Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      11. Tục lệ nhà Musgrave

      Trong tính cách của Sherlock Holmes có đặc điểm kỳ lạ bao giờ cũng làm cho tôi ngạc nhiên: mặc dù trong công việc đòi hỏi trí não phải làm việc nhiều, vẫn là người cẩn thận, quần áo của bao giờ cũng tươm tất, chỉnh tề và tao nhã. Trong những lĩnh vực khác là người xuề xòa thiếu ngăn nắp; những thói quen của có thể làm cho bất cứ người nào sống với mái nhà, đôi lúc cũng phải bực. phải tôi là người quá nghiêm khắc, công việc bận rộn ở Afghanistan chỉ tổ làm cho lối sống du mục của tôi ngày càng phát triển; càng làm cho tôi trở thành bừa bãi, cẩu thả; mà điều này đối với bác sĩ thể tha thứ được. Nhưng tính cẩu thả của tôi cũng có thời gian nhất định: khi thấy người để những điều xì gà của mình trong chiếc thùng dùng để chứa than đá; những bức thư chờ được trả bị con dao nhíp hờ hững đè lên; chiếc bảng gỗ treo lò sưởi, ai mà điên tiết cho được. Thú , tôi có cảm giác, dường như tôi là mẫu người mực thước về tính cách và đạo đức.
      Tôi bao giờ cũng quan niệm rằng, bắn súng là trò giải trí, mà người ta chỉ luyện tập ở ngoài trời cách tự do. Khi Holmes bắt đầu ham thích luyện môn bắn súng, mà lại luyện tập ghế bành, tay cầm khẩu súng lục và băng đạn, bắt đầu luyện tập bằng cách lấy đầu đạn vạch lên tường đối diện cặp chữ lồng “K.V”. Tôi thấy công việc đó làm cho căn phòng tốt hơn, khí trong phòng ấm hơn, cũng hề làm cho hình dáng bên ngoài của ngôi nhà đẹp lên chút nào.
      Căn phòng của chúng tôi bao giờ cũng đầy ắp những đồ vật kỳ dị, có dính líu tới hóa học hoặc câu chuyện hình nào đó. Các vật kỷ niệm ấy bao giờ cũng nằm rải rác ở những chỗ mà ít ai ngờ tới nhất; chẳng hạn đựng trong bồn chứa dầu, đôi lúc còn nằm ở chỗ thích hợp nhất. Nhưng, giấy má của Holmes làm cho tôi đau đầu hơn cả. bao giờ tiêu huỷ những tài liệu, đặc biệt những tài liệu có dính líu đến công việc phá án mà có tham dự. Những việc sắp xếp những giấy máy ấy đối với là cả công việc cực kỳ khó khăn, đòi hỏi nghị lực phi thường; quá lần trong năm nhiều giờ để làm công việc ấy. Hình như trong chuyện nào đó, tôi ghi là tiềm năng to lớn trong người Sherlock Holmes xuất khi nào bắt tay vào giải quyết những cuộc khám phá tuyệt vời, điều đó làm cho tên tuổi của lừng danh. Nguồn năng lượng của thay đổi theo chu kỳ hững hờ, cho đến lúc kiệt sức hoàn toàn. Khi ấy nằm dài giường đọc những quyển sách ưa thích trong mấy ngày liền, thỉnh thoảng đứng lên với lấy chiếc viôlông để kéo vài bản nhạc du dương. Chính thế, nên đống giấy má từ tháng này sang tháng khác ngày nhiều thêm; tất cả các góc nhà đều chất đầy những cặp ghi chép. Đốt những ghi chép kia bao giờ được phép làm, ngoài chủ nhân nó ra.
      Vào buổi chiều mùa đông, hai chúng tôi ngồi bên cạnh chiếc lò sưởi. Tôi bạo mồm khích Sherlock Holmes là từ lâu thấy ghi chép vào sổ của mình những nguồn tin; rồi có nên bỏ ra tiếng đồng hồ để sửa sang lại căn phòng của mình cho khang trang hơn . phải thừa nhận tôi đúng. sốt sắng chạy ngay về phòng ngủ, rồi khệ nệ bê chiếc thùng sắt tây to tướng ra. Sau khi đặt nó xuống giữa phòng, ngồi xuống ghế và từ từ mở nắp ra. Tôi thấy chiếc hòm sắt chứa đầy phần ba những cặp sách đựng giấy tờ, được cẩn thận buộc bằng những dải băng màu đỏ.
      - Watson, ở đây ít những chuyện lý thú, - lên tiếng và âu yếm nhìn tôi. - Nếu cậu mà biết những gì nằm trong thùng sắt tây này có lẽ cậu đề nghị tớ hãy lôi ra tập giấy nào đó chứ phải đặt thêm vào đây những giấy má mới.
      - Có phải là những số liệu về công việc trước kia của cậu ? - Tôi hỏi - Tớ nhiều khi lấy làm tiếc cho việc có những số liệu ghi chép về những việc qua.
      - Đúng, bạn quý của tớ ạ! Tất cả những thứ này đều xảy ra từ trước, trước khi tớ có người bạn chuyên viết tiểu sử những vụ án, người có ý định làm rạng rỡ tên tuổi của tớ.
      Bằng những động tác mềm mại, khéo léo lôi hết tập này, đến tập khác.
      - phải tất cả mọi chuyện đều được kết thúc êm đẹp đâu, Watson ạ, - . - Nhưng trong số đó có vài chuyện thú vị, làm đau đầu tớ ít. Ví dụ như: vụ giết chết Tarleton; câu chuyện của ngài Vamberry - nhà buôn rượu vang; còn đây là kiện của bà già người Nga. Đây là chuyện kỳ lạ của chiếc nhẫn bằng nhôm; rồi bảng chi tiêu tỉ mỉ về chàng Ricoletti chân cong với người vợ đáng sợ của ông. Còn đây... đây ràng là chuyện mê ly, hấp dẫn.
      thọc tay xuống sát đáy thùng và lôi ra chiếc hộp bằng gỗ có nắp đậy, giống như chiếc hộp đựng đồ chơi trẻ em. mở hộp, lấy ra tờ giấy nhàu nát, chiếc chìa khóa bằng đồng kiểu cũ; thanh gỗ có cuốn cuộn dây ; và ba chiếc vòng bằng kim loại bị han rỉ.
      - Thế nào bạn, cậu có thích những thứ trang sức này ? - hỏi, và mỉm cười với khuôn mặt ngơ ngác của tôi.
      - Bộ sưu tập đầy tính hấp dẫn và kích thích hiếu kỳ.
      - Rất hấp dẫn, còn câu chuyện của nó càng kích thích tò mò của cậu hơn.
      - Chẳng lẽ, những vật kỷ niệm này đều có lịch sử?
      - Hơn thế nữa, tự nó lên lịch sử rồi.
      - Cậu định ám chỉ điều gì?
      Sherlock Holmes trải các vật ra bàn, ngồi xuống ghế và ngắm nghía bằng cặp mắt sáng ngời, lấp lánh dầy hứng thú.
      - Tớ giữ những vật này làm kỷ niệm về câu chuyện có liên quan đến “Bộ nghi lễ nhà Musgrave”.
      Tôi nghe Holmes nhiều về câu chuyện này, nhưng chưa hề có dịp hỏi cặn kẽ mọi chi tiết.
      - Cậu hãy kể cho tớ nghe mọi chuyện về vụ này . - Tôi đề nghị.
      - Thế cứ để nguyên những đồ bỏ ở đây à? Chúng ta phải thu dọn chứ? - thâm thúy hỏi lại - thích ngăn nắp, gọn gàng của cậu vứt ở đâu rồi. thế thôi, tớ cũng rất muốn cậu bổ sung vụ này vào bộ biên niên sư của mình, bởi lẽ nó có những tình tiết khá nổi tiếng trong làng hình , những chỉ riêng ở nước , mà có thể cả những nước khác nữa. Bộ sưu tập những chiến công của cậu được trọn bộ nếu thiếu việc miêu tả, ghi chép câu chuyện lịch sử hoàn toàn có này... Chắc cậu còn nhớ, chuyện xảy ra với “Gloria Scott” và đoạn đối thoại với ông già bất hạnh. Số phận của ông ta có lần tớ kể cho cậu. Ông là người đầu tiên gợi ý cho tớ về nghề nghiệp, mà sau này nó trở thành nghiệp của cuộc đời tớ. nay tên tuổi của tớ nổi tiếng, chỉ trong dân chúng mà cả giới hình . Nhưng riêng việc giải quyết những vấn đề tranh cãi những người am hiểu đều đánh giá tớ ở bậc thấp. Khi chúng ta mới quen nhau, tớ vốn sống tương đối phong phú. Cậu có thể tưởng tượng được ? Lần đầu tớ vất vả biết bao, phải trải qua thời gian dài tớ mới định hướng được.
      Bước đầu tới Luân Đôn, tớ đến ở tại hẻm Montague nằm sau góc Viện bảo tàng British, tớ liền lao vào công tác nghiên cứu. Tớ nghiên cứu tất cả các lĩnh vực kiến thức, vì nó rất có lợi cho nghề nghiệp tớ sau này. Dần dần, những người đến gặp tớ để nhờ giúp đỡ: phần lớn họ đến là do bạn bè, sinh viên ngày trước giới thiệu, vì trong những năm cuối của trường đại học người ta bàn tán ít về phương pháp của bản thân tớ. Việc thứ ba, người ta nhờ tớ giải quyết việc của họ hàng nhà Musgrave. Hàng loạt kiện xảy ra cách lý thú, các kiện khác tiếp theo làm cho tớ phen điêu đứng và lúng túng; đó là nấc thang đầu tiên của con đường danh vọng và cũng là viên gạch đầu tiên để xây lên địa vị của tớ nay.
      Reginald Musgrave là bạn học cùng trường trung học với tớ, theo quan tiệm nào đó tớ và ta có tình thân bằng hữu. ta quá rụt rè nhút nhát, đôi khi bạn bè cho rằng, ta làm cao, nên ta ít tiếng trong đám bạn bè. Bề ngoài ta đúng là nhà quý tộc nòi; khuôn mặt thanh tú, mũi to, mắt hơi lồi; phong cách tuy hơi cẩu thả, nhưng vẫn giữ được vẻ tao nhã, thanh lịch. Thực ra, đó là người còn sót lại của dòng dõi vua chúa, đời này có lẽ là đời cháu chắt gì đó; vào thế kỷ thứ XVI dòng họ Musgrave ở miền Bắc, tách ra và thành lập ở phía tây Sussex; cơ ngơi Hurlstone - đó là dinh thự của dòng họ Musgrave, là trong những ngôi nhà cổ kính nhất vùng này. Hình như, dinh thự nơi ta sinh ra cũng mang nét hình hài của ta. Mỗi khi nhìn khuôn mặt trắng xanh của ấy, với những đường nét hơi thô, cùng phong thái đạo mạo bao giờ tớ cũng liên tưởng tới những mái vòm hình chóp, khung cửa hình vuông và tất cả những nét rơi rớt lại của nền kiến trúc phong kiến. Có đôi lúc chúng tôi tâm với nhau, lần nào ta cũng thích thú những phương pháp quan sát tinh tế và cách đánh giá, nhận xét chính xác của tớ.
      Suốt bốn năm, chúng tôi gặp nhau. Chợt buổi sáng ta tới thăm tớ ở Montague. ấy chẳng thay đổi mấy, ăn mặc rất bảnh bao - ta vốn là người thích ăn diện,và bây giờ vẫn giữ phong thái chững chạc đàng hoàng vốn có.
      - Cậu vẫn khỏe chứ Musgrave? Sau khi bắt tay thân mật, tớ hỏi.
      - Chắc cậu cũng biết, cha tớ vừa qua đời - ta . - Chuyện ấy xảy ra gần hai năm rồi, cậu hiểu cho tớ, lúc bấy giờ tớ phải đứng ra đảm đương gánh vác việc cai quản cơ ngơi Hurlstone rất vất vả. Hơn nữa, tớ là đại biểu của vùng, bận ơi là bận. Còn cậu, nghe đâu sử dụng khả năng hiếm có của mình để giúp đỡ mọi người có phải ?
      - Đúng đấy, - Tớ trả lời - tớ có ý định dùng trí tuệ của mình để kiếm mẩu bánh mì.
      - Rất sung sướng được biết như vậy, bởi vì lời khuyên bảo của cậu bây giờ đối với tớ quý giá. Ở chỗ tớ xảy ra chuyện mà cảnh sát đành bó tay. Câu chuyện làm đau đầu mọi người.
      Cậu có thể hình dung tớ nghe ta như thế nào , Watson. Đây chính là trường hợp mà tớ cháy ruột, cháy gan chờ đợi ròng rã trong những tháng ngày thất nghiệp, cuối cùng nó đến với tớ. Từ đáy lòng, bao giờ tớ cũng tin rằng, tớ có thể đạt kết quả ở những nơi mà kẻ khác bó tay; và đây chính là dịp để tớ thử nghiệm chính bản thân mình.
      - Cậu hãy kể cặn kẽ cho tớ nghe với! - Tôi thốt lên.
      Sherlock tiếp tục:
      - Tớ mời bạn Reginald Musgrave điếu thuốc, ta ngồi đối diện với tớ và châm thuốc.
      - Cần với cậu, - ta mào đầu - mặc dù tớ chưa vợ, nhưng tớ vẫn phải giữ lại ở dinh thự Hurlstone biên chế hoàn chỉnh số người phục vụ giúp việc. Dinh thự rất to, được xây cất quá vụng về, hợp lý và vì thế cần có người trông coi thường xuyên để đề phòng trộm cắp. Hơn nữa, chỗ tớ có khu rừng cấm, cứ đến mùa săn chim trĩ, trong nhà tập trung cả hội lớn, đòi hỏi ít người phục vụ. Tất cả có tám người, người hầu, người làm bếp, thêm hai người xà ích và thằng bé để chạy thư từ, tất nhiên kể người thợ làm vườn và những người giám mã.
      Trong số những người phục vụ ấy, có chàng Brunton là người phục vụ lâu nhất. Lúc bố tớ mời ta về, ta chỉ là thầy giáo trẻ thất nghiệp; chẳng bao lâu, với nghị lực phi thường, tính cách mạnh mẽ, ta nghiễm nhiên trở thành người thể thiếu được trong nhà tớ. Đó là gã đàn ông cao to, đẹp trai, có vầng trán đẹp đẽ. Tuy ta làm việc ở nhà tớ được hai mươi năm, nhưng ta chưa đến bốn mươi tuổi. điều rất lạ, tại sao với hình thức hấp dẫn và năng khiếu hiếm có như thế, hơn nữa ta lại được vài ba thứ tiếng, biết chơi hầu hết các loại nhạc cụ, lại cam chịu địa vị quá ư thấp hèn? ta sống đến nỗi tồi, lúc nào cũng vui vẻ và có ý định thay đổi cách sống. Người hầu này bao giờ cũng thu hút chú ý của khách khứa. Nhưng trong con người hoàn hảo này vẫn có thiếu sót: ta là người có tính lăng nhăng, quan hệ đương bừa bãi. Cậu biết đấy, trong địa hạt chúng tớ, ta thực vai sở khanh có gì là khó. Khi vợ ta còn sống mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng khi vợ ta mất, ta gây cho chúng tớ ít phiền toái. Thú vài tháng trước chúng tớ yên tâm, vì ta đính hôn với bé Rachel Howells con hầu trẻ tuổi. Nhưng sau đó, tệ, ta theo đuổi Janet Tregellis - con của người thợ săn già lành nghề. Rachel - có lòng tự trọng cao, nhưng rất nóng nảy và tính khí thất thường, như người dân vùng Welsh, hơn nữa ta bị bệnh viêm màng não nằm liệt giường liệt chiếu. ta mới hồi phục, và lại như cái bóng, người ta chỉ còn lại đôi mắt.
      Đó là tấn kịch đầu tiên xảy ra ở dinh thự Hurlstone của chúng tớ. Nhưng tiếp theo là chuyện tày trời hơn xóa nhòa chuyện cũ trong ký ức chúng tớ. Đó là việc, người hầu trai Brunton bị đuổi ra khỏi nhà cách nhục nhã. Vụ đó xảy ra như thế này: Tớ kể cho cậu nghe rồi.
      Brunton là người rất thông minh, có lẽ chính thông minh là nguyên nhân làm hư hỏng ta. ta hay tò mò đến những đồ vật hề dính dáng đến ta. Tớ chưa bao giờ nghĩ rằng, ta lại có thể xa đến như thế, việc xảy ra làm tớ sáng mắt ra. Ngôi nhà chúng tớ xây dựng luộm thuộm phía trong nhiều đường ngang dọc. Tuần trước chính xác hơn là vào đêm thứ năm tuần trước, vì chót uống ly cà phê quá đậm sau bữa ăn nên tớ nằm trằn trọc mãi đến hai giờ sáng. Tớ thể nào ngủ được, bèn ngồi dậy, thắp nến để đọc tiếp cuốn tiểu thuyết. Nhưng cuốn sách lại để quên ở phòng đọc, tớ khoác áo choàng vào lấy cuốn sách. Muốn đến phòng đọc, tớ phải xuống đoạn cầu thang nối, cắt ngang qua hành lang để đến phòng đọc và phòng để vũ khí. Tớ giật mình, ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh sáng leo lắt chiếu qua cách cửa mở toang của thư viện. Trước khi ngủ, chính tay tớ tắt đèn, đóng cửa cẩn thận. Tớ nghĩ, có lẽ kẻ trộm lọt vào nhà; các bức tường của tất cả hành lang của dinh thự Hurlstone được treo đầy các loại vũ khí kỳ dị - đấy là chiến lợi phẩm của tổ tiên chúng tớ. Tớ vớ lấy cây mã tấu dựng tường và đặt cây nến xuống nền nhà, rồi rón rén mấy đầu ngón chân, liếc nhìn qua cánh cửa bỏ trống của thư viện.
      Thằng hầu Brunton, ăn mặc chỉnh tề, ung dung ngồi trong chiếc ghế bành. đùi tờ giấy trông như tấm bản đồ địa lý; ngắm nghía với vẻ đăm chiêu và trầm ngâm suy nghĩ rất lung. Sững sờ vì quá kinh ngạc, tớ đứng im quan sát . Trong phòng được thắp ngọn nến cháy dở, chợt Brunton đứng lên, tới chỗ chiếc tủ mở ra ngăn kéo lấy ra tờ giấy và trở về chỗ cũ, trải tờ giấy xuống bàn bên cạnh mẩu nến, và bắt đầu quan sát. Kiểu cách nghiên cứu thản nhiên những giấy má trong gia đình tớ của làm tớ vô cùng căm phẫn. chịu đựng được nữa, tớ bèn bước vào. Brunton vừa dừng lại ngước lên, nhìn thấy tớ đứng trước cửa. vội vàng đứng dậy, mặt mày tái nhợt vì sợ hãi, và vội vội vàng vàng nhét tờ giấynhư tấm bản đồ vào túi.
      - Hay ho nhỉ! - Tớ lên tiếng - lạm dụng lòng tin của tôi mới khéo làm sao? Từ ngày mai buộc phải thôi việc.
      cúi xuống, bò lết lại chỗ tớ lời nào. Mẩu nến còn nằm bàn, rọi le lắt những ánh sáng, tớ liếc nhìn tờ giấy mà Brunton lôi ra từ ngăn kéo. Tớ vô cùng ngạc nhiên, đấy phải là giấy tờ quan trọng, mà chỉ là bản sao các câu hỏi và câu trả lời. Chúng tớ quen gọi là “Bộ nghi lễ nhà Musgrave”. vài ba thế kỷ nay, mỗi người đàn ông trong dòng họ chúng tớ, khi đến tuổi trưởng thành, đều phải thực lễ chế ấy. Nó chỉ có ý nghĩa đối với các thành viên trong gia đình này, nhưng ngoài đời nó ý nghĩa thực tế nào hết.
      - Với tờ giấy ấy, chúng ta bàn sau. - Tớ đề nghị với Musgrave.
      - Nếu cậu cho là cần thiết - ta có phần lưỡng lự - tớ kể tiếp các kiện. Sau khi dùng chìa khóa; khóa tủ lại, tớ định ra, chợt Brunton đến trước mặt tớ.
      - Thưa ngài Musgrave. - ta thốt lên bằng giọng khàn khàn vì hồi hộp - Tôi chịu đựng nổi nỗi nhục nhã này! Tôi là kẻ nhen, nhưng tôi có lòng tự trọng, nỗi nhục này làm tôi chết mất. Cái chết của tôi nằm trong lương tâm ngài, nếu ngài cố tình đẩy tôi vào con đường cùng cực, tuyệt vọng tôi cắn rơm, cắn cỏ lạy ngài nếu ngài thấy rằng sau hành động đê tiện của tôi ngài thể dùng tôi được mong ngài hãy cho tôi thời hạn tháng để tôi có thể với mọi người là tôi tự nguyện ra , chứ phải là do bị đuổi. Dưới con mắt của mọi người quen biết và thân thuộc với tôi, tôi thể chịu đựng được.
      - xứng đáng để mọi người tôn trọng như vậy, Brunton ạ - Tớ trả lời . - Hành động của tôi thể ngờ được. Nhưng tôi chiếu cố cho , vì phục vụ trong gia đình tôi cũng khá lâu, tôi bêu riếu trước mặt mọi người. Tuy thế, tháng quá nhiều. có thể ra trong vòng tuần, với lý do nào tùy .
      - Thưa ngài, có tuần thôi ư? - ta thốt lên đầy thiểu não - Ôi! mong ngài rộng lượng cho thêm hai tuần thôi cũng được!
      - Sau tuần. - Tôi lặp lại - Đối với như, vậy là quá nhân nhượng rồi.
      Sau khi cúi đầu nhận tội, chậm rãi bước ra như kẻ chết hoàn toàn, còn tớ tắt nến, quay về phòng mình.
      Trong vòng hai ngày sau đó, Brunton thực nghiêm túc trách nhiệm của mình. Tớ cũng nhắc ta về việc xảy ra, và nóng lòng mong đợi nghĩ cách gì để che đậy chuyện nhục nhã của mình nhưng, sang ngày thứ ba, trái với thông thường, thấy đến nhận việc. Sau bữa ăn sáng, trong khi bước ra khỏi phòng tớ tình cờ thấy con hầu Rachel Howells. Tớ với cậu là này vừa mới ốm dậy, trông ta có vẻ phờ phạc, đến nỗi tớ cũng phải trách làm việc khi chưa bình phục.
      - cứ nghỉ cho khỏe - Tớ . - Chờ khi nào khỏe hẳn bắt tay vào việc cũng muộn.
      - Em khỏe hẳn rồi, thưa ông chủ. - ta đáp.
      - Chúng tôi phải chờ xem bác sĩ kết luận như thế nào? - Tớ chống chế. - hãy dừng ngay công việc và tìm Brunton ta đến gặp tôi.
      - Brunton bỏ trốn rồi ạ. - ta đáp.
      - Bỏ trốn!
      - Vâng, ta biệt tích, ai nhìn thấy. Trong phòng cũng có. ta bỏ trốn; vâng trốn!
      ta đứng dựa hẳn vào tường và cười hô hố trong cơn động kinh. Còn tớ, trong lúc lo sợ vì cái động kinh bất ngờ, tớ chạy đến rung chuông kêu người đày tớ. Người ta mang vào phòng, ta vẫn tiếp tục cười rất man rợ và khóc sướt mướt. Tớ vẫn tiếp tục tìm Brunton: Nhưng ta mất tích - điều đó còn nghi ngờ gì nữa, giường chiếu của ta vẫn còn nguyên vẹn, ai nhìn thấy ta kể từ lúc ta quay về phòng mình chiều tối hôm qua. Nhưng thể tưởng tượng nổi, bằng cách nào chuồn được khỏi nhà: tất cả cửa sổ, cửa ra vào đều được khóa từ bên trong. Quần áo, đồng hồ ngay cả tiền bạc của Brunton vẫn còn đầy đủ trong phòng ta, chỉ có bộ đồ đen, bộ ta hay mặc là thấy; đôi dép dùng trong nhà cũng có, chỉ còn đôi ủng. Trong đêm hôm khuya khoắt Brunton bỏ đâu và chuyện gì xảy ra với ta. Cậu biết ? Chúng tớ lùng sục khắp mọi xó xỉnh, nhưng hề thấy dấu vết nào của ta. Tớ xin nhắc lại, dinh thự của tớ rối rắm, đặc biệt những mái vòng cũ kỹ hoang vắng người ở, nhưng chúng tớ cũng cứ lùng sục từng nơi ; thậm chí cả những gác xép. Mọi cố gắng của chúng tớ điều mang lại kết quả gì. đơn giản, tớ thể tin là chàng Brunton ra , mà để lại tất cả tài sản, tớ nghĩ rằng, ta mất tích. Tớ cũng mới cảnh sát địa phương tới giúp. Nhưng cảnh sát cũng khám phá được gì mới. Trước khi xảy ra vụ mất tích, có trận mưa, do vậy mọi quan sát các dấu vết ở bãi cỏ, con đường đều vô nghĩa. Tình thế nan giải như vậy đó.
      Retten Howells liên tiếp trong hai ngày cứ tỉnh tỉnh mê mê và lên những cơn động kinh khủng khiếp. ta khó ở đến nỗi chúng tớ phải cho người hộ lý luôn luôn túc trực bên cạnh. Đêm thứ ba sau ngày Brunton bị mất tích, hộ lý thấy người bệnh ngủ, nên ta cũng thiu thiu giấc. Sáng sớm hôm sau, khi thức dậy hộ lý giật mình khi nhìn thấy chiếc giường trống trơn, cửa sổ mở toang, bệnh nhân biến mất. Người ta lập tức gọi tớ dậy, tớ lấy hai xà ích rồi bổ tìm.
      Chúng tớ dễ dàng xác định hướng của hầu . Bắt đầu từ cửa sổ, cho đến cái ao dọc theo bãi cỏ các dấu vết rất , khi đến con đường rải sỏi mọi dấu vết biến mất. Cái ao lớn này có chỗ sâu đến 8 foot, cậu thử hình dung xem, khi chúng tớ nhìn thấy đôi tất của đáng thương trôi lững lờ mặt nước. Chúng tôi vội vàng lấy câu liêm để vớt xác kẻ chết đuối; nhưng vô vọng, đáy ao có xác người nào. Thay vào đó, chúng tớ bị bất ngờ bởi vớt lên được chiếc bao tải bằng vải gai, trong bao tải được nhét đầy những mảnh vụn kim loại cũ, han rỉ, mất hết màu sắc; các mảnh đó đùng đục mờ mờ như các mảnh sành, và cũng hơi giống thủy tinh. còn vật gì khác, mặc dù chúng tớ cật lực tìm kiếm cả ngày hôm qua. Chúng tớ tiến hành gạn hỏi, chất vấn mọi người nhưng vẫn biết Brunton và Rachel Howells nay ở đâu. Cảnh sát địa phương bất lực, lắc đầu; và cuối cùng tớ chỉ có hy vọng cuối cùng là nhờ đến cậu, Sherlock Holmes ạ.
      Cậu biết , Watson, tớ lắng nghe câu chuyện với thú vị. Tớ có tham vọng kết dính các kiện thành chuỗi thống nhất, để lần tìm sợi chỉ dẫn đường, sợi chỉ xuyên suốt mọi hành động, nhằm tìm giải đáp của bài toán hóc búa.
      Người hầu trai biệt tích, hầu cũng biến luôn. Có thời gian hầu say đắm chàng hầu trai, nhưng sau đó lại thù ghét ta. bé ấy là người vùng Welsh, tính khí rất mãnh liệt nên tình mặn nồng thiết tha. Sau khi chàng Brunton bị mất tích, tâm trạng ta bị kích động dữ dội. ta ném xuống ao bao tải đựng toàn đồ kỳ quặc. Mỗi kiện đều làm cho chúng ta phải suy nghĩ, nhưng kiện nào trong đó chỉ ra được thực chất của vấn đề. Tớ phải tìm đầu sợi chỉ trong mớ bòng bong ở đâu? Nhưng tớ thoáng ngờ mắt xích trong cả chuỗi rối rắm kỳ lạ ấy...
      - Musgrave! - Tớ - Tôi cần xem tờ giấy mà chàng Brunton nghiền ngẫm, thậm chí vì nó mà ta dám xăm mình nước cờ liều để rồi phải mất việc.
      - Thực ra, “bộ nghi lê” của chúng tôi, chỉ toàn là điều nhảm nhí. - ta - Cái quý duy nhất của nó là tính chất đồ cổ, lịch sử. Tôi có mang theo bản sao chép để phòng, nếu cần cứ xem.
      ta đưa cho tớ chính mảnh giấy này, tờ giấy mà tớ cầm tay đây, Watson. Bộ nghi lễ - Ý nghĩa của nó đại loại như kỳ thi sát hạch, mà mỗi người đàn ông trong dòng họ Musgrave đều phải trải qua khi đến tuổi vị thành niên. Tớ đọc cho cậu nghe những câu hỏi và câu trả lời theo thứ tự ghi chép.
      “Cái này thuộc về ai?” “Về người ra ”.
      “Cái này thuộc về ai?” “Về người đến”.
      “Cái này có từ tháng mấy?” “Tháng thứ sáu, tính từ tháng thứ nhất trở
      “Mặt trời ở đâu” “ ngọn cây sồi”.
      “Bóng của nó ở đâu?”. “Ở dưới gốc cây du”
      “Cần bước mấy bước?”
      “Về phía bắc - 10 và 10; về phía đông - 5 và 5; về phía nam - 2 và 2; về phía tây - 1 và 1, và xuống dưới”.
      “Chúng ta hiến dâng cái gì cho việc ấy” “Tất cả những gì mà chúng ta có”.
      “Vì cái gì mà chúng ta hiến dâng?” “Vì trách nhiệm, nghĩa vụ”
      - Trong nguyên bản thấy ghi ngày tháng - Musgrave nhận xét - Nhưng theo lối viết và ngữ pháp tôi đoán khoảng giữa thế kỷ XVII. Tôi e rằng những tài liệu này giúp được gì cho trong việc giải quyết điều bí ở dinh thự tôi.
      - Cũng có thể, nhưng nó đặt ra trước mắt chúng ta câu đố thứ hai. - Tớ trả lời. - câu đố gợi trí tò mò cách thích thú. Nếu ta giải được câu đố này có khả năng khám phá ra đáp số của bài toán thứ nhất. Tớ hy vọng, cậu giận tớ Musgrave ạ, người hầu trai của cậu là người thông minh, khôn ngoan và nhậy bén, thấu hiểu mọi vấn đề hơn hẳn chủ ta đến mười lần.
      - Thú , tôi hiểu định cái gì? - Musgrave trả lời. - Tôi nghĩ, tờ giấy này chút ý nghĩa thực tế nào hết.
      - Riêng tôi, cho rằng nó rất quan trọng, có lẽ Brunton có suy nghĩ giống tôi. Chắc là chàng hầu trai kia nhìn thấy tờ giấy này trước đêm mà bắt quả tang ta.
      - Hoàn toàn có thể, chúng tôi giấu kín là cái gì.
      - Chính xác hơn, lúc ấy ta chỉ muốn xem để nhớ nội dung. Theo tôi hiểu, ta cầm tay tấm bản đồ, so sánh với bản chép tay. Khi nhìn thấy , ta vội vàng nhét bản đồ vào túi.
      - Đúng, ta cần xem tờ tiết lễ có tính chất gia giáo của chúng tôi để làm gì? đam mê khờ dại kia chẳng dẫn đến kết quả nào hết?
      - Tôi thiết nghĩ chúng ta có khả năng tìm được đáp số đến nỗi khó khăn. - Tớ đáp, nếu đồng ý, chúng ta chuyến tàu đầu tiên đến Sussex và mổ xẻ kỹ vụ này tại trường.
      Chúng tớ có mặt tại dinh thự Hurlstone trong ngày hôm ấy. Cậu thấy bức tranh họa ngôi nhà này chưa? Cậu đọc được những đoạn người ta miêu tả về nó chưa? Tớ cho cậu , dinh thự này có hình dáng “L” mái dài, trông ra dáng hơi đại, còn mái ngắn cũn cỡn trông rất cổ kính. Có thể vì, đó là chiếc bào thai sản sinh ra tất cả. Ngay phía cánh cửa hẹp, nặng nề ở ngay trung tâm có khắc năm xây dựng “1607”. Nhưng những nhà am hiểu lịch sử và kiến trúc cho rằng, những thanh xà gỗ, đá lát nền còn cổ kính lâu đời hơn nhiều. Ở thế kỷ trước, người ta thấy những bức tượng dày quái dị, cửa sổ bé tẹo nằm ngay phần chính ngôi nhà, thôi thúc chủ nhân phải xây thêm mái nhà mới, mái nhà cũ chỉ dùng làm kho và hầm chứa, phần còn lại bỏ trống. Xung quanh dinh thự có công viên bao bọc, ở trong trồng nhiều loại cây cổ thụ che mắt rất tuyệt. Còn cái hồ, hay cái ao như người khách nhắc tới, nằm cuối hàng cây, cách nhà chừng 200 yard.
      Lúc bấy giờ, tớ cứ đinh ninh rằng hề có ba bài toán riêng biệt, mà chỉ tồn tại lột câu đố duy nhất. Nếu tớ thành công việc giải mã bộ nghi lễ nhà Musgrave, chắc chắn tớ tìm ra chiếc chìa khóa để khám phá vụ mất tích của Brunton và Howells. Tớ tập trung toàn bộ năng lực và thời gian lao vào công việc. Tại sao Brunton lại giao đầu miệt mài nghiên cứu. Bộ nghi lễ có nội dung kỳ lạ và hơi ngớ ngẩn? ràng ta đọc được ý nghĩa của nó, ý nghĩa này đánh lạc hướng nhiều thế hệ chủ nhân khu dinh thự. Điều này, thể là cáigì khác ngoài việc ta hy vọng được món hời riêng cho bản thân mình. Món hời này là gì? Vì sao lại làm thay đổi số phận ta?
      Khi nghiên cứu kỹ tờ giấy, tớ sáng tỏ được điều: các con số có liên quan đến địa điểm nào đó có khả năng giấu vật gì đó được nhắc tới ở phần đầu bộ nghi lễ. Nếu chúng ta phát được điểm đó, chúng ta tìm được con đường đúng đắn để vạch ra điều bí mật - bí mật này được tổ tiên chàng Musgrave, biến thành mật mã theo kiểu gia phả. Để tiến hành công việc tìm kiếm, trong tay chúng ta có hai vật làm chuẩn. Đó là cây sồi và cây du. Về cây sồi còn gì để nghi ngờ. Ngay trước mặt ngôi nhà, bên trái conđường, có cây sồi cổ thụ, ra dáng già lão nhất. Đó là cây sồi vĩ đại, đồ sộ nhất mà bây giờ tớ mới có dịp nhìn thấy.
      - Khi viết “Bộ nghi lễ” này, cây sồi này có chưa? - Tớ hỏi Musgrave.
      - Cậu gì? Theo tớ nó có từ thời trung cổ kia - ta trả lời.
      - Thân nó to dễ đến 23 food.
      điểm chính được sáng tỏ.
      - Ở đây ngày trước có cây du cổ thụ nào ? - Tớ hỏi.
      - Cách đây xa có cây khá to, nhưng mười năm trước đây cơn sét đánh trúng nó, người ta đào gốc nó lên rồi.
      - còn nhớ chỗ nó mọc chứ?
      - Tất nhiên, tôi nhớ.
      - Còn những cây du khác, quanh đây có nhiều ?
      - Cây cổ thụ , còn cây con rất nhiều.
      - Tôi muốn biết cây du mọc ở đâu.
      Chúng tớ đến bằng xe kéo, bạn của tớ bước vào nhà, mà dẫn tớ tới ngay chỗ cây du trước kia sống, bây giờ ở đó là bãi cỏ xanh rì. Vị trí này bằng nửa đường giữa cây sồi và ngôi nhà. Công việc tìm kiếm của chúng tớ rất trôi chảy tốt đẹp.
      - Chà, gay go , làm sao chúng ta xác định được độ cao của cây du? - Tớ hơi chán nản hỏi.
      - Ngay bây giờ tôi có thể trả lời cho : Nó cao 64 foot.
      - Làm sao cậu biết chính xác thế? - Tớ ngạc nhiên thốt lên.
      - Ngày trước, ông giáo đại học của tớ, có ra bài tập về môn lượng giác; ông bắt tớ xác định độ cao, đo chiều dài... vì thế, khi còn tớ đo các cây và những vật được xây dựng trong dinh cơ này.
      kết quả đến quá bất ngờ. nguồn tin đến với tớ nhanh hơn dự tính.
      - Cậu làm ơn cho tớ biết, thằng hầu của cậu có bao giờ hỏi câu đại loại như tớ hỏi ? - Tớ hỏi.
      Musgrave nhìn tôi ngạc nhiên.
      - Nghe cậu nhắc chuyện này - ta . - Tớ nhớ lại cách đây vài tháng Brunton có hỏi tôi về độ cao cây du đó. ta giải thích rằng, có trận cãi vã, cá độ về cây du với người đày tớ khác... Điều này, chứng tỏ tớ đúng hướng, Watson ạ. Tớ nhìn lên mặt trời, trời chuyển về chiều. Tớ nghĩ khoảng giờ nữa mặt trời nằm chếch đúng ngọn cây sồi cổ thụ.
      Điều kiện thứ nhất ghi tờ giấy được thực . Điểm nào dính líu đến bóng cây du? Ở đây họ muốn chỉ bóng xa nhất của nó. Tớ phải xác định điểm cuối của bóng cây du, xem nó ngả đến đâu khi mặt trời đứng ngay ngọn cây sồi.
      - Chuyện này đơn giản phải Holmes? Vì cây du còn ở đấy nữa.
      - Tất nhiên là khó. Nhưng tớ biết, nếu Brunton làm được tớ cũng phải làm được. Hơn nữa đấy phải là chuyện khó như cậu tưởng đâu. Tớ cùng với Musgrave vào trong phòng của ta, rồi chặt lấy cái cọc , buộc vào đó sợi dây; đánh dấu từng đoạn, mỗi đoạn bằng yard. Sau đó, tớ nối hai chiếc cần câu lại và trong tay tớ có đoạn dài 64 foot. Tớ cũng cùng bạn tớ đến chỗ cây du mọc. Mặt trời vừa vặn lơ lửng ngọn sồi. Tớ cắm đoạn cây của tớ xuống đất xác định bóng của nó ngả theo hướng nào, và đo bóng của nó đúng 9 foot. Hướng của chúng trùng nhau rồi. Tớ đo khoảng cách ấy, bóng cây du trong tính toán dẫn tớ đến điểm gần sát bức tường của ngôi nhà, tớ đóng cọc làm dấu. Watson, cậu có biết tớ sung sướng như thế nào ? Cách cây cọc của tớ 2 inch, tớ nhìn thấy có cái lỗ hình côn! Tớ hiểu đấy là điểm làm dấu của Brunton khi ta tiến hành đo tính. Tớ lần theo dấu vết của ta.
      Từ điểm xuất phát ấy tớ bắt đầu đếm bước, trước đó tớ dùng la bàn để xác định phương hướng. Mười bước và thêm mười bước nữa tớ hiểu mỗi chân bước mười bước. Theo phương bắc, tớ bước hai mươi bước, dọc theo bức tường tớ đóng cọc làmdấu, sau đó trước năm bước, rồi sau năm bước nữa theo hướng đông, rồi hai bước và hai bước theo hướng nam. Đến đây tớ đứng ngay trước cánh cửa cũ kỹ. Chỉ còn lại bước và bước nữa theo hướng tây, nhưng như thế tớ buộc phải đixuyên qua hành lang lát toàn bằng đá tảng. Chẳng lẽ, đây chính là điểm ghi trong giá phả? Trong đời chưa bao giờ tới gặp phải chuyện đau khổ và đáng buồn như vậy, Watson ạ. Trong giây, tớ có ý nghĩ hãy tính toán của mình bị nhầm lẫn chỗ nào chăng? Mặt trời chiếu rực rỡ, soi nền của hành lang, những tấm đá lát cũ kỹ được trát xi măng kín mít, tất nhiên hàng trăm năm nay chưa hề suy chuyển. điều là Brunton chưa đụng đến đấy. Tớ gõ gõ vài chỗ nền đá, nhưng khắp nơi đều nghe thấy tiếng kêu giống nhau; cố dấu hiệu nào chứng tỏ có vết nứt hoặc khe hở. Rất may, chàng Musgrave bắt đầu hiểu ra ý nghĩa việc làm của tớ. Lúc này, ta ít hồi hộp, lo lắng hơn tớ. lấy tờ gia phả ra để kiểm nghiệm lại các phép tính của tớ.
      - Và chui xuống nữa! - ta chợt reo lên. - quên mất câu “... và chui xuống”.
      Tớ vỡ lẽ ra tất cả. Có nghĩa là phải đào đất để tìm nhưng lúc ấy tớ bỗng trở nên thông thái lạ thường và biết rằng mình nhầm.
      - Như vậy có nghĩa, ở đây có tầng ngầm? - Tớ thốt lên.
      - Đúng, nó được xây đồng thời với ngôi nhà. Nào, nhanh chóng - xuống, qua cánh cửa này! Musgrave .
      Dọc theo cầu thang xoắn chôn ốc xây bằng đá, chúng tớ xuống hầm ngầm. bạn của tớ quẹt diêm châm cây đèn lớn để chiếc thùng phi. Trong khoảnh khắc, chúng tớ đều khẳng định là mình đúng hướng. Chúng tớ cũng nhận thấy, có người nào đó đến đây trước chúng tôi chỉ mới hai, ba ngày.
      Ở tầng hầm này, người ta chất đầy củi; những thanh củi trước kia trải đầy mặt đất, giờ được dồn sát chân tường, giải phóng khoảng gian ở giữa. Ở đây có phiến đá rộng, to và nặng nề nằm chình ình. Giữa phiến đá đượcgắn cái vòng bằng sắt hoen rỉ; trong vòng sắt có ai buộc chiếc khăn quàng cổ, vải ca rô trông còn khá tốt.
      - Quỷ tha ma bắt, cái khăn của Brunton! Nhưng sao nó lại ở đây? - Musgrave thốt lên ngạc nhiên và giận dữ - Tớ trông thấy quàng chiếc khăn này ở cổ. Nhưng thằng đểu cáng, mất dạy làm gì ở đây kia chứ?
      Theo đề nghị của tớ, người ta cho mời hai viên cảnh sát địa phương đến. Với có mặt của họ, tớ toan nhấc phiến đá lên. Nhưng với sức lực của tớ phiến đá chỉ hơi nhấc khe khẽ.
      Nhờ giúp đỡ của viên cảnh sát, tớ mới làm nổi công việc dịch chuyển phiến đá sang bên. Dưới phiến đá là cái hố đen ngòm, toang hoác miệng; tất cả chúng tớ đều nhòm vào. Musgrave quỳ xuống, và đưa thấp ngọn đèn xuống miệng hố.
      Chúng tớ trông thấy chiếc hầm hình vuông chật hẹp, sâu độ 7 foot, rộng mỗi bên độ 4 foot. chiếc rương , làm bằng gỗ được nẹp bốn góc bằng đồng, nằm dưới hầm. chiếc khóa cũ kỹ trông ngồ ngộ, lắc lư trong ổ khoá. Bụi phủ đầy chiếc rương, hơi ẩm mốc làm phần gỗ phía trong mục nát. Vài đồng xu bằng kim khí - giống như những đồng xu cậu trông thấy ở đây, đó là những đồng bạc thời xưa, lăn lóc nằm dưới đáy rương. Ngoài mấy thứ đó ra, trong rương còn bất kỳ vật nào. Tuy thế trong mấy phút đầu, chúng tớ chú ý lắm đến rương, mà tất cả cặp mắt đều đổ dồn vào vật nằm bên cạnh rương.
      người đàn ông, mặc đồ đen ngồi chồm hổm, đầu gục xuống, hai tay ôm chặt lấy rương. Khuôn mặt của người đó trắng bệch và biến dạng thể nào nhận ra. Nhưng, khi chúng tớ dựng ta lên, Musgrave phán đoán theo tầm vóc kích thước, quần áo, tóc tai của kẻ bất hạnh và nhận ra đấy chính là chàng Brunton bị mất tích. Brunton chết trước đó vài ngày, nhưng người ta tìm thấy dấu vết thương tích... để có thể làm sáng tỏ số phận bi đát của ta. Khi chúng tớ lôi được xác chết lên khỏi hầm, chúng tớ lại đứng trước bài toán hóc búa, kém phần đau đầu, so với giải đáp mà chúng tớ vừa khám phá ra...
      Thú với cậu, Watson ạ! Tớ rất nản lòng và chán chường trước hết quả của công cuộc tìm kiếm. Tớ chỉ nghĩ rằng, tìm được địa điểm bí mật ghi trong gia phả lâu đời, mọi việc được sáng tỏ; nhưng khi đứng đúng chỗ cần tìm, mọi bí mật của nhà Musgrave vẫn còn quá mù mịt. ra, tớ làm việc Brunton mất tích, nhưng tớ phải giải quyết vấn đề, để làm sáng tỏ điều; Bằng cách nào số phận của Brunton lại bi đát đến như thế: còn người hầu kia có đóng vai trò gì ? Tớ ngồi xuống chiếc thùng gỗ kê trong góc, suy tính trong óc mọi tình tiết của câu chuyện xảy ra...
      Watson, cậu biết phương pháp của tớ trong nhưng trường hợp tương tự: Tớ đặt mình vào trường hợp kẻ hành động; trước hết cần nắm được trình độ suy luận và mức độ thông minh của ta. Tớ tưởng tượng mình là kẻ đó mình hành động ra sao? Chuyện này có đơn giản hơn, vì Brunton là kẻ có bộ óc phải là tầm thường, tớ phải mất công lắm để tính toán mức độ chênh lệch giữa trình độ suy luận của ta so với tớ. Brunton biết có vật quý giá được cất giấu ở đâu đó. ta đủ trí thông minh đế xác định được chính xác vị trí. ta biết chắc chắn rằng, tấm đá che miệng hầm rất nặng, người tài nào nhấc nổi. Sau đó, ta làm gì? ta thể cầu cứu người lạ được. Nếu tìm được người mà ta tin tưởng, dẫu sao, khi đóng chặt cánh cổng từ bên ngoài, ta cũng thừa hiểu mình bước quá liều lĩnh. Tốt hơn hết, nên tìm người ở ngay trong dinh thự nhà Musgrave. Nhưng Brunton cần tìm ai bây giờ? Người hầu kia thời thương ta. Người đàn ông, dù có những hành động đáng trách với người phụ nữ, nhưng ta vẫn tin rằng, tình dành cho ta phải là hết.
      Khi gặp hầu Rachel, Brunton làm lành với ta, và thuyết phục để ta đồng lõa với . Chờ khi đêm khuya, họ cùng nhau xuống tầng hầm, và hợp sức để đẩy tảng đá. Đến phút này, hành động của bọn họ ràng như chính tớ quan sát bằng cặp mắt mình. Nhưng trong hai kẻ thủ phạm, có phụ nữ, ràng đấy phải là công việc nhàng; tớ với chàng cảnh sát phải chật vật lắm mới đẩy được tảng đá sang bên. Họ làm gì để giảm công việc. Đúng, tớ cũng phải làm như họ làm. Tớ chăm chú nhìn vào đống củi lăn lóc, và tớ tìm thấy ngay cái tớ mong đợi. Có khúc củi dài khoảng 3 foot bị hơi vặn gẫy ở đầu, cây khác bị bẹp dí: ràng nó bị vật nặng đè lên. Có thể, trong lúc nâng tấm đá, Brunton và hầu lèn những thanh củi vào khe hở; khi cái lỗ chưa đủ để chui vào, họ lèn thêm cây củi nữa, cây này được dựng đứng nên vì thế nó mới bị vặn gãy ở đoạn cuối - chính tảng đá đè toàn bộ trọng lượng lên thanh củi. Những giả thiết của tớ hoàn toàn có căn cứ hẳn hoi.
      Tớ phải suy xét thế nào đây, để có thể dựng lại toàn bộ bức tranh của tấn thảm kịch ban đêm? Nhất định chỉ có người lọt vào hầm, và kẻ đó chắc phải là Brunton. Còn , có lẽ đứng ở phía chờ đợi. Brunton mở nắp chiếc rương và lấy hết mọi thứ chuyển lên cho , điều này thể chối cãi vì chiếc rương còn lại rỗng ...
      Tiếp theo, cái gì xảy ra? Có thể, khao khát trả thù chàng bội tình bùng cháy trong lòng nóng tính kia, khi nhìn thấy tính mạng của người tình bội bạc nằm trong tay mình. Cũng có thể, tình cờ cây gỗ ngã xuống, và tảng đá nhốt chặt Brunton trong hầm - trong chiếc quan tài bằng đá. Nếu như chiều hướng thứ hai, Rachel chỉ có lỗi là làm thinh, báo cho mọi người biết chuyện xảy ra. Hoặc ta cố ý rút cây gỗ lèn lên, làm cho tấm đá rơi xuống chỗ cũ? Hoặc là thế này, hoặc là thế khác. Nhưng tớ mường tượng thấy trước mặt tớ người phụ nữ kia: Sau khi giấu chặt trong ngực vật quý giá mới tìm thấy được; ta chạy như bay theo cầu thang xoắn ốc để tránh phải nghe thấy những tiếng rên vì ngạt thở và những tiếng đập cầu cứu tuyệt vọng của người tình lường gạt. Đấy chính là nguyên nhân làm cho ta hoảng hốt, nhợt nhạt, kích động và nổi lên những tràng cười điên loạn vào sáng hôm sau. Vật gì nằm trong chiếc rương kia? làm gì với những vật đó? nghi ngờ gì nữa, đó chính là những mảnh kim loại cũ kỹ và những tấm đá vụn, mà ta kịp ném xuống ao để nhằm che giấu tội lỗi của mình...
      Tớ ngồi bất động chừng hai mươi phút. Musgrave người nhợt nhạt; vẫn đứng cầm ngọn đèn soi xuống hầm là nhìn ngơ ngẩn
      - Đấy là những đồng tiền của thời vua Charles đệ nhất 1 - và chìa cho tớ xem vài ba đồng xu tròn tròn. - thấy , tôi đoán chính xách thời gian ra đời của “Bộ nghi lễ”.
      - Đây chưa phải là hết. Chúng ta phải tìm vật còn sót lại của đế chế Charles đệ nhất! - Tớ thốt lên, khi nhớ lại hai câu hỏi đầu ghi trong gia phả. - cho tôi xem vật chứa trong bao tải, mà tìm thấy dưới đáy ao.
      Chúng tôi cùng bước về phòng Musgrave, ta đổ ra trước mặt tớ đống những mảnh vụn. Tớ ngắm kỹ những thứ của nợ đó, và bỗng hiểu ra vì sao Musgrave coi nó ý nghĩa gì hết; bởi vì kim loại bị đen, còn mảnh đá bị mất hết màu sắc và đục lờ mờ. Tớ lấy ống tay áo lau chùi mảnh, nó bỗng sáng lấp lánh như ngọn lửa trong lòng bàn tay tớ.
      - Chắc hiểu, - Tớ với Musgrave - Tập đoàn của nhà vua vẫn tiếp tục thống trị nước , ngay cả khi nhà vua chết. Rất có thể, trước lúc bỏ chạy những thành viên tập đoàn Charles đệ nhất - là vua nước , bị lật đổ và xử tử - thống trị cất giấu những vật quý giá nhất ở nơi bí mật, với hy vọng quay về khi tình hình yên ổn.
      - Ông cố nội tôi - ngài Ralph Musgrave, có vị trí quan trọng trong triều đình và là cánh tay phải đắc lực của vua Charles đệ nhị, trong thời gian nhà vua còn phiêu bạt.
      - À? - Tớ thốt lên, - tuyệt vời, mắt xích cuối cùng tìm ra. Xin chúc mừng cậu Musgrave! Sau cuộc thăng trầm, gian truân, đày ải, nghiễm nhiên trở thành chủ nhân của thánh vật, nó có giá trị vô cùng to lớn, bởi bản thân nó là của quý. Nhưng nó còn có ý nghĩa quan trọng hơn là tính lịch sử vô cùng quý giá của nó.
      - Vật gì vậy? - ta hỏi tới và hồi hộp vô cùng.
      - Đấy chính là chiếc vương miện của các nhà vua nước .
      - Vương miện?!
      - Đúng. Vương miện. hãy nhớ câu ghi trong gia phả thế này: “Cái này thuộc về ai?” - “Về người ra ”. Lời này được viết khi Charles đệ nhất bị chết. “Cái này thuộc về ai?”. “Về người lên thay”. Câu này có ý về Charles đệ nhị. Việc lên ngôi được tiên đoán từ trước, còn nghi ngờ gì nữa, chiếc vương miện bị hỏng, mất hết hình thù oai nghiêm của nó, từng đội đầu các ông vua từ triều đại Stuarts.
      - Nhưng làm sao nó lại biến được xuống đáy ao?
      - Câu hỏi này thể trả lời trong phút.
      Thế là tớ phải lần lượt kể lại cho Musgrave nghe toàn bộ quá trình, từ những giả thiết cho đến những dẫn chứng của mình. Khi tớ kết thúc câu chuyện trời bắt đầu nhá nhem, và bầu trời xuất mặt trăng soi sáng, bàng bạc rạng rỡ.
      - Nhưng tại sao, khi quay về với vua Charles đệ nhị lấy lại vương miện của mình? - Musgrave hỏi và nhét tất cả những mảnh thánh vật quý báu vào bao tải.
      - nêu lên vấn đề mà chúng ta tài nào giải đáp được. Có lẽ, ông Ralph Musgrave, người nắm được bí mật này, trước khi chết trao lại cho người kế tiếp, nhưng vì sao đó ai giải thích được nội dung, ý nghĩa. Từ đó đến nay, “Bộ nghi lễ” gia phả kia được lưu truyền từ đời cha cho đến đời con. Cuối cùng lọt vào tay kẻ có khả năng khám phá ra điều bí , nhưng kẻ đó phải trả cho nó cái giá quá đắt...
      Watson, câu chuyện về “Bộ nghi lễ của nhà Musgrave” chỉ có thế. Cho đến bây giờ, chiếc vương miện vẫn nằm ở dinh thự Hurlstone, mặc dù chủ nhân của nó phải vất vả, chi phí món tiền khá lớn; trong lúc người ta chưa được phép chính thức giữ chiếc vương miện ở bên cạnh. Nếu cậu muốn ngắm nhìn chiếc vương miện, cậu chỉ cần hô tên của tớ lên người ta ngay lập tức cho cậu xem liền.

      Còn người hầu biệt vô tín. Có khả năng nàng từ giã nước và suốt đời mang theo kỷ niệm về hành động phạm pháp của mình.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Sir ARTHUR CONAN DOYLE

      Sherlock Holmes trở về

      1. Vụ án mạng ở Abbey Grange

      V ào buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá của mùa đồng năm 1897, tôi bỗng thức giấc vì có ai lay mạnh vai tôi. Hóa ra là Holmes. Ngọn nến tay soi gương mặt hăm hở, mà chỉ thoáng nhìn qua cũng biết ngay là có chuyện vừa xảy ra.
      thôi, Watson, thôi!” giục “Đừng hỏi han gì cả! Mặc ngay quần áo vào, rồi lên đường!”
      Mười phút sau, hai chúng tôi ngồi chiếc xe ngựa và lóc cóc băng qua những đường phố yên tĩnh đến ga Charing Cross. Ánh bình minh yếu ớt của ngày đông bắt đầu ửng lên, nên thỉnh thoảng chúng tôi có thể thấy được bóng dáng lờ mờ của người thợ làm sớm. Sau khi chúng tôi uống mấy chén trà nóng ngoài ga và được yên vị chuyến tàu Kent, mới thấy đủ ấm người lên để , còn tôi mới đủ tỉnh trí để nghe được câu chuyện. Holmes rút trong túi ra mảnh giấy và đọc to lên:
      “Abbey Grange, Marsham, Kent, 3.30 sáng
      Ông Holmes thân mến. Tôi rất lấy làm sung sướng, nếu ông vui lòng trợ lực cho tôi ngay lập tức trong việc điều tra vụ án nhiều điều thú vị. Vụ này rất hợp với sở thích của ông. Ông thấy tôi vẫn giữ nguyên trường, đúng như lúc tôi được mời đến. Chỉ xin ông đừng bỏ lỡ thời gian.
      Người bạn trung thành của ông.
      Stanley Hopkins”.
      “Hopkins bảy lần mời tôi và lần nào cũng rất thích đáng” Holmes “Tôi nghĩ chúng ta buổi sáng thú vị. Vụ án mạng xảy ra lúc 12 giờ đêm qua.”
      “Căn cứ vào đâu mà có thể chắc như thế?”
      “Vào giờ tàu và cách tính thời gian. Đầu tiên họ phải mời cảnh sát địa phương. Tiếp đó mới trình báo với Scotland Yard. Rồi Hopkins phải đến tận trường, sau đó mới có thể đánh điện cho tôi. Phải mất trọn đêm mới làm dược chừng đó việc. À, ga Chislehurst kia rồi. Mọi chuyện rồi sớm ngã ngũ thôi.”
      Vượt qua quãng đường vài dặm hương lộ hẹp, chúng tôi đến trước cổng khu vườn. Người gác cổng già vội mở cổng cho chúng tôi. lối rộng vắt ngang khu vườn, chạy giữa hai hàng cổ thụ, dẫn đến trước tòa nhà rộng và thấp. Phần chính tòa nhà rất cổ kính, mình dưới những dây trường xuân sum suê, nhưng những khung cửa sổ rộng cho thấy chủ nhân cho sửa sang lại theo kiểu dáng đại. bên trái xem ra mới làm thêm. Đón chúng tôi trước cánh cửa mở rộng là viên thanh tra Stanley Hopkins, dáng trẻ trung, gương mặt lộ vẻ nôn nóng.
      “Ông Holmes, rất mừng là ông đến Và cả ông nữa, bác sỹ Watson. Thực ra giá được biết sớm, chắc tôi chẳng dám làm phiền ông. Từ khi tỉnh lại, phu nhân cho chúng tôi biết về vụ này cách rành rọt đến nỗi chúng ta có lẽ chẳng còn bao nhiêu công việc để làm nữa. Ông chắc còn nhớ băng trộm ở Lewisham?”
      “Sao? Băng ba cha con nhà Randall phải ?”
      “Đúng vậy. Ông bố với hai thằng con. ràng là bàn tay của chúng. Tôi còn hồ nghi chút nào. Chúng mới ra tay ở Sydenham cách đây hai tuần. Người nhà ở đấy nhận diện được chúng. kỳ lạ là chúng lại dám tiến hành vụ nữa sớm như vậy. Nhưng đây chính là băng đó, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Lần này nhất định chúng khó lòng thoát khỏi giá treo cổ. Ngài Eustace Brackenstall, trong những người giàu có nhất ở Kent, bị sát hại. Chúng dùng chính thanh cời than trong phòng đập vỡ sọ ông. Phu nhân Brackenstall nằm trong phòng tiếp khách buổi sáng. Tội nghiệp cho phu nhân, bà phải phen hãi hùng. Bà gần như chết khiếp khi tôi vừa đặt chân đến đây. Tôi nghĩ, hai ông nên gặp phu nhân, để được nghe chính bà kể lại đầu đuổi vụ này. Sau đó, chúng ta cùng xem xét phòng ăn.”
      Phu nhân Brackenstall quả là người phụ nữ phi thường. Mái tóc bà vàng óng, mắt xanh, dáng người thanh tú, dung nhan diễm lệ. Ngay phía bên mắt là vết bầm tím, sưng vù, trông chẳng đẹp chút nào. Bà hầu của phu nhân dùng nước chườm vết thương. Còn phu nhân mệt mỏi nằm dài -văng, người khoác chiếc áo choàng rộng màu xanh điểm ngân tuyến.
      “Ông Hopkins, tôi kể hết mọi chuyện với ông rồi.” bà , giọng mệt nhọc “Ông thể thay tôi thuật lại được sao? Ấy, nếu ông thấy cần, tôi đành kể lại lần nữa với các quý ông mới tới này. Hai vị ấy vào phòng ăn chưa?”
      “Tôi nghĩ tốt hơn cả là nên để hai ông đây nghe phu nhân kể trước .”
      “Tôi hy vọng các ông có thể dàn xếp được mọi việc. khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh nhà tôi vẫn còn nằm nguyên đó.” Phu nhân rùng mình, đưa tay che mặt lát. Khi bà đưa tay lên, ống tay áo rộng hạ xuống tận khuỷu. Holmes thốt lên:
      “Ồ, thưa phu nhân, phu nhân còn bị mấy vết thương tay nữa kìa! Sao thế này?”
      Hai vệt đỏ ửng nổi bật cánh tay trắng muốt tròn trĩnh của phu nhân. Bà vội kéo ống tay áo xuống che .
      “Ồ, có gì đâu. Mấy cái vệt này chẳng dính dáng gì đến vụ đêm qua cả. Nếu ông và các bạn ông chịu phiền ngồi xuống, tôi xin kể hết những gì tôi biết được.
      Tôi là vợ huân tước Eustace Brackenstall. Chúng tôi kết hôn với nhau được gần năm nay. Cuộc hôn nhân chẳng lấy gì làm êm thấm. Có lẽ phần là tại tôi. Tôi lớn lên trong khung cảnh của miền nam nước Úc, vốn tự do hơn và ít lễ nghi hơn, nên tôi thích lối sống ở quốc.Nhưng lý do chính mà ai cũng biết là ông Eustace nhà tôi là người nghiện rượu thâm căn cố đế. Sống với con người như vậy dù chỉ giờ cũng chẳng được thế nào là tình cảnh tôi, phụ nữ nhạy cảm, lại bị trói chặt cả ngày lẫn đêm với người như thế?
      Tôi xin kể với các ông chuyện đêm qua. Tất cả người hầu kẻ hạ trong nhà này đều ở trong dãy nhà dọc mới xây. Toàn bộ tòa nhà chính được phân thành những phòng khách; còn sau lưng là nhà bếp. Ông nhà tôi cho bố trí phòng ngủ của hai chúng tôi lầu. Người hầu của tôi, bà Theresa, ngủ trong căn phòng ngay bên phòng chúng tôi. Ngoài bà ta ra lầu còn ai; nên tiếng độ nào có thể vọng xuống đám gia nhân ở dưới kia. Bọn kẻ trộm chắc hẳn biết điều đó; nếu , nhất định chúng dám hành động như thế.
      Tối qua, ông Eustace nhà tôi lui về phòng riêng lúc 10 giờ rưỡi. Đám gia nhân cũng đều lui về phòng của họ. Chỉ còn mình bà Theresa vẫn thức phòng mình, ở tầng cùng tòa nhà, chờ xem tôi có cần sai bảo gì . Tôi ngồi tại căn phòng này đến quá mười giờ, mê mải đọc sách. Rồi tôi đảo vòng quanh nhà, để xem mọi thức ngăn nắp chưa, trước lúc lên gác. Tôi luôn tự mình cáng đáng việc này, vì như tôi , phải lúc nào tôi cũng có thể cậy vào nhà tôi.
      Tôi xuống nhà bếp, ghé phòng viên quản gia, lên phòng khách, rồi cuối cùng là phòng ăn. Vừa đến gần khung cửa sổ có che tấm màn dày, tôi hiểu rằng cửa sổ để ngỏ. Tôi kéo tấm rèm sang bên thấy mình đứng đối mặt với gã đàn ông to ngang, đứng tuổi, vừa đặt chân vào phòng. Cái cửa sổ đó là thứ cửa sổ cao, kiểu Pháp, có thể dùng như cửa ra vào thông ra vườn. Nhờ ánh nến từ phòng ngủ tôi hắt ra, tôi thấy còn có hai tên nữa theo vào sau lưng gã kia.
      Tôi lùi lại, nhưng gã đàn ông xông vào tôi ngay. Mới đầu gã chộp cổ tay tôi tiếp đến chẹn chặt cổ. Tôi mở miệng định kêu, nhưng đánh rất mạnh vào trán tôi ngay bên mắt, khiến tôi khuỵu xuống. Tôi ngất , chắc phải lát sau mới tỉnh lại, lúc bấy giờ tôi thấy bọn chúng giật đứt sợi dây kéo chuông và trói tôi vào chiếc ghế mức thể cựa quậy được, rồi chiếc khăn tay bịt quanh miệng tôi làm cho tôi còn cách nào kêu la. Đúng lúc đó, người chồng bất hạnh của tôi bước vào phòng. Chắc ông ấy nghe thấy những tiếng động khả nghi nên chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó. Ông ấy mặc áo ngủ và quần dài, tay cầm chiếc gậy ưa thích. Ông ấy lao đến gã trong băng trộm, nhưng gã khác, gã đứng tuổi, kịp cúi xuống nhặt cái thanh cời than trong lò sưởi ra, và giáng mạnh vồ khi ông ấy ngang qua trước mặt gã. Nhà tôi gục ngã, còn rên nổi tiếng, và nằm bất động bao giờ còn dậy nữa. Tôi lại ngất , nhưng cũng chỉ trong vài phút. Lúc tỉnh lại, tôi thấy bọn chúng vơ hết từ trong tủ buýp phê ra mấy bộ đồ dọn ăn bằng bạc, mở chai rượu cũng lôi từ đó ra. Mỗi tên cầm cốc. Như tôi , gã trong bọn đứng tuổi, có râu; hai đứa kia còn trẻ măng. Chắc chúng là ba bố con. Chúng trò chuyện với nhau khe khẽ. Xong, chúng tới chỗ tôi, xem tôi bị trói chặt chưa. Cuối cùng, chúng chuồn ra ngoài, quên đóng chặt cửa sổ. Mất 15 phút, tôi mới gỡ được chiếc khăn khỏi miệng. Nhờ thế, tôi mới la lên được, gọi bà hầu tới giúp tôi. chúng tôi cho người đến báo cho cảnh sát đại phương. Họ lập tức báo lên London. Đó là tất cả những gì tôi có thể kể cùng quý ông, và tôi hy vọng phải nhắc lại câu chuyện đau lòng này nữa.”
      “Ông có hỏi gì , ông Holmes?” Hopkins hỏi.
      “Tôi muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn và thời giờ của phu nhân Brakenstall nữa.” Holmes . Rồi đưa mắt về phía bà hầu “Trước lúc sang phòng ăn, tôi muốn được nghe câu chuyện của bà.”
      “Tôi trông thấy bọn chúng trước lúc chúng vào nhà” bà “Khi ngồi bên cửa sổ trong phòng ngủ, tôi thấy ba người đàn ông ra bên cổng dưới ánh trăng, nhưng lúc đó tôi nghĩ bọn chúng là kẻ trộm. Hơn tiếng sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng bà chủ kêu, tôi mới chạy xuống và thấy bà chủ lâm vào tình cảnh đúng như bà ấy vừa kể; còn ông chủ nằm dưới sàn. Cảnh đó quá đủ dể làm cho người phụ nữ mất vía, nhất là khi bị trói chặt. Nhưng phu nhân tôi bao giờ thiếu can đảm cả. Quý ông hỏi bà chủ tôi lâu quá rồi đó ạ, nên bây giờ xin quý ông cho tôi đưa bà chủ về phòng nghỉ vì mệt mỏi quá rồi.”
      Như người mẹ hiền, bà hầu phòng vòng tay qua lưng chủ, đỡ bà về phòng.
      “Bà ta quấn quít với phu nhân từ tới giờ” Hopkins “chăm chút phu nhân từ khi còn là hài nhi cho tới lúc sang , khi lần đầu tiên họ rời Úc cách đây năm rưỡi. Tên bà ấy là Theresa Wright. Ông Holmes, mời ông lối này.”
      Vẻ hào hứng biến mất gương mặt sinh động của Holmes, và tôi hiểu ra rằng vụ này chẳng còn lôi cuốn chút nào nữa vì hết tính chất bí ly kỳ. người thầy thuốc từng trải được mời tới chữa ca cảm lạnh thông thường cũng có cảm giác giống hệt như vậy thôi. Nhưng cảnh tượng trong phòng ăn tại Abbey Grange đủ kỳ lạ để khơi dậy chú ý của .
      Phòng này rất rộng, trần cao, ghép bằng những tấm gỗ sồi có chạm trổ, bốn vách tường trưng bày la liệt cả bộ sưu tập tuyệt vời những gạc nai và vũ khí kiểu cổ. Trong góc xa nhất của căn phòng kể từ cửa ra vào là cánh cửa sổ kiểu Pháp mà chúng tôi được nghe kể. Ba khung cửa sổ hơn bên tay phải làm cho căn phòng tràn ngập ánh nắng lạnh lẽo của mùa đông. Phía bên trái là cái lò sưởi rộng, xây sâu vào tường, với những súc gỗ sồi nguyên khối viền quanh. Cạnh lò sưởi có đặt chiếc ghế bành gỗ sồi dáng nặng nề. Luồn qua lỗ những hoa văn chạm trổ chiếc ghế bành ấy là sợi thừng đỏ, được cột chặt ở cả hai bên. Khi cởi trói cho phu nhân, người ta nới rộng sợi dây, nhưng những chỗ thắt nút vẫn chưa được tháo hẳn. Tuy vậy tâm trí chúng tôi bị thu hút hoàn toàn vào các vật khủng khiếp, nằm dài trước mặt lò sưởi: xác của ông chủ nhà.
      Nạn nhân là người đàn ông cao lớn, thân hình cân đối, tuổi trạc tứ tuần. Ông ta nằm ngửa, cằm nghếch lên, hàm răng trắng lộ phía dưới hai mép hơi nhếch lên sau bộ râu đen xén ngắn. Hai bàn tay nắm chặt ở tư thế còn giơ cao quá đầu. chiếc gậy nặng trích nằm vắt ngang qua giữa hai bàn tay. gương mặt đẹp trai, ngăm đen hằn vẻ căm thù ghê gớm. Chắc ông ngả lưng giường khi nghe tiếng động, vì người vẫn còn mặc nguyên áo ngủ, và phía dưới gấu quần còn thấy đôi chân đất. Đầu ông bị vết thương khủng khiếp.Cạnh đó nằm chỏng chơ chiếc thanh cời than bị cong lại vì cú giáng mạnh vào đầu. Holmes xem kỹ thanh sắt và xác nạn nhân.
      “Lão kia hẳn phải có sức lực phi thường, lão Randall bố ấy” nhận xét.
      “Đúng thế!” Hopkins đáp “Chúng tôi thu thập được vài thông tin về lão và biết lão là kẻ hết sức cộc cằn.”
      “Tóm cổ lão ta, chắc đối với ông chẳng có gì khó khăn.”
      khó chút nào. Chúng tôi theo dõi lão từ lâu, vì lão tính chuồn sang Mỹ. Bây giờ,biết bọn chúng còn ở đây, tôi nghĩ bọn chúng chỉ còn cách mọc cánh mới hy vọng trốn thoát. Chúng tôi cho yết thị nhân dạng bọn chúng tại tất cả các hải cảng, và định chiều nay công bố giải thưởng cho ai tóm được. Tôi thể hiểu nổi tại sao bọn chúng lại làm chuyên điên rồ như vậy, vì chúng thừa biết bị phu nhân tả lại diện mạo, và nhất định chúng tôi nhận ra chúng.”
      “Đúng vậy. Tôi rất lấy làm lạ sao chúng bắt phu nhân vĩnh viễn im lặng thể.”
      “Tôi dự đoán có lẽ chúng biết là phu nhân tỉnh lại.” tôi .
      “Có lẽ thế. Vì phu nhân xem ra bị ngất xỉu, nên chúng thấy cần giết. Thế còn ông chủ tội nghiệp này sao, ông Hopkins? Tôi nhớ hình như có nghe đồn số chuyện kỳ quặc về ông ta.”
      “Khi tỉnh rượu, ông ta là người tốt bụng, nhưng hễ quá chén rồi, hóa thành con quỉ dữ. Vào những lúc như vậy, ông ta có thể làm đủ mọi chuyện. Có lần, ông ta gây nên chuyện rắc rối: ông ta tẩm dầu hỏa khắp người con chó rồi châm lửa đốt, mà đó lại chính là con chó của phu nhân, mới lôi thôi chứ, và người ta phải chật vật lắm mới giữ kín được vụ này. Về sau, ông ta còn ném cả cái chai vào bà hầu phòng Theresa Wright. Chuyện này lại gây nên rắc rối. Nhìn chung, cái này tôi riêng với ông thôi, giá có ông ấy cả nhà thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông nhìn gì vậy?”
      Holmes quỳ gối xuống sàn hết sức chăm chú xem xét những nút thắt sợi thừng đỏ dùng để trói phu nhân. Tiếp đến, xem kỹ chỗ đầu dây sờn bị đứt ra khi bọn trộm giật sợi thừng xuống.
      “Khi chúng giật sợi dây này, cái chuông dưới bếp hẳn phải vang lên rất to” nhận xét.
      ai nghe thấy cả. Nhà bếp nằm ngay sau nhà.”
      “Do đâu mà kẻ trộm biết được là có ai nghe thấy tiếng chuông? Sao lại dám liều lĩnh giật sợi dây như vậy nhỉ?”
      “Đúng thế, ông Holmes, đúng thế. Ông nêu lên chính câu hỏi mà tôi vẫn tự hỏi hỏi lại nhiều lần. còn ngờ vực gì nữa, kẻ đó phải biết nhà này và thói quen sinh hoạt của những người ở đây. Chúng phải hiểu cặn kẽ tất cả gia nhân đều ngủ và ai ở dưới bếp để có thể nghe được tiếng chuông cả. Như vậy là phải quen biết ai đó trong đám gia nhân. Chuyện này còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong nhà chỉ có tám gia nhân, và hạnh kiểm của họ đều rất tốt.”
      “Bình thường ra” Holmes “người mà tôi nghi chính là kẻ bị ông Eustace ném vỏ chai rượu vào mặt: bà Theresa Wright. Tuy nhiên, nếu thế bà lại là kẻ phản chủ, người chủ mà bà ta hình như hầu hạ hết sức tận tụy. Thôi được, đó chỉ là chuyện nhặt. Câu chuyện phu nhân kể ràng là rất chính xác, nếu căn cứ vào những gì mà chúng ta thấy trước mắt” tiến về phía khung cửa sổ kiểu Pháp, và đẩy cả hai cánh ra “Chỗ này chẳng có dấu vết gì, vả lại mặt đất lại cứng như sắt nên tôi có hy vọng tìm thấy dấu vết. Theo tôi, những ngọn nến mặt lò sưởi lúc đó được thắp sáng.”
      “Đúng thế, chính nhờ những ngọn nến đó và mấy ngọn nến trong phòng ngủ của phu nhân mà bọn trộm thấy đường.”
      “Thế bọn chúng lấy những gì?”
      “Chẳng bao nhiêu. Mấy bộ đồ trong tủ buýp-phê. Phu nhân Brackenstall nghĩ rằng chắc bọn chúng hốt hoảng với cái chết của ngài Eustace. Nếu , chắc chúng sục sạo khắp nhà.”
      “Đúng thế . Nhưng tôi thấy chúng ung dung uống rượu.”
      “Chắc để tự trấn tĩnh thôi.”
      “Đúng thế. Ba chiếc cốc bàn chắc chưa ai động tới phải.”
      “Chưa. Cả chai rượu vẫn để nguyên như khi bọn chúng bỏ lại.”
      “Nào, để ta xem thử. Ồ, cái gì thế này?"
      Ba chiếc cốc để bàn nằm cạnh nhau. chiếc vẫn còn ít cặn dưới đáy. Chai rượu đặt bên cạnh, chỉ vơi hết phần ba, và nằm bên cạnh là cái nút chai dài ngấm rượu rất sâu. Thái độ của Holmes bỗng đổi khác, và tôi lại thấy cặp mắt sâu và tinh của ánh lên vì hào hứng. giơ cao cái nút chai lên ngắm nghía rất kỹ.
      “Bọn chúng mở nút chai rượu bằng cách nào nhỉ?” hỏi.
      Hopkins chỉ vào cái ngăn kéo mở nửa chừng, bên trong có vài chiếc khăn trải bàn vải lanh và cái mở nút chai.
      “Phu nhân Brackenstall có tới chuyện chúng dùng cái mở nút chai này ?”
      . Ông nhớ à, phu nhân bị ngất xỉu khi chúng mở chai rượu.”
      “Nhớ chứ. Thực ra cái mở nút chai này được dùng đến. Chúng mở chai rượu bằng cái mở nút loại bỏ túi, có lẽ nằm trong con dao nhíp, và dài quá 1 inch rưỡi[1]. Nếu ông quan sát phần của cái nút ông thấy ngay rằng cái nút chai của bọn chúng phải xoáy vào ba lần mới mở được chai rượu. Còn nếu dùng cái trong ngăn kéo kia chỉ cần lần xoáy là được. Khi tóm được gã nọ, các ông phát được rằng con dao nhíp.”
      “Tuyệt!” Hopkins .
      “Nhưng, thú thực, ba cái cốc này lại khiến tôi băn khoăn. Phu nhân Brackenstall từng tận mắt ba gã nọ uống rượu phải ?”
      “Có. Phu nhân kể rồi còn gì.”
      “Vậy là câu chuyện kết thúc. Còn biết gì nữa kia chứ? Nhưng ông phải thừa nhận rằng ba cái cốc này rất đáng để ý, thưa ông Hopkins. Sao, ông nhận thấy gì sao? Thôi được, sao cả. Dĩ nhiên, mấy cái cốc này chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi. Thôi, chào ông Hopkins. Tôi nghĩ rằng tôi có thể giúp ông được gì, vì với ông, vụ này coi như cả rồi. Khi nào ông bắt được Randall, ông nhớ báo cho tôi biết, và cũng xin ông cho biết những gì có thể xảy ra sau đó nữa. Tôi hy vọng sớm được chúc mừng ông kết thúc vụ án thắng lợi.”
      đường về, qua nét mặt của Holmes, tôi có thể thấy vẫn bị dằn vặt vì điều gì đó mà chính mình vừa quan sát được. Cứ mỗi lần như vậy lại cố gạt bỏ những ý nghĩ ấy và trò chuyện như thể vụ án cả rồi. Nhưng sau đó, mối người vực lại ám ảnh , và vẻ mặt cho thấy lại mải nghĩ về căn phòng ăn lớn rộng tại Abbey Grange. Cuối cùng, đúng vào lúc sắp sửa rời ga, bỗng nhảy phắt xuống và kéo tôi xuống theo.
      Watson thân mến ạ, thứ lỗi cho tôi nhé,” trong khi chúng tôi nhìn theo những toa cuối cùng của đoàn tàu khuất sau khúc quanh. “Tôi rất lấy làm tiếc là gây phiền phức cho , nhưng thực tình tôi thể để yên vụ án trong tình trạng như thế này. Mọi bản năng trời cho ở trong tôi đều lên tiếng phản đối việc đó: ổn rồi, sai to rồi.
      Tôi dám quả quyết rằng mình chệch hướng, xác nhận của bà hầu phòng cũng rất đầy đủ. Mọi chi tiết đều rất chính xác. Vậy tôi lấy gì để bác lại? Ba cái cốc, chỉ có vậy thôi. Nhưng thể ra sao, nếu ta tin hoàn toàn vào những chuyện ấy? Nếu ta cứ tự xem xét việc cách thận trọng, như lẽ ra ta phải làm trong trường hợp phu nhân Brackenstall gì hết? Lúc bấy giờ, chẳng lẽ ta tìm được cái gì cụ thể hơn để điều tra tiếp hay sao?
      Dĩ nhiên là được. Ngồi xuống , Watson! Trong lúc chờ chuyến tàu quay lại Chislehurst tôi trình bày cho thấy những bằng chứng. Chúng ta nên tin vào bất cứ điều gì mà bà hầu phòng hoặc chủ ba ta . Đừng để cho cái nhân cách khả ái của phu nhân Brackenstall tác động đến những nhận định của chúng ta.
      Chắc chắn là trong câu chuyện của phu nhân có những chi tiết mà nếu xem xét lại, ta thấy rất đáng nghi. Băng trộm này vừa làm vụ gây xôn xao cách đây hai tuần. số hành tung và diện mạo của bọ chúng được báo chí đăng tải, nên bất cứ ai muốn dựng lên câu chuyện trộm cắp tưởng tượng cũng đều nghĩ đến chúng. Thực ra, những bọn kẻ trộm vừa được vố béo bở thường chỉ thích ngồi yên tận hưởng món “chiến lợi phẩm” nọ, chứ dại gì lại tiến hành vụ mạo hiểm mới. Việc chúng đánh người đàn bà để buộc bà ta câm miệng cũng lạ đời, bởi lẽ theo tôi nghĩ, đó chính là cách chắc chắn nhất để khiến bà ta kêu ầm lên. Cũng lạ đời và việc gì chúng phải giết mạng người trong khi bọn chúng thừa sức bắt ông ta ngồi im mà cần gây án mạng. Cũng lạ đời là tại sao bọn chúng lại mãn nguyện chỉ với vài món dọn đồ ăn bằng bạc, trong khi chúng có thể vơ vét được nhiều hơn thế nhiều. Và điều lạ đời cuối cùng là tại sao bọn chúng lại chịu vứt lại chai rượu mới uống có ít. Tất cả những điều vừa đó khiến ngạc nhiên sao, Watson thân mến?”
      “Toàn bộ, những điều đó gộp lại ràng là rất đáng lưu ý, nhưng nếu xét từng điểm thấy chẳng có gì là lạ.”
      “Và bây giờ ta đến điều đáng chú ý nhất: mấy cái cốc uống rượu.”
      “Mấy cái cốc đó có gì là lạ?”
      “Người ta khai với chúng ta là cả ba đều uống rượu. có tin lời khai đó ?”
      “Sao lại ? Vết rượu vẫn còn nguyên trong cả ba.”
      “Đúng. Nhưng chỉ là còn thấy cặn rượu dưới đáy. nên để ý chi tiết đó. giải thích thế nào về chi tiết này?”
      “Chiếc cốc có cặn là chiếc rót sau cùng.”
      “Ồ, , . Chai rượu còn đầy, nên thể có chuyện rượu ở hai cốc đầu trong, còn cốc ba . Có hai khả năng giải thích, và chỉ có thể có hai thôi. Khả năng thứ nhất: rót xong hai cốc đầu, bọn chúng lắc mạnh chai, rồi mới rót cốc thứ ba, nên cặn chỉ lắng xuống cốc thứ ba. Nhưng khó có chuyện đó lắm. Phải, phải. Tôi tin chắc mình hoàn toàn đúng.”
      “Vậy lý giải thế nào?”
      “Họ chỉ dùng có hai chiếc cốc, và đổ những giọt cuối cùng trong hai cốc này sang cốc thứ ba để tạo cho người ngoài cái ấn tượng là có ba người cùng uống với nhau. Chính vì vậy, nên cặn rượu chỉ thấy có ở đáy chiếc cốc cuối cùng, đúng ? Phải, tôi quả quyết việc diễn ra đúng như thế. Nhưng nếu quả như vậy được, có nghĩa là phu nhân Brakenstall và bà hầu phòng của phu nhân cố tình dối chúng ta. lời nào trong câu chuyện họ kể còn có thể tin cậy được cả. Họ phải có những lý do hết sức nghiêm trọng để che giấu kẻ thủ phạm đích thực, và chúng ta chỉ còn cách phải tự mình dựng lại vụ án, chứ đừng hy vọng vào bất cứ giúp đỡ nào từ phía họ. Đó chính là sứ mạng mà ta phải gánh vác kể từ giờ phút này, và kìa, Watson tàu Chislehurst tới kia rồi.”
      Những người sống ở Abbey Grange rất sửng sốt khi thấy chúng tôi quay lại. Stanley Hopkins về gặp thượng cấp để báo cáo kết quả, nên Sherlock Holmes chiếm ngay lấy phòng ăn, khóa trái cửa lại và dành trọn hai giờ đồng hồ để khám xét cẩn thận mọi thứ. Tôi ngồi xuống chiếc ghế kê ở góc phòng, hệt như sinh viên chăm chỉ theo dõi thầy giáo thao diễn, và cố theo sát từng bước tiến trình của cuộc khám phá thú vị kia. Khung cửa sổ, mấy tấm rèm, chiếc thảm, chiếc ghế, rồi sợi dây - tất cả đều lần lượt được xem xét tỉ mỉ. Thi thể huân tước Eustace được mang rồi, nhưng mọi thứ vẫn còn được giữ nguyên như chúng tôi thấy sáng nay. Thế rồi, trước ngạc nhiên của tôi, Sherlock Holmes trèo lên mặt cái lò sưởi rộng. đầu lủng lẳng đoạn dây giật chuông màu đỏ, dài chừng vài phân, vẫn còn buộc chặt vào sợi dây thép nối liền với cái chuông treo dưới nhà bếp.
      Sherlock Holmes ngắm nó hồi lâu, rồi để vươn người lên cho gần thêm chút nữa, tì hẳn gối vào đường gờ bằng gỗ áp tường. Nhờ vậy tay chỉ còn cách đầu sợi dây thừng vài phân, nhưng việc đó khiến chú ý bằng cái rầm chìa tường. Xong xuôi, nhảy xuống, miệng khẽ reo lên tiếng tỏ ý mãn nguyện.
      “Ổn cả rồi, Watson ạ” “Chúng ta khám phá được trong những vụ án thú vị nhất trong bộ sưu tập của chúng ta. Nhưng tôi tối dạ, vì suýt nữa phạm phải sai lầm tệ hại nhất đời mình! Bây giờ tôi nghĩ chỉ còn thiếu vài khâu bị mất nữa là tôi có trong tay hầu như toàn bộ chuỗi kiện.”
      dò ra được các hung thủ?”
      “Chỉ thôi, Watson, hung thủ thôi. thôi, nhưng là kẻ đáng gờm. khỏe như gấu - cái thanh cời than bị bẻ cong kia là minh chứng. Cao lớn, nhanh như sóc, khéo tay kinh khủng. Ngoài ra, còn tinh khôn rất mực, vì chính dàn dựng nên toàn bộ vở kịch tài tình này. Có điều sợi dây kéo chuông kia, chính để lại dấu vết của riêng mình, giúp chúng ta có được đầu mối để loại bỏ hết mọi ngờ vực.”
      “Thế cái đầu mối đó nằm ở đâu?”
      “Thế nghe đây, Watson. Nếu giật sợi dây chuông thử liệu xem nó đứt ở đoạn nào? ràng nó đứt ở chỗ nối với sợi dây thép. Vậy sao nó lại đứt ở cách chỗ ấy tám phân như thấy?”
      “Vì chỗ đó bị sờn?”
      “Đúng. Đầu dây này, như chúng ta xem xét, quả có bị sờn . Và gã nọ quả đủ tinh quái, nên mới dùng dao để làm cho sợi dây có vẻ như bị sờn. Nhưng đầu ở kia . Đứng đây, thể thấy được đâu, nhưng nếu trèo lên lò sưởi, thấy bị cắt, chứ chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là bị sờn cả. Bây giờ, có thể tự mình tái lập được mọi diễn tiến. Hung thủ cần sợi dây. thể giật xuống vì sợ chuông rung, đánh động mọi người. phải làm gì? Trèo lên lò sưởi, nhưng vẫn với tới, nên phải tỳ đầu gối vào đầu rầm chìa, thấy dấu vết in lại lớp bụi ngoài đó, vì từ chỗ tôi còn thấp hơn ít nhất 3 inch[2] nữa. Bởi vậy, phải cao hơn tôi ít nhất 3 inch. Này bây giờ thử nhìn xem vết gì mặt chiếc ghế bành gỗ sồi? Vết gì?”
      “Vết máu.”
      “Đúng là vết máu. Chỉ riêng chi tiết này thôi cũng đủ cho thấy: câu chuyện của phu nhân Brackenstall là chuyện bịa. Nếu bà ta bị trói vào đó trước lúc hung thủ giết ông chồng. Ước gì tôi được trò chuyện ngay bây giờ với bà vú nuôi Theresa. Chúng ta phải thận trọng, nếu chúng ta muốn thu thập được những thông tin mình muốn.”
      Bà ta, bà vú nuôi người Úc nghiêm nghị ấy, quả là nhân vật đáng chú ý. Bà ta đa nghi và ít thiện ý, nên thái độ hòa nhã của Holmes phải mất thời gian mới chiếm được thiện cảm của bà. Bà chẳng hề giấu giếm lòng căm ghét cả bà đối với ông chủ quá cố.
      “Vâng, thưa ngài, quả tình ông ấy có ném cái vỏ chai vào tôi được. Tôi thấy ông ấy lăng mạ bà chủ tôi, nên tôi bảo thẳng với ông ta rằng giá trai bà chủ có mặt ở đây ông ta đừng hòng ăn như thế. Vậy là tôi bị ông ấy ném thẳng cái vỏ chai vào mặt.
      Ông ấy thường xử tệ với phu nhân Brakenstall, mà bà chủ tôi vốn kiêu hãnh, bao giờ than phiền. Bà ấy thậm chí cũng kể cho tôi nghe những cách hành hạ của ông ta đối với bà. Ngay cả những vết bầm tay mà ông thấy sáng nay cũng vậy, như tôi biết chính là vết đinh ghim mũ. Ông ấy tỏ ra hết sức dịu dàng hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu chỉ mới cách đây có mười tám tháng. Nhưng cả hai chúng tôi lại cảm thấy mười tám tháng ấy dài chẳng khác nào mười tám năm.
      Hồi đó, bà chủ tôi vừa chân ướt chân ráo tới London. Vâng, đó là lần xa nhà đầu tiên, chứ trước đó phu nhân chưa bao giờ đâu cả. Ông ấy dùng tước vị, tiền bạc và cả thủ đoạn giả dối để chiếm đoạt bà chủ. Lấy ông ta, bà ấy phạm sai lầm, và bà ấy trả giá xong cho sai lầm ấy. Ông hỏi: chúng tôi gặp ông ấy hồi tháng nào, đúng ạ? Thế xin thưa là chúng tôi gặp ông ta ngay sau ngày đến: chúng tôi sang hồi tháng 6, và gặp ông ta hồi tháng 7. Ông ấy cưới bà chủ tôi vào tháng Giêng năm ngoái. Vâng bà chủ vẫn nằm nghỉ dưới phòng khách, và dĩ nhiên vui lòng gặp ngài. Nhưng xin ngài đừng gạn hỏi bà ấy nhiều, vì bà ấy vừa phải chịu đựng hết thảy những gì ít người phàm trần đủ sức kham nổi.”
      Phu nhân Brakenstall vẫn nằm chính chiếc -văng đó, nhưng trông đỡ thất sắc hơn hồi sáng, bà hầu phòng cũng theo vào cùng chúng tôi; và bắt tay vào thay tấm khăn chườm lên trán chủ.
      “Tôi hy vọng” phu nhân lên tiếng “rằng ông đến đây phải để thẩm vấn tôi lần nữa?”
      “Ồ, ,” Holmes đáp, giọng hết sức lịch “Tôi quấy rầy bà thêm nữa đâu, thưa phu nhân Brakenstall. Tôi chỉ muốn cất đỡ gánh nặng cho phu nhân thôi.”
      “Vậy ông muốn tôi phải làm gì?”
      “Kể hết .”
      “Ông Holmes!”
      “Ồ, , , phu nhân Brakenstall làm như vậy hoàn toàn vô ích. Tôi biết chắc rằng câu chuyện của phu nhân kể là hoàn toàn sai .”
      Cả phu nhân Brakenstall lẫn bà hầu phòng đều chằm chằm nhìn Holmes, mặt tái , ánh mắt lộ vẻ sợ hãi.
      “Ông là thô lỗ!” bà Theresa kêu lên “Ông muốn ám chỉ bà chủ tôi dối?”
      Holmes đứng ngay dậy.
      “Phu nhân có gì để kể với tôi sao?”
      “Tôi kể hết với ông rồi còn gì.”
      “Mong phu nhân nghĩ lại, phu nhân Brakenstall. Chân , tôi nghĩ, tốt hơn nhiều.”
      thoáng lưỡng lự lướt qua gương mặt kiều diễm của phu nhân. Nhưng rồi quyết định mới khiến khuôn mặt ấy cứng lại như thể đeo mặt nạ.
      “Tôi kể hết với ông những gì mình biết.”
      Holmes cầm lấy mũ, nhún vai.
      “Tôi rất lấy làm tiếc” . Rồi thốt thêm lời nào nữa, chúng tôi rời khỏi phòng, ra về. Trong khu vườn có cái ao, và bạn tôi lôi tôi về phía đó. Mặt ao đóng băng gần hết, và chỉ còn chừa khoảnh dành làm nơi trú đông có con thiên nga độc. Holmes nhìn chòng chọc vào vũng nước đó lúc, rồi tiếp về phía cổng vườn. Dừng chân bên cổng, Holmes viết vội mẩu tin ngắn, trao cho người gác cổng, nhờ chuyển lại cho ngài Stanley Hopkins.
      “Chúng ta có thể hoặc trúng đích, hoặc chệch mục tiêu, nhưng đằng nào cũng phải làm được chút gì giúp ông bạn Hopkins, dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ hai” “Tuy vậy tôi vẫn chưa dám tiết lộ hết bí mật với ông ấy. Tôi nghĩ, bây giờ nơi kế theo mà ta cần đến để điều tra vụ này là văn phòng của Hãng Hàng hải Adelaide - Southampton.”
      Qua viên Giám đốc, Holmes nhanh chóng thu thập được mọi thông tin mà cần biết. Vào tháng sáu năm 1895, hãng chỉ có duy nhất con tàu cập bến quốc. Đó là chiếc “Rock of Gibraltar”, con tàu lớn và đẹp nhất hãng. Bản danh sách hành khách cho thấy: Fraser xứ Adelaide cùng bà hầu của chuyến này. thời con tàu chạy ngang qua nơi thuộc mạn nam kênh Suez, hải trình sang úc như lệ thường. Thành phần sĩ quan con tàu vẫn giống hệt như hồi năm 1895, ngoại trừ điều: viên phó thuyền trưởng, ông Jack Croker, được đề bạt lên cấp thuyền trưởng và chuyển sang chỉ huy con tàu mới của hãng, chiếc “Bass Rock”, hai ngày nữa rời Southampton. Viên sĩ quan này sống tại Sydenham, nhưng sáng nay ta có lẽ đến đây, và nếu chúng tôi muốn có thể chờ gặp ta.
      Tuy nhiên, Holmes lại có ý định gặp mà lại hỏi thêm về lý lịch và hạnh kiểm của ta.
      Lý lịch của ta tuyệt hảo. Trong hạm đoàn, sĩ quan nào được đánh giá cao như thế. Còn về hạnh kiểm, tuy ta là người ngông cuồng, liều lĩnh khi lên bờ, nóng nảy, dễ bị kích động, nhưng lại là sĩ quan đáng tin cậy lúc thi hành phận , cương trực, chân thành và tốt bụng. Nắm được những thông tin dó, chúng tôi rời văn phòng hãng Adelaide - Southamton, và vòng tới sở điện tín Charing Cross. Holmes gửi bức điện, rồi chúng tôi lại quay về phố Baker.
      Gần tối, viên thanh tra Staley Hopkins ghé thăm chúng tôi. Công việc của ông ràng chẳng mấy suôn sẻ.
      “Ông Holmes, ông quả là pháp sư. Thỉnh thoảng tôi nghĩ thầm ông có sức mạnh siêu phàm. Này, nhờ đây mà ông biết được những bộ đồ bằng bạc bị đánh cắp đó chúng vứt xuống đáy ao?”
      vậy sao? Thế mà tôi biết đấy.”
      “Nếu vậy tại sao ông lại dặn tôi thử mò đấy ao?”
      “Ông vớt lên được rồi chứ gì?”
      “Phải, đúng thế.”
      “Tôi rất lấy làm mừng là giúp được ông.”
      “Nhưng ông có giúp gì tôi đâu! Ông làm cho vụ án rắc rối thêm có. Làm gì có thứ kẻ trộm cố vơ vét đồ đạc bằng bạc, lại đem vứt xuống cái ao gần nhất?”
      “Quả là hành vi khá kỳ quặc. Tôi chỉ có ý là chỗ đồ bạc lấy chỉ để đánh lạc hướng chúng ta. Vì thế, dĩ nhiên, bọn chúng chỉ muốn vứt bỏ nó cho nhanh.”
      “Nhưng tại sao ông lại đến ý nghĩ đó?”
      “Ồ, tôi nghĩ đó là chuyện có thể có được. Khi chúng tẩu thoát qua cái cửa sổ kiểu Pháp, ngay trước mặt chúng ra cái ao. mặt ao lại có chỗ nước chưa đóng băng đầy sức quyến rũ. Tìm đâu ra nơi cất giấu tốt hơn thế?”
      “À, nơi cất giấu! Hay quá!” Stanley Hopkins reo lên “Vâng, vâng, giờ tôi hiểu hết cả rồi! Dọc đường có người, chúng sợ chạm trán với họ giữa lúc mang mấy bộ đồ ăn bằng bạc, nên chúng vội tẩu tán tang vật xuống ao, chờ dịp thuận tiện quay lại lấy lên. Tuyệt quá, ông Holmes ạ. Ý tưởng này đắc địa hơn ý tưởng lúc đầu. Nhưng tôi vẫn vướng phải trở ngại lớn.”
      “Trở ngại?”
      “Đúng thế, ông Holmes ạ. Băng Randall vừa bị bắt sáng nay tại New York.”
      “Trời ơi, ông Hopkins! Vậy ràng giả thuyết của ông về việc bọn này gây ra vụ án mạng tại Kent tối qua hoàn toàn đổ vỡ.”
      “Ông Holmes, đó quả là đòn chết người, thực chết người. Tuy vậy, chắc là còn có nhiều băng trộm khác, ngoài bọn Randall, cũng gồm ba tên, hoặc có băng mới nào đó nữa, mà cảnh sát chưa hề nghe .”
      “Có lẽ thế. Rất có thể là đúng thế . Nếu vậy ông còn phải điều tra tiếp?”
      “Vâng, ông Holmes. Tôi còn chưa được nghỉ ngơi chừng nào vẫn chưa làm sáng tỏ ngọn ngành vụ này. Tôi hy vọng ông vui lòng gợi cho tôi ý tưởng nào hay hay?”
      tôi mách cho ông rồi đấy thôi.”
      “Mách gì kia?”
      “Phải, tôi với ông là bọn chúng cố đánh lạc hướng.”
      “Nhưng để làm gì, ông Holmes, để làm gì?”
      “À, dĩ nhiên, đó chính là vấn đề. Nhưng ông có thể thấy là có cái gì trong đó. Ông thể ở lại dùng cơm với chúng tôi à? Vậy xin tạm biệt ông, và nhớ cho chúng tôi biết kết quả cuộc điều tra.”
      Ăn tối xong, Holmes châm tẩu thuốc, rồi đưa chân lại gần ánh lửa reo vui trong lò sưởi. Thình lình liếc nhìn đồng hồ.
      “Tôi chờ việc nữa xảy ra, Watson ạ.”
      “Bao giờ?”
      “Chỉ vài phút nữa thôi. Chắc lúc này nghĩ rằng tôi đối xử phải với Stanley Hopkins đúng ?”
      “Tôi tin vào phán đoán của .”
      - lời đáp tế nhị. Watson, phải nhìn việc theo cách sau đây: những gì tôi biết chỉ mang tính chất riêng tư, còn những gì ông ta biết lại là chuyện công vụ. Tôi có quyền phán đoán theo cách của riêng tôi; còn ông ta thể. Ông ta phải phơi bày hết thảy mọi chuyện, nếu bị xem là làm tròn công vụ. Trong vụ còn nhiều ngờ vực, tôi thích đẩy ông ta vào tình thế khó xử, và vì vậy, tôi phải giữ kín mọi thông tin cho tới lúc nội vụ được làm sáng tỏ.”
      “Nhưng đến bao giờ mới sáng tỏ?”
      “Sắp rồi. sắp được chứng kiến màn chót của vở kịch đặc sắc.”
      Có tiếng chân lên cầu thang, rồi cửa mở và người đàn ông trẻ tuổi, cao lớn xuất . Khách là chàng trai để ria vàng, mắt xanh, da rám nắng. đóng cửa lại, rồi đứng yên, hai tay nắm chặt lại như cố nén cảm xúc mãnh liệt nào đó.
      “Mời ông ngồi, thuyền trưởng Croker. Chắc ông nhận được bức điện?”
      Khách gieo phịch người xuống chiếc ghế bành, rồi đưa cặp mắt dò xét hết nhìn tôi lại nhìn Holmes.
      “Tôi vừa nhận được bức điện, và đến đúng giờ ông chỉ định trong bức điện. Tôi nghe ông có đến đằng văn phòng. chẳng có cách nào lẩn tránh được ông. Tôi sẵn sàng nghe những lời phán xử tồi tệ nhất. Ông định xử lý với tôi thế nào đây? Bắt tôi? Ông ! Chứ đừng ngồi đó mà đùa giỡn với tôi như mèo vờn chuột.”
      “Tôi ngồi đây phì phèo tẩu thuốc trước mặt ông nếu tôi cho ông là tên tôi phạm, ông có thể tin chắc như vậy.” Holmes “Hãy thành thực với tôi, ông và tôi có thể làm việc gì tốt đẹp. Còn nếu ông định giở trò lừa gạt tôi, tôi triệt hạ ông ngay.”
      “Xin ông cho biết: ông muốn tôi làm gì?”
      “Thuật lại cách trung thực cho tôi nghe những gì diễn ra tại Abbey Grange tối qua, thêm, bớt. Tôi biết đủ tới mức nếu ông kể sai dù chỉ chút, là tôi gọi cảnh sát,và thế là vụ này vĩnh viễn vuột khỏi tầm tay tôi đấy.”
      Chàng thuyền trưởng đăm chiêu lúc, rồi nắm chặt bàn tay to, rám nắng giáng mạnh cái xuống đùi.
      “Thôi, đành liều vậy.” thốt lên “Tôi tin ông là người trọng lời hứa, nên xin kể cho ông nghe hết câu chuyện. Nhưng trước tiên, tôi phải diều này. Tôi chẳng ân hận, mà cũng chẳng sợ hãi bất cứ điều gì. Ví thử phải làm lại từ đâu, tôi cũng làm đúng như vậy, lấy làm tự hào vì làm như thế. Nhưng hễ nghĩ tới chuyện mình gây rắc rối cho Mary Fraser, là lòng tôi lập tức thấy hãi hùng. Tôi sẵn sàng đổi mạng sống của mình để được nhìn thấy gương mặt thân của nàng nụ cười tươi vui.
      Tôi phải kể lùi câu chuyện lại chút. Ông hình như biết hết mọi chuyện; vì vậy, tôi nghĩ ông biết tôi gặp nàng khi nàng là hành khách, còn tôi là phó thuyền trưởng tàu “Rock of Gibraltar”. Ngay từ lần đầu gặp nàng, nàng trở thành người phụ nữ duy nhất của đời tôi. Và càng ngày, tôi càng thương nàng hơn trong suốt cuộc hành trình đó. Tôi thường quỳ trong bóng tối và hôn lên boong tàu, vì tôi biết rằng chân nàng qua đó. Nàng chẳng bao giờ có tình cảm đặc biệt với tôi. Nàng cư xử với tôi tử tế, như bất cứ người đàn bà nào cũng có thể đối xử với người đàn ông. Tôi có điều gì phải trách cứ nàng. Về phía tôi là tình toàn tâm, còn về phía nàng chỉ là thiện cảm và tình bằng hữu. Khi chúng tôi chia tay nhau, nàng vẫn là tự do; còn tôi thi bao giờ còn có thể thấy mình tự do được nữa.
      Sau ngày trở về từ chuyến kế tiếp, tôi được tin nàng lấy chồng. Ồ, sao nàng lại được quyền lấy người nàng kia chứ? Tôi chẳng đau buồn gì về cuộc hôn nhân đó. Tôi phải là kẻ vị kỷ. Tôi chỉ mừng vì hạnh phúc mỉm cười với nàng, và khỏi chứng kiến cảnh nàng phải gắn bó đời mình với chàng thủy thủ nghèo khổ. Tôi Mary Fraser say đắm đến thế đấy!
      Ồ, tôi bao giờ nghĩ là mình được gặp lại nàng. Nhưng rồi tôi bỗng được thăng chức sau chuyến mới đây. Con tàu mới chưa được hạ thủy; vì vậy, tôi phải về nhà ở Sydenham vài tháng trong lúc chờ đợi. hôm, dạo đường làng, tôi bỗng gặp Theresa Wright, bà hầu già của nàng. Bà ta kể cho toi nghe về nàng, về lão ta, về mọi chuyện. Thưa quý ngài, tôi phải cho quý ngài hay rằng tôi suýt phát điên, khi biết gã chó chết nghiện ngập đó dám đánh nàng, thiên thần của tôi! Tôi gặp lại bà Theresa. Rồi gặp chính Mary, rồi lại gặp nàng lần thứ hai. Sau đó, nàng cho tôi gặp nữa. Nhưng gần đây tôi có nhận được thông báo: tuần nữa tôi phải lên đường. Vì thế, tôi quyết định phải gặp lại nàng lần nữa. trước ngay rời quốc. Tôi bao giờ cũng coi bà Theresa như bạn, vì bà cũng Mary và cũng căm ghét cái lão hung ác nọ chẳng thua kém gì tôi. Qua bà ấy, tôi biết đường lối lại trong nhà. Mary thường ngồi đọc sách trong căn phòng của nàng ở tầng trệt. Tối qua, tôi vòng qua đó, rồi cào vào cửa sổ ra hiệu. Thoạt tiên nàng mở cửa. Nhưng tôi biết bây giờ nàng thầm tôi và nỡ để tôi phải đứng trong bóng tối giá rét. Nàng thầm bảo tôi hãy vòng ra cánh cửa sổ lớn ở phía trước. Tôi thấy cửa mở sẵn, để tôi có thể trèo vào phòng ăn. Vâng, thưa quý ngài, tôi đứng với nàng bên cửa sổ lão ta lao vào, như thằng điên. Lão chửi nàng câu thậm tệ, rồi giơ cao chiếc gậy lăm lăm trong tay, lão vụt vào mặt nàng. Tôi chồm tới, vớ lấy thanh cời than và giữa hai chúng tôi nổ ra cuộc đọ sức sòng phẳng. Ông nhìn đây, tay tôi vẫn còn nguyên dấu vết chiếc gậy của lão, vì lão ra đòn trước. Tôi chút ân hận. Bởi lẽ đây là chuyện mất còn; hoặc là lão, hoặc là tôi. Và hơn thế nữa: hoặc là tính mạng của lão ấy, hoặc là tính mạng của nàng, vì làm sao tôi có thể phó mặc nàng cho cái lão điên rồ ấy? Tôi giết lão như vậy đấy. Tôi có sai trái ? ấy, thử hỏi hai ông hai ông làm gì, nếu ở vào địa vị tôi?
      Nàng thét lên khi bị lão đánh, nên bà Theresa nghe thấy vội chạy xuống. Thấy trong tủ buýp-phê có chai rượu, tôi liền lấy ra, mở nút, đổ vài giọt vào miệng Mary, vì nàng bất tỉnh do bị choáng. Rồi cũng uống hớp. Bà Theresa bình tĩnh như , và cách khai báo với cảnh sát chính là do tôi và bà ta nghĩ ra. Chúng tôi buộc phải làm cho người ta tưởng vụ án mạng do bọn trộm gây nên. Trong lúc tôi trèo lên cắt sợi dây chuông, bà Theresa cứ nhắc nhắc lại cho Mary thuộc lòng câu chuyện bịa đặt kia. Sau đó, tôi trói nàng vào chiếc ghế, làm xơ dầu dây cho có vẻ tự nhiên. Nếu người ta phải tự hỏi: làm cách nào mà tên trộm có thể leo lên tận đó? Rồi tôi vơ vội vài bộ ấm chén, thìa đĩa bằng bạc, làm ra vẻ đây là vụ trộm. Tôi để Mary và bà Theresa ở lại, dặn họ chỉ hô hoán sau khi tôi rời khỏi nhà mười lăm phút. Tôi vứt những bộ đồ ăn bằng bạc xuống ao và về lại Sydenham, lòng mãn nguyện vì làm việc tốt . Đó là , ông Holmes ạ, dù tôi có phải trả giá cho nó bằng tính mạng của tôi chăng nữa.”
      Holmes trầm ngâm hút thuốc và im lặng hồi lâu. Rồi tiến đến bắt tay viên thuyền trưởng.
      “Tôi biết mỗi lời ông ra đều đúng ,” “vì ông cho tôi biết thêm điều gì mới lạ cả. Ngoại trừ thủy thủ ai có thể thắt được những nút buộc chặt đến thế khi trói phu nhân Brackenstall vào chiếc ghế bành. Mà phu nhân chỉ mới gặp dân thủy thủ đúng lần hồi bà đáp tàu sang . Và người đó ắt phải cùng giai tầng với bà; vì bà cố che chở, và điều này cho thấy bà rất con người đó. Ông thấy đấy, tôi dễ dàng tìm ra dấu vết ông, khi tôi đúng đường.”
      “Tôi nghĩ rằng cảnh sát bao giờ phát được qua câu chuyện chúng tôi bày ra.”
      “Và quả nhiên họ phát được, và tôi tin là họ phát được. Thuyền trưởng Croker, vụ này rất nghiêm trọng, tuy tôi sẵn lòng thừa nhận ông hành động như trang quân tử. Tôi rất có thiện cảm với ông, cho nên nếu ông chọn phương án là rời khỏi quốc sau hai mươi bốn tiếng nữa, tôi xin hứa ông bị ai cản trở.”
      “Sau đó ông báo cho cảnh sát?”
      “Dĩ nhiên.”
      Sắc mặt viên thuyền trưởng vụt ửng đỏ vì phẫn nộ.
      “Sao ông lại đề nghị với tôi kỳ cục như vậy? Tôi biết luật pháp nên thừa hiểu Mary bị bắt vì tội đồng lõa. Ông tưởng tôi bỏ mặc nàng để tẩu thoát mình sao? Ồ, , thưa ông. Cứ để mặc họ muốn làm gì tôi làm, nhưng ông Holmes, xin ông vì Chúa, hãy nghĩ cách giúp Mary tội nghiệp của tôi khỏi phải ra tòa.”
      Holmes lại chìa tay lần nữa cho viên thuyền trưởng.
      “Tôi chỉ thử lòng ông vậy thôi. Được rồi, tôi xin nhận cái trọng trách ông trao cho tôi, nhưng tôi cho Hopkins lời gợi ý rất đáng giá, và nếu ông ấy biết khai thác cái ý đó, tôi thể làm gì hơn. Nào, thuyền trưởng Croker, bây giờ chúng ta làm đúng thể thức của tòa án. Ông là bị cáo, còn Watson, là bồi thẩm đoàn, tôi thấy ai thích hợp hơn để đảm nhận vai này. Tôi là chánh án. Vâng, thưa các vị trong bồi thẩm đoàn, các vị nghe lời khai, các vị thấy bị cáo có tội hay vô tội?
      “Vô tội!” tôi .
      “Vậy ông được trắng án, thuyền trưởng Croker ạ. Và trong khi luật pháp chưa tìm được con mồi nào khác, ông được hoàn toàn bình yên vô từ phía tôi.”
      ---
      [1] xấp xỉ 3,8 cm
      [2] khoảng 8 cm

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      2. Ngôi nhà trống

      Vào mùa xuân năm 1894, cả thành phố London đều bàn tán xôn xao về vụ ám sát tử tước Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ ám sát xẩy ra trong bối cảnh khác thường và đầy bí . Đông đảo công chúng đều biết đến những tình tiết của vụ án, theo cách đánh giá chủ quan của cảnh sát. Nhưng vì lý do nào đó, phần lớn những tình tiết phải giấu kín. Mười năm trôi qua, giờ tôi mới có khả năng bổ sung thêm những mắt xích còn thiếu trong chuỗi kiện đầy bí kia. Bản thân vụ án điều lý thú; nhưng những hậu quả lường trước được đối với tôi còn quan trọng hơn gấp nghìn lần. Nhưng hậu quả này, làm cho tôi bàng hoàng, chấn động hơn tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù cuộc đời của tôi nếu kiện ấy cũng chứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly kỳ. Thậm chí ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn cảm giác run sợ, khi nghĩ lại câu chuyện xa xưa, và tôi vẫn bị nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm và xâm chiếm toàn bộ tâm hồn. Tôi mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những mẩu chuyện của tôi về những việc làm và những suy luận của con người tuyệt vời hãy tha thứ cho tôi, vì việc tôi chia sẻ với các bạn điều khám phá của mình. Tôi tự đặt cho mình nghĩa vụ là phải báo cho các bạn tất cả , khi tôi còn bị ràng buộc bởi chuyện cấm đoán xuất phát từ chính ý muốn của bạn tôi. Câu chuyện ngăn cấm được phát ra cũng vừa mới đây, ngày mồng ba tháng trước.
      Trong thời gian tôi và Sherlock Holmes còn gắn bó mật thiết với nhau tôi quan tâm cách sâu sắc tới những chuyện hình . Kể từ khi biệt tăm mất tích, tôi trở thành kẻ thường xuyên theo dõi các báo chí tất cả các vụ án chưa được khám phá. Đôi lúc, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi có ý định tham gia vào chuyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp, thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù con lâu tôi mới đạt được trình độ ấy.
      Tuy thế, có vụ án nào lại làm cho tôi hồi hộp, lo âu bằng câu chuyện tang thương của Ronald Adair. Trong số tài liệu điều tra, có đoạn thế này: "Vụ ám sát được tính toán từ trước và do người hoặc nhóm người lạ thực ". Sau khi đọc xong lời nhận xét như vậy, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái chết của Sherlock Holmes gây cho Tổ quốc chúng ta tổn thất to lớn biết nhường nào. Trong chuyện này, nhất thiết phải có những tình tiết làm cho Sherlock Holmes chú ý; và như vậy hoạt động của cảnh sát được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có giúp sức của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử sành sỏi nhất Châu Âu này.
      Sau khi thăm bệnh nhân cả ngày về, tôi lại tập trung vào những suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là câu chuyện của Adair , nhưng tôi thể nào tìm ra được lời giải đáp thỏa đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người biết, tôi cũng muốn nêu lên những dữ kiện theo dạng được thông báo cho công chúng biết, sau khi kết thúc cuộc điều tra.
      Tử tước Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước Maynooth - tổng đốc toàn quyền khu vực thuộc địa của người ở Úc. Người mẹ của Adair từ Úc đến nước để giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và cùng cậu con trai Adair và con Hilda sống ở Park Lane, số nhà 427. Chàng thanh niên thường giao du với những người tốt, và hình như có địch thủ nào; cũng chưa làm gì đáng chê trách. có thời chàng đính hôn với tiểu thư Edith Woodley ở Carstairs, nhưng trước khi xảy ra vụ án mạng vài tháng cả chú rể lẫn dâu quyết định chia tay nhau: ai hối hận về chuyện này cả. chung, cuộc đời của chàng thanh niên trai trẻ chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong giới thượng lưu. Tính tình ta điềm đạm, thói quen và sở thích có gì xấu. Thế nhưng cái chết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất chợp nhà quý tộc trẻ vô tư chuyện đó xảy ra vào khoảng 22 giờ đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.
      Ronald Adair là người thích cờ bạc, nhưng chưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn. ta là thành viên của ba câu lạc bộ - Baldwin, Cavendish và Bagatellele. Người ta điều tra và xác định rằng, trong ngày bị giết, sau bữa cơm chiều, Ronald chơi ván bài ở câu lạc bộ Bagatelle. Thậm chí, trước bữa cơm chiều ta cũng có chơi ở đấy rồi. Những người cùng chơi với ta là: ông Murray; ngài John Hardy và đại tá Moran. Adair bị thua mất 5 bảng. Gia tài của ta khá lớn, nên việc thua bạc như vậy làm cho ta bận tâm chút nào. ta hầu như ngày nào cũng chơi và thường là được bạc. Những lời khai của các nhân chứng làm sáng tỏ thêm chuyện. Là khoảng tháng rưỡi trước khi bị giết, Adair cùng chơi với ngài đại tá Moran, buổi tối ăn của ông Godfrey Milner và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được về những tuần cuối cùng cửa đời ta.
      Vào buổi tối bất hạnh đó, ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em ta vắng: họ thăm người quen chưa về. Người hầu thề rằng, ta nghe thấy ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy nằm tầng hai, cửa sổ hướng ra đường phố, dùng làm phòng tiếp khách. Trước khi chàng quý tộc trẻ tuổi về, người hầu vừa nhóm lò sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, ta phải mở toang các cửa sổ để thoáng khói. Trước 23 giờ 20 phút hề nghe động tĩnh nào phát ra từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và con con về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại chỗ cậu con trai để chúc cậu ngủ ngon, nhưng cánh cửa phòng được khóa chặt bên trong; mặc cho người ta gào thét, đập cửa, ai lên tiếng. Thấy vậy người mẹ hô hoán lên, bắt người nhà phải phá cửa. Chàng thanh niên xấu số nằm gục dưới sàn nhà, ngay cạnh chiếc bàn. Đầu ta bị viên đạn súng lục bắn thủng, trông khủng khiếp. Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng thấy thứ vũ khí nào hết. bàn có 2 tờ ngân phiếu trị giá 10 bảng và 17 bảng với 10 pence, bằng bạc có, bằng vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng chồng với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là tờ giấy có ghi những con số và ngang hàng với những con số đó là tên những người bạn cùng câu lạc bộ của Adair. Từ dữ kiện này có thể rút ra nhận xét: Trước khi chết, chàng trai tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.
      Sau khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt hơn. điều làm chúng ta khó hiểu: vì sao chàng trai phải khóa chặt cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa cửa, rồi trèo qua cửa số để tẩu thoát. Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những bồn hoa hồng lại hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải đến 20 feet. cây hoa nào bị giầy xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con đường cũng hề có dấu vết nào. ràng là chính Adair tự tay khóa cửa. Nhưng sao cái chết lại đột ngột dội vào đầu ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân bắn qua cửa sổ, đó phải là phát súng rất đặc biệt, vì chỉ bằng viên đạn súng lục giết chết chàng trai ngay lập tức với khoảng cách quá xa như vậy đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa, Park Lane là đường phố nhộn nhịp, đông người qua lại; cách nhà 100 yards có trạm xe ngựa. người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà, có người bị ám hại nằm xuống chỉ với viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo vết thương chính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí ở Park Lane là như vậy! vụ giết người có số đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, logic. bạn trẻ Adair hề có địch thủ, còn tiền nong cũng như giấy tờ quý giá khác hề suy suyển.
      Suốt ngày tôi suy , nghĩ lại trong óc tất cả những dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra cho nó giả thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục. Tôi cố gắng tìm ra "điểm ít khả năng bị bác bỏ nhất" điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm kim chỉ nam cho các công cuộc khám phá. Tôi thành thú nhận mình hoàn toàn đạt được ý đồ đó. Buổi chiều tôi thơ thẩn, lang thang trong công viên: khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đến góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford hề có ý định trước. Tôi thấy nhóm người vô công rồi nghề túm năm tụm ba, nhòm ngó vào chiếc cửa sổ ngôi nhà xẩy ra vụ án mạng đầy bí . gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ chắc là thám tử giả dạng, - thử nêu giả thiết về án mạng, những người tò mò bao quanh ông ta chật cứng, chăm chú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng khi nghe loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui.
      Vô tình tôi đụng phải ông già gù lưng đứng phía sau, mấy cuốn sách mà ông ta kẹp nách bị rơi ra. Trong lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sách cho ông lão, tôi chợt đọc thấy tên sách " ra đời và việc sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: con mọt sách tội nghiệp; chắc vì để kiếm sống, hoặc vì thích nghệ thuật, nên cố sưu tầm những cuốn sách quý hiếm. Tôi định vài câu xin lỗi cho vô tình của mình làm rơi những vật mà chủ nhân của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu, tức tối và khinh khỉnh quay . Chỉ loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng của ông lẩn vào đám đông.
      Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố Park Lane giúp tôi được chút ít trong công việc khám phá lời giải đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cách với đường phố bằng bức tường thấp, tường có chăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 feet. Mọi người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa số khó thực được, vì có ống thoát nước, hề có cái gờ nào nhô ra, cho nên ngay cả nhà thể thao điêu luyện nhất cũng thể trèo lên theo bức tường được. Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình chưa đầy 5 phút người hầu báo với tôi là có người khách muốn gặp tôi. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên, vì đó phải ai xa lạ, mà chính là ông già gù gù, thích sưu tầm sách quý tôi gặp lúc chiều. Bộ tóc bạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở nách có đến tá những cuốn sách loại quý:
      - Chắc ngài rất ngạc nhiên vì có mặt của tôi? - Ông ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.
      Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.
      - Ngài thấy , tôi là người lịch . Tôi lững thững theo con đường mà ngài , tôi chợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là cần ghé lại gặp con người lịch thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi có thô thiển lố bịch với ngài, thú tôi cũng có ý định làm cho ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài hạ cố cúi nhặt giúp tôi những cuốn sách.
      - Chuyện nhặt ấy, nên bận tâm làm gì, - Tôi đáp. - Ngài cho phép tôi được hỏi, làm sao ngài biết được tôi là người như thế nào?
      - Tôi cũng xin mạnh dạn với ngài rằng là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sách bé của tôi nằm ở góc phố Church, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại chơi. Có lẽ ngài cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống chim ở ", "Catullus", "Cuộc chiến tranh thần thánh". Ngài mua , tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm tập này, vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá sách của ngài được đẹp mắt lắm phải, thưa ngài?
      Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sách, khi quay lại tôi thể tin ở mắt mình được nữa: Sherlock Holmes đứng ngay bên chiếc bàn của tôi và cười. Tôi khuỵu xuống vài giây. Tôi ngơ ngác nhìn , và sau đó , có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi bị ngất. Tôi chỉ mang máng nhớ là có đám mây xám nhập nhoà trước mắt. Khi đám mây tan biến , tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi rượu brandy. Holmes vẫn đứng đấy tay cầm chai rượu, đầu hơi cúi xuống.
      - Watson thân mến! - giọng khá thân thuộc cất lên, - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ ngờ cái ấy lại gây cho cậu xúc động mạnh như vậy.
      Tôi nắm lấy tay .
      - Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải cậu ? Chẳng lẽ cậu vẫn còn sống ư? thể nào tin được, làm sao cậu vượt lên được cái thác nước khủng khiếp ấy?
      - Hãy đợi chút . - . - biết cậu bình tĩnh lại chưa? ràng xuất quá đường đột của tớ làm cho cậu choáng váng.
      - Tớ bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú với cậu, tớ còn tin vào mắt mình nữa. hú vía! Chẳng lẽ chính cậu đấy ư? phải ai khác đứng trong phòng tớ đấy chứ?
      Tôi lại nắm lấy cánh tay và bóp nắn cánh tay gân guốc.
      - Đúng rồi, chính là cậu rồi, còn nghi ngờ gì nữa, - Tôi tiếp. - Bạn mến của tôi ơi! Tớ hạnh phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy ngồi xuống cái , và hãy kể vắn tắt cho tớ nghe, bằng cách nào cậu thoát khỏi vực thẳm kia?
      Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu quen thuộc như xưa, lấy thuốc ra châm hút. vẫn mặc chiếc áo sờn với dạng của người bán sách cũ, nhưng những thứ dùng để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sách cũ... nằm bàn. Tôi có cảm giác gầy hơn xưa, cái nhìn của có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của chứng tỏ trong thời gian qua, nếm nhiều khổ cực, trải qua chặng đường đời khắc khổ có lợi cho sức khoẻ.
      - Watson, được duỗi thẳng người ra khoan khoái! - lên tiếng, - người cao lớn như tớ, dễ dàng gì mà rút foot; và bắt buộc giữ tình trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, chúng ta đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng... Tớ muốn cầu cứu giúp đỡ của cậu, nếu cậu phản đối. Cả hai chúng mình phải thức trắng suốt đêm nay với công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất, nên để chuyện cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc công việc kia giải quyết xong xuôi.
      - Nhưng tớ cháy ruột, cháy gan vì tò mò. Holmes, tớ nóng lòng được cậu kể ngay bây giờ.
      - Cậu có đồng ý với mình đêm nay ?
      - bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.
      - Hoàn toàn như ngày xưa. Chúng ta vẫn còn kịp giải lao cho thư thả trước lúc lên đường. Nào, bây giờ tớ bắt đầu câu chuyện về cái thác nước. Nguyên nhân đơn giản làm cho tớ lên được khỏi vực thẳm, là tớ chưa hề bị rơi xuống đó.
      - Cậu bị rơi xuống vực à!
      - Đúng thế, Watson ạ, hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu thư tớ viết cho cậu hoàn toàn là . Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất lối mòn chật hẹp, chặn ngăn con đường giải thoát duy nhất của tớ, lúc ấy nghĩ, mọi chuyện đối với tớ như vậy chấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu của , tớ đọc được quyết định thể nào lay chuyển nổi về số phận của tớ. Tớ trao đổi với vài ba câu, lịch cho phép tớ được viết mẩu tin ngắn ngủi, cậu nhận được bức thư. Tớ để lá thư cùng hộp thuốc và cây gậy lại, còn tự mình theo lối mòn tiến về phía trước. Moriarty theo sau tớ từng bước . Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tớ dừng lại, bởi có tiếp cũng còn đường nào hết. thèm lấy ra thứ vũ khí gì, vội lao vào tớ và dùng đôi tay dài ngoằng của mình chộp lấy tớ. biết, cuộc đời của tới số, chỉ cần thực việc là trả thù tớ. thèm buông ra, tớ với giằng co ngay bên mép vực thẳm. Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ Nhật Bản, khoản này giúp tớ ít trong công việc, tớ kịp thoát ra khỏi người . thét lên nghe man rợ, loạng choạng vài giây, hai tay chới với trong trung. Mặc dù cố gắng hết sức, nhưng vẫn thể giữ nổi thăng bằng và ngã xuống. Đứng bờ vực thẳm, tớ nhìn theo rất lâu xem bị rơi xuống vực như thế nào? Tớ thấy va vào gờ của tảng đá và chìm nghỉm dưới nước.
      Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng. Còn vẫn thản nhiên, vừa kể vừa thả khói thuốc cách khoan thai.
      - Nhưng còn các vết chân! - Tôi thốt lên. - Chính tớ, bằng mắt mình trông thấy rành rành hai dãy bước chân cùng lên theo lối mòn, dấu quay lại hề có.
      - Chuyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ hiểu rằng, vận may đến với tớ cách ngờ. Tớ biết rằng phải chỉ có mình Moriarty tìm cách giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái chết của thủ lĩnh đốt cháy trong tim bọn nó khao khát trả thù. Đó là lũ người cực kỳ nguy hiểm. Trong tương lai, tên nào đó trong bọn chúng thực mưu đồ làm hại tớ. Nếu chúng nghĩ rằng tớ chết, chúng hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng để lộ tung tích, lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt được chúng nó. Chỉ đến lúc này, tớ mới thông báo cho mọi người biết tớ vẫn còn sống! Bộ não của con người làm việc rất nhanh, Moriarty chưa kịp xuống tới đáy của vực nước Reichenbach tớ nghĩ xong kế hoạch đối phó rồi.
      Tớ đứng lên và quan sát bức tường đá sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái chết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó vài tháng, cậu cho rằng: bức tường đá hoàn toàn dựng đứng và trơn tuột. phải đúng hết như vậy. tảng đá có vài chỗ gờ nhô ra, có thể đặt chân, bám vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin cái hốc nào đấy ở cao... Mỏm đá khá cao, ràng thể nào trèo lên đỉnh được, và cũng thể theo lối mòn ẩm ướt mà để lại dấu vết. Thực ra tớ cũng có thể mang giày cho gót lộn ngược cũng được, như tớ từng làm trong những trường hợp tương tự; nhưng ba dấu giày cùng theo hướng, thể tránh khỏi nghi ngờ rằng cố ý đánh lừa được. Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này phải là dễ, thác nước réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có cảm giác tiếng của Moriarty gọi tớ từ đáy vực thẳm vọng đến bên tai. Đôi lúc, khi nắm cỏ nằm lại bàn tay, hoặc bàn chân bị trượt theo cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc kết thúc. Nhưng tớ vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tớ bò lên chỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ở đây, tớ có thề nằm duỗi tay, duỗi chân mà sợ ai nhìn thấy, tớ nghỉ lát cho sảng khoái. Tớ nằm ở đấy, trong lúc đó, cậu và những người được cậu mời tới, hoài công dựng lên bức tranh về cái chết của tớ.
      Cuối cùng, sau khi rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm về những diễn biến xẩy ra, cậu quay về khách sạn, còn tớ nằm lại mình. Tớ hình dung cuộc phiêu lưu của tớ kết thúc, nhưng việc khá bất ngờ xảy ra, chứng tỏ là có chuyện kém phần ly kỳ chờ đợi tớ. Có hòn đá to vỡ ra chợt bay vèo qua đầu tớ, rơi xuống lối mòn rồi rơi xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là chuyện tình cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên , tớ trông thấy cái đầu của người đàn ông in nền trời tắt dần nắng. Đúng giây phút ấy, hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tớ nằm, cách đầu tớ chỉ vài inch. Tình thế đối với tớ quá . Moriarty phải chỉ đến mình. Tên đồng bọn của cũng khá nguy hiểm, thằng này chắc đứng cảnh giới, khi thằng Moriarty xông vào tấn công tớ. Từ xa, chứng kiến cái chết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của thoát nạn. Sau khi chờ đợi lúc, chạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan thực việc mà Moriarty thành công. Watson, tớ suy tính chuyện này rất nhanh. Sau khi nhìn quanh, tớ lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của và hiểu rằng, là kẻ ném thêm viên đá nữa. Tớ quyết định bò xuống đến lối mòn. Tớ biết, trong trạng thái bình thường, tớ có làm nổi chuyện ấy hay ? Tuột xuống khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên. Nhưng hơi đâu mà đắn đo, suy tính. Khi đó tớ treo người, hai tay bám vào mép của khe đá. viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tớ trượt chân cái, nhưng dẫu sao, tớ cũng đến lối mòn. Người bị rách bươm, thấm đầy máu, ba chân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ chạy. Trong đêm tối tớ chạy xuyên rừng, xuyên núi 10 dặm và tuần sau tớ có mặt ở Florence và tin chắc rằng: người nào đời này biết được số phận của tớ.
      Chỉ người biết được bí mật, đó là trai tớ - Mycroft. Nghìn lần xin lỗi cậu, Watson. Nhưng tớ bắt buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tớ chết là được rồi. Nếu , bao giờ cậu có thể viết lên những điều khẳng định chắc chắn về cái chết của tớ, nếu cậu tin rằng đó là . Trong ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư cho cậu, nhưng mỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng mối mật thiết quá ư chặt chẽ giữa cậu và tớ dễ làm cho cậu có sơ suất, và lộ điều bí mật của tớ. Vì sao chiều nay tớ phải tránh mặt cậu, khi cậu làm rơi sách của tớ? Tớ liều lĩnh, nếu như cậu kêu lên vì kinh ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người nhìn chằm chằm vào tớ chuyện đó dẫn đến hậu quả thể cứu chữa được. Còn phải cho Mycroft, cực chẳng tớ mới thú mà thôi, bởi tớ rất cần món tiền để tiêu xài.
      Công việc ở London giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty, còn hai tên nằm ngoài vòng pháp luật. Đó là hai tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều là kẻ tử thù của tớ. Vì thế, tớ chu du trong hai năm ở vùng Tibet, và đến thăm thành phố Lhassa, thậm chí còn bỏ cả mấy ngày để đến thăm các Lạt ma. Có lẽ cậu đọc bài báo về vụ chấn động lớn của người Na Uy, mang tên Sigerson, nhưng cậu làm sao có thể nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn thăm vài nơi ở vương quốc Arập, chuyến thăm do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng Ngoại giao.
      Sau khi quay về Châu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tớ tham dự vào công cuộc nghiên cứu, phân tích những chất lấy từ vùng than đá. Việc này tớ làm ở phòng thí nghiệm thuộc miền nam nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí nghiệm và biết được nay ở London chỉ còn sống sót kẻ thù đội trời chung của tớ, tớ suy tính chuyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát đầy bí ở phố Park Lane và nóng lòng ra . Tớ cũng nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án mạng giúp tớ thực ý định của riêng mình. Thế là, tớ vội vã quay về London. Tự tớ đến phố Baker, và làm cho bà Hudson bị phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. trai tớ vẫn trông nom căn phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra . Ngày hôm nay, lúc 14 giờ, tớ ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào chiếc ghế bành thân quen, và chỉ mong ước điều duy nhất là làm sao cho người bạn cũ Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong chiếc ghế bành khác mà ta vẫn thường ngồi.
      Câu chuyện kinh hoàng tôi được nghe trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là . Mặc dù chính mắt tôi trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng, bao giờ tôi còn gặp lại. biết bằng cách nào, Holmes cái chết của vợ tôi, thương cảm được thể trong giọng của :
      - Làm việc! Đó là cách tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson quý - động viên an ủi tôi - Khuya hôm nay, có công việc chờ chúng mình. Người có diễm phúc hoàn thành sứ mệnh cách tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng, ta sống cuộc đời phải là uổng phí, vô ích.
      Tôi mất công để thuyết phục giải thích cho .
      - Đến sáng mai, cậu được nghe, được thấy đầy đủ, - đáp. - Còn bây giờ cần tới chúng ta còn khối chuyện để tâm . Cậu biết đấy, ba năm rồi chúng mình được nhìn thấy nhau. Hy vọng chúng ta tâm đến 21 giờ 30, rồi lên đường, đón nhận cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong ngôi nhà bỏ trống.
      Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với trong cỗ xe đúng giờ định, tôi sờ soạng khẩu súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón chờ những kiện chưa lường trước được. Holmes trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của , tôi thấy khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp môi mỏng mím chặt, chứng tỏ suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi biết, chúng tôi săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới tội phạm tại London. Nhưng tất cả dáng điệu của người thợ săn đầy lão luyện như báo cho tôi rằng, cuộc trinh thám này là cuộc trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai thường xuyên xuất gương mặt đăm chiêu của bạn tôi hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho con thú chúng tôi săn đuổi.
      Tôi đinh ninh rằng, thế nào chúng tôi cũng ghé về phố Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người xà ích dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, cẩn thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngách; kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau . Chúng tôi bước vào cái ngách trông rất lạ. Holmes luôn luôn làm cho tôi thán phục về hiểu biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở London. ung dung tự tin bước vào góc tối đầy chuồng ngựa, qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi thể tin tồn tại có mặt của những thứ ấy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào cái hẻm chật hẹp, có hai dãy nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn chúng tôi ra phố Manchester, rồi đến phố Blandford. Holmes nhanh nhẹn nhảy sang lối hẹp khác, qua hộc cửa bằng gỗ, lọt vào cái sân vắng vẻ. dùng chìa khóa mở cửa sau ngôi nhà. Chúng tôi bước vào, ngay lập tức khóa trái cửa lại.
      Dù trời rất tối, nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này có người ở. Nền nhà lót thảm, kêu lên răng rắc, lạo xạo dưới chân, tôi vô ý chạm phải những bức tường, nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra treo đầu chúng tôi. Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp chặt bàn tay tôi, dẫn tôi theo hành lang dài, cuối cùng trước mắt chúng tôi ra cái vòm cửa sổ nửa cong, nửa thẳng đứng kín đáo, nằm chỗ cửa ra vào. Bỗng dưng Holmes quay về bên phải, và chúng tôi lọt vào căn phòng hình vuông rộng lớn nhưng bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở giữa phòng được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ ngọn đèn nào, còn tấm kính cửa sổ bị lớp bụi dày bao phủ. Chúng tôi nhận ra nhau khá chật vật. Holmes đặt tay lên vai tôi, và cúi sát môi vào tai tôi.
      - Cậu có biết chúng ta ở đâu ? - thầm hỏi.
      - Dường như trong phố Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ đục vừa .
      - Đúng như vậy, chúng ta đứng ở nhà Camden, đối diện với căn buồng trước kia của chúng mình.
      - Chúng mình đến đây làm gì?
      - Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. biết có nên tiến sát vào cánh cửa sổ ? Nhưng hãy thận trọng, đừng để ai phát ra cậu. Cậu thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ chúng mình , nơi đó mở ra những cuộc trinh thám đầy thú vị. Cậu thử xem, tớ mất khả năng làm cậu kinh ngạc chưa, sau ba năm trời phiêu bạt?
      Tôi nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng thân thuộc... Bỗng nhiên tôi thốt lên tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông xuống, đèn sáng rực rỡ, có người ngồi chiếc ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất lên nền sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu, đến đôi vai rộng, cho đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng, tạo nên dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thích được vẽ kiểu ấy... còn gì nghi ngờ, đấy chính là bản sao hoàn hảo chính xác con người Sherlock Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào người để khẳng định vẫn đứng bên cạnh tôi. Holmes cười thành tiếng.
      - Thế nào? - hỏi.
      - Chuyện này khó tin được! - Tôi thầm .
      - Dường như, năm tháng cướp khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng vì thế bị khô mòn, - .
      Tôi cũng bắt gặp trong giọng niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà họa sỹ thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.
      - Cậu thấy có giống mình ?
      - Tớ nghĩ rằng, đây chính là cậu ngồi.
      - Vinh dự này thuộc về ngài Meunier ở Grenoble. Ông ta tạc tượng tớ trong vòng có vài ba ngày. Nó được làm bằng sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về hẻm Baker sáng sớm hôm nay.
      - Nhưng cậu làm thế nhằm mục đích gì?
      - Tớ có nguyên nhân chính đáng. Tớ muốn số người nào đó cứ đinh ninh là tớ ngồi ở nhà, trong khi ấy, thực tế tớ lại ngồi ở nơi khác.
      - Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có bọn nào đó rình mò căn hộ ư?
      - Tớ biết, có kẻ rình mò căn nhà.
      - Kẻ đó là ai?
      - Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh vĩnh viễn nằm chôn vùi dưới đáy thác nước Reichenbach. Cậu biết đấy, chỉ có bọn nó mới biết chính xác là tớ vẫn còn sống. Chúng nó tin chắc, dù sớm hay muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của mình. Tụi nó chưa chịu từ bỏ ý định theo dõi rình rập để hại tớ. Sáng nay chúng thấy tớ quay về nhà.
      - Làm sao cậu đoán được điều đó?
      - Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tớ nhận ra thằng thám thính của chúng. Tên của là Parker, chuyên ăn cướp, giết người, đồng thời còn là nhà tổ chức thiên tài. Tớ chú ý đến thằng này ít thôi. thằng khác làm cho tớ chú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận nhất của tay Moriarty. Chính dùng đá ném tới tấp vào tớ từ ngọn núi đá. tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy hiểm nhất nay ở London. Chính đêm nay săn tớ, và đâu ngờ rằng, chúng ta lại săn .
      Kế hoạch của Holmes dần dần làm cho tôi sáng tỏ. Từ chỗ nấp thuận tiện này, chúng tôi có khả năng theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi chúng tôi. Dáng dấp bóng người thấp thoáng bên cửa sổ là miếng mồi, còn chúng tôi là những tay thợ săn. Vai kề vai, chúng tôi đứng lặng im trong bóng tối chăm chú ngắm nhìn những bóng người lượn qua lượn lại. Đêm ấy, thời tiết rất xấu, trời trở lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố cách dữ dội, gay gắt. Người lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước cũng rất vội, họ đều cố kéo cổ áo hoặc mũ che kín mũi cho đỡ lạnh.
      Tôi có cảm giác người nào đó cứ qua lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm cho tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào cánh cổng cách chúng tôi xa. Tôi định bụng báo cho Holmes biết, nhưng trả lời tôi với giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng đổi chân cho đỡ mỏi hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy có vẻ vui, hình như việc xảy ra hoàn toàn đúng như kế hoạch. Trời chuyển về khuya, đường phố tĩnh mịch vắng vẻ Holmes lại trong phòng, bồn chồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định điều gì nhưng tôi lại lần nữa sửng sốt, kinh ngạc.
      - Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.
      Rất , bóng hình kia quay về phía chúng tôi, phải bên hông, mà là quay hẳn lưng lại. Năm tháng làm cho tính cách của Holmes thay đổi chút nào, vẫn là người điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể trí thông minh, đầu óc suy luận sắc sảo, nhìn nhận rất tinh tế.
      - Phải làm như , - đáp. - chẳng lẽ tớ lại là kẻ ngu ngốc có bộ não hay sao? Đặt trong phòng hình nộm bất động xua được ruồi quả là rất lộ liễu, phải chăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất Châu Âu ư? Chúng mình thu lu trong xó xỉnh này hai giờ đồng hồ, trong lúc đó bà Hudson thay đổi vị trí bức tượng tám lần. Cứ mười lăm phút lần, với điều kiện là bà để in bóng mình cho người ngoài trông thấy.
      Bỗng nhiên im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy dướn cổ lên trong tư thế chờ đợi rất căng thẳng.Đường phố hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên đứng nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi tài nào nhìn thấy chúng. Xung quanh tôi màn đen và im ắng bao trùm. Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được chiếu sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng, càng nổi bật nét. gian im ắng đáng sợ, tôi nghe thấy tiếng thở khò khè của Sherlock, chắc rất hồi hộp cho kế hoạch của mình. Bỗng nhiên ấn sâu tôi vào góc căn phòng, chỗ tối nhất, và lấy tay bịt miệng tôi lại, bằng cách này muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi thấy những ngón tay của run run. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến bị kích động, căng thẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh ngắt, yên ả có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, thanh mà đôi tai cực nhậy của Holmes nghe thấy trước. Tiếng động phải phát ra từ phố Baker, mà chính trong ngôi nhà chúng tôi nấp. Cửa ra vào được mở ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước chân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người cố giữ cho bước chân khỏi kêu to, nhưng trong căn nhà hoang này nó vẫn dội lên những thanh khá to.
      Holmes đứng dựa sát vào tường, tôi cũng làm theo và nắm chặt khẩu súng ngắn, căng mắt nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng người đàn ông, bóng đen hơi sẫm hơn so với tấm khung hình chữ nhật của cánh cửa mở. đứng im ở đó chừng phút, rồi nhẩy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử chỉ hành động của đều chứa đựng mối đe dọa. Thân hình dữ tợn của đứng cách chúng tôi có ba bước. Tôi lên gân cốt, chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hề biết có chúng tôi ở đây. ngang qua chỗ chúng tôi đứng, suýt nữa chạm phải nhau. rón rén tiến đến gần cửa sổ rất thận trọng hề tiếng động, nhấc cánh cửa lên cao nửa foot. Khi trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đèn đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi bộ mặt , bộ mặt dễ làm cho chúng ta kích động cao độ. Cặp mắt cháy lên cách man rợ, nét mặt biến dạng kinh khủng.
      còn trẻ trung gì nữa, có chiếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc trắng rất dài. Mũ của được kéo xuống tận gáy, chiếc áo bành tô hở cúc, để hở ra khoảng trắng trước ngực, chiếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng, đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay cầm vật đại loại như cây batoong, nhưng khi đặt xuống nền nhà, nó phát ra tiếng kêu "keng" của kim khí. lôi từ trong túi ra vật gì đó khá lớn: loay hoay với đồ ấy chừng vài phút; cho đến khi thanh kim khí phát ra, có lẽ, kéo chiếc lò xo hay cái then chốt. Ngồi bằng đầu gối, tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản thân, đè lên đòn bẩy. Chúng tôi nghe thấy thanh dài dữ dội, có phần kêu to hơn lúc trước. đứng thẳng người lên, tôi trông thấy trong tay phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ lạ, xấu xí. mở khoá, kéo cò bấm và đặt vật gì vào bên trong xong cài chốt lại. quỳ xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ, bộ râu dài của chấm sát tận nòng, cặp mắt long lanh dữ tợn. đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái: tấm bia đứng trước mặt - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi nền sáng. lưỡng lự lát sau đó đặt tay lên cò súng, tiếng "vù" là lạ phát ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.
      Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như con hổ, chộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật ta úp mặt xuống sàn. Nhưng giây sau, kẻ bị quật ngã đứng dậy được, với sức mạnh ngờ tóm lấy cổ Holmes. Tức , tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu kẻ hành hung, ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi. Ngoài đường tốp người chạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ, cùng vị thám tử, từ cổng chính bước vào phòng.
      - Có phải Lestrade đó ? - Holmes hỏi.
      - Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình giải quyết việc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở London.
      - giúp đỡ mọn, đáng kể của chúng tôi chắc cản trở các ngài? Trong năm có ba vụ án mạng được phát , cũng hơi nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng câu chuyện bí mật ở Molesey, ngài tiến hành đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải quyết vụ ấy đến nỗi tồi.
      Chúng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng. đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade châm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các vị cảnh sát bật công tắc đèn pin bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.
      có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng trán như triết gia, cái cằm như của người thích những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó, chứng tỏ con người cũng có khả năng làm những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc. Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm cái nhìn trâng tráo, chiếc mũi quặp ác thú và những nếp hằn sâu trán tự tố cáo lên bản chất của , những dấu hiệu báo trước cho xã hội biết những dã tâm nguy hiểm. thèm nhìn lên bất cứ người nào trong số chúng tôi. Cái nhìn của như cắm chặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, nhìn với kinh ngạc và hằn học.
      - Con quỷ! - lẩm bẩm. - con quỷ ranh ma, xảo quyệt!
      - Đại tá, - Holmes , và sửa lại cổ áo bị nhàu, - Những người bạn chí cốt lại gặp nhau, như lời người xưa thường . Tôi chưa có dịp gặp lại ngài sau lần ngài theo dõi tôi cách trắng trợn. Ngài hẳn còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước Reichenbach.
      Ngài đại tá có lẽ bị thôi miên, thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.
      - Con quỷ, con quỷ có ! - cứ lặp , lặp lại câu đó.
      - Tôi chưa kịp giới thiệu cho các vị - Holmes lên tiếng. - Các vị biết , đây là ngài đại tá Sebastian Moran, cựu sĩ quan trong đội quân của hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là thợ săn thú dữ tài ba, có thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ, tôi nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, nay ngài giữ kỷ lục phải ?
      Tên tù binh vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn nộ, tiếp tục nín thinh. Chính cũng giống con hổ rồi, cặp mắt của long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.
      - Tôi rất ngạc nhiên vì đánh lừa quá ư đơn giản đưa thợ săn dày dạn kinh nghiệm vào tròng, - Holmes tiếp tục, - Đối với ngài điều này đâu còn là mới mẻ. Chẳng lẽ, chưa bao giờ ngài buộc con dê dưới gốc cây, còn ngài leo lên cây rậm rạp với khẩu súng săn hoặc carbine trong tay, để chờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng, đôi khi ngài cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp, cùng lúc có nhiều con hổ xuất , hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn trượt chứ. Mấy vị này, - và chỉ vào chúng tôi, - là những phát súng dự phòng của tôi. so sánh của tôi chính xác đấy chứ?
      Bất thình lình, đại tá Moran tức tối chồm lên phía trước, nhưng hai người cảnh sát kịp giữ lại. Bộ mặt của thể nỗi hằn học, nhìn vào đó chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghiếc.
      - Thú , ngài mang đến cho tôi món quà nho , - Holmes tiếp tục công kích. - Tôi ngờ, chính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có bạn Lestrade của tôi cùng những thủ hạ của ta đợi chờ ngài sẵn. Trừ chi tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng như tôi dự định.
      Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.
      - kể những cái ấy, ngài có đủ chứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài có đủ cơ sở? - ta , - Tôi thể nào chịu đựng nổi những lời lẽ nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp, cứ để pháp luật giải quyết.
      - Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận xét. - Trước khi chúng tôi ra về, ngài còn muốn điều gì nữa , thưa ngài Holmes.
      Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ cấu của khẩu súng.
      - Khẩu súng có hai này mới tuyệt làm sao - thốt lên. - Bắn nghe tiếng kêu, nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết nhà cơ khí người Đức, tên là Von Herder. Ông ta thiết kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư Moriarty. Từ lâu tôi nghe tiếng tăm khẩu súng, nhưng chưa bao giờ có vinh dự được cầm nó tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cách nạp đạn cho nó nữa, thưa ngài Lestrade.
      - Ngài phải bận tâm, thưa ngài Holmes, chúng ta còn dịp quay lại vấn đề này. - Khi tất cả mọi người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là tất cả những gì ngài muốn ?
      - Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?
      - Còn tội gì nữa, thưa ngài? Chẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.
      - Ôi! phải như vậy đâu! Tôi muốn dính líu vào vụ này. Chỉ có ngài mới được lãnh trọng trách làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài tốn công sức đề tiến hành. Xin chúc mừng ngài Lestrade! Với kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài bắt được kẻ kia.
      - Người kia là ai vậy? ta là ai, thưa ngài Holmes.
      - Người mà, cả ngành cảnh sát hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30 tháng trước bắn chết ngài Ronald Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park Lane. Chúng ta cần lời buộc tội như vậy... Còn bây giờ, Watson, nếu cậu sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính, chúng ta cùng nhau ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ hy vọng làm cho cậu khuây khỏa phần nào.
      * * *
      quan tâm thường xuyên của Mycroft Holmes và chăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của chúng tôi vẫn như xưa, hề có gì thay đổi. Thú , khi bước vào, tôi lấy làm ngạc nhiên vì tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị trí cũ. Ở góc dành riêng cho những thí nghiệm hóa học, chiếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn những vết ố do acide mạnh. giá những chồng sách tra cứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi chỉ muốn ném hết những thứ chết tiệt kia vào lửa cho rảnh! Khi tôi nhìn hết lượt, những bản biểu đồ, hộp đựng đàn violone, chiếc hộp Ba tư đựng thuốc lá lại lên trước mắt tôi. Hai người có mặt trong phòng. là bà Hudson chạy vồn vã đón mừng chúng tôi với nụ cười lấp láy môi. Người thứ hai, người mặc đồ màu cũ kĩ, đóng vai rất quan trọng trong những kiện đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, được tô màu, được tạc khéo léo do bàn tay điêu luyện nhào nặn, trông giống như . Bức tượng được đặt chiếc ghế đẩu cao, được khoác chiếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes trông khéo, từ ngoài đường nhìn vào khó ai tưởng đó là tượng.
      - Bà thực tất cả chỉ dẫn của tôi cách tuyệt vời. - Holmes .
      - Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài chỉ bảo thưa ngài.
      - Tốt, bà làm việc đó thể chê vào đâu được Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu ?
      - Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài. Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.
      Holmes chìa cho tôi xem đầu đạn.
      - Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem. là cự phách! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cảm ơn bà vì giúp đỡ... Còn bây giờ, Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tớ muốn tâm với cậu đôi điều.
      cởi chiếc áo khoác ra, rồi lấy chiếc áo choàng bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất Sherlock Holmes ngày xưa.
      - Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh. - và cười, vừa nhìn cái sọ của bức tượng bằng sáp bị bắn thủng. - Bắn trúng chính giữa gáy và làm chảy não. Đúng là tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở London này địch thủ của phải là nhiều. Trước kia cậu có bao giờ nghe tên hay chưa?
      - , tớ chưa từng nghe.
      - Ừ nhỉ, thế mà tớ quên! Cách đây lâu, cậu thú nhận, thậm chí cậu còn chưa nghe đến tên giáo sư James Moriarty, đó là bộ óc của thế kỷ chúng ta. May quá, cậu lấy giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiểu sử...
      Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong chiếc ghế bành và khoan khoái thở ra từng đụn khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.
      - Vần chữ "M", tớ có bộ sưu tầm khá hoàn chỉnh, - . - Chỉ cái tên Moriarty, cũng đủ làm cho vần "M" trở nên nổi tiếng. Còn cái tên Morgan là tên ghê tởm. Tên Merridew, có trí nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - chính là tên làm gẫy chiếc răng nanh bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga Charing Cross. Còn đây là bạn của chúng mình ngày hôm nay.
      đưa cho tôi tập tài liệu, tôi đọc:
      "Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn biệt kích số ở Bangalore. Sinh năm 1840 tại London. Con trai của ngài Augutus Moran người - được thưởng huân chương Banhi, từng công tác tại dinh toàn quyền tại Persia. Tốt nghiệp trường trung học Eton và đại học tổng hợp Oxford. Từng tham gia các chiến dịch Jowaki, Afghan, Charasiab, Sherpur, Cabul. Là tác giả của các cuốn sách "Cuộc săn mãnh thú ở miền Tây Himalayas" (1881); và "Ba tháng sống trong rừng nhiệt đới" (1884). Địa chỉ Phố Conduit. Tham gia các câu lạc bộ: - Ấn, Tankerville, câu lạc bộ chơi bài Bagatelle".
      Ngoài lề được ghi bằng nét chữ của Holmes:
      " tên nguy hiểm nhất của London, đứng sau Moriarty".
      - kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp tài liệu. - Dường như cuộc đời của là bước đường của người lính trung thành.
      - Cậu đúng. - Holmes đáp. - Trước kia hề làm việc gì xấu xa. là con người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền huyền thoại kể rằng: ta bò trong lòng con sông cạn, cứu thoát người khỏi những móng vuốt của con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển bình thường, rồi đến độ cao xác định nào đó, bỗng nhiên phát trong quá trình phát triển của mình biến đổi kỳ quặc so với mức bình thường. Đối với con người cũng xẩy ra điều tương tự. Theo thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển, đều lặp lại lịch sử phát triển của tất cả tổ tiên. Tớ cho rằng, mỗi biến động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của người, cần phải lục xem trong gia phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của con người, đó như là mẩu trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn bộ gia đình.
      - Thôi được, nhưng tớ thấy cái, thuyết lý của cậu hơi viển vông.
      - Tớ chấm dứt câu chuyện. Có những nguyên nhân này, hoặc nguyên nhân khác, đẩy đại tá Moran theo con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có kẻ đê tiện dựng lên câu chuyện nào đó gây căng thẳng cho ông ta, nhằm chống ông ta cách kịch liệt, đến nỗi ông ta thể nào ở lại được nữa. Ông ta xin về hưu, trở lại đất London, và tại đây ông ta bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty phát ra ông ta, trong thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty. Thằng giáo sư này cung cấp tiền nong cho ngài đại tá tiêu xài cách phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới giúp đỡ của . Chỉ trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình thường thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ cái chết kỳ quặc của bà Stewart ở Lauder năm 1887? nhớ à? Tớ chắc chắn chuyện này thể có tay Moran nhúng vào, mặc dù có chứng cớ để buộc tội ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu mình cách tài tình. Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, chỉ riêng làm sao lôi cổ ra tòa được.
      Watson, cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến chỗ cậu, tớ phải kéo rèm cẩn thận ? Tớ sợ phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu cho tớ là kỳ quặc, nhưng tớ biết mình cần phải làm gì. Tớ nghe về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ biết khẩu súng nằm trong tay nhà thiện xạ. Khi tớ với cậu sang Thụy Điển, Moran và Moriarty đuổi theo chúng ta, và chính làm cho tớ bàng hoàng trong mấy phút ở khe lở của thác Reichenbach.
      Cậu biết , khi còn ở bên Pháp tớ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức báo chí , tớ hy vọng tìm ra đầu mối nào đó để bắt ta phải ngồi vào lồng sắt. Khi còn nhởn nhơ dạo chơi đất London tớ chưa thể tính chuyện về được. Cả ngày lẫn đêm, mối đe dọa kia cứ ám ảnh tớ, dứt khoát tìm mọi cách để giết tớ. Tớ phải làm gì? Chẳng lẽ gặp trực tiếp và bắn chết ? Tớ thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, chính tớ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? ích lợi gì, vì tòa đủ chứng cớ để xét xử, chẳng lẽ xử bằng những vấn đề nghi vấn? Tớ bất lực hoàn toàn, có cách nào để giải thoát được. Tớ trải qua quá trình kiên trì mệt mỏi theo dõi bằng tin tức các vụ án, bởi tớ tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ cũng phanh phui ra .
      Vụ ám sát đầy bí chàng Ronald Adair dẫn đến chín muồi của những ngày kiên trì mong đợi, giờ khởi hành đến. biết tớ có dám khẳng định Moran bắn chết chàng Ronald hay ? ta cùng chơi bài với chàng thanh niên, và bám gót ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn chết chàng trai quá cửa sổ mở. Đúng, còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ đầu đạn, cũng đủ chứng cớ để ngài đại tá Moran chui vào giá treo cổ. Ngay lập tức tớ quay về London. Tên cận vệ của Moran phát ra tớ, kịp thời thông báo cho Moran. Thằng này thế nào cũng biết mối liên hệ giữa vụ án mạng và quay về của tớ, lo lắng mất ăn mất ngủ. Tớ tin, khử tớ ngay lập tức, chậm trễ. Chắc chắn dùng thứ vũ khí giết người độc đáo - khẩu súng hơi. Tớ phải chuẩn bị đón , thế là bức tượng bằng sáp được ra đời chê vào đâu được. Tớ báo trước cho bên cảnh sát, để họ giúp tay (với con mắt tinh ranh cậu phát ra hai viên cảnh sát thấp thoáng chỗ cổng ra vào). Tớ chọn địa điểm rất thuận tiện cho việc quan sát, nhưng thú tớ ngờ đối thủ của tớ cũng chọn đúng vị trì ấy để tấn công. Tất cả chỉ có thế, Watson. Chắc cậu hiểu mọi chuyện.
      - Chưa hết, - Tôi . - Cậu chưa giải thích cho tớ chuyện vì sao ngài đại tá Moran lại bắt buộc phải thủ tiêu chàng Adair ?
      - bạn của tôi ơi, chúng ta lại rơi vào lĩnh vực đoán mò rồi, trong lĩnh vực này chỉ có logic quả là quá ít ỏi. Mỗi người có thể xây dựng riêng cho mình giả thuyết, dựa cơ sở những dữ kiện tồn tại. Giả thuyết của cậu cũng có khả năng trùng với giả thuyết của tớ.
      - Có nghĩa là, cậu nghĩ ra giả thuyết?
      - Theo tớ nghĩ, giải thích những dữ kiện khó. Qua điều tra, người ta xác lập là trước lúc xảy ra vụ án lâu, đại tá Moran và chàng Adair cùng ở hội chơi bài và ăn được món tiền khá lớn. Nhưng Moran chơi trung thực. Từ lâu, tớ được biết tay cờ bạc gian lận. Có lẽ, trong ngày xảy ra vụ án, Adair cảnh cáo Moran vì những trò gian lận. chàng Adair giáp mặt với đại tá, chắc có dọa tố cáo , nếu như tự nguyện rời bỏ câu lạc bộ và từ nay về sau được chơi cái trò ma ma cậu nữa. chàng trai miệng còn hơi sữa như Adair , lại dám công khai dọa tố cáo buộc tội con người đáng tuổi cha chú của ta, hơn nữa chiếm địa vị sang trọng trong xã hội! Có lẽ, đúng hơn, ta riêng với Moran, có người làm chứng. Nhưng với Moran, con người chuyên sống bằng bạc bịp, nếu bị khai trừ ra khỏi câu lạc, bộ khác nào bị cắt đường sinh sống? Đó là nguyên nhân

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      3. Nhà thầu khoáng ở Norwood

      Holmes trở về London từ nhiều tháng qua. Theo lời vêu cầu của Holmes, tôi về ở chung với trong căn phòng cũ. bác sĩ trẻ, tên là Vemer hứa sang lại căn nhà bé của tôi với cái giá cao nhất mà tôi đánh bạo đưa ra. Sau này tôi mới biết Vemer là người bà con với Holmes và chính Holmes bỏ tiền ra. Sáng nay, Holmes ngồi lọt thỏm trong cái ghế bành và hờ hững mở rộng tờ báo. Nhưng ngay sau đó cú giật chuông hung tợn vang lên, tiếp theo là người đập mạnh vào cánh cửa bằng nắm đấm. Cánh cửa vừa được mở ra, vang lên những bước chân hối hả. Holmes đặt tờ báo xuống, trong phòng khách chợt xuất thanh niên xanh mét, cặp mắt ngơ ngác, đầu tóc bù xù thở hổn hển. ta lần lượt nhìn chúng tôi.
      - Tôi xin quý ông thứ lỗi. Xin đừng hiểu lầm tôi: Tôi gần như bị điên. Thưa ông Holmes, chính tôi đây? Con người bất hạnh John Hector McFarlane là tôi.
      - Hãy hút điếu thuốc lá ông McFarlane! - Holmes , tay chìa ra hộp thuốc. - Tôi tin chắc rằng trước những triệu chứng như vậy bác sĩ Watson đây, sẵn lòng cho ông uống liều thuốc. Tiết trời mấy bữa nay là nóng nực. Giờ đây, nếu ông cảm thấy được bình tĩnh hơn, tôi sung sướng khi thấy ông ngồi xuống và cho chúng tôi biết ông là ai và ông muốn gì. Ông báo cho tôi danh tính ông tựa hồ như tôi phải biết đến nó, nhưng tôi bảo đảm với ông rằng ông còn độc thân, ông là luật gia, hội viên hội Tam điểm và mắc bệnh hen suyễn, ngoài ra tôi biết gì hơn về ông.
      - Vâng, tôi là tất cả những thứ đó, thưa ông Holmes, và hơn thế nữa, vào lúc này đây, tôi là người bất hạnh nhất ở London. Ông Holmes ơi, xin ông hãy cứu tôi. Nếu cảnh sát ập đến bắt tôi trước khi tôi kịp kể xong câu chuyện vui lòng xin với cảnh sát hãy để cho tôi có đủ giờ với ông tất cả . Tôi yên tâm vào tù, nếu tôi biết là ông giúp tôi ở bên ngoài.
      - Chuyện cảm động đấy… và lý thú nữa! Vì sao ông sắp bị bắt?
      - Về tội ám sát ông Jonas Oldacre ở Hạ Norwood.
      Người khách vươn bàn tay run rẩy tới tờ Daily Telegraph còn để đầu gối Holmes.
      - Nếu ông đọc, hẳn ông đoán vì sao tôi đến đây. nay tôi là đầu đề để mọi người bàn tán. - ta chỉ cho chúng tôi trang giữa của tờ báo. - Ðây này. Ðược ông cho phép, tôi đọc cho ông nghe: Ðây là những hàng tít: Vụ án ở Norwood. nhà thầu khoán nổi danh bị mất tích. vụ ám sát? vụ hỏa hoạn do ác tâm? Kẻ sát nhân bị truy lùng. Họ theo tôi! Tôi sắp bị bắt. Mẹ tôi tan nát cõi lòng. Bà chết vì buồn tủi. - ta vặn hai bàn tay trong cơn tuyệt vọng.
      Người bị kết tội vì sử dụng bạo lực đó, có thân hình cân đối, tinh thần kiệt quệ, đôi mắt đầy vẻ sợ hãi, râu, 27 tuổi, ăn mặc đứng đắn và ăn như người có giáo dục.
      - Watson, vui lòng đọc bài cho tôi nghe - Holmes .
      - “Trong đêm qua, tại vùng Hạ Norwood xảy ra tội ác nghiêm trọng. Ông Jonas Oldacre, độc thân, 52 tuổi, ngụ tại Deep Den House, thường bị người chung quanh xem là người kỳ quặc, bí cởi mở; mắc nạn. Ông là nhà thầu khoán giải nghệ sau khi tạo được gia sản kha khá. Ở phía sau ngôi nhà ông có khoảng đất trong chất đầy gỗ xây dựng. Lúc 12 giờ đêm qua, người ta báo động cháy. Lính cứu hỏa kéo tới, nhưng gỗ quá khô, bốc cháy dữ dội, người ta sao dập tắt được ngọn lửa, mãi cho tới khi cả đống gỗ biến thành tro. Người ta tìm thấy trong căn phòng cạnh đám cháy chiếc giường có người ngủ, cái két trong phòng bị mở, nhiều giấy tờ vương vãi sàn nhà. cảnh sát cũng phát có dấu vết vật lộn và nhiều vết máu còn thấy trong phòng, và cây gậy bằng gỗ sồi cũng bị vấy máu. Nhân chứng cho biết tối hôm đó, ông Oldacre tiếp ông John Hector McFarlane, cố vấn pháp luật trẻ từ London đến, người hùn vốn của văn phòng pháp luật Graham & McFarlane, ở số 426 Gresham Buildings. E.C.; ở trong phòng. Cây gậy là của người khách. Cảnh sát nắm được chứng cứ của tội ác. Dù sao nữa cần phải chờ đợi những triển khai tiếp”.
      Tin giờ chót:
      “Vào lúc báo lên khuôn, chúng tôi được tin cảnh sát phát lệnh tạm giam ông John Hector McFarlane, bị tình nghi sát hại ông Jonas Oldacre. Cuộc điều tra ở Norwood làm sáng tỏ thêm số điều đặc biệt. những sảnh sát tìm thấy dấu vết của cuộc vật lộn đẫm máu trong căn phòng của nhà thầu khoán; mà giờ đây người ta còn biết là cánh cửa sổ của gian phòng đó đặt ở tầng , bị mở ra, có nhiều dấu vết cho thấy vật to lớn bị lôi kéo tới đống gỗ, và sau cùng người ta đoán chắc rằng những mẩu vụn của thân người bị đốt cháy được nhận ra giữa đống tro tàn. Cảnh sát tin rằng nạn nhân bị đánh chết trong phòng, những giấy tờ của ông bị đánh cắp, và thi hài ông bị lôi tới đống gỗ rồi kẻ gây án châm lửa đốt. Cuộc điều tra được ủy thác cho thanh tra Lestrade, thuộc Scotland Yard, người rất có năng lực”.
      Sherlock Holmes lắng nghe tôi đọc, hai mắt nhắm nghiền, những ngón tay chắp lại.
      - Vụ án đưa ra vài chi tiết lý thú. Trước hết, thưa ông McFarlane, làm thế nào ông còn được tự do, bởi vì những dáng vẻ bên ngoài dường như cho thấy ông là người có tội.
      - Tôi ở Torrington Lodge, Blackheath, cùng với cha mẹ tôi. Tối hôm qua, vì cần làm việc muộn với ông Jonas Oldacre, tôi nghỉ đêm tại khách sạn ở Norwood, và từ đó tôi thẳng tới văn phòng. Tôi hề hay biết về vụ này, lúc lên xe lửa, lấy báo ra đọc tôi hết sức kinh hoàng và chỉ còn có mỗi ý định: Ðặt sinh mạng tôi vào tay ông. người theo dõi tôi từ nhà ga London Bridge và chắc chắn là… Ồ! Ai vậy kìa?
      Có người giật chuông và những bước chân nặng nề ngay sau đó leo lên cầu thang. Ông bạn Lestrade ra ngưỡng cửa. Phía bờ vai ông, nhô lên vài cảnh sát mặc cảnh phục.
      - Phải ông John Hector McFarlane đây ? - Lestrade hỏi.
      Thân chủ của chúng tôi đứng lên, tái mét.
      - Tôi bắt giữ ông về tội ám sát ông Jonas Oldacre ở Norwood.
      McFarlane quay về chúng tôi với gương mặt tuyệt vọng, đoạn ta lại ngã ngồi xuống.
      - Xin hãy chậm chậm chút, ông Lestrade. - Holmes - Chúng tôi gặp nhau chưa được nửa tiếng đồng hồ và ông này sắp kể cho chúng tôi nghe câu chuyện có thể giúp chúng ta nhìn thấy .
      - Tất cả đều quá ! - Lestrade với giọng buồn bã.
      - Tuy nhiên, nếu được ông cho phép, tôi quan tâm đến câu chuyện kể của ta.
      - Thưa ông Holmes, tôi khó lòng từ chối ông điều gì. Nhưng tôi phải ở đây, bên cạnh phạm nhân. - Lestrade nhìn đồng hồ - Ông có nửa tiếng để .
      - Trước hết, tôi xin ngay rằng tôi biết gì về ông Jonas Oldacre, ngoại trừ tên ông ta, cha mẹ tôi có quen biết ông ấy, nhưng từ lâu, hai cụ còn gặp ông ấy nữa. Vì vậy nên tôi rất ngạc nhiên khi vào khoảng ba giờ chiều ngày hôm qua, ông ấy đến văn phòng tôi trong thành phố. Ông nắm trong tay nhiều tờ giấy gỡ từ cuốn sổ, viết nguệch ngoạc. Mấy thứ giấy đó đây, quý ông có thể xem .
      McFarlane đặt những thứ đó lên bàn tôi, rồi tiếp:
      - “Ðây là bản... chúc thư của tôi?”, ông Jonas , “Thưa ông McFarlane, tôi muốn soạn thảo nó theo thể bản thảo nháp do luật định. Tôi ngồi ở đây trong lúc ông làm”.
      Tôi liền bắt tay vào công việc. Nhưng tôi kinh ngạc biết bao khi thấy ông ta làm chúc thư để tặng tài sản cho tôi.
      Ông Jonas Oldacre là người bé, có cặp lông mày bạc. Mỗi lần tôi nước mắt lên nhìn về phía ông, tôi lại bắt gặp tia mắt ông chăm chú nhìn tôi với dáng vẻ vui thích. Tôi khó mà tin vào những giác quan của mình khi đọc những điều khoản của bản húc thư. Nhưng ông giải thích với tôi là ông lấy vợ, rằng ông còn ai thân thích trong gia đình, rằng ngày xưa ông quen biết cha mẹ tôi, rằng ông luôn luôn nghe về tôi như thanh niên rất đáng khen, và rằng ít ra tiền bạc của ông vào những bàn tay thành thạo. Hiển nhiên là tôi chỉ có ấp úng những lời cảm tạ.
      Bản di chúc soạn xong, được ký tên và người thư ký của tôi đứng ra làm chứng. Sau đó ông Jonas Oldacre báo cho tôi biết là ông có nhiều hợp đồng cho thuê nhà đất, những chứng thư cấu thành tài sản, những quyển cầm đồ thế nợ, những phiếu cổ phần… và ông muốn giải thích eho tôi về những giấy tờ đó. Ông bảo là ông được an tâm trước khi ông việc được giải quyết xong và cầu tôi về nhà ông ngay trong tối hôm đó, đem bản di chúc và sắp đặt tất cả cho có ngăn nắp.
      “Nhưng hãy nhớ, con trai của ta! lời nào với ba má con trước khi mọi việc đâu vào đấy! Chúng ta dành cho họ điều ngạc nhiên bé này”, ông nhấn mạnh nhiều tới điều đó và ông buộc tôi phải hứa lời danh dự.
      Tôi gửi bức điện về nhà để báo tin rằng có việc quan trọng biết chừng nào mới xong. Ông Oldacre muốn ăn tối với tôi vào lúc 9 giờ. Tôi gặp vài khó khăn mới tìm ra nhà ông và tôi tới nơi khoảng 9 giờ rưỡi. Tôi gặp ông…
      - Xin lỗi! - Holmes ngắt lời - Ai mở cửa cho ông vào?
      - bà trung niên, chắc là người quản gia.
      - Và cũng chính bà ta báo tin ông đến, tôi đoán chừng như vậy
      - Quả đúng thế!
      - Xin ông vui lòng kể tiếp.
      McFarlane lau vầng trán xâm xấp mồ hôi.
      -… Tôi được đưa vào phòng khách; nơi đó bữa ăn được dọn sẵn. Ăn xong, ông Jonas Oldacre đưa tôi sang phòng ông, trong đó có két sắt lớn. Ông mở két, lấy ra mớ những giấy tờ và chúng tôi cùng nhau xem xét. Khi xem xong nửa đêm, ông bảo tôi khỏi cần làm phiền người hầu và ông đưa tôi ra, qua đường cửa sổ luôn luôn mở rộng trong suốt thời gian đó.
      - Bức mành có được hạ xuống ? - Holmes hỏi.
      - Nó được hạ xuống lưng chừng, ông ấy kéo mành lên để có thể mở cửa sổ ra. Tôi thấy cây gậy; ông bảo tôi: “Đừng quá lo ngại, con ạ; giờ đây rồi chúng ta gặp nhau luôn. Ta giữ cây gậy của con cho tới khi con tới lấy lại”. Lúc đó quá muộn nên tôi trở về Blackheah được và phải trọ qua đêm ở khách sạn. Tôi còn biết điều gì hơn nữa, ngoài cái tin đăng trong tờ báo này.
      - Ông có cần đặt câu hỏi nào , thưa ông Holmes? - Lestrade hỏi, cặp lông mày nhướn lên hai, ba lần.
      - trước khi tôi tới Blackheath.
      - Chắc ông muốn tới Norwood? - Lestrade chữa lại câu .
      - Ồ phải! Chắc chắn đó là Norwood mà tôi muốn . - Holmes với nụ cười bí .
      Lestrade có hơn lần quan sát Holmes với dáng tò mò.
      - Tôi rất muốn với ông lời, thưa ông Holmes! Này ông McFarlane, chiếc xe ngựa chờ ông ở dưới đường.
      Người thanh niên đứng lên và sau tia nhìn cầu khẩn, rời khỏi phòng. Cảnh sát dẫn ta xuống xe, nhưng Lestrade ở lại với chúng tôi. Holmes cầm lấy xấp giấy hợp thành bản nháp của bản di chúc và quan sát chúng quan tâm thấy .
      - Tài liệu kỳ lạ, phải thế , Lestrade? - ta , tay đặt tập giấy xuống.
      Tới lượt Lestrade xem các giấy tờ, ông rất ngạc nhiên.
      - Tôi chỉ có thể đọc được những dòng đầu, những dòng ở đoạn giữa và hoặc hai dòng ở đoạn cuối: chúng như là chữ in. Trong các chỗ khác, chữ viết xấu và đây là đoạn mà tôi chẳng hiểu tí gì.
      - nghĩ sao về điều đó? - Holmes hỏi. - ...
      - Thế còn ông, ông nghĩ sao?
      - Tài liệu này được viết ra chiếc xe lửa. Nét chữ dễ đọc viết tại nhà ga, chữ xấu các đoạn đường giữa những nhà ga, và các chữ đọc được viết khi tàu chạy những chỗ bẻ ghi. Những tờ giấy này được viết đường tàu ngoại ô, bởi vì nó có chuỗi liên tục những chỗ bẻ ghi. Cứ giả thiết rằng suốt chuyến đó được dành cho việc soạn thảo tờ di chúc, đây là chuyến tàu tốc hành và nó chỉ đừng lại có lần giữa Norwood và London Bridge.
      - Ông quá giỏi, thưa ông Holmes!
      - Bản chúc thư được viết bởi Jonas Oldacre ngày hôm qua, trong lúc đường. là kỳ lạ! Tại sao ông ấy viết chứng từ quan trọng cách vội vã như vậy?
      - Nhưng làm như thế, là có khác nào viết ra bản án tử hình cho chính mình? - Lestrade .
      - Ồ, ông tin vậy sao?
      - Ông tin à?
      - Tôi thấy vụ việc còn chưa được sáng tỏ.
      - Nếu vụ này mà chưa sáng tỏ vụ nào mới sáng tỏ, đây là thanh niên bất thình lình được biết rằng nếu ông già đó chết ta được hưởng gia tài. ta làm gì đây? ta với ai biết, nhưng thu xếp để có thể gặp ông già ngay buổi tối hôm đó. ta chờ cho bà già kia ngủ, rồi ra tay giết ông già, đem thiêu xác, sau đó tới khách sạn gần đó để nghỉ trọ. Những vết máu trong phòng và cây gậy đều rất mờ. Rất có thể là ta thấy những vết máu đó, và ta yên chí rằng mình để lại dấu vết nào.
      - Nếu ông đặt mình vào cương vị của chàng trai đó, liệu ông có tính ra tay ngay vào cái buổi tối đó hay . Cái buổi tối mà bản chúc thư vừa được ký. Hơn nữa liệu ông có chọn cái ngày mà có người hầu đưa ông vào nhà và báo với chủ? Sau chót liệu ông có chuẩn bị tất cả mọi dự phòng khả dĩ che dấu được cái tử thi đó ? ra ông có chịu để cái can của mình ở tại đó ? Coi nào, Lestrade, hãy thú nhận rằng điều đó khó xảy ra.
      - Về cái can, thưa ông Holmes. Ông biết rằng can phạm thường luôn luôn mắc phải những điều bất cẩn mà người bình tâm làm. Chắc chắn y sợ hãi và dám trở lại trong phòng. Xin ông hãy đề nghị với tôi giả thiết khác, khớp với việc hơn.
      - Tôi có thể cung cấp cho ông hàng nửa tá, - Holmes trả lời - Chẳng hạn như đây là : ông già đưa ra những giấy tờ có giá trị. kẻ đầu đường xó chợ ngang qua đó ngó qua cửa sổ lúc bức màn chỉ buông xuống nửa vời, thấy mớ giấy tờ. Lúc McFarlane ra về gã đầu đường xó chợ lẻn vào, chụp lấy cái can và giết ông già Oldacre, đem cái xác đốt, rồi đào tẩu.
      - Tại sao gã đầu đường xó chợ đem đốt cái xác? - Lestrade hỏi.
      - Ðể chôn vùi chứng cớ - Holmes đáp - Rất có thể là kẻ đầu đường xó chợ muốn che giấu vụ trả thù mà y là thủ phạm.
      - Thế tại sao lại lấy cái gì?
      - Bởi vì đó là những giấy tờ mà y thể hưởng lợi được.
      Lestrade lắc đầu, nhưng với sức mãnh liệt được dằn xuống.
      - Vậy , thưa ông Sherlock Holmes, ông hãy tìm gã đầu đường xó chợ của ông. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi tạm giam người của chúng tôi. Tương lai cho biết ai là người có lý. Ông chỉ cần thận trọng điểm này, thưa ông Holmes: giấy tờ nào bị mất, còn người bị cầm tù là người được sở hữu những giấy tờ đó.
      Holmes ngạc nhiên, :
      - Ðúng như lời ông , tương lai trả lời dứt khoát. Xin tạm biệt, Lestrade. Trong ngày hôm nay, tôi ghé Norwood để xem ông tiến tới đâu.
      Sau khi viên thám tử ra về, Holmes đứng lên và chuẩn bị với tâm trạng vui vẻ công việc sắp làm trong ngày.
      - Watson, tôi tới Blackheath.
      - Tại sao tới Norwood?
      - Tối nay cho biết điều gì đó có lợi cho chàng trai.
      Lúc trở về khuya, vẻ mặt đầy âu lo và mệt mỏi. Trong tiếng đồng hồ, bấm phím cây vĩ cầm để xoa dịu nỗi buồn phiền của mình. Sau chót, đặt cây đàn xuống và thuật cho tôi những rủi ro của .
      - Tôi giữ thái độ vững vàng trước mặt Lestrade nhưng tận trong đáy lòng tôi lại tin rằng lần này ta theo đúng hướng còn chúng ta lạc hướng.
      - Blackheath ?
      - Có! Người cha tìm con. Bà mẹ ở nhà. Bà có cặp mắt xanh, run lên vì sợ hãi và phẫn nộ. Bà ta nhất quyết cho rằng con bà phải là thủ phạm. Nhưng bà hề xót thương lão Oldacre. Trái lại, bà về lão với nỗi cay đắng khiến cho vô tình bà lại củng cố cho lập luận của cảnh sát.
      “Lão ta giống con khỉ hung ác và lắm mưu mẹo. Ngay lúc còn ấu thơ, lão độc ác như loài thú dữ”.
      “Vậy là bà biết ông ấy từ thuở ”, tôi hỏi
      “Phải, tôi biết rất ! Ðó là gã si tình, đeo đuổi tôi. Tôi đính hôn với y, nhưng khi tôi biết y thả con mèo vào trong chuồng chim, tôi liền hủy bỏ hôn ước”.
      Bà ta lục tìm trong ngăn tủ và đưa tôi xem tấm hình chụp người đàn bà, bị bôi lem luốc và bị khía rách bằng lưỡi dao nhíp.
      “Ðây là ảnh tôi. Buổi sáng ngày cử hành hôn lễ của tôi, y gởi tấm hình này cho tôi cùng với những lời nguyền rủa đồi bại”.
      “Vậy ít ra ông ta cũng tha thứ cho bà, bởi vì ông để lại gia tài cho con bà?”
      “Con tôi cũng như tôi, chúng tôi thèm nhận chút nào của Jonas Oldacre, dù còn sống hay chết! Chính thượng đế trừng phạt ! Con trai tôi vô tội!”.
      Sau đó tôi thử khơi mào hai hoặc ba ý nghĩ, nhưng chẳng rút ra được điều gì nên tôi tới ngôi nhà xảy ra tội ác.
      Deep Dene House là biệt thự lớn, kiểu mới, xây bằng gạch đứng sừng sững thửa đất, phía trước nhà trải dài bãi cỏ với những cây nguyệt quế. Về phía tay mặt và cách xa đường quãng có cái sân chứa gỗ xây dựng, là nơi phát hỏa. Tôi vẽ bản sơ đồ trường trong cuốn sổ tay. Cánh cửa sổ bên trái này là cửa sổ của phòng ông Oldacre. Từ ngoài đường, người ta có thế nhìn vào trong. Ðó là điều an ủi duy nhất mà tôi đem về Lestrade có đó, nhưng người phụ tá tiếp đón tôi nồng hậu. Cảnh sát vừa thực khám phá lớn.
      Họ dành cả buổi sáng để lục lọi trong đống tro: ngoài những mẫu vụn của xác người bị cháy thành than, họ còn tìm thấy những phiến tròn bằng kim khí phai màu. Tôi quan sát cẩn thận. Thấy đó là những cái cúc quần dài. số những cúc đó có chữ “Hyams”: đó là tên người thợ may quần áo cho Jonas Oldacre.
      Tôi sải bước bãi cỏ để tìm các dấu vết nhưng tiết trời rất khô, đất rắn như sắt. Tất cả những gì tôi có thể thấy là xác chết hoặc kiện hàng cồng kềnh nào đó được kéo ngang qua bờ rìa cây song song với đống gỗ. Việc đó phù hợp với cảnh sát Tôi bò bãi cỏ giữa cái nắng tháng tám. tiếng đồng hồ sau đó, tôi đứng lên, chẳng tiến thêm được chút nào.
      Sau thất bại đó, tôi vào trong phòng và khám nghiệm các trường. Những vết máu rất mờ nhạt nhưng ràng đó là những vết máu tươi. Cây can được để sang bên, đó cũng có những vết máu mỏng. Ðúng là cây can của McFarlane. tấm thảm, tôi lấy được dấu chân của hai người nhưng có dấu chân của người thứ ba nào: thêm điểm nữa cho cảnh sát.
      Tôi quan sát các món cất giữ trong két sắt, rất nhiều giấy tờ được lôi ra và để ở bàn, trong những bao thư có gắn xi niêm phong mà hoặc hai bao được cảnh sát khui ra, tôi thấy chúng đưa ra giá trị lớn lao nào, và tài sản trong ngân hàng của ông Jonas cho thấy ông khá lắm. Nhưng tôi có cảm tưởng là phải tất cả mọi giấy tờ đều nằm ở đó. Các giấy tờ nhận quyền sở hữu là những cái đáng chú ý hơn cả, nhưng tôi tìm ra nó. Nếu chúng ta thấy chúng, chúng ta đánh đổ lý luận của Lestrade, bởi vì có ai đánh cắp giấy xác nhận chủ quyền mà y được thừa kế trong nay mai. còn cách nào khác, tôi thử cầu may với mụ đầy tớ. Bà ta tên là Lexington. Ðó là người bé, tóc hung, cặp mắt ngờ vực và thực thà. Nhưng mụ ngậm miệng như hến. Ðúng, chính mụ đưa chàng McFarlane vào nhà, lúc 9 giờ rưỡi. Mụ ngủ vào lúc 10 giờ rưỡi. Phòng mụ ở đầu nhà phía bên kia và mụ chẳng nghe thấy gì. Ông McFarlane để lại trong gian tiền sảnh cái mũ và cây can của ông. Chính tiếng báo động hỏa hoạn đánh thức mụ dậy. Ông chủ già nua của mụ chắc chắn là bị ám sát. Ông chủ có kẻ thù nào ? Ai mà chẳng có kẻ thù, phải ? Nhưng ông Oldacre rất kín đáo và những mối quan hệ của ông chỉ là những vụ giao tiếp về công việc làm ăn. Bà ta thấy những cái cúc của áo, quần mà ông chủ mặc tối hôm trước. Gỗ rất khô, cháy như bùi nhùi gặp gió. Cũng như những người lính cứu hỏa, mụ ngửi thấy mùi thịt nướng. Mụ biết gì hết về các giấy tờ, cũng như những công việc nặng của ông chủ mụ. Trái lại, đó là bản tường trình hoàn toàn tiêu cực. Ấy thế mà... ấy thế mà...
      siết bàn tay này vào bàn tay kia để tạo thêm sức mạnh cho vững tin mà sắp bày tỏ.
      - Ấy thế mà tôi biết rằng tất cả điều đó là giả dối. Tôi cảm nhận thấy nó trong tận tủy xương tôi. Có cái gì đó còn chưa chịu ló ra và mụ gia nhân biết cái gì đó. Trong mắt mụ, tôi đọc thấy thứ giống như chỉ dấu của lương tâm tội lỗi. Tốt hơn là chẳng nên đến chuyện đó nữa, Watson. Nếu may mắn mà tới giúp chúng ta vụ ở Norwood có mặt bản tưởng thưởng những thành công của bọn mình.
      - Cái dáng vẻ bề ngoài lương thiện của “can phạm” há chẳng gây ấn tượng tốt với đoàn bồi thẩm hay sao?
      - Watson, có nhớ cái tên sát nhân Bert Stevens, kẻ muốn chúng ta cứu thoát vào năm 1887, . có thấy người nào có những cử chỉ dịu hiền, kẻ nào giống như những đứa con gương mẫu trong gia đình lương thiện hơn chăng?
      - Ðúng thế!
      - Nếu chúng ta đưa ra được giả thiết nào khác chàng trai đó bị tiêu. Chỉ có chi tiết liên quan đến giấy tờ. Khi nhìn vào tập ngân phiếu tôi nhận thấy là trong năm vừa qua, nạn nhân có chi trả cho ông Cornelius nào đó số tiền rất lớn. Thú là tôi mong muốn được biết ông Cornelius là ai, mà nhà thầu khoán ngừng hành nghề lại có những dịch vụ quan trọng đến thế. Liệu ông ta có giữ vai trò nào trong vụ này chăng? Cornelius có thể là nhà môi giới chứng khoán, nhưng chúng ta lại tìm thấy phiếu cổ phần nào tương ứng với những khoản chi đó. Tôi thiếu những chỉ-dấu khác, giờ đây tôi phải tìm kiếm bên phía ngân hàng về việc gã Cornelius lãnh các chi phiếu đó. Nhưng tôi e sợ rằng, vụ này kết thúc bằng sợi dây thòng lọng mà Lestrade choàng quanh cổ của chủ chúng ta.
      Tôi biết trong đêm đó Holmes có ngủ được hay , nhưng khi tôi gặp lại trong bữa điểm tâm, tôi thấy xanh xao, mệt nhoài, những quầng trĩu nặng quanh mắt, làm cho cặp mắt lộ ra trong sáng hơn. Chung quanh ghế bành ngồi tấm thảm vương đầy những mẫu tàn thuốc và những ấn bản đầu tiên của nhật báo mới phát hành buổi sáng sớm. bức điện tín nằm mặt bàn.
      - nghĩ sao về bức điện này? - Holmes hỏi - Bức điện được gởi từ Norwood: “Chứng cớ quan trọng vừa được tìm thấy. Tội lỗi của McFarlane được xác minh. Khuyên ông nên bỏ việc điều tra. Lestrade”
      - Thế là chuyện trở thành nghiêm trọng rồi đây - Tôi .
      - Ðó là tiếng gáy ò o bé của Lestrade - Holmes trả lời với nụ cười cay đắng - Tuy nhiên, hãy còn quá sớm để mà bỏ cuộc. hãy dùng điểm tâm , rồi chúng ta lên đường.
      Chúng tôi Norwood. đám đông những kẻ hiếu kỳ vây quanh ngôi nhà Deep Den House. Lestrade đón chúng tôi với vẻ mặt rạng rỡ và thái độ thắng cuộc.
      - Thế nào, ông Holmes, ông có đem theo bằng chứng rằng chúng tôi lầm lẫn ? Ông có tìm ra tên đầu đường xó chợ chưa? - ông ta kêu lên.
      - Tôi chưa rút ra được kết luận nào - Holmes đáp.
      - Nhưng ngay ngày hôm qua, chúng tôi kết luận rồi! Chúng tôi! Scotland Yard đây này! Và giờ đây câu kết luận kiểm chứng. Ông phải nhìn nhận rằng lần này chúng tôi hơi nhanh hơn ông chút, thưa ông Holmes?
      - Ông quả có dáng vẻ của người vừa nhận ân sủng của Thượng đế! - Holmes .
      Lestrade buông ra tràng cười ầm ĩ.
      - Ông mong chúng tôi bị thua. Nhưng ai có thể chiến thắng trong tất cả mọi trường hợp, phải thế , bác sĩ? Hai ông hãy lại đây, lại đây để thấy tác giả của tội ác chính là John McFarlane.
      Ông ta dẫn chúng tôi tới gian tiền sảnh sẩm tối.
      - Ðây là nơi mà chàng trai qua để lấy cái mũ, sau khi gây ra tội ác, xin quý ông hãy nhìn cái này.
      Ông bật que diêm và chỉ vào vết máu tường, ông đưa que diêm sát lại gần hơn: lúc đó tôi thấy còn hơn là vết: đó là dấu ngón tay cái in .
      - Ông hãy dùng kính lúp mà quan sát nó thưa ông Holmes.
      - Phải, đó là việc mà tôi làm đây.
      - Ông dư biết là có hai dấu tay giống nhau?
      - Ðúng vậy.
      - Thế ông hãy so sánh cái dấu này với bản sao lại ngón tay cái bàn tay phải của McFarlane được lấy từ dấu vết máu tay để lại. Tôi chẳng cần tới kính lúp cũng nhận ra rằng hai dấu đó y hệt nhau. Thế là quyết định! - Lestrade reo lên.
      - Phải, thế là quyết định! - Tôi lặp lại.
      - Quyết định! - Holmes .
      ngữ điệu nào đó trong giọng của Holmes khiến tôi giỏng tai lên. Tôi quay lại để nhìn Holmes. Mặt còn như trước nữa, nó để lộ niềm vui lớn trong lòng . Cặp mắt sáng như hai ngọn đèn pha. Tôi có cảm tưởng là Holmes phải phấn đấu dữ dội để cố nén tiếng cười ngạo nghễ. Sau chót, thào:
      - Ai mà tin được nhỉ. chàng trai dáng dấp dễ thương đến thế! Đây là bài học để chúng ta đừng tin vào những cảm tưởng ban đầu, phải thế , Lestrade?
      - Phải, tôi biết có những kẻ thường quá tự tin, thưa ông Holmes - Lestrade , hỗn xược của ông ta tăng lên.
      - Chàng trai đó phải ấn ngón tay cái của bàn tay phải vào tường, trước khi gỡ lấy cái mũ móc cái máng áo choàng à? hành động rất tự nhiên… - Bề ngoài Holmes là bình tĩnh, nhưng tất cả thân hình lại vặn vẹo dưới ảnh hưởng của cơn kích thích bị kiềm chế. thêm: - Ông Lestrade, ai phát điều này?
      - Bà Lexington, người báo động cho nhân viên trực gác tối qua.
      - Nhân viên trực gác của ông ở đâu?
      - Trong căn phòng xảy ra tội ác: chúng tôi canh gác để cho ai đụng tới cái gì cả.
      - Nhưng tại sao ngày hôm qua, cảnh sát thấy vết máu này?
      - Có thể ngay rằng, chúng tôi tiến hành cuộc xét nghiệm tỉ mỉ gian tiền sảnh. Vả chăng, nơi đó lại được sáng sủa, phải thế ?
      - hẳn thế. Tôi nghĩ rằng có gì để nghi ngờ, và rằng dấu vết chưa chắc có từ hôm qua.
      Lestrade chăm chú nhìn Holmes, tưởng chừng như ông nghĩ rằng Holmes mất trí. Thú là chính tôi cũng ngạc nhiên bởi cái khía cạnh hơi phi lý trong nhận xét của Holmes.
      - Ông có nghĩ là đêm qua McFarlane ra khỏi xà lim để làm tăng thêm những lời buộc tội vốn đè nặng lên ta ? - Lestrade . - Tôi mời các chuyên gia giám định xem đây có phải là dấu ngón tay của ta ?
      - Ðây đúng là dấu ngón tay của ta.
      - Thế đủ rồi! - Lestrade ngắt lời. - Khi tôi có đủ chứng cứ, tôi tới kết luận. Nếu ông có điều gì muốn , ông gặp tôi trong phòng khách, là nơi tôi sắp viết bản báo cáo.
      - Watson, công việc đường như rất tệ hại, ấy thế mà tôi lại phát ra cái gì đó là kỳ cục. Nó cho mình được thất vọng.
      - Tôi vui khi nghe thế. - Tôi trả lời. - Tôi rất sợ là vụ án được giải quyết xong.
      - , nó chưa được giải quyết đâu. Có nhược điểm nằm ở trong cái bằng chứng mà ông Lestrade đưa ra.
      - Nhược điểm ở chỗ nào?
      - Ở chỗ này đây: vào ngày hôm qua, khi quan sát tiền sảnh, tôi hề thấy cái dấu tay này. Watson, cuộc dạo chơi nho dưới ánh nắng gây thiệt hại cho chúng ta.
      Tinh thần bị lộn xộn, nhưng tâm thần lại được sưởi ấm bởi nguồn hy vọng mới, tôi theo Holmes vòng quanh khu vườn. Holmes quan sát ngôi nhà dưới tất cả mọi góc cạnh trước khi trở vào và thăm bên trong từ dưới tầng hầm lên tới cái vựa sát mái nhà. Phần lớn những căn phòng có bày đồ đạc, nhưng Holmes quan sát chúng cách cực kỳ tỉ mỉ. Sau chót, khi đứng tại bực thềm mà phía nó là nơi dẫn đến ba căn phòng có người ở, suýt la lên vì vui mừng.
      - Ðây là lúc nên cho Lestrade biết bí mật. chàng thích thú khi cười ngạo chúng ta.
      Viên thanh tra sở Scotland Yard cặm cụi viết.
      - Tôi tin là ông soạn thảo bản báo cáo về vụ án? - Holmes hỏi.
      - Ðúng vậy.
      - Ông nghĩ là còn quá sớm chăng? Tôi thể bắt tôi đừng nghi ngờ, bạn Lestrade?
      Thanh tra Lestrade biết Holmes quá , nên dám coi thường với câu đó. Ông đặt cây viết xuống và nhìn Holmes với vẻ tò mò.
      - Ông sao?
      - Có nhân chứng quan trọng mà ông thấy.
      - Ông có thể giới thiệu người đó với tôi ?
      - Dễ thôi!
      - Xin hãy làm !
      - Ông có bao nhiêu nhân viên ở đây?
      - Ba người.
      - Tuyệt vời! Mấy người đó đều là những tay cao lớn, khỏe mạnh và có giọng lớn chứ?
      - To con và khỏe mạnh có. Nhưng vì sao lại cần có giọng lớn chứ?
      - Rồi ông hiểu thôi và còn nhiều điều bé khác nữa. Mong ông vui lòng gọi người của ông lại. Tôi ráng sức.
      Năm phút sau, ba người cảnh sát tập hợp trong gian phòng trước. Holmes với họ.
      - Dưới dãy nhà phụ, có rất nhiều rơm. Mong các ông vui lòng mang tới đây hai bó. Watson, tôi tin là có mang diêm quẹt theo. Thưa ông Lestrade, ông có sẵn lòng cùng với tôi lên bực thềm cao kia chăng?
      bực thềm được đến, mở ra dãy hành lang rộng chạy dài theo ba gian phòng ngủ bỏ trống. Tới đầu, Sherlock Holmes bố trí chúng tôi đứng theo hàng dọc. Các nhân viên hớn hở và Lestrade nhìn kỹ bạn tôi với tình cảm xen kẽ thích thú, lo âu và mỉa mai. Holmes tới đứng trước mặt chúng tôi với dáng vẻ nhà ảo thuật chuẩn bị làm trò.
      - Ông có sẵn lòng phái trong những nhân viên của ông lấy xô nước ? Hãy đặt rơm ở đây, trong hành lang này, nhưng đừng đặt sát vào tường. Bây giờ tôi tin là chúng ta sẵn sàng.
      Lestrade đỏ mặt lên vì giận dữ:
      - Tôi tự hỏi biết ông có chế giễu chúng tôi , thưa ông Sherlock Holmes. Trong trường hợp ông biết điều gì đó ông có thể toạc ra mà chẳng cần đến cái trò dàn cảnh kỳ cục này.
      - Tôi có những lý do đúng đắn để hành động như vậy. Có thể ông còn nhớ là hồi nãy ông hơi chế giễu tôi, khi mặt trời ra vẻ chiếu sáng phe ông. Giờ đây xin cho phép tôi được chủ tọa nghi lễ nho . Watson, có sẵn lòng mở cửa sổ ra và ném cây diêm cháy vào cái đống rơm ?
      Tôi làm theo điều cầu. Bị cuốn hút bởi luồng gió lùa, dải khói xám tỏa ra trong dãy hành lang, trong lúc rơm khô nổ lách tách dưới ngọn lửa.
      - Giờ đây chúng tôi sắp giới thiệu người làm chứng đó với ông, ông Lestrade. Tôi có thể cầu tất cả quý ông cùng kêu lên hai tiếng: Cháy nhà!. Nào , hai, ba...
      - Cháy nhà! - Cả sáu người cùng hét toáng lên.
      - Cảm ơn. Mong quý ông lặp lại.
      - Cháy nhà!
      - Thêm lần nữa, và cùng lúc.
      - Cháy nhà!
      Tiếng kêu của chúng tôi lớn đến đỗi ở đầu đằng kia hạt Norwood cũng phải nghe thấy. Bất thình lình từ trong bức tường phẳng ở cuối dãy hành lang, cánh cửa mở tung ra, và người bé nhảy ra như con thỏ vọt ra khỏi hang.
      - Tuyệt! - Holmes với giọng bình tĩnh - Watson, mong hãy trút xô nước lên đống rơm. Cám ơn. Thế là đủ. Lestrade, xin cho phép tôi được giới thiệu với ông: đây là ông Jonas Oldacre.
      Viên thám tử sững sờ, nhìn chằm chằm vào người mới tới hấp háy mắt và lần lượt ngó nhìn toán chúng tôi và vào ngọn lửa dần dần lịm tắt. Ông ta có cái đầu ghê tởm: mưu mô, thói hư, tật xấu, và lòng độc ác.
      - Thế là thế nào? - Lestrade hỏi, sau khi tìm lại được việc sử dụng cái lưỡi - Ông làm gì trong khoảng thời gian đó?
      Oldacre thốt ra tiếng cười ngượng nghịu, nhưng ông lùi lại trước bộ mặt đe dọa của Lestrade.
      - Tôi làm gì tai hại cả.
      - tai hại à? Ông làm tất cả những gì cần làm để cho người vô tội phải bị treo cổ. Nếu có Sherlock Holmes ông thành công trong cái mưu mô ác độc đó rồi.
      Kẻ gian ác bắt đầu khóc rấm rứt:
      - Thưa ông tôi xin đoán chắc với ông rằng đây chỉ là trò đùa, hơn kém.
      - trò đùa hả? Nhưng tôi, tôi sẵn lòng cười đâu? Hãy đưa ông này vào trong phòng khách cho tới khi tôi xuống... Thưa ông Holmes. - Nhà thám tử tiếp, sau khi Jonas được đưa cùng với ba cảnh sát. - Tôi thể ra trước mặt các thuộc viên, nhưng trước mặt bác sĩ Watson, tôi xin thành nhìn nhận rằng ông thành công. Ðây là trong những cú đẹp nhất trong nghiệp của ông... ông cứu dược mạng sống cho người vô tội và ngừa trước vụ tai tiếng lớn lao có thể làm tiêu tan danh tiếng Lestrade này trong sở Scotland Yard.
      Holmes mỉm cười, vỗ lên vai Lestrade.
      - Thay vì danh tiếng bị tiêu tan, tên tuổi ông bạn tốt của tôi được lẫy lừng thêm nữa. Ông bạn chỉ cần sửa lại vài chi tiết trong bản báo cáo mà ông viết đó, và tất cả mọi người hiểu là chẳng có ai có thể đem phấn mà ném vào mắt thanh tra Lestrade.
      - Bộ ông muốn tôi nêu tên ông ra?
      - Phải! Và bây giờ chúng ta hãy đến xem cái hang của con chuột .
      bức vách ngăn bằng lát nan và trát thạch cao được sắp xếp 6 bộ chiều dài ở cuối hành lang, với cánh cửa được che giấu cách khéo léo, ánh sáng đến từ các khe hở của những tấm nan lát. Có vài ba món đồ, thức ăn và nước uống ở bên trong, cũng như có nhiều cuốn sổ và tài liệu. Holmes :
      - Nhà thầu khoán này tự làm lấy cái chỗ náu bé này mà chẳng cần đến kẻ đồng lõa ngoại trừ cái mụ đầy tớ quý hóa mà tôi mau chóng nhét vào trong cái đáy hai túi của tôi, nếu tôi ở địa vị ông, ông Lestrade.
      - Tôi theo lời khuyên của ông. Nhưng làm thế nào mà ông lại biết được chỗ này, thưa ông Holmes?
      - Tôi có ý nghĩ là lão già quỷ quyệt này trốn ngay trong nhà mình. Khi sải bước trong hành lang, tôi khám phá ra rằng nó ngắn hơn dãy hành lang tương tự ở phía dưới mất 6 bộ. Ngay tức khắc, tôi đoán ra được nơi lão trốn. Tôi tự nhủ là đủ vững tinh thần để nhúc nhích trong lúc có báo động cháy nhà. Tất nhiên là chúng ta có thể xông vào bắt nhưng tôi lại thích phải tự mình chường ra. Vả chăng tôi cũng muốn chọc quê ông chút chơi, vì hồi nãy ông chế nhạo tôi.
      - Vậy , ông ăn miếng trả miếng rồi đấy nhé. hòa nhé. Nhưng làm thế nào mà ông biết được con quỷ đó ở trong nhà?
      - Dấu lăn tay! Ông bảo với tôi rằng đó là bằng chứng quyết định. Ðúng, ông có lý, nhưng nó quyết định cho ngược lại. Tôi biết ngày hôm qua tường có dấu vết đó. Vậy được thêm vào trong đêm khuya.
      - Bằng cách nào?
      - Khi những xấp giấy được niêm phong, Jonas Oldacre cầu McFarlane kiểm tra trong những con dấu bằng cách ấn ngón tay cái lên sáp mềm. Ðiều đó xảy ra nhanh và tự nhiên đến nỗi chàng trai còn nhớ gì nữa. Ngay chính cả lão quỷ này cũng chắc nghĩ đến là về sau còn sử dụng cái dấu vết tay đó. Nhưng khi trốn trong hang, nghiền ngẫm lại nội vụ và bất chợt thấy được tầm quan trọng của buộc tội McFarlane, nếu sử dụng cái dấu tay đó. In lại dấu tay xi, bôi máu vào nó, rồi đem in lại nó tường, hoặc do chính tay hoặc qua trung gian của mụ quản gia, chỉ là trò trẻ con đối với cái tên vô lại đó. Nếu như ông chịu bỏ công ra mà xem xét các tài liệu mà y đem cất trong cái hang của y, tôi dám cá với ông là ông tìm thấy con dấu niêm với vết lăn tay ở bên.
      - Tuyệt vời! - Lestrade reo lên - rất ràng. Nhưng tại sao lại có đánh lừa ác hiểm đến như thế, thưa ông.
      Tôi thể ghìm được nụ cười: tất cả tự mãn đến xấc xược của viên thanh tra rớt xuống, người ta dám đây là cậu học trò hỏi ý kiến ông thầy.
      - nhân vật rất thâm, rất ác, rất ham trả thù. Thuở xưa, bị bà mẹ của McFarlane hủy bỏ lời hứa hôn, coi đó là điều bị lăng nhục, và để lòng hận thù, muốn được trả món thù xưa, nhưng chưa có cơ hội. Trong hai năm gần đây, những vụ kinh doanh của gặp những tình huống xấu, khó mà trả được nợ. quyết định quịt nợ, và vì mục đích ấy, viết những chi phiếu lớn cho ông tên là Cornelius. Tôi chưa theo dõi những chi phiếu đó, nhưng tôi dám đánh cuộc là chúng được phát hành cho người nhận đó trong tỉnh lẻ là nơi mà thỉnh thoảng đến đó sống cuộc sống khác. có ý định thay tên đổi họ, rút lấy tiền và rồi bỏ nơi khác sinh sống. Cornelius chính là tên giả của .
      - Rất có lý.
      - cho rằng nếu bị mất tích trong trận hỏa hoạn thoát được tất cả mọi truy tố, cùng lúc thực được cuộc trả thù khủng khiếp đối với người phụ nữ năm xưa, bằng cách làm cho đứa con trai duy nhất của bà vào tù. Và thực điều này như bậc thầy: Ngón khéo của bản chúc thư, động cơ gây tội ác, cuộc viếng thăm bí mật mà cha mẹ chàng trai biết, đánh xoáy cây can, vết máu, những mẫu vụn bị cháy thành than của thịt động vật, những cái nút áo, nút quần... Tất cả đều đáng khâm phục. giăng lưới khéo đến nỗi cho tới sáng này tôi còn chưa biết thoát ra bằng cách nào. Nhưng biết dừng lại. lại còn muốn siết chặt thêm nữa sợi dây thòng lọng vốn quấn lấy cổ chàng trai, cho nên bị mất hết. Chúng ta xuống thôi, Lestrade.
      Tên vô lại ngồi trong phòng khách của chính y, bị kèm sát bởi hai viên cảnh sát. rên rỉ:
      - Ðó chỉ là trò đùa thôi mà, thưa ngài “Ðại Lượng” (my good sir). Tôi trốn là để muốn biết người ta nghĩ gì về tôi, sau khi “chết”.
      - Ðoàn bồi thẩm quyết định việc đó - Lestrade trả lời .
      - Và chắc chắn là ông được biết rằng các chủ nợ của ông Cornelius... - Holmes thêm.
      Lão già giật nẩy mình và hướng đôi mắt dữ tợn của y về phía bạn tôi:
      - ngày nào đó, tôi trả món nợ này.
      Holmes nở nụ cười khoan dung.
      - Trong vài năm tới, ông rất bận rộn.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      4. Những hình nhân nhảy múa

      Holmes cầm mảnh giấy bàn đưa cho tôi rồi quay lại với công việc phân tích hoá học.

      Tôi ngạc nhiên thấy tờ giấy được vẽ những chữ tượng hình.

      - Chú nhãi nào vẽ thế?

      - Ý kiến của vậy à?

      - Cái này là cái gì?

      - Ông Hil-tơn cũng muốn biết đó là cái gì. Ông chuyển nó cho chúng ta ngay từ chuyến thư đầu tiên, còn ông đến đây bằng tàu hoả. có thấy chuông reo ? Có lẽ ông ta đến đấy!

      Tiếng những bước chân nặng nề vang lên ở cầu thang. Lát sau, người cao lớn, bảnh bao, má ửng hồng bước vào phòng. Sau khi bắt tay chúng tôi, ông định ngồi xuống ghế. Đột nhiên ông chú ý ngay đến mảnh giấy có những kí hiệu ngộ nghĩnh tôi mới xem xong và đặt bàn.

      - Ông nghĩ sao về cái này, ông Holmes. Người ta rằng ông là người ưa thích những chuyện bí .

      - Đây thực là những hình vẽ rất bí . Thoạt nhìn có thể coi nó là trò nghịch ngợm của trẻ con. Người lớn nào có thể vẽ những hình người nhảy múa rời rạc như vậy? Thế nhưng vì sao ông lại cho rằng mảnh giấy quái đản này có ý nghĩa quan trọng ?

      - Tôi gán cho nó ý nghĩa nào cả, nếu có chuyện vợ tôi... Nàng chết ngất khi nhìn thấy nó.

      Holmes khẽ nâng tờ giấy lên. Đó là mảnh giấy được xé ra từ cuốn sổ tay. Những hình ảnh như thế này được vẽ bằng bút chì mặt giấy.

      Holmes chăm chú xem tờ giấy, thận trọng gập lại và cất vào trong ví.

      - Câu chuyện hứa hẹn nhiều điều bí khác thường. Trong thư, ông kể rồi, song xin ông vui lòng kể lại chuyện ấy cho người bạn của tôi, bác sĩ Watson đây nghe.

      - Hàng trăm năm nay, dòng họ của tôi được coi là dòng quý tộc danh tiếng nhất ở Norfolk. Năm ngoái, khi dự hội ở Luân Đôn, tôi lưu lại trong ngôi nhà bày đồ gỗ ở công trường Russel và vị linh mục của địa phương chúng tôi cũng dừng chân tại đó. quý tộc người Mỹ là Elsie Patrick, sống trong ngôi này. Chúng tôi nhanh ***ng trở nên thân mật với nhau. Chưa đầy tháng tôi nàng. Chúng tôi chịu phép cưới ở nhà thờ rồi cùng nhau đến sống lại Norfolk.

      Với tôi, nàng rất thành tâm và thẳng thắn. Elsie rằng tôi có quyền từ chối lễ cưới nếu tôi muốn: "Cuộc đời trước đây của em có nhiều chuyện vui. Em muốn quên tất cả. Em muốn trở lại quá khứ của mình. Nếu lấy em có nghĩa là lấy người đàn bà chưa hề làm điều gì đáng phải hổ thẹn cả. hãy tin vào lời em , và cần cho phép em đả động gì tới quãng đời quá khứ của em. Nếu được như vậy, hãy quay trở về Norfolk ! Em tiếp tục sống độc như trước đây".

      Nàng với tôi như vậy vào hôm trước lễ cưới. Tôi trả lời nàng rằng: sẵn lòng chiều theo ý em. Chúng tôi thành vợ chồng được năm nay. Thời gian trôi êm đềm. Thế nhưng cách đây tháng. Vợ tôi nhận được lá thư gởi từ Mỹ. Mặt nàng xanh tái. Nàng đọc xong lá thư rồi ném vào lửa. Nàng nhắc lại chuyện đó, và tôi cũng hỏi, vì "quân tử bất hí ngôn" mà! Có điều, từ đấy trở , nàng bình tâm được lấy phút. Gương mặt nàng luôn tỏ ra khiếp đảm. Có thể thấy rằng nàng mong đợi cái gì đó.

      Rồi cách đây tuần, tôi nhìn thấy bậu cửa sổ những hình nhân nhảy múa như mảnh giấy này. Chúng được vẽ bằng phấn. Tôi nghĩ cậu bé làm ở tàu ngựa vẽ chúng. Nhưng câu ta thề thốt rằng cậu biết gì cả. Chúng xuất vào ban đêm. Tôi lau sạch , và vô tình nhắc tới chúng trong lần chuyện với nàng.

      Nàng cầu tôi chỉ cho nàng coi, nếu tôi lại trông thấy những hình nhân như thế. Suốt tuần liền, thấy chúng xuất . Thế rồi sáng hôm qua, tôi nhặt được mảnh giấy này chiếc đồng hồ mặt trời ngoài vườn. Tôi chỉ cho nàng coi và lập tức nàng ngất xỉu . Từ giờ phút ấy, nàng sống chập chờn như trong mơ. Đôi mắt nàng tràn đầy nỗi khiếp sợ. Còn tôi khác, ông cho tôi biết cần phải làm gì. Tôi giàu có, nhưng sẵn sàng tiêu đến đồng xu cuối cùng để bảo vệ nàng.

      Tình thương và lòng chung thủy với vợ được ghi lại từng nét mặt nhất của khuôn mặt ông. Holmes nghe hết câu chuyện với chăm chú sâu sắc. Sau đó trầm ngâm hồi lâu. Cuối cùng, :

      - Ông thẳng thắn cầu vợ ông hết ra những bí hay sao?

      Hil-tơn lắc lắc cái đầu đồ sộ của mình:

      - Lời hứa ông Holmes ạ! Nếu Elsie muốn, nàng kể cho tôi nghe rồi. Còn nếu muốn, tôi ép nàng.

      - Nếu vậy, tôi hết lòng giúp ông. Hãy cho tôi biết có người nào ở nơi khác đến sống cạnh gia đình ông ?

      - .

      - Tôi biết ông sống ở nơi rất hẻo lánh. xuất của bất kì người lạ nào thể để lại dấu vết.

      - Nếu có người lạ mặt nào ở ngay cạnh nhà tôi, tất nhiên tôi biết. Có điều, cách xa từ chỗ chúng tôi có vài làng ven biển với những bãi tắm lớn. Các điền chủ cho những người từ xa đến thuê các phòng nghỉ khang trang.

      - Trong những hình vẽ kì quái này chắc chắn chứa ý nghĩa nào đấy. Theo ý tôi, ông cần trở lại Norfolk, chú ý theo dõi tất cả những gì diễn ra chung quanh. Còn khi ông phát ra ở nơi nào đó những hình nhân nhảy múa mới, ông cần chép y lại cách tỉ mỉ nhất. Đáng tiếc là ông sao lại những hình người được vẽ bằng phấn bậu cửa! Hãy dò xét tất cả những người quen biết xuất ở cạnh nhà. Và khi nhận ra được chút gì mới, ông hãy đến ngay chỗ tôi. Nếu thấy cần thiết, tôi sẵn sàng đến chỗ ông.

      Sau cuộc gặp gỡ . Holmes thường hay trầm ngâm suy nghĩ. Nhiều lần tôi trông thấy chăm chăm xem những hình người ngộ nghĩnh được vẽ đá. Tuy nhiên, chỉ sau hai tuần, lại bắt đầu trò chuyện với tôi về chuyện này. Lúc tôi sửa soạn bước ra khỏi nhà, đột nhiên ngăn tôi lại:

      - Tốt hơn là hãy ở nhà!

      - Vì sao?

      - Sáng nay tôi nhận được điện của Hil-tơn. Ông ấy có ý định Luân Đôn vào lúc 10 giờ. Chỉ vài phút sau nữa, ông ta đến đây. Theo bức điện, tôi hiểu rằng ông có những tin tức cực kỳ quan trọng.

      Chúng tôi chờ đợi lâu vị điền chủ từ sân ga phóng thẳng đến chỗ tôi. Mặt ông lộ vẻ âu lo.

      - Câu chuyện khiến tôi bực mình, ông Holmes ạ! - Ông ta buông mình xuống ghế bành và - là quá khổ tâm khi ta cảm thấy bị những người xa lạ vô hình toan đẩy ta vào hiểm hoạ nào đấy, còn khủng khiếp hơn nữa khi nhận ra rằng từ ngày này qua ngày khác, những con người đó dần dần huỷ diệt người thân của ta. Nàng giấu tôi!

      - Bà ấy với ông điều gì phải ?

      - điều gì cả. Có lúc nàng như muốn kể cho tôi nghe hết thảy, chúng tôi đủ cương quyết. Tôi toan giúp nàng, tôi vụng về đến mức chỉ làm nàng sợ hãi thêm. Nàng bắt đầu hay về chuyện chúng tôi thuộc dòng họ lâu đời như thế nào, mọi người trong dòng họ kính trọng tôi ra sao, chúng tôi tự hào về lương tâm trong sạch của mình như thế nào. Lần nào cũng vậy, tôi cảm thấy nàng muốn thêm điều gì, nhưng rồi lại thôi.

      - Ông có phát ra cái gì ?

      - Rất nhiều, ông Holmes ạ! Tôi đưa đến cho ông hàng đống những hình nhân nhảy múa mới đây. Nhưng quan trọng nhất là cái này...

      - Ai vẽ chúng thế?

      - Tôi nhìn thấy nó sau giờ làm việc. Nhưng hãy cho phép tôi kể theo trình tự. Sau khi từ chỗ ông về, ngay sáng hôm sau, tôi tìm thấy những hình người nhảy múa mới. Chúng được vẽ bằng phấn cánh cửa sổ màu đen của kho chứa củi nằm cạnh bãi cỏ. Tôi sao chép lại tất cả. Đây, chúng đây!

      Ông ta rút tờ giấy, mở ra và đặt lên bàn. Những chữ tượng hình như thế này được vẽ mặt giấy.

      - Tuyệt vời! tuyệt vời. Hãy tiếp tục !

      - Khi vẽ lại xong, tôi xoá chúng. Thế mà hai ngày sau, cánh cửa ấy lại xuất hàng mới! Chúng đây!

      Holmes bật cười vì vui sướng:

      - Tài liệu của chúng ta được tăng lên mau ***ng.

      - Sau 3 ngày, chiếc đồng hồ mặt trời lại xuất lá thư nằm ở dưới viên đá. Chúng đây! Ông thấy , những hình vẽ ở đó chính là hình vẽ ở lá thư đầu tiên.

      Thế là tôi quyết định rình người vẽ. Suốt từ đến hai giờ khuya, tôi cầm súng lục, ngồi ở cạnh cửa sổ và nhìn ra khu vườn đầy ánh trăng. Tôi nghe thấy tiếng những bước chân sau lưng mình. Ngoái cổ lại, tôi nhận ra vợ tôi trong bộ quần áo dài mặc ở nhà. Nàng năn nỉ tôi trở vào giường nằm. Tôi thành thực với nàng rằng tôi muốn xem ai là người làm trò tinh nghịch ấy. Nàng rằng đây chỉ là trò đùa vớ vẩn, đáng quan tâm đến.

      - Nếu chuyện đó làm bực bội như thế, chúng ta hãy cùng ra . Khi ấy ai quấy rầy chúng ta nữa.

      - Sao kì vậy? Nếu làm vậy, cả dòng họ chế nhạo chúng ta.

      - Hãy nghỉ thôi! Sáng mai chúng ta bàn tiếp chuyện đó vậy - Nàng .

      Tự nhiên khuôn mặt nàng tái xám (tôi nhận ra điều này thậm chí ngay cả dưới ánh trăng). Bàn tay nàng bám chặt vào vai tôi. Có cái gì động đậy trong bóng tối của kho chứa củi. bóng đen gập người từ góc vườn trườn ra rồi ngồi lại trước cửa. Tôi giật lấy khẩu súng lục, chạy lao người về phía trước. Nhưng vợ tôi đột nhiên ôm chầm lấy tôi, giữ tôi đứng lại. Tôi càng cố giẫy ra, nàng càng bám lấy tôi táo tợn hơn. Cuối cùng, tôi dứt được ra. Song lúc đẩy cửa chạy tới kho chứa củi bóng đen biến mất. Tôi lùng sục khắp vườn vẫn tìm ra dấu . Sáng hôm sau, tôi lại xem xét cửa kho củi dưới hàng chữ mà tôi có dịp nhìn thấy, lại xuất thêm vài hình người mới.

      - Ông có chép lại ?

      - Có chứ!

      Ông ta lại cho chúng tôi coi mảnh giấy khác. Những hình người nhảy múa mới có dáng vẻ như sau.

      - Những hình người này được vẽ thêm vào hàng chữ trước đây hay được vẽ riêng ra? - Holmes hỏi, vẻ xúc động.

      - Chúng được vẽ thang gỗ, phía dưới cánh cửa.

      - tuyệt! Điều này đối với chúng ta hệ trọng hơn tất cả. Nó gieo niềm hi vọng. Ông Hil-tơn, ông hãy tiếp tục câu chuyện lí thú này!

      - Tôi rất giận vợ tôi vì nàng ngăn cho tôi lùng bắt tên vô lại. Tôi muốn nhờ năm sáu chàng trai rình trong bụi cây, chờ dịp nện cho nó trận nên thân.

      - Căn bệnh quá trầm trọng được chữa khỏi bằng thứ thuốc thông thường đâu. Ông có thể lưu lại Luân Đôn trong bao lâu! - Holmes hỏi.

      - Tôi phải trở về ngay hôm nay. Nàng rất lo và cầu tôi quay về càng sớm càng tốt.

      - Ông hoàn toàn có lý. Song, giá như ông có thể ở lại sau hoặc hai ngày gì đó, tôi cùng với ông. Dầu sao cũng phải để những mảnh giấy này lại cho tôi.

      Theo thói quen nghề nghiệp, Holmes gắng tỏ ra bình tĩnh. Nhưng tôi nhận thấy xúc động. Đôi vai rộng của Hil-tơn vừa khuất sau cánh cửa, bạn tôi chạy bổ đến bàn, trải các mảnh giấy ra. Trong vòng hai tiếng, viết hết từ tờ này đến tờ khác la liệt những con số và chữ cái. Công việc này cuốn hút tới mức hình như quên mất có mặt của tôi trong phòng. Cuối cùng, hài lòng kêu lên, nhổm phắt dậy, vừa xoa xoa hai tay vừa chạy khắp phòng. Sau đó chuyển bức điện dài.

      - Có lẽ sáng mai tôi và cùng Norfolk. Chắc chắn cuốn sách của phong phú thêm nhờ có câu chuyện li kì này.

      Óc tò mò hành hạ tôi, nhưng tôi biết Holmes chỉ khi nào thấy cần thiết.

      Thế là tôi nén lòng chờ đợi.

      Thế nhưng có điện trả lời. Suốt hai ngày liền, Holmes phập phồng lắng nghe từng tiếng chuông reo. Chiều ngày thứ hai chúng tôi nhận được thư của Hil-tơn. Ông ta cho biết ở chỗ ông tất cả đều yên tĩnh nhưng sáng nay, giá đỡ của chiếc đồng hồ mặt trời xuất hàng chữ dài nhất. Bản sao chép chính xác dòng chữ này được đính kém lá thư. Hàng chữ được kẻ như thế này.

      Holmes gập người nhìn bản vẽ kì quái. Bất thình lình nhổm phắt dậy, kêu lên ngạc nhiên và giận dữ. Khuôn mặt lo âu của trở nên cau có:

      - Chúng ta để cho công việc quá xa mất rồi! Buổi chiều có chuyến tàu nào tới North-Walsham?

      Tôi liếc nhìn vào bảng giờ tàu đầu tiên vậy. có mặt của chúng ta ở đó là rất cần thiết. Người khách hàng của chúng ta sa vào mạng lưới cực kì nguy hiểm.

      Chúng tôi vừa mới xuống North-Walsham người xếp ga chạy hỏi :

      - Các ông là những thám tử từ Luân Đôn tới.

      - Sao ông lại nghĩ vậy?

      - Bởi vì viên thanh tra Mác-tin cũng từ Norwich qua đây. Các ông là bác sĩ? Bà ta vẫn còn sống; các ông còn kịp để cứu bà ta...

      Holmes cau có và lo ngại:

      - Chúng tôi đến Ridling Thorpe. Nhưng chưa chuyện gì xảy ra ở đó.

      - chuyện khủng khiếp - Người xếp ga - Ban đầu bà ta bắn ông ấy, rồi sau đó tự bắn mình. Những người hầu kể như vậy. Ông ta chết và bà ấy cũng chết. Than ôi!

      Holmes nhảy lên ngựa. hoàn toàn im lặng trong suốt cuộc hành trình. Tôi ít có dịp thấy rơi vào tâm trạng âu sầu đến thế. Ngay từ đầu, tôi thấy hết sức lo ngại lúc xem qua những tờ báo buổi sáng. Thế nhưng lúc này, khi những nỗi lo sợ tồi tệ nhất của được xác nhận như hoá đá. ngồi ngả người về phía sau, đắm mình trong những ý tưởng buồn bã. Trong khi ấy, chúng tôi qua trong những nơi kì thú nhất của nước . Cư dân trong vùng sống thưa thớt. Nhưng theo mỗi bước chân nổi bật lên cánh đồng xanh mướt là những chiếc tháp cao, to, xác nhận niềm vinh quang của miền Đông nước xưa kia.

      Cuối cùng, bác xà ích dùng roi chỉ cho chúng tôi coi hai mái nhà nhọn đầu giữa thôn quê:

      - Thái ấp Ridling Thorpe đấy!

      Đến gần ngôi nhà, tôi để ý thấy phía trước có cái kho chứa củi màu đen nằm sau cái sân um tùm và chiếc đồng hồ mặt trời đặt bệ. người lanh lợi với bộ râu tỉa tót cẩn thận vừa nhảy từ xe hai bánh xuống. Đó là viên thanh tra Mác-tin. Ông ta kinh ngạc khi trông thấy người bạn tôi.

      - Thưa ông Holmes, tội ác được thực vào lúc 3 giờ sáng! Do đâu mà ông biết được và đến đây cùng lúc với chúng tôi?

      - Tôi đoán ra và đến để ngăn chặn tội ác.

      - Ông có những tài liệu mà chúng tôi có.

      - Tôi chỉ có những tin tức nhận được từ những hình người nhảy múa. Tôi đến muộn: ngăn chặn được nó… Ông có cần tiến hành điều tra cùng với tôi ? Hay ông thích để tôi tự tìm hiểu lấy?

      - Được tiến hành cùng với ông là vinh dự lớn đối với tôi, ông Holmes ạ! - Viên thanh tra thành trả lời.

      - Trong trường hợp này, tôi muốn lắng nghe những lời khai của các nhân chứng, và tận mắt xem trường.

      Thanh tra Mác-tin thông minh đến mức cho phép Holmes xử theo cách riêng của mình. Bác sĩ địa phương, vừa ở trong phòng bà Hil-tơn bước ra. Ông rằng sức khoẻ của bà chưa hết hi vọng, viên đạn chỉ mới sượt vào não. Về câu hỏi bà ta tự bắn vào người hay do người nào khác bắn ông dám quyết đoán.

      - Ở bất kì trường hợp nào, phát súng cũng được bắn từ cự li rất gần. Người ta chỉ tìm thấy trong phòng khẩu súng ngắn và hai vỏ đạn. Ông Hil-tơn bị bắn thẳng vào tim. Có thể giả thiết rằng trước tiên ông ta bắn vợ và sau đấy bắn mình. Cũng có thể giả thiết chính bà vợ gây tội ác đầu tiên, vì khẩu súng ngắn nằm vạt áo của bà.

      - Ông khám xét nạn nhân chưa? - Holmes hỏi.

      - Chưa. Chúng tôi chỉ mới nâng bà lên và chuyển .

      - Ông ở đây lâu chưa bác sĩ?

      - Từ bốn giờ sáng.

      - Có ai khác ngoài ông ở đây ?

      - Có. Kiểm tra viên.

      - Ông hành động cách thận trọng. Ai gọi ông đến?

      - Chị hầu phòng Sô-đơ.

      - Chị ta là người đầu tiên báo động phải ?

      - Chị ấy và bà King, người nấu bếp.

      - Bây giờ họ ở đâu?

      - Có lẽ ở trong bếp.

      - Chúng ta bắt đầu nghe các lời khai của họ.

      Gian phòng cũ kĩ được ghép bằng gỗ sồi với những cánh cửa cao biến thành phòng điều tra. Holmes ngồi xuống ghế, mặt lạnh lùng. Tôi đọc trong ánh mắt của ý chí kiên quyết, nếu cần có thể hiến cả cuộc đời mình để con người kia được toại nguyện. Trong phòng, ngoài tôi ra còn có thanh tra Mác-tin, ông bác sĩ và cảnh sát nông thôn.

      Lời khai của hai người đàn bà chính xác ở mức độ cao: Tiếng súng đánh thức họ dậy. Sau chừng phút, họ nghe phát súng thứ hai. Bà King chạy bổ tới chỗ Sô-đơ. Họ cùng xuống cầu thang. Cửa phòng bị mở toang, cây nến chiếu sáng bàn. Chủ nhân nằm úp mặt xuống nền nhà ở giữa phòng, tắt thở. Vợ ông quằn quại cạnh cửa sổ, đầu tựa vào tường. Máu đỏ khắp nửa mình. Bà ta vẫn thở, nhưng thể được. Ngoài hành lang cũng như trong phòng đều có khói và phảng phất mùi thuốc súng. Cửa sổ bị đóng lại bằng chốt phía trong. Cả hai người đàn bà đều hoàn toàn khẳng định điều này. Ngay lập tức, họ gọi bác sĩ và cảnh sát. Sau đó, nhờ giúp đỡ của người coi ngựa và chú bé làm ở chuồng ngựa, họ đưa bà chủ bị thương sang phòng bà. Bà mặc bộ áo quần dài. Còn người chồng mặc đồ trong nhà, phía ngoài choàng áo ngủ. Vợ chồng họ bao giờ to tiếng với nhau. Mọi người cho rằng họ là cặp vợ chồng thân ái nhất.

      Trả lời thanh tra viên Mác-tin, hai người phụ nữ rằng tất cả song cửa sổ đều bị khoá lại từ phía bên trong, rằng ai có thể thoát ra khỏi nhà. Khi trả lời Holmes, hai người đều nhớ lại rằng họ ngửi thấy mùi thuốc súng ngay sau khi chạy ra từ phòng mình ở lầu hai. Holmes với ông thanh tra:

      - Chúng ta hãy chú ý tới việc này; còn bây giờ, cần xem xét căn phòng diễn ra tội ác.

      Đó là căn phòng rất bé. Các giá sách choán hết ba phía tường, bàn làm việc đặt cạnh cửa sổ quay ra vườn. Chúng tôi để ý trước tiên đến thi thể kẻ bất hạnh nằm sóng soài nền. Áo quần xộc xệch. Chứng tỏ rằng ông ta bị dựng dậy từ giường cách vội vã. Viên đạn xuyên qua trái tim, kẹt lại trong người. bộ quần áo cũng như hai bàn tay có dấu tích của thuốc súng; bác sĩ rằng người ông Hil-tơn, chỉ có dấu vết của thuốc súng ở mặt, chứ bàn tay.

      - Việc có dấu vết của thuốc súng ở bàn tay chẳng chứng tỏ điều gì, nhưng hện diện của nó mặt lại chứng minh tất cả; làm vấy bẩn bàn tay khi bắn... Bây giờ, có thể đưa thi thể ông Hil-tơn ra được rồi. Bác sĩ, có lẽ ông tìm được các viên đạn bắn bà Hil-tơn - Holmes .

      - Muốn vậy, buộc phải tiến hành ca mổ nghiêm túc. Trong khẩu súng còn 4 viên đạn, ngoài này có 2 phát súng và 2 vết thương. ra khó khăn gì khi xác định số phận của từng viên đạn.

      - Xin làm ơn xác định giùm số phận của viên đạn xuyên qua rìa khung cửa sổ kia kìa!

      đột nhiên quay người lại và dùng ngón tay chỉ vào lỗ thủng ở thanh nối phía dưới của khung cửa sổ. Viên thanh tra kêu lên:

      - Tài ! Ông phát ra cái đó bằng cách nào vậy?

      - Tôi tìm ra vì tôi có ý tìm nó.

      - Tài tình ! - Ông bác sĩ - Ông hoàn toàn có lý, nghĩa là phát súng thứ ba, và có người thứ ba. Nhưng là ai? biến đâu?

      - Ông thanh tra, các nữ hầu rằng lúc chạy ra từ phòng mình, họ ngửi thấy mùi thuốc súng và tôi với ông rằng ta cần lưu ý đến điều đó.

      - Tôi nhớ. Nhưng tiếc thay tôi nắm được ý của ông.

      - Điều đó chứng tỏ cả cửa ra vào lẫn cửa sổ đều bị mở toang. Nếu , khói thuốc thể lan toả khắp nhà với tốc độ nhanh như thế. Chỉ có gió lùa mới thổi khói thuốc bay xa đến như vậy. Trong phòng này, các cửa vào lẫn cửa sổ được mở ra trong khoảnh khắc.

      - Tại sao?

      - Bởi vì ngọn nến này hãy còn sáng.

      - Đúng vậy - Thanh tra kêu lên.

      - Khi biết chắc vào thời gian xảy ra vụ án, các cửa sổ bị mở ra, tôi kết luận rằng có người thứ ba tham dự vào: Người đó đứng ở phía ngoài và bắn qua cửa sổ. Còn viên đạn nhắm bắn vào người thứ ba có thể ghim vào khung cửa sổ. Tôi nhìn thấy và thức tế tìm ra dấu tích của viên đạn.

      - Nhưng cửa sổ được đóng lại bằng cách nào?

      - Chắc chắn người đàn bà đóng lại, đóng lại cách vô ý thức... Nhưng cái gì thế này?

      bàn có chiếc ví phụ nữ. Chiếc ví nhắn làm bằng da cá sấu được ngăn bằng lớp bạc lộng lẫy. Holmes mở ví, trút các thứ lên bàn.

      Trong đó có tất cả 20 phiếu tín dụng, 50 bảng .

      - Hãy cầm lấy! Những thứ này được chuyển tới trong phiên toàn - Holmes và chuyển cho viên thanh tra. Bây giờ cần làm sáng tỏ viên đạn thứ ba hướng tới người nào? Lỗ thủng ở khung cửa sổ cho thấy người ta bằng tới từ phòng này. Tôi muốn thảo luận lại với bà King... Bà rằng phát súng nổ lớn đánh thức bà dậy. Ý bà muốn phát súng đầu nổ to hơn phát thứ hai phải ?

      - Tôi ngủ, cho nên tôi khó mà bàn luận được. Tôi chỉ cảm thấy tiếng nổ rất to.

      - Bà cho rằng cả hai phát súng hầu như nổ cùng lúc chứ?

      - Tôi thể phân tích được điều đó.

      - Tôi tin là đúng như vậy! Ông thanh tra, trong căn phòng này, chúng ta biết gì hơn được nữa đâu. Nếu các ông đồng ý, chúng ta cùng ra ngoài vườn và cùng xem xét ở đấy có điều gì thú vị .

      Ngay phía dưới cửa sổ căn phòng có bồn hoa, khi đến đó, chúng tôi cùng kêu to lên. Hoa bị xéo nát. Những vết chân in hằn lên mảnh đất xốp rất . Đó ràng là những vết chân đàn ông to bè rất dài và sắc. Holmes chân lướt cỏ, lá như *** săn lùng sục chim bị thương. Đột nhiên kêu lên sung sướng. cúi xuống và nhặt lên khối trụ bằng đồng.

      - Tôi biết mà! Đây chính là viên đạn thứ ba.

      Vẻ sửng sốt in hằn nét mặt ông thanh tra. ràng ông thán phục tốc độ và tài nghệ của Holmes. Lúc đầu ông ta bảo vệ ý kiến của mình, thế nhưng chẳng bao lâu ông thực thích thú vì bị Holmes chinh phục hoàn toàn.

      - Ông nghi ai? - Viên thanh tra hỏi.

      - Còn chờ chốc nữa thôi, sau đấy tôi giải thích cho ông hết thảy.

      - Ông Holmes, chỉ mong sao kẻ sát nhân được thoát.

      - Mọi mối liên hệ của tội ác này nằm gọn trong tay tôi. Thậm chí nếu bà quý tộc bao giờ tỉnh lại nữa, chúng ta vẫn khôi phục lại được tất cả những gì xảy ra vào đêm hôm qua và giành được công lý. Trước hết, tôi muốn biết cạnh đây có khách sạn nào tên là Elriges ?

      Người ta lấy khẩu cung các gia nhân trong nhà, nhưng ai nghe thấy tên khách sạn như vậy. Chỉ có chú bé làm ở tàu ngựa đột nhiên nhớ tới người có họ là Elriges ở gần East Ruston, cách đây vài dặm.

      - Trang trại của ông ta rất biệt lập à?

      - Vâng, rất biệt lập.

      - Có lẽ ở đó người ta chưa biết chuyện gì xảy ra ở đây?

      - Có lẽ thế, thưa ông!

      Holmes ngẫm nghĩ, và khuôn mặt bỗng xuất nụ cười tinh quái:

      - Thắng yên ngựa chú bé tài giỏi! Tôi muốn chú chuyển thư đến điền trang Elriges.

      rút túi ra vài mảnh giấy có những hình người nhảy múa. ngồi xuống bàn, trải rộng chúng ra trước mặt, rồi mải miết với công việc. Cuối cùng trao bức thư cho cậu bé. cầu cậu chuyển đến tận tay người có tên trong địa chỉ, và được phép trả lời bất kì câu hỏi nào. Tôi liếc nhìn địa chỉ. Nó được viết bằng chữ cong queo, thiếu chính xác, giống chút nào với nét chữ ràng lúc bình thường của Holmes. Bức thư chuyển cho ông Abe Slaney trang trại Elriges, East Ruston ở Norfolk.

      - Ông thanh tra, tôi cần chuyển điện cho đoàn hộ tống. Bởi, nếu điều tôi suy nghĩ đúng, ông phải áp giải tên tội phạm cực kì nguy hiểm đến nhà tù. Chú bé có thể chuyển luôn bức điện của ông. Còn chúng ta, Watson ạ, chúng ta trở lại thành phố bằng chuyến tàu sau bữa ăn trưa, vì vào chiều hôm nay tôi cần phải kết thúc phân tích hoá học kì thú. Công việc nhanh tới kết thúc.

      Khi cậu bé đưa thư phi ngựa Sherlock Holmes cho triệu tập gia nhân lại. cho biết, ai muốn viếng thăm bà Hil-tơn mau ***ng rời khỏi phòng khách và bao giờ được báo cho bà biết những gì xảy ra ở đây. đòi hỏi thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh. Sau đấy trở vào phòng khách và thêm rằng, lúc này mọi chuyện được tiến hành tham gia của chúng tôi, chúng tôi chỉ ngồi chờ và xem con thú nào sa vào bẫy mà thôi. Người bác sĩ lui tới chỗ bệnh nhân của mình. Chỉ có tôi và viên thanh tra ở lại với Holmes.

      - Tôi giúp các ông dùng giờ chờ đợi này cách lí thú và bổ ích - Holmes vừa vừa kéo ghế lại gần bàn cà trải rộng ra trước mặt nhiều mảnh giấy với những hình người nhảy múa khác nhau - Watson ạ, tôi cần phải chuộc lỗi lầm của mình, tôi gợi trí tò mò của đến thế. Còn đối với tôi, ông thanh tra, việc này là bài học nghề nghiệp tuyệt vời. Trước hết, tôi cần kể cho ông nghe cuộc gặp gỡ của tôi với ông Hil-tơn tại nhà tôi.

      Thế rồi kể vắn tắt cho viên thanh tra nghe những việc mà chúng ta biết.

      - Trước mắt chúng ta là những bức vẽ ngộ nghĩnh. Có thể chúng gợi ra những nụ cười, nếu chúng phải là những dấu hiệu báo trước bi kịch. Hầu như tôi biết tất cả những loại chữ viết bí mật. Tôi là tác giả của bản chuyên khảo, trong đó tôi phân tích 160 hệ thống các chữ viết khác nhau, nhưng tôi phải thú nhận rằng hệ thống các chữ viết này hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Nhưng kẻ phát minh ra hệ thống chữ viết này chắc hẳn muốn cho người ta có cảm giác rằng đó chỉ là những hình vẽ trẻ con.

      Tuy nhiên, tôi chắc rằng những hình vẽ này là kí hiệu của những chữ cái, tôi áp dụng những quy tắc thường dùng để đọc các loại chữ viết bí mật. Nhìn hình (1), tôi chưa hiểu được gì ngoài cái điều này: Kí hiệu được vẽ kế bên đây, là chữ E. vậy, bạn vui lòng nhớ kĩ cho: hình người đứng, hai bàn chân áp sát mặt đất, đôi tay đưa lên trời, na ná như hình vẽ bên đây, là chữ E. (Như các bạn biết, E là chữ được dùng nhiều nhất trong tiếng : ngay cả trong câu ngắn, người ta cũng thường gặp nó). Trong số 15 kí hiệu của hình (1) tôi thấy có tới 4 kí hiệu giống nhau. Đó là các con chữ thứ 4, thứ 6, thứ 9 và thứ 14). Vậy việc suy diễn 4 kí hiệu đó là chữ E, là điều hợp lí).

      là trong vài trường hợp, hình vẽ có mang lá cờ, trong những trường hợp khác . Nhưng, nhìn cách phân phối những lá cờ, tôi thấy dường như chúng được dùng để phân biết những-cụm-con-chữ của câu, nghĩa là thấy lá cờ làm nhiệm vụ của dấu chấm câu (.) vậy.

      Nhưng đến đây tôi bắt đầu **ng phải điều khó khăn: sau chữ E, các chữ khác trong bảng chữ cái rất khó xếp hạng về xuất nhiều hay ít trong tiếng .

      nguyên tắc, thứ tự ưu tiên đó được xếp hạng đại khái như sau: T trước, rồi tới A và kế đó là O.I.N.S.H.R.D và L. Nhưng T, A, O và I thường được dùng nhiều như nhau. Nếu tôi cố gắng thử phối hợp chúng với nhau theo nhiều cách cho đến khi nào thấy được "bức hình nhảy múa có ý nghĩa", tôi tốn khá nhiều thời gian.

      Vậy tôi phải chờ đợi có thêm nhiều câu khác: trong các hình (2), (3) và (4) toàn là những câu ngắn. Đặc biệt hình số (4) có 5 con chữ mà tôi cho rằng nó chỉ là từ (vì lẽ có lá cờ).

      Khi nhìn kĩ các hình nhân này, tôi thấy có 2 hình nhân là chữ E. Đó là hình thứ nhì và thứ tư. từ có 5 con chữ mà trong đó có 2 chữ E nằm ở vị trí thứ nhì và thứ tư, là từ nào?

      Nó có thể là :

      SEVER (phân chia)

      LEVER (đòn bẩy)

      NEVER ( bao giờ)

      còn nghi ngờ gì nữa, vì lẽ đây là câu trả lời: chữ NEVER ( bao giờ) là chữ có thể đúng nhất. Và trong trường hợp này, chúng ta có thể nghĩ rằng đây là câu trả lời do bà Hil-tơn viết.

      Để kiểm tra lại các suy đoán của mình, tôi bèn cho rằng nếu 5 con chữ của hình (4) là NEVER 3 con chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm phải lần lượt là N. V. và R.

      Người mang đòn: N

      Người đá banh: V

      Người đứng, tay: R

      Nhưng khó khăn vẫn còn nhiều. May mắn là tôi nảy ra ý nghĩ giúp tôi nằm được chìa khoá của nhiều chữ cái khác. Tôi nghĩ rằng lời kêu gọi này xuất phát từ người trước kia từng có liên hệ mật thiết với bà Hil-tơn: từ gồm: 2 con chữ E cách nhau bởi ba con chữ cái khác như trong hình (3b) từ đó rất có thể là ELSIE, nhất là từ này nằm ở cuối câu. Vậy, đó có thể là lời kêu gọi bà Elsie. Thế là tôi nắm thêm được những kí hiệu của những chữ cái L. S. và I.

      Nhưng, lời kêu gọi này có thể có ý nghĩa gì? Từ trước từ "Elsie" chỉ có 4 con chữ và tận cùng bằng con chữ E. Từ này chắc phải là "Come" (hãy đến). Để kiểm tra xem có đúng như thế , tôi thử tất cả những chữ khác gồm có 4 con chữ đều tận cùng bằng E, nhưngkhông có chữ nào phù hợp với ý nghĩa của câu này. Vậy là tôi nắm được kí hiệu của những chữ cái C. O. và M. Tới đây tôi có thể đọc bức hình (1). Tôi phân chia nó ra thành từng chữ và thay thế những dấu chấm vào các hình nhân chưa biết. tôi đạt được kết quả như sau:

      . M . R T R . . R D L . N R .

      Con chữ đầu tiên phải là chữ A mới có nghĩa. Đây quả là khám phá rất quý báu, bởi vì kí hiệu này xuất đến 3 lần trong câu ngắn này. Tôi thay thế những chữ cái vào chỗ các hình chưa biết có AM HERE ABE SLANEY (tôi ở đây, Abe Slaney).

      Bây giờ tôi nắm được kí hiệu của rất nhiều chữ cái và có thể bắt đầu đọc đến hình (2).

      Tôi có được:

      A . ELRI . ES

      Câu này chỉ có thể có ý nghĩa nào đó, nếu tôi lần lượt thay chữ T và chữ G vào chỗ của các dấu chấm và tôi có "AT ELRIGES" (ở Elriges); đây chắc hẳn là ngôi nhà hay cái quán, nơi tác giả của câu văn ở.

      Thanh tra Mác-tin và tôi, cả hai cùng há mồm nghe những lời giải thích của Holmes, những lời giải thích giúp vượt qua được tất cả những khó khăn.

      - Rồi sao nữa, thưa ông? - Viên thanh tra hỏi.

      - Tôi có đủ lí do để cho rằng tên Abe Slaney này là người Mỹ, bởi vì Abe là tên Mỹ, viết tắt của tên Abel, và tất cả cái bi kịch xảy đến cho ông bà Hil-tơn đều bắt nguồn từ lá thư bên Mỹ gởi sang. Tôi cũng có những lí do mạnh mẽ để tin rằng tất cả vụ này xoay quanh bí mật tội lỗi. Việc bà Hil-tơn bóng gió đến quá khứ của bà và việc bà từ chối cho chồng biết cái quá khứ, để cho tôi kết luận như thế. Tôi bèn gởi bức điện tín cho ông bạn Wilson Hargreave của tôi, thuộc sở cảnh sát New York, hỏi ông ta có biết cái tên Abe Slaney là ai . Câu trả lời là: "Tên lưu manh nguy hiểm nhất ở Chicago". Ngay trong buổi sáng ngày mà tôi nhận được câu trả lời đó, ông Hil-tơn đến, cho tôi xem "tấm hình nhảy múa" cuối cùng của Slaney.

      Thay thế những hình nhân bằng những con-chữ-cái biết, tôi có được câu này:

      ELSIE . RE . ARE TO MEET THY GO .

      Chỉ có 2 chữ P và chữ D mới bổ sung được câu này cách có ý nghĩa:

      ELSIE PREPARE TO MEET THY GOD

      (Elsie, hãy chuẩn bị về chầu Chúa).

      Đó là lí do tại sao tôi tức tốc ngay đến Norfolk cùng với ông bạn Watson.

      - là có lợi vô cùng khi được làm việc với ông - Thanh tra Mác-tin bằng giọng đầy phấn khởi - Tuy nhiên, nếu tên Abe Slaney này bỏ trốn trong khi tôi ngồi ở đây chắc chắn tôi bị nhiều chuyện rắc rối lớn!

      - Ông đừng sợ: trốn đâu.

      - Làm sao ông biết.

      - Nếu trốn là tự thú nhận là mình có tội.

      - Vậy chúng ta bắt .

      - Chốc nữa đến đây.

      - Tại sao lại đến?

      - Tại vì tôi viết thư mời .

      - Nhưng thể được ông Holmes! Tại sao lại chịu đến đây chỉ vì có lời cầu của ông?

      - Lá thư tôi viết có hiệu quả. Kìa, đến kìa!

      người đàn ông tiến theo lối đưa đến cửa lớn. Thân hình cao lớn, vạm vỡ, nước da sạm nắng, gương mặt của nổi bật hàm râu đen xồm xoàm và chiếc mũi quặp to lớn. cách hiên ngang như thể ngôi nhà này thuộc về rồi, cây can quơ qua quơ lại khí.

      - Này các ông - Holmes bằng giọng bình tĩnh - Chúng ta nên thủ thế sẵn sàng đằng sau cánh cửa. Với tên cướp như thế này, chúng ta phải hết sức cẩn thận. Ông thanh tra, xin vui lòng để tôi ra tay trước.

      Cánh cửa mở ra, bước vào. Ngay lúc đó, Holmes dí súng dưới mũi và Mác-tin còng tay lại. Động tác này diễn ra quá bất ngờ và quá nhanh ***ng khiến Slaney chưa kịp phản ứng gì. nhìn chúng tôi bằng đôi mắt giận dữ rồi cất lên tràng cười chua chát:

      - Thế là tôi rơi vào bẫy của các ông. Nhưng các ông hãy nghe đây: tôi đến đây vì lá thư của bà Hil-tơn. Các ông đừng với tôi là bà ấy tiếp tay với các ông để làm ra cái bẫy này.

      - Bà Hil-tơn bị thương rất nặng, có thể nguy đến tính mạng.

      Tiếng thét rùng rợn của Slaney vang dội khắp cả ngôi nhà:

      - Ai làm cho Elsie bé của tôi bị thương? Tôi có đe doạ nàng. Nhưng bao giờ tôi **ng đến sợi tóc xinh đẹp của nàng! Các ông hãy thú rằng nàng bị thương!

      - Người ta thấy bà Hil-tơn bị thương rất nặng bên cạnh tử thi của chồng bà.

      Tên tội phạm rơi xuống ghế tràng kỉ, vừa rên rỉ vừa đưa hai bàn tay bị còng lên ôm lấy đầu, im lặng trong năm phút. Rồi ngẩng đầu lên, gương mặt đượm vẻ tuyệt vọng, lạnh lùng:

      - Nếu tôi có bắn vào người đàn ông cũng có bắn vào tôi: vậy có vấn đề ám sát. Nhưng nếu các ông nghĩ rằng tôi bắn vào người đàn bà, ràng là các ông hiểu tôi, cũng như hiểu nàng. Tôi xin thề với các ông rằng thế giới này có tình nào mãnh liệt hơn tình của tôi đối với nàng! Trước đây, nàng hứa hôn với tôi. Người kia là ai? Tại sao lại chen vào giữa nàng và tôi? Chỉ có tôi mới có quyền hạn đầu tiên đối với nàng, và tôi đến đây là chỉ để đòi lại người của tôi thôi.

      - Bà ấy trốn ông, khi bà ấy biết ông là hạng người như thế nào - Holmes bằng giọng nghiêm khắc - Bà ấy trốn khỏi nước Mỹ, để gặp ông nữa, và bà ấy kết hôn tại nước , với người đàn ông lương thiện. Ông tìm ra được dấu vết của bà ấy, bắt buộc bà ấy theo ông. Hành động của ông đưa đến cái chết cho người đàn ông cao quý và làm cho vợ ông ta phải tự sát. Ông Abe Slaney, ông phải chịu trách nhiệm trước pháp luật!

      - Nếu Elsie chết, tôi cóc cần những gì ở đời này nữa! - Abe Slaney đáp, vừa mở lòng bàn tay ra để cho chúng tôi thấy miếng giấy nhàu nhò nằm trong đó - Các ông hãy xem cái này! - kêu lên, đôi mắt thoáng vẻ nghi ngờ - Các ông làm cho tôi sợ đâu, các ông biết chứ! Nếu Elsie ở trong tình trạng như các ông vừa ai viết thư này?

      ném miếng giấy lên bàn.

      - Tôi. Chính tôi viết bức thư đó - Holmes đáp.

      - Ông ư? thế giới này có ai ngoài băng nhóm của chúng tôi biết được bí mật của những hình nhân nhảy múa. Làm sao ông viết được lá thư này?

      - Những gì người phát minh ra được người khác cũng có thể khám phá ra được! - Holmes đáp - Đây là chiếc xe đưa ông đến Norwich, ông Slaney. Nhưng trước đó, ông còn có đủ giờ để sửa chữa phần nào tội lỗi mà ông làm. Ông có biết rằng bà Hil-tơn bị nghi ngờ ám sát chồng bà ? Nếu tôi có ở đây, nếu tôi may mắn tìm ra được những điều bí mật của ông, bà ấy bị buộc vào tội sát nhân. Điều tối thiểu mà ông có thể làm được cho bà ấy là xác minh bà ấy có trách nhiệm gì cả, trực tiếp hay gián tiếp, về cái chết bi thảm này.

      - Tôi đòi hỏi gì hơn! - Slaney đáp - Hơn nữa, hoàn toàn là lời biện hộ tốt nhất cho tôi.

      - Tôi có bổn phận báo trước cho ông biết rằng những điều mà ông có thể được sử dụng để buộc tội ông! - Thanh tra cảnh sát Mác-tin kêu lên.

      Slaney nhún vai:

      - Vì nàng, tôi bất chấp tất cả. Tôi với người đàn bà này quen biết nhau từ thuở . Lúc ấy, chúng tôi gồm có 7 người trong băng cướp ở Chicago; cha nàng là sếp của chúng tôi. Ông già Pa-tríc là người thông minh! Chính ông ấy phát minh ra lối chữ viết bí mật này, lối chữ viết mà mới nhìn qua, người ta cứ tưởng là trò chơi trẻ con, Elsie có biết vài phương pháp làm việc của chúng tôi, nhưng nàng thể cùng với chúng tôi được: nàng có bản chất lương thiện nên nàng chống lại lối sống bất lương của chúng tôi.

      Tôi ở vùng này được tháng. Tôi thuê căn phòng ở tầng của nông trại Elriges nơi tôi có thể ra vào hàng đêm mà ai trông thấy, cũng ai hay biết. Tôi làm đủ mọi cách để thúc đẩy Elsie ra với tôi. Tôi biết nàng có đọc những lời nhắn của tôi, bởi vì có lần nàng ghi câu trả lời: " bao giờ" ở bên dưới. Cơn tức giận nổi lên, tôi bắt đầu đe doạ nàng. Nàng bèn gửi cho tôi lá thư năn nỉ tôi, cầu tôi rời khỏi vùng này, bảo rằng nàng vô cùng đau đớn nếu danh dự của chồng nàng bị ô uế vì vụ tai tiếng. Nàng bảo rằng nàng xuống dưới nhà vào lúc 3 giờ sáng, khi chồng nàng ngủ say, và chuyện với tôi đằng sau chiếc cửa sổ, nếu tôi hứa sau đó ra . Nàng đến đúng hẹn, đứng đằng sau cánh cửa sổ và mang theo túi tiền. Nàng muốn dùng tiền bạc để buộc tôi phải ra . Điều này làm cho tôi nổi điên lên. Tôi liền nắm lấy tay nàng, gắng hết sức kéo cửa sổ. Đúng lúc đó, chồng nàng từ lầu chạy xuống, tay cầm súng lục. Elsie ngã xuống sàn nhà, chỉ còn lại hai chúng tôi đối diện với nhau. Tôi rút khẩu súng của tôi ra với ý định làm cho ông ta phải để cho tôi chạy thoát. Nhưng ông ta nổ súng. Tôi liền bắn trả lại gần như cùng lúc. Ông ta ngã gục xuống và tôi bỏ chạy băng qua khu vườn. Tôi nghe có tiếng cửa sổ đóng lại phía sau tôi. Thưa các ông, đó là hoàn toàn và tôi biết gì hơn nữa, ngoại trừ sau đó có cậu bé cưỡi ngựa đến nông trại trao cho tôi bức thư bảo tôi đến đây. Và tôi rơi vào tay các ông, như thằng ngốc.

      chiếc xe đến cùng với hai cảnh sát vận sắc phục, trong khi Slaney thuật lại câu chuyện. Thanh tra đứng lên, với kẻ phạm tội:

      - Nào, chúng ta hãy . đến giờ rồi.

      - Tôi có thể gặp nàng chút được ?

      - . Bà ấy hôn mê. Thưa ông Sherlock Holmes, nếu trong tương lai tôi có vụ quan trọng nào khác phải điều tra, tôi rất sung sướng được có ông ở bên cạnh!

      Đứng trong khung cửa sổ, chúng tôi nhìn theo chiếc xe mỗi lúc xa dần. Khi quay đầu lại, tôi trông thấy miếng giấy mà Slaney ném lên bàn lúc nãy. Đó là bức thư mà Holmes gởi cho ta.

      - hãy thử đọc nó , Watson! - Holmes mỉm cười với tôi.

      Bức thư chỉ có hàng hình nhân nhảy múa:

      - Nếu bạn sử dụng cái chìa khoá những kí hiệu mà tôi giải thích với bạn, Holmes tiếp, bạn thấy câu này có nghĩa là: "Come here at one" (hãy đến ngay lập tức). Tôi tin chắc ta thể từ chối lời kêu gọi này, bởi vì ta thể nghi ngờ câu này do người nào khác viết, ngoài bà Hil-tơn. Và thế là chúng ta biến những con người nhảy múa, trước kia phục vụ cho tội ác, nay trở thành những kẻ phục vụ cho luật pháp. Chuyến xe lửa khởi hành lúc 3 giờ 40. Tôi muốn ăn tối tại nhà mình.

      Vụ này thế là được Holmes giải quyết cách tài tình. Tưởng cũng nên biết số phận của hai kẻ còn sống sót trong tấn bi kịch:

      Abe Slaney bị toà đại hình Norwich kết án tử hình. Nhưng sau đó được giảm xuống thành khổ sai chung thân, bởi vì Hil-tơn bắn trước. Về phần bà Hil-tơn, bà được cứu sống, và sau thời gian bình phục. Bà tái giá, hiến dâng đời mình cho những công cuộc từ thiện, và chăm lo quản trị gia sản của chồng.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :