếp thành đống sàn gác, ngoại trừ trước một tủ sách. dọn dẹp gọn ghẽ đó có thể tạo ra một lối vào. Tôi thấy một dấu vết nào để hướng dẫn tôi, nhưng tấm thảm màu sẫm nên tôi hút thật nhiều thuốc lá rồi vung vẩy tàn thuốc xuống trước cái tủ sách bị nghi ngờ. Đó là một mánh khoé đơn giản nhưng lại tỏ ra hữu hiệu. Tôi xuống dưới nhà, tìm cách thu thập tin tức. Thật may bà giúp việc cho tôi biết giáo sư ăn rất nhiều, đó là điều phải nghi ngờ trong trường hợp ông nuôi một người thứ hai. Sau đó chúng ta lên phòng và sau khi lật đổ cái hộp đựng thuốc lá, tôi có cơ hội khám xét cái sàn ván. Lúc đó, căn cứ theo những dấu vết để lại tàn thuốc lá, tôi nhận thấy , rằng trong lúc chúng ta vắng mặt, người nữ tù ra khỏi nơi trú ẩn… Vậy , Hopkins, chúng ta tới ga công trường Charing Cross và tôi có lời khen thành công trong vụ án này. Chắc hẳn là về Scotland Yard? Này Watson, về phần chúng ta, chúng ta hãy thuê xe ngựa tới toà đại sứ Nga.

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      12. Trung Vệ Bị Mất Tích


      -Xin vui lòng chờ tôi. Bất hạnh kinh khủng. Mất trung vệ cánh phải. Cần thiết cho ngày mai. ô-vơ'l' - Bưu ấn từ Strand. Giờ gửi: 10 giờ 36 phút - ~ Holmes , sau khi đọc bức điện tin - Thần kinh ông ô-vơ bị căng thẳng lắm nên mới viết văn bản rời rạc như vậy Mấy ngày nay nhàn rỗi quá, bất cứ một vấn đề nào cũng được hoan nghênh. ' ĐÓ là một người. trẻ tuổi, to con, mạnh khoẻ với cả tạ xương và cơ bắp, hai bờ vai của ông đụng sát hai bên khung cửa ra vào. ông lần lượt nhìn chung tôi với một vẻ lo âu:

      ~ Thưa, ông là Sherlock Holmes?

      Holmes chào người khách.

      Tối vừa từ Scotland Yard ra. ông thanh tra Hộp- kín khuyên tối tới gặp ông. ông ấy n.ói rằng việc này thích hợp với ông hơn.

      ~ ông hãy ngồi xuống. Và cho tôi biết đó là chuyện gì Tô-tân... Chắc chắn là ông có nghe nhắt đến ta?... ta là cái bản lề của toàn đội. Khi tả chuyền bóng, dù ta móc bóng, dù ta dắt bóng, một ai có thể cản được. Vả chăng, ta còn có đầu óc. Bên cạnh , chúng tôi đều là những đứa trẻ. Tôi phải làm sao đây? Nếu ông giúp tôi tìm cho ra Tô-tân chúng tôi chắc chắn bị thua.

      Khi người thanh niên dứt lời, Holmes duỗi tay, lấy bộ sưu tập ra, nhưng tìm thấy tên Tô-tân. Tới lượt người khách của chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.

      Coi nào, thưa ông Holmes, tôi cứ tưởng là ông biết ta chứ! Nếu ông chưa từng nghe nhắc tới Tô-tân ông cũng chẳng biết ai là ô-vơ.' Với tâm trạng vui vẻ, Holmes ra dấu là cũng biết.

      ~ Kinh khủng thật - Nhà lực sĩ gầm lên - Tôi là người chỉ huy đội bóng nhà trường. Tôi chẳng là cái thá gì cả Nhưng tôi thể ngờ được là tại nước lại có người biết đến Tô-tân, nhà vô địch trong các trung vệ, tay cừ của Cambridge, của Blackheath, 5 lần đoạt giải quốc tế Nhưng thưa ông Holmes, ông sống ở đâu vậy?

      Holmes phá ra cười trước vẻ ngạc nhiên ngây thực của chàng trai khổng lồ

      - Chúng tôi cùng sống trong một vũ trụ, thưa ông ô-vơ. ông sống trong một thế giới lành mạnh hơn, . thú vị hơn tôi. Nhưng mà này ông bạn tốt bụng, hãy ngồi xuống và một cách từ tốn về chuyện gì xảy ra.

      ô-vơ để lộ bối rối của một người quen sử dụng những cơ bắp hơn là trí tuệ. Giữa vô số những câu lặp lặp lại, trình bày chi tiết câu chuyện kỳ lạ nhu sau:

      - Tôi là người điều khiển đội bóng bầu dục của đại học Cambridge và Tô-tân là ̣t trụ của đội. Ngày mai chúng tôi đấu với đội của đại học Oxford. Hôm qua chúng tôi đến Luân Đôn và Ơû một khách sạn. Lúc mười giờ, tôi đảo qua một vòng các phòng để xem các bạn đồng đội ngủ chưa. Tôi trao đổi vài câu với Tô-tân trước khi lên giường. Tôi thấy xanh xao, có vẻ lo lắng. Tôi hỏi vì sao. trả lời là rất khoẻ, chỉ hơi nhức đầu thôi. Nửa tiếng đồng hồ sau, người gác cửa tới cho tôi hay là có một người có râu, đem một lá thư tới cho Tô-tân. Vì Tô-tân chưa ngủ, người gác ̉ng cầm thư đó lên trao tận tay . Đọc xong, ta xỉu xuống cái ghế dựa, tựa hồ như bị quất một dùi cui. Người gác ̉ng kinh hoàng, muốn tìm tôi nhưng Tô-tân ngăn lại, uống một ́c nước lớn, mặc quần áo rồi xuống, vài lời với người đợi dưới gian tiền sảnh, rồi cả hai ra . Sáng nay, căn phòng của Tô-tân trong tuềnh, chăn nệm vẫn còn y nguyên, đồ đạc cũng vẫn nguyên. Tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi bao giờ còn gặp lại nữa ?

      làm những gì? - Holmes hỏi.

      Tôi điện về Cambndge để xem coi có tin tức gì về . Cambridge điện trả lời là " một ai trông thấy ta cả". - Liệu ta có thể trở về Cambridge được - - CÓ một chuyến tàu chót vào hồi 11 giờ 15.

      Nhưng, theo tin tức của , ta đáp chuyến tàu đó?

      - Vâng, ai thấy ấy Ơû Cambndge cả.

      - Thế rồi sau đónh làm gì?

      Tôi đánh điện cho huân tước Giậm.

      ~ Tại sao lại gửi cho huân tước. Tô-tân là trẻ mồ côi, và huân tước Giậm là bác ruột của .
      Điều đó soi sáng nội vụ một cách đặc biệt. Huân tước Giậm là một trong những người giàu có nhất.

      Tô-tân với tôi như vậy.

      - Và bạn là người thừa kế di sản của ông Giậm.

      Vâng, ông già tám mươi tuổi, và lại mắc bệnh nữa. ông chưa bao giờ cho Tô-tân một xu. ĐÓ ỉa một người cực kỳ hà tiện, nhưng rối tất cả gia tài về tay _ ấy một ngày gần đây thôi.

      - có nhận thư trả lời của huân tước - .

      Tại sao bạn lại tới nhà huân tước? ~ Tồl hôm qua, có một cái gì đó làm cho ấy lo lắng Nếu đó là một vấn đề tiền bạc, có thể tới nhà ông ấy.

      Được Tôi chăm lo vụ này. Tôi biết gì hơn là khuyên nên chuẩn bị cho cuộc thi đấu mà đừng có trông mong gì vào chàng trai đó nữa. Chắc chắn phải có một việc gì cực kỳ quan trọng mới khiến ta bỏ như vậy. CÓ thể điều quan trọng đó giữ ta lại. Chúng ta hãy tới khách sạn và chuyện với người gác ̉ng. ' Holmes mau chóng làm thân với người gác khách sạn vả thu được nhiều tin tức:

      Người đem tin ăn mặc hẳn đàng hoàng mà cũng hẳn là một người thợ. ông ta thuộc loại "trung gian" . Một người trạc năm mươi tuổi, có bộ mặt xanh xao, tóc hoa râm. Bàn tay ông ta run lên khi ông lấy lá thư ra. Tô-tân nhét lá thư vào túi, bắt tay người đó. HỌ chuyện rất ngắn, rồi cả hai vội vàng bỏ . Lúc đó là 10 giờ rưỡi.

      - là người gác ̉ng ban ngày, phải thế ?

      -Vâng. Tôi hết phiên vào lúc mười một giờ. .

      -CÓ lẽ người gác ̉ng ban đêm thấy gì.

      -Vâng. Một toán người xem hát về muộn. có ai khác.

      - Hôm qua, gác suất ngày? ' ' Vâng. ' - được tin nhắn gửi cho ông Tô-tân. ~ CÓ Một bức điện. ' ' - ~ Lúc mấy giờ? . - ~ ~ ' ' ' Khoảng 6 giờ. ' : ~ ' ' : ~ ~ ' ' Lúc đó ông Tô-tân Ơû đâu? ~ ~ ' ' : ' Tại đây. ' ' '-:

      - có mặt ở đây khi ông ấy đọc bức điện? : ' Vâng. Tôi chờ đợi để xem có trả lời . ' ' ~ .
      Thế là có điện trả lời phải ?

      -Vâng. ông ấy viết một bức điện trả lời. ' ' có cầm lấy bức điện đó ?

      -. Chính ông ấy mang .

      - Nhưng ông ấy viết trong lúc có mặt ở đây?

      Vâng. Khi ông ấy viết xong. ông bảo tôi: "Tốt lắm, bạn? Tôi đích thân lo liệu việc này".

      - ông ấy viết bằng gì?

      - Ngòi bút.

      - ông ấy dùng một trong những tờ giấy in sẵn để bàn này à? .

      - Vâng: Viết tờ giấy thứ nhất.

      Holmes đứng lên, cầm lấy mẫu in sẵn, đem tới bên cửa sổ và quan sát kỹ lưỡng tờ bên .
      - Đáng tiếc là ấy viết băng bút chì? Bút chì thường để lại bên dưới một dấu. . . Tuy nhiên, tôi vui mừng là ta viết bằng một cây bút có ngòi lớn, mực nhiều và có thể còn vết tích tờ giấy thấm... Đây rồi?

      giật lấy một tờ giấy thấm có những nét chữ ngược. ô-vơ tỏ ra sôi động, kêu lên:

      - Hãy đặt ngược nó trước tấm gương. .

      - cần - Holmes - Tờ giấy thấm này mỏng, cứ nhìn vào mặt sau là chúng ta có thể đọc được. ' lật ngược tờ giấy thấm lại và chúng tôi đọc:

      "Đừng bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa!".

      - ĐÓ là cái đoạn chót của bức điện tín mà Tô-tân gửi vài tiếng đồng hồ trước khi ta biến mất. ít ra - cũng có sáu từ chúng ta đọc được, nhưng mấy chữ còn lại: "Đừng bỏ rơi chúng tôi, vì lòng kính Chúa" chứng tỏ rằng chàng trai này thấy một mồl nguy hiểm kinh khủng tới gần, và một ai đó có thể che chở được . Danh từ "chúng tôi" cho thấy có một người khác nữa bị dính líu vào.

      - Cần phải tìm hiểu xem bức điện được gửi cho ai?

      Tôi .

      - Đúng vậy. Nhưng nếu vào một nhà bưu điện để cầu được đọc cái cuống của sổ biên nhận các nhân viên tỏ ra ít sẵn lòng làm vừa lòng . Trước hiện diện của ông, ông ô-vơ, tôi muộn được coi qua những giấy tờ mà Tô-tân để lại bàn.

      Holmes kiểm tra cẩn thận các thư từ, biên lai và cuốn sổ tay.

      - có gì trong này cả. Nhân đây, tôi thấy là bạn ông có một sức khoẻ thật tốt đấy chứ? ta có những trở ngại vụn vặt về sức khoẻ chứ?

      - 'ấy vững như bàn thạch? ~ ~ - ông có thấy ấy bị đau ốm bao giờ " - một ngày nào?

      - CÓ thể là ấy được khoẻ như ông nghĩ.

      -Tôi thiên về việc tin rằng ấy có những buồn phiền bí mật. Nếu được ông cho phép, tôi đem theo hai hoặc ba tờ giấy, để điều tra tiếp. - Xin chờ một chút - Một giọng ảo não kêu lên

      Chúng tôi quay lại và thấy một ông già ngưỡng cửa. ông ăn vận đồ đen màu gỉ sắt, đội một cái ' mũ cao, thành có vành rộng, trang điểm một cái cà-vạt trắng, thắt vụng về. ' ông là ai mà lại đụng tới giấy tờ của người vắng mặt. - Tôi là một thám tử tư và tôi thử tìm cách giải thích biến mất của ông Tô-tân. ' Ai thuê ông làm việc đó?

      - ông này đây, bạn của Tô-tân.

      -ông là ai? '

      -Tôi là ô-vơ, người dìu dắt đội bóng.

      - Vậy ra ông là người gửi điện cho tôi đây. Tôi là huân tước Giậm. Như vậy là ông nhờ tới một thám tử?

      - Vâng.

      -Mà ông sẵn lòng chi trả các phí tổn. .

      - Tô-tân chi trả, khí chúng tôi tìm ra ấy.

      - Nhưng nếu người ta tìm ra nó, ai trả tiền .

      - Trong trường hợp đó, chắc chắn rằng gia đình Tô- tân . .
      .
      -Đừng trông mong gì - ông già hét lên - Đừng trông mong ở tôi, dù chi một xui Một xu, ông nghe chứ? Thưa ông thám tử. Về phần nhưng giấy tờ mà ông tự ý cầm trong tay đó, ông phải tường trình cho tôi biết một cách nghiêm túc?

      - Được lắm - Sherlock Holmes - Trong lúc chờ đợi, tôi xin mạn phép hói xem ông có ý ngh~ nào về mất tích của cháu ông?

      - Tôi chẳng có một ý nghĩ nào hết. ta trưởng thành, vậy ta hãy tứ chăm sóc lấy mình và nếu ta lạc như một đứa trẻ, tôi chịu tốn tiền để tìm kiếm ta.

      - Tôi hiểu quan điểm của ông - Holmes trả lời với một ánh mắt tinh nghịch - Nhưng có thể ông lại chưa hiểu quan điểm của tôi. Tô-tân là một người nghèo. Nếu như ta bị bắt cóc, chắc chắn đó phải là người muốn cướp một món của ca nào của . Nhưng danh tiếng của ông lừng lẫy khắp toàn cầu, thưa huân tước, rất có thể một toán trộm cướp bắt cóc cháu ông với hy vọng khai thác được những tin tức về ngồi nhà của ông, những thói quen của ông, những cua cai cua ông. . .

      Gương mặt người khách trở nên trắng bệch. ' - Chúa ơi, chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó.

      -Nhưng Tô-tân là một chàng trai dũng cảm, bao giờ phản bội người bác ruột của mình. Ngay chiều nay, tôi đem các đồ bằng bạc gửi vào ngân hàng.

      -Trong lúc chờ đợi? Thưa ông thám tử, ông hãy xem xét kỹ từng hòn đá . Còn về tiền bạc . . . Coi nào, cho tới con số là 5 bảng, chúng ta cứ là 10 bảng , ông có thể tin cậy nơi tôi!

      Ngay khi dịu , ông già keo kiệt cũng thể cho chúng tôi một hn tức gì, bởi lẽ ông ta biết rất ít về đời sống của người cháu ông. Vậy hướng điều tra duy nhất nạm trong cái mẩu điện tín này Holmes chép lại nội dung bức điện, chúng tôi bắt tay ông già. ô-vơ bỏ , để tham khảo ý kiến các bạn đồng đội về cách ra quân của đội bóng. Holmes và tôi đến bưu cục gần nhất. Đến trước ̉ng, chúng tôi dừng lại, :

      - Với một trát toà chúng .ta có thể đòi hỏi được xem cái cuống điện báo, nhưng chúng La phải là cảnh sát chính thức. Tuy vậy chúng ta cứ thử xem' - Tôi rất tiếc phải làm phiền bà - một cách lễ độ với mót thiếu phụ ngồi sau ghi-sê - Nhưng hẳn phải có một sai lầm về bức điên tín mà tôi gửi ngáy hôm qua. Tôi nhận được điện trả lời, và tôi e là mình quên ghi tên Ơû cuối bức điện. BÀ~ có thể nào kiểm tra lại giùm được chăng?

      Người thiếu phụ lật cuốn sổ ra xem. ~ ' - ông gửi hồi mấv giờ? ~ ~ ~ - Sau sáu giờ một chút. ~ _ .

      - Bức điện gửi cho ai? .

      Holmes đặt một ngón tay lên môi và thầm với giọng tâm .

      - Những chữ chót là "Vì lòng kính Chúa".

      Người đàn bà gỡra một cái cuống điện báo.

      - NÓ đây. ông đề tên ông' - Bà ta khi bà tra bức điện ra quầy..

      Chính vì thế mà tôi nhận được hồi ! - Holmes reo lên - ô, tôi mới thật dại dột làm sao Xin chàm bà, và xin cám ơn bà nhiều.

      phát ra một tiếng cười trong cuống họng và xoa hai bàn tay vào nhau ngay khi chúng tôi ra tới phố. Tôi hỏi: .

      -Thế nào?

      - Tất. Tôi hình dung ra bảy mánh khoé để có thể liếc nhìn qua bức điện đó, thành công ngay trong mánh khoé đầu tiên.

      - thấy gì?

      - ra ga công tr.ương Kinh? - kêu lên với người xà ích mà gọi xe.

      - Chúng ta du lịch à?

      - Phải, chúng ta phải tới Cambridge. hẳn thấy mất tích này xảy ra trước một trận đấu quan trọng, và rằng người cầu thủ đó lại là ̣t trụ của đội bóng.

      -CÓ thể đó chỉ là một trùng hợp, nhưng nó thật đáng quan tâm. Thể thao tài tử có những vụ đánh cá lớn, nhưng tổng số tiền đánh cá rải rác trong quần chúng cũng , và rất có thể là một ai đó có lợi khi bắt cóc một cầu thủ trong vài ngày, như một tên cướp cá ngựa bắt cóc những con ngựa nòi. ĐÓ là một lối giải thích.

      -Một lý do thứ hai cũng có thể chấp nhận vì chàng trai đó là người thừa kế một tài sản lớn.

      - Những giả thiết đó tính đến bức điện tín! .

      -Rất đúng. Chính vì muốn tìm hiểu một điều gì đó về bức điện tín mà chúng ta mới Cambridge.

      Khi chúng tôi mới tới nơi trời sẩm tối. Holmes thuê xe ngựa Ơû và đưa ra địa chỉ của bác sĩ Lê-li.

      Vài phút sau ̃ xe dừng lại trước một ngôi nhà lớn đường phố chính. Chúng tôi bước vào, và sau một hồi chờ đợi khá lâu, chúng tôi gặp một bác sĩ ngồi đằng sau cái bàn trong phòng mạch: bác sĩ Lê-li.

      ông cầm tấm danh thiếp của Holmes và nhìn chúng tôi với một dáng vẻ kém nhã nhặn.

      -Tôi có biết danh ông, thưa ông Sherlock Holmes, và tôi biết ông làm nghề gì: một trong những nghề mà tôi chê bai
      . .
      - đánh giá đó được chia sẻ bởi những kẻ phạm tội - Holmes trả lời một cách bình thản.

      - Cái chỗ mà ông dễ bị chỉ trích đó là việc ông lục lọi vào trong những bí mật của các cá nhân, đào bới những việc riêng tư của người khác và làm mất thời giờ của những người còn bận rộn hơn ông nữa. Chẳng hạn như vào lúc này đây, tôi soạn thảo một bản chuyên luận thay vì ngồi chuyện với ông. .

      - Tất nhiên rồi! Nhưng cuộc chuyện này có thể còn quan trọng hơn bản chuyên luận của ông. Tuy vậy, tôi có thể với ông rằng chúng tôi ́ gắng để tránh đưa ra công luận những việc riêng tư. . . Tôi tới đây để nới với ông về ông Tô-tân.

      - Về việc gì?

      - ông biết ông ấy mà.

      - ĐÓ là một người bạn thân của tôi.

      - ta bị mất tích.

      - A, vậy sao...?

      Gương mặt ông bác sĩ vẫn bình thản.

      - Đêm vừa qua, ấy rời khách sạn. Từ đó. bặt vô tín.

      - Ngày mai là cuộc đấu lớn giữa hai đội Oxford - Cambridge. Tôi có thiện cảm với những trò trẻ con đó Nhưng số phận của chàng trai tôi quan tâm một cách sâu xa.

      Vậy tôi' xin ông dành mối thiện cảm cho cuộc điều tra về số phận của ông Tô-tân. ông biết ấy ở đâu ?

      - . ~ ~ ' - Hôm qua, ông gặp ấy? '

      - .

      - ông Tô-tân có được mạnh khoẻ ? . ~ - Sức khoẻ toàn hảo. ' - ông chưa bao giờ thấy ấy bị đau ốm sao? .

      - Chưa bao giờ. .

      Holmes đặt một tờ giấy trước mặt bác sĩ:

      -Vậy ông giải thích như thế nào về tờ biên nhận mười ba đồng ghi-nê do Tô-tân trả cho bác sĩ Lê-li trong ~ tháng trước. Tôi thấy tờ giấy này trong số những tờ giấy khác của ta. .

      ông bác sĩ đỏ mặt tía tai.

      - Tôi cần giải thích với ông, thưa ông Holmes.

      Holmes nhét tờ biên nhận vào trong ví.

      - Chẳng lẽ ông thích giải thích trước công chúng. Tôi thưa với ông rằng tôi giữ im lặng. Người ta khôn ngoan biết bao khỉ thổ lộ riêng với tôi.

      -Tôi biết gì cả.

      -ông có nhận được tin gì của Tô-tân từ Luân Đôn ?

      - !

      - A? Nhà bưu điện này kỳ cục thật - Holmes thở dài - vliột bức điện khàn do Tô-tân đánh từ Luân Đôn vào hồi 6 giờ 15 chiều hôm qua... Một bức điện có liên quan tới sđ mất tích của ta . . . ấy thế mà người nhận lại nhận được Tôi tới bưu điện làm đơn khiếu nại Bác sĩ Lê-ìi nhảy cẫng lên. Mặt ông chuyển sang màu đỏ sẫm.

      -Tôi ra lệnh cho ông ra khỏi nhà tôi - ông ta kêu lên - ông có thể với ông chủ của ông, rằng tôi có việc gì cần giải quyết với ông ta cả; cũng như với những nhân viên của ông ta.

      ông nhấn chuông một cách giận dữ. ~ - . . John, hãy đưa hai ông này về .

      Một người quản gia oai vệ đẩy chúng tôi ra cửa. Ra tới ngoài đường, Holmes phá ra cười:

      - Watson, thế là chúng mình bì thất bại Ơû hiệp thứ nhất. Ta đấu tiếp nhé. Cái lữ quán kia, ngay trước mặt căn nhà của Lê-li rất thích hợp với các nhu cầu của chúng ta. chịu phiền tới đó hỏi thuê một phòng trọ Ơû mé trước, tôi lo vài việc lặt vặt.

      Holmes trở về lữ quán trước chín giờ tối. mệt mỏi, ủ rũ, bụi bậm bám đầy người. Một bừa ăn được dọn bàn.' Sau khi ăn xong, mồi tẩu thuốc nhưng lúc đó tiếng động của một ̃ xe khiến đứng lên và ngó ra ngoài khung cửa sổ. Một ̃ xe và một cặp ngựa lông xám đứng bất động trước cửa nhà bác sĩ.

      - ̃ xe này ra vào lúc 6 giờ rưỡi; bây giờ hơn 9 giờ. Sau 3 tiếng đồng hồ và về. Vậy nơi ông ta đến cách đây 1 5 hoặc 1 8 cây số. Và ông ta như vậy mỗi ngày một lần, có khi tới hai lần.

      Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với một y sĩ có đông thân chủ. - Nhưng Lê-li có thân chủ. ĐÓ là một diễn giả, một thầy thuốc tham vấn, ông tạ ít chịu trị bệnh, cất để bị phân tâm trong lúc viết sách. Tại sao ông ta lại ra như thế để gặp ai?

      - Gã xà ích của ông.

      - Tôi có ngỏ lời với , nhưng gã mất dạy đó thả chó ra. May mắn là có con chó nào chịu nổi cây can của tôi. Nhưng một người địa phương ' cho tôi biết những thói quen và chuyến hàng ngày của ông ta.

      Giữa lúc chúng tôi chuyện ̃ xe lại ra . . ~ thể theo dõi chiếc xe

      - Hoan hô, thật là chói lọi. Hồi chiều tôi làm như vừa : tôi tới tiệm bán xe đạp, thuê một chiếc theo sau xe, cách khoảng chừng một trăm thước cho 'tới khi chúng tôi rời xa thành phố. Khi vào con đường lớn ̃ xe dừng lại. Tôi cũng dừng lại, ông bác sĩ xuống xe và nhanh tới tôi. ông ta rằng con đường chật hẹp quá và mong muốn ̃ xe của ông làm cản trở cho việc đạp xe của tôi. Ngay đó tôi vượt qua xe ngựa, tôi đạp trong nhiều cây số rồi dừng lại Ơû một nơi thích hợp để chờ xem ̃ xe có đến . Xe qua chỗ đó, nó rẽ sang một trong những con đường phụ. Tôi chạy ngược lại, nhưng thấy ̃ xe. Nhưng vì ông ta rằng ông ta nhất quyết cho một ai theo dõi ông, nên việc này là quan trọng và tôi quyết lôi nớ ra ánh sáng.

      -Ngày mai chúng ta theo dõi ông ta.

      -Tôi gửi điện cho ô-vơ, nhờ ta cho biết là Ơû đây có phương tiện nào kín đáo để theo dõi ) Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải theo dõi bác sĩ Lê-li: ông ta biết chàng trai đó ở đâu, tên ông có cái quang điện báo.

      Ngày hôm sau, vào giờ ăn điểm tâm, người ta đem dện cho chúng tôi một lá thư:

      “Thưa ông ông chi phí giờ khi theo dõi tôi. Tơi có mặt tấm hình gắn sau ̃ xe ngựa. Nếu ông muôn trong 30'cây sô/ mà cuối cùng nó dẫn ông về điểm khởi hành, ông cử việc bám theo tôi. Ngoài ra, tôi báo chơ ông biết rằng phải cử tò mò theo tôi mà ông tìm thấy ông Tô- tân. Trái lại, ông hãy trở về Luân Đôn mà tìm, đồng thời báo cho ông chủ của ông biết rằng ông thành công tại nơi này. Chắc chắn là tại đây, ông chỉ phí giờ mà thôi. ~ . _ : ~ : Người tận tâm với ông.
      Bác sĩ Lê-li' .”

      Một đối thủ trung thực, thẳng thắn, ông ta kích thích óc tò mò của tôi và tôi muốn làm quen với ông ta - Holnles .

      - ̃ xe của ông ta giờ đây đứng trước cửa, ông ta lao xe vào kìa. Tôi thấy ông liếc nhìn về khuôn cửa sổ của chúng ta. có muốn tôi thử cầu may với cái xe đạp ? - Tôi .

      - Watson, tôi tin là ngầm với ông ấy. Tôi hy vọng từ giờ tới tối, tôi thuật lại với một vài tin tức. Thêm một lần nữa, bạn tôi trở lại về, đầy chán nản.

      - Tôi theo cái hướng mà ông cả ngày hôm nay, tôi thăm từng thôn xóm . Ơû bên phía Cambridge, tôi tán gẫu với các chủ quán và các bà nội ' trợ. Tời thám hiểm mà thành công. Trong cái vương quốc của những người uể oải này, chẳng ai buồn để ý đến xuất hiện của 'một ̃ xe do hai con ngựa kéo. .

      ông bác sĩ lại ghi thêm một điểm nữa. Một bức điện cho tôi à!

      - Phải: "Hãy hỏi Pom-pê của ông Di-xơn. Trinity Co/1ege". Tôi chẳng hiểu gì hết. ~ ồ, nó khá mà! ông bạn ô-vơ trả lời cho tôi thấy.

      -Tôi viết ít hàng gửi ông Di-xơn và cơ may của chúng ta có cơ xoay chiều. Nhân đây, có kết quả trận đấu bóng chưa? .

      -Rồi, Oxford thắng một bàn. Những câu chót viết: ' thất bại của một đội mặc đồ xanh ỈA do thiếu cầu thủ Tô-tân" . A - Nhưng dự đoán của bạn ô-vơ thành thực. Chúng ta hãy ngủ sớm, bởi vì ngày mai có những biến chuyển lớn. ' Lúc thức giấc, tôi thấy Holmes ngồi bên ngọn lửa . - Tôi vừa làm một cuộc dạo chơi nho và tất cả đều thuận lợi. hãy ăn một bữa điểm tâm cho chắc ~ bụng, bởi vì chúng ta ăn khi theo tới tận các ' hang của ông ta. ' Vậy, ta mang theo bữa điểm tâm, bởi vì ̃ xe ' đậu trước cửa nhà ông ta rồi kìa.
      . - sao. Cứ để cho ông ấy . Khi ăn' xong, tôi giới thiệu với một nhà thám tử lỗi lạc.

      Tôi gặp Holmes trong sân chuồng ngựa; ta mở cửa một cái chuồng chó và dắt ra một con chó béo lùn, có đôi tai thõng xuống, lông trắng và vàng. Holmes bạn Pom-pê là niềm kiêu hãnh của giống chó s

      dẫn nó tới cửa nhà ông bác sĩ. Con chó đánh hơi chung quanh nó một lúc, rồi với một tiếng lào thào bị kích động, nó chạy nhanh xuống đường phố, lao về phía trước. Trong gần nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi rời khỏi thành phố và chúng tôi vội con đường nông thôn. Holmes :

      - Sáng nay tôi dạo trong sân nhà bác sĩ và tôi dùng ống tiêm phun dầu hồi vào bánh sau ̃ xe. Một con chó săn tài giỏi đuổi theo một hướng có mùi dầu hồi cho tới tận chân trời góc biển. ồ, thằng cha ranh mãnh!

      -Đây là lối mà thoát vào tối hôm trước.

      Bất chợt, con chó bỏ con đường lớn để lao vào trong một lồl mòn có cỏ.

      - Như vậy là con đường' mòn này dành để bỏ rơi chúng ta? Bên tay phải chúng ta hẳn là làng Trumpington. à, kìa là ̃ xe ngựa đổ ra khúc quành. Mau lên, Watson! Tới lúc quyết định rồi.

      lao vào trong một chỗ trống trong cánh đồng.

      Kéo theo Pom~pê bực bội. Chúng tôi vừa kịp núp vào chau hàng giậu t~lì ̃ xe vượt qua. Trong xe có bác sĩ Lê-li, ông còng hẳn xuống, đầu gục trong hai bàn tay. BỘ mặt của Holmes cũng trở thành nghiêm trọng:

      - Cuộc điều tra có một kết quả bi thảm? Nào ta , Pom-pê! CÓ một biệt thự trong cánh đồng.

      Pom-pê buông ra những tiếng càu nhàu Ơû bên ngoài hàng rào sắt, nơi mà những dấu xe ngựa hãy còn thấy .

      Một lối dẫn vào trong biệt thự, Holmes ̣t con chó vào hàng rào, và chúng tôi vội vã bước vào. Holmes gõ lên cánh cửa nhiều lần mà có ai trả lời. ấy thế mà ngôi biệt thự hoang vắng, bởi vì có một tiếng động bị nghẹt, vọng tới tai chúng tôi: một thứ tiếng rên rỉ tuyệt vọng, một thứ tiếng rầm rì buồn bã một cách kinh khủng.

      Holmes dừng lại, ngó lại phía sau chúng tôi. con ' đường mà chúng tôi vừa , một ̃ xe ngựa lại hiện

      Holmes reo lên.

      - ông bác sĩ lại trở lại, vậy là giải quyết xong tất cả một lần. Chúng ta buộc phải xem chuyện gì xảy ra nơi đây trước khi ông ta tới.

      mở cửa ra và chúng tôi bước vào trong gian tiền sảnh. Tiếng rì rầm nổi bật lên; nó từ cao vọng xuống. Holmes leo lên và tôi theo . đẩy một cánh cửa hé mở. Chúng tôi đứng bất động, sửng sốt vì cảnh' tượng hiện ra trước mắt: một phụ nữ, trẻ và đẹp, nằm dài giường, chết. Dưới chân giường, một chàng trai khóc nức nở. ta chỉ ngẩng đầu lên khi Holmes đặt một bàn tay lên vai .

      - CÓ phải ông là Tô-tân.

      - Phải . . . Nhưng quý ông đến muộn mất rồi. ấy chết.

      Kẻ bất hạnh bị bối rối đến nỗi lầm chúng tôi với những thầy thuốc được mời tới khám bệnh. Holmes chưa kịp vài lời an ủi tiếng bước chân cầu thang và cái bóng khắc khổ của bác sĩ Lê-li hiện ra nơi ngưỡng cửa.

      Bác sĩ :

      -Vậy là, quý ông tới đích. Trước mặt người chết, tôi xin thề là nếu như tôi còn trẻ, thái độ quái gở của quý ông chắn chắn bị trừng trị.

      - Xin bác sĩ thứ lỗi. Tôi tin là có hiểu lầm! - Holmes , giọng trang nghiêm - Nếu bác sĩ vui lòng xuống dưới chúng ta hiểu lẫn nhau.

      Chúng tôi ngồi trong phòng khách ở tầng trệt.

      - Xin mời! - ông bác sĩ . ' - Tôi phải là người làm công cho huân tước Giậm và trong vụ này, những thiện cảm của tôi hề dành cho nhà quý tộc đó. Khi có một người bị biến mất, tôi có nhiệm vụ tìm hiểu số phận của ta ra sao. Tôi tìm thấy. Vậy là công việc của tôi xong. Nếu mất tích này kéo theo những điều gì phạm pháp, ông có thể tin cậy Ơû kín tiếng của tôi.

      Bác sĩ Lê-li tiến lên một bước và bắt tay Holmes:

      -ông là một người dũng cảm. Tôi hiểu lầm ông. ông biết nhiều: nhưng tôi cũng xin được thêm đôi câu: Cách đây một năm, Tô-tân tới sống Ơû Luân Đôn và say đắm con bà chủ nhà. cưới ta. ấy đẹp, thông minh và tốt bụng. Nhưng Tô-tân lại là kẻ thừa kế ông già quý phái kia, và tin báo về đám cưới chắc chắn làm tiêu tan tất cả "những hy vọng thừa kế của ta". Tôi biết chàng trai đó. Tôi thương ta vì ta có nhiều phẩm chất lớn.

      Chúng tôi ́ che giấu đám cưới với mọi người. Nhờ ngôi biệt thự cách biệt này và cũng nhờ sứ kín tiếng riêng, Tô-tân thành công cho tới nay. Nhưng bất thình lình? bị bệnh lao phổi ác tính. Chàng trai gần như điên lên vì buồn rầu. ta buộc phải tới Luân Đôn, nơi phải tham dự trận đấu. Việc rời bỏ hàng ngũ trong giờ quyết đấu làm lộ hết mọi chuyện.

      Tôi trấn an ta bằng một bức điện, và ta trả lời bằng một bức điện, van nài tôi hãy làm hết sức mình. ĐÓ là bức điện mà dường như ông đọc bằng cách nào đó tôi sao hiểu nổi. Tôi hề rlói về căn bệnh của ; nhưng tôi có viết thư cho ông-già-vợ ta, vrà ông đó, quá đỗi vụng về, tìm cách báo tin cho Tô-tân biết. Kết quả là ta bỏ trận đấu, quay về đây trong một trạng thái gần như điên loạn. Từ khi về đây, ta luôn luôn ngồi chỗ đó, quỳ bên giường. Nhưng sâng nay, thần chết hoàn thành công việc. ĐÓ là tất cả, ông Holmes? Tôi tin chắc rằng tôi có thể hoàn toàn tin cậy vào kín tiếng của ông và của bạn ông.

      Holmes siết chặt bàn tay bác sĩ, rồi nòi:

      - Watson, chúng ta thôi.

      . Chúng tôi buồn bã rời khỏi ngôi nhà có đám tang.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      13. Vết Máu Thứ Hai


      Một buổi sáng của mùa thu, trong căn hộ chúng tôi xuất hiện hai người nổi danh khắp châu Âu... Người thứ nhất mũi cao, mắt diều hâu, có cái nhìn trịch thượng, trông nghiêm khắc và kiêu kỳ. Đó là huân tước Bellinger, người hai lần giữ chức Thủ tướng. Người thứ hai tóc đen, hơi thấp, có khuôn mặt cân đối. Người ông ta toát ra một vẻ lịch thiệp, trang nhã. Đó là bá tước Trelawney Hope, phụ tá đặc trách đối ngoại Âu châu.

      Hai vị khách ngồi cạnh -văng. Đôi tay gầy gò của Thủ tướng bóp chặt lấy cái cán dù. Ông ta nhìn Holmes lại nhìn tôi, buồn rầu và lo ngại. Người phụ tá gảy gảy những đồ trang sức dây đồng hồ.

      - Ông Holmes, tôi bị mất cắp. Tôi báo cho Thủ tướng và ngài muốn gặp ông.

      - Ông báo cảnh sát sao?

      - - Thủ tướng lên tiếng - báo và báo. Báo cho cảnh sát nghĩa là công bố việc. Mà chúng tôi muốn né tránh việc này.

      - Vì sao, thưa ngài?

      - Tài liệu quan trọng tới mức nếu công bố nó, có thể dẫn đến một cuộc xung đột có tính quốc tế. Có thể nới rằng vấn đề chiến tranh và hòa bình phụ thuộc vào tài liệu này. Nếu truy tìm mà giữ bí mật nên truy tìm.

      - Tôi hiểu. Còn bây giờ, ông Trelawney Hope, tôi rất biết ơn ông, nếu ông kể cho tôi nghe tài liệu bí mật mất trong trường hợp nào.

      - Đó là bức thư của một nguyên thủ nước ngoài đến cách đây sáu ngày. Bức thư có ý nghĩa hệ trọng đến nỗi tôi quyết định cất nó trong cái tủ chống cháy của chính phủ. Chiều đến tôi mang nó về nhà tôi, tại Whitehall Terrace, cất trong cái tráp, đặt ở trong phòng ngủ của tôi. Tráp này chuyên dùng để cất giữ những tài liệu quan trọng. Chiều hôm qua, lá thư vẫn nằm ở đấy. Khi mặc quần áo ăn trưa, tôi lại mở tráp ra và tài liệu vẫn còn nguyên. Thế mà sáng nay nó biến mất. Suốt đêm, cái tráp được đặt ngay cạnh giường bàn rửa mặt của tôi. Tôi ngủ rất tỉnh, vợ tôi cũng vậy. Cả hai chúng tới thề rằng một ai vào phòng ban đêm cả.

      - Ông ăn tối lúc mấy giờ?

      - 7 giờ 30.

      - Ông ngủ khi nào?

      - Vợ tôi xem hát. Tôi chờ ấy. Gần 12 giờ chúng tôi vào phòng ngủ.

      - Nghĩa là trong khoảng gần bốn giờ đồng hồ tráp được một ai bảo vệ

      - một ai được phép vào phòng ngủ ngoài nữ hầu phòng người hầu và vợ tôi. Tuy nhiên, cả hai người này đều là những gia nhân đáng tin cậy. Hơn nữa họ hề biết trong tráp đựng thứ gì.

      - Ai biết có lá thư này?

      - Trong nhà tôi, một ai biết cả.

      - Thế nhưng, vợ ông biết chứ?

      - , thưa ông! Sáng hôm nay, khi tìm thấy lá thư, tôi cũng gì với vợ tôi cả.

      Thủ tướng gật đầu tán đồng:

      - Tôi biết ông luôn có một ý thức trách nhiệm rất cao.Trong công việc này, ý thức đó còn cao hơn nữa, ngay cả với gia đình...

      Người phụ tá cúi chào.

      - Thật vậy, thưa ông! Sáng hôm nay, tôi hề một lời về lá thư với vợ tôi.

      - Bản thân phu nhân liệu có đoán ra ?

      - , ấy thể đoán được. Thêm vào đó, thể có ai đoán được.

      - Trước đây, có khi nào ông bị mất tài liệu ?

      - , thưa ông.

      - Có ai ở nước biết lá thư này .

      - Các thành viên của nội các được thông báo về lá thư. Nhưng việc cầu giữ bí mật được Thủ tướng nhấn mạnh bằng lời cảnh cáo nghiêm khắc. Nhưng ai mà ngờ rằng chỉ vài giờ sau đó, chính tôi làm mất nó.

      tuyệt vọng làm cho khuôn mặt của người phụ tá thay đổi nhiều. Ông vò đầu ân hận. Trong khoảnh khắc hiện ra trước chúng tôi là những tm chân chính của một con người bồng bột, nhiệt thành. Tuy nhiên, ngay sau đó cái nét kiêu kỳ lại hiện lên khuôn mặt ông ta. Với giọng điềm tĩnh, ông tiếp:

      - Ngoài các thành viên của nội các còn có hai hoặc ba quan chức của ban biết hiện diện của bức thư. Còn ngoài ra, trong cả nước , một ai biết.

      - Thế còn ở nước ngoài?

      - Ở nước ngoài, tôi cũng tin là một người nào biết lá thư, trừ tác giả của nó. Ngay cả các bộ trưởng của quốc gia đó cũng biết.

      Holmes ngẫm nghĩ ít phút rồi :

      - Bây giờ, tôi cần biết cái gì ở đằng sau tài liệu? Vì sao việc lấy lá thư đem tới những hậu quả nghiêm trọng?

      Hai nhà hoạt động chính trị nhìn nhau rất nhanh.

      Thủ tướng chau mày:

      - Bức thư nằm trong phong bì màu xanh da trời, dài và hẹp. Dấu đóng xi màu đỏ có hình sư tử ở thế tiến công. Địa chỉ được viết bằng những nét cứng và đậm...

      - Những chi tiết này tất nhiên là rất thú vị và quan trọng - Holmes ngắt lời Thủ tướng - Có điều tôi cần biết về nội dung của lá thư. Lá thư về chuyện gì?

      - Đó là bí mật quốc gia. Tới e thể trả lời ông được hơn nữa, tôi chưa điều ông hỏi cần thiết ở chỗ nào. Nếu bằng tài năng hiếm thấy như người ta thường về ông, ông có thể tìm được chiếc phong bì cùng với lá thư ở trong đó. Ông xứng đáng với lòng biết ơn của đất nước, và nhận bất kỳ phần thưởng nào mà khả năng chúng ta cho phép.

      Holmes mỉm cười và đứng dậy:

      - Tất nhiên ngài là một trong những người bận rộn nhất nước. Nhưng nghề nghiệp tước mất khá nhiều thời gian của tôi. Rất tiếc là trong công việc này, tôi hữu ích cho ngài, và tôi coi tiếp x trò chuyện giữa chúng ta là tiêu phí thời giờ vô ích.

      Thủ tướng nhổm phắt dậy. Trong đôi mắt sâu của ông lóe lên một ngọn lửa:

      - Tôi quen... Thưa ông! - Ông bắt đầu . Tuy nhiên sau khi tự trấn tĩnh được, ông lại ngồi xuống. Chúng tôi ngồi im lặng đến một phút. Sau đó ông siết chặt lấy vai mình

      - Ông Holmes, ông hoàn toàn đúng. Thật là vô lý nếu chờ đợi giúp đỡ của ông mà chưa tin ông.

      - Tôi tán thành với ngài! - Nhà ngoại giao trẻ tuổi .

      - Được, tôi cho ông nghe tất cả. Tôi tuyệt đối trông cậy vào lòng trung thành và lòng nước của các ông.

      - Ngài có thể hoàn toàn tin vào chúng tôi.

      Chuyện thế này, đó là bức thư của một vị nguyên thủ nước ngoài. Ông ta tỏ ra lo ngại bởi mở rộng thuộc địa gần đây của nước ta. Bức thư được viết vào giây phút bực bội. tìm hiểu tin tức chỉ rằng các bộ trưởng của ông cũng hay biết gì về lá thư. Lời lẽ trong thư rất gay gắt, một vài câu mang tính khiêu khích. Vì vậy, nếu lá thư được công bố, dư luận xao động, đất nước chúng ta bị cuốn hút vào một cuộc chiến tranh lớn.

      Holmes viết tên một người mảnh giấy và đưa cho Thủ tướng coi.

      - Ông ta đấy. Bức thư có khả năng cuốn theo nó những chi phí khổng lồ, hủy diệt hàng trăm nghìn người - Thủ tướng .

      - Ngài báo tin cho người viết lá thư chưa?

      - Báo rồi. Bức thư viết bằng mật mã và được chuyển .

      - Nhưng rất có thể ông ta tính đến chuyện công bố lá thư?

      - . Chúng tôi có cơ sở để tin rằng ông ấy hiểu được tính thiếu thận trọng và bồng của mình.

      - Việc công bố lá thư là quả đấm mạnh giáng vào ông ta. Nếu vậy, người ta đánh cắp nó để làm gì?

      - Ông Holmes, thế là ông buộc tôi phải tới tình hình chính trị thế giới. Ông thấy châu Âu là một trại lính được vũ trang. Có hai liên minh cân bằng về lực lượng tồn tại. Nước thi hành chính sách trung lập. Nếu chúng ta bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh với một liên minh liên minh kia có ưu thế hơn. Hơn thế, điều này phụ thuộc vào việc liên minh thứ hai có tham gia hay tham gia vào cuộc chiến...

      - Vậy là những kẻ thù của vị này, những người muốn thấy có hiềm khích giữa ông ta với chúng ta, rất quan tâm đến lá thư?

      - Đúng vậy.

      - Nếu tài liệu rơi vào tay đối phương ai có thể chuyển nó đến bất cứ chính phủ nào ở châu Âu. Rất có thể hiện giờ bức thư lao với tốc độ chỉ có tàu thủy mới đuổi kịp? Người phụ tá đứng cúi đầu với một tâm trạng nặng nề. Thủ tướng nhàng đặt tay lên vai ông ta:

      - Nỗi bất hạnh xảy ra với ông bạn của tôi. ai có ý định kết tội ông đâu. Chúng ta áp dụng mọi biện pháp để phòng ngừa… Bây giờ, ông khuyên chúng tôi nên làm gì?

      Holmes lắc đầu buồn rầu:

      - Thưa ngài! Nếu tài liệu này được hoàn lại chiến tranh xảy ra?

      - Chắc chắn như vậy!

      - Nếu vậy, hãy chuẩn bị cuộc chiến thôi?

      - Đây là những lởi tàn nhẫn, ông Holmes.

      - Hãy chú ý đến thật, thưa ngài. Tôi tin là bức thư bị mất sau 12 giờ khuya đâu. Vì từ lúc ấy cho đến khi phát hiện ra, ông Hope và phu nhân đều ở trong phòng ngủ. Thế nghĩa là tài liệu bị mất vào tối qua trong khoảng từ 7 giờ rưỡi tới 12 giờ, bởi kẻ cắp khi ở đâu, tất nhiên gắng đoạt lấy nó sớm nhất. Còn nếu tài liệu bị mất vào hôm qua hiện giờ nó ở đâu? Kẻ cắp nhanh chóng chuyển cho người quan tâm. Vậy chúng ta còn có cơ hội nào để tóm được hoặc lần ra dấu vết của đất nước của chúng ta.

      Thủ tướng đứng dậy:

      - Ông lập luận rất logic. Tôi thấy quả thực nên làm gì ở đây nữa.

      - Ví như chúng ta cho rằng người hầu ăn cắp tài liệu?

      - Họ là những gia nhân quen thuộc và đáng tin cẩn.

      - Phòng ngủ ở gác ba và có lối riêng ăn thông ra ngoài phố. Vậy ai có thể trèo lên cửa trước của căn phòng mà bị để ý. Nghĩa là có một người nào đó ở trong nhà phạm tội. Kẻ cắp có thể chuyển nó cho ai? Chỉ có thể chuyển cho một trong những điệp viên quốc tế mà tôi biết tên của họ. Ba người có thể là cầm đầu bọn này. Tôi bắt đầu tìm xem một trong số ba người đó. Nếu một người nào đó trong bọn họ khỏi thành phố và nhất là ra vào chiều hôm qua chúng ta biết tài liệu này biến đâu.

      - Vì sao người đó phải ra ? - Người phụ tá hỏi - có thể mang bức thư tới một đại sứ quán nào đó ở London chứ?

      - Các điệp viên này thường có những quan hệ rất căng thẳng với các đại sứ quán.

      Thủ tướng gật đầu khẳng định điều đó:

      - Tôi nghĩ ông rất có lý. tự tay mình mang lá thư. Kế hoạch hành động của ông, tôi cảm thấy tuyệt đối chính xác. Tuy nhiên, ông Hope, ông đừng vì chuyện này mà quên những trách nhiệm khác của chúng ta.

      Các vị khách cúi chào rất trân trọng rồi rời khỏi căn phòng.

      Holmes bắt đầu im lặng. Thời gian trôi . mê mải với những suy tưởng của mình. Tôi giở các báo buổi sáng đọc bài về một tội ác vừa xảy ra vào chiều hôĐột nhiên, bạn tôi nhổm phắt dậy, đặt tẩu thuốc lên lò sưởi, kêu lên:

      - Đúng. Tình thế rất căng thẳng nhưng chưa hết hy vọng. Bây giờ cần biết ai là kẻ ăn cắp. Suy cho cùng, chỉ có tiền mới làm bọn quan tâm. Ngân khố của nhà nước giúp tôi. Nếu bán, tôi mua... Rất có thể còn giữ bức thư. cần biết ở đây người ta trả giá bao nhiêu trước khi đem bán ở nước ngoài. Chỉ ba người có khả năng dự vào trò chơi này. Đấy là Oberstein, La Rothiere, và Eduardo Lucas. Tôi tới thăm họ.

      Tôi liếc vào tờ báo buổi sáng.

      - Eduardo Lucas ở phố Godolphin phải ?

      - Đúng rồi.

      - thể tới thăm ta được?

      - Tại sao?

      - bị giết rồi.

      Holmes sửng sốt, dán mắt vào tôi, vẻ hoài nghi. Sau đó giật lấy tờ báo.

      “Vụ giết người ở Westminster.

      Chiều hôm qua, tại ngôi nhà số 16 phố Godolphin, xảy ra một án mạng. Phố Godolphin là một trong những con đường yên tĩnh trải dài giữa dòng sông và tu viện Westminster. Phần lớn những ngôi nhà ở đây được xây vào cuối thế kỷ XVIII. Ông Eduardo Lucas nổi tiếng trong xã hội như một người dễ mến, một trong những giọng hát nam cao được ưa chuộng nhất. Ông sống nhiều năm liền tại một biệt thự phố này. Ông 34 tuổi, chưa lập gia đình. Người hầu của ông gồm người quản gia, bà Pringle và người hầu Mitton. Bà Pringle thường làm vào buổi chiều. Bà ta lên phòng mình ở gác thượng rất sớm. Còn chiều hôm đó, người hầu thăm một người bạn ở Hammersmith.

      Từ 10 giờ, ông Lucas ở một mình trong ngôi nhà. Cho tới bây giờ, chưa ai chuyện gì xảy ra trong thời gian ấy. Nhưng lúc 12 giờ kém 15, viên cảnh sát tuần tra Barrett khi tuần qua phố Godolphin, thấy cửa ngôi nhà số 16 bị mở toang. ông gõ cửa, nhưng có tiếng, ông bước vào hành lang và gõ cửa một lần nữa. Vẫn có ai trả lời. Khi đó ông đẩy cửa bước vào.

      Căn phòng rất hỗn độn. Tất cả đồ gỗ bị xê dịch về một phía, một chiếc ghế nằm lỏng chỏng ở ngay giữa nhà. Chủ nhà nằm cạnh chiếc ghế. Ông bị giết bằng một nhát dao xuyên thẳng vào tim. Vũ khí giết người là con dao găm Ấn Độ được lấy từ bộ sưu tập vũ khí phương Đông trang trí một bức tường của căn phòng. Kẻ giết người phải với mục đích ăn trộm, bởi vì toàn bộ đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên vẹn.

      Ông Eduardo Lucas là một người danh tiếng. Cái chết này gây ra nỗi đau xót cho các thân hữu của ông”.

      - Watson, nghĩ gì về chuyện này?

      - Một trùng hợp kỳ lạ!

      - Một trong số ba người có khả năng tham dự vào tấn kịch này bị chết. Thật là một trùng hợp kỳ lạ! . Hai việc này chắc chắn có liên quan với nhau, chúng ta phải tìm cho ra mối liên hệ này.

      - Nhưng rồi cảnh sát biết tất cả.

      - . Họ chỉ biết những gì mà mọi người đều biết ở phố Godolphin thôi? Chỉ có chúng ta mới cả hai trường hợp. Có một điểm làm cho tôi nghi ngờ Lucas. Phố Godolphin, Westminster chỉ nằm cách Whitehall Terrace vài bước bộ. Những điệp viên khác sống ở cuối West End. Cho nên, Lucas dễ nhận được tin từ nhà ông phụ tá hơn những người kia. Đây là điểm , nhưng nếu tính đến khai triển với tốc độ nhanh nó có thể biến thành điểm chủ yếu. A! Lại có điều gì mới chăng!

      Bà Hudson xuất hiện, mang chiếc khay có một tấm danh thiếp phụ nữ. Holmes nhìn bà, nhíu lông mày và chuyển cho tôi.

      - Hãy mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vào. - Holmes .

      Chỉ một thoáng sau, một trong những người phụ nữ đẹp nhất London bước vào căn hộ chúng tôi. Tôi thường nghe về vẻ đẹp của người con út của công tước Belminster, nhưng một mô tả nào có thể truyền đạt được vẻ duyên dáng của bà. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu này, vẻ đẹp của bà conét gì khang khác; khuôn mặt bà lấp lánh, nhưng ánh mắt đỏ như lên cơn sốt. Cái miệng tình tứ khép chặt lại. Bà ́ gắng tự trấn tĩnh.

      - Chồng tôi ở chỗ ông, phải , ông Holmes?

      - Vâng.

      - Ông Holmes, tôi van ông, ông đừng cho chồng tôi biết là tôi đến đây.

      Holmes cúi chào lạnh nhạt:

      - Vẻ lộng lẫy của bà đặt tôi vào một tình huống rất khó xử. Mời bà ngồi xuống đây và cho tôi biết bà cần gì. Song đáng tiếc là tôi thể đem lại những lời hứa - Holmes .

      - Ông Holmes. Tôi biết là ở tại nhà chúng tôi có một tài liệu nào đó bị thất lạc. Nhưng vì nó đụng đến vấn đề chính trị nên chồng tôi gì với tôi. Tôi van ông, ông giải thích cho tôi biết cái gì xảy ra và hậu quả nó như thế nào?

      - Bà đòi hỏi ở tôi cái điều vượt quá khả năng của tôi .

      Bà ta thở dài rồi lấy tay ôm mặt.

      - Bà cần hiểu tôi hơn, thưa bà! Nếu chồng bà cho bà biết việc này bà tìm hiểu làm chi? Thậm chí bà cũng nên hỏi nơi tôi. Bà nên hỏi chồng bà.

      - Tôi hỏi ấy. Thôi, nếu ông muốn nới thôi Nhưng mong ông vui lòng trả lời một câu hỏi khác.

      - Câu hỏi như thế nào.

      - Do vụ này, sinh mạng chính trị của chồng tôi có bị tổn thất ?

      - Nếu công việc được thu xếp ổn thỏa dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng.

      Bà thở dài.

      - Những hậu quả ấy như thế nào?

      - Tôi đủ sức trả lời câu hỏi này.

      - Nếu thế, tôi làm phí thời giờ của ông nữa. Tôi thực lòng muốn chia sẻ lo lắng với chồng tôi. Một lần nữa, cầu ông đừng với chồng tôi về chuyện gặp gỡ hôm nay.
      Đến ngưỡng cửa, bà ngoảnh đầu lại và một lần nữa tôi nhìn thấy khuôn mặt đẹp, xúc động, đôi mắt lo sợ và cái miệng xinh xắn mím chặt lại. Sau đó bà biến mất.

      - Watson này, phái đẹp là một phần của cuộc đời - Holmes vừa cười vừa khi cánh cửa được đóng mạnh lại và tiếng sột soạt của váy phụ nữ im bặt - Người đàn bà này muốn gì đây?
      - Bà ta lo sợ cho chồng là điều dĩ nhiên.

      - Hãy hình dung lại khuôn mặt bà ta: nỗi lo sợ mất bình tĩnh và lòng kiên nhẫn.

      - Đúng, bà ấy rất lo lắng.

      - Đồng thời bà ́ gắng thuyết phục chúng ta tin rằng bà ta hành động chỉ xuất phát từ lợi ích của chồng mình, và vì vậy bà ta cần biết hết thảy mọi chuyện. Qua việc đó bà ta muốn gì? Có lẽ cũng nhận ra là bà ́ ý ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Bà muốn để chúng ta nhìn thấy mặt bà.

      - Đúng vậy, bà ấy ngồi chính chỗ này.

      - chung, đàn bà thật khó hiểu. Rất nhiều điều được che đậy ở đằng sau các hành vi bình thường nhất của đàn bà mà thôi. Chào Watson nhé!

      - à?

      - Vâng. Tôi đến phố Godolphin vì vụ Lucas để một chút manh mối nào đó. hãy tiếp khách giùm tôi nhé.

      Suốt ngày hôm đó và hai ngày tiếp theo, Holmes im lặng như những hạt gạo. , rồi lại về, hút thuốc liên miên, kéo vi-ô-lông với những giai điệu du dương, hay trầm ngâm nghĩ, ăn bánh sandwich bất kỳ lúc nào và trả lời nhát gừng các câu hỏi của tôi. Tôi hiểu chưa đem lại kết quả. hề kể cho tôi nghe về điều gì. Chỉ qua báo chí, tôi mới được biết người ta bắt giữ John Mitton, gia nhân của người quá ́.

      Cuộc điều tra xác minh đây là vụ giết người có chủ tâm từ trước, thế nhưng vẫn chưa tìm ra được động cơ phạm tội. Trong phòng có nhiều vật dụng giá trị, nhưng mất một thứ nào. Giấy tờ của người quá ́ cũng bị đụng đến. Người ta xem xét chúng tỉ mỉ và xác nhận người quá ́ rất quan tâm đến tình hình thế giới. Ông ta quen biết những nhà hoạt động chính trị danh tiếng của một vài nước. Có điều trong các tài liệu chất đầy ngăn bàn ông ta, tìm thấy cái gì đáng quan tâm. Đối với phụ nữ, ông ta quen nhiều nhưng một ai. Cái chết của ông còn là một câu hỏi bí ẩn.

      Việc tạm giam người hầu Mitton cũng chỉ là biểu hiện của bế tắc. có yếu tố chống lại ta. Chứng cớ ngoại phạm rất đầy đủ. Vào chiều hôm đó, Mitton thăm bạn bè ở Hammersmith và về tới nhà lúc 12 giờ. Tuy nhiên, thực xúc động trước tấm thảm kịch bất ngờ. Mitton luôn có quan hệ thân tình với chủ nhà. Một vài vật dụng của người quá ́ - ví như hộp dao cạo râu - được tìm thấy trong va-li của người hầu, nhưng đấy là quà của ông chủ. Bà quản gia cũng khẳng định điều này. Mitton phục vụ trong nhà Lucas được ba năm. Đáng lưu ý là Lucas bao giờ cho Mitton cùng với mình ra nước ngoài. Đôi khi ông sống liên tục ở Paris suốt ba tháng liền, thế mà vẫn để Mitton ở lại trông nom nhà cửa.

      Theo báo chí ba ngày rồi, các bí mật vẫn còn nguyên. Mặc dầu Holmes biết nhiều hơn báo chí, song vẫn kể cho tôi nghe điều gì cả. Chỉ có một lần, nhân câu chuyện hàng ngày, rằng thanh tra Lestrade đưa vào thực chất của vấn đề. Do vậy tôi hiểu nắm bắt được nhiều tin tức mới. Bước sang ngày thứ tư, có một bức điện dài từ Paris chuyển đến:

      Báo “Daily Tétégraph” viết:

      “Cảnh sát Paris vén bức màn bí mật về cái chết của ông Eduardo Lucas.

      Bạn đọc còn nhớ rằng thi thể của ông được phát hiện ra trong căn phòng cùng với con dao găm, rằng mối ngờ vực đổ xuống đầu người hầu phòng, song ta chứng minh được tình trạng ngoại phạm

      Hôm qua, gia nhân của bà Henri Fournaye, người sống ở Paris, tại đường Auterlitz, với cảnh sát rằng bà chủ của mình bị điên. Các khám nghiệm chứng tỏ rằng bà ta thực mất trí. Trong lúc điều tra, cảnh sát xác minh là vào thứ ba vừa rồi, bà ta trở về sau chuyến tới London. Có nhiều cơ sở cho rằng chuyến này có liên quan đến án mạng tại Westminster. đối chiếu các bức ảnh cho phép khẳng định chồng bà, ông Henri Fournaye và ông Eduardo Lucas chỉ là một, và vì sao người quá ́ sống hai cuộc đời ở London và ở Paris.

      Bà Fournaye là người gốc Âu Mỹ, có tính cách rất dễ bị kích động, do vậy thường hoàn toàn làm chủ được mình. Đây có thể là nguyên nhân của bi kịch xảy ra ở London. Sáng thứ ba, có một người đàn bà rất giống bà ta đứng sân ga Charing Cross với tâm trạng bị kích động mạnh. Cho nên, rất có thể chồng bà chết là do bà gây ra trong cơn điên loạn, hoặc cái chết ấy tác động đến bà, khiến bà bị mất trí, vẫn chưa có hy vọng bà khỏi bệnh. Có nhiều tin tức cho hay rằng vào chiều thứ hai có một người đàn bà nào đó - có thể là bà Fournaye, - đứng quanh ngôi nhà đường Godolphin chừng vài tiếng đồng hồ...”.

      Tôi đọc bức điện cho Holmes nghe khi dùng xong bữa điểm tâm.

      - Watson, là người kiên nhẫn vô cùng. Ba ngày vừa rồi tôi chưa kể điều gì cho nghe, chỉ vì có gì để kể. Ngay bây giờ các tin tức từ Paris vẫn chưa giúp chúng ta bao nhiêu.

      - Thế nhưng cái chết của người ấy hiện giờ hoàn toàn được sáng tỏ.

      - Cái chết ấy chỉ là một phần rất so với nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải tìm cho được bức thư và cứu châu Âu ra khỏi thảm họa chiến tranh. Trong ba ngày vừa qua, chỉ có một kiện đáng lưu ý là: chưa có cái gì xảy ra cả. Khắp châu Âu chưa có dấu hiệu bất an. Lẽ nào bức thư bị thất lạc… Nếu nó chưa bị thất lạc hiện giờ nó ở đâu? Tại sao người ta lại cất giữ nó? Phải chăng Lucas bị giết đúng vào cái buổi tối bị mất lá thư? chung, bức thư có ở chỗ ta hay ? Nếu có, vì lẽ gì lại tìm thấy nó? Tại sao người vợ điên loạn của Lucas lại mang nó theo mình? Nếu bà ta mang lá thư vì lẽ gì nó có ở chỗ bà tại Paris? Tôi có thể tìm nó ở đấy mà làm cho cảnh sát Phá được chăng? Nếu như tôi thành công trong việc này nghề nghiệp của tôi kết thúc một cách hiển hách... À đây rồi. Cái tin tức mới nhất từ những cảnh sát tiên phong - liếc nhanh vào mẫu thư chuyển cho - A ha! Hình như Lestrade tìm ra một điều gì thú vị sao đó Watson, chúng ta cùng đến Westminster.

      Trước tiên, chúng tôi đến nơi xảy ra án mạng. Đó là ngôi nhà cao, mặt tiền hẹp, trông đẹp lắm. Khuôn mặt Lestrade lấp ló qua cửa sổ. Viên cảnh sát mở cửa ra và ông ta thân mật chào chúng tôi.

      Căn phòng chúng tôi bước vào chính là nơi Lucas bị giết, có điều giờ đây dấu tích của tội ác còn nữa, ngoài vết máu hiện tấm thảm. Chiếc thảm là một miếng nỉ dày, hình vuông. Bộ sưu tập vũ khí nổi tiếng treo lơ lửng lò sưởi.

      - Ông được nghe những tin tức mới từ Paris chưa? - Lestrade hỏi.

      Holmes gật đầu.

      - Lần này các bạn Pháp trúng cái điều cần thiết. Vụ giết người tất nhiên diễn ra đúng như họ trình bày. Vợ ông ta gõ cửa và ông ta đưa bà vợ vào nhà. Bà ấy kể cho ông ta nghe là tìm thấy ông ta bay bướm như thế nào, rồi sau đó mắng sa sả vào mặt chồng. Sau đấy, nhân có con dao găm trong tay, bà nhanh chóng đến kết thúc. Mọi chuyện diễn ra ́ nhiên phải ngay một lúc vì tất cả chiếc ghế được chất thành đống. Một chiếc ghế nằm trong tay ông ta, hình như ông ta có dùng chiếc ghế này để tự vệ.

      Holmes nhướn lông mày:

      - Ông có tin tức gì cho tôi đấy?

      - Ồ, đây là chuyện khác, một chuyện đáng khả nghi.

      - Chuyện gì !

      - Sau khi được báo tin, chúng tôi đến đây, cẩn thận canh giữ hiện trường; đồ đạc được giữ nguyên như cũ. Sáng hôm nay, sau khi người chết được mai táng và việc xem xét căn phòng này kết thúc, chúng tôi cho thu dọn đồ đạc trong phòng, xếp lại cho nó ngăn nắp. Và tấm thảm này nó được dính chặt xuống nền nhà mà chỉ đặt sơ sài đó. Vô chúng tôi nâng nó lên và tìm thấy...

      - Thấy? Thấy cái gì? ...

      quan tâm hiện khuôn mặt Holmes.

      - Ồ! Ông có nhận ra vết máu tấm thảm này ? Quả thật phải có một lượng máu đáng kể mới thấm qua tấm nỉ như thế này.

      - Phải.

      - Hãy hình dung rằng sàn ván, ở chỗ ngay tấm thảm đặt lên mà lại có một dấu máu nào.

      - có dấu máu? Sao vậy? Phải có chứ?

      - Đúng như ông nghĩ. Vậy mà nó có, mới là kỳ lạ ông ta khẽ nâng rìa tấm thảm lên. Và chúng tôi thận thấy sàn ván, nơi tiếp xúc với tấm thảm, có vết máu.

      - Thế nhưng, mặt dưới của tấm thảm cũng bị vấy máu nhiều như ở mặt kia mà. Phải có một mặt nào đó lưu lại dấu vết sàn nhà chứ!

      Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của người chuyên gia nổi tiếng, Lestrade cười hì hì khoái trá:

      - Vết máu sàn ván cũng có đấy, nhưng nó nằm ở vị trí đó. Hãy nhìn coi?

      Vừa , ông ta khẽ lật phía điểm khác của tấm thảm lên. Quả thật những ô vuông sáng bóng của sàn ghép gần phía cánh cửa, chúng tôi nhìn thấy một vệt đỏ loang lổ.

      - Ông gì về điều này, ông Holmes?

      - Ở đây mọi chuyện thật đơn giản. Hai vết máu vẫn hoàn toàn trùng lên nhau. Nhưng tấm thảm bị lật trở lại Vì rằng tấm thảm hình vuông và được ghìm chặt xuống nền nhà nên chuyện đó là rất dễ.

      - Ông Holmes, chuyện đó hoàn toàn hiển nhiên. Nếu đặt tấm thảm y vào vị trí cũ vết bẩn, một ở mặt tấm thảm và một ở sàn ván, bắt phải chồng lên nhau. Còn tôi xin hỏi ông: Ai lật tấm thảm lên? Và người ấy lật lên để làm gì?

      Holmes ́ gắng kiềm chế nỗi xúc động xâm chiếm lấy mình.

      - Ông Lestrade! Người cảnh sát đứng ở hành lang luôn luôn trực ở đây, phải ?

      - Vâng.

      - Tôi khuyên ông thế này vậy: Hãy hỏi đến nơi đến chốn. Nhưng chúng tôi chứng kiến. Chúng tôi chờ ở đây. Hãy vì sao dám cả gan cho một người nào đó vào đây và để cho người ấy ở lại một mình trong phòng này. Hãy với là ông biết như vậy. Hãy đe dọa . Hãy rằng chỉ có thú thực mới có thể giúp hấn chuộc lỗi lầm.

      - Tôi thề là tôi ép đến cùng.

      Ông chạy vào phòng bên cạnh. Chỉ sau một phút, chúng tôi thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.

      - Mau lên. Watson mau lên - Holmes cuống quít.

      Tất cả sức lực siêu nhiên trong người Holmes đột ngột trỗi dậy. lật tấm thảm lên, quỳ xuống bắt đầu lần từng ô vuông gỗ lát sàn dưới chân mình. Một ô vuông văng ra. Đó là một nắp hộp , phía dưới có một lỗ tối om. Holmes thọc tay vào đó. Thế nhưng, sau khi lôi chiếc hộp ra, bắt đầu rên lên vì buồn bực và thất vọng, chiếc hộp trống .

      - Nhanh lên Watson! Hãy đặt nó vào chỗ cũ!

      Chúng tôi vừa kịp giấu chiếc hộp và đặt tấm thảm lên nghe thấy giọng của Lestrade ở ngoài hành lang. Khi ông ta bước vào, Holmes tựa vào lò sưởi với vẻ ngạo mạn, phớt đời.

      - Xin lỗi, biết điều gì giữ chân ông ở lại đây, ông Holmes! Tôi thấy những chuyện này làm ông ngán đến tận ̉ rồi. Cuối cùng phải thú nhận! MacPherson, vào đây!

      Một cảnh sát to lớn, mặt đỏ ửng rón rén bước vào căn phòng

      - Chiều hôm qua một người đàn bà trẻ tuổi rẽ vào đây. Bà bà bị lầm nhà. Chúng tôi có trò chuyện với nhau một chốc. Suốt ngày đứng một mình ở đây quả có buồn thật.

      - Được rồi Vậy chuyện gì xảy ra?

      - Bà ta muốn coi tận mắt vụ giết người mà báo chí đưa tin. Đó là một người đàn bà trẻ trung và đứng đắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng có gì xấu xa, nếu tôi đưa bà ta vào xem. Nhưng sau khi trông thấy vết bẩn tấm thảm, bà ta ngã quỵ xuống, nằm bất động như một người chết. Tôi chạy ùa vào bếp, mang nước ra, thế nhưng vẫn làm sao cho bà ấy tỉnh lại; tôi lại chạy ra tận góc phố Ivy Plant, mua một chai brandy. Nhưng lúc tôi bước vào phòng bà ta tỉnh dậy và ra. Có lẽ bà xấu hổ khi gặp lại tôi.

      - Thế có ai đụng vào tấm thảm chứ?

      - Khi tôi quay lại, tấm thảm có bị xê dịch chút xíu, bởi vì bà ta ngã lên nó mà. Thêm vào đó, tấm thảm lại được đóng chặt xuống nền nhà. Sau đấy, tôi đặt nó ngay ngắn trở lại.

      - Đó là bài học cho ông đấy, cảnh sát MacPherson ạ, lừa nổi tôi đâu - Lestrade với vẻ quan trọng - Chắc ông nghĩ rằng việc đó bị phát hiện. Thế mà tôi chỉ cần ném một cái nhìn vào tấm thảm là tôi lập tức hiểu ngay là có một ai đó rẽ vào căn phòng này. Thật may cho ông, là mất gì cả ông chỉ phải mang tiếng xấu thôi! Ông Holmes, rất tiếc là tôi gọi ông tới đây vì cái trò nhảm nhí này. Thế nhưng tôi cho rằng cái vết máu thứ hai cái vết trùng lên vết thứ nhất khiến ông thích thú.

      - ́ nhiên...

      - Ông cảnh sát, người đàn bà ấy vào đây chỉ một lần thôi sao?

      - Vâng chỉ một lần.

      - Tên bà ta là gì.

      - Tôi biết. Bà ta tìm việc làm, nhưng nhầm số nhà. Bà ta rất lịch thiệp và thoải mái.

      - Bà ấy có cao ? Có đẹp ?

      - Vâng bà ta hơi cao. Cũng có thể là bà ta đẹp, thậm chí rất đẹp. “Ôi ! Ông sĩ quan, xin hãy cho phép tôi liếc nhìn một chút xíu thôi!”. Phong thái bà ta dễ coi và dễ thương như thế nên tôi khó lòng từ chối.

      - Bà ấy ăn mặc ra sao?

      - Áo choàng dài phủ đến tận gót.

      - Chuyện đó xảy ra từ lúc mấy giờ?

      - Khi tôi từ tửu quán quay trở lại, đèn phố được bật sáng.

      - Rất tiếc! Ta thôi, Watson!

      Chúng tôi bước ra, Lestrade ở lại trong phòng. Viên cảnh sát chạy ra, mở rộng cửa cho chúng tôi với vẻ hối hận. Holmes quay lại, đứng ở ngưỡng cửa, đưa ra một cái gì đó. Viên cảnh sát chăm chú nhìn.

      - Trời ơi! - Ông ta kinh ngạc kêu lên.

      Holmes đặt ngón tay lên môi rồi nhét vật đó vào túi. cười khanh khách, khi chúng tôi bước ra ngoài đường.

      - Thật tuyệt vời. Ta nào! Bức màn được vén lên. Chiến tranh thể xảy ra được. Danh vọng chói lọi của bá tước bị lu mờ. Vị nguyên thủ thiếu cẩn trọng kia ngủ ngon, Thủ tướng phải tháo gỡ tình hình phức tạp ở châu Âu. Lòng tôi tràn ngập niềm khâm phục đối với con người đáng khâm phục này.

      - giải bài toán ra sao?

      - Bây giờ chưa. Chúng ta thẳng tới Whitehall Terrace và kết thúc công việc.

      Khi đến nhà ông phụ tá, Holmes muốn gặp phu nhân Hilda Trelawney Hope. Chúng tôi được đưa ngay vào phòng khách.

      - Ông HolmesBà ta , mặt ửng hồng lên vì giận dữ - ông cao thượng chút nào. Tôi là tôi muốn giữ bí mật chuyến viếng thăm của tôi, kẻo chồng tôi nghĩ rằng tôi nhúng tay vào công việc của ấy. Bằng việc đến đây, ông làm tổn hại thanh danh của tôi.

      - Rất tiếc là tôi thể làm gì khác, thưa bà. Người ta bảo tôi phải tìm cho ra tài liệu. Tôi đề nghị bà trao nó cho tôi.

      Người đàn bà đứng phắt dậy. Đôi mắt của bà mờ . Bà ta dao động dữ dội, tôi có cảm giác bà sắp ngất xỉu . Nhưng , bà ta có một nghị lực thật phi thường. Bà ta giận dữ, quát:

      - Ông xúc phạm đến tôi.

      - Xin hãy nghe đây, thưa bà! Giận dữ cũng vô ích. Hãy đưa bức thư cho tôi.

      Bà ta lăng xăng chạy tới máy điện thoại.

      - Người quản lý đưa tiễn ông.

      - Đừng gọi, thưa phu nhân Hilda. Nếu bà làm như vậy mọi ý định chân thành của tôi nhằm giúp bà vô ích. Hãy trả lại bức thư cho tôi mọi chuyện được ổn thỏa. Còn nếu bà nghe, buộc lòng tôi phải tố giác bà.

      Bà ta đứng trước chúng tôi, uy nghi và kiêu hãnh, tay rời khỏi máy điện thoại, nhưng vẫn chưa gọi.

      - Ông cao thượng đâu, ông Holmes ạ. Ông là ông biết một điều gì đó, vậy ông biết điều gì?

      - Thưa bà, xin bà hãy ngồi xuống. Bà bị thương nếu bà ngã. Tôi chừng nào bà chưa ngồi. Vâng, xin cám ơn bà!

      - Ông Holmes, tôi cho ông năm phút.

      - Chỉ một phút thôi. Tôi biết bà đến gặp Eduardo Lucas, đưa lá thư cho ta. Tôi cũng biết chiều hôm qua, bà lại vào căn phòng của ta, lấy lại lá thư bên dưới tấm thảm.

      Mặt phu nhân Hilda trở nên tái mét. Bà dám nhìn Holmes. Hơi thở bà nghẹn lại, một lời.

      - Ông quẫn trí rồi, ông Holmes... Ông quẫn trí mất rồi! - Cuối cùng bà kêu lên.

      Holmes rút từ túi ra một tấm ảnh . Trong ảnh là hình một người phụ nữ được cắt riêng ra.

      - Đây là tấm ảnh . Tôi cầm theo nó vì tôi cho rằng nó có thể hữu ích. - - Người cảnh sát nhận ra bà.

      Bà ta thở dài một cách khó nhọc, đầu bà ngã xuống lưng ghế.

      - Thưa bà! Bà giữ bức thư. Tôi muốn làm bà phiền muộn. Nhiệm vụ của tôi chấm dứt khi tôi hoàn lại lá thư cho chồng bà. Hãy nghe lời khuyên nhủ của tôi.

      Cho tới lúc đó, bà vẫn chưa chịu thua.

      - Ông Holmes, tôi xin nhắc lại với ông rằng ông bị một thứ tưởng tượng nào đấy điều khiển.

      Holmes đứng dậy khỏi ghế.

      - Tôi tiếc cho bà, thưa phu nhân Hilda. Tôi làm tất cả những gì có thể làm được để cứu giúp bà. Nhưng thôi. Tùy bà.

      bấm chuông. Viên quản lý bước vào.

      - Ông Trelawney Hope có ở nhà ?

      - Ông ấy về đến nhà sau 15 phút nữa, thưa ông.

      Holmes liếc nhìn đồng hồ:

      - Rất tốt, tôi chờ.

      Đúng lúc viên quản lý khép cửa lại, phu nhân Hilda giang rộng hai tay, phủ phục dưới chân Holmes giàn giụa nước mắt.

      - Hãy lượng thứ cho tôi, ông Holmes. Xin đừng với ấy! Tôi ấy! Tôi đau lòng nếu làm ấy nhiều phiền muộn.

      Holmes nâng bà dậy.

      - Xin cám ơn bà. Thế là vào phút chót, bà nghĩ lại. nên mất một giây nào nữa. Bức thư đâu?

      Bà ta lao đến bàn giấy, mở khóa và rút ra tấm phong bì dài, màu xanh da trời.

      - Nó đây, ông Holmes...

      - Chúng tôi cần cho nó vào chỗ cũ. Mau lên! Mau lên! Cái tráp đựng tài liệu đâu?

      - Trong phòng ngủ.

      - Mau lên!

      - Hãy để nó vào đấy.

      Một phút sau, bà xuất hiện với cái tráp dẹt.

      - Bà có chìa khóa thứ hai ? Mở !

      Phu nhân Hilda rút ra từ trong người chiếc chìa khóa . Tráp được mở. Trong đó, đầy giấy tờ. Holmes đặt chiếc phong bì vào chính giữa, kẹp vào những tài liệu khác. Tráp được khóa và được trở lại phòng ngủ.

      - Bây giờ chúng ta chuẩn bị tiếp chồng bà. - Holmes - Chúng ta còn 10 phút nữa. Tôi che giấu cho bà, thưa phu nhân Hilda. Trong thời gian còn lại, bà hãy kể cho tôi nghe câu chuyện này .

      - Ôi, ông Holmes! Chặt cánh tay phải của tôi còn dễ hơn là để cho ấy đau khổ, dù chỉ một phút thôi. Khắp London này, thể có người đàn bà nào chồng mình hơn tôi. Tuy vậy, nếu chồng tôi biết rằng tôi phải làm cái điều bắt buộc phải làm, ấy vẫn thể tha thứ cho tôi. Hãy giúp tôi, ông Holmes Hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của ấy, tất cả cuộc sống của chúng tôi sụp đổ hết!

      - Nhanh lên, thưa bà. Thời gian còn rất ít.

      - Trước lúc xây dựng gia đình, tôi có lá thư dại dột và thiếu thận trọng. Đó là thư của một đa cảm . Trong thư, có điều gì xấu xa cả, vậy mà chồng tôi coi hành vi này là tội lỗi. Nếu như chồng tôi đọc lá thư đó, chắc chắn ấy còn tin tôi. Nhiều năm trôi qua. Tôi ngỡ rằng “chuyện lá thư” rơi vào quên lãng. Thế nhưng, đột nhiên Lucas báo cho tôi biết là lá thư rơi vào tay ông ta và ông ta có ý định chuyển cho chồng tôi xem. Tôi van nài ông ta, xin ông ta hãy buông tha cho tôi. Ông ta hứa hoàn lại lá thư nếu tôi mang đến cho ông ta một tài liệu. Ông ta tài liệu này hiện chồng tôi cất trong tráp đựng các công văn khẩn. Ông ta biết về tài liệu này. Lucas cam đoan với tôi là điều đó làm tổn hại chút nào tới chồng tôi. Nếu ông ở đó vào địa vị của tôi, ông làm gì.

      - Kể tất cả cho chồng bà nghe.

      - Ôi! thể làm như vậy được Tôi đánh cắp, ông Holmes à. Tôi lấy khuôn chìa khóa và Lucas làm được chiếc chìa khóa thứ hai. Tôi mở tráp, lấy tài liệu và mang tới phố Godolphin.

      - Rồi tại đó, chuyện gì xảy ra?

      - Tôi gõ cửa vào giờ hẹn. Lucas ra mở cửa. Tôi theo ông ta vào phòng. Cửa được khép hờ. Tôi nhớ rằng khi tôi bước vào nhà ở ngoài đường có một người đàn bà nào đó đứng. Hai lá thư nhanh chóng được trao nhau. Đúng lúc đó, tôi nghe có tiếng động mạnh ở cạnh cửa và tiếng bước chân vang lên ở hành lang. Lucas nhanh chóng lật tấm thảm lên, nhét tài liệu xuống đó, rồi đặt tấm thảm vào như cũ. Tiếp theo, tôi trông thấy một bộ mặt xám đen ngây dại và nghe giọng đàn bà quát mắng bằng tiếng Pháp: “ chờ đợi của tao quả vô ích. Cuối cùng tao bắt gặp mày với nó”. Tôi nhìn thấy ông ta cầm chiếc ghế, còn trong tay bà ta lấp loáng một con dao găm. Tôi lao ra khỏi nhà vì khiếp đảm. Chỉ vào sáng hôm sau, nhờ đọc báo, tôi mới biết về vụ giết người đó. Tối hôm ấy tôi rất mừng vì đốt xong lá thư thời xa xưa.

      Nhưng sáng hôm sau, tôi biết một tai họa khác sắp đổ xuống đầu tôi. Khó khăn lắm tôi mới quỳ lạy ấy. Sáng hôm sau, tôi đến chỗ ông, và thấy rằng tình hình nghiêm trọng. Từ giây phút đó, tôi luôn nghĩ là phải hoàn lại tài liệu cho nhà tôi. Tài liệu nằm ở chỗ Lucas cất giấu. Nếu bà ta xuất hiện, tôi bao giờ biết được nơi cất giấu tài liệu. Phải đột nhập vào căn phòng đó. Nhưng bằng cách nào? Tôi theo dõi ngôi nhà suốt hai cánh cửa được mở lấy một lần. Mãi tới chiều hôm qua, tôi mới thành công. Tôi đem tài liệu về nhà, quyết định tiêu hủy nó, và kể cho ấy nghe chuyện gì xảy ra. Bởi vì tôi biết cách hoàn lại lá thư cho nhà tôi. Ôi! Tôi nghe thấy tiếng chân của ấy ở ngoài cầu thang rồi.

      Ông phụ tá chạy bổ vào phòng, kêu lớn:

      - Có gì mới , ông Holmes? Có gì mới!

      - Có hy vọng!

      - May quá - Nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên - Thủ tướng ăn sáng với tôi. Có thể chia sẻ nỗi hân hoan với ngài được ? Thần kinh của ngài rất vững. Vậy mà ngài hầu như ngủ được, từ khi xảy ra vụ này. Jacobs! Hãy mời Thủ tướng đến đây. Có gì liên quan tới mình đâu, hỡi em quý!

      Cứ theo ánh mắt của Thủ tướng, cứ theo cử động dồn dập của đôi tay ông, tôi thấy ông chia sẻ nỗi xúc động với người phụ tá của mình.

      - Ông Holmes, tôi rất hiểu là ông muốn báo cho chúng tôi biết một điều lành?

      - Sau khi thăm dò tất cả những nơi tôi có điều kiện thăm dò, tôi tin rằng chúng ta còn gì phải lo ngại.

      - Nhưng quả là đầy đủ, ông Holmes. Chúng ta thể sống mãi núi lửa được. Chúng ta cần biết một cách ràng.

      - Tôi hy vọng tìm ra bức thư, vì vậy tôi mới đến đây. Càng nghĩ về công việc này, tôi càng tin rằng bức thư bao giờ vượt ra khỏi ranh giới của ngôi nhà này!

      - Ông Holmes!

      - Nếu quả thật nó bị mất ́ nhiên người ta công bố nó từ lâu, từ rất lâu rồi. Nhưng vì sao có thể cho rằng bức thư được cất giấu trong ngôi nhà này?

      - Chúng tôi tin có kẻ lấy nó.

      - Vậy nó tráp làm sao được?

      - Tôi cũng tin là nó ra khỏi cái tráp.

      - Ông Holmes! Bây giờ phải là lúc để đùa cợt. Tôi cam đoan với ông là trong đó có lá thư.

      - ta hãy nhìn lại một lần nữa, xem sao?

      - ! Điều đó hoàn toàn vô ích?

      - Có thể ông để ý đến nó.

      - đời nào có chuyện ấy cả.

      - Ai mà biết được? Những chuyện tương tự như thế vẫn thường xảy ra. Vì ở đây có lẽ còn có những tài liệu khác nữa. Bức thư có thể bị lẫn trong số tài liệu đó.

      - Bức thư nằm ở cùng.

      - Có thể một ai đấy xóc nó lên và bức thư bị dịch chuyển.

      - , ! Tôi lấy tất cả ra rồi!

      - Nhưng có thể dễ dàng kiểm tra lại điều đó, ông Trelawney Hope - Thủ tướng - Hãy lệnh mang tráp lại đây!

      Ông phụ tá ấn nút chuông.

      - Jacobs, hãy mang cái tráp đựng giấy tờ của tôi ra đây! Chúng ta phí giờ, nhưng nếu điều đó làm ông hài lòng ... Chúng tôi kiểm tra lại. Cám ơn Jacobs, hãy đặt nó xuống đây… Chìa khóa tôi luôn móc theo dây đeo đồng hồ. Đây mọi giấy tờ đây! Ông xem . Bức thư của huân tước Merrow, báo cáo của ngài Charles Hardy, bị vong lục từ Belgrade, các tài liệu về thuế lúa mì Đức- Nga, bức thư từ Madrid, bản báo cáo của huân tước Flowers... Trời ơi! Cái gì thế này? Huân tước Bellinger! Huân tước Bellinger!

      Thủ tướng giật lấy tấm phong bì màu xanh da trời từ tay người phụ tá.

      - Đúng, nó đấỳ bức thư còn nguyên vẹn… Xin chúc mừng ông, ông Hope ạ!

      - Cám ơn ngài. Xin cám ơn ngài! Một sức nặng ghê gớm trút khỏi vai tôi ! Thế nhưng thể hiểu nổi… Ông Holmes, ông là phù thủy! Do đâu ông biết được tài liệu ở đây?

      - Bởi vì tôi biết rằng đối với nó ở đâu tốt hơn là ở đây cả.

      - Tôi thể tin vào đôi mắt của mình nữa rồi! - Ông lao vút ra khỏi phòng - Vợ tôi đâu rồi? Hilda! Hilda!

      Chúng tôi nghe giọng của ông vang lên ở ngoài cầu thang.

      Ông Thủ tướng nheo nheo đôi mắt, rồi nhìn vào Holmes.

      - Hãy nghe đây, ông Holmes - Ông - Ở đây ẩn giấu một điều gì đó. Bức thư trở lại trong tráp bằng cách nào vậy?

      Holmes mỉm cười quay lưng lại để lẩn tránh cái nhìn từng trải của Thủ tướng.

      - Chúng ta còn có những bí mật xã giao của mình nữa. - Holmes , và sau khi cầm lấy mũ, bước ra phía cửa...

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Sir ARTHUR CONAN DOYLE

      Cung đàn sau cuối


      1. Đêm kinh hoàng ở điền trang Wisteria


      "T hưa ông Holmes,
      Tôi vừa dự cuộc phiêu lưu hoàn toàn khó tin và kỳ lạ. Tôi muốn tham khảo ý kiến ông!

      Scott Eccles.

      Hộp thư lưu trữ,

      Charing Cross".

      - Tác giả của bức điện này là đàn ông hay đàn bà?
      - Chắc là đàn ông! phụ nữ đánh điện bao giờ trả cước hồi ! Ông ta thân hành tới.
      - tiếp ông ta?

      - Tôi thất nghiệp sau ngày đưa đại tá Carruthers vào tù. Tôi giống như cái máy của xe đua: xe bị rỉ sét nếu nó làm nên chiến tích.

      Tiếng bước chân vang đều đều cầu thang. Rồi nhân vật cao, lực lưỡng, râu mép um tùm bước vào, khuôn mặt nặng nề và tự mãn. Đôi dép và cái khung kính gọng vàng cho thấy ông ta là người bảo thủ, ngoan đạo, có ý thức công dân cao độ. Người khách thẳng vào vấn đề:

      - Thưa ông Holmes, chưa bao giờ tôi lâm vào tình huống như vậy! là tủi nhục! Tôi cần được giải thích....

      Trong cơn giận dữ, mặt ông ta xệ xuống, hơi thở hổn hển. Holmes cố gắng xoa dịu:

      - Mời ông ngồi. Trước hết, tôi xin phép hỏi tại sao tôi hân hạnh được ông nhờ vả?

      - Thưa ông, chuyện này hình như thuộc thẩm quyền cảnh sát. Tôi hề có cảm tình với thám tử tư, nhưng có nghe về ông...

      - Xin cảm ơn! Nhưng xin được hỏi câu thứ hai: Tại sao ông đến ngay?

      - Ông muốn gì?

      Holmes nhìn đồng hồ:

      - 2 giờ 15. Điện được đánh lúc 1 giờ. Chỉ nhìn qua cách ăn mặc của ông, tôi cũng hiểu rằng ông gặp chuyện may ngay từ lúc vừa thức dậy.

      Người khách vuốt mái tóc rối rồi mân mê cái cằm xồm xoàm.

      - Đúng vậy. Tôi quên rửa mặt. Trước khi đến đây, tôi có tới dịch vụ cho thuê nhà và được biết tiền thuê biệt thự Wisteria được thanh toán sòng phẳng.

      - Này ông bạn! - Holmes vừa cười vừa trách - Ông bạn giống y bác sỹ Watson của tôi đây: quen bắt đầu bằng cái đuôi của câu chuyện. Mong ông bạn kể cho có lớp lang.

      Người khách cau mày:

      - Thưa ông, tôi tường thuật ngọn ngành câu chuyện dị thường này và ông thấy tại sao tôi mất bình tĩnh đến thế!

      Nhưng câu chuyện chưa bắt đầu được, vì chúng tôi nghe có tiếng náo động ở bên ngoài và bà Hudson vừa mở cửa, đưa vào hai người lực lưỡng, dáng dấp cảnh sát tuy mặc thường phục. trong hai người là thanh tra Gregson của Scotland Yard. Ông bắt tay chúng tôi rồi giới thiệu người bạn đồng hành là thanh tra Baynes thuộc Sở cảnh sát Surrey.

      - Chúng tôi cùng săn con mồi về hướng này - Nhìn người khác của chúng tôi, Baynes hỏi đột ngột - Ông là John Scott Eccles, thường trú tại Popham House, hạt Lee?

      - Vâng!

      - Chúng tôi tìm ông từ sáng.

      - Đầu mối của các bạn là bức điện tín? - Holmes hỏi.

      - Vâng. Chúng tôi kiếm ra đầu mối tại bưu điện Charing Cross và bây giờ diện tại đây.

      - Sao hai ông lại tìm tôi? Các ông cần gì?

      - Chúng tôi muốn biết về cái chết của ông Aloysius Garcia tại biệt thự Wisteria gần Esher đêm qua.

      Người khách sửng sốt, mở to đôi mắt, mặt trắng bệch.

      - Ông ấy chết à?

      - Vâng.

      - Chết cách nào? Tai nạn?

      - Án mạng.

      - Ồ! Ông muốn rằng... Ông cho rằng tôi có liên can chứ?

      - Chúng tôi tìm thấy lá thư của ông ở trong túi nạn nhân, nên chúng tôi biết rằng đêm qua ông ngủ tại nhà đó.

      - Vâng, đêm qua tôi ngủ ở đó.

      Các sổ công vụ được rút ra.

      - Chậm chút, ông Gregson! - Holmes xen vào - Ông muốn lấy lời khai đầy đủ chứ gì?

      - Và tôi báo trước rằng lời khai đó có thể buộc tội ông Scott Eccles.

      - phút trước đây, ông này sắp sửa hết cho tôi nghe nhị vị bước vào. Tôi đề nghị với bác sỹ Watson, hãy cho ông Eccles ly brandy pha sô đa... Giờ đây, cầu ông Eccles tiếp tục câu chuyện.

      Người khách uống ly rượu, hai mắt đỏ ngầu liếc về phía các quyển sổ và bắt đầu :

      - Tôi độc thân và có nhiều bạn. Trong số này, tôi thân với ông Melville ở Albemarle Mansion, hạt Kensington. Vài ngày trước đây, chính trong bữa cơm tại nhà của Melville, tôi kết thân với ông Garcia, người gốc Tây Ban Nha. Ông Garcia tiếng rất đúng giọng, người thanh lịch, khiêm tốn.

      Hai ngày sau, ông ta tới thăm tôi tại Lee. Sau hồi chuyện trò, Garcia mời tôi về chơi vài ngày ở biệt thự Wisteria. Biệt thự này nằm đường từ Esher tới Oxshott. Và hôm qua, tôi tới Esher. Sau đó, dùng xe ngựa đến lâu đài Wisteria.

      người phục vụ gốc Tây Ban Nha tiếng ra rước hành lý của tôi. Ngoài ra, trong nhà còn có đầu bếp có hai dòng máu, bộ dạng rất lạ lùng. Biệt thự khá lớn, bề ngoài có vẻ già cỗi, nằm ở cuối đại lộ có cây to bóng mát. Khi xe ngừng trước cổng, tôi bỗng tự hỏi mình có nên sống vài ngày tại nhà người mới quen hay ?

      Đích thân Garcia ra mở cổng và nồng nhiệt chào đón tôi. Sau đó, ta gọi người hầu con, da ngăm, mặt buồn, xách valy và đưa tôi về phòng. Tiếc thay! Trong ngôi nhà này, việc gì cũng làm tôi chán chường.

      Trong bữa cơm, tuy Garcia cố làm cho tôi vui nhưng tâm trí ta như để đâu đâu. ta năng lung tung, dùng ngón tay gõ bàn rồi cắn móng tay. Tóm lại, các dấu hiệu bực dọc mỗi lúc tăng. Bữa cơm rất tồi, cả về thức ăn lẫn cách phục vụ. diện của người phục dịch câm lặng càng làm cho bầu khí càng thêm u tịch. Trong đêm qua, nhiều lần tôi muốn quay trở về Lee.

      Cuối bữa cơm, người làm trao cho Garcia phong thư. Sau khi đọc xong, Garcia ngồi lặng thinh, hút thuốc liên tục. Khoảng 11 giờ, chủ nhà mời tôi ngủ. lát sau, ta hé cửa bước vào (phòng tôi tối đen như mực), hỏi xem tôi có bấm chuông . Tôi trả lời là . "Xin lỗi vì đánh thức vào lúc 1 giờ khuya như vầy". Sau đó tôi ngủ lại.

      Khi tôi thức giấc 9 giờ sáng. Tôi ngạc nhiên vì người ta quên đánh thức tôi lúc 8 giờ theo lời tôi dặn. Tôi đứng lên và bấm chuông. ai trả lời. Tôi cho là chuông hư, bèn hối hả mặc quần áo và xuống cầu thang để xin nước nóng. Căn nhà vắng tanh. Tôi kêu to ngoài hành lang. hồi . Tôi chạy từ phòng này sang phòng nọ. Tất cả đều im lặng. Tôi đến gõ cửa phòng ngủ của Gar. Vẫn có tiếng trả lời. Tôi vặn cửa bước vào. Phòng trống rỗng. Họ bỏ hết: Gar, người đầy tớ và gã đầu bếp; cả ba biến mất trong đêm. Chuyến đến biệt thự Wisteria của tôi kết thúc như thế đó.

      Sherlock Holmes xua tay và cười :

      - Watson, hãy thêm câu chuyện kinh hoàng này vào trong bộ sưu tập những chuyện dị thường của !

      - Đây là cuộc phiêu lưu độc nhất vô nhị. Ông vui lòng cho tôi biết ông làm gì sau đó - Tôi hỏi Eccles.

      - Tôi xách vali, giận dữ đóng cửa và bộ về Esher. Tôi dừng chân tại cơ quan làm dịch vụ cho thuê nhà và được biết chính họ cho thuê biệt thự đó. Tôi nghĩ rằng họ dàn dựng cảnh này để trốn nợ. Cuối tháng 3 mà, gần phải trả tiền nhà quý I rồi. Nhưng người ta cho tôi biết rằng tiền thuê nhà được trả rồi. Tôi bèn lên thủ đô, tới tòa đại sứ Tây Ban Nha. Tại đây, ai biết chàng Garcia cả. Tôi lại đến nhà người giới thiệu tôi với Garcia. Khốn thay, Melvillelại còn lù mù hơn tôi nữa. Cuối cùng, nhận được hồi của ông Holmes, tôi vội chạy tới đây ngay, vì tôi tin rằng ông Holmes có thể giải đáp được. Nhưng giờ đây, thưa ông thanh tra, tôi biết thêm rằng câu chuyện chấm dứt tại đó và được tiếp nối bằng thảm kịch. Tôi khai báo hết . Tôi hoàn toàn biết gì về những việc xảy ra cho chàng trai đó. Ý muốn độc nhất của tôi là tận tình tiếp tay với luật pháp.

      - Tôi tin điều đó, thưa ông Eccles! - Thanh tra Gregson đáp cách khả ái - Lời khai của ông phù hợp với các dữ kiện mà chúng tôi thu lượm được, như bức thư mà Garcia nhận được vào bữa cơm tối. Ông có để ý thấy Garcia làm gì với lá thư đó?

      - Garcia vo tròn và quăng vào lửa.

      - Baynes, nghĩ sao?

      Viên thám tử địa phương to con, má đỏ, gương mặt to tròn, có đôi mắt sáng rực, rút trong túi ra mảnh giấy xếp phai màu.

      - Nhờ cái lưới sắt có móc, đương quăng quá cao nên cục giấy rớt đằng sau lưới. Nó còn nguyên vẹn đây.

      Holmes dành cho Baynes nụ cười của người rành việc!

      - Phải sục sạo lắm mới moi ra cục giấy này!

      - Thưa ông Holmes, tôi tìm ra nó theo thói quen mà! Thưa ông Gregson, tôi xin phép đọc nó.

      Viên thanh tra thủ đô gật đầu đồng ý.

      Thư viết góc tư tờ giấy màu kem thường, cắt bằng hai nhát kéo lưỡi cụt, xếp lại ba lần, khằn đỏ nguệch ngoạc và được ấn xuống bằng vật dẹp và bầu dục. Thư gửi ông Garcia, biệt thự Wisteria. Nó chỉ có mấy hàng:

      "Màu sắc của chúng ta là lục và trắng. Màu lục được mở, màu trắng bị đóng lại. Cầu thang lớn, hành lang thứ nhất, thứ bảy, phía tay mặt cửa có đệm. Chúc may mắn - D".

      Đó là tuồng chữ của đàn bà, sử dụng ngòi chuốt kỹ, nhưng địa chỉ được ghi bằng ngòi khác, hoặc bởi người nào khác, tuồng chữ to hơn, dầy đặc hơn.

      - bức thư kỳ lạ - Holmes nhìn mẫu giấy và tiếp - Tôi nhiệt liệt ca ngợi , Baynes ạ. Tôi xin nêu thêm vài điểm lặt vặt có thể bổ sung cho các nhận xét của . Cái đầu bầu dục chắc chắn là nút áo vì có vật nào khác có dạng giống như thế! Cây kéo được sử dụng ở đây là cây kéo cắt móng tay, mũi cong. Tuy các đợt cắt ngắn, nhưng vẫn thấy ràng có độ cong.

      Viên thanh tra Surrey cười .

      - Tôi trình bày hết các điểm chủ yếu của việc. Tuy nhiên, tôi phải thú nhận rằng lá thư này chẳng giải thích được điều gì khác hơn là có việc xảy đến và kẻ chủ mưu là người đàn bà.

      Suốt cuộc đàm thoại này, ông Eccles ngồi yên ghế, ông :

      - Tôi quá mừng trước kiện ông tìm được bức thư. Nhờ đó, lời khai của tôi được xác nhận phần nào. Tuy nhiên, tôi xin phép lưu ý là tôi hề biết điều gì xảy ra cho ông Garcia và hai người làm kia.

      - Về phần ông Garcia - Gregson - Câu giải đáp rất đơn giản. Sáng nay, người ta phát ông ấy chết tại đồng cỏ Oxshott, cách nhà khoảng 1 dặm[1]. Cái đầu nát ngướu vì bị đập bằng bao cát hay vật gì cùng loại. trường là nơi hoàn toàn hoang vắng, nhà gần nhất cách đó cũng phải tới ¼ dặm. Có thể ban đầu, ông bị đập từ phía sau và kẻ tấn công tiếp tục đập khá lâu, sau khi ông ta chết! dấu chân, vết tích giúp ta nhận dạng kẻ sát nhân.

      - Nạn nhân có bị mất gì ?

      - , tuyệt nhiên có dấu vết cướp bóc.

      - là đau đớn và khủng khiếp - Ông Eccles , giọng run run - Tuy nhiên cũng là điều phiền phức đối với tôi. Tôi liên can gì đến cuộc du ngoạn ban đêm đó? Tại sao tôi lại dính vào vụ quái dị như vậy?

      - Dễ hiểu thôi - thanh tra Baynes đáp - Lá thư độc nhất tìm được trong túi nạn nhân là của ông, nó cho tôi biết rằng ông là khách mời trong đêm đó. Chính phong bì của bức thư giúp chúng tôi nhận dạng xác chết. Chúng tôi đến đó sau 9 giờ, tuyệt đối có ai quanh đó. Trong lúc lục soát biệt thự Wisteria, tôi đánh điện cho ông Gregson để truy tầm ông ở London. Sau đó, tôi gặp ông Gregson và cuối cùng cả hai chúng tôi đến đây.

      - Giờ đây, tôi trộm nghĩ - Gregson vừa vừa đứng dậy - ông Eccles nên theo chúng tôi về sở cảnh sát để chúng tôi lấy lời khai bằng văn bản.

      - Đương nhiên, tôi ngay thôi. Nhưng ông Holmes, tôi xin ông giúp đỡ.

      Holmes quay qua viên thanh tra cảnh sát địa phương.

      - Tôi hy vọng rằng hai ông thấy có gì trở ngại nếu có cộng tác của tôi.

      - Nếu được như vậy, tôi vô cùng hân hạnh.

      - Tôi xin phép được hỏi xem hai ông có suy đoán được nạn nhân bị giết lúc nào ? - Holmes hỏi.

      - Nạn nhân ra từ 1 giờ sáng, lúc mưa bắt đầu rơi và án mạng xảy ra trong cơn mưa.

      - thể nào như thế được, ông Baynes ạ! - Người khách hàng của chúng tôi thét lớn - Giọng của Garcia dễ nhận ra lắm. Tôi sẵn sàng thề độc rằng chính Garcia chuyện với tôi hồi 1 giờ khuya tại phòng ngủ của tôi.

      - trùng hợp dị thường, nhưng có thể hiểu được - Holmes vừa thầm vừa cười.

      - Căn cứ vào đâu? - Gregson hỏi.

      - Thoạt nhìn, việc phức tạp lắm, tuy nó có vài đặc điểm kỳ dị. Nhưng trước khi đưa ra ý kiến dứt khoát, tôi cần nghiên cứu dữ kiện cách sâu sắc hơn. Nhân tiện xin hỏi ông Baynes, ông có thu lượm được cái gì khác, khi lục soát căn nhà ?

      Viên thanh tra địa phương nhìn Holmes cách ngạc nhiên:

      - Có hai hay ba điều lý thú. Sau khi xong việc tại sở cảnh sát, đề nghị ông đến và góp ý về các chi tiết đó.

      - Tôi sẵn sàng - Holmes đáp và nhấn chuông - Bà Hudson, bà vui lòng sao lại bức điện này và nhờ ai gửi gấp! Nhớ bảo họ đóng 5 shillings cho hồi .

      Khi khách ra về hết, chúng tôi vẫn ngồi lặng thinh. Holmes rít chiếc tẩu thuốc, trầm ngâm, nét mặt sa sầm trong lúc lâu. Thình lình, quay về hướng tôi:

      - Nào, Watson, ý kiến của ra sao?

      - Tôi thể nào hiểu vì sao Eccles bị lừa.

      - Tôi muốn về cái chết của Garcia kia!

      - Có gì đâu! Hai người hầu đào tẩu. Có thể chúng là hung thủ.

      - Đó là giả thiết dễ chấp nhận. Tuy nhiên, chính cũng thắc mắc tại sao chúng phải chờ tới cái đêm nhà có khách. Ra tay đêm nào lại chẳng được!

      - Thế tại sao chúng trốn?

      - Đấy là câu hỏi lớn! Còn có câu hỏi lớn khác nữa: cuộc phiêu lưu bình thường của Eccles? Chúng ta phải giải đáp hai câu hỏi lớn đó. Ngoài ra, nếu giải thích được bức thư với câu cú lạ lùng ta có thể xem nó là giả thiết tạm thời. Nếu các dữ kiện mới lại phù hợp giả thiết đó trở thành giải đáp.

      - Nhưng giả thiết gì?

      Holmes tựa lưng vào ghế, lim dim đôi mắt:

      - Giả thiết đây là trò đùa thể nào đứng vững. Việc Garcia mời Eccles đến biệt thự Wisteria là có chủ đích!

      - Để làm gì?

      - Ta lần lượt xét từng khâu. Trước hết, tôi thấy tình hữu nghị giữa Garcia và Eccles bình thường tí nào. Nguyên nhân bắt nguồn từ người Tây Ban Nha. Garcia lặn lội đến nhà Eccles để mời mọc. Y muốn gì nơi Eccles? Tôi thấy Eccles chẳng có gì quyến rũ đặc biệt. Thông minh? - ! Có tính chất linh hoạt đặc biệt? - ! Thế mà tại sao Garcia lại tuyển chọn Eccles trong vô vàn những bạn hữu khác? Có phải vì Eccles là người mà chúng hằng mong ước để gây cảm xúc nơi người khác? có để ý cả hai viên thanh tra ai ngờ vực lời khai của người khách hàng, mặc dù nó khá dị thường.

      - Nhưng người này làm chứng cho cái gì?

      - làm chứng cho cái gì hết, nếu căn cứ theo các kiện tiếp diễn. Nhưng đó là mấu chốt, nếu nhìn việc diễn tiến cách khác.

      - Tóm lại, Eccles có thể được dùng làm cái cớ để che tội ác.

      - Đúng vậy. Đó là cái cớ để che đậy tội ác! Giả sử bọn tôi tớ tại biệt thự Wisteria là thủ phạm. Và, còn nữa... Công việc của Garcia phải hoàn tất trước 1 giờ sáng. Do đồng hồ bị vặn sai giờ, nên Eccles được mời ngủ sớm. Khi Garcia với ông ta là 1 giờ sáng thực tế chưa quá 12 giờ đêm. Nếu Garcia có thể thực hi ện công việc và trở về nhà đúng giờ thực tế y có thể thoát ra khỏi mọi lời cáo buộc. Người khách trọ kia có thể thề thốt nặng lời rằng bị cáo rời khỏi nhà vào giờ đó. đảm bảo dự phòng!

      - Tốt! Nhưng tan biến của bọn tôi tớ sao?

      - Tôi chưa có đủ dữ kiện. Hãy chờ có thêm các thông tin mới.

      - Còn bức thư?

      - "Màu sắc của chúng ta là lục và trắng"... Liên quan tới cuộc đua ngựa chăng? "Màu lục được mở, màu trắng bị đóng lại...". ràng là tín hiệu. "Cầu thang lớn, hành lang thứ I, thứ 7 phía tay mặt, cửa có đệm...". Là nơi hẹn hò. Có thể chúng ta tìm ra ông chồng ghen tuông. Bà ta thêm hai tiếng "MAY MẮN" nếu phải là chuyện dâm bôn. Chữ "D" viết hoa có giúp ta được gì ?

      - Garcia là người Tây Ban Nha, có thể nào "D" hoa là DOLORES viết tắt, tên nữ được dùng nhiều của Tây Ban Nha.

      - Giỏi, Watson rất giỏi. Nhưng trật lất. người đàn bà Tây Ban Nha chuyện với người đàn ông Tây Ban Nha sử dụng tiếng Tây Ban Nha. Còn tác giả của bức thư dùng chấm chấm phải là phụ nữ . Ta hãy kiên nhẫn chờ viên thanh tra khả ái! Thôi, ta hãy cảm ơn thần may mắn giúp ta thoát khỏi vài giờ nhàm chán.

      Trước khi Baynes quay lại, Holmes nhận được hồi của bức điện. cầm đọc và khi chuẩn bị xếp nó vào sổ con, nhìn thấy nét mặt của tôi, liền trao nó cho tôi và cười:

      - Thư trao vào bữa cơm tối là giấy hẹn hoặc giấy mời. Theo tôi, bức thư cho biết để đến điểm hẹn, hoặc phải leo lên cầu thang chính, kiếm cái cửa thứ bảy trong hành lang. Như vậy, ngôi nhà phải to rộng thênh thang và chắc chắn nhà này cách Oxshott quá hai hay ba trăm mét, vì Garcia bộ về hướng này và hy vọng quay về biệt thự trước 1 giờ sáng. Vì số lượng căn nhà to lớn gần kế Oxshott nhiều, tôi gửi điện tín cho dịch vụ địa ốc địa phương mà Eccles nêu tên, cầu họ cung cấp danh sách. Nè, cái đầu kia của cuộn chỉ rối chắc chắn nằm trong danh sách này.

      Lúc chúng tôi cùng với thanh tra Baynes thuê xong phòng đầy đủ tiện nghi tại khách sạn Bò Mộng gần 6 giờ. Sau đó, ba chúng tôi lại lên đường tới biệt thự Wisteria. Hôm đó, là buổi chiều tháng 3 năm 1892, gian u ám và giá buốt, mưa đầy trời, hoàn toàn phù hợp với khí trong thảm kịch

      khoảng 3 cây số, chúng tôi đến trước cái cổng cao mở ra đại lộ u, hai bên có trồng cây dẻ. Đại lộ này đưa đến ngôi nhà thấp, tối tăm, tựa hồ cục than đen nổi bật nền trời xám. Đằng sau cửa sổ nằm về bên trái của cái cửa lớn, le lói vệt ánh sáng . Baynes :

      - Có cảnh sát viên canh gát tại đó. Để tôi ra hiệu.

      Ông băng qua bãi cỏ và gõ vào kiếng. Qua cửa kiếng mờ sương, tôi thấy người đàn ông nét mặt kinh hoàng, nhảy dựng khỏi ghế đặt gần lò sưởi, và tiếp đó là tiếng la chói tai trong gian nhà. phút sau, người cảnh sát mặt tái mét, tay cầm đèn cầy, thở hổn hển ra mở cửa đón chúng tôi.

      - Chuyện gì vậy Walters? - Baynes cất giọng.

      Viên cảnh sát lấy khăn lau trán và thở dài nhõm:

      - Ông trở lại, tôi mừng muốn chết. Tôi dè rằng thần kinh của tôi rắn chắn như vừa rồi.

      - Thần với chả kinh? Té ra cũng có dây thần kinh?

      - Thưa ông, trước hết là cái căn nhà tịch này; sau đó là cái chuyện lạ lùng trong nhà bếp. Do đó, khi ông gõ vào kiếng, tôi tưởng là chuyện kinh hoàng đó lại tái diễn.

      - Chuyện đó là chuyện gì?

      - Con quỷ, thưa ông. Nó ở tại cửa sổ.

      - Cái gì ở tại cửa sổ và hồi nào?

      - con quỷ đứng tại cửa sổ. Lúc trời chạng vạng, tôi ngồi đọc sách ghế này. Tôi biết tại sao tôi lại ngước mặt lên, nhưng ràng tôi thấy cái đầu nhìn tôi qua khung kiếng phía dưới. cái đầu quái dị!

      - Tại sao nhát quá vậy?

      - Thưa ông, tôi ý thức lắm chứ! Tôi quả có hoảng hốt nhưng ông buộc tôi phủ nhận thể được. phải là cái đầu người da đen, mà cũng phải là cái đầu người da trắng, cũng phải cái đầu với màu sắc quen thuộc. Đó là cái đầu bằng đất sét có những vệt trắng. Dáng vóc của nó gấp đôi ông. Còn cái nhìn của nó? Hai con mắt to tổ bố sáng rực. Còn bộ răng của nó? Trắng tinh như răng thú đói thịt. Lúc đó, tôi cuống cuồng chạy ra ngoài, lục soát các bụi rậm, nhưng thấy nó.

      - Vì biết trước đây là người dũng cảm, bằng tôi cho điểm xấu. Theo tôi, đó chỉ là ảo giác hoặc là kết quả của căng thẳng thần kinh.

      - Các giải pháp cho vấn đề là dễ thôi - Holmes phát biểu và cầm cây đèn cầy chiếu xuống bãi cỏ - Đúng rồi, cỡ giày 48. Nếu tầm vóc của gã này ứng với cỡ giày đương nhiên đây là tên khổng lồ.

      - Nó trốn về hướng nào?

      - Có lẽ giữa đám bụi rậm kia, sau đó, nó ra ngoài đường cái.

      - Được - viên thanh tra thầm, vẻ mặt trầm ngâm - Dù với lý do gì nữa, cũng biến mất rồi. Ông Holmes, chúng ta cùng giáp vòng ngôi nhà.

      Quan sát kỹ, Holmes thấy họ còn bỏ lại số lượng lớn áo quần mang nhãn hiệu của công ty Marx. Đánh điện hỏi cửa hàng biết gì về người khách hàng này. Ngoài việc người này thanh toán bằng tiền mặt. Đồ vật riêng của Garcia có vật gì đáng giá, vài cái tẩu thuốc, vài cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Tây Ban Nha, khẩu súng lục cũ, cây đàn guitare.

      - có gì có ý nghĩa - Baynes sau khi cầm nến sục sạo trong phòng - Giờ đây chúng ta nên đặc biệt lưu tâm đến nhà bếp.

      Nhà bếp nằm phía sau, tuy trần cao nhưng rất u. Trong góc, cái đệm rơm được dùng làm giường. bàn còn la liệt nhiều đĩa thức ăn bỏ dở và dĩa dơ! Vết tích của bữa ăn đêm qua.

      - Nhìn kìa! Ông nghĩ thế nào? - Baynes

      Viên thanh tra giơ cao ngọn nến chiếu sáng vật kỳ dị đặt sau tủ ăn: đầy vết nhăn, co rút, khô đét đến nỗi khó nhận dạng. Chỉ biết có màu đen, có vẻ bằng da và lờ mờ dáng của thằng lùn. Nhìn lần đầu, tôi cho đó là đứa trẻ sơ sinh da đen ốm đói; nhìn lần sau, tôi liên tưởng tới con khỉ, và nhìn kỹ, tôi còn biết đấy là con thú hay con người!

      - Hay lắm! Còn gì nữa? - Holmes

      Baynes lặng thinh, đưa chúng tôi đến bồn rửa chén và chiếu ngọn nến vào. Chân, cánh và thân xác con chim lớn màu trắng nhổ lông bị chặt khúc, bỏ tứ tán trong đó. Holmes chỉ cái mào đầu:

      - con gà trống trắng! Cực kỳ lý thú và quái dị!

      Baynes tiếp tục lặng thinh, cúi xuống bồn, lấy ra cái xô đựng máu rồi đến bàn lấy cái tô đựng mớ tro và cốt vụn.

      - Chúng giết và thiêu cái gì đó. Pháp y sáng nay cho biết phải là tro người.

      Holmes xoa tay, cười:

      - Xin khen ông thanh tra. Tài năng của ông vượt trội tầm vóc của công tác ông được giao phó.

      Đôi mắt tí tẹo của thanh tra Baynes nhấp nháy:

      - Ông có lý, ở tỉnh lẻ dễ bị chột tài. vụ tầm cỡ như vầy cho tôi cơ may. Ông nghĩ gì về mớ cốt này?

      - Có lẽ là con cừu con hoặc con dê con.

      - Còn con gà trống trắng?

      - Kỳ quái! Có hai!

      - Nhà này chứa những người quái dị. trong bọn chết: bạn đồng hành của ta theo đuổi và ám sát ta? Trong trường hợp này, chúng ta phải truy tầm chúng, khắp nơi đều được thông báo. Nhưng tôi có quan điểm khác!

      - quan điểm trái ngược?

      - quan điểm dẫn đường cho tôi, ông Holmes ạ. Chỉ có tôi mới có cái nhìn này và tôi ra công tìm kiếm chúng. Ông nổi danh. Sau này tôi hãnh diện rằng chính tôi tự lực giải quyết bài toán có tiếp sức của ông.

      Holmes cười vui vẻ:

      - Tốt thôi, ông thanh tra! Chúng ta, mỗi người theo con đường riêng. Các kết quả của tôi luôn luôn để phục vụ ông. Tất cả những gì cần xem tại nhà này, tôi xem xong, nhưng các nơi khác chắc cũng cần biết đến. Tôi xin kiếu từ. Chúc ông may mắn!

      Về phần tôi, tôi tin chắc rằng Holmes con đường chông gai. Thái độ bớt lãnh đạm, ánh mắt suy tư của cho tôi biết có dấu vết con mồi. Theo thói quen, ta câm lặng suốt ngày và tôi tuyệt đối tôn trọng câm lặng này.

      Holmes lên thủ đô vào buổi sáng và tình cờ tôi biết có đến viện Bảo tàng Quốc. Ngoài ra, hết thời gian còn lại, dạo mình, cũng có khi dừng lại, chuyện đôi điều với dân làng.

      - Watson, chúng ta nên nghỉ tuần ở miền quê để ngắm nhìn hàng rào trổ nụ xanh và hoa dẻ.

      Trong chuyến đó, tình cờ chúng tôi gặp Baynes. Baynes nhiều tới vụ án nhưng căn cứ vào khuôn mặt hồng hào, những lời sơ sài, chúng tôi suy ra rằng ông ta khá hài lòng về công việc của mình. buổi sáng kia, tôi điếng người khi mở tờ báo, gặp số tựa to:

      “Những điều bí mật tại Oxshott. bắt người tình nghi là hung thủ”.

      Holmes nhảy dựng lên khi tôi báo tin:

      - Baynes bắt người sao?

      - Đúng thế!

      Và tôi đọc cho nghe:

      chấn động xảy ra tại Esher khi có tin rằng khuya hôm qua cảnh sát bắt người có liên quan tới án mạng tại Oxshott. Chúng ta còn nhớ rằng ông Garcia, ngụ trong biệt thự Wisteria, được phát chết tại đồng cỏ của xã Oxshott. Thi thể ông mang dấu vết bị hành hung. Ngay trong đêm đó, bọn tôi tớ cũng biến mất, chứng tỏ chúng có nhúng tay vào vụ án mạng. Người ta rằng, kẻ quá cố đứng sở hữu nhiều của cải quý giá nên cám dỗ lòng tham của bọn gian phi. Thanh tra Baynes tin rằng họ đâu xa mà nấp tại nơi an toàn được chuẩn bị trước. Ngay từ đầu, người ta tưởng rằng việc nhận ra chúng dễ dàng vì theo lời khai của vài thương nhân, người đầu bếp có cái bề ngoài rất dị thường của người lai đen với khuôn mặt vàng lợt và dáng dấp châu Phi. Ngay trong đêm đó, y bị viên cảnh sát nhận dạng và bị săn đuổi. Sau vụ án mạng, y lại cả gan lẩn quẩn quanh biệt thự Wisteria. Thanh tra Baynes suy đoán y quay lại, và ông ra lệnh canh gác cẩn mật ngôi biệt thự, đồng thời bố trí người nằm phục kích ngoài rừng. Bị lọt bẫy, hung thủ bị bắt sau hồi chống trả quyết liệt. cảnh sát viên bị y cắn cách tàn tệ. Chúng tôi tiếp tục chờ các diễn biến quan trọng tiếp nối”.

      - Ta nên gặp Baynes ngay - Holmes lớn và đội mũ ra .

      Chúng tôi tới nơi đúng lúc Baynes rời khách sạn.

      - Holmes! Ông có đọc báo chứ? - Baynes hỏi và đưa ra tờ.

      - Có chứ! Cho phép tôi lưu ý ông.

      - Lưu ý tôi? Tôi nghiên cứu việc khá kỹ.

      - Tôi tin rằng ông đúng hướng. Tôi mong rằng ông đừng lao vào quá sâu.

      - Cám ơn ông.

      - Tôi vì lợi ích của ông.

      Tôi có cảm giác khuôn mặt lạnh lùng của Baynes lay động .

      - Chúng ta giao ước với nhau rằng mỗi bên hướng và tôi thực giao ước này.

      - Ồ đúng thế - Holmes thốt lên - Xin ông đừng giận.

      - ! Tôi tin chắc rằng ông chỉ muốn giúp tôi thôi. Nhưng tất cả chúng ta đều có phương pháp riêng. Ông Holmes, chúng ta nên bỏ qua chuyện này. Lúc nào tôi cũng sẵn sàng trao đổi thông tin với ông. Thằng lai Phi châu thiệt là dã man, nó mạnh như trâu. Nó cắn gần đứt ngón tay cái của đàn em tôi. Nó ục ục như heo chứ có biết tiếng đâu!

      - Và ông tin rằng ông nắm bằng chứng nó giết chủ nó?

      - Tôi bao giờ thế cả. Tôi thử các phương pháp của tôi.

      Khi từ giã Baynes, Holmes nhún vai:

      - thể chuyện với Baynes được! Tôi có cảm giác rằng ta trượt ngã mà thôi.

      Tuy nhiên có cái gì đó còn bí trong thanh tra Baynes.

      Khi quay về khách sạn Bò Mộng, Holmes mời tôi ngồi vào ghế bành.

      - Tôi sắp sửa cho biết tình hình, có lẽ đêm nay tôi cần tiếp tay của .

      Chúng ta hãy quay trở lại bức thư mà Garcia nhận được đêm hôm ấy. Hãy gạt bỏ cái ý tưởng của Baynes cho rằng tôi tớ của Garcia dính líu vào nội vụ. Bằng chứng ư? Chính Garcia dự mưu dựa vào diện của Eccles. Garcia thiết lập kế hoạch và đấy là kế hoạch tội ác. Tôi tội ác vì chỉ có người dự định tội ác mới tìm cách chạy tội. Nhưng ai giết y? Chắc chắn là đối thủ của kế hoạch.

      Về việc bọn tôi tớ, chúng ta có thể giải thích rằng chúng nó đều là đồng phạm. Nếu thành công trong tội ác Garcia quay trở lại biệt thự Wisteria; làm chứng của Eccles giúp y khỏi bị nghi ngờ và tất cả trót lọt êm xuôi. Nếu Garcia về vào giờ G, điều đó có nghĩa là y thất bại và mất mạng rồi. Do đó, theo giao ước trước, hai đệ tử trốn tại nơi dự định để thoát khỏi tầm nã của cảnh sát. Giả thiết này giải thích trọn vẹn các dữ kiện chứ gì?

      - Nhưng tại sao trong hai thằng đó lại trở lại?

      - Ta có thể giả thiết rằng, chúng nó bỏ quên cái gì đó quý giá hoặc thằng lai muốn tìm vật riêng của nó. Hành động đó giải thích cứng đầu của nó.

      - Rồi sao nữa?

      - Rồi đến bức thư! Bức thư chứng tỏ rằng đầu kia của sợi dây còn có tòng phạm khác. Đầu kia là ở đâu? Chắc chắn nó nằm trong ngôi nhà lớn ở vùng này. Số nhà lớn tại vùng này phải là vô hạn. Những ngày đầu tiên tới đây, tôi dạo và nghiên cứu thực vật học. Thời gian dư thừa cho phép tôi về phía các ngôi nhà lớn kia thăm hỏi. Chỉ có ngôi nhà lôi cuốn chú ý của tôi. Đó là lâu đài High Gable nổi tiếng xây dựng từ thời vua James I[2] ở cách Oxshott khoảng 1dặm và cách trường nửa dặm. Các ngôi nhà khác là của những người bình thường. Còn đối với Henderson (chủ lâu đài High Gable) mọi người cho là nhân vật lạ thường.

      Tôi xoay xở để gặp chủ nhà với cái cớ khá vững, nhưng qua được đôi mắt của ông ta. Đó là người khoảng 50 tuổi, mạnh khoẻ, linh hoạt, tóc màu xám thép, lông mày đen cứng, bệ vệ như ông vua. con người dữ tợn, che giấu đằng sau khuôn mặt nhăn nheo ý chí sắt đá. Hoặc ông là người nước ngoài, hoặc ông sống nhiều tại miền nhiệt đới vì nước da vàng vọt và khô đét, nhưng rắn chắc. người bạn thân kiêm thư ký của ông, là ông Lucas chắc chắn là người nước ngoài, da nâu, quỷ quyệt, nhưng năng ngọt xớt. Tóm lại, chúng ta có tới hai băng người nước ngoài, ở biệt thự Wisteria, ở lâu đài High Gable.

      Hai người đàn ông sống trong lâu đài High Gable luôn chia ngọt xẻ bùi với nhau. Tuy nhiên, còn có người khác còn quan trọng hơn nữa.

      Henderson có hai , 13 và 11 tuổi. Vú già là Burnet, người đàn bà , khoảng 40 tuổi. Ngoài ra còn có thêm số tôi tớ tin cẩn. Cái nhóm này tạo thành gia đình thực bởi vì hễ di chuyển là toàn bộ đều . Henderson đây đó nhiều nơi, ông ta mới High Gable cách đây vài tuần, sau năm vắng mặt. Ông ta giàu nứt đố đổ vách. Còn về tùy tùng, gia nô, bồi bếp đông vô kể.

      Tôi biết được các điều qua các cuộc chuyện với dân làng và may nhất qua tin tức của người đầy tớ bị đuổi việc. Chính cái phương pháp riêng của tôi giúp tôi gặp may tìm ra ông John Warner, người làm vườn của lâu đài High Gable. Ông này có những thâm giao trong đám tôi tớ.

      đám người dị thường Watson ạ! Lâu đài có hai cánh: nhóm gia nhân và nhóm gia đình. Người liên lạc giữa hai cánh là đệ tử ruột của Henderson. Henderson bao giờ ra khỏi nhà mình. Người thư ký theo chân ông ta như bóng với hình. Đám gia nhân xì xầm rằng ông chủ họ rất sợ cái gì đó. “Chắc chắn y bán linh hồn cho quỷ dữ để lấy tiền” Warner . “Do đó, ông ta chờ đợi ông quỷ chủ để đòi hồn. Nguyên quán, tên tuổi của ai biết. rất hung bạo. hai lần Henderson đánh đập tàn nhẫn gia nhân, nhưng chính nhờ bỏ nhiều tiền đền bù nên khỏi bị truy tố.

      Giờ đây, chúng ta hãy nhận định tình hình theo các tin tức mới này. Chúng ta có thể giả thiết rằng bức thư phát xuất từ ngôi nhà lạ thường này. Ai viết? người đàn bà trong lâu đài. Còn ai nữa, nếu phải là vú già, Burnet? Tất cả tin tức của chúng ta đều hội tụ về hướng này. Dù sao đây cũng chỉ là giả thiết và xét các hậu quả đương nhiên của nó. Tuổi tác và tính khí của Burnet phá tan ý tưởng cho rằng có mối tình trong vụ án này.

      là người viết bức thư nên có thể là bạn thân và là đồng lõa của Garcia. làm gì khi hay tin Garcia chết?

      Nếu Garcia là nạn nhân của phản bội, đương nhiên ta im bặt. Nhưng có nghĩa là căm thù bọn sát nhân và do đó, tận tình tiếp sức với những ai chịu ra tay phục thù giùm. Vậy ta hãy tìm cách gặp ta? Nhưng biết còn sống ? Kể từ đêm xảy ra án mạng, chết hay chỉ bị giam giữ? Đấy là cái điểm mà chúng ta cần làm sáng tỏ.

      Watson, thấy được mức độ khó khăn của tình hình rồi chứ. Lấy gì làm cơ sở để xin trát bắt giam? Nếu chúng ta ra những suy diễn này cho thẩm phán ông ta cười ngất. Trong lâu đài quái dị này, ai cũng có thể vắng mặt trong tuần, vậy vắng mặt của người vú có gì phải bận tâm. Nhưng ràng giờ này, tính mạng ấy có thể lâm nguy. Tôi chỉ có thể canh chừng tòa nhà và đặt Wa gác ngoài cổng sắt. Tình huống này thể kéo dài được. Nếu luật pháp bó tay chúng ta phải liều.

      - định làm gì?

      - Tôi biết phòng ấy. Ta có thể qua mái ngói của nhà phụ mà vào phòng. Tối nay hai em mình cùng bí mật leo vào.

      Trong khi Holmes lý luận, có cái gì đó cho phép tôi từ chối. Tôi siết chặt tay . Nhưng định mạng muốn chúng tôi liều lĩnh như thế. Khoảng 5 giờ, bóng đêm bắt đầu lan rộng, người cục mịch thở hổn hển bước vào căn hộ của chúng tôi.

      - Họ ra . Chuyến xe lửa chót. ấy trốn thoát và được tôi đưa đến đây bằng xe ngựa. ấy đứng dưới nhà.

      - Hoan hô, ông Warner! - Holmes la lớn và hết sức vui mừng - Watson, các lỗ trống tự động lấp lại là nhanh!

      Trong xe ngựa có người đàn bà gần như thiếp . Khuôn mặt hốc hác, còn mang dấu vết của thảm kịch vừa xảy ra. Đầu gục xuống ngực, nhưng khi ngẩng lên và quay về hướng chúng tôi, tôi thấy đôi mắt lờ đờ, mất thần: ấy bị gây mê bằng thuốc phiện.

      - Tôi đứng gác ngoài cổng. Khi xe ngựa ra, tôi theo cho tới nhà ga. ấy giống người mộng du. Khi họ muốn đưa lên xe lửa tỉnh lại và kháng cự. Tôi cướp , và đưa tới đây. Tôi chưa quên cái đầu của người nọ đứng ở cửa toa. Con quỷ da vàng đó - Warner .

      Chúng tôi đặt ấy nằm tràng kỷ. Hai tách cà phê đậm giải được thuốc mê. Thanh tra Baynes được mời tới.

      - Hay quá! Ông cung cấp cho tôi chính người chứng mà tôi cần! - Viên thanh tra vừa vừa siết mạnh tay Holmes - Ngay t ừ đầu, tôi cùng hướng với ông.

      - Ủa, ông cũng theo dõi Henderson à?

      - Nghe đây, ông bạn! Trong lúc ông len lỏi trong các rừng thưa quanh lâu đài High Gable, tôi ngồi ngất nghểu cây cao, quan sát ông.

      - Thế tại sao ông lại bắt thằng lai đen?

      Baynes phì cười:

      - Tôi bắt thằng lai đen là để cho y tưởng rằng chúng ta để ý đến nữa. Tôi biết rằng chuồn và như thế chúng ta có cơ may gặp Burnet.

      Holmes để tay vai viên thanh tra:

      - Ông vươn cao trong nghề nghiệp! Ông có bản năng và trực giác.

      Baynes khoái chí đỏ mặt:

      - Tôi đặt nhân viên mặc thường phục đứng canh tại nhà ga từ đầu tuần. Bất cứ người nào trong lâu đài đâu, ấy đều bỏ qua. Tuy nhiên, ấy quýnh quáng khi Burnet đào thoát. Chúng ta thể bắt con mồi, nếu có được lời chứng của ấy.

      - ta tỉnh dần - Holmes vừa vừa nhìn người phụ nữ - Nhưng ông à, Henderson là ai vậy?

      - Henderson là Don Murillo, trước kia có biệt danh là “Con cọp vùng San Pedro” - viên thanh tra đáp.

      - “Con cọp vùng San Pedro”! Tôi nhớ mồm lịch sử của con người này. Y có biệt danh này vì trước đây y là nhà độc tài khát máu. Sức mạnh uy quyền đầy trong tay, nhưng rất tán tận lương tâm, y tròng cái ách thống khổ lên dân tộc. Tên của y gieo rắc kinh hoàng trong toàn vùng châu Mỹ. Cuối cùng, cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ lên để lật đổ y. Nhưng bọn chúng rất xảo quyệt. Y, hai con , viên thư ký đưa báu vật xuống thuyền vũ trang và trốn thoát. Kể từ đấy, y biệt tích và báo giới châu Âu nhiều lần thắc mắc, biết y núp nơi nào.

      - Đúng thế! Don Murillo là con cọp vùng San Pedro. Chắc còn nhớ rằng cờ của San Pedro gồm màu lục và màu trắng! Các màu sắc trong bức thư, Holmes ạ!

      Y đổi tên là Henderson, nhưng qua được mắt tôi. Tôi theo dõi dấu vết của y khi thuyền y cập vào Barkercelona năm 1886, sau khi ghé qua Madrid, Rome và Paris. Từ lâu, các nạn nhân truy tầm y để phục thù nhưng y chỉ bị phát gần đây thôi.

      - Cách đây năm - Burnet nãy giờ theo dõi câu chuyện, ngồi dậy xen vào - Có lần y bị mưu sát, và hình như y được con quỷ sứ che chở nên thoát nạn. Nhưng mưu này thất bại với người hùng phải hy sinh lại có mưu khác tiếp diễn cho tới khi nào tên khát máu đó đền tội mới thôi. Chắc chắn ngày mai mặt trời phải mọc.

      Hai bàn tay của nắm chặt lại và khuôn mặt hốc hác của trắng bệch dưới cơn bão của hận thù.

      - Nhưng vì sao lại có người đàn bà trong vụ này, Burnet - Holmes hỏi.

      - Tôi phải dấn thân, bởi vì đó là phương cách duy nhất để công lý được thực thi. Guồng máy tư pháp của nước đâu có để ý đến các suối máu cuồn cuộn chảy tại San Pedro hoặc đến chiếc thuyền đầy ngọc ngà châu báu mà tên cướp đó vơ vét? Dưới mắt các ông, đó là những tội ác xảy ra ở hành tinh khác. Còn chúng tôi, chúng tôi tận mắt mục kích các tội ác đó! Chúng tôi biết nỗi khổ của đau của dân tộc. Đối với chúng tôi, ở địa ngục cũng có con quỷ nào tàn ác hơn Don Murillo.

      - Quả có như thế - Holmes đáp - Tôi có nghe về các hành động của y. Nhưng bản thân nếm mùi bạo tàn bằng cách nào?

      - Thằng ăn cướp đó có chính sách ám sát. Bất cứ ai có tài hoặc có thể trở thành địch thủ của y đều nằm trong danh sách bị thủ tiêu. Tôi là bà Durando[3]! Chồng tôi làm sứ thần của San Pedro tại London. Chúng tôi quen nhau tại London. Chồng tôi có tâm hồn cao đẹp. Khốn thay, Murillo ghen ghét cao cả ấy, nó triệu hồi ấy về và giết chết ấy. Tài sản của ấy bị tịch biên. Tôi trở thành góa bụa, lòng tan nát, sống lây lất trong cơ cực.

      Cuối cùng, y bị lật đổ, và phải lẩn trốn như các ông biết. Tất cả những kẻ bị y tàn phá cuộc đời hoặc có bà con bị chính y áp bức, đều quyết tâm bắt y đền nợ máu. Khi phát giác rằng muốn trốn dưới tên Henderson, tôi lãnh công tác phục dịch y rồi thông báo cho các đồng chí mọi xê dịch của y. Đó là nguyên nhân tôi làm bà vú già tại nhà y. Y bao giờ ngờ rằng người đàn bà ngồi trước mặt y vào mỗi bữa cơm chính là người đàn bà có chồng bị y giết chết. Tôi tươi cười với y, tôi chuyên cần lo cho con y để chờ giờ hành động. mưu toan xảy ra tại Paris, nhưng thất bại. phải đưa cả gia đình khắp châu Âu, lộ trình ngoằn ngoèo để đánh lạc hướng những kẻ săn đuổi và cuối cùng trở về lâu đài này.

      Nhưng tại đây cũng thế, những người “thế thiên hành đạo” chờ đợi y. Biết rằng sớm muộn gì Murillo cũng quay lại High Gable, cho nên Garcia (con trai của viên chức cao cấp cũ của San Pedro) dọn nhà đến ở gần, với hai đồng chí trung kiên gốc gác khiêm nhường, nhưng cả ba đều cùng khát khao phục hận. Ba người dũng cảm này thể làm gì được giữa ban ngày, bởi vì Murillo luôn luôn thận trọng tối đa. bao giờ ra ngoài mà tháp tùng của thằng Lucas (tên là Lopez). Về đêm, y ngủ mình, y luôn luôn lo âu nên luôn luôn thay phòng ngủ. Tôi phải canh chừng sao để mở các cửa lớn và cho tín hiệu bằng ánh sáng hoặc lục lạc trắng tại cửa sổ để báo động hay chỉ dẫn cuộc đột kích. Đêm ấy, được giao ước trước, tôi gửi mật thư cho Garcia.

      - Nhưng kế hoạch bị trục trặc. Lopez ngờ vực tôi. Y bắt tôi ngay khi tôi hoàn tất bức mật thư. Y cùng với chủ y lôi kéo tôi vào phòng. Họ muốn giết tôi nhưng lờ mờ thấy khó né tránh hậu quả của tội ác. Sau khi thảo luận khá lâu, họ kết luận rằng giết tôi quá nguy hiểm. Nhưng đối với Garcia, họ quyết định thanh toán dứt khoát. Tôi bị nhét giẻ vào miệng và bị bẻ quẹo tay cho tới khi tôi phải khai ra địa chỉ của Garcia. Tôi thề nếu tôi biết trước rằng lời khai của tôi là án tử hình tôi khai. Lopez chép địa chỉ, đóng khằn bằng cái nút măng sét rồi sai người đem thư . Chúng giết Garcia như thế nào, tôi biết. Tôi chỉ biết ấy chết do tay của Murillo, bởi vì Lopez vẫn ở cạnh tôi để canh phòng. Tôi cho là y phục kích trong các bụi rậm hai bên đường. Lúc đầu, y có dự định để Garcia vào lâu đài rồi mới giết như giết tên ăn trộm bị bắt quả tang. Nhưng họ suy nghĩ rằng hễ kẹt vào cuộc điều tra tư pháp hình tích của họ bị lộ, rất nguy hiểm. Theo họ, cái chết của Garcia làm cho những kẻ mưu chùn bước.

      Mọi chuyện có lẽ êm đẹp nếu tôi hay biết những chuyện chúng làm. Tôi biết chắn chắn rằng cuộc đời tôi chỉ là chỉ mành treo chuông. Chúng nhốt tôi trong phòng. Chúng thốt ra những lời đe dọa khủng khiếp nhất và dành cho tôi những đối xử tệ hại nhất, bằng chứng là vết thương vai và vết bầm hai cánh tay tôi. Có lần, tôi thử kêu cứu qua cửa sổ tôi bị nhét giẻ vào miệng. Suốt 5 ngày, tôi bị bỏ đói. Hôm nay, họ cho tôi ăn cơm nhưng vừa mới nuốt chút tôi hiểu ngay rằng tôi bị đánh thuốc mê. Trong cơn mê, tôi cảm thấy như có lúc được dẫn , có lúc ngồi trong xe, sau rốt, tôi được đẩy lên xe lửa. Khi tàu lăn bánh, tôi hơi tỉnh lại nên nhảy d ựng lên. Chúng nó ấn tôi xuống, và nếu nhờ người đàn ông dũng cảm này tôi bao giờ tẩu thoát được.

      Chúng tôi ngồi im lặng nghe câu chuyện thương tâm này. Chợt Holmes lên tiếng:

      - Con đường chông gai của chúng ta còn dài lắm. Công tác cảnh sát chấm dứt. Công tác pháp lý bắt đầu.

      - Đúng thế - Tôi tán đồng - luật sư giỏi biến biến tội sát nhân thành hành động tự vệ chính đáng. Cho dù tiền tích của nghi can là cả trăm án sát nhân, nhưng chỉ có thể xử độc nhất cái án này.

      Thanh tra Baynes phát biểu cách hồ hởi:

      - Tất cả chúng ta hoan hô khi chúng ta truy tố bọn chủ lâu đài High Gable ra trước tòa đại hình.

      Tuy nhiên, con cọp vùng San Pedro cùng bọn đồng hành qua mặt viên cảnh sát theo đuổi bằng cách chui vào căn nhà có cửa sau. Kể từ đấy, họ biệt tăm tại . Sáu tháng sau, báo chí đăng tên hầu tước Montalva và viên thư ký Rulli bị ám sát tại khách sạn Escurial ở Madrid. Tội ác được gán ghép cho phái Hư vô chủ nghĩa và bọn hung thủ bao giờ bị bắt. Thanh tra Baynes đến thăm chúng tôi tại đường Baker, mô tả khuôn mặt sô--la của viên thư ký và những nét kẻ cả với đôi mắt đen và bộ lông mày đen cứng của người chủ. Lúc đó, chúng tôi còn nghi ngờ nữa, công lý thưởng phạt nghiêm minh.

      - Watson, đây là vụ án hỗn độn. khó mà trình bày cách mạch lạc đúng theo thói quen cố hữu của . Địa bàn nội vụ nằm hai lục địa, nội dung là kình địch giữa hai nhóm người bí hiểm, kết cấu được tăng phần rối rắm do diện của ông bạn Eccles của chúng ta. Chính lôi cuốn Eccles vào mới làm nổi bật cái óc sáng tạo và cái biệt tài chuyện của Garcia. Còn có chi tiết nào làm bận trí ?

      - Tại sao chàng trai lai da đen quay về biệt thự Wisteria?

      - Để tìm cái vật kỳ lạ trong nhà bếp. Đó là thổ dân trong rừng San Pedro. Khi chạy trốn, chàng trai ấy thể nào rời xa linh vật của mình nên hôm sau, ta quay về và bị bắt. Còn thắc mắc nào , Watson?

      - Còn con chim bị chặt khúc, cái xô máu, mớ xương bị thiêu rụi và toàn bộ màn huyền bí trong cái nhà bếp dị kỳ?

      Holmes mỉm cười rồi kiếm trong sổ tay:

      - Tôi dành buổi sáng để tới Viện bảo tàng quốc tham khảo tài liệu. Sau đây là đoạn văn trích dẫn lấy từ Eckermann: “Bất cứ làm điều gì hệ trọng họ đều cúng kiến để xin quỷ thần phù hộ. Có khi còn giết người để tế rồi sau đó ăn cỗ thịt người. Vật hy sinh thường là con gà trống trắng bị chặt lúc còn sống hoặc con dê đen bị cắt cổ và thiêu xác”. Người bạn da đen của chúng ta theo đạo ma, có tín ngưỡng kỳ cục, phải Watson? - Holmes bổ sung rồi từ từ xếp cuốn sổ lại.
      Hết
      ---

      [1] Nguyên văn: mile, khoảng 1600 m

      [2] James the First (1566-1625): Vua , trị vì từ 1603-1625 (Nguyên văn: Jacobean)

      [3] Nguyên văn: Signora Victor Durando (phu nhân Victor Durando - tiếng Tây Ban Nha)

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :