Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      5. xe đạp

      Chúng tôi làm quen với Violet Smith vào ngày thứ Bảy, ngày 23-4-1895. Chuyến tới thăm của làm cho Holmes phật ý, bởi vì vào lúc đó bị ngập trong một vấn đề rắc rối của vụ John Vincent Harden, nhà triệu phú thuốc lá nổi tiếng. luôn muốn tập trung giải quyết vụ án, bị xao lãng bởi những việc khác. Nhưng cho biết chỉ có vũ lực mới có thể đuổi ra khỏi căn hộ chúng tôi, trước khi ra tất cả. Holmes đành mời ta ngồi xuồng.

      - tới đây phải vì vấn đề thuộc về sức khỏe. Một người xe đạp như hẳn phải có thừa sức mạnh.

      Ngạc nhiên, kiểm tra lại thân mình từ đầu đến chân.

      - Tôi thấy chỗ sần sùi ở một gót chân, gây ra bởi chà sát với bàn đạp.

      - Vâng, tôi xe đạp nhiều, và điều này có liên quan tới việc đưa tôi

      Bạn tôi nắm lấy bàn tay tháo bao tay của và quan sát nó với vẻ chăm chú.

      - tha lỗi cho. Nhưng đó là điều thuộc phạm vi công việc của tôi - , buông bàn tay ra - Suýt nữa tôi lầm với một thư ký. đánh máy, là nhạc sĩ. thấy chứ, Watson, đầu ngón tay giống như cái bay? Đó là một nét chung cho tất cả mọi nghề. Nhưng lại có tính tinh thần - thêm khi dịu dàng nâng bàn tay về phía có ánh sáng - Tiểu thư đây là một nhạc sĩ.

      - Vâng, thưa ông Holmes. Tôi là giáo dạy nhạc...

      - …Ở nông thôn, xét theo nước da mặt .

      - Vâng, ở gần Farnham, hạt Surrey.

      - Một vùng tuyệt đẹp và lý thú. còn nhớ chứ, Watson? Nhưng, thưa Violet, chuyện gì xảy ra?

      - Cha tôi mất. Tên ông là James Smith, nhạc trưởng của nhà hát Imperial ̉ xưa. Mẹ tôi và tôi có một bà con thân thuộc nào còn sống, ngoại trừ chú tôi, ông Ralph Smith, là người bỏ sang châu Phi 25 năm trước và từ đó bặt tin. Khì cha tôi mất, chúng tôi rất nghèo khó. Nhưng một bữa, người ta báo cho chúng tôi biết là có một lời nhắn tin, đăng tờ Times, tìm địa chỉ của chúng tôi. Chúng tôi vội vã đến ngay văn phòng luật sư được đăng trong lời nhắn tin. Ở đó, chúng tôi gặp lại ông Carruthers và ông Woodley là hai người vừa từ Nam Phi trở về. Họ bảo rằng chú tôi là bạn họ, ông chết vài tháng trước đó trong cảnh nghèo khó và trước phút lâm chung, ông có cầu họ tìm kiếm những người bà con, xem họ có túng bấn . Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên là ông chú đó, trong lúc còn sống, chẳng bao giờ quan tâm tới chúng tôi nay sao lại ân cần đến thế, ông Carruthers giải thích rằng chú tôi chỉ mới hay tin về cái chết của ông và rằng chú ấy cảm thấy có bổn phận đối với mẹ con tôi.

      - Xin lỗi - Holmes ngắt lời - Cuộc chuyện đó xảy ra từ bao giờ?

      - Từ tháng 12 năm ngoái. Cách nay 4 tháng.

      - Xin vui lòng kể tiế

      - Ông Woodley cho chúng tôi cái cảm tưởng về một nhân vật xấu. Ông ta luôn luôn nháy mắt với tôi... Đó là một người trẻ tuổi, bộ mặt phì nộn có một hàng ria màu đỏ, mái tóc ép sát, chải một đường ngôi ngay chính giữa. Tôi dám Cyril chẳng ưa gì khi thấy tôi gặp ông ta.
      - Ờ, thế ra ý trung nhân của tên là Cyril - Holmes cười, .

      Thiếu nữ đỏ mặt, rồi bắt đầu cười.

      - Vâng, Cyril Morton, kỹ sư điện. Chúng tôi làm lễ thành hôn vào cuối mùa hè. Ông Woodley là một người gây ác cảm một cách thảm hại, nhưng ông Carruthers dễ ưa hơn. Ông ta lớn tuổi hơn, tóc nâu, để râu và rất kín đáo. Ông ta có những thái độ lịch và một nụ cười dễ thương. Ông ta hỏi về cuộc sống của chúng tôi, mời tôi dạy nhạc cho con của ông. Tôi trả lời là tôi muốn xa mẹ tôi.

      Ông rằng tôi có thể trở về nhà vào cuối tuần. Ông đề nghị thù lao hàng năm là một trăm đồng bảng. Tôi đồng ý và tới nhà ông ta, ở Chiltern Grange, cách Farnham chừng 6 dặm.Ông Carruthers góa vợ, nhưng có một bà quản gia luống tuổi là bà Dixon, coi sóc công việc trong nhà. Con ông thật duyên dáng. ông rất nhạc. Mỗi cuối tuần, tôi đều về thăm mẹ. Nhưng rồi gã Woodley ria đỏ tới sống với ông trong một tuần. Tuần đó đối với tôi dài như ba tháng. tán tỉnh tôi, khoe khoang của cải, bảo rằng nếu tôi ưng lấy , tôi có những viên kim cương đẹp nhất London. Sau cùng, khi nghe trả lời rằng tôi muốn có quan hệ gì với ôm chặt lấy tôi, thề buông ra chừng nào tôi chưa hôn . Lúc đó, ông chủ tôi vào phòng và giật tôi ra khỏi vòng tay con quỷ đó. Gã lưu manh quay lại xô chủ nhà ngã xuống và đánh ông bị thương. Ngày hôm sau, ông Carruthers tới ngỏ lời xin lỗi tôi và hứa rằng bao giờ để xảy ra chuyện tương tự như vậy. Kể từ đó, tôi còn gặp lại con quỷ ấy nữa.

      Thưa ông Holmes, tuần nào cũng vậy, trưa thứ Bảy tôi đạp xe về tới nhà ga Farnham để đáp chuyến tàu 12 giờ 22 London. Từ Chiltern Grange đến Farnham có đoạn đường khoảng 1 dặm là trảng cỏ, nằm giữa cánh rừng vây bọc lâu đài Charlington. thể nào tìm thấy ở bất cứ nơi đâu một khúc đường hoang vu hơn nơi này. có một ai ở xung quanh đó cho đến đoạn đồi Crooksbury. Hai tuần trước, khi qua đó, lúc tình cờ quay đầu lại, tôi thấy xe đạp ở cách sau tôi chừng 200 yard. Đó là một người đàn ông trung niên và có râu ngắn. Tôi quay nhìn trở lại trước khi tới Farnham, nhưng người đó biến mất. Khi làm vào ngày thứ Hai, tôi lại thấy người xe đạp đó cùng đoạn đường ấy. Tuần vừa qua, tôi còn ngạc nhiên hơn nữa vì tôi lại thấy người đó vào trưa thứ Bảy và sáng thứ Hai. Chắc chắn là ông ta luôn luôn đạp sau tôi một khoảng cách nào đó. Thật là kỳ lạ! Tôi kể chuyện cho ông Carruthers nghe, ông tỏ ra quan tâm và sau đó bảo tôi rằng ông đặt mua một con ngựa và một ̃ xe độc mã , để sau đó, tôi còn những con đường hoang vắng mà có người theo.

      Lẽ ra con ngựa và ̃ xe phải có trong tuần này rồi nhưng lý do gì mà hàng lại chưa được giao và tôi vẫn phải đạp xe tới nhà ga. Sáng hôm nay, khi tới ngang đoạn có cái khoảng trống, người xe đạp có mặt! Ông ta đứng cách tôi một khoảng khá xa, khiến tôi thể nào phân biệt được nét mặt ông ta. Nhưng tôi tin chắc đó là một người mà tôi chưa từng quen biết. Ông ta mặc đồ đen, đội mũ cát bằng da. Cái tôi trông thấy duy nhất là bộ râu đen của ông ta. Ngày hôm nay tôi sợ hãi và bị óc tò mò thôi thúc. Tôi đạp chậm, ông ta cũng đạp chậm. Tôi ngừng lại, ông ta cũng ngừng lại. Tới một khúc quanh đường thình lình tôi đạp hết tốc lực, rồi ngay khi vừa qua khúc đường cong, tôi phanh gấp, xuống xe và chờ đợi. Nhưng ông ta xuất hiện. Tôi quay trở lại và nhìn sang phía bên kia khúc quanh. Trải ra trước mắt tôi, 1 dặm đường, nhưng chẳng thấy ông ta đâu. Điều kỳ lạ hơn hết, chính là có con đường phụ nào để ông ta trốn vào đó...

      Holmes cười rúc rích và xoa hai bàn tay vào nhau.

      - Thú vị thật! Từ lúc tới khúc quanh và lúc đứng nhìn con đường hoang vắng chừng mấy phút?

      - Hai hoặc ba phút.

      - Vậy người đó thể bỏ trốn đường mà lại bị trông thấy. tin chắc rằng có con đường phụ nào, có chỗ rẽ nào?

      - Chắc chắn như vậy.

      - Vậy người đó theo một lối mòn ở bên phải hoặc bên trái con đường.

      - Chắc chắn ên phía trảng cỏ, tôi ắt hẳn phải trông thấy ông ta.

      - Vậy theo phép loại suy, chúng ta tới kết luận là ông ta về hướng lâu đài Charlington nằm bên trong một thửa đất biệt lập ở phía bên kia con đường. có gì khác nữa chứ?

      - .

      Holmes giữ im lặng trong chốc lát.

      - Vị hôn phu của ở đâu?

      - ấy làm việc tại Midland Electrical Company ở Coventry.

      - Ngẫu nhiên, có lần nào ấy tới thăm bất ngờ ?

      - Ồ, nếu có, tôi phải nhận ra ấy chứ!

      - Trước đó có nhiều người “để ý” tới ?

      - Trước khi tôi quen với Cyril, có?

      - Và từ đó đến nay?

      - Chỉ có cái con người thô bỉ nọ.

      - ai khác nữa sao?

      lúng túng.

      - Ai? - Holmes hỏi.

      - Ồ, có thể là tôi hình dung ra những điều... có thật. Dường như là... ông chủ tôi. Ông ấy quan tâm nhiều tới tôi. Buổi tối, tôi chơi đàn và tôi đệm cho ông ấy. Ông ấy bao giờ thổ lộ điều gì. Nhưng đàn bà luôn đoán thấy...

      - A! - Holmes với một vẻ mặt nghiêm trọng - Ông ta làm gì để mưu sinh?

      - Ông ấy rất giàu có.

      - xe ngựa ma

      - Ít ra ông ta cũng sung túc. Mỗi tuần, ông ấy London hai hoặc ba lần, ông quan tâm nhiều tới những ̉ phần mỏ vàng ở Nam Phi.

      - cứ cho tôi biết tất cả những yếu tố mới trong việc của . Lúc này, tôi rất bận, nhưng tôi vẫn ́ gắng giúp . Trong khi chờ đợi, muốn làm điều gì, cần báo cho tôi biết trước. Xin chào, thưa .

      Khi ta rồi, Holmes bập từng hơi dài cái tẩu thuốc suy tư của mình.

      - Một xinh đẹp như vậy tất phải có nhiều người theo đuổi. Nhưng tại sao người ấy chỉ theo đuổi một đoạn đường hoang vắng. Đây hẳn là một mối tình thầm lặng.

      - Điều kỳ lạ chính ở chỗ người theo đuổi lại chỉ xuất hiện một đoạn đường duy nhất.

      - Chính thế. Chúng ta phải tìm hiểu xem ai ở trong tòa nhà Charlington, quyền lợi nào để kết hợp Carruthers với Woodley, bởi vì hai người đó khác nhau như hai thái cực. Cũng cần khám phá xem vì sao họ tỏ ra quá chăm chú đến . Và còn điều này nữa, làm sao người ta dám trả cho một giáo dạy nhạc gấp đôi số thù lao bình thường, mà người đó lại có xe, cũng có ngựa, trong lúc nhà cách nhà ga tới 6 dặm! Kỳ cục. Rất kỳ cục!

      - tới đó chăng?

      - phải tôi, mà là . Rất có thể đây chỉ là một mối tình đầu thầm vụng, chẳng có tầm lợi ích nào, mà tôi dở dang công việc. Thứ Hai, tới Farnham rất sớm, nấp gần bên cái trảng, đích thân quan sát và hành động theo ý . Sau khi thu lượm tin tức về những người ở tòa nhà Charlington, trở về cho tôi biết.

      Sáng thứ Hai trở về bằng chuyến tàu rời Waterloo vào lúc 9 giờ 50. Vậy là tôi đáp chuyến tàu 9 giờ 13. Xuống ga Farnham, tôi tới trảng cỏ, con đường ngoằn ngoèo cái trảng rất quang đãng và một hàng rào những cây thông vây quanh một công viên tuyệt đẹp. Có một lối vào chính bằng đá, hai cây ̣t được đặt những biểu tượng huy hiệu xơ xác. Ngoài cái ̉ng cho xe ra vào này, tôi quan sát thấy nhiều chỗ trống giữa hàng rào từ đó mở ra nhiều lối mòn. Từ đường nhìn xuống thấy ngôi nhà, nhưng dãy nhà phụ bị đổ nát.

      Cái trảng phủ đầy những bụi kim tước nở hoa rực rỡ dưới nắng sớm. Tôi đứng sau một bụi cây, từ đó, tôi có thể canh chừng cái ̉ng và một dải đường dài cả hai bên. Con đường hoang vắng. Nhưng một lát sau, tôi thấy một người xe đạp đến từ đường đối nghịch với đường mà tôi tới. Người đó mặc đồ đen, bộ râu đen. Khi ông ta tới đầu khu đất nhà Charlington xuống xe và dắt xe chui qua một lỗ hổng ở hàng rào, tôi còn thấy ông ta nữa.

      Khoản 15 phút sau, một xe đạp khác hiện ra. đến từ hướng nhà ga. Khi tới gần hàng rào, ngó nhìn chung quanh. Một lát sau, người đàn ông ló ra khỏi chỗ ẩn nấp, nhảy lên xe đạp và bám theo . Trong cái phong cảnh mênh mông, chỉ có hai bóng người chuyển động. thiếu nữ ngồi thẳng xe và gã đàn ông đằng sau , còng lưng tay lái xe và mỗi cú nhấn lên bàn đạp có một cái gì lén lút. Thình lình quay ngược lại. giảm bớt tốc độ. Người đàn ông chạy chậm. ngừng lại, ông nọ cũng ngừng lại. Lúc đó quay ngược xe lại và đâm thẳng vào ông ta. Người đàn ông cũng nhanh nhẹn như và bỏ chạy hết tốc lực. Ngay sau đó, lại ngược lên con đường, đầu ngẩng cao, chẳng còn bận tâm tới con người thầm lặng theo dõi . Ông ta cũng quay trở lại, vẫn giữ cùng khoảng cách như trước, và khúc quanh của con đường che khuất hai người... Tôi nán lại trong chỗ ẩn nấp. Lát sau, người đàn ông lại hiện ra, ông đạp chậm chạp, ngang qua cái ̉ng rồi nhảy xuống xe, ở giữa những thân cây, bàn tay như nắn lại cái cà vạt, rồi lại leo lên xe và bỏ qua ngả dẫn đến ngôi nhà. Tôi chạy qua bên đường và núp vào tấm màn cây. Đằng xa tôi nhận ra mơ hồ một ngôi nhà ̉ xưa màu xám tua tủa những ống khói kiểu ̉. Lối vào băng ngang một lùm cây rậm rạp. Người xe đạp mất dạng.

      Tôi ra ga Farnham, lòng thanh thản. Nhà đại diện địa ốc ở địa phương cho tôi biết một tin tức nào về tòa nhà Charlington và ông ta bảo tôi tới một công ty rất nổi tiếng ở Pall Mall. Trước khi trở về nhà, tôi ghé qua công ty đó và được nhân viên đón tiếp một cách lịch . Họ tôi tới muộn mất một chút, tòa nhà Charlington được ông Williamson thuê từ một tháng nay. Nhân viên cáo lỗi khi thể cho tôi biết gì nhiều hơn về những công việc của thân chủ dính dáng gì đến họ.

      Sherlock Holmes chăm chú nghe bản báo cáo, một lời khen ngợi bé nào. T lại bộ mặt càng lúc càng tối sầm lại theo đà câu chuyện kể.

      - Lẽ ra phải nấp đằng sau hàng giậu, như vậy thấy cái nhân vật đáng chú ý đó. Thế nhưng lại đứng cách xa người đó cả trăm yard và cũng chẳng cho tôi biết gì hơn Smith. tưởng người đó xa lạ đối với ... Tôi tin chắc rằng biết người đó. Nếu , tại sao người đó lại ́ ý cho xáp tới gần. Người đó gò mình tay lái là để dấu cái mặt của mình! Watson, xoay xở một cách thật là tồi. Lạ chưa! Người đó vào trong tòa nhà Charlington, rồi vì muốn biết người đó là ai, tới gặp một đại lý địa ốc tại London.

      - Đúng ra tôi phải làm gì? - Tôi kêu lên với vẻ bực bội.

      - Phải tới quán rượu gần nhất. Ở đó người ta ba hoa đủ thứ đời và người ta kể cho biết tất cả những cái tên, từ tên người chủ nhà cho tới tên hầu rửa chén. Williamson! Cái tên ấy chẳng cho tôi biết gì hết. Nếu ông ta có tuổi ông ta chẳng thể chạy nước rút khi một thiếu nữ đuổi theo ông ta. Chuyến của chỉ là xác nhận những lời kể của . Có một mối liên hệ giữa người xe đạp và tòa lâu đài Charlington chăng? Xem nào, xem nào, đừng có tỏ ý giận dỗi như vậy! Từ nay đến thứ Bảy, chúng ta thu nhận được khá hơn, tôi đích thân mở vài cuộc điều tra ...

      Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thư của thuật lại vắn tắt những việc mà tôi chứng kiến. Nhưng tầm lợi ích của tờ giấy lại trong khoản tái bút.

      “Thưa ông Holmes, ông chủ tôi ngỏ lời cầu hôn với tôi và ông ấy tiếp nhận lời từ chối của tôi với đứng đắn và tử tế. Nhưng tình huống hơi căng thẳng”.

      - bé của chúng ta bị lún trong những làn nước sâu. - Holmes bình thản với vẻ ngẫm nghĩ - Vụ này dám triển khai khác hẳn với dự đoán ban đầu của tôi. Tôi tới đó.

      Holmes trở về nhà vào lúc tối khuya với một cái môi bị dập và trán có một cục u. tươi cười:

      - Tôi tìm thấy cái quán ăn đó, và tới ngồi bên quầy rượu, tay chủ quán bép xép cho tất cả những tin tức mà tôi muốn có Williamson là người có bộ râu trắng và ông sống một mình với vài gia nhân trong tòa lâu đài Charlington. Người ta rằng ông ấy từng là hoặc là mục sư. Nhưng kể từ khi ông tới đó, một hai việc xảy ra khiến cho thiên hạ nghi ngờ cái tính chất thầy tu của ông. Tôi có dò hỏi ở một tổ chức tăng lữ được biết có một người mang tên đó được thụ phong, nhưng bị lột áo từ lâu. Ngoài ra, chủ quán còn cho tôi biết, cứ cuối tuần lại có những người khách tới tòa nhà (“những kẻ ham mê, thưa ông”) và đặc biệt một ông có bộ ria màu đỏ, sống luôn ở đó. Chúng tôi tới khúc quanh thú vị của câu chuyện có người tới quầy rượu. Chính “gã ria đỏ”. ta uống bia ở phòng trong và nghe cuộc đối thoại của chúng tôi.

      - là ai? muốn gì? Tại sao lại đặt những câu hỏi đó.

      Gã có một lối thật nhanh, văn vẻ, đầy những tính thật kịch liệt. Gã chấm dứt tràng chửi rủa bằng một cú đánh tạt bằng mu bàn tay mà tôi né kịp. Những phút tiếp theo sau đó là “quyền chính thống” chống lại gã tiều phu đánh đấm loạn xạ. Tôi thoát ra như thấy đó. Còn gã Woodley phải về nhà bằng xe.

      Tối thứ Năm, chúng tôi lại nhận được một lá thư của thân chủ chúng tôi.

      “Thưa ông Holmes, tôi nghỉ dạy đàn nhà ông Carruthers. Những số lương cao bù được cho những phiền muộn. Thứ Bảy này, tôi về London luôn. Sau cùng, ông Carruthers có chiếc xe nhờ thế mà tôi bớt gặp nguy hiểm hồi đường".

      Cái lý do đích thực của bỏ việc là tái xuất hiện của gã Woodley ấy. Ông ta vẫn xấu xa đến gớm ghiếc, nhưng giờ đây ông ta còn khủng khiếp hơn nhiều. Thiên hạ đồn rằng ông ta gặp một tai nạn, mặt mày bị làm biến dạng. Tôi chỉ thoáng thấy ông ta qua thuôn cửa nầy, ở quanh quẩn trong vùng, bởi vì ông ta ngủ ở đây, ấy thế mà sáng nay tôi nhìn thấy ông ta lẻn vào trong lùm cây. Tôi thích hơn nếu như có một con cọp được thả vào trong đó. Tôi hiểu vì sao mà một người như ông Carruthers lại có thể chịu đựng nổi một phút? Tóm lại, mọi nỗi phiền muộn của tôi chấm dứt vào thứ Bảy này.

      - Tôi hy vọng như thế, Watson ạ. - Holmes với vẻ nghiêm trọng - Một rắc rối vờn chung quanh đó, chúng t để cho ai làm hại trong chuyến cuối cùng này. Watson, chúng ta phải có mặt ở đó vào sáng thứ Bảy để có thể ra tay kịp thời.

      Cho tới lúc đó, tôi vẫn coi câu chuyện này là quan trọng. Đây đâu phải là lần đầu tiên mà một người đàn ông bám theo một thiếu nữ, và nếu người đó đủ can đảm để ngỏ lời với , mà cũng chẳng dám xuất hiện trước ta đó phải là kẻ đáng sợ. Tuy nhiên chưa hề dùng bạo lực đối với , thậm chí tới nhà Carruthers mà vẫn lộ mặt ra để làm phiền ta. Người đàn ông xe đạp chắc chắn ở trong thành phần những người say mê “buổi cuối tuần” như lời người chủ quán . Nhưng ông ta là ai? Ông ta muốn gì? Cái bí mật là ở đó. Tuy nhiên, nghiêm túc trong thái độ của Holmes, cũng như việc nhét một khẩu súng vào trong túi trước khi Farnham, khiến cho tôi nghĩ rằng có thể một thảm trạng sắp xảy ra.

      Đêm qua trời có mưa. Buổi sớm mai rực rỡ. Cái trảng dài mút tầm mắt bên một phía đường, rất đẹp, với những bụi kim ngân nở rộ hoa. Holmes và tôi vừa vừa hít sâu những ngụm lớn khí trong lành. một sườn đồi cao, nổi lên giữa đám cây sồi là một tòa nhà. Holmes chỉ tay về con đường đất màu đỏ, chạy ngoằn ngoèo giữa cái trảng màu nâu và cánh rừng màu xanh. Từ xa, một vết đen hiện ra, một ̃ xe chạy về hướng chúng tôi, Holmes thốt ra một tiếng reo sốt ruột:

      - Nếu đó là ̃ xe độc mã , hẳn đáp một chuyến tàu sớm hơn. Watson, tôi e rằng ấy vượt qua cái góc nguy hiểm trước khi chúng ta gặp .

      Trong lúc leo lên triền dốc, chúng tôi còn trông thấy ̃ xe ở mé dưới, nhưng chúng tôi tiến bước rất nhanh. Tôi bị tụt lại đằng sau Holmes. bỏ xa tôi khoảng 100 yard khi chợt đứng sững lại, vung nắm đấm lên trong một cử chỉ đau đớn và tuyệt vọng. Cùng lúc đó hiện ra một ̃ xe độc mã trống rỗng do một con ngựa chạy nước kiệu, với những dây cương kéo lê dưới đất, ra khúc quanh và chạy nhanh về phía chúng tôi.

      - Muộn quá! Muộn mất rồi! - Holmes kêu lên khi hổn hển bước tới bên tôi - Tôi chuyến tàu trước. Đây là một vụ bắt cóc! Một vụ giết người! Chặn đường! Ghìm ngựa lại! Nhảy lên!

      Holmes cho ngựa quay đầu lại, bồi cho nó một cú roi thật mạnh v chúng tôi lao đường. Khi ra khỏi khúc quanh, khoảng giữa tòa nhà và cái trảng dài trước mặt chúng tôi, tôi nắm lấy cánh tay Holmes la lớn.

      - Người đó kìa!

      Một người xe đạp chạy về hướng chúng tôi như một tay đua. Bất chợt ông ngửng bộ mặt nhiều râu lên, và cặp mắt long lanh, nhìn chúng tôi chằm chặp.

      - Hãy dừng lại! - Ông ta kêu lên khi đặt ngang cái xe đạp như muốn chặn đường chúng tôi - Hãy ngừng lại! - Ông ta hét lên khi rút trong túi ra một khẩu súng lục - Hãy ngừng lại! Nếu , tôi bắn chết con ngựa!

      Holmes quăng dây cương cho tôi, nhảy xuống xe, hỏi ngay:

      - Violet Smith đâu?

      - Ông ở trong ̃ xe của ấy ông hẳn phải biết ấy ở đâu. - Người có râu trả lời.

      - Chúng tôi gặp chiếc xe này đường . có ai đó cả. Chúng tôi quay lại để tìm cách giúp ấy.

      - Làm sao bây giờ? - Người lạ kêu lên với vẻ tuyệt vọng. - Chúng bắt ấy, cái tên cướp Woodley và con người đê tiện kia? Lại đây ông bạn, lại đây! Chúng ta cứu ấy.

      Như một con thú bị hoảng hốt, ông ta chạy vùn vụt tới một lỗ hổng trong hàng giậu. Holmes theo sau ông và tôi theo sau Holmes.

      - Chúng qua lối này. - ông , tay chỉ vào dấu của những bàn chân in con đường mòn lầy. Ô, ô! Hãy dừng lại! Ai ở trong bụi cây này?

      Một chàng trai trạc 17 tuổi, ăn vận như một cậu giữ ngựa với quần đùi bằng da và chân ghệt, nằm co gập lại, đầu có một vết chém. Cậu ta bị ngất , nhưng còn sống. Tôi xem xét vết thương, cú chém chưa chạm tới xương.

      - Đây là Peter. Chú ấy đưa ấy ra ga. Những tên cướp này chặn xe lại và đánh cậu ấy. Hãy để cậu ấy ở đây. Vết thương , sao đâu. Cần phải cứu ấy. - râu đen .

      Chúng tôi vội chạy xuống con đường mòn ngoằn ngoèo giữa những thân cây, khi tới lùm cây bao quanh ngôi nhà Holmes ngăn chúng tôi lại.

      - Họ vào nhà. Những dấu chân của họ quay sang hướng trái... Ở đây, bên cạnh những cây nguyệt quế.

      Trong khi , tiếng kêu xé tai của một phụ nữ thoát ra từ một khu rừng trước mặt chúng tôi. Tiếng kêu bị làm cho tắt đột ngột.

      - Qua ngả này. Qua ngả này. Bọn chúng ở trong sân. - Người lạ kêu lên khi xông vào những lùm cây. - Quân chó má! Bọn hèn mạt! Hãy theo tôi. Quý ông! Muộn mất rồi! Mẹ kiếp!

      Chúng tôi đột ngột nhập vào một khoảng rừng trống. Ở đầu đằng kia, dưới bóng một cây sồi già, có ba người tụ lại. Một thiếu nữ tái mét, miệng bị một tấm khăn bịt kín. Trước mặt là một gã côn đồ có hàm ria đỏ, hai chân đứng xoạc cẳng, một tay chống nạnh, tay kia vung vẩy một cái roi ngựa. Đứng giữa hai người là một ông già râu xám, có choàng một cái áo lễ, chắc chắn là vừa làm xong nghi lễ kết hôn, bởi vì khi chúng tôi tới ông ta nhét cuốn kinh Thánh vào trong túi; ông vỗ tay nhiều lần thật mạnh lên lưng chàng rể.

      - Họ được làm lễ cưới - Tôi ấp úng.

      - Lại đây! - Người hướng dẫn chúng tôi kêu lên - Các ông hãy lại đây!

      Ông ta nhào vào trong chỗ rừng thưa, Holmes tôi bám theo sát gót. lảo đảo vào thân cây, tìm một chỗ dựa. Mục sư Williamson cúi chào chúng tôi với thái độ mỉa mai và Woodley tiến lên phía trước, buông ra một tràng cười hớn hở.

      - Đằng ấy có thể gỡ bộ râu ra, Bob. Tớ nhận ra đằng ấy. Đằng ấy và mấy bồ của đằng ấy đến đúng lúc để tớ giới thiệu bà vợ tớ.

      Câu trả lời của người hướng dẫn thật là kỳ lạ. Ông gỡ bộ râu đen ra, ném nó xuống đất, chĩa khẩu súng vào tên cướp trẻ vừa bước lại gần ông vừa vung vẩy cây roi

      - Phải. Ta là Bob Carruthers. Mi thừa biết là ta làm gì nếu mi ngược đãi ấy.

      - Muộn mất rồi, Bob. ấy là vợ tôi.

      - , ấy là vợ góa của mi!

      Ông nổ súng một vết máu hiện ra áo gilet của Woodley. xoay tròn người, thốt ra một tiếng kêu và té bật ngửa xuống, mặt tái xanh. Ông mục sư tuôn ra một tràng chửi rủa thô tục và rút ra một khẩu súng lục, nhưng nòng súng của Holmes nằm gáy ông ta, trước đó một phần trăm giây.

      - Đủ rồi - Holmes , giọng lạnh lùng - Hãy buông súng xuống. Phiền Watson lượm nó lên! Và dí sát đầu lão. Cám ơn ông Carruthers, hãy đưa khẩu súng cho tôi. Coi nào, hãy đưa đây!

      - Ông là ai?

      - Tôi là Sherlock Holmes.

      - Chúa ơi!

      - Tôi đại diện cho cảnh sát tới lúc họ đến đây. Lại gần đây, kia...

      Holmes gọi một người sai vặt ngơ ngác vừa ló đầu ra bên bờ khu rừng thưa.

      - Hãy lại đây. Hãy phi nước đại mà đem tờ giấy này tới Farnham.

      viết nguệch ngoạc vài chữ một tờ giấy xé trong cuốn sổ tay ra.

      - Chú hãy đưa tờ giấy này cho một sĩ quan ở ty cảnh sát, tôi phải giữ quý khách này cho tới khi cảnh sát đến.

      Williamson và Carruthers khiêng Woodley vào trong nhà. Tôi đến đỡ kinh hoàng, rồi đến khám cho tên ria đỏ.

      - Y sống!

      - Thế nào - Carruthers kêu lên, nhảy ra khỏi ghế - Tôi lên gác kết liê mạng sống của nó để thiếu nữ này, vị thiên thần này, khỏi bị ràng buộc suốt đời với tên vô lại.

      - bao giờ ấy là vợ của Woodley. Trước hết Williamson tiến hành một lễ cưới “ hợp lệ”.

      - Tôi được thụ phong – “Mục sư” kêu lên.

      - Nhưng sau đó, ông hoàn tục...

      - Một ngày làm mục sư, trọn đời là mục sư.

      - ai nghĩ như thế. Lại còn giấy phép?

      - Nó hiện ở trong túi tôi.

      - Vậy là ông xoay ra một tờ giấy giả. Dầu sao nữa, một cuộc hôn nhân mà bị cưỡng ép là một cuộc hôn nhân. Đây là một hành vi phản bội rất nghiêm trọng như ông thấy. Ông có thời gian để suy tư về việc đó trong 10 năm, nếu như tôi nhớ đúng. Về phần ông, ông Carruthers, ông nên giữ yên khẩu súng ở trong túi.

      - Tôi bắt đầu tin như vậy, thưa ông Holmes. Nhưng tôi ấy. Đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng tôi biết thế nào là tình ... Tôi trở nên điên cuồng trước ý nghĩ là bị rơi vào tay tên vô lại nhất Nam Phi, kẻ bại hoại nhất từ Kimberley đến Johannesburg. Kể từ khi này vào giúp việc cho tôi tôi dám để ngang ngôi nhà, nơi tôi biết hai tên cướp này trú ẩn. Tôi ngồi xe đạp theo để bảo vệ và giữ khoảng cách xa và tôi phải mang râu giả để nhận được ra tôi.

      - Nhưng sao ông báo cho ấy biết trước về nỗi nguy hiểm đe dọa ấy?

      - Tôi sợ ấy bỏ luôn. Dù ấy tôi, nhưng hàng ngày được nhìn thấy ở trong nhà, được nghe giọng của , tôi cũng hạnh phúc lắm rồi.

      - Ông gọi thứ tình cảm đó là tình à? Đó là lòng ích kỷ.

      - Có thể là cả hai cùng một lúc. Mặt khác, với tụi vô lại ở kế bên, tất nhiên cần có một người bảo vệ đoạn đường vắng. Nhưng tới khi hai bức điện được gửi tôi biết là tôi buộc phải làm một cái gì đó.

      - Bức điện nào?

      Carruthers rút trong túi ra một bức điện tín.

      - Nó đây!

      Bức điện thật ngắn và : “Lão già chết”.

      - Hừm! - Holmes - Giờ đây tôi mọi việc diễn tiến ra làm sao, vì sao bọn chúng buộc phải ra tay gấp sau khi có bức điện này. Nhưng trong lúc chờ đợi cảnh sát tới, có thể ông cho tôi biết thêm chăng?

      Lão thầy tu hoàn tục, vẫn còn khoác áo lễ, la lớn.

      - Bob, nếu tố giác, tao giết mày. Nếu mày bán đứng bạn bè cho cái tên cớm mặc thường phục này, mày có thể đánh dấu cái ngày hôm nay bằng một chữ thập đen.

      - Đừng có nổi nóng, thưa ngài mục sư.

      Holmes ngắt lời trong lúc mồi một điếu thuốc lá.

      - Những điểm liên quan tới ngài đều sáng tỏ, tôi chỉ hỏi vài chi tiết để thỏa mãn óc tò mò mà thôi. Nhưng nếu ngài thấy khó trả lời, chính tôi kể lại câu chuyện. Thoạt đầu ba người trong bọn mấy người từ Nam Phi về đây để chơi trò vừa rồi. Ba người là Williamson, Carruthers và Woodley.

      - Hãy gạt tên tôi ra! - Lão già - Tôi chỉ quen biết hai người này từ hai tháng nay và chưa bao giờ tôi đặt chân sang Nam Phi cả. Hãy nhét cái đó vào trong tẩu của ông và hút nó , thưa ông bạ-gì-cũng-can-thiệp-vào.

      - Gã thật. - Carruthers xác nhận.

      - Các biết ông Ralph Smith bên Nam Phi. Và biết ông ta còn sống được bao lâu nữa. Các ông tìm ra cháu ông ấy, là người được thừa hưởng gia tài... Đúng thế

      Carruthers gật đầu, Williamson chửi thề.

      - ấy là bà con gần với ông ta hơn cả, và các biết là ông già đó làm bản chúc thư nào cả.

      - Ông ấy biết đọc mà cũng biết viết - Carruthers thào.

      - Thế là hai tìm người thừa kế gia tài. Các muốn rằng một trong hai người thành hôn với đó và người kia cũng được chia phần. Tôi hiểu lý do nào mà Woodley lại được chỉ định làm người chồng.

      - Chúng tôi đánh bài trong chuyến . - Carruthers .

      - Ông thuê vào làm công trong nhà và Woodley phải ́ tán tỉnh . Nhưng rất ghét ta. Mặt khác, thỏa hiệp của hai ông lại có phần khập khiễng, do việc ông si tình giáo. Ông thể nào chịu đựng được cái ý nghĩ rằng tên côn đồ kia trở thành chồng ta.

      - Đúng vậy!

      - xảy ra một cuộc cãi vã giữa hai người. Woodley bỏ ông mà , và y dàn dựng nhưng kế hoạch nóng mà cho ông biết.

      - Phải. Từ đó, hễ khi nào có là có tôi. thu thập được cái tên thầy tu hoàn tục này. Và tôi biết hai đứa thuê căn nhà này, bởi vì nó ở gần con đường mà phải qua để tới nhà ga. Chính vì thế nên tôi canh chừng . Ngày hôm kia, Woodley tới thăm tôi với bức điện là Ralph Smith qua đời. hỏi tôi có còn ý định giữ nguyên lời hứa của bản giao kèo . Tôi trả lời: . hỏi tôi có ý định kết hôn với và chia cho cái phần cướp được . Tôi trả lời là chịu lấy tôi. bảo tôi: Trước hết, phải làm cho ta kết hôn, rồi tính sau. Tôi rằng ai được dùng bạo lực đối với . bỏ , miệng ngớt chửi thề. Tôi vội vàng lấy xe ngựa để đưa ra ga, nhưng vẫn đạp xe theo sau. Nhưng, vượt trước tôi và bất hạnh xảy ra.

      Holmes đứng lên, ném tàn thuốc vào lò sưởi

      - Watson, tôi thật xuẩn ngốc! Khi báo cáo, chỉ cho tôi thấy rằng trông thấy người xe đạp nắn lại cái cà vạt trong lùm cây, lẽ ra tôi phải thấy vấn đề ngay tức khắc. Tuy nhiên, chúng ta có thể khen ngợi lẫn nhau rằng mình đến kết quả cuối cùng của một vụ kém tầm thường. Kìa, ba cảnh sát địa phương trong lối vào và có cả chú bé đánh xe ngựa nữa. Watson, có thể khám sức khỏe cho Smith và bảo rằng chúng ta đưa về nhà mẹ . Một bức điện gửi cho một kỹ sư trẻ ở Midland là môn thuốc rất hữu hiệu. Về phần ông Carruthers, ông làm những gì có thể làm để chữa lại những tội lỗi của mình.

      - Đây là danh thiếp của tôi, nếu như lời làm chứng của tôi mà có thể giúp ích cho ông được đôi phần trong vụ xử, tôi sẵn lòng tới.

      Violet Smith được thừa kế một tài sản lớn, và giờ đây là bà Cyril Morton, phu nhân của người hùn vốn thứ nhất trong công ty Morton & Kenedy. Sau phiên tòa, Williamson ôm “bảy cuốn lịch”, còn Woodley lãnh mười cuốn. Trong nhà đá, chúng có đủ thời giờ nhìn từng tờ giấy bay và suy ngẫm về các việc mình làm. Còn về Carruthers, tuy có ghi lại, nhưng với việc tấn công Woodley, kẻ vô lại có tiếng, một án phạt cũng là đủ để thực hiện công lý.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      6. Câu Chuyện Tại Ký Túc Xá


      Tấm danh thiếp của Thorneycroft Huxtable vừa được đưa đến trước vài giây, theo sau nó là một người cao lớn xuất hiện. Cánh cửa chưa kịp đóng lại sau lưng, ông với tay về phía bàn, đứng sững lại nền nhà, và ngã sóng soài lên tấm da gấu

      Chúng tôi nhổm phắt dậy, Holmes kê gối ngồi xuống dưới đầu cho ông, còn tôi đưa ly brandy kề môi ông.

      - Điều gì xảy đến với ông ta vậy, Watson? - Holmes hỏi.

      - Kiệt sức. Có lẽ vì đói và mệt.

      - Vé khứ hồi đến Mackleton, phía bắc nước - Holmes rút ra một tấm vé đường sắt từ trong chiếc túi đựng đồng hồ của ông ta, và :

      - Bây giờ chưa đến 12 giờ. Ông ta phải ra từ rất sớm.

      Mí mắt hơi tấy lên của vị khách khẽ động đậy, thế rồi đôi mắt xám của ông dán vào chúng tôi bằng một cái nhìn vô nghĩa. Lát sau, tiến sĩ Huxtable khó nhọc đứng dậy, mặt đỏ lên vì xấu hổ:

      - Hãy thứ lỗi cho tôi, ông Holmes, Cơn ngất này là hậu quả của một chấn động thần kinh. , xin cảm ơn ông. Chỉ cần ́c sữa với bánh biscuit tất cả qua khỏi thôi ông Holmes, tôi đến đây mời ông cùng với tôi.

      - Để khi nào ông hoàn toàn hồi sức .

      - Tôi thấy dễ chịu rồi ông Holmes, tôi khẩn khoản mời ông Mackleton ngay.

      Holmes lắc đầu:

      - Chúng tôi rất bận. Tôi nhận tiền trước cho việc điều tra khác rồi. Lúc này chỉ một việc cực kỳ quan trọng mới có thể buộc tôi rời khỏi London.

      - Cực kỳ quan trọng! - Vị khách của chúng tôi vung tay lên - Lẽ nào ông biết gì về vụ bắt cóc người con trai duy nhất của công tước Holdernesse?

      - Sao? Cái ông cựu bộ trưởng đấy à?

      - Phải, Chúng tôi dốc hết sức mình để chuyện đó lên mặt báo. Thế nhưng, hôm qua có một tờ báo loan tin. Tôi nghĩ những tin này bay đến ông.

      Holmes với lấy tập sách chỉ dẫn giá, tìm đến chữ H.

      - “Holdernesse... Công tước thứ sáu,… Nam tước Beverley, Bá tước Carston, chà, một danh sách dễ sợ! Hầu tước Hallamshire từ 1900. Cưới Edith, con ngài Charles Appledore, 1888. Họ chỉ có 1 con và là người thừa kế duy nhất, Huân tước Saltire. Chủ sở hữu 250.000 mẫu lãnh địa trong vùng Lancashire và xứ Wales. Địa chỉ: Carlton House Terrace; Holdernesse Hall, Hallamshire; lâu đài Carston, Bangor, Wales. Lãnh đạo Bộ Hải quân năm 1872; Tổng thư ký Hội đồng… Đây là con người nổi tiếng, và là một trong những người nổi tiếng nhất của Hoàng gia...”.

      - Một trong những người nổi tiếng nhất, và có thể còn là một trong những người giàu có nhất nữa, Ông Holmes, xin cho phép được rằng: Ngài hứa trao tấm séc 5.000 bảng cho người nào chỉ ra nơi cất giấu con ngài, và 1.000 bảng cho ai chỉ ra kẻ bắt cóc đứa bé.

      - Quả là hào phóng! - Holmes . - Watson! Chúng ta theo tiến sĩ. Còn ông, tiến sĩ Huxtable, hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì xảy ra.

      Vị khách nốc cạn ́c sữa, rồi :

      - Tôi là người sáng lập và là hiệu trưởng khu học xá Huxtable's Sidelights ở Horace. Khu học xá dành cho học sinh của tôi là một trường học tốt nhất nước. Huân tước Leverstoke, Bá tước Blackwater, ngài Cathcart Soames… Rất nhiều gia đình quý tộc gửi con đến đây. Nhưng 3 tuần tước, công tước Holdernesse nhờ ông James Wilder, thư ký của ngài, đưa huân tước Saltire, người con trai 10 tuổi và là người thừa kế duy nhất của Ngài, đến học ở chỗ chúng tôi. ngờ đây lại là điểm bắt đầu vận rủi nhất của đời tôi.

      Cậu bé đến vào ngày 1 tháng 5. Chẳng bao lâu, cậu bé quen dần với nề nếp của chúng tôi. Cần lưu ý rằng trước đó, ở tại nhà, cậu bé sống được thoải mái, hai ông bà còn sống chung với nhau, nữ công tước dọn đến miền Nam nước Pháp, còn đứa con hướng về người mẹ. Lần cuối cùng người ta trông thấy cậu là vào tối ngày 13 tháng 5. Căn phòng dành cho cậu ở gác ba, còn căn phòng lớn bên cạnh có hai cậu bé khác ngủ. Vào cái đêm đó, hai cậu bé này nhìn thấy, cũng như nghe thấy gì cả. Thật ra cậu bé rời khỏi phòng bằng cửa chính. Cửa sổ ở chỗ cậu ta mở toang, cây thường xuân với những nhánh rất rậm rạp quấn quanh tường. mặt đất chúng tôi tìm thấy dấu vết nào, nhưng chắc chắn là cậu bò qua cửa sổ.

      Sáng ngày 14 tháng 5, lúc 7 giờ, người ta phát hiện ra chuyện này. Giường của cậu trải chăn. Trước lúc , cậu ta còn kịp mặc bộ đồng phục học sinh. có ai vào phòng cậu ban đêm. Còn nếu như từ đó vọng ra những tiếng kêu hay những thanh vật lộn chắc người học sinh lớn hơn ở phòng ngủ bên cạnh tất nghe thấy.

      Ngày sau đó tôi triệu tập tất cả ký túc xá lại. Đến lúc đó chúng tôi tin rằng cậu bé một mình. Ông Heidegger, giảng viên tiếng Đức vắng mặt, căn phòng của ở chái nhà đối diện với gác ba. Cửa sổ của căn phòng cũng trông ra ngoài bãi cỏ. Giường chiếu của ta được dọn dẹp, áo sơ mi và đôi tất chân của để bừa bãi sàn nhà. Ông ta bò qua cửa sổ bíu vào những nhánh thường xuân, tụt xuống dưới.

      Ông giáo sư này vào trường tôi hai năm trước đây, do tiến cử đáng tin cậy nhất. Nhưng ông ta là một người trầm lặng, hay cau có và gây được cảm tình của mọi người.

      Hôm nay là ngày 16 tháng 5. Từ ngày 13 tháng 5, chúng tôi còn tin tức nào về kẻ chạy trốn. Đầu tiên tôi liên lạc với công tước, hiện ở Holdernese Hall, cách trường vài dặm, hy vọng vì nhớ nhà mà huân tước Saltire trở về với cha. Thế nhưng cậu ta có ở đấy. Công tước vô cùng lo ngại. Ông Holmes, tôi van ông, hãy hiến toàn bộ sức lực cho vụ này.

      Sherlock Holmes rút cuốn sổ tay từ túi ra, và ghi vào đấy một điều gì đó để cần được ghi nhớ.

      - Ông phạm một sai lầm lớn là đến đây ngay. - Holmes thốt lên nghiêm khắc - Điều này gây nhiều rắc rối cho cuộc điều tra, chẳng hạn bãi cỏ và dây thường xuân tường đều có thể cho ta biết nhiều điều quan trọng.

      - Công tước gắng giữ kín việc này. Ngài sợ những nỗi bất hòa trong gia đình mình trở thành đầu đề cho những lời đàm tiếu.

      - Nhà chức trách địa phương tiến hành điều tra

      - Rồi, nhưng đem lại kết quả.

      - Có lẽ công việc điều tra hiện trường vẫn chưa được tiến hành đến nơi đến chốn?

      - Tự nhiên cảnh sát ngừng cuộc điều tra!

      - Như thế nghĩa là ba ngày trôi qua một cách vô ích. Điều này thật đáng buồn.

      - Ông rất có lý.

      - Dẫu sao tôi vẫn sẵn lòng bắt tay vào việc. Ông xác định mối quan hệ giữa cậu bé và người giáo viên chưa?

      - có mối quan hệ nào giữa họ cả.

      - Ông ta có dạy cậu ta ?

      - .

      - Các xe đạp đều bị đụng đến sao?

      - .

      - Ông tin chắc vậy à?

      - Phải.

      - Ông có nghĩ rằng người thầy dạy tiếng Đức ra bằng xe đạp với cậu bé?

      - ́ nhiên, .

      - Vậy lúc ấy ông giải thích chuyện đó ra sao?

      - Có thể họ lấy xe để đánh lạc hướng. Sau đấy họ giấu xe đạp vào một nơi nào đấy, còn chính họ lại bộ.

      - Cũng có thể. Nhưng đó là cách đánh lạc hướng kỳ quái. Các xe đạp vẫn ở trong kho chứa à?

      - Vâng

      - Phải chăng ông ta bằng xe đạp rồi sau đó giấu xe đạp , chứ ông ta bộ?

      - Ông hoàn toàn có lý.

      - , lý luận này có chỗ chưa ổn. Song, việc mất một chiếc xe có thể là khởi điểm cho điều tra. Chỉ còn một câu hỏi này nữa: Có ai đến thăm cậu bé trước ngày cậu mất tích ?

      - .

      - Có thể có lá thư gửi cho cậu ta?

      - Có một lá thư.

      - Ai gửi?

      - Cha cậu ta.

      - Ông mở hộp thư của học sinh chứ?

      - .

      - Thế tại sao ông cho rằng lá thư là của cha cậu ta?

      - phong bì có gia huy và địa chỉ được viết bằng chính nét chữ nguệch ngoạc của công tước. Ngoài ra chính công tước cũng nhớ là viết thư cho con.

      - Cậu bé nhận được các lá thư khi nào?

      - Những ngày sau cùng có lá thư nào gửi cho.

      - Từ Pháp có ai gửi cho cậu ta .

      - . Một lần cũng .

      - Tất nhiên ông hiểu tôi hướng tới cái gì rồi: Hoặc là người ta dùng sức mạnh để cướp cậu ta hoặc là cậu ta tự theo ý muốn của mình. Còn nếu một ai đến chỗ cậu ta tác động chính là ở lá thư. Tôi coi trọng việc biết ai là người liên lạc thư tín với cậu ta

      - Chỉ có người cha viết thư cho cậu ta thôi.

      - Bức thư của người cha đến đúng vào ngày cậu bé chạy trốn. Mối quan hệ giữa cha và con ra sao? Có tồi .

      - Ngài bị cuốn hút vào những công việc quốc gia đại , nhưng Ngài quan hệ với người con cũng đến nỗi tồi. Tuy vậy, trái tim của đứa trẻ hoàn toàn hướng về người mẹ.

      - Bản thân cậu bé có như thế ?

      - .

      - Vậy ai ? Công tước chăng?

      - Ồ, tất nhiên là .

      - Thế do đâu ông biết được điều đó?

      - Tôi phải trò chuyện với viên thư ký của công tước, James Wilder. Ông ta tiết lộ với tôi về tâm trạng của huân tước Saltire.

      - Hiểu rồi. Nhân tiện xin hỏi luôn, bức thư cuối cùng của công tước được tìm thấy trong phòng của cậu bé sau khi cậu bé mất tích phải ?

      - , cậu ta cầm theo người. Ông Holmes, có lẽ tới lúc chúng ta cần ra ga rồi.

      - Bây giờ tôi phái người gọi xe. Sau 4 giờ nữa, chúng tôi sẵn lòng giúp ông. Ông tiến sĩ, nếu ông có ý định đánh điện về nhà hãy làm sao cho mọi người nghĩ rằng cuộc điều tra vẫn còn tiến hành ở Liverpool, trong thời gian đó, tôi yên ổn làm một cái gì đó ở ngay cạnh trường ông.

      Khi chúng tôi tới cạnh trường trời tối hẳn. Một tấm danh thiếp nằm bàn ở phòng chờ. Người hầu phòng thầm với ông hiệu trưởng. Và thế là ông ta quay trở lại chỗ chúng tôi với một vẻ thật xúc động. Ông ta :

      - Công tước ở đây. Công tước và ông Wilder hiện chờ tôi trong phòng làm việc. Chúng ta cùng vào . Tôi giới thiệu các ông với công tước.

      Tôi có biết người hoạt động nhà nước danh tiếng này qua các bức ảnh. Nhưng con người thật của ông giống các bức ảnh. Ông trông nhợt nhạt như xác chết. Đứng cạnh ông là người thư ký riêng Wilder. Đó là một chàng trai có vóc người tầm thước, bộ mặt linh hoạt, đôi mắt thông minh. ta bắt đầu câu chuyện bằng một giọng rất quả quyết, thậm chí cay độc.

      - Tiến sĩ Huxtable! Tôi ở chỗ ông ngay từ sáng nay. Song, đáng tiếc là tôi đến muộn và thể ngăn cản chuyến của ông. Như mọi người cho biết ông đến chỗ thám tử Sherlock Holmes để ủy thác cho ông ấy điều tra vụ này. Công tước tỏ ra ngạc nhiên khi ông chưa xin ý kiến Ngài mà dám hành động như vậy!

      - Khi cảnh sát đưa tới cái mà...

      - Công tước hề tin vào điều đó.


      - Nhưng, thưa ông...

      - Ông tiến sĩ! Công tước muốn chuyện này lan rộng ra để dễ dàng khắc phục tình trạng này.

      Tiến sĩ hoảng sợ, lúng túng .

      - Ông Sherlock Holmes có thể trở về London bằng chuyến tàu sáng.

      - Tôi có ý định như vậy đâu, tiến sĩ ạ. - Holmes cười một cách nhã nhặn - Vòm trời phương Bắc sảng khoái và xinh đẹp nên tôi quyết định nghỉ ngơi một vài ngày những bình nguyên này. Tôi tiêu khiển trong những điều kiện cho phép tại vườn nhà ông, hay ở khách sạn nông thôn. Điều này ́ nhiên chỉ tùy thuộc vào ông.

      Nhưng, đúng lúc ấy giọng trầm trầm của viên công tước kịp thời vang lên, cứu thoát ông tiến sĩ.

      - Tiến sĩ Huxtable! Đáng lẽ ông cần trao đổi với tôi hơn. Tuy nhiên, nếu ông thổ lộ tất cả công việc này với ông Holmes chối từ giúp đỡ của ông ấy là một hành vi ngu ngốc. Ông Holmes, ông chẳng việc gì phải tới khách sạn. Tôi vui lòng đón ông về nghỉ ngay tại nhà chúng tôi.

      - Xin cảm tạ Ngài! Nhưng theo cầu của công việc, tôi cần phải ở lại đây, ngay tại nơi xảy ra biến ́.

      - Tôi muốn ép buộc ông đâu, ông Holmes ạ. Song nếu ông thấy cần thu thập những tin tức nào đó ở tôi hay ở ông Wilder, chúng tôi rất sẵn lòng.

      - Có lẽ tôi phải đến thăm Ngài tại lâu đài Holdernesse. Còn bây giờ, tôi chỉ muốn biết Ngài giải thích việc biến mất một cách đầy bí ẩn của con Ngài như thế nào?

      - Thật khó trả lời quá, thưa ông.

      - Xin lỗi Ngài, nếu tôi đụng phải vấn đề khiến Ngài cảm thấy khó chịu. Thế nhưng còn cách nào hơn. Ngài có cho rằng nữ công tước lôi kéo cậu bé ?

      Viên cựu bộ trưởng chần chừ rồi :

      - , tôi nghĩ như vậy!

      - Thế có thể có kẻ nào bắt cóc cậu bé để chuộc tiền chăng?

      - , thưa ông.

      - Còn một câu hỏi nữa, thưa ngài. Tôi được biết: Ngài viết thư cho con trai Ngài vào đúng cái ngày mà cậu bé biến mất, phải ?

      - , chuyện đó xảy ra vào ngày hôm trước.

      - Hoàn toàn chính xác. Có điều cậu bé nhận được thư vào chính ngày hôm đó?

      - Phải.

      - Trong lá thư đó chắc có điều gì có thể làm cậu bé xúc động hoặc đem lại cho cậu ta ý nghĩ chạy trốn chứ?

      - Tất nhiên , thưa ông!

      - Chính tay lá thư, phải ?

      Viên thư ký ở phía sau công tước bực tức trả lời:

      - Công tước có thói quen tự mình chuyển thư từ cho người nhận. Lá thư ấy được lưu lại bàn, cùng với những lá thư khác trong phòng làm việc. Và tôi nhét tất cả vào thùng bưu chính.

      - Ông có tin chắc là trong số các lá thư ấy chắc chắn có bức thư chuyển cho cậu bé ?

      - Tất nhiên! Tôi nhìn thấy nó.

      - Ngài viết bao nhiêu lá thư vào ngày hôm ấy, thưa công tước?

      - Hai mươi hoặc ba mươi gì đấy. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta phần nào ra ngoài thực chất của công việc rồi đây!

      - . Tại sao như thế được? - Holmes .

      - Chính tôi khuyên cảnh sát hướng điều tra xuống phía Nam nước Pháp - Công tước tiếp tục - Xin nhắc lại, tôi cho rằng nữ công tước có khả năng đẩy con trai tới hành động kỳ lạ ấy được. Nhưng do tính bướng bỉnh, ̣ng với xúi bậy và hỗ trợ của chàng người Đức, đứa bé có thể chạy tới chỗ mẹ mình. Còn bây giờ, tiến sĩ Huxtable, xin được phép từ biệt ông.

      Tôi cảm thấy Holmes còn muốn hỏi một vài câu nữa song viên công tước kết thúc câu chuyện, hình như ông ta e ngại rằng mỗi câu hỏi mới lại soi rọi ánh sáng thương tiếc vào phần cuộc đời được ông che đậy kỹ lưỡng.

      Ngay sau khi họ khỏi, Holmes liền bắt tay vào việc. quan sát căn phòng của cậu bé đem lại kết quả gì ngoài kết luận dứt khoát là cậu ta chạy trốn qua phía cửa sổ. Trong phòng của người giáo viên cũng tìm thấy gì mới. Dây trường xuân phía dưới cửa sổ chịu nổi sức nặng của cậu bé. Soi đèn bãi cỏ, chúng tôi nhận ra ở đó có những vết giày hằn sâu, cỏ bị xéo nát: đó là bằng chứng duy nhất về cuộc chạy trốn ban đêm.

      Để tôi ở lại một mình, Sherlock Holmes bỏ , và trở về khoảng 12 giờ đêm. thu được tấm sơ đồ địa phương ở đâu đó. trải nó giường rồi đặt cây đèn vào chính giữa và bắt đầu xem xét. Thỉnh thoảng dùng chiếc tẩu thuốc chỉ cho tôi coi những điểm cần lưu ý.

      - Tôi muốn chú ý tới một vài chi tiết có thể mang ít nhiều ý nghĩa trong quá trình điều tra. Hãy nhìn vào tấm sơ đồ này! Ô chữ nhật có nét gạch chéo này là trường học. Chúng ta cắm kim găm vào đó. Còn đây là đường nhựa. Nó chạy qua khu trường theo hướng đông - tây. Trong khoảng một dặm có những con đường nhánh từ đây các hướng khác. Nếu họ bằng dường bộ thể qua con đường này.

      - Đúng vậy!

      - Còn chỗ này, từ 12 giờ đêm đến 6 giờ sáng có cảnh binh túc trực: đây là ngã ba đầu tiên ở hướng đông của con đường. Người cảnh binh rời trạm gác lấy một chút. ta khẳng định rằng chắc chắn ta nhận ra người đàn ông và cậu bé nếu họ có qua đấy. Tôi chuyện với ta hồi tối và theo tôi, chúng ta có thể tin vào lời của ta. Thế nghĩa là về phía đông của con đường được loại trừ ra.

      Còn bây giờ chúng ta xem tình hình ở phía tây xem sao. Ở đó có khách sạn “Bò Mộng”. Nữ chủ nhân bị bệnh. Bà phái người Mackleton để mời bác sĩ. Nhưng vị bác sĩ này lại thăm một bệnh nhân khác. Mãi đến sáng sớm hôm sau, ông ta mới tới được chỗ bà. Vậy là ở khách sạn, trong khi chờ đợi bác sĩ, suốt đêm mọi người ngủ được. Thỉnh thoảng người ta nhìn ra ngoài đường xem bác sĩ đến chưa. Theo lời của người này một ai qua khách sạn cả. Nếu tin theo lời của họ phần đường phía tây còn làm chúng ta nghĩ ngợi gì nữa. Vì vậy, những người chạy trốn chọn một con đường khác.

      - Họ bằng xe đạp chăng? - Tôi hỏi.

      - Đúng vậy! Nếu những kẻ chạy trốn đường cái, họ hoặc là theo hướng bắc, hoặc là theo hướng nam của ngôi trường. Vậy chúng ta thử cân nhắc hai giả thiết này xem sao. Phía nam khu trường có một cánh đồng rộng lớn. Cánh đồng bị phân cách thành những mảnh . Mỗi mảnh được ngăn với mảnh khác bởi hàng rào xây bằng đá. có khả năng qua đó bằng xe đạp. Vậy cần loại trừ giả thiết này. Chúng ta sang phía bắc. Ở đây, chúng ta trông thấy một cánh rừng , được gọi là i dao lệch”.

      Phía sau khu rừng chừng 10 dặm có một cánh đồng hoang kéo dài, càng về hướng bắc càng nhiều gò đống. Chênh chếch phía trái cánh đồng là lâu đài Holdernesse: theo đường cái đến nơi này phải mất 10 dặm, còn theo đường chim bay mất chừng 6 dặm. Cánh đồng này hiu quạnh và vắng vẻ. Vài trại chăn nuôi trâu bò nằm rải rác đó. Cừu, bò và chim đầm lầy, đó là cư dân duy nhất của vùng này. Xa hơn còn có một đường nhựa chạy qua. Dọc theo con đường này có chừng hai, ba biệt thự, một nhà thờ và một khách sạn. Phía sau là những quả đồi cao và dốc. Tôi tin là cần phải hướng tìm kiếm của chúng ta về phía đó.

      - Nhưng còn xe đạp? - Tôi nhắc lại.

      - Những người xe đạp cừ khôi chỉ đường cái. Hơn nữa ở cánh đồng lại có những con đường mòn. Vả lại, đêm hôm đó trăng lại rất sáng. Vậy còn có gì khó đâu?

      Có tiếng gõ cửa khẩn cấp, tiến sĩ Huxtable bước vào phòng ông cầm chiếc mũ cát màu xanh với phù hiệu trắng lưỡi trai, ông ta reo lên:

      - Thật là may mắn! Thế là chúng ta lần ra dấu vết của cậu bé.

      - Các ông tìm thấy ở đâu?
      - Ở chỗ những người du mục. Bọn bắt cóc lưu lại trong trại du mục cánh đồng. Hôm nay, cảnh sát bất thình lình ập tới chỗ họ, lục soát trong xe. Và họ tìm thấy cái này.

      - Nó rơi vào tay họ bằng cách nào vậy? Họ những gì?

      - Họ thề rằng tìm thấy chiếc mũ cánh đồng vào sáng ngày 14 tháng 5. , quân vô lại ấy bị tống giam cả rồi.

      Tiến sĩ bước ra khỏi căn phòng.

      - Thế là được rồi, ở đây nếu cảnh sát bắt được những người du mục họ làm được gì cả. Hãy nhìn vào sơ đồ này, Watson. Con suối này chảy qua cánh đồng. Ở khoảng giữa khu trường và lâu đài nó hóa thành đầm lầy. Tiết trời bây giờ hanh khô, vậy tìm kiếm dấu vết khó lắm. Có thể còn lưu lại một cái gì đó giữa đầm lầy.

      Ngày hôm sau khi thức giấc vào lúc mờ sáng, tôi nhận ra bóng dáng cao gầy của Holmes cạnh giường tôi. mặc áo quần tề chỉnh.

      - Tôi khảo sát bãi cỏ và kho để xe đạp. Sau đó tôi dạo ở khu rừng “Mũi dao lệch”. Hãy dậy , Watson! - Gương mặt bạn tôi ửng đỏ, đôi mắt sáng lên như vẫn thường thấy ở những người mong mỏi bắt tay vào công việc ưa thích.

      Lòng tràn đầy hy vọng, chúng tôi đến cánh đồng than bùn. Ở đó có rất nhiều con đường ngang dọc bị đàn cừu giẫm mòn. Chẳng bao lâu chúng tôi tới cánh đồng cỏ hóa thành đầm lầy ngăn cách chúng tôi với tòa lâu đài. Nếu chạy về nhà, cậu bé thể qua cánh đồng này được! Tại đây tất cả phải lưu lại những dấu vết của cậu và những dấu vết của ông giáo người Đức. Nhưng chúng tôi thấy những dấu vết như vậy. Holmes dọc theo bên rìa của cánh đồng cỏ. chăm chú quan sát từng vệt sần bề mặt cánh đồng. Ở đây có rất nhiều vết chân cừu. tiếp vài dặm nữa chúng tôi thấy vết móng chân bò cái.

      - Bế tắc rồi! - Holmes buồn bã đưa mắt nhìn quanh cánh đồng - Tại đây còn có những bãi lầy và giữa bãi lầy này có một lối hẹp. Hãy nhìn kìa! Cái gì thế này?

      Chúng tôi bước vào lối mòn có in hình một dải đen đen. Những vết bánh xe đạp in lối mòn ẩm ướt.

      - Xe đạp đây rồi! - Tôi reo lên.

      Nhưng Holmes lắc đầu.

      - Một chiếc xe đạp nào đấy chứ phải chiếc xe đạp chúng ta tìm. Tôi biết tới 42 lốp xe đạp khác nhau. Vết lốp này là của hãng “Dunlop” và lại còn có miếng “ghệt” nữa. Lốp xe của ông giáo người Đức do hãng “Palmer” sản xuất, có những đường vạch dọc kia. Một giảng viên dạy toán cho tôi biết điều đó. Cho nên, phải giáo viên người Đức mà là một người khác qua đây.

      - Nghĩa là

      - Ôi!. Giá như cậu bé có xe đạp? Người ta cam đoan với chúng ta là cậu bé có xe. Những dấu vết này, được bắt đầu từ khu trường.

      - Hay là ta theo hướng tới trường.

      - phải!. Vết bánh xe sau luôn sâu hơn vì nó phải chịu trọng lượng lớn hơn. Đây này!? Ở một vài chỗ, vết bánh xe sau xóa lấp vết bánh xe trước. người xe đạp chắc phải ra từ khu trường. Cũng có thể người này có quan hệ gì với truy tìm của chúng ta. Song, chúng ta hãy cứ theo dấu vết này mà ngược lại vậy.

      Chúng tôi làm như thế. Khi tới chỗ con đường mòn rẽ ngoặt từ vạt đất bị hóa lầy, đột nhiên vết lốp xe đạp biến mất. Con suối cắt ngang lối mòn, và ở bờ bên kìa, vết xe đạp lại xuất hiện, mặc dầu có những con bò cái xéo lên chúng. Sau đấy, con đường mòn ăn sâu vào cánh rừng “Mũi dao lệch”. Cánh rừng hầu như tiếp liền ngay với tòa nhà của trường, ràng người xe đạp xuất phát từ cánh rừng này. Holmes ngồi xuống một tảng đá, tay chống cằm. ở trong thế hoàn toàn bất động. Cuối cùng, :

      - Thôi được! Một kẻ có đầu óc phòng xa ́ nhiên có thể thay bánh xe đạp để đánh lẫn dấu vết. Ta hãy tạm gác vấn đề nan giải này lại và hãy quay lại chỗ đầm lầy.

      Chúng tôi tiếp tục xem xét tỉ mỉ phần đất lầy lội của cánh đồng. Chẳng bao lâu chúng tôi nhận ra còn một lối mòn khác nữa. Holmes tới gần lối mòn và vui sướng reo lên. Những vết mảnh chạy dài ở phía giữa lối mòn. Đó là dấu lốp xe đạp của Palmer.

      - Ông giáo người Đức qua đây! - Holmes thốt lên xúc động.

      - Xỉn chúc mừng !

      - Thế nhưng còn lâu nữa mới tới được kết quả cuối cùng, đừng bước vào lối mòn. Hãy theo vết này. Có lẽ chỉ chốc lát nữa thôi nó đột ngột kết thúc.

      Tuy vậy ở phần này của cánh đồng vẫn luôn gặp phải những chỗ sình lầy. Và mặc dầu lốp xe đạp thỉnh thoảng bị iến mất nhưng sau đó chúng tôi lại tìm thấy nó. Holmes :

      - hãy để ý xem ở đây, người xe đạp vào pédale . Điều này thật dễ thấy. nhìn vào những vết lốp xe trước và sau mà coi, chúng đều như nhau. Đó là do người xe dồn trọng lượng về phía trước như những tay đua vẫn thường làm. Trời! ta ngã kìa!

      lối mòn có một vệt loang dài và rộng. Xa hơn một chút thấy có những vết giày, và sau đó vệt lốp xe đạp lại xuất hiện.

      Holmes nhặt một cành cây có hoa bị gãy từ dưới đất lên. Những bông hoa màu vàng bị vấy vệt đỏ. lối mòn trong bụi cây, những vết máu khô thẫm lại.

      - Công việc tồi quá! Rất tồi! Thôi Watson, về hướng này nữa. Hãy lui về phía kia vậy. Nào, xem ta có thể tìm được gì ở đây nào? ta ngã, bị thương... đứng dậy... Rồi lại ngồi lên xe... tiếp tục . Có một đàn bò qua lối mòn này, nhưng phải bò đực húc ta? Có điều gặp những vết khác ở đây. lên phía trước Watson. Những vết máu, những vết lốp xe đạp. Hãy cứ theo những dấu vết này.

      truy tìm của chúng tôi kéo dài. Vết xe đột nhiên bắt đầu rẽ theo lối mòn bóng lên vì ẩm ướt. Tôi đưa mắt về phía trước. Bất thình lình những ánh kim loại lóe lên ngay trước mặt tôi. Chúng tôi lôi từ lùm cây ra một chiếc xe đạp của hãng “Palmer”. Một pédale bị uốn cong, tay lái và bánh trước bê bết máu. Cách xa có một chiếc giày trồi lên cỏ. Chúng tôi chạy bổ đến đó và nhìn thấy người lái xe đạp bất hạnh: người cao, để râu, đeo kính. Mắt kính phải bị vỡ. Một quả đấm trời giáng vào sọ là nguyên nhân gây ra cái chết. Sau khi bị thương còn có thể xe đạp được vài yard nữa. ta mang tất, còn sau lần áo vét, chúng tôi nhận ra chiếc áo ngủ. còn hoài nghi gì nữa. Đây là giảng viên người Đức.

      Holmes thận trọng xoay thi thể trở lại để xem xét. Cuối cùng, Holmes lo âu, :

      - Thú thật, tôi bây giờ chúng ta phải làm gì. tìm kiếm kéo dài đến mức thể mất thời giờ thêm nữa, chúng ta cần báo cho cảnh sát. Lẽ nào lại có thể để người bất hạnh nằm ở đây

      - Hãy viết vài chữ cho tôi.

      - Nhưng thiếu trợ giúp của , tôi thể tiến hành công việc được. Kìa! Có ai gạt than bùn kia kìa! Hãy nhờ người ấy mời cảnh sát tới đây.

      Tôi thực hiện ngay cầu của Holmes, và nhờ người chủ trại ấy chuyển giấy cho tiến sĩ Huxtable.

      - Thế đó, Watson ạ. Sáng nay chúng ta tìm được hai dấu vết. Dấu thứ nhất là lốp xe đạp hãng Palmer, nó dắt chúng ta tới nạn nhân. Dấu thứ hai là lốp xe đạp bì “ghệt” của hãng Dunlop. Trước khi tìm hiểu dấu vết thứ hai này, chúng ta hãy lưu ý rằng cậu bé tự ý bỏ chạy. Cậu ta bò qua cửa sổ và lẻn một mình hoặc cùng với người báo tin cho mình.

      - Có lý.

      - Cậu bé có chuẩn bị để chạy trốn, nên ăn mặc đầy đủ. Nhưng ông thầy người Đức mặc áo quần vội vã nên bỏ chạy mà kịp mang tất chân.

      - Chắc chắn như vậy.

      - Cái gì buộc ông ta nhảy qua cửa sổ? Chính là việc ông ta nhìn thấy cậu bé chạy trốn. Ông muốn đuổi kịp và đưa cậu bé trở lại. Ông ta vớ lấy xe đạp của mình, đuổi theo cậu bé và chết đầm lầy.

      - Rất có lý.

      - Rượt theo cậu bé, một người đàn ông chỉ cần chạy theo là đủ rồi. Thế mà ông thầy người Đức, theo ý kiến của tiến sĩ Huxtable, là một tay xe đạp cừ khôi, lại làm khác? Ông ta chạy vào kho lấy xe đạp của mình. Từ đó có thể rút ra kết luận thế này: Ông ta nhận thấy cậu bé sử đụng một phương tiện di chuyển ưu việt hơn đôi chân của ông ta. cách khác, cậu bé lấy xe đạp của một ai đó phải ? Chúng ta hình dung kết cục của cuộc tẩu thoát ấy như thế này: Ông thầy người Đức chết cách ngôi trường 5 dặm. Cần lưu ý là ông ta chết vì quả đấm của một người có đôi tay rắn khỏe. Nghĩa là cậu bé có người bạn dường và họ đào tẩu nhanh tới mức một tay lái xe đạp cừ khôi chỉ đuổi kịp họ ở dặm đường thứ năm. Tại nơi xảy ra tấn thảm kịch, tìm thấy những dấu vết của móng bò cái và chỉ có vậy thôi? Tôi một đường vòng rộng chừng 50 bộ vẫn tìm thấy một lối mòn nào khác. Người lái xe đạp thứ hai có liên quan gì tới vụ giết người, và ở đây có vết chân người.

      - Này Holmes! Điều đó thật khó tin!

      - Hoan hô! Kết luận thật chí lý! Trong trình bày các kiện của tôi có một cái gì đó thật khó tin. Đúng thế, tôi có sai lầm. Song, trong suốt thời gian điều tra, luôn ở bên tôi và chính mắt nhìn thấy tất cả. Vậy tôi sai lầm ở chỗ nào?

      - Có thể ta bị thương vào đầu trong khi ngã.

      - Ở giữa đầm lầy này sao?

      - Tôi rối trí mất rồi, Holmes ạ.

      - Chúng ta từng giải đáp được những câu hỏi còn hóc búa hơn thế. Chỉ cần vận dụng chúng một cách khôn khéo nữa thôi... Nào, hãy tiếp tục Watson! Chiếc lốp xe hãng “Palmer” hết cho chúng ta rồi đấy Giờ thử xem chiếc lốp xe “ghệt” hãng Dunlop đưa chúng ta đến đâu?

      Chúng tôi theo vết này. Nhưng chẳng bao lâu những quả đồi thoai thoải phủ những lùm cây thấp giăng dài trước mặt chúng tôi. Con suối ở lại đằng sau. tiếp có ý nghĩa gì cả, bởi vì những vết lốp xe hãng Dunlop có thể dẫn đến lâu đài Holdernesse với những chiếc tháp to nhô tên về phía trái, hoặc có thể đưa tới những túp nhà màu sáng thấp lè tè mà sau lưng có con đường cái chạy qua.

      Lúc chúng tôi chỉ còn cách quán trọ “Gà Chọi” chừng vài bước, đột nhiên Holmes kêu lên một tiếng, nắm lấy vai tôi cho khỏi ngã, làm như một chân bị sái. cà nhắc bước đến trước cửa khách sạn, nơi có một người đàn ông ngồi.

      - Xin chào ông Reuben Hayes! - Holmes .

      - Ông là ai? Sao biết tên tôi? - ông ta hỏi, sau khi ném ra một cái nhìn hằn học và ngờ vực.

      - Tên ông được ghi ở tấm biển ngay đầu ông kia kìa. Xin cho chúng tôi biết ông có chiếc xe ngựa nào ?

      - .

      - Tôi thể bước nổi nữa.

      - Nếu bước nổi, đừng có bước.

      - Vậy tôi di chuyển bằng cách nào được?

      - Bằng nạng vậy!

      Ca1i ga4 Reuben Hayes thật bất lịch . Thế mà Holmes chịu đựng được. :

      - Hỡi ông chủ đáng mến! Xin hãy nghe đây, ông thấy điều gì rủi ro xảy ra với tôi ư? Chúng tôi phải đến nơi chúng tôi cần. Vậy bao giờ chúng tôi mới đến được?

      - Bao giờ đến à? Tôi quan tâm đến chuyện đó.

      - Tôi đến đấy vì một việc quan trọng. Hãy cho tôi mượn xe đạp của ông, tôi đền ơn trọng hậu.

      Chủ nhà vểnh tai nghe.

      - Ông cần đâu?

      - Đến lâu đài Holdernesse.

      - phải đến thăm công tước chứ?

      Chủ khách sạn hỏi, vừa chế nhạo vừa nhìn vào bộ áo quần cáu bẩn của chúng tôi.

      Holmes phá lên cười thân thiện:

      - Công tước đón tiếp chúng tôi một cách niềm nở.

      - Tại sao?

      - Vì chúng tôi có những tin tức tốt về đứa con của Ngài

      Gã đàn ông giật mình:

      - Phải chăng các ông tìm thấy?

      - Từ Liverpool, người ta cho biết rằng cậu ta hiện ở đấy. Thế đó, rồi tìm được thôi!

      Một bóng đen chợt thoáng qua bộ mặt lởm chởm râu của ông ta. Và ông ta tự nhiên trở nên tốt bụng:

      - Tôi từng là người đánh xe ngựa cho công tước. Rồi đột nhiên Ngài ngược đãi tôi. Rồi Ngài thanh toán tiền cho tôi và dùng tôi nữa. Song dầu sao tôi cũng rất vui, bởi huân tước trẻ tuổi được tìm thấy ở Liverpool. Thôi được, tôi giúp các ông chuyển tin tức này tới lâu đài.

      - Xin cám ơn! Chúng tôi ăn tối, rồi ông cho chúng tôi mượn xe đạp chứ?

      - Tôi có xe đạp.

      Holmes nhìn người chủ khách sạn đầy ngụ ý.

      - Tôi với ông là tôi có xe đạp. Các ông bằng xe ngựa vậy? - Chủ quan trọ nhấn mạnh.

      - Thôi được! Ông cho chúng tôi ăn cái rồi bàn chuyện đó sau.

      Khi chúng tôi còn lại một mình trong nhà bếp, chân Holmes tự dưng hết đau. chiều tối, chúng tôi cảm thấy đói mà vẫn rời khỏi bàn. Đắm chìm trong ý nghĩ của mình, một vài lần Holmes yên lặng đến gần chiếc cửa sổ trông ra phía sau ngập ngụa rác rưởi. Ở một góc sân, chỗ đóng móng ngựa, một thiếu niên lem luốc làm việc. Còn góc sân khác là chuồng ngựa. Sau một lần tới cửa sổ như thế. Holmes ngồi xuống bàn và đột nhiên nhổm phắt dậy, kêu to:

      - rồi Watson! Tôi tìm ra rồi! có nhận ra các vết móng bò cái sáng nay .

      - Có ở đâu?

      - Khắp nơi! đầm lầycạnh chỗ người bị giết.

      - Đúng.

      - Còn bây giờ, ở đây có nhiều bò cái ?

      - Tôi thấy một con nào cả.

      - Kỳ lạ thật. Khắp mọi nơi đều có vết móng bò cái, mà ở đây có một con nào cả.

      - Vâng, đúng vậy!

      - Bây giờ hãy ́ nhớ xem trông thấy những vết này lối mòn như thế nào?

      - Tôi chưa hiểu.

      - Hãy nhớ lại xem. Đôi lúc nó như thế này... - bắt đầu xếp những mẫu vụn bánh mì bàn. - và đôi lúc lại như thế này... Ở một chỗ khác lại như thế này... có nhớ ?

      - .

      - Còn tôi nhớ và sẵn lòng đưa tay lên thề. Tuy vậy chúng ta còn quay trở lại và kiểm tra lại ngay tại chỗ. Tôi có quẫn trí nếu tôi rút ra được những kết luận thỏa đáng từ điều đó.

      - Những kết luận gì?

      - Những kết luận như thế này: bò cái mà lại y như ngựa nước kiệu, nước đại và nước một. Mưu chước quỷ quyệt này lẽ nào phải của tên chủ quán kia? Ngoài sân có ai cả, trừ cậu bé ở xưởng đóng móng ngựa. Chúng ta thử đột kích, xem tình hình ở đó ra sao.

      Trong chuồng có hai con ngựa bẩn thỉu, lông bù xù đứng, Holmes nâng chân sau của một con lên và cười lớn:

      - Những cái móng cũ nhưng được đóng cách đây lâu. Những cái móng cũ, còn đinh đóng lại mới. Bây giờ ta quan sát xưởng đóng móng ngựa xem sao.

      Cậu thiếu niên bận bịu với công việc của mình nên ch ý đến chúng tôi. Holmes nhanh nhẹn nhìn quanh khu xưởng ngập đầy sắt vụn và dăm bào. Bất thình lình có những bước chân vọng lại từ phía sau. Quay lại, chúng tôi nhìn thấy người chủ nhà. Đôi lông mày ông ta giao vào nhau thành một đường kẻ dài, đôi mắt lóe lên những tia sáng độc ác. Ông ta cầm lăm lăm một chiếc dùi cui bịt sắt tiến về phía chúng tôi với vẻ hăm dọa đến mức tôi rút khẩu súng lục từ trong túi ra.

      - Quân chó đẻ! - ông ta kêu lên - Bọn bay làm gì ở đây?

      - Hãy rộng lòng tha thứ, ông Reuben Hayes! - Holmes điềm tĩnh - Phải chăng ông sợ chúng tôi tìm ra một cái gì đấy liên quan tới công việc đó?

      Ông ta trấn tĩnh lại, cong môi lên trong một nụ cười giả tạo.

      - Hãy tìm , xin mời. Tìm thấy cái gì, đó là việc của các . Nhưng tôi thích thấy người lạ tự ý sục sạo khắp sân nhà tôi. Vì vậy, hãy trả tiền và tránh xa đây càng nhanh càng tốt.

      - Chớ giận chúng tôi, ông chủ. Quả thực chúng tôi chỉ muốn nhìn những con ngựa của ông thôi. Vậy mà có lẽ chúng tôi phải bộ đến lâu đài. Từ đây tới đó xa lắm phải?

      - Đúng hai dặm đường. theo con đường kia kìa! Nhớ rẽ trái!

      Ông ta tiễn chúng tôi ra khỏi sân bằng một cái nhìn u ám.

      Chúng tôi theo con đường ấy xa, bởi vì Holmes dừng lại ở chỗ rẽ đầu tiên khi biết chắc là bây giờ một ai còn nhìn thấy chúng tôi.

      - Cuộc đón tiếp vừa rồi thật là nồng nhiệt. Càng rời xa khách sạn, tôi càng cảm thấy lạnh lẽo hơn.

      - , khỏi đây bây giờ là quá sớm?

      - Tôi cho rằng cái lão chủ khách sạn ấy biết tất cả.

      - Tôi chưa từng thấy một bộ mặt nào hung ác hơn thế. Một kẻ ác độc thực ? Còn những con ngựa và xưởng đóng móng ngựa thế nào? T̀ một nơi đáng lưu ý, cái “con gà trống ưa ẩu đả” ấy? Nào chúng ta hãy quan sát xem cái gì xảy ra ở đây. Phải bí mật và thận trọng.

      Quả đồi thoai thoải ở phía sau chúng tôi rắc đầy những tảng đá xám. Lúc bắt đầu trèo lên phía sườn đồi, để nhìn về phía lâu đài, bất chợt tôi trông thấy một người xe đạp lao nhanh đường.

      - Hãy cúi thấp xuống, Watson- Holmes kêu lên, sau khi lấy bàn tay nặng trịch ấn vào vai tôi.

      Chúng tôi vừa kịp ẩn mình vào sau tảng đá người đó lao vút qua. Một khuôn mặt tái mét thấp thoáng trước mặt tôi. Mỗi nét của khuôn mặt ta đều lộ vẻ kinh hãi: mồm há rộng, cái nhìn chết cứng của đôi mắt trợn trừng một cách man dại. Đó chính là bức biếm họa kỳ quặc của James Wilde mà chúng tôi mới biết hôm qua.

      - Viên thư ký của công tước! - Holmes - Hãy nhanh lên! Chúng ta xem ta làm gì ở đây.

      Nhảy lên một tảng đá, chúng tôi men theo sườn dốc lên. Từ đó chúng tôi nhìn thấy cửa quán trọ. Chiếc xe đạp của Wilder dựng tại cạnh tường ở trong nhà, một ai nhìn qua các cửa sổ.

      Mặt trời khuất sau các đỉnh tháp cao của lâu đài. Hoàng hôn buông xuống cánh đồng. Chẳng bao lâu, trong bóng đêm dày đặc của khách sạn, một chiếc xe đạp hai bánh với những cây đèn thắp sáng ở bên cạnh được đẩy ra từ tàu ngựa. Chỉ một phút sau, ngựa phi như bay qua chúng tôi, hướng về phía Chesterfield.

      - Như thế là thế nào? - Holmes thầm .

      - Tựa như cuộc tẩu thoát vậy.

      - xe chỉ có một người thôi! Tôi nhìn thấy mà. Nhưng người đó phải Wilder, bởi vì ta ngồi kia kìa!

      Bóng dáng người thư ký in giữa khung cửa sáng bừng. ta rướn ̉ về phía trước, nhìn vào bóng đêm, ràng ngóng chờ ai đó. Vài phút trôi qua. Cuối cùng, đường có những bước chân vọng lại. Trong ánh sáng đổ xuống từ những cánh cửa ra vào, thấp thoáng bóng của một người k nào đó nữa. Rồi cánh cửa khép lại. Toàn bộ quán trọ lại chìm vào trong bóng tối. Thế rồi, ở một trong những cửa sổ phía , ngọn đèn bàn được thắp sáng.

      - Có khách lạ tới thăm quán “Gà Chọi”. - Holmes .

      - Vào quán từ một hướng khác?

      - Đúng rồi. Cả hai đều là khách mời của ông chủ. Ông James Wilder cần gì trong cái sào huyệt này, lại vào thời gian muộn màng như vậy. Ông ta hẹn gặp ai ở đây chăng? Hãy mạnh dạn lên, Watson! Chúng ta quan sát họ gần hơn một chút nữa.

      Chúng tôi tụt xuống đường, nhàng tới gần những cánh cửa của khách sạn. Xe đạp của Wilder vẫn đứng tựa vào tường như trước. Holmes quẹt diêm và soi vào bánh sau của xe đạp. Tôi nghe thấy tiếng kêu khe khẽ đầy vẻ ngạc nhiên của Holmes khi ánh lửa soi vào mảng “ghệt” lốp xe đạp của hãng Dunlop. Cửa sổ có đèn sáng ở ngay đầu chúng tôi.

      - Cần ghé nhìn trong đó dù chỉ thấy chút ít thôi Watson! Giá đứng tựa vào tường công kênh tôi lên.

      Một thoáng sau, Holmes đứng vai tôi ngay và tức khắc lại tụt xuống dưới.

      - thôi, bạn thân mến. Ngày hôm nay thế là đủ rồi? Chúng ta làm tất cả những gì có thể làm được. Chúng ta về trường ngay.

      Suốt quãng thời gian chúng tôi lê bước chậm chạp theo cánh đồng, hầu như Holmes hé răng lấy nửa lời. rẽ vào khu trường, chúng tôi đến thẳng ga để chuyển điện. Sau đấy, tôi thấy Holmes an ủi ông tiến sĩ. Ông ta bị sửng sốt bởi cái chết bi thảm của người giáo viên: “Rất khuya, tôi vẫn còn trông thấy trong phòng mình”.

      - Mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp. Tối mai chúng ta có lời giải đáp - Holmes với tôi.

      Sáng hôm sau, lúc 11 giờ, chúng tôi con đường trồng cây nổi tiếng của lâu đài. Người hầu phòng ra đón và dẫn chúng tôi vào phòng làm việc của công tước. đứng ngay trước mặt chúng tôi. ta rất khiêm tốn và lịch , nhưng trong đôi mắt né tránh của ta thoáng hiện nỗi khiếp sợ.

      - Các ông muốn thăm công tước phải . Ngài được khỏe. Ngài bị đau bởi tấn thảm kịch mà ông tiến sĩ báo cho chúng tôi biết.

      - Ông Wilder, tôi cần gặp công tước.

      - Nhưng Ngài rời khỏi phòng mình được.

      - Vậy tôi đến chỗ Ngài!

      - Ngài giường.

      - Dù thế nào tôi cũng xin được tiếp kiến Ngài!

      Giọng điệu lạnh lùng cho phép phản đối của Holmes khiến viên thư ký tin rằng đôi co với con người này chỉ bằng thừa.

      - Thôi được ông Holmes, tôi báo có ông đến.

      Đôi mắt của công tước hỏm sâu hơn, hai tay khuỳnh khuỳnh của ông lộ vẻ thiếu cương quyết, ông như già hơn so với ngày hôm qua. Với vẻ lịch đến tao nhã, ông cúi chào chúng tời và ngồi xuống ghế bành.

      - Tôi nghe đây, ông Holmes!

      Thế nhưng Holmes lại nhìn chằm chằm vào viên thư ký đứng cạnh chủ nhân.

      - có mặt của ông Wilder khiến tôi bị ít nhiều gò bó, thưa ngài!

      Mặt viên thư kí tái ngắt . ta ném vào Holmes một cái nhìn thật độc ác.

      - Nếu ngài muốn…

      - Được, được, cứ để chúng tôi ở đây... Được rồi ông Holmes! Ông có điều gì muốn với tôi, phải ?

      Holmes khép cửa lại đằng sau viên mới :

      - Thưa ngài! Theo lời của tiến sĩ Huxtable, tôi và bác sĩ Watson được biết ngài có hứa trả tiền thù lao cho công việc mà ngài quan tâm. Tôi muốn trực tiếp được nghe Ngài điều đó.

      - Có.

      - Người ta là Ngài trả 5.000 bảng cho ai chỉ ra nơi con trai Ngài ở.

      - Phải.

      - Và 1.000 bảng cho ai chỉ ra kẻ giam giữ huân tước.

      - Vâng.

      - ́ nhiên, điều này ngụ ý rằng chỉ là kẻ bắt cóc mà còn là kẻ có mưu bắt cóc.

      - Đúng, đúng! - kìm được lòng mình, công tước thốt lên - Ông Holmes, nếu ông làm sáng tỏ bí mật này, ông than phiền về tính keo kiệt của tôi.

      Holmes cọ cọ hai tay vào nhau một cách thèm thuồng. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì trước đó tôi hiểu như một người có những đòi hỏi bình thường nhất.

      - Tập séc của Ngài bàn phải. Xin Ngài ghi cho tôi tấm séc 6.000 bảng . Ngân phiếu xin chuyển vào tài khoản vãng lai của tôi tại chi nhánh ngân hàng Capital & Counties ở phố Oxford.

      Công tước ưỡn thẳng người trong ghế bành, dò xét bạn tôi bằng cái nhìn lạnh như tiền.

      - Ông đùa đấy à, ông Holmes. Đây phải là đề tài thích hợp cho bông đùa.

      - Thưa ngài! Tôi luôn luôn nghiêm túc.

      - Điều đó có nghĩa thế nào?

      - Điều đó có nghĩa là tôi biết nơi trú chân của con trai ngài và cũng biết một người đáng lưu ý.

      - Con tôi đâu?

      - Trong quán trọ “Gà Chọi”, cách ̉ng lớn của công viên Ngài hai dặm. Ít ra cậu nhà ở đó vào ngày hôm qua.

      Công tước ngả người vào ghế bành.

      - Vậy ông kết tội ai?

      Holems bước nhanh về phía trước, đụng tay vào viên công tước.

      - Tôi kết tội Ngài! Còn bây giờ, thưa Ngài, xin ngài làm ơn đưa cho tôi tấm séc 6000 bảng .

      Từ ghế bành, công tước nhổm phắt dậy, thế rồi đột nhiên hai tay ông chới với tựa như ông gắng đứng vững bên bờ vực thẳm. Sau đó, bằng sức mạnh của ý chí sắt đá và bằng trợ giúp của tính kiềm chế quý tộc, ông ta lại ngồi xuống ghế, tay ôm lấy mặt. Một phút... rồi một phút nữa trôi qua…

      - Hãy thẳng ra, ông biết gì nào? - Con người bất hạnh ấy hỏi, hề cất đầu lên.

      - Tối hôm qua, tôi trông thấy Ngài và cậu nhà.

      - Ngoài bạn ông ra, còn có ai biết chuyện đó nữa ?

      - Tôi chưa cho ai biết cả.

      Năm ngón tay run rẩy của viên công tước mở tập séc ra rồi cầm lấy bút.

      - Tôi bội ước đâu, ông Holmes ạ. Mặc dầu số tiền này chỉ để trả cho những tin tức mà thôi, ngoài nỗi cay đắng ra, chúng mang lại cho tôi điều gì khác nữa. Nhưng khi đưa ra lời ban thưởng, tôi đâu có thể ngờ là các kiện lại xoay chuyển như thế! Tuy vậy, tôi hy vọng ông và bạn ông là những người biết điều.

      - Tôi chưa hiểu ngài muốn gì, thưa ngài?

      - Được, tôi trắng ra vậy ông Holmes ạ, nếu những tình tiết của việc này một ai biết, ngoài hai ông ra, số tiền chỉ có thế. Tôi phải cho ông 12.000 bảng . đúng vậy sao?

      Nhưng Holmes mỉm cười và lắc đầu:

      - Ồ! Thưa Ngài! thể dễ dàng thu xếp chuyện đó. Một ai đó phải trả lời về cái chết của người thầy giáo.

      - Thế nhưng James can dự vào đấy. Giết người, đấy là công việc của tên bạo chúa.

      - Tội còn lại nhìn nhận như thế này, thưa ngài: Khi một người đứng trước con đường dẫn đến tội ác, ta cần phải gánh lấy trách nhiệm đạo đức do những hậu quả hành động của mình gây ra.

      - Trách nhiệm đạo đức? Đúng! Nhưng đừng bắt ta phải trả lời trước pháp luật. thể khép một người vào tội sát nhân nếu ta có mặt vào lúc giết người; cũng thể khép người ấy vào tội sát nhân khi việc giết người khiến ta công phẫn chẳng kém gì ông. Sau khi biết chuyện đó, ta chịu nổi day dứt của lương tâm và thú nhận ngay với tôi tất cả. Sau đấy, ta tuyệt giao với kẻ sát nhân, ông Holmes! Hãy cứu ta! Hãy cứu ! Tôi van ông đấy!

      Tính kiềm chế quý tộc của viên công tước biến mất. Với bộ mặt méo xệch, viên đại thần chạy loang quăng khắp phòng, đôi tay ông vung vẩy một cách mạnh mẽ. Cuối cùng, ông tự trấn tĩnh lại, ngồi xuống và :

      - Tôi đánh giá cao việc ông đến đây. Nào, ít ra ta cũng bàn bạc xem cần áp dụng những biện pháp nào để giúp tôi khỏi bị lăng nhục.

      - Nhưng chỉ khi chúng ta cởi mở với nhau đến tận cùng. Tôi làm tất cả những gì có thể làm được nếu tôi biết chính xác các chi tiết của công việc này. Ngài khẳng định rằng ông James Wilder phải là kẻ giết người?

      - Đúng, kẻ giết người lẩn trốn.

      Holmes lạnh lùng mỉm cười:

      - Thưa Ngài! Hôm qua, vào lúc giờ đêm, Reuben Hayes bị bắt tại Chesterfield theo chỉ thị của tôi. Viên chỉ huy cảnh sát ở đấy báo tin cho tôi vào sáng nay trước lúc tôi đến đây.

      Công tước ngả người ra sau ghế, ngạc nhiên nhìn bạn tôi.

      - Khả năng của ông liệu có giới hạn , ông Holmes? - ông ta thốt lên - Thế nghĩa là Reuben Hayes bị bắt. Thôi được có thể đó là điều mừng. Nhưng liệu việc ta bị bắt có ảnh hưởng gì tới số phận của James ?

      - Tới viên thư ký của ngài?

      - , tới con tôi.

      Lần này Holmes thật ngạc nhiên:

      - Thưa Ngài! Ngài có thể giải thích chi tiết tất cả chuyện đó được ?

      - Ông đúng. Chỉ có lòng thành mới có thể làm giảm tình trạng căng thẳng mà James đặt cả hai chúng tôi vào đó. Lúc còn trẻ, tôi ngỏ lời cầu hôn với người đàn bà dấu, nhưng nàng cự tuyệt vì lo ngại rằng cuộc hôn nhân như thế hủy hoại con đường công danh của tôi. Nếu nàng còn sống tôi lấy một người nào khác. Nhưng nàng mất và để lại cho tôi một đứa con trai. Đó là James. Tôi nuôi nấng cháu và công khai thừa nhận mình là cha. Tuy nhiên, cháu được giáo dục tốt nhất. Khi lớn khôn, cháu vẫn thường xuyên sống cùng chúng tôi. Tình cờ cháu biết được bí mật của tôi và từ đấy cháu gắng lạm dụng quyền làm con của mình bằng mọi cách. Điều này đẩy tôi vào tình trạng lo ngại bị tố giác. hiện diện của cháu ở lâu đài là nguyên nhân của tuyệt giao giữa tôi và vợ tôi. Và điều sau đây mới thật nặng nề. Ngay khi nhìn đứa bé, từ ngày đầu tiên, cháu căm ghét Arthur, tức huân tước Saltire, người thừa kế hợp pháp của tôi, một cách dữ dội nhất.

      Chắc ông hỏi tại sao do những chuyện ấy mà tôi vẫn tiếp tục giữ James ở nhà mình. Câu trả lời của tôi thế này: Vì khi nhìn nó, tôi trông thấy bóng dáng của mẹ nó, một hình bóng thể xóa nhòa trong tôi. Từ biệt cháu ư? Tôi đủ sức làm việc đó nhưng cuối cùng, tôi bắt đầu lo sợ cháu gây ra một chuyện gì đấy với huân tước Saltire. Và thế là tôi chuyển đứa bé đến ký túc xá của tiến sĩ Huxtable

      James tiến hành mọi công việc của tôi, do vậy cháu biết Hayes, người từng là tá điền của tôi chúng kết bạn với nhau. Sau khi quyết định bắt cóc huân tước Saltire, cháu biến tên này thành kẻ đồng lõa của mình. Ông còn nhớ là tôi viết một bức thư cho Arthur trước ngày nó chạy trốn? James mở phong bì ra, bỏ vào đó mẫu thư cầu Arthur gặp mình ở cánh rừng “Mũi dao lệch” cách xa khu trường. Thằng bé đến đó vì thư có vẻ như được viết theo cầu của vợ tôi. James đến khu rừng thưa bằng xe đạp. Sau đấy chính cháu làm Arthur tin rằng bà mẹ buồn phiền vì huân tước, rằng bà cách đây xa, rằng nếu huân tước tới khi rừng này vào lúc nửa đêm người dẫn đường và ngựa chờ ở đó. Thằng bé bất hạnh bị sa vào bẫy đúng giờ hẹn, cậu đến khu rừng thưa và nhận ra Hayes ở đấy. Hayes cưỡi một con ngựa và Arthur ngồi lên yên một con ngựa Poney rất con.

      Nhưng Hayes phát giác có người đuổi theo. dùng dùi cui đánh vào người đuổi theo vài lần. ta chết vì thương tích. Hayes đưa Arthur tới khách sạn của mình, Nhốt cậu bé ở lầu, bắt bà Hayes, một người đàn bà phúc hậu nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng, coi giữ đứa bé.

      James hành động như vậy là vì mù quáng, vì căm phẫn. Cháu cho rằng tất cả thái ấp của tôi cần được chuyển giao cho cháu, rằng cháu thể bình tâm để bàn về quyền thừa kế tài sản tồn tại ở chỗ chúng tôi.

      Cháu cầu tôi để cho cháu quyền thừa kế thái ấp. Chỉ có như vậy cháu mới trả Arthur lại cho tôi. Cháu biết rất đời nào tôi lại giao cháu cho cảnh sát. Nhưng những kiện đảo lộn nhanh tới mức cháu thể thực hiện kế hoạch của mình. James hoảng sợ khi biết người thầy giáo chết. Chúng tôi biết chuyện đó vào ngày hôm qua do tiến sĩ báo. Bức điện đẩy James vào tình trạng lo sợ. Tôi kết tội cháu thẳng thừng. Cháu thành thật nhận lỗi nhưng ́ van nài tôi trì hoãn hai ngày để tên tòng phạm được cứu thoát. Tôi nhân nhượng như từng nhân nhượng cháu trong mọi trường hợp. Khi đó James lao đến quán trọ, báo cho Hayes biết trước và giúp chạy trốn. Tôi thể đến đấy lúc còn sáng, tôi chờ tối hẳn mới đến chỗ Arthur. Thằng bé vẫn bình an vô . Nhưng vụ giết người gieo một ấn tượng khủng khiếp xuống đứa bé. Nhớ lời hứa bất đắc dĩ tôi phải để Arthur ở lại quán trọ chừng ba ngày. Bởi vì thể báo những điều này cho cảnh sát mà lại tố giác kẻ giết người, và khi Hayes bị bắt khốn khổ, ông Holmes, tôi hết thật, giờ mong ông rộng lượng giúp tôi.

      - Được, thưa Ngài. Trước pháp luật, tình trạng của Ngài là cực kì nghiêm trọng. Ngài giúp kẻ giết người chạy trốn, vì James Wilder lấy tiền từ túi Ngài giúp cho tẩu thoát.

      Viên công tước nghiêng đầu im lặng.

      - Đúng, tình trạng rất nghiêm trọng.

      - Thế nhưng dưới con mắt của tôi cách cư xử của Ngài với cậu bé còn đáng lên án hơn. Ngài để cậu bé sống trong cái nhà gian phi suốt ba ngày!

      - Chúng cam đoan với tôi là...

      - Lẽ nào lại tin vào lời thề của hạng người ấy. Nếu chúng giấu biệt cậu bé vào một nơi nào đó sao? Chiều ý đứa con trai tội lỗi, Ngài buộc đứa trẻ vô tội phải chịu cảnh nguy hiểm. , thể biện hộ cho hành động của Ngài được!

      Viên đại thần kiêu hãnh vốn quen nghe những lời chống đối như thế, nhất là ngay trong dinh thự của mình. Mặt ông ta đỏ lên, song lương tâm buộc ông ta phải câm lặng.

      - Tôi giúp ông nhưng với điều kiện: Hãy gọi người hầu lại đây và cầu ta thực hiện mệnh lệnh của tôi.

      lấy một lời, công tước đưa tay ấn nút chuông điện. Một người đầy tớ bước vào phòng.

      - Huân tước Saltire được tìm thấy! - Holmes với người hầu - Công tước ra lệnh hãy mau chóng đưa một ̃ xe ngựa đến quán trọ “Gà Chọi” rước huân tước về.

      - Còn bây giờ - Holmes khi người hầu chạy ra khỏi phòng làm việc, mặt rạng rỡ lên vì sung sướng. - Chúng ta có thể đối xử một cách khoan dung với dĩ vãng. Tôi thấy cần thiết báo cho chính quyền về tất cả những gì tôi biết. Còn Hayes đấy là chuyện khác. Giá treo ̉ chờ . Tôi nhúng tay để cứu mạng sống của . Còn việc lộ bí mật của Ngài hay , tôi biết. Tuy nhiên, Ngài có thể gợi ý để những điều vô nghĩa ngoài trách nhiệm của . Ở sở cảnh sát người ta kết án bắt cóc chú bé để nhận tiền chuộc. Nếu ở đó người ta dò xét gì sâu hơn họ đến đây. Có điều việc ông James Wilder vẫn còn lưu lại ở nhà Ngài là việc tốt.

      - Cháu vĩnh viễn rời khỏi lâu đài và lên đường sang nước Úc!

      - Thưa Ngài, Ngài ́ gắng hòa giải với công tước phu nhãn và thu xếp ổn thỏa cuộc sống gia đình hay sao?

      - Sáng nay tôi viết thư cho nữ công tước rồi?

      - Nếu vậy, - Holmes vừa vừa đứng dậy - Tôi và bạn tôi có thể xin chúc mừng Ngài. Chỉ còn một vấn đề tôi chưa được lắm. Những con ngựa của Hayes được đóng móng thế nào để người ta có thể lầm lẫn vết móng của nó với vết móng của bò cái? Ai mách làm chuyện đó? phải ông Wilder chứ?

      Đôi lông mày của công tước nhíu lại ông im lặng đến một phút. Thế rồi, ông mở cửa phòng bên cạnh hiện được dùng làm bảo tàng của gia đình ông. Ông dẫn chúng tôi đến gần chiếc tủ trưng bày ở góc của căn phòng, chỉ cho chúng tôi xem những hàng chữ dưới tấm kính.

      “Những chiếc móng ngựa sắt này được tìm thấy trong các cuộc khai quật tại một khu vực thuộc vùng Holdernesse. Chúng được dùng cho ngựa nhưng người ta rèn chúng dưới hình thức móng bò cái được tách đôi ra. ràng, vào thời trung ̉, các quan đại phu phong kiến khi cướp bóc sử dụng biện pháp này nhằm đánh lạc hướng những người đuổi bắt”.

      Holmes nâng nắp kính lên rồi lấy tay xoa vào một trong những cái móng ngựa. Bàn tay dính vết bẩn đen thẫm: bùn đầm lầy vẫn chưa kịp khô hẳn.

      - Cám ơn Ngài. Đấy là điều thứ hai ở chỗ Ngài khiến tôi đặc biệt quan tâm.

      - Thế còn điều thứ nhất?

      Holmes gập tấm séc làm đôi, thận trọng vào giữa cuốn sổ của mình.

      - Tôi là người thật giàu có lắm!

      và nhét cuốn sổ tay sâu hơn vào trong túi trong...

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      7. Peter Hắc Ám


      Chưa khi nào tôi thấy bạn tôi vui vẻ, phấn khởi, tràn đầy sinh lực như buổi sáng hôm nay, buổi sáng của năm 1895. Tên tuổi của ngày càng nổi tiếng, công việc làm ăn ngày càng bận bịu. Từ tôn trọng, kính nể đối với những bí mật của người khác, tôi cho phép mình rẻ rúng những cái tên của những con người tuyệt vời, đặc sắc mà có lúc gặp cảnh éo le phải tới gõ cửa ngôi nhà tồi tàn của chúng tôi ở hẻm Baker.
      Cần thêm, Holmes như nhà họa sỹ lỗi lạc, làm việc lao vào chỉ vì tình , lòng say mê nghệ thuật hề biết mệt mỏi. Tôi chưa hề nghe (trừ trường hợp duy nhất đối với ngài công tước xứ Holdernesse) cầu món tiền
      thưởng cho công lao vô bờ bến của mình. người vô tư đến nỗi ít trường hợp từ chối giúp đỡ những kẻ giầu sang phú quý: nếu như thấy trong việc điều tra khám phá những bí mật của họ cái gì là say mê, lôi cuốn, hấp dẫn. Trong khi đó dành thời gian hàng tuần lễ để nghiên cứu công việc cho những người nghèo khổ; nếu như việc ấy trông chừng hắc búa và gay cấn, làm cho phải đem hết khả năng nghề nghiệp của mình ra sử dụng.
      Trong năm 1895 đáng ghi nhớ ấy, Holmes giải quyết loạt những vụ việc quan trọng, lý thú, muôn hình muôn vẻ khác nhau. Bắt đầu từ chuyện tìm hiểu nguyên nhân cái chết đột ngột của Hồng y Giáo chủ Tosca (theo đề nghị chính thức của tòa thánh Vatican) và kết thúc bằng việc bắt giam tên tội phạm Wilson. Tiếp theo những vụ trọng đại nổi đình, nổi đám kia là việc đau lòng xảy ra ở phố Woodman's Lee: Thuyền trưởng Peter Carey bị giết trong cảnh tượng khủng khiếp nhất và bí hiểm nhất. Tập ghi chép của tôi về hoạt động của Sherlock Holmes hẫng lớn nếu trong đó thiếu câu chuyện rùng rợn quá sức tưởng tượng này.
      Suốt trong tuần đầu của tháng 7 bạn tôi hay rất lâu, làm tôi phải hiểu là bận chuyện gì đó. Trong những ngày này vài ba người trông dáng cau có, thô thiển ba bốn bận tới lui. Họ là họ muốn gặp thuyền trưởng Basil. Điều đó làm cho tôi hiểu ra là Holmes đóng giả cái tên để tiến hành vụ điều tra mới. Ở số nơi trong London, Holmes có ít ra là năm chỗ ở bí mật, nơi mà có thể thay hình đổi dạng, ai có thể phát ra, Holmes hề thổ lộ cho tôi những công chuyện mới mẻ kia; còn tôi bao giờ có chuyện thóc mách hỏi những điều thầm kín của . Lần đầu tiên Holmes, theo lệ thường, báo cho tôi biết giờ tiến hành công việc theo hướng nào.
      Trước bữa ăn sáng, ra khỏi nhà; nhưng khi tôi vừa mới ngồi vào bàn, thấy chạy xộc vào phòng, kịp bỏ mu xuống, ở nách cặp đồ dùng để xiên cá, trông giống như chiếc dù khá lớn.
      - Quỷ tha ma bắt cậu Holmes! - Tôi thốt lên, - lẽ cậu định dạo chơi ở London với của nợ ấy hay sao?
      - , tớ vừa ghé lại chỗ người bán thịt.
      - Từ chỗ người bán thịt về?
      - những thế mà còn về nhà với tâm trạng sảng khoái nữa chứ. Cậu biết , trước bữa ăn nên tập thể dục tí, có lợi cho sức khỏe lắm. Cậu thử đoán xem bài thể dục buổi sáng của tớ vừa rồi là gì?
      - Tớ hơi đâu mà đoán cái chuyện nhảm nhí ấy của cậu.
      Holmes bỗng phá lên cười và rót cà phê ra tách.
      - Cậu có nhìn thấy căn phòng phía sau của tiệm Allardyce, ở trần có treo con lợn thịt vừa mới mổ xong, còn nguyên vẹn, và gã đàn ông cởi trần trùng trục, toát mồ hôi cầm cái xiên này chọc tấm thịt kia. Gã đàn ông ấy chính là tớ. Nhưng than ôi! Mình tớ với cú đâm thể nào chọc thủng nổi tấm thịt ấy đuợc. Cậu có muốn thử sức ?
      - Chẳng đuợc tích gì. Nhưng cậu làm thế để là ai gì?
      - Tớ nghi rằng, chuyện này có dính líu tới việc bí hiểm xảy ra ở Woodman’s Lee... A, chào ngài Hopkins, tối hôm qua tôi có nhận đuợc bức điện của ngài, và đợi ngài đây. Mời ngài vào, và xin mời ngài dùng bữa sáng, với chúng tôi thể.
      người đàn ông gày gò, nhanh nhẹn, trạc ba mươi tuổi bước vào phòng. ta mặc trong người chiếc áo len giản dị, nhưng trông điệu bộ của ta dễ thấy rằng ta có thói quen mặc quân phục. Tôi nhận ra ngay chàng Stanley Hopkins, viên thanh tra trẻ tuổi của Sở cảnh sát, mà theo lời nhận xét của Holmes, là người có năng lực hơn cả. Ngược lại, Hopkins tự cho mình là học trò của Holmes - người thám tử lão luyện, dày dạn kinh nghiệm và luôn luôn thán phục những phương pháp đầy tính khoa học của .
      Bộ mặt của Hopkins trông có vẻ cau có, quàu quạu ta ngồi phịch xuống ghế bành, dáng điệu rầu ri thảm hại.
      - Mời ngài cứ tự nhiên, cảm ơn ngài, tôi cũng vừa ăn sáng xong. Tôi ngủ lại thành phố, vì phải đến đây để trình bày số vấn đề với ngài.
      - Ngài trình bày những vẫn đề gì?
      - Thưa ngài, về chuyện thất bại của tôi.
      - Việc của ngài tiến triển thêm chút nào sao?
      - Thưa ngài, .
      - lẽ lại như thế? Kiểu này tôi buộc lòng phải nhúng tay vào giải quyết thôi.
      - Vì Chúa, tôi mong ngài giúp đỡ! Lần đầu tiên người ta giao cho tôi công việc khá quan trọng, tôi đủ sức đảm đuong. Xin ngài cố gắng giúp cho!
      - Thôi đuợc, tôi cung nắm trong tay số dữ kiện của cuộc điều tra. Ngài có suy nghi gì về túi đựng thuốc tìm thấy nơi xảy ra vụ án? Trong đó liệu có tìm ra chìa khóa để mở và giải đáp những điều bí hay ?
      Hopkins dường như ngạc nhiên:
      - Thưa ngài, túi đựng thuốc lá là của người bị giết. Bên trong túi có ghi mấy chữ cái viết tắt và nó đuợc làm bằng loài đa hải cẩu. Người bị giết trước đây nhiều năm làm nghề săn bắn hải cẩu.
      - Nhưng trong người ông ta tìm thấy chiếc tẩu thuốc nào hết!
      - Đúng vậy, thưa ngài, chúng tôi tìm thấy chiếc tẩu thuốc ở đâu cả. - ràng là ông ta hút rất ít. Cung có thể ông ta giữ thuốc để mời bạn bè.
      - thể chối cãi điều đó. Tôi muốn đề cập tới vấn đề này cung chỉ vì, nếu tôi là người thân chinh điều tra vụ án, tôi lấy cái túi đựng thuốc lá làm xuất phát điểm cho việc điều tra, thăm dò tiếp theo. Tuy vậy, bạn tôi, bác sỹ Watson đây chua đuợc nghe kể về chuyện này, và tôi cung từ chối đuợc nghe lại lần nữa. Ngài hãy kể tóm tắt cho chúng tôi nghe những gì quan trọng.
      Hopkins lôi từ trong túi ra tờ giấy .
      - Tôi có nắm đuợc đôi điều về cuộc đời của ngài thuyền trưởng Peter Carey chết ông ta sinh năm 1845, nghia là 50 tuổi. Ông ta đuợc đánh giá là trong những tay săn hải cẩu, cá voi can đảm nhất và thành đạt nhất. Năm 1883 ông ta chỉ huy chiếc thuyền săn chạy bằng buồm mang tên "Sea Unicorn" ra từ Dundee, cung trong năm ấy ông ta thực, loạt chuyến thành công. Năm sau ông ta xin từ chức. Sau đó chu du khắp nơi trong vòng vài ba năm. Cuối cùng mua biệt thự "Woodman’s Lee" bên cạnh Forest Row, Sussex. Ông ta sống 6 năm ở đây. Và chết cách đây đúng tuần. Ông ta là người khác thường. Trong cuộc sống thường lặng lẽ, rầu ri, hay cau có và khó tính vô cùng. Gia đình của ông gồm có vợ và con 20 tuổi. Công việc trong nhà do hai hầu trông nom lo liệu. Những người hầu kia đuợc thay đổi thường xuyên; có lẽ họ sống trong đó đuợc dễ chịu cho lắm, họ thể nào chịu đuợc trong thời gian dài. Carey rất hay uống rượu, mỗi khi cơn nghiện nổi lên, ông ta trở thành con quỷ dữ tợn. có lần giữa đêm khuya ông ta đuổi vợ con ra khỏi nhà, và đua nắm đất ra dọa họ, rượt họ chạy khắp cả vùng. Và họ la hét ầm i đến nỗi làm cho những người ở làng bên phải thức giấc.
      Có lần ông ta bị gọi ra tòa vì tội đánh trọng thương cha cố già, khi ông này định giáo huấn tu tỉnh, hối cải cho lão ta. Tóm lại, thưa ngài Holmes, khó tìm thấy người nào nguy hiểm hơn lão Peter Carey. Tôi đuợc nghe người ta , trong lúc còn chỉ huy con tàu, tính tình của lão ta cung như vậy. Ở giới thủy thủ gọi lão ta là Peter "hắc ám", phải chỉ do bộ mặt của lão đen đủi và bộ râu rậm đen, mà còn là do tính cộc cằn, hung dữ, điên rồ của lão; tính ấy làm cho mọi người phát sợ. có gì là khó hiểu khi mọi người căm ghét và tránh xa lão ta, và tôi hề nghe lời xót thương cho cái chết của lão.
      Thưa ngài Holmes! Có lẽ ngài đuợc đọc bản điều tra ghi trong biên bản về ngôi nhà của người ấy, nhưng chắc bạn ngài chưa nghe về nó phải. Cách ngôi nhà chính xa, tay thuyền trưởng dựng cho mình căn nhà phụ bằng gỗ; mà ông ta luôn mồm gọi là "cabin"; cứ đêm đến, ông ta lại ra đấy ngủ. Đó là chiếc lều phòng nhắn, diện tích độ 16x10 feet; ông ta luôn giữ chìa khóa trong người, muốn cho bất cứ ai lọt vào đó; ông tự mình dọn dẹp, tự mình trải khăn, trải giường. hai bức tường của ngôi nhà có đục hai cửa sổ . Cả hai cửa sổ bao giờ cung đóng kín mít, có cửa sổ trông ra con đuờng làng. Có lần trong căn nhà này đèn thắp suốt đêm, những người qua đuờng ngạc nhiên tự hỏi: tay Peter làm cái gì trong đó? Chính cửa sổ ấy - thưa ngài Holmes giúp chúng tôi xác định vài chi tiết đáng luu ý trong quá trình điều tra.
      Hẳn ngài còn nhớ, người thợ đập đá tên là Slater qua Forest Row vào khoảng giờ đêm trước khi xảy ra vụ giết người 2 ngày, dừng lại trước cơ ngơi của lão Carey, ông ta nhìn theo vệt sáng xuyên qua những đám cây. ta thề là trông thấy bóng dáng người đàn ông lên rất nền chiếc trèm che cửa sổ. Nhưng đó phải là bóng của Peter Carey, vì chàng Slater biết khá lão Carey này. Người đàn ông kia cung để râu, nhưng râu người này ngắn hơn, thả xuống chứ như râu lão Carey. Người thợ đập đá khẳng định như vậy. Cần thêm là, trước đó ta ngồi trong quán rượu suốt 2 giờ đồng hồ, và khoảng cách từ đuờng cái tới cửa sổ cung khá xa. Những điều ta là vào ngày thứ hai, còn vụ giết người lại xảy ra vào ngày thứ tư.
      Thứ ba Peter Carey ở trong tình trạng sợ hãi nhất, lão ta hoàn toàn say mềm, còn biết gì nữa, lão như con thú dữ bị thương, dữ dằn và nguy hiểm vô cùng. Lão ta lang thang quanh nhà; đám đàn bà con hễ nghe thấy tiếng của lão là chạy vào nhà đóng nhặt cửa lại. Cho đến tối mịt lão ta mới trở về "cabin" của mình. con ngủ trong buồng bao giờ cung mở cửa sổ. Gần hai giờ sáng, từ phía "cabin" bỗng vang lên tiếng kêu khủng khiếp, con lấy đó làm vấn đề quan trọng, vì cho rằng, lão Carey trong lúc say rượu vẫn thường la hét, chửi rủa om sòm. Bảy giờ sáng, sau khi thức dậy người đầy tớ phát ra cánh cửa của ngôi nhà của lão Carey bị mở toang ra, nhưng vì vốn sợ lão cho nên mãi tới trưa vẫn ai dám bén mảng tới gần chỗ lão ta. Khi nhìn
      vào cánh cửa bị mở toang họ trông thấy cảnh tượng rùng rợn và hoảng sợ đến run người. Họ ba chân bốn cẳng chạy vào làng. tiếng đồng hồ sau, tôi có mặt tại trường và bắt tay vào điều tra.
      Ngài biết đấy, thần kinh của tôi rất vững, nhưng thú tôi cung thấy choáng váng khi nhìn vào căn nhà bé đó. Toàn bộ người lão ta bị đàn ruồi bu đen kịt; nền nhà, mấy bức tường trông như là lò sát sinh. Tay thuyền trưởng gọi căn nhà này là "cabin" cung ngoa. Khi bước vào đó, ngài có cảm tưởng như con tàu ở cuối phòng kê chiếc giường gỗ bé ; bên cạnh là cái rương, mấy bức tường treo đầy những tấm bản đồ đuờng biển, bức ảnh chụp con tàu "Sea Unicorn"; chồng họa báo, ảnh về ngành
      đóng tàu chất đầy giá sách. Tất cả những thứ ấy giống y như buồng chỉ huy của thuyền trưởng. Trong mớ hỗn độn đó, nguời thuyền trưởng, khuôn mặt méo xệch, trông như bộ mặt của tên vi phạm, bị hành hạ dưới địa ngục, bộ râu rậm đen láy dựng đứng lên trong cơn vật lộn giãy chết. Bộ ngực nở nang bị chiếc lao bằng thép đâm thủng. Ngọn lao xiên cá đâm suốt cả người và găm sâu vào tường bằng gỗ. Lão Carey bị dính chặt vào bức tường, trông như con bọ hung bị người ta dùng kim băng găm vào bìa carton. Tất nhiên lão ta bị chết đúng vào giây phút phát ra tiếng gào thét ghê rợn.
      Tôi làm quen với phương pháp điều tra của ngài, ngay lập tức tôi đem ra ứng dụng. Sau khi ra lệnh cho mọi người giữ nguyên trường, tôi chăm chú xem xét kỹ lưỡng mảnh đất từ bên ngoài cửa, và tấm sàn ở trong phòng. Nhưng phát đuợc dấu vết gì cả.
      - Ngài định là ngài trông thấy dấu vết?
      - Thề với ngài, ở đấy hề có dấu vết nào hết.
      - bạn Hopkins thân mến ơi, tôi từng khám phá, điều tra nhiều vụ án; nhưng chưa bao giờ gặp phải tên tội phạm nào có cánh cả. khi kẻ tội phạm bằng chân, ta nhất thiết phải để lại ít nhất dấu vết nào đó. Và người nắm vững các phương pháp điều tra cách khoa học nhất định phát ra thay đổi đáng luu ý nhất trong sắp xếp đồ dùng xung quanh. Tôi thể nào tin vào chuyện trong căn phòng ngập đầy kia lại để lại những dấu vết có thể giúp chúng ta truy lùng ra chân dung tên tội phạm... Cung
      cần thêm, từ biên bản điều tra tôi thấy vài ba chỗ thậm chí ngài chịu chú ý tới.
      Tay thanh tra non trẻ cau mặt lại. Lời nhận xét khá sắc bén của Sherlock Holmes làm cho ta sáng mắt lên.
      - Tôi làm chuyện ngu ngốc, thưa ngài Holmes, là mời ngài tham gia ngay từ đầu vụ án. - ta thú nhận. - Thế nhưng, đến bây giờ vẫn còn khả năng cứu vãn đuợc tình thế. Vâng, trong phòng còn vài vật đáng chú ý. Bắt
      đầu có lẽ từ ngọn lao xiên cá đuợc dùng để giết tên thuyền trưởng. Có người nào đó lấy ngọn lao xuống khỏi bức tường. Hai ngọn lao treo hai cái móc, còn móc sắt thứ ba bỏ . cán ngọn lao cá có khắc dòng chữ “SS. Sea Unicorn, Dundee.”. Điều đó chứng tỏ, vụ án mạng xẩy ra trong cơn tức giận và kẻ giết người vơ lấy thứ vu khí đầu tiên mà với đuợc. Còn về việc lão Carey ăn mặc nghiêm chỉnh, đàng hoàng khi mà vụ giết người đuợc thực vào lúc hai giờ sáng, chứng tỏ lão Carey hẹn gặp gỡ với tên sát nhân. chai rượu Rum và hai chiếc ly bẩn còn nằm bàn chứng minh cho điều đó.
      - Đúng. - Homl đáp, - Hai nhận xét của ngài có thể chấp nhận đuợc. Thế ở trong phòng ngoài rượu Rum ra còn loại rượu nào khác ?
      - Vâng, có ạ. rương có chiếc khay, đó có hai chai ruợu brandy và whisky. Những thứ ấy có ý nghia gì. Cả hai chai còn đầy rượu. Nghia là họ chưa đụng đến.
      - Dẫu sao, có mặt của hai thứ rượu kia cung có ý nghia nhất định nào đó. - Holmes phản lại. Theo ý ngài, còn vật nào ngài thấy có dính líu đến vụ án này?
      - bàn còn túi đựng thuốc lá.
      - Chính xác, nằm ở đâu?
      - Ở ngay chính giữa bàn. Nó đuợc làm bằng loại da hải cẩu thô và cứng. Bên trong có đề hai chữ cái "P.C". Trong túi còn độ nửa ounce[1] thuốc lá loại nặng mà các thủy thủ thường dùng.
      - Rất tuyệt. Còn gì nữa ?
      Stanley Hopkins lôi trong túi ra quyển sổ ghi chép bìa vàng xám. Tấm bìa bị rách nham nhở, còn những trang giấy ghi chép bên trong bị vàng ố và bạc màu. Ngay trang đầu đề có mấy chữ viết tắt “J. H. N." và năm "1883".
      Holmes đặt quyển sổ xuống bàn và bắt đầu quan sát tỉ mỉ. Trong lúc đó tôi và Hopkins nhìn qua vai . trang thứ hai chúng tôi trông thấy mấy chữ cái “C. P. R.,"; tiếp theo trang 2, ba trang sau toàn là những con số chằng chịt. Ở những trang khác ghi mấy chữ "Argentine,", "Costa Rica,", "Sau Paulo” và tiếp theo là những cột chữ số và những dấu hiệu nào đó.
      - Ngài có suy nghi gì về những dòng ghi chép này? Holmes hỏi.
      - Dường như đó là ghi chép của công ty giao dịch. Tôi cho chữ "J.H.N" là chữ viết tắt của người giao dịch viên, còn "C.P.R" có lẽ là tên của người bạn hàng ta.
      - Hoặc chữ "C.P.R" có nghia thế này "Canadian Pacific Railway," - Holmes có ý kiến khác.
      Stanley Hopkins lẩm bẩm và tự vỗ vào trán mình.
      - Tôi mới ngốc nghếch làm sao! - ta thốt lên. - Tất nhiên ngài đúng. Bây giờ chúng ta chỉ còn nhiệm vụ giải mã mấy chữ "J.H.N". Tôi xem xét tất cả những giấy tờ lưu trữ của công ty trong năm 1883. Tôi tìm thấy người giao dịch nào có tên với những chữ cái như thế kia. Dẫu sao tôi cung chọn đúng huớng. ra thưa ngài, hoàn toàn có khả năng đó là chữ viết tắt của người đến thăm lão Carey trong đêm khuya hôm ấy. cách khác, đó là tên của kẻ giết người chăng? Còn quyển sổ tay này, trong đó liệt kê nhiều giấy tờ giá
      trị như vậy có thể giúp chúng ta tìm ra những nguyên nhân, động cơ dẫn tới vụ án mạng.
      Dựa theo nét mặt của Sherlock, tôi thấy điều là hoàn toàn bị bất ngờ với phát mới mẻ này.
      - Tôi sẵn sàng thừa nhận những nhận xét của ngài có giá trị, - . - Cuốn sổ ghi chép này trong biên bản điều tra thấy đến, nên phần nào làm thay đổi nhận định ban đầu của tôi. Trong giả thuyết về vụ án của tôi có chỗ cho nó. Còn ngài định tìm kiếm những chủ nhân của mấy tờ giấy giá trị này phải ?
      Holmes tiếp tục xem xét tấm bìa của cuốn sổ dưới chiếc kính lúp phóng đại.
      - Ở đây có vết bẩn, - lên tiếng.
      - Vâng, thưa ngài đó là vết máu. Tôi với ngài là cuốn sổ đuợc nhặt từ dưới sàn nhà.
      - Vết máu dính ở mặt hay mặt dưới?
      - Ở mặt dưới nằm dí dưới sàn nhà.
      - Nghia là, quyển sổ này rơi xuống nền nhà sau khi xảy ra vụ giết người.
      - Đúng vậy, thưa ngài Holmes. Tôi nghĩ kẻ giết người trong lúc vội vội vàng vàng đánh roi nó. Cuốn sổ nằm ngay chỗ cửa ra vào.
      - Có khả năng... Ngài có tìm thấy tờ nào trong số những giấy tờ giá trị kia trong đống tài sản của kẻ bị chết hay ?
      - thấy, thưa ngài.
      - Ngài có đủ cơ sở để nghi rằng đây là vụ cướp bóc hay ?
      - Thưa ngài , dường như có vật gì bị cướp .
      - Có trời mới biết đuợc! Trường hợp này thú vị ở đấy có con dao hả?
      - Con dao còn nằm trong vỏ, người ta kịp rút nó ra. Nó nằm ngay dưới chân kẻ bị giết. Bà vợ người quá cố rằng con dao này là của chồng
      Holmes trầm ngâm suy nghi:
      - Thôi đuợc, - đáp, - tôi nghi, có lẽ tôi phải đến đó và xem xét tại chỗ.
      Stanley Hopkins vui sướng thốt lên:
      - Cám ơn ngài! Điều đó gỡ bớt đuợc gánh nặng người tôi.
      Holmes dí ngón tay dọa dọa viên thanh tra:
      - Mọi việc đến giản hơn rất nhiều, nếu như được giải quyết cách đây tuần. - . - Nhưng cho đến bây giờ cuộc thăm viếng của tôi vẫn có thể mang lại ích lợi nào đó cho vụ án. Watson, nếu cậu bận việc gì, tớ sung
      sướng đuợc ra với cậu. Hopkins, ngài gọi ngay xe ngựa, chúng ta cùng đến Forest Row trong nửa giờ nữa.
      Sau khi xuống trạm xe bé, chúng tôi còn phải tiếp vài ba dặm nữa con đuờng xuyên qua cánh rừng rậm rạp. Khu vực khỉ ho cò gáy này, trong thời gian dài 60 năm là những pháo đài của Quốc. Những khu rừng bát ngát bị đốn trụi, bởi ở đây mọc lên những nhà máy luyện gang thép đầu tiên trong nước; để nấu quặng cần gì tới rừng. Ngày nay, nền công nghiệp chuyển về những vùng giàu có của miền Bắc, chỉ có cánh rừng là bị thưa , và những rãnh, luống đồ sộ còn in dấu nằm lại mặt đất, như nhắc nhở chúng ta nhớ về thời sôi động qua. Trong khoảng trống triền dốc xanh rì của ngọn đồi là dãy nhà dài, xây bằng những tảng đá đuợc gọt giua, có con đuờng quanh co uốn khúc dẫn tới ngôi nhà. Con đuờng này hắt lên lấp
      lánh giữa những cánh đồng Gần con đuờng, từ ba phía bị những bụi cây sum suê bao kín, chiếc lều bé trơ trọi ở đó, quay cửa sổ và cửa ra vào như tò mò ngắm nhìn những kẻ qua đuờng. Chính ở đây xảy ra vụ giết người.
      Stanley Hopkins dẫn chúng tôi vào nhà giới thiệu với người đàn bà tóc bạc trắng cau có - bà vợ góa của kẻ quá cố. khuôn mặt phờ phạc, những nếp nhăn sâu hoắm và cái nhìn đầy kinh hãi của cặp mắt sưng húp cùng với hàng mi mọng đỏ chứng tỏ bà ta phải trải qua những năm tháng đầy tủi nhục và đắng cay uất hận. con , tóc vàng, vóc dáng xanh xao, hừng hực cặp mắt lấp lánh, tuyên bố ta rất sung sướng vì cái chết của người cha; và rất đội ơn đôi bàn tay của ai đó đem đến cái chết cho ông ấy. Peter Carey gây
      nên khí ngột ngạt, sợ hãi trong gia đình. Chúng tôi cảm thấy dễ chịu khi duới bầu trời tự do con đuờng mòn dẫn ngang qua cánh đồng do thuyền trưởng quá cố tạo nên. Ngôi nhà đuợc xây dựng quá sơ sài, vật liệu toàn bằng gỗ với hai mái gỗ và hai cửa sổ, cửa sổ nằm ngay bên cạnh
      cửa chính, còn cửa sổ kia nằm đối diện. Stanley Hopkins lấy ra chiếc chìa khóa và tra vào ổ khóa. Bỗng nhiên ta dừng lại, nét mặt lộ ngạc nhiên sửng sốt và chăm chú căng thẳng.
      - Có ai đó muốn nạy ổ khóa này. - ta . - Điều này còn nghi ngờ gì nữa.
      Cánh cửa bị cào xước, những vết xước trắng lên khá lớp sơn, dường như có người nào đó vừa mới cào vào.
      Holmes nhìn vào cửa sổ:
      - Cánh cửa sổ cung bị ai đó cố tình mở, nhưng ràng là mở đuợc. Điều này chứng tỏ kẻ cạy cửa phải là tay thuộc loại chuyên nghiệp.
      - Chuyện này kỳ cục. - Viên thanh tra . - Tôi có thể khẳng định với ngài, tối hôm kia những vết này chưa hề có.
      - Hay là kẻ ngố nào đó trong làng ra đây vì tò mò cung nên? - Tôi thử đề xuất ý kiến.
      - thể như thế đâu. Trong truờng hợp vừa xảy ra vụ chết chóc, hiếm có người dám lảng vảng ghé đến sân ngôi nhà, chứ chưa chuyện cả gan dám cạy khóa căn phòng "cabin". Những kẻ gan dạ như vậy khó tìm lắm. Còn ngài, ngài nghi gì về việc này thưa ngài Holmes?
      - Tôi cho là chúng ta gặp may.
      - Ngài cho rằng người ấy quay lại đây lần nữa hay sao?
      - Rất có khả năng. ta dùng con dao nhíp xíu để cạy cửa, cái đó giúp gì cho , ta làm gì bây giờ?
      - Tối hôm sau trở lại vời dụng cụ thích hợp hơn.
      - Ngài đúng. là ngốc, nếu chúng ta ngồi chờ ở đây. Bây giờ ngài cho phép tôi đuợc ngắm nhìn "ca bin" bên trong.
      Những vết tích của chuyện tang thương đuợc dọn dẹp, nhưng giường, bàn ghế kê trong phòng vẫn để y nguyên chỗ cu; như đêm xảy ra vụ giết người. Trong vòng 2 giờ, Holmes xem xét tỉ mỉ từng vật , nhưng dựa theo nét mặt của có thể đoán công cuộc tìm kiếm này mang lại kết quả gì. Chỉ lần dừng công việc điều tra tỉ mỉ của mình lại.
      - Hopkins, ngài có lấy vật gì để giá sách hay ?
      - , tôi hề đụng tới vật gì hết.
      - Nếu vậy, ở đây có cái gì bị lấy , trong góc giá sách ở chỗ kia bụi bám hơi ít hơn chút. Có lẽ có quyển sách hay cái hộp nào đó nằm ở đấy... Thôi tạm đủ. Chúng ta hãy dạo trong khu rừng tuyệt diệu này, để cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm chim, ngắm hoa. Hopkins chúng ta gặp lại ở đây, hiểu tối nay chúng ta có đuợc hân hạnh làm quen với chàng nạy khóa kia hay ?
      Đúng 12 giờ khuya, chúng tôi tổ chức cuộc phục kích. Hopkins muốn để trống cửa có khóa, nhưng Hollnes lại lo ngại chuyện đó làm cho kẻ kia đề phòng, bởi ổ khóa phức tạp cho lắm, chỉ cần con dao chắc chắn chút là có thể cạy đuợc. Holmes cung đề nghị chúng tôi nên ngồi trong nhà phục kích, mà ngồi bên ngoài, dưới những lùm cây mọc cạnh cánh cửa sổ thứ hai. Bằng cách đó chúng tôi có thể theo dõi truy kích kẻ kia. Nếu như thắp đèn lên chúng tôi dễ dàng biết đuợc mục đích nào dẫn tới đây. Cuộc chờ đợi quả là căng thẳng và kéo dài hành hạ chúng tôi. Thần kinh run lên bần bật như người thợ săn run rẩy khi ngồi rình con mãnh thú bị cái khát dày vò, tìm đến con suối để uống nước. Con mãnh thú nào xuất ở đây? con hổ dữ với những chiếc răng bén ngọt, hay là con chó núi nhút nhát, chỉ dám tấn công những con vật yếu đuối và có khả năng tự vệ?
      Chúng tôi ngồi núp trong bụi cây, hoàn toàn im lặng. Lúc đầu tiếng bước chân của những người dạo muộn vọng đến chỗ chúng tôi ngồi, nhưng rồi những thanh ấy cung im bặt. Cuối cùng cả gian im ắng đến ghê sợ bao trùm lên chúng tôi. Chỉ còn tiếng gõ của chiếc đồng hồ nhà thờ như nhắc nhở chúng tôi thời gian trôi qua. Con mua giọt xuống những cành lá làm mái che mưa cho chúng tôi.
      Tiếng chuông báo hiệu 2 giờ 30 sáng điểm gióng giả. Cái giờ tối tăm mịt mùng lạnh lùng nhất của buổi bình minh sắp bắt đầu. Bất ngờ chúng tôi giật thót người, toàn thân bỗng lạnh toát khi nghe thấy tiếng kêu răng rắc tuy khẽ, nhưng khá từ cánh cổng bằng gỗ. Có người nào đó theo con đuờng mòn. im lặng kéo dài lại bao phủ. Tôi nghi đó là dấu hiệu giả. Thình lình từ sau ngôi nhà vang lên tiếng những bước chân rón rén, thận trọng; lát sau tiếng kêu leng keng của kim khí vang lên. Người này định cạy cửa! Lần này ta hành động có vẻ khéo léo hơn, cũng có thể dụng cụ trong tay ta tốt hơn. Sau đó vang lên tiếng động và hình như cái khoeo của ổ khóa bị bật ra. Người này bật diêm lên, ánh lửa của ngọn nến chiếu sáng khắp căn phòng. Qua lớp rèm mỏng manh,
      chúng tôi trông thấy tất cả những gì xảy ra bên trong.
      Người khách ban đêm là gã đàn ông trẻ tuổi trông gầy gò, ốm yếu. Bộ ria mép đen nhánh làm nổi bật bộ mặt nhợt nhạt chết chóc của ta. ta dưới 20 tuổi. Tôi chưa thấy người này rơi vào tình trạng thảm thương như thế bao giờ. ta há hốc mồm giơ cả hàm răng ra có lẽ vì quá lo sợ, toàn thân ta run lên bần bật. ta ăn bận rất lịch , đứng đắn, chiếc áo bludông túi chéo may bằng loại dạ tốt; chiếc quần thể thao ngắn cun cỡn, đầu đội chiếc mu nỉ. Chúng tôi thấy ta ngơ ngác lo lắng nhìn xung quanh, sau đó, đặt cây
      nến xuống bàn, khuất góc. Từ góc đó, ta cầm lên cuốn sách - đó là tập họa báo đóng tầu. Cúi người xuống sát bàn, ta lật nhanh từng tờ cho đến khi nhìn thấy dòng chữ mà ta cần tìm. Đến lúc đó ta tức giận đấm xuống cuốn tạp chí, rồi đặt nó và chỗ cu và tắt nến.
      ta chưa kịp xoay người chạy ra khỏi cổng bị Hopkins chộp lấy áo. Tôi nghe thấy tiếng kêu dữ dội, đầy sợ hãi, tuyệt vọng. Kẻ bẻ khóa hiểu rằng: ta bị bắt. Chúng tôi thắp đèn lên. ta run rẩy, quằn quại trong gọng kìm của người thám tử.
      - bạn quí, - Hopkins lên tiếng, - Ngài là ai và ngài đến đây làm gì?
      Chàng thanh niên cố gắng trấn tinh lại.
      - Các ngài có phải là những thám tử? - ta hỏi lại. - Các ngài nghi rằng tôi có dính líu tới cái chết của thuyền trưởng Peter Carey? Xin thề với các ngài chuyện này tôi hề dính líu tới.
      - Điều đó đuợc xác minh sau, - Hopkins đáp. - Truớc hết ngài cho biết quý danh?
      - John Hopley Neligan.
      Tôi nhận thấy Holmes và Hopkins đua mắt nhìn nhau.
      - Ngài cần gì ở đây?
      - Tôi có thể tin rằng các ngài tiết lộ điều bí mật của tôi?
      - Nhất định phải tiết lộ, chứ biết làm sao!
      - Vậy lý lẽ nào buộc tôi phải ?
      - Nếu ngài , ngài gặp khó khăn ở tòa.
      Chàng thanh niên giật bắn người.
      - Vậy tôi , - chàng nhượng bộ. - Tại sao phải giấu giếm nhỉ? Nhưng tôi thấy kinh tởm với ý nghi là câu chuyện ô danh ngày xưa bị đua ra cho thiên hạ chê cười. Có bao giờ các ngài nghe thấy ai về Dawson và Neligan chưa?
      Dựa nét mặt của Hopkins, tôi hiểu là ta hay biết gì về chuyện ấy; còn Holmes sôi nổi hẳn lên và đáp:
      - Ngài định ám chỉ những ông chủ của nhà băng miền tây phải ? Họ bị phá sản hàng triệu bạc; làm khánh kiệt hết nửa bang Cornwall và ngài Neligan biệt tích.
      - Đúng nhu vậy. Neligan, đó là cha tôi.
      - Cuộc vỡ nợ thực tế chỉ liên quan tới mình cha tôi. Ông Dawson từ bỏ công việc khá lâu. Lúc bấy giờ tôi mới 10 tuổi, nhưng tôi cũng đủ khôn để cảm thấy nỗi tủi nhục và nỗi sợ hãi hùng cho cơ xảy ra. Mọi người đều cho cha tôi vơ vét tất cả giấy tờ quý giá rồi bỏ chạy. Điều đó đúng . Cha tôi tin chắc điều, nếu người ta gia hạn cho ông khoản thời gian để kịp đổi chứng khoán lấy tiền, mọi việc dứt khoát trôi chảy và ông thanh toán đầy đủ chu tất cho những người gửi tiền. Cha tôi ra chiếc thuyền để đến Na Uy trước khi lệnh bắt ông đuợc ban bố. Tôi vẫn còn nhớ cái đêm cuối cùng khi cha tôi chia tay mẹ tôi, ông có để lại cho chúng tôi bản thống kê những giấy tờ chứng khoán mà ông mang theo. Ông thề rằng nhất định khôi phục danh dự lại cho mình và để cho ai trong số những người tín nhiệm mình phải chịu cảnh đau khổ, thiệt thòi. Từ đó đến nay chúng tôi hề đuợc tin tức gì về người cha xấu số nữa. Cả chiếc thuyền và cha tôi đều mất tích cách bí . Tôi và mẹ tôi đều tin chắc rằng, cha tôi an nghỉ vinh viễn dưới đáy đại dương. Chúng tôi có người bạn rất trung thành, người có mối liên hệ công việc trước kia với cha tôi. Cách đây lâu, ông ta cho tôi hay, số giấy chứng khoán do cha tôi giữ ngày trước xuất thị
      trường London. Các ngài có thể tưởng tượng nổi sửng sốt của chúng tôi như thế nào ? Tôi mấy tháng trời ròng rã để lần theo các dấu vết các tờ chứng khoán kia và cung nếm nhiều mùi thất bại, gặp ít nỗi gian truân vất vả. Cuối cùng tôi xác định đuợc những tờ chứng khoán kia là do thuyền trưởng Peter Carey chủ nhân của ngôi nhà này bán ra. Tất nhiên, tôi tiến hành tìm hiểu về ông ta. Tôi đuợc biết ông ta chỉ huy chiếc tàu săn cá voi đuờng quay về đúng vào lúc cha tôi đuờng Na Uy. Mùa thu năm ấy thời
      tiết khá xấu biển hay xuất những cơn bão bất ngờ. Có lẽ chiếc thuyền của cha tôi bị trôi dạt về phương bắc, ở đó con tàu của thuyền trưởng Peter Carey bắt gặp nó. Nếu đúng nhu vậy, cha tôi bị biến mất đâu? Nếu ông Peter Carey có thể làm sáng tỏ cho tôi hiểu đuợc tại sao những tờ chứng khoán kia lại xuất thị trường, tôi có đầy đù khả năng để chứng minh là cha tôi hề đem bán những tờ chứng khoán kia, ông mang theo nó nhằm mục đích tu lợi nào hết.
      Tôi đến Sussex với hy vọng gặp đuợc người thuyền trưởng, nhưng vào đúng thời điểm ấy ông ta gặp cái chết khủng khiếp. Trong biên bản điều tra, tôi đọc đuợc đoạn mô tả căn phòng "ca bin" của ông ta, ở đấy có tới những tờ tạp chí, ảnh cu về ngành hàng hải. Tôi bỗng nảy ra ý nghi, nếu tôi may mắn đọc đuợc những tờ tạp chí kia có thể biết đuợc điều gì xảy ra chiếc tàu "Sea Unicorn” của tháng 8 năm 1883; qua đó tôi biết đuợc số phận bí hiểm của cha tôi. Đêm hôm qua, tôi định vào nhà để xem những tờ tạp chí, nhưng tài nào mở đuợc cánh cửa. Hôm nay việc làm của tôi đạt kết quả hơn, nhưng tôi phát ra là những trang giấy có hên quan đến tháng ấy bị xé mất. Sau đó các ngài tóm gáy tôi.
      - Chỉ có thế thôi ư? - Hopkins hỏi.
      - Vâng, mọi việc chỉ có thế. - Cặp mắt của chàng thanh niên lướt nhanh lên nhìn chúng tôi, sau khi trả lời xong câu hỏi.
      - Ngài còn gì để nữa ?
      Chàng thanh niên lưỡng lự.
      - Xin hết ạ.
      - Trước đêm hôm qua ngài đến đây lần nào chưa?
      - Chưa ạ.
      - Thế ngài định giải thích việc này ra sao? - Hopkins quát lên và chìa ra cho chàng thanh niên cuốn sổ tay với những chữ viết tắt tên họ của người thanh niên, và có vết máu dính ở bìa quyển sổ.
      Cậu ta hoảng hốt và lấy tay che kín mặt lại.
      - Ngài nhặt đuợc cuốn sổ này ở đâu? - ta rền ri. - Thế mà tôi hay biết... Tôi cứ nghi là đánh mất ở khách sạn.
      - Đủ rồi! - Hopkins lạnh lùng đáp. - Nếu ngài còn muốn điều gì, để ra tòa hẵng tiếp. Còn bây giờ hãy cùng tôi đến sở cảnh sát... Ngài Holmes, tôi vô cùng đôi on ngài và bạn của ngài quá bước đến đây để giúp đỡ tôi. Có lẽ cần có mặt của ngài ở tòa án làm gì. Tôi tự giải quyết công việc cho đến cuối, cần đến ngài nữa. Những dẫu sao tôi cung đội ơn ngài rất nhiều. Ở Khách sạn Brambletye người ta dành cho hai ngài hai phòng, vậy chúng ta có thể cùng nhau đến đó nghỉ đêm nay.
      - Watson, cậu nghi như thế nào về tất cả chuyện này? - Holmes hỏi, khi chúng tôi đuờng quay về vào sáng hôm sau.
      - Tớ trông cậu có vẻ hài lòng cho lắm phải?
      - Ồ! đâu, Watson thân mến. Tớ hoàn toàn hài lòng, nhưng tớ thể khen chàng Stanley Hopkins đuợc, cách thức của ta thế nào chấp nhận đuợc. Tớ lấy làm buồn lòng cho ta. Tớ mong đợi ở ta nhiều hơn thế kia. Thông thường bao giờ cung có đáp số thứ hai, và cần phải tìm cho ra cái đáp số ấy. Đó là nguyên tắc đầu tiên của công tác điều tra hình .
      - Đáp số thứ hai là đáp số nào vậy?
      Điều này nằm trong nguyên lý phá án của chính bản thân tớ. Có thể nó mang lại kết quả gì. Tớ thể cho cậu điều gì đuợc nhưng tớ tiến hành theo con đuờng đó đến cùng.
      Tại hẻm Baker có vài bức thư đợi Holmes. chộp lấy lá thư, bóc ra và hoan hỉ cười lớn tiếng:
      - Watson, tuyệt! Phương án thứ hai bắt đầu. Chúng mình còn mẫu in sẵn để đánh điện hay ? Cậu hãy ghi cho mình bức điện với nội dung sau đây: "Gởi ngài Sumner – Đại lý hàng hải, đại lộ Ratcliff - Gởi cho tôi ba người, có mặt vào mười giờ sáng ngày mai. - Basil". Basil là tên của tớ ở ba vùng. Bức điện thứ hai: Thanh tra Stanley Hopkins, 46 phố Lord, Brixton. Hãy đến vào ngày mai,10 giờ 30, dùng bữa cơm sáng. Quan trọng. Nếu đến đuợc, hãy đánh điện báo ngay. - Sherlock Holmes. "...Watson, đồ quỷ quái này theo đuổi tớ suốt 10 ngày ròng rã, bây giờ tớ muốn bứt ra khỏi vòng tay siết chặt của nó. Ngài mai, tớ hy vọng chúng ta kết thúc chuyện này - Vinh viễn kết thúc".
      Chính xác đúng giờ hẹn, tay thanh tra Hopkins xuất và cả ba chúng tôi cùng ngồi vào bàn ăn thịnh soạn do bà Hudson dọn lên. Viên thanh tra trai trẻ hoan hỉ trước thắng lợi ban đầu của mình.
      - Ngài hoàn toàn tin tưởng vào lời lý giải của mình là đúng phải ? - Holmes .
      - Còn sao nữa! Trường hợp này như ban ngày.
      - Theo tôi, vụ này chưa phải là kết thúc.
      - Ngài làm cho tôi ngạc nhiên đấy, thưa ngài Holmes! Ngài còn định đòi hỏi những gì ở tôi nữa?
      - lẽ lời lý giải của ngài bao hàm tất cả các mặt của vẫn đề?
      - nghi ngờ gì nữa. Tôi đuợc biết là bạn trẻ Nhehgan đến khách sạn Brambletye đúng vào ngày xảy ra vụ án. ta đến đó giả vờ như là người choi golf. Phòng của ta nằm ở gác ta có thể bỏ , khi ta muốn. Trong đêm hôm ấy ta đến Woodman’s Lee, và gặp lão Peter Carey, sau đó hục hặc với lão kia, rồi dùng ngọn lao để giết chết lão ta. Vì kinh sợ bàn tay nhuốm máu của mình, ta bỏ chạy và đánh roi quyển sổ tay. ta mang cuốn sổ theo vì muốn đối chiếu những tờ chứng khoán ở nơi tay Peter Carey. Ngài có lẽ phát số dòng ghi trong cuốn sổ đuợc đánh chữ thập? Đó là những chứng khoán bị đem bán ra thị trường London. Nhưng phần lớn số ấy còn nằm trong tay Carey. chàng Neligan, theo như ta thú nhận, mơ tưởng muốn chiếm lại những thứ ấy, hy vọng thanh toán nợ nần cho người cha. Sau khi bỏ chạy thời gian ta đủ can đảm để quay lại, nhưng cuối cùng quyết định nắm thêm số tin tức cần thiết nên quay lại. Đon giản và dễ hiểu, có đúng nhu vậy ?
      Holmes cười và lắc đầu.
      - Tôi thấy trong giả thiết của ngài có thiếu sót: giả thiết ấy hoàn toàn khó có thể tin. Có bao giờ cậu thử dùng ngọn lao để xiên qua xác người chưa? Chưa hả? Ngài nên chú ý đến chi tiết quan trọng này. bạn Watson của tôi có thể kể
      cho ngài biết việc tôi mỗi buổi sáng luyện tập công việc ấy như thế nào. Đây phải là là việc nhàng, mà cần phải có cánh tay khỏe mạnh, lực lưỡng và rèn luyện thử thách nhiều. Tay thuyền trưởng bị giáng đòn khá mạnh đến nỗi ngọn lao cắm sâu vào tường, sau khi xuyên thủng cả thân hình Carey. Chẳng lẽ ngài cho rằng chàng ốm yếu kia có đủ sức gây nên đòn kinh khủng như thế? Kẻ trong đêm khuya vắng cùng với lão Peter Carey uống rượu rum là ai? Hình bóng của người nào in bức rèm trước đó hai ngày? Hopkins, chúng ta nên tìm kẻ nào đó còn náu, nguy hiểm hơn.
      Trong lúc Holmes , khuôn mặt của tay thám tử ngày càng giãn ra. Tất cả những tính toán và niềm hy vọng của ta bị sụp đổ. Nhưng ta dễ gì chịu đầu hàng.
      - Ngài thề bác bỏ đuợc, thưa ngài Holmes, việc chàng Neligan có mặt trong đêm hôm ấy; chứng minh hùng hồn là cuốn sổ tay bị đánh roi. Theo tôi nghi, đối với tòa, bấy nhiêu thôi cung đủ lắm rồi; mặc dù trong giả thiết có đôi chỗ chưa chắc chắn, theo như ngài nghĩ. Cái chính là tên tội phạm của tôi bị tóm, còn kẻ "tội phạm nguy hiểm" của ngài, tôi trông thấy ở đâu cả.
      - Tôi nghi rằng, tên giết người bây giờ buớc lên cầu thang nhà tôi, - Holmes bình tinh đáp, - Watson, tớ cảm thấy là cậu nên chuẩn bị sẵn khẩu súng lục, - Holmes đứng lên và đặt tờ giấy xuống bàn. - Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, chúng ta sẵn sàng hành động. - thêm.
      Những giọng sỗ sàng, thô tục vang lên sau đánh cửa. Bà Hudson mở cửa ra và với Holmes có ba người đàn ông muốn gặp thuyền trưởng Basil.
      Hãy cho từng người lên gặp tôi, - trả lời.
      Người đầu tiên bước vào là người bé thấp tròn lẳn, cặp má ửng hồng, bộ râu quai nón rậm ri bạc. Holmes lấy ra bức thư.
      - Ngài cho biết quý danh? - hỏi.
      - James Lancaster.
      - Tôi lấy làm tiếc thưa ngài Lancaster, nhưng chỗ này có người nhận làm rồi. Gởi ngài ít tiền vì làm phiền đến ngài. Ngài hãy ghé qua ngồi đợi ở phòng bên cạnh lát.
      Người thứ hai trông cao lớn như cây sào, bộ tóc láng mượt, bộ mặt trông rất ốm yếu. Ông ta tên là Hugh Pattins, ông ta cung chỉ nhận đuợc lời chối từ và ít tiền cùng với lời khuyên chờ đợi.
      Người thứ ba có ngoại hình hoàn hảo. Bộ tóc chổi rễ và bộ râu cứng bao trùm lấy bộ mặt dữ tợn trông như bộ mặt của con chó bull. Cặp mắt nâu can đảm lấp lánh dưới cặp lông mày cứng rậm. ta chào xong và đứng đó trong tu thế của gười
      biển, chiếc mu bị vò nát trong tay.
      - Tên là gì? - Holmes hỏi.
      - Patrick Cairns.
      - Thợ xiên cá phải ?
      - Vâng, 26 năm kinh nghiệm
      - Ở Dundee à ?
      - Vâng, thưa ông.
      - Ngài có đồng ý phục vụ tàu thám hiểm ?
      - Vâng, thưa ngài. Lương hưởng thế nào?
      - Tám bảng trong tháng. Ngay bây giờ có thể xuất hành đuợc hay ?
      - Nếu nhận xong những trang bị đồ nghề là tôi ngay.
      - Giấy tờ có mang theo người ?
      - Vâng, có đây.
      ta lấy ra mớ giấy má nhàu nát, Holmes xem xong trả lại cho .
      - Tôi cần con người như thế này. - . -Bản giao kèo nằm bàn kia. Hãy ký vào đây.
      Tay thủy thủ khệnh khạng bước ngang qua căn phòng và cầm lấy bút.
      - Ký vào đây phải ? - ta hỏi và cúi xuống sát bàn.
      Holmes ghé sát vào vai và đua tay ra kéo cổ lên.
      - Bây giờ mọi việc đều ổn thỏa, - .
      Tôi nghe thấy tiếng "keng" của kim khí, và tiếng gào thét của con bò mộng giãy giụa. Trong lúc ấy cả Holmes và tên thủy thủ buông nhau ra, lộn nhào mấy vòng nền nhà. Tay thủy thủ quả có sức lực phi thường. Thậm chí bị Holmes còng khóa số tám, ta vẫn đủ sức để quật lại Holmes. Nhưng tôi và Hopkins chạy lại giúp sức, chỉ đến khi nòng súng lạnh toát của tôi kề vào thái dương mới chịu hiểu ra là chống cự cung vô ích. Chúng tôi dùng dây trói chân , rồi đứng lên thở hổn hển vì cuộc vật lộn.
      - Tôi phải xin lỗi ngài Hopkins. - Holmes lên tiếng – Món trứng lacooc, tôi e rằng nguội mất. Nhưng tôi nghĩ rằng kết quả mỹ mãn của vụ án làm cho ngài cảm thấy ngon miệng?
      Stanley Hopkins bỗng ngây người, bàng hoàng sửng sốt và đầy bất ngờ.
      - chuyện ấy làm gì nữa! - ta lúng búng trong miệng và cảm thấy xấu hổ đỏ cả mặt. - Tôi là kẻ ngu dốt, bất tài. bao giờ tôi quên rằng mình chỉ là học trò của ngài, còn ngài là người thầy vi đại của tôi. Thậm chí cho đến bây giờ, khi đuợc chứng kiến kết quả của ngài, tôi vẫn thể hiểu nổi ngài tiến hành như thế nào và ý nghia ra sao?
      - Thôi đuợc, - Holmes độ lượng đáp. - Chúng ta cùng nhau rút kinh nghiệm trong mỗi sai lầm của mình. Giờ đây ngài nên ghi xương khắc cốt bao giờ coi thường phương án hai. Ngài bị chàng Neligan làm cho choáng ngợp, nên bao giờ còn nhìn thấy tên Patrick Cairns. Ngài thỏa mãn khá sớm nên mới quên kẻ giết chết lão Peter Carey.
      Giọng khàn khàn của tay thủy thủ ngắt lời Holmes:
      - Ngài hãy nghe đây! Tôi hề thương xót và trách cứ về việc các ngài đối xử thô bạo với tôi nhưng dẫu sao cung nên gọi những kiện theo đúng tên của nó. Ngài "kẻ giết chết Peter Carey", tôi đính chính lại tôi giết lão ta chỉ vì để tự vệ. Điều này khác nhau khá xa đấy. Có thể, các ngài tin tôi? Có thể các ngài cho là tôi đom đặt bịa chuyện?
      - hề có, - Holmes đáp. - Chúng tôi sẵn sàng nghe tất cả những gì mà ngài định .
      - Tôi ngắn gọn. Có trời làm chứng, những điều tôi ra đều là thực. Tôi biết Peter Carey. Khi ta cầm lấy con dao, tôi chộp ngay lấy ngọn lao, bởi tôi hiểu trong hai chúng tôi phải có kẻ chết. Vậy là chết, như vậy có thể gọi tôi là kẻ sát nhân? Đối với tôi cái chết có nghia lý gì hết. Nhưng tôi thích được lên thiên đàng bằng sợi dây treo cổ hơn bằng con dao do chính tay thằng Peter hắc ám đâm vào tim.
      - Làm thế nào mà ngài lại lọt đuợc vào nhà ông ta? - Holmes hỏi.
      - Tôi kể tất cả theo thứ tự. Cho tôi đuợc ngồi xuống, như vậy dễ hơn. Chuyện xảy ra vào tháng 8 năm 1883. Hồi đó Peter Carey là ông chủ của con tàu "Sea Unicorn" còn tôi chỉ là tay lao dự phòng của lão ta. Chúng tôi vượt qua những đám băng dày đặc và đuờng quay về cơn gió ngược
      vỗ mạnh vào tàu chúng tôi; cơn bão kéo dài suốt tuần ngớt. Bất ngờ chúng tôi chạm phải chiếc thuyền con: Chiếc thuyền bị trôi dạt về phương bắc. thuyền chỉ vẻn vẹn có người: người đó phải là thủy thủ. Những người còn lại có lẽ cho rằng chiếc thuyền bị chìm nên xuống hết xuồng cấp cứu, hy vọng ghé vào bờ biển Na Uy. Chắc rằng họ chết hết. Chúng tôi kéo người kia lên tàu của mình. Bọn thủy thủ bàn tán xôn xao trong ca bin của thuyền trưởng khá lâu. Toàn bộ hành lý của người kia đuợc vớt lên tàu vẻn vẹn chỉ có hộp sắt tây. Theo tôi biết tên người đó chúng tôi ai . Đến đếm hôm sau, người đó bỗng mất tích giống như là ta chưa hề có mặt ở đây. Mọi người bàn tán, có lẽ ta bị rơi xuống biển hoặc tự ta nhảy xuống. Vì trong đêm tối hôm ấy có cơn bão lớn nổi lên... Chỉ có người đuợc biết cái gì xảy ra với kẻ xấu số kia - người đó là tôi. Trong đêm tối đen nhu mực, 2 ngày trước khi chúng tôi nhìn thấy ngọn hải đăng Shetland, chính mắt tôi trông thấy lão thuyền trưởng Peter tóm lấy chân chàng kia ném xuống biển.
      Tôi hé cho ai lời nào về chuyến đó. Tôi nghi cứ để xem sao. Tàu chúng tôi tới Scotland, ai nhắc tới câu chuyện người lạ mặt cả, và cung có ai đề ý tới số mạng của ta. Con người tình cờ bị chết! ai lấy đó làm thích thú. Sau đó Peter Carey xin nghỉ hưu. Nhiều năm trôi qua, tôi mới biết đuợc ta trú ngụ ở đâu. Tôi nghi ta gây ra tội ác tày trời cung chỉ vì chiếc hộp sắt tây kia. Bây giờ chắc chắn ta phải trả tiền cho tôi, để tôi lờ tịt câu chuyện tội ác.
      Qua người thủy thủ, người này gặp lão Peter ở London, tôi đuợc biết sống ở đây. Tôi liền đến đó với hy vọng kiếm chác đuợc món gì đấy. Trong đêm đầu tiên hứa cho tôi món tiền lớn đủ cho tôi sống hết cuộc đời phải vất vả với nghề thủy thủ nữa. Cuộc ngã giá cuối cùng chúng tôi gặp lại nhau sau hai đêm nữa. Tôi lại đến và thấy say ruợu. Tâm địa xấu xa bỉ ổi. Chúng tôi ngồi chuyện với nhau, ôn lại quãng đời xa xưa. ta càng uống nhiều chừng nào, bộ mặt của càng làm cho tôi căm ghét chừng ấy. Tôi trông thấy ngọn lao gác tường, và nghi dại có khi cần đến cho mình. cung chịu đuợc nữa. chộp lấy con dao lớn và xông vào tôi, phun nước bọt vào người tôi, văng những lời thô tục xúc phạm đến tôi. Tôi thấy chuẩn bị hành động giết người. Nhưng chưa kịp rút con dao ra, tôi nhanh tay hơn lấy ngọn lao đóng chặt vào tường. gào thét thảm thiết. Bộ mặt của cho đến tận bây giờ tôi thể nào quên đuợc và vẫn ám ảnh tôi, sao tôi chợp mắt đuợc. Máu chảy ra như suối, còn tôi cứ ngây ra như ngỗng đực. Xung quanh im lặng như tờ, tôi cảm thấy yên tâm. Nhìn quanh, tôi thấy hộp sắt tây để giá sách. Tôi cung có quyền như lão Peter? Tôi cầm lấy hộp sắt tây vội vã bước ra khỏi nhà. Do bộp chộp, tôi để quên gói thuốc của mình ở bàn.
      Còn bây giờ tôi kể cho các ngài nghe phần lạ lùng nhất của câu chuyện này. Vừa bước ra khỏi nhà, tôi nghe thấy tiếng bước chân của ai đó. Tôi trốn vào lùm cây. Tôi thấy có người đến căn phòng của lão Peter. Khi bước vào nhà, ta bỗng hét lên như người bị hớp hồn và bỏ chạy thục mạng. Còn tôi đánh lừa tất cả mọi người, cuốc mạch hơn mười dặm đến Tunbridge Wells và leo lên tàu hỏa London.
      Khi tôi mở chiếc hộp ra, trong đó còn cái gì hết, ngoài mớ giấy tờ, mà tôi chần chừ chưa chịu đem bán. Tôi còn quyền lực gì đối với tên Peter hắc ám kia, tôi lang thang thơ thẩn quanh London xu dính túi. Tôi còn
      nghề thủy thủ trong tay. Tôi trông thấy dòng thông báo tìm người lao cá với số lương khá hậu hi. Tôi lập tức đến gặp sở giao dịch và người ta chỉ tôi đến đây. Đấy là tất cả những gì tôi đuợc biết. Mặc dù tôi có tội giết người, nhưng đáng lẽ công lý phải biết ơn tôi, tôi tiết kiệm cho nhà nước khoản chi phí để mua giây thòng lọng.
      - Lời khai khá chặt chẽ, - Holmes và đứng dậy. - Hopkins, tôi nghi, ngài hãy mau chóng thả chàng trai bị bắt ra ngay. Và căn phòng này hợp với ngài Patrick Cairns chút nào.
      - Tôi có cách nào để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với ngài, thưa ngài Holmes, - Hopkins đáp. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thể hiểu, bằng cách nào ngài đạt đuợc những kết quả như vậy.
      - Đon giản thôi. Ngay từ đầu tôi đúng huớng, trước đó tôi đuợc biết về cuốn sổ tay, nó đánh lạc hướng cả ngài lẫn tôi. Nhưng dẫu sao, khi nghe chuyện này tôi theo khả năng đuợc chọn. người lực lưỡng, khỏe mạnh, biết sử dụng ngọn lao, uống rượu rum và bao đựng thuốc lá làm bằng da hải cẩu, với loại thuốc lá khá nặng. Tất cả những vật đó, làm cho tôi nghi ngay tới những người biển. Tôi khẳng định, hai chữ viết tắt "P.C", chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Bao đựng thuốc phải là của Peter Carey, bởi ông ta
      rất ít hút thuốc. Trong "cabin" của ông ta lại hề tìm thấy tẩu thuốc. Ngài hẳn còn nhớ khi tôi hỏi trong phòng còn rượu nào khác hay ? Ngài có brandy và whisky nhưng chưa uống tới. Vậy ai là người uống rượu rum, khi trong tay có sẵn brandy và whisky? có phải chỉ những người dân biển nào? Tôi tin chắc rằng, ngoài dân biển ra có ai vào đây.
      - Làm cách nào ngài tìm ra đuợc ông này?
      - Ôi! Cái đó đon giản. Tay thủy thủ kia chỉ có thể từ trong số những người cùng biển với lão Peter Carey con tàu "Sea Unicorn". Theo chỗ tôi đuợc biết, Peter Carey con tàu nào khác nữa. Tôi mất ba ngày để đánh điện Dundee nhắm mục đích xác định lại danh sách những người tàu "Sea Unicorn" trong năm 1883. Và tôi đuợc biết trong số những người thợ xiên cá có người tên là Patrick Cairns trùng với các chữ cái bao đựng thuốc lá. Hướng điều tra của tôi coi như hoàn thành. Tôi nghi rằng, người này nhất định ở London và tìm cách chạy trốn khỏi nước . Vì thế tôi bỏ mấy ngày ở East End bịa ra chuyện thám hiểm Nam Cực, đặt số điều kiện béo bở đối với những người thợ săn cá và họ làm việc dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Basil. Kết quả ... Như ngài thấy đấy.
      - kỳ diệu biết bao. - Hopkins thán phục.
      - Ngài phải thả ngay chàng Neligan. - Holmes . - Tôi cho rằng ngài nên có lời xin lỗi vì hành động của mình đối với ta. Cần phải trả lại cho ta chiếc hộp sắt tây ấy. Tất nhiên những chứng khoán bị Peter Carey bán, coi như còn nữa... Xe đến. Hopkins, ngài có thể đem ông ta . Nếu cần có mặt của tôi ở tòa, ngài hãy điện sang Na Uy cho tôi biết, địa chỉ chính xác của tôi báo cho ngài sau.
      Hết
      ---
      [1] khoảng 14 gram

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      8. Tên Tống Tiền Ngoại Hạng


      Một ngày mùa đông. Trời băng giá. Khi Holmes thắp đèn, ánh sáng chiếu lên một tấm danh thiếp đặt bàn. cầm lấy và với một lời than thở, liệng nó xuống đất. Tôi lượm lên:

      "Charles Auguste Milverton
      Appledore Towers Hampstead
      Đại lý kinh doanh”

      - Ai vậy?

      - Kẻ đồi bại nhất trong thủ đô - Holmes trả lời, ngồi xuống và duỗi đôi chân dài ra trước ngọn lửa. Mặt sau tấm thiếp có viết gì ?

      Tôi lạt thiếp lại:

      - Có “ tới vào hồi 7 giờ 30”.

      - Hừm! Gần đến giờ rối. Trong cuộc đời, tôi từng đụng đầu với năm mươi tên sát nhân; nhưng kẻ tồi tàn nhất trong bọn dó cũng chưa bao giờ gây cho tôi một ghê tởm bằng gã này trong nghề nghiệp, tôi buộc lòng phải gặp : thật ra sắp tới đây theo lời mời của tôi.

      - Nhưng là ai vậy?

      - là vua của những tên chuyên đe doạ để tống tiền. Tội nghiệp thay cho người đàn ông và nhất là người đàn bà nào bị rơi vào trong tay của . Với một nụ cười thật hiền, vắt, vắt mãi cho tới khi nào trái chanh chỉ còn là cái vỏ. hành động như thế này: dùng số tiền thật lớn để mua những lá thư làm "liên luỵ' ' đến cuộc đời của những người giàu sang hoặc có danh vọng trong xã hội thượng lưu. nhận những món hàng đó những từ các đầy tớ, các bà hầu phòng mà còn ở những tên vô lại chính phục được các thiếu nữ cả tin . . . Có lần trả bảy trăm đồng bảng cho một người phục vụ ở khách sạn để lấy một tờ giấy chỉ vỏn vẹn có hai dòng chữ. Thế rồi một gia đình ngóc đầu lên nổi. Trong cái thành phố này, hàng trăm và hàng trăm người tái mặt khi nghe nhắc tới tên . Hàn giữ kỹ một tấm danh thiếp trong nhiều năm và sau cùng đem nó ra đặt trước mặt khổ chủ và đòi một số tiền gấp mấy chục lần số vốn bỏ ra.

      - Nhưng sau cùng.. chắt gã phải sa vào lưới của nhà pháp luật chứ? Tôi hỏi.

      - Theo lý thuyết. như thế _.Nhưng thực tế chẳng bao giờ. ví dụ, một người đàn bà có lợi ích là khi làm cho y bị kiện vài tháng tù , rồi sau đó bà bị phá sản và tiêu tan danh dự ) Những nạn nhân của dám tráỉ đòn. Cần. phải có những vũ khí khác mới hạ được .

      - Vậv tại sao mời tới?

      - Một nạn nhân nhờ tôi giải quyết trường hợp đáng thương của . là E-va, sể làm lễ thành hôn với bá tước Đô-vơ rên , tên vô lại này có trong tay ruột vài lá thư, những lá thư chỉ do thận trọng mà thôi. viết những thư đó cho một điền chủ trai trẻ Ở nông thôn. Nhưng với một người ghen tuông, lá thư đó đủ làm tan vỡ cuộc đính hôn. Gã Mil-vơ hứa gửi những lá thư đó đến ông bá tước, nếu trước đó chưa nhận được một món tiền chuộc. Tôi được giao phó cho việc mua lại lá thư với giá thấp .

      Có tiếng ngừng xe và móng ngựa từ dưới đường phố vọng lên. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một ̃ xe đủ tiện nghi, do hai con ngựa kéo. Người hầu mở cánh cửa xe. Một người , khoẻ, mặc áo măng-tô may bằng da lông thú bướt xuống, lên nhà chúng tôi.

      Tên lưu manh Mil-vơ này trạc năm mươi tuổi. ông ta có một cái đầu oai nghiêm và thông minh. Bộ mặt tròn trĩnh và hồng hào, có râu, đôi môi luôn nở một nụ cười. Cặp mắt xám soi mói lấp lánh đằng sau cặp kính bằng vàng. Giọng cũng ngọt ngào và êm ái như thái độ của ông ta.

      Holmes thèm bắt cái bàn tay bé phì nộn và nhìn vào ông khách với'vẻ mặt sắt đá. Nụ cười của Mil- vơ nở rộng. ông ta nhún vai, cởi cái áo lông ra, gấp lại hết sức cẩn thận thành ghế và ngồi xuống.

      - Còn ông này? - với một cử chỉ bâng quơ phác về hướng tôi - Có kín đáo ?

      - Bác sĩ đây là bạn và là người hợp tác với tôi. Thưa ông Holmes. Chính vì quyền lợi của thân chủ ông mà tôi đặt ra câu hỏi đó. Vụ này thật là quá tế nhị...

      - Bác sĩ Watson có nghe về chuyện đó.

      - Ông ông là người đại diện cho công nương E-va. ấy có thuận cho ông theo những điều kiện của tôi ?

      - Điều kiện của ông như thế nào?

      - Bảy ngàn bảng.

      - Nếu ?

      - Nội trong ngày 14 mà có tiền đám cưới chắc được cử hành vào ngày 18.

      Cái nụ cười nhã nhặn hơn bao giờ hết. Holmes suy nghĩ rất nhiều, sau cùng :

      - Tôi có cảm tưởng là ông coi vụ này chắc ăn lắm.

      - Tuy nhiên tôi khuyên ấy thổ lộ tất cả câu chuyện với người chồng, rồi tự đặt mình dưới lòng độ lượng của phu quân.

      Mil-vơ khảy một tiếng cười . .

      - Ông biết gì về ông bá tước?

      - Có điều gì xấu xa trong những lá thư đó? - hỏi.

      - Chúng có tính bốc đồng. . . Rất bốc đồng? - Mil-vơ .mỉm cười, trả lờing nương đúng là người viết thư nhiều tài trí. Nhưng tôi có thể khẳng định với ông rằng, bá tước Đô-vơ tán thưởng chút nào cái phong cách bông lơn như trong những bức thư đó. Tuy nhiên, vì ông phán xét theo cách khác, chúng ta hãy dừng lại đây.

      đứng lên và gỡ lấy cái áo choàng lông. Holmes bị làm nhục, mặt tái xám vì giận dữ:

      - Hãy khoan? ông mau quá. Tất nhiên là chúng tôi mong muốn được tránh mọi tai tiếng trong vụ này, chúng tôi có thể ́ gắng. . . '

      Mil-vơ lại buông mình xuống ghế.

      - Tôi tin chắc là ông nhìn vụ việc dưới góc độ đó?

      - Nhưng, công nương E-va lại giàu có gì. Số tiền mà ông đòi vượt quá khả năng của . Vậy tôi mong ông hãy giảm những đòi hỏi xuống. Xin hãy tin tôi, 2000 bảng là giá cao nhất mà ấy có thể trả.

      Nụ cười của Mil-vơ lại nở rộng và nháy mắt với chúng tôi một cách ranh mãnh.

      - Tôi biết ông thật về của cải của công nương E-va. Nhưng mặt khác, ông nhìn nhận rằng đám cưới của một mệnh phụ là một cơ hội mơ ước cho những bạn bè và gia đình của dâu. Tôi tin rằng họ ưng thuận một ́ gắng cho vinh dự của . Hãy để cho tôi với họ rằng những lá thư bé này được đón nhận nồng hậu hơn là tất cả những cây đèn nến và tất cả những lọ đựng bơ ở Luân Đôn?

      - thể được!

      - Chúa ơi, rủi ro biết mấy! - Mỉl-vơ kêu lớn khi rút từ trong túi ra một cuốn sổ tay lớn -- Hãy nhìn cái này coi,.

      giơ ra một tờ giấy có hình các huy hiệu phong bì.

      - Cái này thuộc về... úi chà, thật tử tế khi ra cái tên trước buổi sáng ngày mai! Nhưng sáng mai, lá thư này lọt vào tay ông chồng một mệnh phụ phu nhân. Và sở dĩ có chuyện đó vì bà chịu đem đồi những hạt kim cương thật lấy những viên kim cương. Hẳn ông còn nhớ vụ Mi lê và đại tá Đô-ki đây chứ? Chỉ hai ngày trước khi cử hành hôn lễ, nhật báo Bưu điện Buổi sáng đăng một mục loan tin cuộc hôn nhân bất thành. Tại sao vây nhỉ? Một ngàn hai trăm bảng hẳn dàn xếp ổn thoả? ông làm tôi ngạc nhiên thật đấy. ông Holmes ạ.

      - Tôi đoán chắc với ông rằng công nương E-va thể nào gom góp đủ tiền theo ý ông. Chắc chắn là ông có lợi khi nhận số tiền thiết thực mà tôi đề nghị, còn hơn là phá huỷ nghiệp một người đàn bà. phá hoại ấy chẳng đưa đến cho ông gì cát ấy đấy, - ông lầm to rồi, thưa ông Holmes. Sau một vụ tai tiếng tôi thu lợi nhiều hơn nữa? Tôi hiện có tám hoặc mười vụ tương tự. Nếu có lời đồn đại rằng " dễ gì lay chuyển được ngài Charles Auguste Miìverton trong vụ công nương E-va", sau đó tôi bao nhiêu người ta cũng phải nghe, ai dám cò kè với tôi, ông thấy quan điểm của tôi chứ?

      Holmes nhảy ra khỏi ghế. .

      - Tôi đứng sau lưng , Watson! Đừng để cho ra khỏi đây! Giờ đây, chúng ta hãy coi cuốn sổ này có những gì .

      Mil-vơ chuồn như một con chuột tới đầu phòng bên kia và đứng dựa lưng vào tường.

      - Ông Holmes - , sau khi lật cái áo lông lại và chìa ra một cái báng khẩu súng lục lớn - Việc này xảy ra cả ngàn lần và chẳng bao giờ đưa ra một lối thoát tốt đẹp nào. Tôi đoán chắc với ông rằng tôi được vũ trang tới tận răng và tôi sẵn sàng nổ súng, tôi có luật pháp bênh vực Vả chăng tôi bao giờ lại mang theo những lá thư trong cuốn sổ này. Giờ đây, thưa quý ông, tôi còn có nhiều cuộc hẹn khác trong tối nay và con đường tới Hampstead còn xa.

      tiến lên, mặc áo choàng vào và quên hượm sẵn khẩu súng, rồi ra cửa. Tôi nắm lấy một cái ghế, nhưng Holmes lắc đầu và tôi đặt ghế xuống. Sau một tiếng chào, một nụ cười và một cái nháy mắt, Mil-vơ ra.

      Lát sau, có tiếng cánh cửa đập lại. Và tiếng những bánh xe lăn đường.

      Holmes ngồi gần lò sưởi, hai tay thọc trong túi quần, cằm gục xuống ngực, đôi mắt chăm chú nhìn lên những cục than tàn. Trong nửa tiếng đồng hồ, ngồi yên lặng và bất động. Rồi , với cừ chỉ của một người có một quyết định, đứng lên và bỏ sang phòng riêng. Một lát sau, từ trong đó bước ra một chú công nhân thư thái, có râu rậm và bước với dáng điệu "ta đây". Trước khi xuống phố, mồi cái tẩu bằng đất vào ngọn đèn.

      - Tôi sễ về, Watsoni. biến vào trong bóng đêm. Tôi biết tuyên chiến với tên tống tiền ngoại hạng này.

      Trong vài ngày, Holmes về vào bất cứ giờ giấc nào dưới lớp giả trang đó. Ngoài một câu giúp tôi hiểu là tiêu giờ ở vùng Hampstead và giờ đó phí phạm, còn tôi biết gì hơn. Tuy nhiên, sau cùng vào một buổi tối có một cơn phong ba dữ dội, với tiếng gió gào thét và giông gió mạnh, trở về, gỡ bỏ bộ quần áo ra, tới ngồi trước ngọn gió lửa và cất tiếng cười.

      - thấy tôi lấy vợ, phải thế , Watson?

      - Chắc chắn rồi ' - Nhưng hôm nay, tôi hứa hôn. . . .

      - Bạn thân mến, tôi có lời chúc mừ.ng . .

      - . . với hầu phòng của Mil-vơ .

      Trời đất thánh thần ơi ... Holmes!

      - Tôi cần thu thập tin tức mà ! quá lố rồi đấy

      - Đó là một chặng đường cần thiết. Tôi là thợ đặt ống. Tôi có một cơ sở làm ăn phất. Tôi tên là êch-.Tối nào tôi cũng dạo phố với ta và chúng tôi tán gẫu.

      Chúa ơi, thật là kịch biết mấy! Tuy nhiên, tôi biết về ngôi nhà của Mỉl-vơ như lòng bàn tay tôi.

      - Thế còn hầu phòng, Holmes? nhún vai.

      - Cần phải chơi những lá bài của mình một cách tốt nhất. Tuy nhiên tôi thật sung sướng được có một tình địch oán ghét và tới thế chỗ tôi một cách có lợi ngay khi nào tôi quay lưng lại. Đêm tuyệt vời, phải - ưa thích thời tiết này sao?

      - Nó thuận lợi cho những ý đồ của tôi. Đêm nay tôi tới đào tường khoét ngạch nhà Mil-vơ.

      Tôi ngạc nhiên. Một cơn lạnh chết người luồn dọc theo xương sống tôi. Tôi chợt thấy một lượt những kết quả theo sau cái hành động đó: người ta khám phá ra , người ta bắt bớ , và nghiệp vẻ vang của chấm dứt.

      - Holmes ơi! hãy suy nghĩ về việc đó!

      - Tôi suy nghĩ nhiều. Chúng ta hãy xem xét vấn đề thật bình tĩnh. Lấy trộm một cuốn sổ tay để cứu nhiều gia đình..'. là làm một việc tất, nhưng dầu sao nó cũng là ăn trộm. Watson thân mến, tôi đoán là vẫn bênh vực quan điểm này của tôi. ' Tôi suy nghĩ.

      - Phải. Việc đó có thể biện bạch về mặt đạo đức, với điều kiện là lấy những đồ vật khác hơn là những thứ mà y định dùng cho một ý đồ tồi tệ.

      - Đúng thế. Bởi vì nó được biện bạch về mặt đạo đức, cho nên tôi chỉ còn phải xem xét khía cạnh thuộc nguy cơ nghề nghiệp. Một người quân tử được chần chừ lâu, khi mà một phụ nữ đặt lòng cầu mong được giúp đỡ.

      Nhưng liệu có chắc ăn ?

      - có cách nào khác để thu hồi những lá thư.

      - Công nương E-va có đủ tiền và cũng có ai trong gia đình để mà thổ lộ tâm tình. Ngày mai là thời hạn cuối cùng_. Nếu trong vài chục giờ đồng hồ nữa, chúng ta có những lá thư, tên vô lại kia ra tay tàn độc Như vậy cái thế phải lựa chọn là như sau: hoặc bỏ mặc thân chủ cho số phận của , hoặc chơi lá bài sau chót này. Đây là một cuộc quyết đấu tay đôi đẹp mắt giữa ; tên bất lương đó và tôi.

      - Tôi ưa thích điều đó! Nhưng ta đành phải làm thôi. Chừng nào lên đường?

      - Ồ, ?

      - Nếu để cho tôi chia nỗi nguy hiểm của tôi chạy tới đồn cảnh sát gần nhất và báo cho họ biết chuyện này.

      - giúp được tôi điều gì đâu.

      - Làm sao biết được? Ai có thể điều gì xảy ra?

      Holmes có vẻ khó chịu nhưng mặt rạng rỡ và đặt một bàn tay lên vai tôi:

      - Được, như vậy cũng được. Từ vài năm qua chúng ta sống chung trong một mái nhà. Thật là thích thú nếu chúng ta cùng chung một xà lim! Hãy coi đây...

      mà ngăn kéo lấy ra một cái bao da, mở bao và đưa cho tôi coi vài dụng cụ bóng láng.

      - Đây là đồ nghề lủng củng mới nhất của một tên trộm: một cái nạy cửa mạ kền, một con dao có mùi kim cương để cắt kính, những chìa khoá vạn năng, dây, cái đèn ló. Tất cả đều gọn gàng. có đôi giày êm ái - Tôi có đôi giày đánh quần vợt đế cao su.

      - Tốt lắm! Và một cái mặt nạ?

      -Tôi có thể chế ra với một đôi tất lụa.

      Vậy hãy chế biến . Chúng ta ăn đồ nguội trước khi . Bây giờ là 9 giờ rưỡi. Tới 1 1 giờ, chúng ta và bắt tay vào việc trước ìúc nửa đêm. Mil-vơ luôn luôn . ngủ vào hối 10 giờ rưỡi. Với một chút cơ may, chúng ta hẳn phải quay trở về nhà lúc 2 giờ với những lá thư của công nương E-va.

      Chúng tôi mặc kiểu giống với những người xem hát trở về nhà. Trong đường Oxford, chúng tôi lên một ̃ xe ngựa. Khi gần tới nơi, chúng tôi trả tiền xe và cài cúc ̉ những tấm áo choàng rồi cuốc bộ tới nhà Mil-vơ.

      - Những tài liệu đó được chứa trong một cái két sắt kê ở trong văn phòng của , và cái văn phòng đó lại được làm-phòng đợi bên cạnh phòng ngủ của .

      Mặt khác, là một người ngủ say dễ sợ. Vị hôn thê của tôi, rằng giấc ngủ của ông chủ là một đề tài khôi hài bao giờ cạn. Hán có một người thư ký suốt ngày rời khỏi văn phòng. Bởi thế nên chúng ta mới tấn công vào ban đêm. cũng có nuôi một con chó dữ như quỷ, đêm đêm dạo trong vườn. Giờ đây ta nhốt con chó đó rồi. Nhà đây này? Đó là ngôi nhà xây lớn bên trong khu đất này. Chúng ta hãy vượt qua hàng rào. Rẽ phải, ở phía sau những cây nguyệt quế. Bây giờ đeo mặt nạ vào. thấy đó, một cửa sổ nào được chiếu sáng. Tất cả đều tuyệt vời.

      Chúng tôi về phía ngôi nhà im lìm. Một hàng hiên lợp ngói chạy dài bên một phía, với nhiều khuôn cửa sổ và hai cánh cửa ra vào.

      - Đây là phòng ngủ của - Holmes thầm - Cửa này mở vào văn phòng . . Nó có cài then. Thôi, vòng qua đây.

      Một nhà kiếng mở lối vào phòng khách. Holmes lấy dụng cụ ra khoét một vòng tròn mặt kính và xoay cái chìa khoá ở bên trong. Một lát sau, đóng cửa lại.

      Holmes nắm lấy bàn tay tôi trong bóng tối và dẫn tôi băng nhanh qua phía bên kia những bồn hoa trồng những cây có nhiều cành lá vươn ra quét vào mặt chúng tôi.

      Vẫn luôn luôn nắm chặt lấy tay tôi, Holmes mở một cánh cửa và tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng chúng tôi vào trong một căn phòng có người vừa hút xì-gà. mò mẫm giữa những đồ đạc, mở một cánh cửa khác rồi khép lại. Tôi vươn một bàn tay ra và nhận thấy có nhiều quần áo treo sát tường: tôi biết là mình ở trong một hành lang.

      Chúng tôi dọc theo hành lang. Holmes nhàng mở một cánh cửa khác bên tay phải. Một cái gì đó lao vào chúng tôi và run bắn lên, nhưng đó là con mèo. Một ngọn lửa lịm dần trong phòng và bầu khí cũng nặng mùi thuốc hút. Holmes nhón gót vào trong, chờ tôi, đoạn gây tiếng động, đóng cửa lại. Chúng tôi ở trong phòng của Mil-vơ. Tại đầu phòng bên kia, một rèm cửa che khuất lối vào phòng ngủ của .

      Ngọn lửa vẫn soi sáng căn phòng. Gần bên cửa ra vào, tôi thấy một công tắc lo lánh nhưng cần thiết bật nó lên. một bên lò sưởi có kéo tấm ri-đô dày, phủ lên cái lỗ cửa gắn kính mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Phía bên kia có cánh cửa chúng ra hàng hiên. Một bàn giấy nằm ngay giữa phòng với một cái ghế bọc da màu đỏ. Trước mặt, một tủ sách lớn bên có đặt bức tượng nữ thần Minerve tạc bằng đá hoa cương. Trong góc giữa tủ sách và bức tường, có một tủ sắt lớn ánh sáng của ngọn lửa lò sưởi phản chiếu mặt tủ nhẵn bóng. Holmes băng ngang và kiểm tra căn phòng.

      Đoạn trườn tới bên cánh cửa và đứng bất động nghiêng đầu, lắng nghe. một tiếng động. Giữa lúc đó, tôi chợt nảy ra cái ý là chúng tôi nên tìm một đường tháo lui qua ngả cửa phía bên ngoài và tôi quan sát nó.

      khoá chốt mà cũng cài then. Tôi đụng 1 vào cánh tay Holmes và xoay bộ mặt che mặt nạ về cái hướng mà tôi chỉ cho . Tôi thấy giật nảy mình. ràng là cũng ngạc nhiên như tôi, thật khẽ:

      Có thấy. hãy đứng kế bên cửa ra vào. Nếu nghe thấy có người lại gần, hãy cài chất bên trong và chúng ta bỏ như tới. Như họ đến từ phía bên kia chúng ta bỏ qua lối cửa ngoài, nếu chúng ta làm xong việc; nếu , chúng ta núp đằng sau những tấm ri-đô này. chứ?

      Tồi gật đầu xác nhận rồi tới đứng bên cửa ra vào.

      Cảm tưởng sợ hãi biến mất và giờ đây tôi còn bị kích thích nhiều hơn là khi chúng tôi bảo vệ luật pháp. Tôi chẳng cảm thấy là mình phạm tội, tôi hớn hở trước ý nghĩ về những mối nguy hiểm mà chúng tôi trải. Với lòng khâm phục, tôi nhìn Holmes mở các dụng cụ ra và bình tĩnh chọn lấy món đồ thích ứng; giống như bác sĩ ngoại khoa chuẩn bị cho một cuộc giải phẫu tế nhị.

      Holmes đặt cái áo khoác mặt ghế dựa, xắn vạt áo lớn lên, lấy ra hai mũi khoan, một cái nạy cửa và nhiều chìa khoá . Tôi đứng bên cửa, hai mắt mở rộng và giữ tư thế sẵn sàng. Trong nửa tiếng đồng hồ, Holmes thao tác nhanh gọn và khéo léo, đặt món đồ này xuống, lấy món khác lên. Sau cùng, tôi nghe một tiếng "cạch'. Cánh cửa nặng nề mở ra. Bên trong tủ sắt có nhiều xấp giấy; mỗi xấp được ̣t lại, gắn niêm phong với một hàng ghi chú. Holmes rút ra một xấp nhưng thật khó mà đọc dưới ánh sáng của n lịm dần. rút cái đèn ló ra, nhưng bật điện lên là quá nguy hiểm. Bất chợt, tôi thấy giỏng tai lên, trong thoáng chốc, khép cánh cửa sắt lại, quơ lấy tấm áo choàng, nhét vội các dụng cụ vào trong một túi, rồi tới núp đằng sau tấm ri-đô che cửa sổ và ra dấu cho tôi hãy làm theo .

      Sau khi tới đứng nấp bên , tôi hết sức thán phục cái thính giác nhạy bén của . Đâu đó trong ngôi nhà có một tiếng động. Trong chốn xa xôi có tiếng cánh cửa đẩy mạnh. Đoạn một tiếng rì rào khó phân biệt, rồi những bước chân nặng nề tới gần. Bước chân trong hành lang, ngừng lại một lát trước cửa. Cánh cửa mở ra. Có một tiếng cạch: người ta bật điện. Cánh cửa đóng lại. Mùi xì-gà loại nặng lảng vảng trước mũi chúng tôi Những bước chân lại tiếp tục. CÓ người tới, lui; và lại lui, tới Tất cả lại đó chỉ cách chúng tôi có vài mét. Sau cùng, cái ghế bành kêu răng rắc và tiếng bước chân ngừng lại. Rồi một chìa khoá được nhét vào trong ổ khoá và tôi nghe tiếng giấy kêu xào xạc nhè .

      Tôi nhàng vén tấm ri-đô ra. Vai Holmes tựa vào vai tôi và tôi đoán cũng quan sát Ngay sát trước mắt chúng tôi, phô ra tấm lưng rộng tròn của tên vô lại. Chúng tôi sai lầm: chưa vào phòng chơi bi-da. ngồi ngả lưng vào cái ghế bành bọc da, hai chân duỗi dài và một điếu xì-gà ló ra ngoài một bên mép. cầm một tài liệu, đọc với dáng uể oải trong lúc miệng vẫn nhả ra những vòng tròn khói thuốc. Thái độ thoải mái và tư thế bình thản đó để lộ cho thấy trước dấu hiệu là sắp bỏ .

      Tôi cảm thấy bàn tay Holmes lùa vào bàn tay tôi và siết lấy nó để làm tôi yên lòng, như để cho tôi thấy là thật bình thản. Tôi biết có thấy cái mà tôi thấy hay ? Đó là cánh cửa sắt chưa được đóng chặt; bất cứ lúc nào gã Mil-vơ cũng có thể nhận ra điều đó. Tôi quyết định trong đầu, rằng nếu tên vô lại khám phá ra điều này, tôi nhảy vọt ra, làm cho nghẹt thở dưới tấm áo măng-tô trói chặt lại và để cho Holmes lo việc còn lại. Nhưng Mil-vơ hề ngước 'mắt lên. say sưa đọc: Trang này tiếp trang khác. Khi đọc xong và vừa vứt điếu xì-gà, một biến ́ bất ngờ xảy ra.

      Trước đó, nhiều lần tôi nhận thấy Miì-vơ xem đồng hồ. Một lần y đứng lên, rồi lại ngồi xuống với một cử chỉ mất kiên nhẫn. Và bây giờ khi nghe thấy một tiếng dộng vọng tới từ hàng hiên mé ngoài, Mil-vơ buông rơi xấp giấy và ngồi thẳng lên. Tiến lặp lại và rồi có người gõ lên cửa. đứng lên và tới mở cửa.

      - Bà đến muộn tới nửa tiếng đồng hồ - đột ngột .

      Vậy ra đó là lời giải thích về thức khuya của Mil- vơ. Tôi nghe thấy tiếng sột soạt của tà áo đàn bà. Tôi khép tấm ri-đô lại, bởi vì Mil-vơ quay đầu về phía chúng tôi Nhưng rồi tôi lại đánh liều khẽ hé nó ra. ngồi xuống, miệng vẫn ngậm điếu xì gà. Trước mặt là một phụ nữ cao, tóc nâu, mảnh mai, mặt che mạng, áo măng tô kéo lên tới ̉. Hơi thở bà ngắn, nhanh. Bóng dáng bà run lên vì một xúc động mãnh liệt.

      - Thế nào? Bà làm tôi mất một đêm nghỉ ngơi ngon lành. Tôi hy vọng là bà đền bù cho tôi. Bà thể đến vào một giờ nào khác hả?

      Người đàn bà lắc đầu. ' Tốt thôi. Nhưng làm sao mà bà lại run rẩy đến như thế Coi nào, hãy bình tĩnh lại? Và bàn công chuyện làm ăn? .

      lấy ra một tờ giấy và tiếp:

      - Bà là bà có năm lá thư có thể gây liên luỵ cho bà bá tước An-be. Bà muốn bán? Tôi sẵn lòng mua. Việc còn lại là định giá. Tôi muốn được xem nhưng lá thư đó.

      Nếu quả thật chúng là những miếng ngon... Lạy Chúa tôi, ra là bà đấy ư?

      một lời, người đàn bà gỡ tấm mạng che mặt ra và buông ̉ áo măng tô xuống. Một khuôn mặt sẫm tồl, đẹp, thanh nhã, đương đầu với bộ mặt xấu đến gớm ghiếc của Mil-vơ.

      -Chính tôi đây? Tôi, người đàn bà mà ông phá hại cuộc đời. Mil-vơ bắt đầu cười, nhưng sợ hãi run lên trong giọng :

      - Bà quá ương ngạnh: Tôi ra một cái giá hoàn toàn nằm trong khả năng của bà. Thế mà bà chịu xuỳ tiền ra!

      - Thế là ông gửi những là thư đó cho chồng tôi.
      Và chồng tôi. . Cõi lòng nhà tôi bị tan nát và ông ấy chết vì buồn phiền. . . ông còn nhớ chứ, cái đêm mà xuyên .qua cánh cửa của ông, tôi van xin ông: ông cười chế giễu vào mặt tôi cũng như ông ́ cười vào lúc này đây Có điều là trái tim hèn hạ của ông ngăn được môi ông run lên. Phải, ông nghĩ bao giờ còn gặp lại tôi nữa, nhưng chính cái đêm hôm đó dạy cho tôi biết cách gặp ông. Vậy , Mil-vơ, ông có còn gì để nữa ?

      - Đừng có hòng làm tôi lo sợ - , sau khi đứng lên - Tôi chỉ cần cất cao giọng là toàn thể gia nhân ào ra bắt giữ bà. Nhưng tôi tha lỗi cho cơn giận dữ tự nhiên đó.

      -Hãy rời khỏi phòng này ngay và tôi gì hết.

      Người đàn bà giấu một tay trong vạt áo. Bà vẫn luôn luôn phô ra cùng một nụ cười chết chóc đôi môi mỏng.

      - Ông còn phá hoại những gia đình khác như ông phá hoại gia đình tôi. Hãy nhận lấy cái này, đồ súc sinh nhơ nhớp. Và cái này! Thêm cái này Và còn cái này nữa?' ' Bà vừa vừa trút đạn vào Mil-vơ. muốn bỏ trốn, nhưng lại ngã nhào lên mặt bàn, miệng ho một cách mãnh liệt và tay níu lấy mớ giấy tờ. Đoạn y lại đứng lên, nhận thêm một viên đạn nữa và lăn xuống sàn nhà.

      Người đàn bà nhìn kỹ với cặp mắt mở rộng và dùng gót giày đạp lên đầu . Sau đó bà còn nhìn một lần nữa. Tôi nghe thấy một tiếng sột soạt . khí ban đêm tràn vào trong căn phòng nóng nực. Người đàn bà bỏ di.

      Vào lúc mà người thiếu phụ trút đạn, tôi chực lao ra, nhưng Holmes kéo tôi lại. Sau khi người đàn bà ra khỏi phòng, Holmes lao tới cánh cửa và khoá lại. Ngay sau đó khắp nhà vang lên những tiếng và những bước chân. Holmes chạy lên bên két sắt, quơ lấy từng xếp giấy tờ rồi quăng vào ngọn lửa. Trong một thoáng, cái két sắt trống trơn. Trong hành lang, người ta xoay cái then cài cửa người ta đấm lên cửa. Holmes liếc nhìn quanh. Lá thư hãy còn ở bàn, vấv đầy náu. Holmes ném nó vào giữa tờ khác cháy rồi bình thản mở cánh cửa thông ra vườn, đẩy tôi ra trước rồi khoá cửa lại từ phía ngoài.

      - Qua ngả này' Theo ngả này leo qua bức tường ngoài vườn.

      Cuộc báo động lan thật nhanh. Cả ngôi nhà tràn ngập ánh sáng. Cửa trước mở rộng, lố nhố những hình người chen lấn trong lồl vào chính. Vườn đầy nhóc những người. Khi chúng tôi rời khỏi hàng hiên, có ai đó kêu lên một tiếng và lao mình đuổi theo. Holmes như biết địa thế trong từng chi tiết . len lách qua một khu trồng các cây . Tôi theo . Người ta đuổi theo sát gót chúng tôi. Bức tường cao một mét rưỡi, Holmes rướn mình, chống tay nhảy vọt qua tường. Tôi bắt chước một bàn tay đàn ông mu lấy chân tôi. Tôi vùng thoát và nhảy vọt qua tường. Ra tới ngoài, tôi rơi đầu xuống trước, lăn vào giữa những bụi cây. Holmes đỡ tôi đứng lên và cùng nhau chạy băng qua Hampstead. Tôi tin rằng chúng tôi chạy trong ba cây số. Sau cùng, Holmes dừng lại, lắng tai lên nghe ngóng. Đằng sau chúng tôi hoàn toàn yên lặng.
      Sáng ngày hôm sau, chúng tôi ngồi hút tẩu thuốc đầu tiên Lestrade đến.

      - Xin chào, thưa ông Holmes. Xin chào... Xin mạn phép được hỏi thăm lúc này ông có bận rộn ?

      - Còn đủ thời giờ để nghe ông .

      - Ông có thể giúp chúng tôi trong vụ vừa xảy ra đêm qua ở Hampstead.

      - Có chuyện gì vậy?

      Một vụ ám sát bi thảm và đặc biệt. Từ lâu chúng tôi canh chừng ông Mil-vơ . . . Chúng tôi biết có nắm giữ một số giấy tờ mà dùng để hăm doạ tống tiền.

      -Đêm qua các giấy tờ đó bị mấy tên sát nhân đốt hết. một đồ vật đắt tiền nào bị mất. ràng những kẻ sát nhân thuộc xã hội thượng lưu và có ý đồ nào khác hơn là ngăn chặn một vụ gây tai tiếng công khai.

      -Những kẻ sát nhân? Như vậy là có nhiều người à?

      - Có ít nhất là hai người. Một người suýt bị bắt quả tang. Một trong bọn tỏ ra khá nhanh nhẹn, nhưng tên thứ hai bị người làm vườn tóm được, và thoát thân sau một cuộc vật lộn kịchệt. Đó là một người tầm thước, vạm vỡ, vai rộng, hàm rộng, ̉ dài, một bộ ria và mặt nạ che lấy mặt. . .

      -Người đó sao giống Watson quá vậy? - Holmes .

      - Hứ? Quả là rất giống bác sĩ Watson - Lestrade cười .

      - Tôi cũng biết cái tên Mil-vơ đó. Tôi coi y như một trong những người nguy hiểm nhất ở Luân Đôn. Thiện cảm của tôi nghiêng về kẻ phạm tội hơn là đối với nạn nhân. Vậy là tôi can thiệp vào vụ này.

      Suốt buổi sáng, Holmes hé với tôi một lời nào về tấn thảm trạng. Chúng tôi dùng bữa cơm trưa xong nhảy cẫng lên mà kêu:

      - Watson' với tôi.

      Holmes vội vã vào trong đường Oxford, tới gần một hiệu buôn lớn trưng bày nhiều hình ảnh của những nhân vật danh tiếng và những ngôi sao thời . Bất thình lình, cặp mắt Holmes khứng lại. Theo tia nhìn của , tôi thấy chân dung một mệnh phụ oai vệ, đích thực thuộc hoàng gia, mặc áo triều phục, với một vương miện cao, dắt kim cương quanh một cái đầu quý phái. Tôi ngắm kỹ cái sống mũi cong một cách tế nhị, cặp lông mày dài, cái miệng thẳng bên một cái cằm kiên quyết. Tôi nghẹn thở khi đọc tên và tước vị của nhà quý tộc nổi tiếng mà là phu nhân. Cặp mắt tôi bắt gặp mắt Holmes. đặt một ngón tay lên môi. Và rồi chúng tôi bỏ .

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      9. Cuộc Phiêu Lưu Của Sáu Pho Tượng Napoleon


      Ông Lestrade, thanh tra Scotland Yard, buổi tối thỉnh thoảng ghé thăm chúng tôi và Sherlock Holmes rất hoan nghênh những buổi tối ấy, vì nhờ đó mà có được mối liên hệ thường xuyên với Scotland Yard. Để đền đáp lại cho những tin tức mà Lestrade đem đến, Holmes luôn chăm chú lắng nghe mọi tình tiết về các vụ án mà viên thanh tra này phụ trách điều tra. Đôi lúc, như hoàn toàn vô tình, biết cách đưa ra những lời khuyên và gợi ý rút từ vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú của .
      Riêng tối hôm đó Lestrade, sau khi về thời tiết và tin các báo, thêm gì nữa, chỉ làm thinh. Holmes nhìn xoáy vào ông.
      - Ông có vụ nào đáng chú ý ? - Holmes hỏi.
      - Ồ , ông Holmes ạ, chẳng có gì đặc biệt cho lắm.
      - Vậy ông cứ kể cho tôi nghe .
      Lestrade cười:
      - Khó mà giấu nổi ông điều gì, ông Holmes ạ. Đúng là tôi nghĩ đến chuyện, nhưng nó vớ vẩn nên tôi cứ phân vân biết có nên làm phiền ông . mặt khác, việc này lại rất đặc biệt, chắc chắn như thế. Tôi biết ông
      vốn rất thích tất cả những chuyện khác thường. Nhưng theo tôi, chuyện này nên để bác sỹ Watson quan tâm hơn là tôi với ông.
      - Bệnh tật gì ? - tôi hỏi.
      - Chứng điên. Mà lại là bệnh điên kỳ quặc nữa Các ông chắc tưởng tượng được bây giờ mà lại có người căm ghét Napoleon Đệ nhất đến mức hễ thấy bất cứ hình tượng nào của ông ta là đập vỡ cho bằng được.
      Holmes ngả người ghế.
      - Chuyện này thuộc lĩnh vực của tôi, - .
      - Đúng thế, tôi mà. Nhưng khi thằng cha đó phạm tội ăn trộm để đập nát những pho tượng phải của , câu chuyện chuyển từ tay bác sỹ sang tay cảnh sát rồi.
      Holmes lại ngồi thẳng dậy.
      - Ăn trộm à! Câu chuyện thú vị hơn rồi. Xin ông kể chi tiết cho tôi nghe với.
      Lestrade rút cuốn số ghi chép công vụ ra, và lật từng trang để nhớ lại cho rành mạch.
      - Vụ thứ nhất chúng tôi được báo là cách đây bốn hôm. việc xảy ra tại cửa hiệu ông Morse Hudson làm nghề bán tranh, tượng ở đường Kennington. Người phụ việc vừa rời khỏi cửa hiệu lát nghe có tiếng loảng xoảng. ta vội quay vào và thấy pho tượng bán thân Napoleon vẫn bày quầy cùng với các tác phẩm nghệ thuật khác vỡ tan tành sàn nhà. ta chạy vụt ra đường nhưng thấy ai, tuy có nhiều người qua đường rằng họ trông thấy người từ trong cửa hiệu chạy ra. Pho tượng thạch cao nọ đáng giá là bao, và toàn bộ việc đó chỉ như trò trẻ con đáng phải mở cuộc điều tra.
      - Nhưng vụ thứ hai nghiêm trọng hơn và cũng kỳ quặc hơn. Chuyện mới xảy ra đêm qua.
      Ở đường Kennington, cách cửa hiệu Morse Hudson vài trăm yard là nhà bác sỹ có tiếng, tên là Barnicot. Tuy nhà ở đường Kennington, bác sỹ này có phòng mổ ở đường Hạ Brixton, cách đấy 2 dặm. Bác sỹ Barnicot là người rất hâm mộ Napoleon. Nhà ông đầy sách và tranh của vị hoàng đế Pháp này. Mới đây ông mua được ở cửa hiệu Morse Hudson hai bức tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao do nhà điêu khắc người Pháp Devine tạc. Ông bày bức trong đại sảnh của căn nhà đường Kennington, còn bức kia ông đặt mặt lò sưởi tại phòng mổ ở Hạ Brixton. Sáng nay, từ gác bước xuống, bác sỹ Barnicot phải sửng sốt khi phát ra đêm qua nhà ông bị kẻ trộm đột nhập, song trong nhà mất gì cả, ngoài bức tượng bán thân bằng thạch cao đặt ở đại sảnh. Tên trộm mang pho tượng ra khỏi nhà và đập nát vào bức tường ngoài vườn, vì sáng ra người ta thấy mảnh tường vỡ nằm vung vãi dưới chân tường.
      Holmes xoa tay :
      - Chuyện này quả là rất mới lạ.
      - Tôi vẫn nghĩ là ông thích chuyện này mà. Nhưng tôi vẫn chưa kể hết. Bác sỹ Barnicot phải đến phòng mổ lúc mười hai giờ trưa. Đến nơi, ông thấy cửa sổ phòng mổ bị phá tung từ đêm qua và khắp sàn vung vãi những mảnh vỡ của pho tượng thứ hai. Pho tượng bị đập vụn ngay tại chỗ. Trong cả hai vụ đều có manh mối gì về tên tội phạm (hay kẻ điên rồ) làm ra vụ này. Đấy việc là như vậy đấy, ông Holmes ạ.
      - Tôi muốn biết hai pho tượng bị đập vụn của bác sỹ Barnicot có giống hệt với pho tượng bị phá tan tại cửa hiệu ông Morse Hudson ?
      - Những pho tượng đó đều đúc từ khuôn ra mà.
      - Điều đó bác bỏ cái giả thuyết cho rằng kẻ đập tượng hành động do căm thù Napoleon: vậy việc kẻ đó bắt đầu bằng ba bản sao của cùng pho tượng bán thân, khó lòng có thể là do trùng hợp ngẫu nhiên.
      - Chính tôi cũng nghĩ như ông, - Lestrade , - Tuy nhiên, Morse Hudsson là người bán tượng ở khu vực đó của London và suốt mười năm qua cửa hiệu ông ta chỉ có duy nhất ba pho tượng kia. Cho nên tuy ông ở London có hàng trăm pho tượng Napoleon, nhưng cũng rất có thể ba pho tượng kia là những pho tượng duy nhất trong vùng đó. Vì vậy, cái người điên sống trong vùng mới khởi bằng chính ba pho tượng ấy.
      - Tôi chỉ xin nhận xét là hành động tuy rất kỳ lạ nhưng có tuân theo nguyên tắc nào đấy. Chẳng hạn, ở đại sảnh trong nhà bác sỹ Barnicot, nơi mà tiếng động có thể làm cho chủ nhà thức giấc, đem pho tượng ra ngoài rồi mới đập vỡ. Còn ở phòng mổ ít nguy hiểm hơn, đập vụn pho tượng ngay tại chỗ. Vụ này có lẽ như nhố nhăng, nhưng số vụ hay nhất của tôi khi mới khởi đầu cũng có chút gì hứa hẹn. Vì vậy, tôi rất biết ơn ông, Lestrade, nếu ông báo cho tôi bất cứ tiến triển mới nào trong vụ này.
      Các kiện tiếp theo của vụ án mà bạn tôi trông chờ xảy ra nhanh và dưới hình thức bi đát hơn chúng tôi tưởng tượng nhiều. Sáng hôm sau, tôi còn mặc quần áo trong phòng ngủ Holmes gõ cửa bước vào, tay cầm bức điện. đọc to lên:
      ”Đến ngay nhà số 131, đường Pitt, Kensington,.
      Lestrade“.
      - Thế là thế nào nhỉ?- Tôi hỏi.
      - . Cái này có thể hiểu thế nào cũng được. Nhưng tôi nghi đây là câu chuyện về những pho tượng kia. Nhưng trong trường hợp này, có lẽ bạn đập phá tượng của chúng ta chuyển hoạt động sang khu khác của London. Cà
      phê pha sẵn cho bàn và xe ngựa đợi sẵn ngoài cửa rồi.
      Nửa giờ sau chúng tôi có mặt ở đường Pitt. Lúc chúng tôi đến gần, đám người hiếu kỳ tụ tập trước ngôi nhà.
      Holmes huýt sáo:
      - Thế này ít ra cũng là vụ mưu sát. Nếu dân vô công rồi nghề ở London tụ tập đông đến thế. ồ, Lestrade đứng bên khung cửa sổ trước nhà kia kìa. Chúng ta biết hết mọi việc ngay thôi.
      Lestrade với vẻ mặt trịnh trọng bước ra đón chúng tôi và dẫn vào phòng khách. Chúng tôi thấy người đàn ông đứng tuổi, mặc áo choàng nội tẩm, lại lại trong phòng. Vẻ băn khoăn lo lắng, Lestrade giới thiệu đó là chủ nhà - ông
      Horace Harker, nhà báo.
      - Chuyện pho tượng Napoleon lại tiếp diễn, - Lestrade - Tối qua ông tỏ ra quan tâm tới chuyện này, ông Holmes, nên tôi nghĩ ông vui lòng có mặt khi giờ đây vụ việc dẫn đến kiện đáng buồn như thế này.
      - kiện gì vậy?
      - án mạng. Ông Harker, phiền ông kể lại cho các vị đây nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Người đàn ông mặc áo choàng quay về phía chúng tôi.
      - Tôi nghe tiếng ông, ông Holmes ạ, - ông , - và nếu ông làm sáng tỏ được việc kỳ lạ này tôi cũng thấy mình được đền bù hậu hĩnh cho cái công trình bày tất cả những việc vừa xảy ra.
      Mọi việc đều như xoay quanh cái pho tượng bán thân Napoleon tôi mua bốn tháng trước đây. Tôi mua được với giá rẻ tại hiệu Harding Brothers, gần nhà ga High Street. Tôi hay viết bài về đêm và thường ngồi làm việc đến tận sáng sớm. Hôm nay cũng vậy. Tôi ngồi làm việc trong phòng mình ở mặt sau tầng thượng, gần ba giờ sáng bỗng nghe có tiếng động dưới nhà.
      Tôi lắng tai nghe nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa, nên tôi nghĩ đó là tiếng động từ ngoài phố đưa vào. Nhưng độ năm phút sau, bỗng có tiếng hét hết sức khủng khiếp - tôi chưa bao giờ nghe thấy thanh nào ghê rợn đến thế ông
      Holmes ạ. Tiếng hét đó vang mãi trong tai tôi cho đến suốt đời. Người tê dại vì hãi hùng, tôi ngồi bất động vài phút, sau đó tôi cầm lấy cái que sắt thông lò và bước xuống nhà. Vừa bước vào phòng này tôi thấy cửa sổ mở toang và pho tượng
      đặt mặt lò sưởi biến mất. Tôi hiểu tại sao tên trộm lại lấy vật như thế, vì pho tượng thạch cao ấy có đáng giá gì đâu.
      Như các ông thấy đấy, bất cứ người nào nhảy bước dài từ cửa sổ này xuống, đều có thể ra đến bậc lên xuống ở cửa chính. Tên trộm ràng ra dùng cách ấy, nên tôi vòng ra cửa chính và mở cửa. Tôi bước ra ngoài, và trong bóng tối tôi vấp chân suýt ngã đè lên xác chết nằm đó. Tôi chạy vào nhà đem đèn ra. Cổ họng kẻ bất hạnh bị đâm vết rộng hóac, quanh xác chết máu loang đầy. Người bị giết nằm ngửa, hai đầu gối co lên, miệng há hốc ra trông rất gớm ghiếc. Từ nay trở lên thường xuyên trong những cơn ác mộng của tôi. Tôi chỉ còn kịp gọi cảnh sát, và sau đó chắc là tôi ngất , vì tôi còn hay biết gì nữa cho đến khi tôi tỉnh lại trong đại sảnh. Tôi mở mắt nhìn lên
      thấy viên cảnh sát đứng bên.
      - Thế người bị giết là ai? - Holmes hỏi.
      - Chẳng có gì cho biết người ấy là ai, - Lestrade .- Các ông được nhìn thấy cái xác, nhưng cho đến nay chúng tôi chưa làm gì được.
      Đó là người cao lớn, da rám nắng, khỏe mạnh, chưa đến ba mươi tuổi. Tuy ăn mặc nghèo khổ, ta có dáng dấp dân lao động. Có con dao nằm trong vũng máu cạnh xác ta. Tôi đó là con dao mà hung thủ dùng để gây án hay là con dao của nạn nhân. quần áo ta chẳng thấy có tên tuổi gì, còn trong túi áo cũng chẳng có gì ngoài quả táo, sợi dây, tấm bản đồ London và bức ảnh. Nó đây này.
      Đó là tấm ảnh chụp nhanh bằng loại máy ảnh cỡ . ảnh chụp người đàn ông linh lợi, nét mặt gãy gọn, có cặp lông mày rậm.
      - Thế còn pho tượng sao? - Holmes hỏi sau khi xem kỹ bức ảnh.
      - Tôi vừa nhận được tin về pho tượng này ngay trước lúc các ông đến. Người ta tìm thấy nó trong vườn, trước ngôi nhà có người ở tại đường Campden House. Nó bị đập vụn ra từng mảnh. Tôi định đến đó xem đây. Các ông cùng chứ?
      - Tất nhiên. Tôi phải đến đấy xem qua lượt. - Holmes xem xét tấm thảm và cái cửa sổ.
      Chỗ tìm thấy những mảnh vỡ của pho tượng cách ngôi nhà chỉ vài trăm mét. Pho tượng của Napoleon bị đập vụn, nằm bãi cỏ. Holmes nhặt lên vài mảnh vụn và xem xét kỹ lưỡng. Qua nét mặt chăm chú của , tôi tin là rốt cục cũng lần ra được manh mối.
      - Ông nghĩ sao? - Lestrade hỏi.
      Holmes nhún vai.
      - Chúng ta còn phải hết hơi với vụ này - .
      - Nhưng dù sao ... chúng ta cũng có được vài đầu mối để tìm tiếp. Dưới mắt tên tội phạm kỳ quặc kia pho tượng bán thân rẻ tiền này còn đáng giá hơn cả mạng người. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai cũng kỳ lạ. Nếu mục đích duy nhất của là đập vỡ pho tượng, tại sao đập ngay trong nhà hay ngay sau khi ra khỏi nhà?
      - hoảng hốt khi chạm trán với người khác, đến nỗi giết người đó. hầu như ý thức được làm gì nữa.
      - ừ, ông có lý. Song tôi muốn các ông đặc biệt lưu ý đến vị trí căn nhà này, nơi mà pho tượng bị đập nát trong vườn.
      Lestrade đưa mắt nhìn quanh.
      - Đây là ngôi nhà có người ở nên biết bị ai bắt gặp trong vườn.
      - Phải. Nhưng từ đầu phố đến đây còn có ngôi nhà bỏ nữa mà, phải qua để đến đây. Tại sao đập pho tượng ở đó? thừa hiểu rằng xa thêm mỗi mét là tăng thêm nguy cơ bị phát cơ mà?
      - Tôi xin chịu thôi. - Lestrade .
      Holmes chỉ lên ngọn đèn đường phía đầu chúng tôi.
      - ở đây mới nhìn thấy , còn ở đằng kia . Đó chính là lý do phải đến tận đây.
      Viên thanh tra thốt lên:
      - Bây giờ tôi mới nhớ lại pho tượng của bác sỹ Barnicot bị đập vỡ cách chỗ ngọn đèn đỏ nhà ông bao xa. Chúng phải xử lý thế nào với việc này, ông Holmes?
      - Ghi nhớ nó. Sau này chúng ta có thể gặp phải tình tiết buộc ta trở lại với nó đấy. Giờ ông định tiến hành những bước gì nữa, ông Lestrade?
      - Theo tôi, thiết thực hơn cả là xác minh xem người bị giết là ai. Việc này khó. Khi biết được ta là ai rồi, chúng ta có thể bắt tay vào điều tra xem đêm qua ta làm gì ở đường Pitt, kẻ nào gặp và giết ta bậc
      thang trước cửa nhà ông Horace Harker. Ông thấy như vậy có được ?
      - Được lắm. Nhưng tôi tôi tiếp cận vụ này cách khác.
      - Vậy ông làm thế nào?
      - ồ, ông nên để tôi ảnh hưởng đến ông chút nào. Tôi đề nghị là ông cứ theo cách của ông, còn tôi theo cách của tôi. Sau đó đối chiếu những điều ghi nhận được với nhau.
      - Tốt lắm. - Lestrade .
      - Này Watsson, tôi nghĩ trước mắt chúng ta ngày bận rộn đấy. Tôi rất vui, ông Lestrade ạ, nếu sáu giờ chiều này ông có thể thu xếp đến thăm chúng tôi ở Baker Street. Còn bức ảnh tìm thấy trong túi áo nạn nhân tôi xin được
      giữ cho đến lúc đó. Tối nay có lẽ tôi phải nhờ ông giúp tay nếu những suy luận của tôi cho thấy là tôi đúng. Từ giờ đến lúc đấy xin tạm biệt và chúc ông may mắn.
      Tôi và Holmes cùng bộ đến High Street và rẽ vào hiệu Harding Brothers, nơi bán pho tượng nọ. người phụ việc trẻ trong hiệu cho chúng tôi hay là ông Harding mãi đến chiều mới về, còn ta thể giúp chúng tôi biết được
      điều gì. Mặc Holmes đầy vẻ thất vọng và buồn bực.
      - Chúng ta đành phải quay lại đây chiều nay thôi. Watson ạ, vì đến lúc đó ông Harding mới có mặt ở đây, cuối cùng . - Tất nhiên đoán ra là tôi cố lần theo dấu vết mấy pho tượng kia cho đến tận đầu mối, để xem tại sao gã điên nọ lại quan tâm đến chúng như vậy. Bây giờ chúng ta đến phố Kennington gặp ông Morse Hudson, thử xem ông ta có biết điều gì có thể làm sáng tỏ vụ này chăng.
      Chúng tôi xe ngựa mất giờ đến được cửa hiệu bán tranh của Morse Hudson. Ông là người thấp bé, mập mạp, mặt đỏ, phong thái có vẻ nóng nảy.
      - Vâng, thưa ngài. đập vỡ ngay tại quầy của tôi, thưa ngài, - ông . chúng tôi đóng thuế để được gì, nếu bạ ai cũng có thể vào nhà phá phách đồ đạc. Vâng, thưa ngài, chính tôi bán cho bác sỹ Barnicot hai pho tượng. Tôi mua của ai những pho tượng ấy ư? Tôi hiểu chuyện đó có can hệ gì đến việc. Thôi được, ngài muốn biết tôi xin . Tôi mua tại hãng Gelder và Công ty đường Church, Stepney. Tôi có mấy pho tượng ư? Ba pho - hai cộng là ba - hai pho tôi bán cho bác sỹ Barnicot, còn pho nữa bị đập nát ngay giữa ban ngày ban mặt tại quầy hàng của tôi. Tôi có biết người trong ảnh này ư? , tôi biết. à có, tôi có biết. là Beppo, người Ý. làm được vài việc cho cửa hiệu tôi. biết chạm khắc đôi chút, và làm vài việc sai vặt trong hiệu. khỏi hiệu tuần trước và từ đó tôi chẳng nghe thấy tăm hơi gì về nữa. , tôi biết ta từ đâu đến. rời hiệu tôi đâu tôi cũng
      chẳng hay. Tôi chẳng có gì xung khắc với khi làm việc ở đây. khỏi đây hai ngày trước khi pho tượng bị đập vỡ.
      ồ, những điều Morse Hudson cho chúng tôi biết đáng giá, chúng ta thể mong muốn gì hơn thế, - Holmes khi chúng tôi rời cửa hiệu. - Chúng ta biết được tay Beppo này dính dáng đến cả hai vụ: cả ở Kennington lẫn ở Kensington, đáng công mười dặm đường đến đây. Watson, bây giờ chúng ta đến hãng Gelder và Công ty, khu Stepney, đến tận xuất xứ của mấy pho tượng. Tôi tin là ở đấy chúng ta biết được điều gì đó giúp chúng ta điều tra vụ này.
      Chúng tôi tìm ra cái xưởng tạc tượng ấy con đường rộng chạy dọc bờ sông. Bên ngoài xưởng là khoảng sân rộng ngổn ngang những sản phẩm bằng đá đủ loại, bên trong có căn phòng lớn với năm mươi công nhân tạc tượng và đúc tượng theo khuôn. Chủ xưởng, người Đức cao lớn, tiếp chúng tôi rất lịch và trả lời ràng mọi câu hỏi của Holmes. Sổ sách cho thấy: xưởng ông sản xuất hàng trăm pho tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao; tất cả đều được đúc ra từ khuôn, dùng pho tượng cẩm thạch của nhà điêu khắc Devine làm mẫu. Ba sản phẩm trong lô hàng riêng gồm sáu pho tượng đem giao cho ông Morse Hudson khoảng năm trước; số còn lại bán cho hiệu Harding Brothers, ở Kensington. Sáu pho tượng trong lô hàng đó chẳng có gì khác với những pho tượng còn lại. Ông hình dung nổi vì lẽ gì lại có kẻ chỉ muốn đập vỡ những pho tượng ấy.
      Trong thâm tâm ông thấy ý định đó quả nực cười. Mỗi pho tượng đều được đúc từ hai khuôn, khuôn này đúc nửa mặt bên phải, khuôn kia - nửa bên trái; sau đó ghép hai nửa lại với nhau, thế là được pho tượng hoàn chỉnh. Công việc này thường do mấy tay thợ người ý đảm nhiệm, ngay tại phòng chúng tôi đứng. Làm xong họ đặt những sản phẩm đó lên cái bàn kê ngoài lối cho khô, sau đó cất vào kho. Đấy là tất cả những gì ông có thể cho chúng tôi biết. Nhưng tấm ảnh gây cho ông chủ xưởng ấn tượng mạnh mẽ. Ông đỏ mặt giận dữ.
      - Vâng, tôi biết rất , - ông hét to lên.- Từ trước đến giờ chỉ có lần duy nhất cảnh sát đến xưởng tôi chính là vì thằng này đây. Chuyện đó xảy ra hơn năm nay rồi: dùng dao đâm tay người ý khác ở ngoài phố rồi chạy bổ vào xưởng tôi để trốn cảnh sát đuổi bắt phía sau. bị tóm cổ ngay tại đây. Tên là Beppo. Tôi hề biết họ của . Tuy thế tay thợ khá - trong những tay giỏi nhất đấy.
      - bị kết án gì?
      - Người bị đâm chết, cho nên người ta chỉ xử năm tù ngồi. Tin tin rằng giờ được tự do, nhưng chẳng dám thò mặt về đây. Người em họ của làm việc ở chỗ tôi. Hy vọng ta có thể mách cho ông biết Beppo ở đâu.
      - , , - Holmeskêu lên, - ông đừng gì với em họ của cả, tôi xin ông đừng gì! Việc này rất hệ trọng. Càng sâu vào tôi càng thấy nghiêm trọng. Trong cuốn sổ của ông tôi thấy ghi là những pho tượng đó được bán ngày ba tháng sáu năm ngóai. Ông có thể cho chúng tôi biết ngày Beppo bị bắt được ?
      - Tôi có thể tính gần đúng dựa theo bản danh sách tính tiền công, chủ xưởng đáp lại. - Đúng, - ông lại lên tiếng sau hồi lật tìm trong mớ giấy tờ, - được trả tiền công lần cuối vào ngày hai mươi tháng năm.
      - Cảm ơn ông, Holmes . - Tôi nghĩ nên làm mất giờ và lạm dụng lòng kiên nhẫn của ông nữa. Còn bây giờ, Watson,chúng ta quay về Kensington xem ông chủ hiệu Harding Brothers kể được những gì cho chúng ta về vụ này.
      Ông Harding là người bé, nhanh nhẹn, tỉnh trí và nhanh miệng.
      - Vâng, thưa ngài, tôi đọc được chuyện này các báo buổi chiều. Ông Horace Harker là trong những khách hàng của chúng tôi. chúng tôi bán cho ông ấy pho tượng nọ cách đây mấy tháng. Ba pho tượng loại này chúng tôi đặt mua tại hãng Gelder và Công ty, ở Stepney và bán hết. Bán cho ai ư? Để tôi xem sổ sách bán hàng và trả lời ngài ngay thôi. Đúng, trong này có ghi đầy đủ. pho bán cho ông Harker, ông thấy đấy, pho nữa bán cho ông Josiah Brown ở Biệt thự Laburnum, Laburnum Vale, Chiswick và pho thứ ba bán cho ông Sandeford ở Hạ Grove, Reading. , tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông trong bức ảnh ngài đưa tôi xem. Trong hiệu tôi có nhân viên nào người Ý ư? Thưa ngài, có, có mấy người tôi thuê làm công và quét dọn. Bọn họ có thể liếc nhìn quyển sổ bán hàng này nếu thích. Chẳng có lý do gì đặc biệt để giữ bí mật cả. Chà, vụ này quả là kỳ lạ. Tôi hy vọng ông cho tôi biết những gì ông phát được.
      Holmes ghi chép vài điểm. Tôi thấy đắc ý ra mặt. Nhưng chẳng giải thích gì, chỉ giục tôi nhanh chân kẻo trễ hẹn với Lestrade. Quả nhiên, khi chúng tôi về đến phố Baker, viên thanh tra đợi sẵn ở đấy và lại lại, vẻ sốt ruột.
      - Công việc thế nào rồi, ông Holmes? - ông ta lên tiếng hỏi.
      - Chúng tôi bận rộn suốt ngày và uổng công chút nào - bạn tôi giải thích - Giờ tôi có thể lần theo dấu vết của từng pho tượng từ lúc mới được đúc trong khuôn ra.
      - Các pho tượng à! - Lestrade thốt lên. - Thôi được, thôi được, ông Holmes, ông có phương pháp của riêng ông, song tôi cho là ngày vừa qua tôi khám phá được nhiều điều hơn ông. Tôi xác minh được người bị giết là ai và tìm ra nguyên nhân gây án.
      - Tuyệt vời.
      - Ngài thanh tra Hill, người chuyên theo dõi kiều dân Ý sống tại khu phố Italia, vừa trông thấy nhận ngay ra . tên là Pietro Venucci, quê ở Napoli, là trong những tay đâm thuê chém mướn sừng sỏ nhất London. có liên hệ với bọn Mafia, như ông biết đấy, tổ chức chính trị bí mật. Giờ ông thấy đấy, vụ này bắt đầu sáng tỏ. Kẻ giết có lẽ cũng người Ý và là thành viên Mafia. Tay này chắc vi phạm luật lệ như thế nào đó. Pietro rình tìm . Tấm ảnh ta tìm thấy trong túi áo có lẽ là của chính tay này, mang theo để giết nhầm người khác. theo dõi địch thủ, khi thấy tên này lẻn vào nhà, đừng ngoài đợi tên này trở ra và trong cuộc ẩu đả với địch thủ bị tử thương. Ông nghĩ thế nào về điều này, ông Holmes?
      Holmes vỗ tay tán đồng.
      - Tuyệt, ông Lestrade, là tuyệt! - thốt lên. - Nhưng tôi chưa ông lý giải như thế nào việc mấy pho tượng bị đập nát.
      - Lại mấy pho tượng! Ông gạt bỏ được mấy pho tượng ấy ra khỏi đầu sao. Rốt cục, đấy chỉ là chuyện vó vẩn. Chính vụ án mạng mới là cái chúng ta quan tâm, và tôi có thể với ông là tôi nắm được mọi đầu mối.
      - Thế bước tiếp theo ông định làm gì?
      - Hết sức đơn giản. Tôi cùng ngài Hill đến khu phố Italia, tìm cho ra tên trong ảnh nọ và bắt vì tội giết người. Ông cùng với chúng tôi chứ?
      - Có lẽ đâu. Tôi có cách đơn giản hơn nhiều. Tôi rất mong đêm nay ông cùng với chúng tôi, tôi có thể giúp ông bắt được .
      - Ở khu phố Italia ư?
      - . Theo tôi, tìm bắt ở Chiswick là chắc hơn cả.
      - Ông Lestrade, nếu đêm nay ông cùng tôi đến Chiswick tôi hứa ngày mai với ông đến khu phố Italia. Hoãn lại tí đâu có hại gì. Watson, trong lúc chờ đợi, làm ơn bấm chuông gọi giúp người đưa thư vì tôi muốn gửi gâp bức thư rất hệ trọng.
      Tối hôm đó Holmes lục tìm các chồng nhật báo cũ chất đầy ắp cả phòng trong nếp nhà hai chúng tôi ở. Cuối cùng rồi cũng ra với chúng tôi, mặt rạng rỡ vẻ đắc thắng, nhưng chẳng hé răng gì với cả tôi lẫn viên thanh tra về những kết quả vừa khám phá. Tôi theo sát từng bước chân trong suốt tiến trình điều tra vụ này. Vì vậy, tuy chưa thể biết mục tiêu cuối cùng chúng tôi theo đuổi, tôi vẫn hiểu mười mươi rằng Holmes hy vọng tóm được tên tội phạm cố tìm mọi cách đoạt hai pho tượng còn lại, mà , theo tôi nhớ, nằm tại Chiswick. còn ngờ vực gì nữa, mục đích chuyến của chúng tôi đêm nay là bắt quả tang ta. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Holmes nhắc tôi nên mang theo cả khẩu súng ngắn ưa thích của tôi.
      Mười giờ, chiếc xe ngựa đậu trước cổng nhà. Chúng tôi lên xe, đến nơi nằm bên kia cầu Hammer Smith. Sau quãng bộ, chúng tôi đến con đường yên tĩnh với những tòa nhà đẹp mắt, xây từng khoảng đất riêng, cách biệt nhau.
      Nhờ ánh đèn đường, tôi đọc được hai chữ Laburnum Lodge cổng hậu tòa nhà. Chủ nhân chắc chắn nghỉ, vì toàn bộ ngôi nhà chìm trong bóng tối, ngoại trừ khung cửa sổ ngay bên cửa chính dẫn vào tiền sảnh, hắt quầng sáng lẻ loi xuống lối trong vườn. dãy rào gỗ ngăn khu vườn với đường phố, hắt dải bóng tối dày dặc vào phía trong. Chúng tôi chọn đó làm nơi nấp.
      - Tôi e là phải đợi lâu đây, - Holmes ri tai tôi.
      - Nhưng tôi dám đánh cược hai ăn là chúng ta được đền bù xứng cho những nỗi vất vả mà chúng ta trải qua.
      Nhưng hóa ra chúng tôi chẳng phải đợi lâu như Holmes nghĩ, và kết cục bất ngờ và kỳ lạ. Thình lình, tiếng động nào báo trước, cảnh cổng vườn bật mở, và bóng đen nhanh nhẹn, khéo léo chạy vụt vào theo lối mòn trong vườn. chúng tôi thấy cái bóng đó lướt qua cái quầng sáng cửa sổ hắt xuống cửa chính, và biến mất vào bóng tòa nhà. Bốn bề im ắng khá lâu. chúng tôi nín thở chờ đợi, rồi tiếng động khẽ vọng tới: cánh cửa sổ mở ra. Tiếp đó, còn nghe tiếng động nào nữa, và tất cả lại lặng ngắt hồi lâu. Bóng đen nọ lẻn vào nhà. Bỗng chúng tôi thấy ánh đèn lóe sáng trong phòng. Cái tìm chắc có ở đó, vì chúng tôi lại thấy ánh đèn lóe sáng tại chỗ khác, rồi chỗ khác nữa.
      - Nào, chúng ta hãy tới cửa sổ để ngỏ. Chúng ta tóm lúc leo ra, - Lestrade khẽ .
      Nhưng chúng tôi chưa kịp tới nơi dự tính gã nọ xuất . Khi ra đến quầng sáng, chúng tôi thấy cắp trong nách vật màu trắng. đưa mắt nhìn quanh. Quay lưng về phía chúng tôi, đặt vật cắp dưới nách xuống, và ngay sau đó, bỗng vang lên tiếng đập mạch, rồi tiếp theo là những tiếng lại xạo. mải miết với việc làm đến mức nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi lướt mặt cỏ. Holmes nhảy chồm lên lưng như con hổ, và chỉ chớp mắt sau, Lestrade và tôi tóm lấy cổ tay . Khi chúng tôi lật ngửa lại, tôi thấy nhìn chúng tôi cách hằn học. Và tôi nhận ra kẻ bị bắt chẳng phải ai khác, mà chính là người đàn ông trong ảnh.
      Nhưng Holmes chẳng hề quan tâm đến kẻ bị bắt. chỉ chăm chú xem pho tượng Napoleon mà gã nọ vừa lấy trộm trong nhà ra. Pho này cũng giống như pho mà chúng tôi thấy sáng nay, và cũng bị đập vụn từng mảnh. Thận trọng, Holmes đưa từng mảnh vỡ ra chỗ sáng xem xét, nhưng những mảnh thạch cao đó xem ra chẳng khác gì nhau. vừa xem xong ánh đèn trong tiền sảnh bỗng sáng rực. Cửa mở, và từ trong nhà bước ra người đàn ông vui vẻ, ăn mặc tề chỉnh, tự giới thiệu mình là chủ nhà.
      - Ông chắc hẳn là ông Josiah Brown? - Holmes .
      - Vâng, thưa ngài. Còn ngài chắc hẳn là ngài Holmes? Tôi nhận được thư ngài do người đưa thư chuyển tới, và tôi làm đúng như lời ngài dặn trong thư. Chúng tôi khóa chặt các cửa phòng và đợi mọi diễn biến. Tôi rất mừng là ngài tóm được . Tôi hy vọng các ngài quá bộ vào nhà nghỉ lát trước lúc ra về.
      Nhưng Lestrade sốt ruột, chỉ muốn đưa gấp tên trộm về đồn cho chắc ăn, nên chỉ vài phút sau, ba chúng tôi và tên trộm yên vị xe về lại London. Tên trộm hề hé răng thốt ra lời nào, mà chỉ hằn học nhìn chúng tôi từ sau mái tóc rũ xuống trán. Có lần, khi tay tôi nằm trong tầm với, vụt cúi xuống định ngoạm. Chúng tôi lưu lại đồn cảnh sát khá lâu để chờ kết quả khám xét người , nhưng chảng tìm thêm đựoc gì ngoài vài đồng xu trong túi và con dao dài, cần còn nguyên vết máu chưa kịp xỉn lại.
      - Thôi ổn rồi, - Lestrade khi chia tay chúng tôi. - Ngài Hill biết mặt tất cả các kiều dân khu này, nên cho chúng ta biết họ tên . Ông thấy giả thuyết của tôi về bọn Mafia là chính xác trăm phần trăm. Dù sao tôi cũng biết ơn ông mách giúp tôi cách tóm cổ . Có điều,tôi vẫn chưa hiểu hết làm thế nào mà ông biết nơi xuất đầu lộ diện.
      - Tôi e rằng muốn giải thích phải đợi dịp khác, vì bây giờ khuya quá rồi, - Holmes . - Hơn nữa, vẫn còn vài tình tiết tôi chưa khám phá ra, và đây là trong những vụ đáng để chúng ta thực đến nơi đến chốn. Nếu ngày mai, ông chịu khó ghé lại nhà tôi vào lúc sáu giờ, tôi nghĩ tôi có thể cho ông thấy: cho tới lúc này ông vẫn chưa hiểu hết điểm mấu chốt của vụ này. Đó mới chính là những điểm khiến vụ này là vụ án độc đáo nhất lịch sử tội phạm.
      Tối hôm sau, khi gặp lại nhau, Lestrade cho chúng tôi biết hàng loạt thông tin về kẻ bị bắt. hóa ra tên là Beppo, còn họ . Có thời, từng là thợ đúc tượng giỏi, làm ăn lương thiện. Nhưng về sau gây nên những vụ phạm pháp. từng hai lần ngồi tù, lần vì ăn cắp vặt, lần sau như các ông biết, vì tội đâm trọng thương đồng bào của . rất thạo tiếng . Nhưng lý do nào khiến đập nát những pho tượng chưa : chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào về chuyện này. Cảnh sát phát được rằng những pho tượng mà đập nát có thể đều do chính tay làm ra, vì từng làm loại công việc này tại hãng Gelder và Công ty. Tất cả những thông tin này, phần nhiều chúng tôi đều biết cả rồi, nhưng Holmes vẫn lịch duyệt lắng nghe; có điều tôi vốn biết , nên tôi hiểu rằng ý nghĩ đổ dồn vào chuyện khác. Bỗng đứng bật dậy, mắt sáng rực khi nghe vang lên tiếng chuông gọi cửa dưới nhà. phút sau, có tiếng chân bước lên cầu thang, rồi người đàn ông đứng tuổi, mặt đỏ gay, bước vào, tay phải xách theo cái túi. Ông ta đặt cái túi lên bàn, rồi lên tiếng:
      - Đây có phải là nhà ngài Holmes ?
      Bạn tôi mỉm cười cúi chào.
      - Nếu tôi nhầm, ông là Sandeford ở Reading? - lên tiếng.
      - Vâng, thưa ngài, có lẽ tôi đến hơi muộn, nhưng có chuyến tàu nào thuận tiện hơn. Trong thư ông có cầu tôi nhượng lại pho tượng bán thân mà tôi sở hữu.
      - Quả đúng như vậy.
      - Tôi có đem theo thư ông đây. Ông viết:“Tôi muốn có bản sao pho tượng bán thân Napoleon do Devine tạc và tôi sẵn sàng trả mười bảng để mua lại pho tượng ông hiệu sở hữu.” Có đúng vậy ạ?
      - Chính thế.
      - Tôi rất ngạc nhiên khi đọc thư ông, vì tôi thể hình dung được nhờ đâu mà ông biết được tôi có pho tượng như thế.
      - Ông ngạc nhiên là phải thôi, nhưng chuyện này có thể giải thích hết sức đơn giản. Ông Harding, chủ hiệu Harding Brothers bán phúc bản cuối cùng của pho tượng cho ông, và có cho tôi biết địa chỉ của ông.
      - ra là vậy. Thế tôi có mang theo pho tượng như ông cầu. Nó đây này!- Ông ta mở túi xách và mãi lúc này chúng tôi mới được thấy bàn chúng tôi pho tượng nguyên vẹn, chứ từ trước đến giờ chúng tôi chỉ toàn thấy những mảnh vụn.
      Holmes rút trong túi ra tờ giấy và đặt lên bàn tờ giấy bạc mười bảng.
      - Ông Sandeford, ông làm ơn ký vào tờ giấy này trước chứng kiến của các vị đây. Trong giấy xác nhận rằng ông chuyển nhượng cho tôi mọi quyền lợi có thể có đối với pho tượng. Cám ơn ông Sandeford. Đây, xin ông nhận lấy tiền và chúc ông buổi tối tốt lành.
      Khi vị khách khuất, Holmes liền lôi trong ngăn kéo ra tấm vải trắng tinh và trải lên bàn. Rồi đặt pho tượng vừa mua vào chính giữa tấm vải. Xong xuôi, giờ cao gậy, giáng cái mạnh vào đỉnh đầu Napoleon. Pho tượng vỡ vụn ra từng mảnh. Holmes háo hức cúi xuống xem xét các mảnh vỡ. Lát sau, reo lên đắc thắng và giơ cao mẩu thạch cao bọc bên ngoài vật tròn tròn sẫm màu.
      - Thưa các vị, reo lên - xin được giới thiệu với các vị viên ngọc đen nổi tiếng của dòng họ Borgias.
      Lestrade và tôi ngồi lặng người lúc, rồi cả hai cùng vỗ tay hệt như vừa xem xong vở kịch. Má Holmes vốn tái nhợt giờ vụt ửng hồng. cúi chào chúng tôi như diễn viên bậc thầy đáp lại lòng ngưỡng mộ của khán giả. Chỉ trong những khoảnh khắc đó Holmes mới tỏ ra là nhân viên rất người, rất thích được ngưỡng mộ và thán phục, chữ phải là cái máy giỏi suy luận.
      - Vâng, thưa các ngài, - - đây chính là viên ngọc lừng danh Thế giới. Tôi có cái may mắn được theo dõi hành trình của viên ngọc quý từ phòng ngủ của Quận công xứ Colonna trong khách sạn Darce, nơi nó bị mất, cho tới khi nó chui vào pho tường cuối cùng trong số sau pho Napoleon do hãng Gelder và Công ty tại Stepney đúc ra. Ông Lestrade, chắc ông còn nhớ vụ scandal nổ ra sau ngày viên ngọc quý này mất tích, và những nỗ lực tìm kiếm vô vọng của cảnh sát London. Chính tôi cũng được mời đến làm cố vấn cho họ trong vụ này, nhưng tôi làm sáng tỏ được gì. Người ta nghi cho hầu của Quận chúa.
      này người Ý, và người ta cũng phát ra rằng ta có người ở London, nhưng chúng tôi tìm ra dược bất cứ mối liên hệ nào giữa hai người. ta tên là Lucretia Venucci, và tôi tin chắc rằng chính gã Pietro bị giết cách đây hai hôm là ta. Tôi dò tìm ngày tháng trong đống báo cũ và thấy rằng viên ngọc bị mất đúng hai ngày trước hôm Beppo bị bắt vì tội mưu sát. bị bắt ngay tại xưởng Gelder và Công ty đúng vào thời điểm những pho tượng kia đúc ra. Beppo giữ viên ngọc. Có thể đánh cắp của Pietro, hoặc là tòng phạm của Pietro, hoặc làm trung gian giữa Pietro và em ta. Thực ra khả năng nào là đúng, đối với chúng ta hệ trọng. Cái chính là có viên ngọc và giữ viên ngọc trong người lúc bị cảnh sát truy đuổi. đến cái xưởng làm tượng mà làm việc, và biết mình chỉ còn vài phút để giấu cái báu vật vô giá ấy, nếu cảnh sát tìm thấy nó khi khám xét người . Lúc sáu pho tượng Napoleon bằng thạch cao hong ở lối , trong đó có pho còn mềm. Vốn là tay thợ giỏi, trong chớp mắt Beppo tạo được cái hốc , ấn viên ngọc vào đó, rồi với vài động tác có thể trám ngay được cái hốc kia. Quả còn nơi cất giấu nào tốt hơn. ai có thể tìm ra viên ngọc được nữa. Nhưng Beppo bị kết án năm tù, và trong thời gian đó sáu pho tượng kia được bán khắp London. Ra tù, thể biết báu vật nọ nằm trong pho tượng nào. Bây giờ chỉ còn cách đập vỡ từng pho mới biết được vì dù có lắc mạnh viên ngọc cũng gây được tiếng động nào: khi thạch cao còn ướt, viên ngọc có thể bị dính chặt ở bên trong, và thực quả đúng như vậy. Nhưng Beppo nản lòng. thực cuộc tìm kiếm tài tình. Qua người em họ làm cho Gelder, biết được những pho tượng ấy được bán cho hãng nào. cố xin chân ở hiệu Morse Hudsson và nhờ đó lần ra được dấu tích của ba pho. Tiếc thay trong cả ba pho ấy đều thấy có viên ngọc. Sau đó, nhờ nhân viên người ý, dò ra được ba pho còn lại ở đâu. Pho thứ nhất ở nhà ông Harker. Tại đây Beppo bị Pietro theo dõi. Tên này vốn coi như kẻ chịu trách nhiệm về vụ mất viên ngọc, Beppo hạ sát tên này trong trận ẩu đả sau đó.
      - Nếu chúng đồng lõa với nhau tại sao Pietro lại phải mang theo tấm ảnh?- tôi hỏi.
      - Đó là phương tiện để hỏi dò người khác xem họ có nhận ra người trong ảnh . Lý do chỉ có vậy. Sau khi gây án mạng, tôi đoán chắc Beppo nhất định phải hành động khẩn trương hơn, chứ thể chần chứ. sợ cảnh sát khám phá được điều bí mật của , nên phải làm gấp trước khi bị cảnh sát biết. Tất nhiên ở thời điểm đó, tôi chưa thể rằng tìm thấy viên ngọc. Tôi cũng chưa thể kết luận đích xác rằng tìm viên ngọc. Nhưng tôi biết chắc rằng tìm vật gì đó, vì phải mang pho tượng qua mấy nhà liền để tìm chỗ nào đó có ánh đèn. Bấy giờ chỉ còn hai pho, nên dĩ nhiên phải tìm pho ở London trước tiên. Vì thế tôi phải báo trước với chủ nhà để tránh thảm kịch thứ hai. Và ở đó chúng ta thu được kết quả mỹ mãn nhát. Lúc này, dĩ nhiên, tôi biết chắc cái mà chúng ta theo đuổi chính là viên ngọc Borgias. Tên kẻ bị giết giúp tôi tìm ra mối liên hệ giữa các việc với nhau. Cuối cùng chỉ còn pho tượng độc nhất - pho ở Reading – và chắc chắn viên ngọc phải nằm ở đó. Tôi mua nó từ tay chủ nhân trước chứng kiến của các vị, và viên ngọc giờ này ở đây.
      Chúng tôi ngồi im lặng lúc.
      - ấy đấy - Lestrade lên tiếng - tôi từng được chứng kiến ông xử lý nhiều vụ án, ông Holmes ạ, nhưng từ lúc hành nghề tới giờ, tôi chưa hề được thấy vụ được xử lý cách tài tình như vụ này. Nếu ngày mai ông có nhã ý quá bộ đến Scotland Yard tôi tin rằng ai, kể từ ông thanh tra già nhất đến nhân viên trẻ nhất, lấy làm sung sướng được bắt tay ông.
      - Cám ơn ông! - Holmes . - Cám ơn ông! - Và khi quay tôi có cảm giác xúc động hơn bất cứ lúc nào mà tôi từng được chứng kiến. Lát sau, lại trở thành con người có cách suy nghĩ lạnh lành và thực dụng như cũ.
      - Watson, cất giúp viên ngọc vào chỗ an toàn - . Tạm biệt ông Lestrade. Nếu sau này ông có gặp vấn đề nhặt nào, tôi lấy làm sung sướng được góp với ông vài ý để giúp ông tìm giải pháp.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :