Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      6. Bộ mặt vàng vọt

      M ột lần vào đầu xuân, Holmes và tôi cùng dạo trong công viên. Những chiếc lá xuân đầu tiên nhú lên các cành cây du, những cái chồi dính dính của hàng cây dẻ cựa quậy thành mấy chiếc lá non đẹp. Chúng tôi suốt hai tiếng liền. Khi quay trở về gần năm giờ.
      “Thưa ông,” Chú bé giúp việc vừa mở cửa vừa “Có vị khách đến. Ông ta hỏi ông.”
      “Khách rồi à?” Holmes hỏi.
      “Vâng, thưa ông!”
      “Sao cháu mời ông ta vào nhà ngồi chơi lát?”
      “Dạ có, ông ấy có vào nhà.”
      “Ông ta đợi lâu ?”
      “Nửa tiếng. Khách rất sốt ruột. Suốt thời gian ở đây ông ta cứ lại lại khắp phòng. Cuối cùng, ông ấy chạy ra ngoài hành lang và than thở " biết đến khi nào ông Holmes mới về?". Cháu đáp ngay: " lát nữa thôi!". Ông ta : "Được, tôi chờ, nhưng tôi chờ ở đây, mà ở nơi khí thoáng đãng kia! Chốc nữa tôi quay trở lại". Thế là ông ấy thẳng.”
      “Giỏi! Cháu làm được việc.” Holmes và chúng tôi bước vào căn phòng của mình “Tuy nhiên, là bực mình! Tôi buồn chán vì thiếy việc làm. Suy từ nôn nóng của người ấy chắc công việc nàyquan trọng đâỵ Ồ! Chiếc tẩu của ông ta? Chiếc tẩu tuyệt vời với cái tay cầm dài cứng như vậy.” Holmes xoay xoay chiếc tẩu trong tay và xem xét nó với vẻ thận trọng.
      dùng ngón tay trỏ gõ gõ vào nó tựa như giáo sư giải phẫu học giảng về thứ xương nào đó. Rồi tiếp:
      “Chủ nhân của nó hẳn là người vạm vỡ, thuận tay trái, có bộ răng tốt, và là người phong lưu”
      “Chỉ vì thấy ông ta có chiếc tẩu đắt giá mà cậu cho rằng đó là người giàu có hay sao?”
      Holmes khẽ khàng gỡ chiếc tẩu thuốc trong lòng bàn tay của mình:
      “Bởi vì ông ta có thể mua thứ thuốc lá hảo hạng, loại Grosvenor giá 8 pence[1] mỗi ounce[2], đắt gấp hai lần thuốc bình thường.”
      “Cậu còn kết luận nào ?”
      ta có thói quen hút thuốc lá dưới ngọn đèn bàn hoặc đèn bằng khí ga: chiếc tẩu cháy xém. Nó bị cháy chỉ ở phía phải: Vậy chủ nhân của nó là người thuận tay trái. Hãu thử châm tẩu thuốc bằng bàn đèn . Bởi thuận tay trái, cho nên tự nhiên đưa phần trái của tẩu thuốc đến gần ngọn lửa. Sau đó ta cắn xuyên qua bót. Chỉ người khỏe mạnh và có bộ răng tuyệt vời mới có thể làm được chuyện đó ... Song nếu tớ lầm kia là tiếng từng bước chân của ông ta ngoài cầu thang!”
      Chưa đầy phút sau, cách cửa rộng mở. người đàn ông khoảng 30 tuổi, cao lớn bước vào phòng. Ông ta mặc bộ com-lê màu thẫm bằng thứ vải tốt được cắt khéo léo. Tay cầm chiếc mũ phớt màu xám rộng vành.
      “Xin thứ lỗi!” Ông ta có phần hơi luống cuống “Hẳn là tôi cần gõ cửa. Nhưng quả thực tôi hơi bối rối.” Ông ta đưa tay lên xoa xoa trán như người đầu óc bị choáng váng.
      “Ông mất ngủ đến hai đêm rồi.” Holmes từ tốn “Điều đó làm hao kiệt thần kinh nhiều hơn so với làm việc. Xin được phép đề nghị, tôi có thể giúp ông được gì ?”
      “Tôi muốn được ông khuyên giải, thưa ông...”
      “Ông muốn tôi giúp ông với tư cách người tư vấn, thám tử hay sao?”
      “Vâng. Ông là người từng trải việc đời. Và tôi muốn ông chỉ bảo cho tôi những việc tôi cần làm.” Ông ta những câu ngắn, mạnh và đứt quãng.
      “Ông Grant Munro thân mến...” Holmes bắt đầu .
      Vị khách của chúng tôi nhỏm phắt dậy.
      “Sao? Ông biết tên tôi à?” Ông ta kêu lớn.
      “Nếu ông muốn danh” Holmes mỉm cười đừng viết tên mình mảnh vải lót của chiếc mũ, hoặc là đừng xoay chiếc mũ lại để người chuyện với mình thấy hàng chữ đó. Tôi muốn rằng tại căn phòng này. bạn của tôi và tôi từng nghe nhiều bí mật đáng kinh ngạc. Và chúng tôi đem lại niềm thư thái cho bao tâm hồn đầy lo âu. Chúng tôi rất vội, bởi vậy xin ông nhanh chóng kể cho tôi nghe tất cả những gì xảy ra.”
      Vị khách lại lấy tay xoa trán. Ông ta có vẻ khó khăn khi bắt đầu câu chuyện. Mỗi cử chỉ, mỗi nét mặt đều chứng tỏ ông ta là người kín đáo, giữ ý và kiêu hãnh. Ông ta có thiên hướng che đậy những vết thương lòng của mình hơn là phơi bày ra. Nhưng đột nhiên ông ta giận dữ vung tay lên, tựa như quẳng tính dè dặt vào hướng nào đó.
      “Tôi cưới vợ ba năm, chúng tôi hoàn toàn hạnh phúc. hề giấu giếm nhau điều gì, cả ý nghĩ lẫn hành động. Thế nhưng, từ thứ hai vừa rồ, chúng tôi trở thành xa lạ với nhau, và tôi muốn biết vì sao như vậy ... Tôi biết chưa bao giờ nàng tôi bằng lúc này. Nhưng, nếu điều bí chắn giữa chúng tôi chưa được tháo gỡ mối quan hệ tốt đẹp giữa chúng tôi tồn tại.”
      “Cám ơn ông cho tôi biết thực, ông Munro.”
      “Effie đến Hoa Kỳ sống ở thành phố Atlanta lúc còn rất trẻ. Tại đó nàng kết hôn với Hebron, luật sư có tiếng trong vùng. Họ sống hạnh phúc và có mụn con. Nhưng sau trận dịch sốt vàng da giết chết chồng và con, nàng trở về quốc sống với người dì ở Middlesex. Tôi thấy cần phải nhắc lại rằng sau cái chết của chồng, nàng thừa hưởng gia tài chừng bốn ngàn rưỡi bảng[3] nằm trong ngân hàng. Hàng năm nàng nhận được bảy phần trăm tiền lãi. Nàng chỉ sống với người dì chừng nửa năm tôi gặp nàng. Chúng tôi nhau và sau vài tuần làm phép cưới. Lúc đó nàng hai mươi lăm tuổi.
      Tôi là người buôn hoa quả. Lãi suất của tôi độ chừng tám trăm bảng năm, bởi thế chúng tôi sống khá phong lưu: biệt thự tốt ở Norbury. Thị trấn này khác thôn quê cho lắm. Tại đó có hai ngôi nhà và khách sạn cao hơn biệt thự của chúng tôi chút. Còn ngay phía trước mặt chúng tôi có biệ thự đứng tách riêng ra. Ngoài những ngôi nhà ấy còn công trình xây dựng nào ở gần ga hơn nữa. Khi tôi lập gia đình, vợ tôi chuyển giao cho tôi toàn bộ tài sản của nàng. Tôi đồng ý, vì ngại rằng nếu tôi bị thất bại trong công việc làm ăn, vốn liếng của nàng mất hết. Nhưng nàng vẫn nằng nặc đòi làm theo ý mình. Đột nhiên, cách đây hơn tháng, nàng với tôi như thế này:
      Jack này, lúc nhận tiền của em, rằng vào bất kỳ lúc nào em cũng có thể lấy lại số tiền đó.
      Tất nhiên, vì đây là số tiền của em.
      Em cần trăm bảng.
      Để làm gì?
      ! - Nàng luống cuống trả lời - là chủ ngân hàng của em...Thế mà, có bao giờ các chủ ngân hàng hỏi khách rút tiền để làm gì?
      Nếu em cần có ngay đây thôi.
      Vâng. Em cần.
      Em ư?
      Sau này . Còn bây giờ .
      Tôi buộc phải vui lòng với câu trả lời như thế. Từ đây trở , nàng giấu tôi điều gì nữa. Tôi đưa séc cho nàng và nghĩ gì thêm về câu chuyện đó. Như tôi vừa với ông, có biệt thự nằm cách xa ngôi nhà của chúng tôi. Hai căn nhà chỉ cách nhau có bãi cỏ. Để đến ngôi biệt thự, người ta phải theo con đường và sau đó rẽ vào lối mòn. Ngay phía sau biệt thự, là cánh rừng thông . Tôi rất thích dạo trong cánh rừng. Suốt tám tháng ròng, trong ngôi biệt thự có người ở. Tôi lấy làm tiếc là ngôi nhà lại bỏ như vậy. Đó là tòa lâu đài hai lầu xinh xắn, với những cột hành lang cổ kính. Nhiều lần khi dừng lại trước ngôi nhà, tôi tự nghĩ: " dinh cơ nhắn, đầm ấm biết bao!".
      Thế rồi, vào buổi chiều thứ hai tuần trước. Trong khi dạo, tôi nhìn thấy chiếc xe chở hàng có mui chạy đường. Sau đó bãi cỏ phía trước thềm chất đống những tấm thảm và các đồ đạc khác. ràng ngôi biệ thự được cho thuê. Tôi quanh ngôi nhà, trong khuôn cửa sổ có khuôn mặt theo dõi tôi. Từ xa, tôi thể nhìn bộ mặt ấy, nhưng tôi cảm thấy ở đó có cái gì trái tự nhiên, phi-nhân-tính. Do ấn tượng này, tôi muốn đến gần hơn để biết ai theo dõi mình. Nhưng đúng vào lúc đó, khuôn mặt màu vàng xám xịt đó tự nhiên biến mất. Hình như có ai đứng phía sau kéo người ấy vào. Tôi đứng chừng năm phút nữa, rồi quyết định trèo lên bậc tam cấp, gõ cửa. Ngay lập tức, người đàn bà cao nghệu với dáng vẻ hài lòng ra mở cửa.
      Ông cần gì? - Bà ta hỏi với giọng người Scotland the thé.
      Tôi là láng giềng của bà, ở ngay cạnh đây. Tôi thấy bà mới đến. Liệu tôi có thể giúp bà được điều gì chăng?
      Khi nào cần, chúng tôi gọi! - Bà ta và đóng sầm của lại.
      Suốt buổi tối, mặc dù tôi cố gắng nghĩ về điều gì khác, nhưng ý nghĩ của tôi vẫn cứ trở về với bộ mặt thập thò trong cửa sổ và người đàn bà xấc xược đó. Tôi gì cho vợ tôi biết. Nàng là người đàn bà dễ buồn phiền. Chỉ tới lúc ngủ, tôi nhận xét qua quýt với nàng là ngôi nhà bên cạnh có người ở. Nàng làm thinh.
      Đêm hôm ấy, giữa giấc ngủ, tôi mang máng cảm thấy chung quanh mình cái gì đó diễn ra. Điều sau đây từ từ đến trong ý thức của tôi: Vợ tôi thức dậy, bắt đầu choàng áo ngoài và đội mũ. Trong giấc ngủ, tôi sẵn sàng biểu lộ cái gì tựa như phản đối hoặc ngạc nhiên. Nhưng, sau khi hé mắt ra, dưới ánh sáng của ngọn nến, tôi thấy mặt nàng xanh mét, nàng thở hổn hển lúc cài áo khoác ngoài vào người và lén lút nhìn vào giường; yên chí là tôi ngủ, nàng thận trọng lẻn ra khỏi phòng. thoáng sau, tôi nghe có tiếng cót két của chiếc cửa ra vào. Tôi ngồi dậy đập tay mạnh vào thành giường để biết chắc là mình thức. Tôi rút chiếc đồng hồ ở dưới gối: ba giờ sáng. Vợ tôi làm gì giữa đêm hôm thanh vắng này?
      Tôi ngồi thừ ra đến hai mươi phút, cố gắng tìm ra lời giải thích nào đó. Nhưng càng suy nghĩ lại càng khó hiểu. Tôi càng lúng túng hơn khi cánh cửa ra vào lại khẽ mở và có tiếng bước chân của vợ tôi cầu thang.
      Em ở đâu đấy, Effie? - Tôi hỏi, khi nàng bước vào.
      Toàn thân nàng run lên. Nàng khẽ kêu lên tiếng, xúc động và tiếng kêu này khiến tôi lo sợ hơn tất cả. Trong tiếng kêu chứa điều tội lỗi. Vợ tôi luôn luôn là người đàn bà trung thực. Bởi thế, tôi lạnh cả người khi nàng len lén vào phòng mình.
      ngủ hay sao, Jack? - Nàng thốt lên trong nụ cười gượng gạo - Em tưởng rằng gì có thể khiến thức.
      Em ở đâu? - Tôi lạnh lùng hỏi.
      Em hiểu ngạc nhiên như thế nào - Nàng khi nàng cởi cúc áo khoác. Ngoài ra, tôi còn nhận thấy những ngón tay của nàng run lẩy bẩy - Trước đây em chưa bao giờ nghĩ rằng có chuyện gì xảy ra với em. Chuyện chỉ có thế này: Đột nhiên em bắt đầu cảm thấy ngột thở. Em cần khí trong lành. Em ra đứng cạnh cửa chừng vài phút, và bây giờ em lại cảm thấy bình thường.
      Khi những lời này, nàng quay về phía tôi và giọng của nàng như mọi khi. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: nàng dối. Tôi trả lời, quay mặt vào tường với nỗi đau đớn trong tim. Vợ tôi giấu giếm tôi điều gì? Nàng đâu? Từ đó cho đến sáng, tôi luôn cựa mình, trằn trọc, gắng tìm lời giải thích đáng tin cậy hơn.
      Ngày hôm ấy, tôi phải ra thành phố. Thế nhưng tôi lo lắng đến mức làm được việc gì. Vợ tôi hình như cũng lo lắng. Trong lúc ăn sáng, chúng tôi trao đổi với nhau lời. Và ngay sau đó tôi đến cung điện Crystal, ở đó giờ đồng hồ và trở về Norbury lúc giờ trưa. Khi qua tòa biệt thự, tôi dừng lại giây lát, nhìn vào khung cửa sổ? Đột nhiên, cánh cửa mở rộng và vợ tôi từ trong đó bước ra.
      Tôi ngây người khi nhận ra nàng. Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy vợ tôi muốn mình vào trong nhà. Tuy nhiên, khi biết mọi trốn chạy đều vô hiệu, nàng bắt đầu bước về phía trước và mỉm cười:
      Ôi Jack! - Nàng - Em rẽ vào vì muốn biết có thể giúp những người láng giềng của chúng ta được điều gì ? Tại sao lại nhìn em như vậy?
      Ban đêm em ở đây phải ?
      muốn gì vậy? - Nàng kêu lên.
      Em đến đây, tin chắc như vậy! Sao em tới thăm họ vào lúc nửa đêm.
      Chưa khi nào em ở đây cả.
      Sao em lại dối - Tôi bắt đầu kêu lên - Thậm chí giọng của em cũng bị thay đổi khi nghe hỏi. Phải chăng em có những điều bí đối với ... vào biệt thự này và tự mình khám phá ra tất cả.
      Đừng! Đừng! !.
      Nàng thở hổn hển khi đủ sức che giấu nỗi khiếp đảm của mình. Lúc tôi tới gần cánh cửa, nàng túm lấy tay tôi, kéo tôi ra với sức mạnh ngờ.
      Em van , đừng vào! - Nàng la lên - Em thề rằng sớm hay muộn rồi em cũng kể cho nghe tất cả. Nhưng sau, sau này ... Nếu vào ngôi nhà này, tai họa xảy ra.
      Tôi gắng vùng thoát khỏi tay nàng nàng lại càng túm lấy tôi với những lời cầu xin điên cuồng.
      Hãy tin em - Nàng kêu lên - Hãy tin em chỉ lần này nữa thôi! bao giờ hối tiếc đâu. Còn nếu như em có giấu chuyện gì cũng chỉ vì mà thôi. Chúng ta cùng trở về nhà , rồi mọi chuyện đâu vào đấy. Còn nếu vào ngôi nhà này ngoài ý muốn của em mối quan hệ của chúng ta chấm dứt.
      Giọng của nàng chứa tuyệt vọng chân đến nỗi tôi phải dừng lại trước cửa ngôi nhà.
      chỉ tin em với điều kiện - Cuối cùng tôi - muốn tất cả được mau chóng kết thúc. Em có thể giữ kín bí mật của mình, nhưng hãy hứa với là phải ngừng ngay mọi cuộc thăm viếng ban đêm và làm điều gì lén lút nữa.
      Em xin hứa - Nàng thốt lên với tiếng thở phào nhõm - Mọi chuyện diễn ra như ý. Nào, hãy về nhà !
      Nàng vừa nắm lấy tay áo tôi vừa kéo tôi ra khỏi biệt thự. Nhân thể tôi ngoảnh trông lên khung cửa sổ phía và tôi lại thấy khuôn mặt màu vàng tái ngắt theo dõi chúng tôi. Có thể có mối liên hệ nào giữa vợ tôi với con người này vậy? Hoặc nàng có mối quan hệ gì với người đàn bà thô lỗ hôm trước?
      Sau chuyện đó tôi ở nhà luôn hai ngày liền. Hình như vợ tôi nghiêm chỉnh tuân theo các giao ước giữa chúng tôi. Nàng ra khỏi nhà. Thế nhưng, sang ngày thứ ba thể có lời nguyền nào giữ nổi nàng.
      Vào ngày hôm đó tôi ra thành phố và trở về chuyến tàu hỏa hai giờ bốn mươi phút, nghĩa là về sớm hơn thường lệ. Khi tôi bước vào nhà chị hầu phòng chạy ra gặp tôi với bộ mặt đầy vẻ sợ hãi.
      Bà chủ đâu? - Tôi hỏi.
      Hình như bà dạo chơi.
      Tôi sinh nghi, chạy bổ lên lầu để biết chắc là nàng có ở nhà hay . Tôi vô tình nhìn qua cửa sổ và thấy chị hầu phòng băng qua bãi cỏ để tới ngôi biệt thự. Tôi hiểu ngay.
      Run lên vì phẫn nộ, tôi lao nhanh xuống phía dưới, bước qua bãi cỏ, quyết chấm dứt vĩnh viễn chuyện này. Tôi trông thấy vợ tôi cùng người hầu chạy theo lối mòn về nhà. Thế nhưng tôi đứng lại chuyện với họ. Tôi thề phải khám phá ra bí mật này. hề gõ cửa, tôi xoay tay nắm cánh cửa, chạy vào hành lang.
      Lầu im ắng. Ở nhà bếp, ấm trà sôi lửa, còn con mèo đen nằm cuộc tròn. thấy bóng dáng người đàn bà tôi gặp trước đây. Tôi chạy bổ sang phòng khác: cũng trống . Tôi băng mình lên phía . có ai trong hai phòng. Toàn bộ ngôi nhà bóng người. Từ đồ đạc đến cách bài trí đều tuềnh toàng và phàm tục, trừ mỗi căn phòng mà qua cửa sổ của nó tôi nhìn thấy bộ mặt khủng khiếp trước đây. Đó là căn phòng được xếp đặt ngăn nắp và trang nhã. Tất cả mối hoài nghi của tôi chuyển thành lòng căm giận mãnh liệt và cháy bỏng khi tôi nhìn thấy bức ảnh toàn thân của vợ tôi lò sưởi. Bức ảnh này được chụp theo cầu của tôi cách đây ba tháng.
      Tôi ở đó đủ thời gian cần thiết để xác định đây quả thực là ngôi nhà hoàn toàn trống rỗng. Khi ấy, tôi rời ngôi nhà với nỗi đau đớn trong tim. Lúc quay về nhà, vợ tôi bước tới gần tôị Nhưng tôi đau lòng và căm giận tới mức buồn chuyện với nàng. Tôi qua chỗ nàng, cố lảng tránh để vào phòng mình. Tuy vậy nàng vẫn theo kịp trước khi tôi đóng cửa lại.
      Rất tiếc là em vi phạm lời cam kết. Nhưng giá như mọi chuyện chắc tha thứ cho em.
      Hãy kể !
      kể được, Jack ạ.
      Chừng nào em chưa ai sống trong căn biệt thự ấy và em trao bức ảnh cho ai bao giờ tin em - Tôi lớn và sau khi vùng thoát khỏi nàng, tôi ra khỏi nhà.
      Chuyện đó xảy ra vào ngày hôm qua, ông Homles ạ! Ngày hôm nay tôi về nhà. giả dối của nàng khiến tôi lo ngại. Sáng nay tôi nghĩ đến ông.”
      Nãy giờ Holmes ngồi im lặng, chống tay lên cằm hồi lâu. Cuối cùng hỏi:
      “Ông có cam đoan rằng ông nhìn thấy bộ mặt của người đàn ông trong cửa sổ ?
      “Lần nào tôi cũng đứng khá xa, nên dám cả quyết điều đó.”
      “Có điều nó gây cho ông ấn tượng khó chịu chứ?”
      “Nó có vẻ chết chóc và bất động đến ghê sợ Khi tôi đến gần nó lập tức biến mất.”
      “Bà nhà xin ông 100 bảng hồi nào?”
      “Cách đây hai tháng.”
      “Có khi nào ông thấy bức ảnh người chồng trước của vợ ông ?”
      . Chẳng bao lâu sau khi ông ta chết, ở Atlanta xảy ra vụ cháy lớn, mọi giấy tờ đều bị thiêu hủy.”
      “Tuy nhiên bà nhà hẳn có giấy khai tử của ông ta chứ?”
      “Vâng, nàng có nhận được bản sao sau vụ cháy.”
      “Có bao giờ ông gặp bất kỳ ai biết vợ ông ở Mỹ ?”
      .”
      “Chắc bà có nhận được thư ở bên đó?”
      “Theo tôi biết .”
      “Cảm ơn ông! Tôi muốn được suy ngẫm chút. Có lẽ những người sống trong biệt thự dự đoán trước về việc đột nhập của ông, nên họ khỏi trưóc khi ông tới. Nếu thế rất có thể họ quay trở về và chúng ta dể dàng lý giải mọi chuyện. Vậy ông hãy trở lại Norbury tiếp tục theo dõi các cửa sổ của tòa biệt thự. Nếu ông thấy họ sống trong đó đừng có xộc vào, mà hãy đánh điện cho chúng tôi. giờ sau khi nhận được điện, chúng tôi có mặt.”
      “Còn nếu vẫn chưa có người ở sao?”
      “Nếu thế, ngày mai tôi đến. Chúng tôi cùng ông bàn bạc. Xin tạm biệt!”
      “Watson thân mến, có thể đây là câu chuyện tồi tệ.” Holmes sau khi tiễn chân ông Munro ra khỏi cửa “Cậu nghĩ sao?”
      “Đây là chuyện hoàn toàn nhơ nhuốc.”
      “Quả vậy, đây là dọa nạt để cầu lợi. Nếu đúng thế tớ rất mực sai lầm.”
      “Thế ai là kẻ dọa nạt?”
      “Người sống trong căn phòng đầy đủ tiện nghi ấy, người giữ bức ảnh của người đàn bà lò sưởi. Bộ mặt màu vàng cạnh cửa sổ hiểu vì lẽ gì đó, cứ bám chặt lấy tớ. Và tới quyết bỏ qua vụ này.”
      “Cậu có giả thiết nào chưa?”
      “Mới chỉ là giả thiết bước đầu thôi! Trong tòa biệt thự có đức ông chồng đầu tiên của người đàn bà này.”
      “Vì sao cậu nghĩ như thế?”
      “Khi người chồng tại định vào nhà, bà sợ hết hồn. Tại sao vậy? Theo tôi, là thế này: Người đàn bà lấy chồng ở Mỹ. Sau đó ta trở thành người đáng ghét đối với bà. Chúng tôi giả thiết ông ta có thể bị bệnh phong hoặc có thể thành kẻ ngu đần. Rốt cuộc bà bỏ ông ta, và trở về nước , thay tên và bắt đầu sống lại từ đầu. Bà bước nữa hồi ba năm về trước và coi địa vị của mình là hoàn toàn vững chắc. Thế nhưng nơi ở của bà bị phát hoặc bởi người chồng đầu tiên, hoặc bởi người đàn bà trâng tráo gắn bó với người bệnh. Họ viết thư cho bà ta, đe dọa là đến tố giác bà. Bà ta dùng 100 bảng để đưa cho họ im. Do vậy mà họ đến đó. Khi người chồng vô tình cho bà hay về xuất của những người mới tới ở tòa biệt thự. Bà ta đoán được đó chính là những kẻ săn lùng bà. Sau khi chờ chồng mình ngủ say, bà chạy tới đó thuyết phục họ để bà được sống yên lành. Lần đầu đạt, bà lại tới chỗ họ vào sáng hôm sau. Nhưng vừa ra khỏi nhà bắt gặp chồng. Bà hứa với chồng là vào đó nữa. Tuy vậy, hai ngày sau, hy vọng được thoát khỏi những người láng giềng lại bùng lên trong lòng bà. kìm hãm nổi, bà toan trở lại mặc cả với họ. Bà trao bức ảnh của mình là theo đòi hỏi của họ. Giữa lúc chuyện trò, người hầu chạy tới báo cho họ biết là ông chủ về nhà. Khi ấy, người vợ dẫn họ theo lối cửa sau, có lẽ ra ngoài rừng thông bên cạnh. Như vậy người khách của chúng ta chỉ thấy ngôi nhà trống mà thôi.”
      “Theo tớ đấy mới chỉ là phỏng đoán.”
      “Đúng vậy! Nhưng nó soi sáng hết thảy! Nếu các kiện mới nổi lên mà thể giải thích được, chúng ta có đủ thời gian để chuyển qua xem xét giả thiết của tôi. Chúng ta chưa thể bắt tay vào cuộc nếu chưa nhận được tin tức của ông ta từ Norbury.”
      Chúng tôi phải chờ đợi lâu. Bức điện đến ngay sau bữa điểm tâm. "Biệt thự có người. Lại nhìn thấy bộ mặt trong cửa sổ. Gặp lúc 7 giờ. tiến hành chừng nào các ông chưa đến".
      Ông ta đợi chúng tôi tại sân ga, mặt xanh xao, cả người run rẩy.
      “Họ còn ở đấy, ông Holmes ạ!” Ông sau khi cầm tay bạn tôi “Tôi trông thấy ánh sáng trong tòa nhà khi qua đó.”
      “Kế hoạch của ông thế nào?”
      “Tôi muốn đột nhập vào đó. Nếu chính mắt mình trong thấy kẻ nào đó trong nhà, tôi cầu các ông trở thành nhân chứng.”
      “Ông kiên quyết như vậy?”
      “Cương quyết!”
      “Thôi được, ông có lý. Bất kỳ nào cũng tốt hơn tình trạng ràng như giờ. Cố nhiên chúng ta vi phạm luật, nhưng việc này nên làm như thế.”
      Đêm hôm ấy trời tối đen như mực. Khi chúng tôi từ đường lớn rẽ vào lối mòn trời bắt đầu mưa lâm râm, ông Munro lao mình về phía trước, chúng tôi theo sau.
      “Lửa sáng của ngôi nhà tôi ở đằng kia kìa!” Ông vừa chỉ vào ngọn lửa lấp ló giữa lùm cây vừa lầu bầu .
      “Còn đây là tòa biệt thự, tôi vào đó.”
      Chúng tôi rẽ vào lối mòn và tiến sát đến tòa nhà. Cánh cửa ra vào hé mở. vệt sáng nổi nền đất đen. Có cửa sổ gác thượng sáng . Chúng tôi thấy vệt thẫm chuyển động theo rèm cửa.
      “Tên súc sinh ở đó đấy!” Munro thốt lên “Chính các ông trông thấy nó là ai rồi! Bây giờ hãy theo tôi.”
      Chúng tôi tiến đến gần cửa chính. Đột nhiên từ trong bóng tối, người đàn bà bước ra, dang hai tay ra phía trước, van nài:
      “Trời ơi! nên, !” Bà kêu lên “Em biết thế nào cũng đến. Hãy bình tĩnh lại. quý! Hãy lần nữa tin vào em và rồi bao giờ hối hận đâu!”
      “Từ lâu tôi tin bà!” Ông lãnh đạm trả lời “Hãy buông tôi ra, tôi cần vào trong đó! Còn dây là những người bạn của tôị Họ đến để giúp tôi chấm dứt vĩnh viễn cái việc tồi tệ này.”
      Ông gạt bà sang bên, và chúng tôi cùng bước theo. Lúc ông ta đẩy cửa bà già chạy ra, toan cản đường. Munro đẩy bà ta ra. loáng sau chúng tôi leo lên cầu thang. Munro vượt lên phía trước, nhìn thẳng căn phòng sáng choang chạy tới. Chúng tôi theo sát ông. Đấy là căn phòng đầy đủ tiện nghi được xếp đặt ngay ngắn. Hai ngọn nến cháy lò sưởi. Trong góc phòng, người nào đó xoay lưng lại phía chúng tôi. ràng là cháu . Cháu mặc váy đỏ và đeo găng tay trắng. Đột nhiên cháu quay về phía chúng tôi và kêu lên vì kinh ngạc và hãi hùng. Bộ mặt cháu là kỳ quái: nhợt nhạt và bất động như mặt người chết.
      Holmes bật cười lấy tay xoa tóc cháu bé. Cái mặt nạ rơi xuống. Trước mặt chúng tôi là con bé da đen. Cháu mỉm cười vui vẻ. Hàm răng trắng toát. Vẻ mặt kinh ngạc của chúng tôi khiến cháu phì cười. Tôi cười hả hê với nỗi vui sướng của cháu. Nhưng Munro xấu hổ, ép chặt tay vào ngực, rời mắt khỏi cháu.
      “Thế này là thế nào?” Ông ta kêu lên.
      Người đàn bà với khuôn mặt quả quyết và kiêu hãnh bước vào phòng, lên tiếng.
      “Ông ép tôi phải ra tất cả những gì ngoài mong muốn của mình. Tôi buột lòng vậy. Chồng tôi chết ở Atlanta nhưng đứa bé còn sống.”
      “Đứa con của bà?”
      Bà ta gỡ từ cổ ra sợi dây chuyền có treo kỷ vật.
      “Ông chưa bao giờ trông thấy ông ta à?”
      “Chưa.”
      Bà ta bấm nút, nắp bật ra. Trong có bức chân dung của người có khuôn mặt mang những nét của gốc người Phi thông minh, sáng đẹp đến lạ lùng.
      “Ông ta đấy!” Bà ta trái đất này chưa bao giờ có người cao thượng hơn thế. Tôi rời bỏ quê hương của tôi để lấy ông. Khi ông còn sống, tôi lần nào luyến tiếc về việc đó. Như các ngài thấy đấy, đứa trẻ duy nhất của chúng tôi giống bên nội hơn. Nó đen hơn cha nó. Song đen hay trắng nó cũng là máu thịt của tôi, là đứa con quý của tôi! Tôi để nó lại Mỹ bởi vì nó yếu quá. Tôi gửi cho người đàn bà Scotland trung thành với chồng tôị Nhưng khi tôi gặp ông, tôi ông. Tôi buộc lòng phải chọn lựa hoặc là ông, hoặc là con mình. Ba năm sau, tôi giấu ông về tồn tại của nó. Người bảo mẫu báo cho tôi tất cả và tôi biết là đứa con của tôi thực khỏe mạnh. Cuối cùng tôi mong mỏi được gặp lại nó. Tôi biết điều đó nguy hiểm, nhưng tôi quyết định chuyển đứa bé tới đây trong vài tuần lễ. Tôi chuyển cho người bảo mẫu 100 bảng và hướng dẫn cho bà ta biết tòa biệt thự này để có thể ở đó như người hàng xóm. Để phòng ngừa trước, tôi cầu người bảo mẫu ban ngày cần đeo cho đứa trẻ chiếc mặt nạ và găng tay để nếu có ai trông thấy nó trong cửa sổ bàn tán về diện của đứa bé da đen ở đâỵ
      Đầu tiên ông với tôi là tòa biệt thự có người thuê. Lúc đó tôi sao ngủ được vì xúc động. Rốt cuộc tôi lẻn ra ngoài khi biết là ông ngủ say. Thế nhưng ông phát ra, và chính là điểm khởi đầu cho những nỗi bất hạnh của tôi. Ba ngày sau đó, người bảo mẫu và đứa trẻ chỉ vừa kịp chạy qua cửa sau ông ập vào nhà ... Bây giờ ông biết hết rồi, ông quyết định như thế nào tùy ông.”
      Bà ta nắm chặt lấy tay mình, buồn bã chờ đợi câu trả lời. Munro lời nào, đến bế đứa bé lên, hôn nó và sau khi chìa tay ra cho vợ mình cầm, ông bước ra khỏi cửa, ngọt ngào :
      “Tốt hơn chúng ta về nhà. người được tốt lắm. Effie ạ! Song cho rằng tốt hơn là em nghĩ về .”
      Holmes và tôi bước theo sau họ con đường mòn. Sau đó Holmes kéo tay áo tôi lại:
      “Thôi! Chúng ta ở London có ích lợi hơn ở Norbury.”
      thêm lời nào về chuyện đó. Tuy nhiên vào tối hôm đó, lúc khuya cầm ngọn nến vào phòng ngủ và :
      “Watson thân mến! Nếu lúc nào đó, cậu thấy tớ trở nên quá tự tin, hoặc làm việc ít hơn so với đòi hỏi của công việc hãy vào tai tớ: "Norbury!". Tớ vô cùng cảm tạ.
      Hết
      ---
      [1] Đơn vị tiền tệ của
      [2] khoảng 28 gram
      [3] Nguyên văn: pound (đơn vị tiền tệ của )

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      7. Ngọn lửa bạc

      Holmes quanh quẩn trong phòng, cằm gục xuống ngực, cặp lông mày nhíu lại, hút thuốc liên miên. Người bán báo đưa đến đủ mọi tờ báo khác nhau, Holmes chỉ liếc qua, rồi ném chúng vào xó. suy tư về mất tích kỳ lạ của con ngựa và cái chết của người huấn luyện nó.
      - Watson, chúng ta có vừa đủ giờ để kịp lên tàu ở Paddington, nhớ mang theo cặp ống nhòm.
      giờ sau đó, tôi ngồi trong góc toa tàu hạng nhất, còn Holmes miệt mài trong đống báo...
      - Chúng ta mau đấy - khi nhìn ra ngoài khung cửa sổ và xem đồng hồ - tàu chạy với vận tốc 43,5 dặm giờ.
      - Tôi đâu có thấy cột cây số nào...
      - Tôi cũng thế. Nhưng ở tuyến đường này, các cột dây thép trồng cách nhau 60 yard. Tính ra đơn giản. Hình như cũng rất quan tâm tới vụ ám sát John Straker và vụ mất tích của con “Ngọn lửa bạc”?
      - Tôi có đọc báo.
      - Thảm kịch này quá hoàn hảo, khiến chúng ta có nhiều ước đoán và giả thiết. Khó khăn là ở chỗ phải tách riêng những việc chối cãi được ra khỏi những điều vẽ vời của các ký giả. Tối thứ ba, tôi nhận được hai điện tín: của đại tá Ross, và của thanh tra Gregory. Cả hai đều mời tôi cộng tác.
      - Tối thứ ba à? Thế mà nay là sáng thứ năm. Tại sao từ ngày hôm qua?
      - Bởi vì, tôi thể tưởng tượng nổi là con ngựa đua hay nhất nước lại có thể được che giấu lâu, nhất là trong vùng thưa thớt dân cư như miền Bắc Dartmoor. Ngày hôm qua tôi đinh ninh rằng sớm hay muộn gì người ta cũng tìm ra nó, và kẻ cướp ngựa là người giết ông Straker. Nhưng đêm trôi qua và người ta chẳng làm được việc gì khác hơn là bắt giữ chàng Fitzroy Simpson. Giờ đây tôi mới chịu ra tay. Vả chăng ngày hôm qua cũng phải là ngày bị lãng phí.
      - xác lập được giả thiết.
      - Tôi nghĩ ra được số việc chủ yếu. Tôi xin kể cho nghe: “Con Ngọn lửa bạc xuất thân từ dòng Somomy và nó giữ kỷ lục trứ danh của tổ tiên nó. Chính nó nhặt nhạnh cho đại tá Ross tất cả mọi giải thưởng của trường đua. Cho tới lúc xảy ra thảm hoạ, nó là con ngựa được coi là thắng giải Wessex Cup; thiên hạ đánh cá nó ba ăn . Do đó, có nhiều người muốn cho nó có mặt trong cuộc đua vào thứ ba tới. Tất nhiên, người ta nghĩ tới “lò ngựa” King's Pylan nơi đặt những chuồng ngựa của ông đại tá. Tất cả mọi biện pháp đề phòng được tổ chức chu đáo để bảo vệ nó. Huấn luyện viên John Straker là tay nài ngựa của đại tá trong 5 năm, rồi sau đó trở thành nhà huấn luyện 7 năm nay. Dưới quyền ta có ba người trẻ tuổi: cậu ngủ luôn trong chuồng để canh gác; hai cậu kia ngủ trong cái vựa. Cả ba đều được tiếng tốt. Straker lập gia đình, sống sung túc trong biệt thự , cách chuồng ngựa chừng 200 yard. Họ chưa có con, có người hầu và sống khá sung túc. Quang đó khá vắng vẻ, cách khoảng nửa dặm về hướng bắc, có khu Tavistock gồm những biệt thự dành riêng cho những người đến an dưỡng. Cách Tavistock, từ phía bên kia khu đồng hoang, khảng 2 dặm là trung tâm huấn luyện ngựa Mapleton của huân tước Backwater, do ông Silas Brown quản lý. Ở mọi hướng khác đều hoàn toàn trống trải, chỉ có vài người du mục trú ngụ. Đó là toàn cảnh bao quát vào buổi tối thứ hai, khi tai họa xảy ra.
      Tối hôm đó, các con ngựa tập luyện xong, được dẫn uống nước như thường lệ. Cũng theo thông lệ, các chuồng ngựa đều được đóng cửa, khóa lại vào lúc 9 giờ. Hai trong số các cậu coi chuồng lên nhà ông huấn luyện viên để ăn bữa tối, chỉ để lại cậu Ned Hunter ở lại trông coi. Sau đó vài phút, Edith Baxter, là người hầu , đem đĩa cà ri thịt cừu xuống tận chuồng ngựa cho cậu trực gác, mang thức uống, vì trong chuồng ngựa có vòi nước. Theo quy định, cậu coi chuồng ngựa trực gác chỉ được uống nước lã mà thôi. xách theo ngọn đèn lồng, bởi vì con đường mòn lại băng qua đoạn của cánh đồng hoang.
      tới cách chuồng ngựa chừng 30 yard từ trong vùng bóng tối, người đàn ông bước ra, kêu đứng lại. Đó là người vào khoảng 30 tuổi, mặc bộ đồ may bằng vải tuýt màu xám và đội nón đỏ. Chân ghệt và tay cầm cái roi ngựa, đầu có núm tròn, vẻ mặt nhợt nhạt.
      - vui lòng cho tôi biết đây là đâu? Tôi sắp quyết định ngủ lại bãi hoang chợt trông thấy ánh đèn của .
      - Ông ở sát bên khu chuồng tập ngựa King's Pyland.
      - Thực vậy sao? A, may mắn biết bao! - Người lạ reo lên. - Tôi tin là đêm nào cũng có cậu coi ngựa ngủ lại trong chuồng, đem bữa tối cho cậu ta đấy? Nghe này : từ chối việc kiếm số tiền kha khá để mua cái áo mới, phải thế ?
      Ông ta rút từ trong túi áo gi-lê tờ giấy trắng gấp gọn và với :
      - hãy trao tờ giấy này cho cậu coi ngựa rồi sắm được cái áo đẹp.
      hoảng hồn, chạy ùa tới trước khung cửa sổ mà qua đó chuyển bữa ăn vào. Cửa sổ mở sẵn, Hunter ngồi ở phía bên trong, trước bàn. thuật lại cuộc gặp gỡ bất ngờ người lạ lại chợt đến:
      - Xin chào! - ông ta , khi nhìn qua khuôn cửa sổ - Tôi muốn với cậu đôi lời.
      Trong lúc ông ta , để ý thấy mép của tờ giấy gấp ló ra ngoài những ngón tay.
      - Ông tới đây làm gì? - Cậu giữ chuồng hỏi.
      - Làm cho cái túi của cậu đầy ắp tiền - Người lạ trả lời - Nơi đây cậu có hai con ngựa tranh giải Wessex Cup: con Ngọn lửa bạc và con Bayard. Cậu hãy mách riêng cho tôi tuy-dô nào tốt, cậu thiệt thòi đâu.
      - À, té ra trong mấy tên do thám khốn kiếp, - cậu giữ ngựa kêu lên. - Tôi cho biết King's Pyland này, chúng tôi đối xử ra sao với hạng người như .
      Cậu ta đứng lên và hối hả tới phía bên kia chuồng ngựa để thả chó ra. hầu chạy ùa về nhà, nhưng trong lúc chạy, ta còn ngoái cổ lại, trông thấy người lạ nghiêng mình khung cửa sổ. Tuy nhiên, phút sau đó, khi Hunter dẫn chó tới người lạ còn ở đó nữa. Cậu giữ ngựa vòng quanh khu chuồng: chẳng thấy bóng dáng người lạ đâu hết.
      - Chờ tí! Khi cậu giữ ngựa ra ngoài để thả chó, cậu ta có để cửa ngỏ hay ? - Tôi hỏi.
      - Tuyệt đấy, Watson! - Holmes thầm - Chi tiết này rất quan trọng, vì vậy tôi gởi bức điện khẩn tới Dartmoor và được xác minh rằng thằng khoá cửa lại trước khi chạy tới bên con chó. Ngoài ra khuôn cửa sổ quá hẹp, người thể chui qua.
      “Đợi các bạn mình quay về, Hunter báo cho nhà huấn luyện và thuật chuyện cho ông ta . Báo cáo của Hunter làm cho Straker khó chịu. Bà Straker, thức giấc vào lúc giờ sáng, bắt gặp chồng mặc quần áo. Ông bảo là mình sao ngủ được và ông sắp xuống chuồng ngựa để kiểm tra xem tất cả đều có được bình yên . Bà van xin ông đừng vì bà nghe tiếng những giọt mưa đập dữ dội vào cửa sổ. Nhưng ông ta vẫn khoác cái áo và rời khỏi nhà.
      Bà Straker mở choàng mắt vào lúc 7 giờ sáng, chồng bà vẫn chưa về. Bà vội vã gọi hầu rồi chạy về phía chuồng ngựa. Cánh cửa mở rộng. Bên trong, co rúm chiếc ghế dựa, Hunter chìm đắm trong trạng thái mê mệt hoàn toàn. Ngăn chuồng ngựa trống rỗng. Người huấn luyện viên biến mất.
      Hai cậu giữ ngựa ngủ trong cái vựa được nhanh chóng đánh thức dậy. Trong đêm, họ nghe thấy gì: cả hai đều ngủ say. Hunter bị ảnh hưởng của loại thuốc ngủ mạnh; người ta đành để cho cậu ta ngủ, hai cậu giữ ngựa cùng hai người đàn bà hối hả tìm người vắng mặt.
      Nhưng khi họ leo lên cái mô đất gần nhà, họ thấy con ngựa mà thấy đồ vật khiến họ kinh hoàng: Cách khu chuồng ngựa khoảng 400 yard, cái áo choàng mưa của Straker đu đưa bụi cây kim tước. Ngay sát bên đầm lầy có chỗ trũng: xác nhà huấn luyện xấu số nằm dưới đáy. hung khí đập vỡ đầu ông ta, ngoài ra ông còn bị thương nơi đùi: vết thương dài và nét, chứng tỏ nó bị dụng cụ rất sắc bén gây ra. Tuy nhiên Straker chống trả kịch liệt, bởi vì tay phải của ông có nắm con dao , vết máu đông tới tận cán dao, bàn tay trái xiết chặt chiếc cravat bằng lụa màu đỏ và đen, mà hầu nhận ra đó là cravat của người lạ, buổi tối hôm trước.
      Khi tỉnh lại, Hunter cũng chứng thực về người chủ của chiếc cravat. Cậu tin là người bí mật đó bỏ thuốc mê vào thức ăn trong lúc y nhoài người thành khung cửa sổ và như vậy là loại bỏ người canh giữ con ngựa ra khỏi cuộc khiến.
      Thế còn con ngựa? Trong đất bùn ở chỗ trũng có nhiều dấu vết chứng tỏ con ngựa dự vào cuộc vật lộn của người huấn luyện nó với kẻ sát nhân. Tuy số tiền thưởng lớn được nêu ra, nhưng tất cả dân cư sống trong vùng Dartmoor đều tìm thấy nó. Sau cùng, cuộc phân tích cho thấy là chỗ thức ăn thừa của cậu giữ ngựa có chứa lượng bột thuốc phiện trong lúc những người ở ngôi biệt thự cũng ăn món đó bị gì cả. Đó là những dữ kiện chính của vụ án. Giờ đây là các việc mà cảnh sát làm.
      Viên thanh tra Gregory được giao phó cho mở cuộc điều tra. Ngay khi vừa tới nơi, ông mau chóng tìm thấy và bắt giữ người mang cà vạt đỏ và đen: Simpson. Xuất thân là con nhà gia thế, có học thức, nhưng gã làm tiêu tan gia sản nơi các trường đua ngựa, và sống nhờ nghề cầm cái cá độ về đua ngựa trong các câu lạc bộ thể thao tại London. Khi quan sát cuốn sổ ghi cá độ của ta, người ta phát ta ghi những món tiền đánh cá mà tổng số lên tới 5.000 bảng đối với con ngựa Ngọn lửa bạc. Khi bị bắt, ta khai là xuống Dartmoor với hy vọng thu lượm được vài tin tức về những con ngựa ở King's Pyland cũng như về con Desborough, con ngựa được ưa chuộng thứ hai do Silas chăm sóc trong khu luyện ngựa ở Mapleton. ta chẳng chối là ta hành động như tôi vừa kể với nhưng lại khẳng định là ta ý đồ xấu xa nào. Quần áo bị ướt cho thấy là ta bị mắc mưa suốt đêm hôm trước. Về phần cái roi ngựa, có gắn cục chì đó đúng là thứ khí giới, có thể gây ra những vết thương khủng khiếp khiến cho nhà huấn luyện gục chết. Ở mặt khác, ta lại hoàn toàn hề hấn gì. Thế nhưng số máu dính con dao của Straker lại chứng tỏ rằng chính kẻ tấn công bị vài nhát đâm”.
      - Có thể là vết thương người Straker là do con dao của chính ông ta gây ra vào trong những cơn co giật xảy ra sau khi sọ não bị thương tổn chăng?
      - Có thể là như vậy - Holmes trả lời - Trong trường hợp đó trong những điểm chính để gỡ tội cho bị cáo còn có giá trị.
      - Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa thấy được lập luận của cảnh sát.
      - Bất cứ lý luận nào rồi cũng có những lý lẽ khác bác bẻ lại. Rất có thể, cảnh sát hình dung rằng sau khi đánh thuốc mê chú giữ ngựa, và dùng chìa khoá giả mở cửa, Simpson bắt cóc con ngựa. Trong lúc ngang qua cánh đồng bị người huấn luyện đuổi kịp. cuộc ẩu đả xảy ra. Simpson dùng roi ngựa đập bể đầu người huấn luyện mà bị thương tích gì. Sau đó giấu con ngựa vào chỗ bí mật. Bóng đêm buông xuống khi chúng tôi tới thị trấn Tavistock. Ở nhà ga có hai người ra đón chúng tôi: đại tá Ross và thanh tra Gregory.
      - Tôi vui mừng vì ông tới đây, thưa ông Holmes! - Viên đại tá lên tiếng - ông thanh tra sao lãng việc gì nhưng tôi sẵn lòng trả thù cho Straker và tìm cho ra con ngựa.
      - Có điều gì mới lạ ? - Holmes hỏi.
      - Chúng tôi đạt được nhiều tiến bộ - Viên thanh tra đáp - Có cỗ xe đợi bên ngoài. Chúng ta chuyện đường .
      phút sau, chúng tôi đều ngồi cả trong cỗ xe đủ tiện nghi. Thanh tra thao thao bất tuyệt. Đại tá Ross ngả người về phía sau với cái mũ bẻ cụp xuống che lấy mắt. Còn tôi, tôi chú ý lắng nghe cuộc đối thoại giữa hai thám tử. Gregory trình bày lý luận của ông; nó gần giống như lý luận mà Holmes với tôi xe lửa.
      - Lưới được bủa vây rất chặt chung quanh Simpson - ông giải thích với chúng tôi - Và tôi tin ta là thủ phạm.
      - Thế còn con dao của Straker?
      - Ông ta tự mình gây ra thương tích khi bị té xuống.
      - Bác sĩ Watson cũng ngả theo giả thiết đó. Và nếu giả thiết đó là đúng chàng Simpson này... lâm vào vòng nguy hiểm.
      - Hiển nhiên rồi. có dao mà cũng có vết thương nào. Có quá nhiều điều chống lại ta. ta có nhiều tiền nếu con ngựa kia biến mất, bị nghi là đầu độc người gác chuồng ngựa, có chứng cớ gì về việc ta bị mưa, trang bị roi ngựa nặng, cái cravat của ta lại nằm trong tay nạn nhân.
      Holmes lắc đầu:
      - luật sư giỏi bẻ gãy lập luận của ông: tại sao bị can lại đưa con ngựa ra ngoài? Nếu như muốn làm hại con ngựa y có thể làm ngay trong chuồng? Có ai thấy cái chìa khoá giả trong người y ? Và nhất là y, người xứ lạ làm sao giấu được con ngựa nổi tiếng như con Ngọn lửa bạc? Mảnh giấy mà y nhờ chuyển lại cho cậu giữ ngựa có ý nghĩa gì?
      - Chắc đó chỉ là tấm giấy mười bảng. Chúng tôi tìm thấy tờ trong bóp của y. Những lý lẽ phản bác khác của ông cũng phải là bị vượt qua: Trong mùa hè này, ta tới Tavistock hai lần. Thuốc phiện được mua ở London. Về cái chìa khoá giả, y vứt bỏ sau khi dùng xong. Còn con ngựa, ta tìm thấy nó dưới đáy trong những giếng mỏ cổ xưa nằm rải rác cánh đồng hoang.
      - Thế còn cái cravat?
      - Y nhìn nhận là của y, nhưng cả quyết là y đánh mất. Tuy nhiên giờ này chúng ta có thể xác nhận rằng chính Simpson dẫn con ngựa ra khỏi chuồng...
      Holmes giỏng tai nghe. Viên thanh tra tiếp:
      - Chúng tôi tìm thấy những dấu vết của toán du mục. Trong đêm thứ hai, họ hạ trại cách chỗ xảy ra tội ác gần dặm. Ngày thứ ba, toán du mục biến mất. Khi thấy bị theo đuổi quá gấp, Simpson chẳng dẫn con ngựa đến cho những người du mục hay sao? Vậy là con ngựa ở trong tay những người dân du mục.
      - Đó cũng chỉ là giả thiết.
      - nay, chúng tôi lục soát kỹ vùng đồng hoang để tìm họ. Tôi cũng xem xét mọi chuồng ngựa và tất cả các nhà phụ ở Tavistock, cũng như mọi phần đất nằm trong bán kính 10 dặm.
      - Tôi nghĩ là có chuồng tập ngựa khác ở ngay kế cận, có phải thế chăng?
      - Quả vậy ngựa của chuồng đó xếp hạng thứ hai, họ cũng quan tâm tới con Ngọn lửa bạc. Silas đánh cá lớn về cuộc đua và ông ta cũng chẳng thân thiện gì với ông Straker. Chúng tôi khám xét kỹ mọi chuồng ngựa ở đó nhưng phát thấy gì.
      - Và cũng tìm thấy được mối liên hệ giữa Simpson với chuồng ngựa ở Mapleton sao?
      - Hoàn toàn .
      Holmes ngồi thu mình vào trong xe và cuộc chuyện dừng lại. lát sau, người xà ích ghìm cương trước biệt thự xinh xắn xây bằng gạch đỏ có những mái nghiêng chìa ra. Cách đó khoảng có khu đất rào kín để nhốt ngựa trải dài dãy nhà phụ, mái lợp ngói xám. Chúng tôi nhảy ra khỏi xe, riêng Holmes vẫn ngồi dựa vào thành ghế xe, chăm chú nhìn lên bầu trời, đắm chìm trong những suy tưởng. Tôi phải đụng vào cánh tay, mới giật mình và xuống xe.
      - Xin ngài thứ lỗi cho - với đại tá Ross - Tôi mơ trong lúc thức.
      Trong tia nhìn của ánh sáng và trong thái độ của kích động được kìm nén; tôi hiểu rằng nắm được cái gì đó. Thanh tra hỏi:
      - Thưa ông Holmes, ông thích đến trường ngay tức khắc!
      - Tôi muốn được ở lại đây trong ít lâu. Dường như Straker được đưa về đây.
      - Vâng, ta nằm kia. Ngày mai mở cuộc điều tra tư pháp.
      - ta giúp việc ông trong nhiều năm phải , thưa đại tá.
      - ta chê vào đâu được.
      - Thưa ông thanh tra, ông lập bản liệt kê những món đồ có trong túi nạn nhân?
      - Tất cả đều có trong phòng khách. Ông muốn xem?
      - Tôi rất hài lòng.
      Chúng tôi nối gót nhau vào đó và ngồi chung quanh cái bàn ở giữa phòng. Viên thanh tra mở cái hộp vuông bằng sắt tây và trút hết ra trước mặt chúng tôi: những cây diêm, đèn dầu, tẩu thuốc hiệu A.D.P làm bằng rễ cây thạch thảo, túi đựng thuốc làm bằng da hải cẩu trong đựng nửa ounce thuốc lá Cavendish sợi dài, đồng hồ quả quýt với sợi dây bằng vàng, 5 đồng sovereign, cây bút chì, vài tờ giấy, và con dao cán ngà có cái lưỡi rất cứng và rất mảnh, có khắc dòng chữ “Weiss and Co., London” .
      - Đây là con dao đặc biệt. - Holmes nhận xét khi giơ nó lên và quan sát nó cách tỉ mỉ - Bởi vì dao có những vết máu, và là con dao được tìm thấy trong bàn tay người chết. Watson, con dao này thuộc phạm vi nghề nghiệp của đây.
      - Đúng. Dao dùng để mổ mắt.
      - Tôi cũng nghĩ như vậy. lưỡi dao rất mảnh. Có thể đây là vũ khí lạ lùng được mang theo trong cuộc thám hiểm nguy hiểm. Càng kỳ lạ hơn nữa khi thấy con dao này gấp lại được, để nhét vào túi.
      - Mũi dao được bọc trong khoanh lie mà chúng tôi tìm thấy bên cạnh xác chết - Viên thanh tra - Bà vợ ta rằng con dao này được để vài ngày bàn trang điểm và chồng bà mang theo khi rời khỏi phòng ngủ. Đúng là món vũ khí tồi, nhưng lại là món khá nhất mà ta nhìn thấy vào lúc đó.
      - Rất có thể. Thế còn những giấy tờ này?
      - Ba hoá đơn thanh toán cho nhà bán cỏ khô. lá thư của đại tá Ross gửi những chỉ thị cho ta. Tờ này là hoá đơn của tiệm may, trị giá 37 bảng, được lập bởi bà Lesurier ở phố Bon, gửi ông William Derbyshire, bà Straker cho biết ông Derbyshire là bạn của chồng bà. Thỉnh thoảng, thư của ông ấy vẫn được gửi đến đây.
      - Bà Derbyshire có những sở thích khá tốn kém đây - Holmes nhận xét - 22 đồng guinea, quả có khá đắt đối với bộ quần áo nữ. Tuy nhiên, dường như cũng chẳng còn gì hơn để mà xem xét nữa. Vậy chúng ta tới trường thôi.
      Khi chúng tôi ra khỏi phòng khách, thiếu phụ đứng chờ sẵn ngoài hành lang tiến lên, giật cổ tay áo viên thanh tra. Bà ta có vẻ mặt nhớn nhác, hằn dấu ấn của ấn tượng kinh hoàng.
      - Ông tìm ra chúng chưa? - Bà ta hổn hển .
      - Chưa, thưa bà. Nhưng ông Holmes từ London đến để giúp chúng tôi.
      - Thưa bà, cách đây lâu tôi có gặp bà tại Plymouth, trong bữa tiệc ở ngoài vườn.
      - Thưa ông, ông lầm rồi.
      - Thế mà tôi lại dám thề độc kia đấy? Bữa đó bà mặc bộ đồ may bằng lụa có màu óng ánh với những đồ trang sức bằng lông đà điểu...
      - Tôi chưa bao giờ có bộ đồ như vậy.
      - Thế , chúng ta chuyện đó nữa.
      Sau vài lời xin lỗi, Holmes theo viên thanh tra ra ngoài. đoạn ngắn băng qua đồng hoang dẫn chúng tôi tới chỗ trũng. bờ có bụi cây kim tước là nơi cái áo mưa được vắt lên.
      - Đêm hôm đó trời có gió? - Holmes hỏi.
      - Phải, có gió nhưng mưa lớn.
      - Như vậy, cái áo này phải bị gió thổi tấp vào bụi cây, mà là được đặt lên đây.
      - Đúng, áo được vắt ngang.
      - Đây này, nền đất bị bàn chân dẫm lên. Dường như có rất nhiều bàn chân qua lại ở nơi đây kể từ đêm thứ hai?
      Tại đó có manh chiếu rơm được đặt bên cạnh và mọi người trong chúng tôi đều đứng chiếu đó.
      - Trong bao này, có đôi ủng mà Straker chiếc giày của Simpson và móng ngựa cũ, bằng sắt.
      - Ông thanh tra, ông rất xuất sắc.
      Holmes đón lấy cái bao, tụt xuống chỗ lõm dưới cái trũng và đẩy manh chiếu rơm vào chính giữa, đoạn nằm dài ra chiếu, nằm sấp bụng úp xuống, cằm chống hai bàn tay, quan sát kỹ đám bùn bị dẫm nát trước mặt.
      - Ô này! - Bất chợt kêu lên - Cái gì thế này nhỉ?
      Đó là que diêm cháy hết nửa và bị vấy bùn.
      - Tôi chẳng hiểu tại sao tôi lại nhìn thấy nó - Viên thanh tra , giọng giận hờn.
      - Nó lẫn trong bùn. Tôi nhìn thấy nó vì tôi tìm nó.
      - Sao? Ông tìm nó à?
      - Phải.
      Holmes lấy những chiếu giày trong bao ra và đem gót giày so với những dấu vết in nền đất. Đoạn leo lên bờ, rồi bò qua những cây dương xỉ và những bụi cây.
      - còn dấu vết nào đâu - Viên thanh tra - Tôi quan sát rất kỹ khoảng đất này bán kính 100 dặm.
      - thế ư? - Holmes kêu lên khi đứng dậy - Như vậy tôi đâu dám hỗn xược làm lại việc đó. Nhưng tôi mong muốn được dạo chơi cánh đồng trước khi trời tối hẳn. ngõ hầu ngày mai còn nhận biết được thực địa. Nếu ông thấy có gì trở ngại, tôi mạn phép bỏ cái móng ngựa cũ này vào túi để cầu may.
      Hơi mất kiên nhẫn trước cái phương pháp ung dung của Holmes, đại tá Ross xem đồng hồ cách cần che giấu, rồi với ông thanh tra.
      - Tôi mong là ông trở về cùng với tôi. Có số việc tôi muốn hỏi ý kiến ông, chúng ta có nên công khai rút tên con Ngọn lửa bạc ra khỏi cuộc tranh giải hay ?
      - Chắc chắn là nên - Holmes kêu lên - Nó có mặt.
      Viên đại tá nghiêng mình :
      - Tôi rất sung sướng được có ý kiến của ông. Ông gặp lại chúng tôi tại nhà Straker, sau khi ông dạo xong. Sau đó, chúng ta cùng trở về Tavistock.
      Đại tá cùng viên thanh tra quay lưng trở lại trong lúc Holmes và tôi sâu vào trong cánh rừng hoang.
      - Watson, lúc này chúng ta hãy để vấn đề ai giết Straker qua bên mà chỉ để ý tới con ngựa thôi. Cứ cho là con ngựa bỏ trốn trong hoặc sau lúc xảy ra thảm trạng. Vậy đâu? Ngựa là loài sống thành đàn. Khi bị bỏ rơi mình, bản năng của nó đưa nó hoặc trở về King's Pyland hoặc tới Mapleton ở phía bên kia. Nó thể chơi trò “ngựa hoang cánh đồng hoang”. Vả chăng, thế nào mà lại có người trông thấy nó, mà tại sao dân du mục lại bắt cóc nó? Những người đó luôn luôn lánh xa những nơi có chuyện chẳng lành. Họ chẳng thể nào hy vọng bán được con ngựa như thế. Vậy bắt con ngựa là chuốc lấy mối nguy hiểm, chứ chẳng được lợi lộc gì!
      - Vậy con ngựa ở đâu?
      - Nó phải ở hoặc tại King's Pyland hoặc tại Mapleton. giờ nó ở tại King's Pyland, vậy nó phải ở tại Mapleton. Chúng ta cứ theo giả thiết đó mà tiến hành và chờ xem nó dẫn chúng ta đến đâu. Phần này của cánh đồng, đất rất cứng và khô. Nhưng nó đổ dốc xuống về phía Mapleton. Từ đây, chúng ta có thể phân biệt vết lõm xuống của nền đất: trong đêm thứ hai sang ngày thứ ba, chỗ lõm xuống đó ắt hẳn phải khá nhão, và con ngựa hẳn phải băng qua phần cánh đồng này.
      Trong lúc chuyện, chúng ta bước mau, chỉ vài phút sau tới chỗ đất lõm xuống. Tôi xuống mé bên phải và Holmes xuống mé bên trái. Nhưng tôi chưa được năm chục bước nghe tiếng reo lên và vẫy tay gọi tôi tới. nền đất mềm trước mặt , có những dấu chân ngựa y như cái móng sắt mà cầm trong tay.
      - thấy giá trị của óc tưởng tượng chưa? - Holmes bảo tôi - Đó là cái mà Gregory thiếu. Chúng ta tưởng tượng ra điều có thể xảy tới, rồi hành động theo giả thiết đó. Thế là chúng ta được chứng thực là đúng. Nào, tiến lên.
      Chúng tôi vượt qua cái đáy sình lầy của chỗ trũng và trong khoảng 400 yard mặt đất khô và rắn. Lần nữa, đất lại dốc và chúng tôi lại bắt gặp những dấu chân ngựa. Rồi chúng tôi lại mất hút những dấu vết đó trong khoảng gần nửa dặm. Lúc sắp tới Mapleton,
      bên cạnh dấu chân ngựa có cả dấu chân người.
      - Cho tới đây, con ngựa chỉ mình - Tôi kêu lên.
      - Rất đúng, trước đó nó chỉ có mình. Này, cái này là cái gì đây nhỉ?
      Dấu chân người và ngựa bất thình lình quay ngược trở lại và trở về hướng King's Pyland. Cả hai chúng tôi cùng theo hướng đó. Holmes dõi mắt theo các vết nhưng hơi nhìn lệch sang bên. Tôi sững sờ thấy những dấu vết đó lại ra nhưng ở trong hướng ngược lại, nghĩa là lại trở về Mapleton thêm lần nữa.
      - điểm tốt cho đó, Watson! - Holmes - Chúng ta hãy theo dấu chân quay trở lại .
      Chúng tôi phải xa. Các dấu vết chấm dứt con đường rải nhựa dẫn tới hàng rào các chuồng ngựa Mapleton. Khi chúng tôi tới gần, người nhảy ra.
      - Ở đây chúng tôi ' muốn thấy những kẻ lạ lảng vảng - ta bảo chúng tôi.
      - Chỉ xin hỏi câu thôi - Holmes - Liệu có thể gặp ông Silas vào lúc năm giờ ngày mai ?
      - Xin lỗi, thưa ông, ông chủ tôi luôn luôn thức dậy sớm nhất. Nhưng ủa, ông ấy đây này: ông ấy đích thân trả lời ông. , thưa ông ! Tôi bị mất việc nếu ông thấy tôi nhận tiền. Sau này, nếu như ông muốn cho...
      Sherlock Holmes nhét lại tiền vào túi mình. người trung niên xuất , bộ mặt kém thân thiện, cây roi mềm cầm lăm lăm trong tay.
      - Có chuyện gì vậy, Dawson? - ông ta kêu lên - được bép xép đấy nhé. Hãy làm việc ! Còn hai ông... Các ông tới đây làm cái quái gì?
      - Chúng tôi xin hầu chuyện ông mười phút, thưa ông chủ! - Holmes trả lời với giọng ngọt ngào.
      - Tôi làm gì có giờ để chuyện với bất cứ gã lêu lổng nào? Hãy xéo ? Nếu , tôi thả chó ra đấy...
      Holmes cúi nghiêng mình về phía trước và thầm vài lời bên tai nhà huấn luyện ngựa. đỏ mặt tía tai.
      - láo - kêu lên - lời láo quỷ quyệt.
      - Được lắm? Chúng ta bàn luận công khai ngay đây hay ở trong phòng khách?
      - Ồ! Xin mời vào.
      Holmes cười:
      - Watson, quá mấy phút đâu. Bây giờ, thưa ông Silas tôi xin đặt mình dưới quyền sai khiến của ông.
      Mấy phút đồng hồ của Holmes lại kéo dài thành hai chục phút. Bầu trời màu tím chuyển thành xám khi Holmes và Silas ra. Bây giờ gương mặt của Silas biến thành màu tro, trán ướt đẫm mồ hôi và hai bàn tay run rẩy, cây gậy săn đung đưa như cành cây lắt lay trước gió. Thái độ hùng rơm tan biến, ông ta khúm núm theo sau Holmes như con chó theo chủ.
      - Những mệnh lệnh của ông được thi hành - ông ta .
      - được sai lầm? - Holmes nhấn mạnh, khi quay lại nhìn ông ta.
      Người nọ rùng mình trước đe dọa chứa trong tia nhìn đó.
      - Vâng. sai lầm nào cả! Nó có mặt đúng giờ. Tôi có phải thay hình đổi dạng cho nó hay ?
      Holmes suy nghĩ trong giây lát, rồi phá lên cười:
      - , cứ để yên như thế! Tôi viết cho ông về việc này. Giờ đây nhất định có những trò chơi khăm nữa. Nếu ...
      - Ông có thể tin cậy nơi tôi!
      - Ông săn sóc nó cho tới ngày giao ước, như thể nó là của ông vậy.
      - Ông có thể hoàn toàn tin cậy nơi tôi mà!
      - Phải, tôi tin nơi ông. Ngày mai ông nhận được tin tôi.
      quay gót, thèm đếm xỉa gì đến bàn tay run rẩy mà người nọ chìa ra. Chúng tôi quay trở về King's Pyland.
      - Lão Silas này vừa độc ác, vừa đê tiện lại vừa hèn nhát - Holmes vừa bước vừa nhận xét.
      - giữ con ngựa? .
      - tìm cách trả lời bằng những câu huênh hoang, nhưng tôi miêu tả chính xác những gì làm trong buổi sáng hôm đó. tin chắc là tôi theo dõi . Watson, có lưu ý đến những cái đầu vuông vức cách kỳ lạ trong các dấu chân ? Giày ủng của phù hợp với dấu vết đó, tôi kể cho nghe: ông là người thức dậy sớm nhất, khi nhìn thấy con ngựa lạ lang thang cánh đồng hoang, ông liền tới gần để xem sao. Con ngựa có “cái trán trắng” nên mới được gọi là “Ngọn lửa bạc”. Ông thấy cơ may tới với mình, nên bắt giữ nó. Nếu làm được vậy con ngựa của ông về nhất. Tôi gợi cho nhớ lại vì sao hành động đầu tiên của là dẫn con ngựa trở về King's Pyland, rồi tại sao lại định đem giấu con ngựa cho tới khi cuộc đua kết thúc; tôi cũng cho biết đưa con ngựa về giấu ở Mapleton như thế nào. Tới lúc đó, chỉ còn có ý tưởng: làm sao được yên thân.
      - Nhưng các chuồng ở đây đều được khám kỹ rồi kia mà?
      - Ồ, tay hoá trang ngựa tài ba!
      - lo ngại gì khi để con ngựa ở lại đây?
      - chăm sóc con ngựa như chăm sóc thân thể ! biết là muốn được tha tội phải đưa con ngựa ra trong thể trạng tốt.
      - Chưa chắc đại tá Ross chịu tha cho .
      - Đại tá Ross phải là người giải quyết vấn đề. Tôi theo những phương pháp của riêng tôi. Ông đại tá kém hào hiệp đối với tôi. Nên giờ đây tôi muốn đùa trêu ông ta chơi. chớ có gì về con ngựa đấy nhé?
      - để làm gì! Vả chăng, điều này có tầm quan trọng đối với việc tìm ra người giết Straker.
      - đâu. Chúng ta cùng trở về London bằng chuyến tàu đêm.
      Tôi sững sờ trước câu trả lời đó. Chúng tôi chỉ mới tới Devonshire có mấy tiếng đồng hồ, vậy mà ta lại bỏ ngang cuộc điều tra. tài nào hiểu nổi! Tôi tài nào moi thêm được lời nào cho tới khi về đến nhà người huấn luyện ngựa. Ông đại tá và viên thanh tra chờ chúng tôi trong phòng khách.
      - Chúng tôi trở về thủ đô bằng chuyến tàu tốc hành nửa đêm. Chúng tôi được hít thở bầu khí quyến rũ của Dartmoor - Holmes .
      Viên thanh tra giương rộng đôi mắt. Ông đại tá nở nụ cười hiểm độc:
      - Như vậy là ông bỏ cuộc?
      Holmes nhún vai:
      - Dĩ nhiên là có những chướng ngại nghiêm trọng? Tuy nhiên, con ngựa của Ngài có mặt vào lúc xuất phát cuộc đua, Ngài nên chuẩn bị người nài cưỡi con ngựa đó. Tôi có thể xin bức ảnh của ông Straker được ?
      Viên thanh tra móc túi lấy ra tấm hình đựng trong bao thư và đưa cho Holmes.
      - Ông thanh tra, ông đoán trước được mọi ý muốn của tôi. Liệu ông có chờ tôi tại đây trong chốc lát chăng? Tôi muốn gặp hầu .
      Bất thình lình đại tá Ross lên tiếng ngay sau khi Holmes bước ra khỏi phòng khách:
      - Tôi thất vọng về ông Holmes. Từ khi ông ta đến đây, ta chẳng có tiến bộ nào.
      - Con ngựa của ông dự cuộc đua - Tôi .
      - Phải, tôi được lời cam đoan của ông ta - Đại tá nhún vai - Có điều, tôi mong muốn nắm được con ngựa trong tay hơn là lời hứa.
      Tôi định bênh vực cho Holmes ấy trở vào.
      - Giờ đây, thưa quý ông, sau khi về tới London, tôi sẵn sàng trở lại Tavistock lần nữa.
      Trong lúc chúng tôi leo lên xe, trong những người hầu chuồng ngựa giữ cho cửa xe mở rộng. tư tưởng như bất chợt đến với Holmes, bởi vì cúi nghiêng người về phía trước và đụng vào ống tay áo người hầu. :
      - Ai săn sóc những con cừu trong vòng rào.
      - Tôi, thưa ông.
      - có thấy điều gì khác lạ vừa xảy ra cho chúng trong thời gian gần đây ?
      - Quả vậy, ba con trong đàn bị khập khiễng.
      Holmes khẽ cười và xoa hai bàn tay vào nhau.
      - cú chơi đẹp ! - khi bấm vào cánh tay tôi, rồi với ông thanh tra - ông bạn nên lưu ý tới cái tượng đặc biệt đó trong đàn cừu. Nào chúng ta thôi, chú xà ích!
      Đại tá Ross tiếp tục phô ra dáng điệu bày tỏ tin tưởng nhưng vẻ mặt viên thanh tra biểu chăm chú. Ông ta hỏi Holmes:
      - Ông cho đó là điều quan trọng sao?
      - Cực kỳ quan trọng đấy!
      - Còn điểm nào khác mà ông muốn lưu ý tôi nữa ?
      - Con chó trong đêm đó.
      - Con chó ư? Đâu có chuyện gì xảy ra với nó trong đêm đó.
      - Như vậy mới là kỳ lạ. kỳ lạ chứa ở ngay trong chỗ đó - Sherlock Holmes nhận xét.
      Bốn ngày sau đó, Holmes và tôi lại đáp chuyến tàu Winchester để dự khán cuộc đua ngựa tranh giải Wessex Cup. Ông đại tá gặp chúng tôi bên ngoài nhà ga và đưa chúng tôi đến trường đua bằng xe tứ mã của ông. Mặt ông nghiêm trang và thái độ cực kỳ lạnh nhạt.
      Ông :
      - Tôi thấy con ngựa của tôi đâu cả.
      - Ông nhận ra nó khi ông trông thấy nó chứ? - Holmes hỏi.
      Ông đại tá tỏ vẻ rất bất mãn. Ông :
      - Tôi lui tới trường đua từ 20 năm nay, và chưa có ai hỏi tôi câu như thế. Ngay đứa bé cũng nhận ra con Ngọn lửa bạc với cái trán trắng và cái chân trước có lông đốm của nó.
      - Việc đánh cá nay ra sao?
      - Ngày hôm qua, ông có thể đánh 15 ăn 1, nhưng khoảng cách cứ giảm dần, giờ đây chỉ còn 3 ăn 1.
      - Hừm! Có ai đó tóm được tuy-dô, chắc chắn như thế - Holmes .
      Khi xe tứ mã ngưng lại gần khán đài chính, tôi nhìn lên tấm bảng để xem tên những con ngựa tranh giải Wessex Cup:
      “Cho ngựa bốn và năm tuổi
      Giải nhất: 1.000 souverain
      Giải nhì: 300 bảng
      Giải ba: 200 bảng
      Đường đua: 1,6 dặm.
      1. Da đen (của ông Heath Newton), nài áo màu quế, mũ đỏ.
      2. Võ sĩ (của đại tá Wardlaw), nài áo sọc xanh đen, mũ hồng.
      3. Desborough (của huân tước Backwater), nài áo tay vàng, mũ vàng.
      4. Ngọn lửa bạc (của đại tá Ross), nài áo đỏ, mũ đen.
      5. Iris (của công tước xứ Balmoral), nài mũ, áo sọc vàng đen.
      6. Rasper (của huân tước Singleford), nài áo tay đen, mũ tía.”
      - Chúng tôi rút con kia ra và đặt tất cả hy vọng vào lời của ông - Viên đại tá - Lạ chưa! Thế nghĩa là gì? Ngọn lửa bạc được coi là chắc thắng sao?
      - Ngọn lửa bạc được cá 5 ăn 4 - Các nhà cái cá ngựa gầm lên - 5 ăn 4 cho Ngọn lửa bạc đây. Desborouth cá 15 ăn 5 đây.
      - Đủ sáu con à? - Viên đại tá kêu lên, rất giận dữ - Nhưng nó đâu? Cờ của tôi chưa được diễu hành mà.
      - Chỉ mới có năm con diễu hành. Đây này, đây hẳn là nó rồi!
      Vào lúc tôi , con ngựa hồng lực lưỡng phóng ra khỏi khu cân nài, chạy nước kiệu ngay bên cạnh chúng tôi: nó mang yên màu cờ xanh và đỏ rất quen thuộc của ông đại tá.
      - Đâu phải ngựa của tôi. Con vật này có lấy sợi lông trắng mình. Ông làm cái trò gì vậy ông Holmes?
      - Bình tĩnh! Bình tĩnh xem nó chạy ra sao cái ! - Holmes thầm, điềm tĩnh.
      theo dõi qua ống nhòm, bất chợt reo lên:
      - Ngay hàng đầu? Tuyệt diệu. Chúng ghé vào chỗ ngoặt.
      Sáu con ngựa chạy sát bên nhau. Tới quãng giữa dải đường đua vòng, con ngựa chuồng Mapleton vượt lên dẫn đầu. Nhưng trước khi chúng ngang chỗ chúng tôi con Desborough hết sức và con ngựa của ông đại tá vượt qua cây cọc tới sáu thân trước đối thủ của nó là con Iris của công tước xứ Balmoral.
      - Dầu sao tôi cũng thắng - Đại tá hổn hển đưa bàn tay lên vuốt trán - Xin thú là tôi chẳng hiểu gì cả. Ông còn giữ bí mật đến bao lâu nữa thưa ông Holmes?
      - Rồi ông biết tất cả. Lại đây, chúng ta cùng quan sát con ngựa này... Nó đây này - khi chúng tôi vào trong khu dành riêng cho chủ ngựa cùng bằng hữu của họ - Ông lấy cồn mà rửa đầu ngựa và chân nó ông nhận thấy nó chính là Ngọn lửa bạc.
      - Ông làm tôi suýt đứng tim...
      - Tôi thấy nó trong tay kẻ gian xảo và tôi tự tiện cho nó đua dưới lớp giả trang này.
      - Ông làm được điều kỳ diệu! Con ngựa tỏ ra hoàn toàn ở thể trạng tốt. Nó chưa bao giờ chạy hay đến thế. Tôi cần phải xin lỗi ông, ngàn lần vì nghi ngờ khả năng của ông. Mong ông tìm ra tên sát nhân.
      - Tôi tìm ra rồi - Holmes trả lời cách điềm tĩnh.
      Viên đại tá và tôi nhìn :
      - hiểu ở đâu?
      - Ở đây!
      - Ở đây? đâu?
      - Ngay bên cạnh tôi vào lúc này.
      Viên đại tá đỏ mặt tía tai vì giận dữ.
      - Tôi mang ơn ông nhiều lắm, nhưng tôi buộc lòng phải coi điều mà ông vừa trò đùa quá trớn, hoặc là điều lăng nhục.
      Holmes phá ra cười:
      - Tôi hề đùa hay làm nhục ông, thưa đại tá. Nhưng quả kẻ sát nhân đứng ngay đằng sau ông đây.
      tiến lên bước và đặt bàn tay lên cái cổ bóng loáng của con ngựa thuần chủng.
      - Con ngựa ư? - Tôi và ông đại tá kêu lên.
      - Đúng, chính nó. Và chúng ta hãy tha tội cho nó vì nó hành động để tự vệ. Straker xứng đáng với lòng tin cậy của ông. Nhưng chuông reo rồi đó. Bởi vì tôi muốn kiếm ít tiền trong độ đua sau, tôi xin khất lại để lát nữa giải thích tận tường.
      Trong toa xe lửa hạng đặc biệt chỉ có ba người chúng tôi. đường trở về London, tôi tưởng chừng như khó có chuyến nào lại ngắn hơn đối với đại tá Ross, bởi vì chúng tôi đều say sưa nghe Holmes .
      - Tôi tới Devonshire với cả tin rằng Simpson là thủ phạm, tuy vẫn nhận thức rằng chưa đủ bằng chứng để buộc tội ta. Chỉ tới khi ngồi ở trong xe, ngay trước cửa nhà người huấn luyện ngựa, tôi mới nhận ra cái ý nghĩa kinh khủng trong món thịt cừu nấu cà ri. Các bạn còn nhớ là tôi tỏ ra đãng trí, vẫn ngồi yên xe trong lúc mọi người xuống xe cả rồi. Lúc đó, tôi tự hỏi vì sao tôi lại bỏ qua chỉ dẫn lớn như vậy.
      - Về phần tôi - Viên đại tá - Tôi xin thú nhận là ngay đến bây giờ tôi vẫn thấy dấu vết ấy giúp chúng ta được gì.
      - Trong cái chuỗi lập luận của tôi, nó là khâu đầu tiên. Bột thuốc phiện đâu hẳn là có vị gì. Cái vị của nó chẳng có gì là khó chịu cả, nhưng nó có thể nhận ra được. Cho nên nếu nó được đem trộn vào món ăn bình thường, người ăn phát ra và có thể họ ăn. Cà ri là món thích hợp để che giấu cái mùi vị ấy.
      Làm sao có trùng hợp quái gở này? Người lạ Simpson đem bỏ thuốc phiện vào thức ăn của cậu bé Hunter vào lúc thức ăn đó lại là cà ri (chỉ có cà ri mới lấn át mùi bột thuốc phiện). thể tưởng tượng nổi! Vậy là Simpson được loại ra khỏi diện nghi vấn. Tôi chú tâm vào Straker và bà vợ y: quả chỉ có họ mới có thể bố trí món thịt cừu nấu cà ri cho bữa tối đó. Thuốc phiện được bỏ thêm vào sau khi cái đĩa đựng món ăn dành cho Hunter được để riêng ra. Chính vì thế mà những người khác cũng ăn món đó nhưng vẫn bình yên. Vậy ai trong hai người đó tới gần đĩa thức ăn mà hầu lại trông thấy?
      Vụ rắc rối về Simpson cho thấy có con chó canh giữ chuồng ngựa. Thử hỏi ai là người vào rồi lại ra với con ngựa mà con chó lại sủa (để đánh thức hai chàng giữ ngựa ngủ trong cái vựa). Đó chắc chắn phải là người mà con chó rất quen thuộc.
      Tôi tin rằng giữa đêm khuya Straker xuống chuồng ngựa và dắt con Ngọn lửa bạc. Nhằm mục đích gì? Chắc chắn là trong mục đích bất lương, nếu y đánh thuốc mê chàng gác chuồng. Tôi suy nghĩ nát óc để đoán xem y nghĩ gì, trong đầu óc y. từng có nhiều vụ các huấn luyện viên kiếm được nhiều tiền bằng cách đánh cá ngựa của họ bị thua, qua những người trung gian, và sau đó ngăn cản cho ngựa của họ thắng bằng mánh khoé nào đó. Đôi khi, do gã nài kìm hãm ngựa, hoặc do phương pháp tinh tế hơn. Với Straker, ta hành động ra sao? Tôi hy vọng là những đồ vật ở trong các túi quần áo ta giúp tôi.
      Quả đúng như vậy. Hai bạn chắc chưa quên con dao kỳ lạ nằm trong bàn tay người chết: con dao mà đầu óc tỉnh táo nào lại chọn làm vũ khí. Con dao đó được dùng trong những ca mổ tinh tế nhất. Thưa đại tá, ông thừa biết rằng ta có thể tạo ra vết đứt những gân khoeo con ngựa, mà nếu làm bên dưới da vết đó để lại dấu vết nào. con ngựa bị “khía gân” như vậy hơi khập khiễng, điều đó chỉ được gán cho chứng phong thấp hoặc cho tập luyện quá sức.
      - Quân vô lại! - ông đại tá kêu lên.
      - Đó là lý do mà Straker muốn đưa con ngựa ra ngoài cánh đồng, bởi vì nếu bị mũi nhọn con dao rạch vào gân chân, chắc chắn con Ngọn lửa bạc hung hăng đánh thức cả đến người ngủ say nhất thế gian. Vậy là phải ra tay ngoài trời.
      - Tôi mù quáng - Viên đại tá rên rỉ - Chính vì thế mà nó cần đến đèn cầy và quẹt que diêm lên đấy.
      - Dĩ nhiên. Nhưng quan sát các đồ vật của ta, tôi còn hiểu được những động cơ gây ra tội ác nữa. Thưa đại tá, người từng trải bao giờ mang theo trong túi mình những hoá đơn của người khác. Chúng ta thanh toán những hoá đơn của chính mình là đủ rồi. Ngay đó tôi kết luận là Straker có gia đình thứ nhì. Tính chất của tờ hoá đơn chứng tỏ là nó dính dáng đến người đàn bà, và người đàn bà đó tiêu xài hoang phí. Cho dù đại tá có đối xử rộng rãi đến đâu, Straker cũng thể mua sắm cho vợ những bộ quần áo giá hơn hai mươi guinea! Tôi hỏi vặn bà Straker về bộ quần áo nữ và khi được bà đoan chắn là bà chẳng bao giờ có bộ quần áo như vậy, tôi bèn ghi địa chỉ của tiệm may. Và xin tấm hình của Straker.
      Kể từ lúc đó, tất cả đều đơn giản. Straker dắt con ngựa đến chỗ đất trũng là nơi mà ánh sáng ngọn đèn bão bị ai trông thấy. Về phần Simpson khi bỏ trốn, y đánh mất cái cravat. Straker nhặt lấy, có thể với ý định dùng nó để giữ cho con ngựa đứng yên. Khi vào trong cái hố trũng rồi, ra đằng sau con Ngọn lửa bạc và bật que diêm lên. Nhưng con vật hoảng sợ vì cái ánh sáng đột ngột đó, hoặc bị thúc đẩy bởi cái bản năng kỳ lạ, linh cảm rằng người ta sắp làm hại nó, nên nó bứt lên mạnh và đạp văng vào trán của Straker. Mặc dù trời mưa và để cho khỏi vướng víu, ta cởi áo mưa ra mắt lên bụi cây. Và khi té xuống, con dao vạch dài đùi.
      - Tuyệt vời! - Viên đại tá reo lên - Tuyệt vời! Cứ y như là ông có mặt ở ngay nơi đó!
      - Sau đây là cú đánh chót của tôi. Tôi nghĩ rằng người quỷ quyệt như Straker làm cái việc cắt gân nếu chưa được tập dượt từ trước. Vậy ta thực tập với cái gì đây? Mắt tôi lọt xuống đàn cừu và có ngay câu trả lời.
      - Tất cả đều được làm sáng tỏ, thưa ông Holmes.
      - Khi quay trở về London, tôi đến gặp người may quần áo phụ nữ và bà ta nhận ra ngay Straker là khách hàng hạng sang, có tên là Derbyshire, và bà vợ mê mệt những bộ quần áo đắt tiền. Người đàn bà đó dồn ta vào tình hình tài chính thảm hại, khiến ta phải phạm tội.
      - Ông giải thích tất cả, ngoại trừ điều: trong thời gian đó, con ngựa ở đâu?
      - Nó chạy trốn và được hàng xóm của ông chăm sóc. Và về điều này, chúng ta phải tỏ ra rộng lượng, thưa đại tá. tới Clapham Junction rồi! Nếu tôi nhầm chúng ta tới Victoria trong vài phút nữa. Ông có thể hút xì gà nếu ông muốn. Tôi sẵn sàng cung cấp thêm số chi tiết khác mà ông quan tâm.

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      8. Người phụ tá cho nhà môi giới chứng khoán

      Sau đám cưới ít lâu, tôi mở được phòng mạch của riêng mình tại khu Paddington. Phòng mạch này của Farquhar, người quen cũ, nhượng lại phân nửa cho tôi. Suốt ba tháng sau ngày mở phòng mạch, tôi rất ít có thời gian rỗi để ghé thăm Holmes mặt dù phòng mạch của tôi cách phố Baker xa. Bởi vậy vào buổi sáng tháng 6, tôi rất ngạc nhiên khi nghe tiếng chuông gọi cửa. Tiếp theo đó là cái giọng lanh lảnh của bạn già.
      - Watson thân mến! - Holmes reo lên khi bước vào phòng khách - Tôi vui mừng được gặp lại . Bà Watson hoàn toàn qua khỏi những xúc động trong vụ “Dấu bộ tứ” chưa?
      - Cám ơn , vợ chồng tôi đều mạnh giỏi. – Tôi trả lời, nồng nhiệt bắt tay .
      Khi ngồi vào cái ghế xích đu, Holmes tiếp:
      - Ông bác sĩ còn quan tâm đến những vấn đề về lý luận của chúng ta chứ?
      - Đúng vậy. Tối hôm qua tôi còn chúi mũi vào những ghi chú cũ để sắp xếp lại vài kết quả mà chúng ta đạt được.
      - Bộ sưu tập đầy đủ chưa?
      - Chưa đâu! Tôi mong nó được phong phú thêm, với nhiều kinh nghiệm mới hơn nữa.
      - Như ngày hôm nay chẳng hạn?
      - Phải. Nếu như muốn như thế.
      - Và đáp tàu tới tận Birmingham?
      - Chắc chắn rồi.
      - Thế còn các thân chủ?
      - Nhiều lần, tôi chăm sóc cho thân chủ của đồng nghiệp láng giềng. Nay bắt ông ấy “trả nợ”.
      - Thế là ổn rồi! - Holmes reo lên, buông mình lọt sâu xuống ghế. - Tôi nghĩ rằng vừa mới đuợc khỏe. Những đợt lạnh giữa mùa hè thường gây ra những rắc rối nho .
      - Đúng vậy. Tôi phải ở trong nhà suốt 3 ngày hồi tuần trước. Tuy nhiên tôi nghĩ là tôi khôgn còn dấu tích gì của chuyện đó nữa.
      - Vậy mà có đấy. trông khá khỏe mạnh.
      - Thế sao? Làm sao biết đuợc chuyện đấy?
      - bạn thân mến, biết là tôi có những phương pháp của tôi.
      - suy diễn nó à?
      - Tất nhiên!
      - Từ đâu mới được?
      - Từ đôi dép đấy.
      Tôi liếc nhìn xuống đôi dép kiểu mới mà tôi mang.
      - Thế nào mà...?
      Holmes ngắt lời tôi khi tôi còn chưa kịp hỏi xong:
      - Những đôi dép của còn rất mới. thể có nó hơn vài tuần. Tuy nhiên, dưới đế lại có những vệt xém nho . Lúc đầu tôi nghĩ rằng, có lúc nó bị ướt và hong chúng cho khô. Nhưng, chỗ gần cái quai dép vẫn còn có nguyên tờ nhãn của cửa hiệu. Nếu đôi dép bị uớt tờ nhãn bị bong ngay. Chỉ co thể có cách lý giải là ngồi duỗi chân vào lò sưởi. người đàn ông ít khi nào ở trạng thái như thế trong những ngày ẩm ướt của tháng 6 trừ phi ta được khỏe.
      Như mọi khi, những suy diễn của Holmes lập tức trở nên đơn giản khi được giải thích. đọc thấy điều này khuôn mặt tôi và nở nụ cuời thóang có vẻ cay đắng:
      - Tôi sợ là tôi giải thích quá nhanh chóng - - số việc diễn ra mà có nguyên nhân còn gây nhiều ấn tượng hơn. sẵn sáng Birmingham rồi chứ?
      - Sẵn sàng. Mà vụ gì vậy?
      - Tôi kể tàu. Thân chủ của tôi chờ chiếc xe ngựa ở bên ngoài. ngay nhé?
      - Chờ tôi chút.
      Tôi nguệch ngoạc vài chữ gửi ông bạn láng giềng, leo lên cầu thang để báo cho nhà tôi biết, rồi trở xuống.
      - Ông hàng xóm của cũng là bác sĩ - Holmes vừa vừa chỉ vào tấm biển đồng thau.
      - Vâng. cùng thực tập chung với tôi.
      - Người chủ cũ à?
      - . Cũng như tôi. Cả hai cùng đặt phòng mạch trong ngôi nhà này.
      - Và giữ cái tốt nhất...
      - Tôi nghĩ là vậy. Nhưng làm sao biết?
      - Dựa các bậc cửa, cậu bé ạ. Bên sâu hơn bên kia đến 3 inch. Watson, đây là ông Hall Pycroft, thân chủ của chúng ta. Cho ngựa chạy bác xà ích!
      Người ngồi trước mặt tôi còn trẻ, có thân hình cân đối nước da sáng. Khuôn mặt cởi mở, lương thiện và hàng ria mép vàng hoe xoăn lại.
      - Chúng ta có 70 phút trước khi tới nơi - Holmes báo - Tôi cầu thân chủ vui lòng thuật lại cho bạn tôi biết nỗi gian truân rất lý thú của ông.
      Người trẻ tuổi nhìn tôi với ánh mắt tinh nghịch, rồi :
      - Trước đây tôi làm việc ở hãng Coxon and Woodhouse, nhưng vào đầu mùa xuân vừa qua, hãng đó bị phá sản. Hai mươi bảy người như chúng tôi đều bị thất nghiệp. Tôi gõ cửa xin việc nhiều nơi, nhưng đều thất bại. Trước kia, tại hãng cũ, tôi lĩnh 3 bảng mỗi tuần và dành dụm được 70 bảng. Chẳng bao lâu, tôi chỉ còn đủ tiền mua tem để viết thư gửi tới những nơi “cần người”. Nhưng vẫn chẳng có tin vui nào.
      Sau cùng, tôi được biết công ty Mawson and William's, công ty môi giới chứng khoán lớn tại phố Lombard, có chỗ khuyết người. Theo lời rao đăng báo phải trả lời bằng thư. Tôi vội gửi đến đó đủ các giấy chứng nhận khả năng chuyên môn cùng bản lý lịch, nhưng lòng hy vọng lắm. Thư phúc đáp, rằng tôi có thể tới nhận việc ngay nếu ngoại hình của tôi coi được. Khởi đầu lương tôi cao hơn ở hãng cũ mà công việc như nhau. Ngay buổi tối của ngày nhận thư hồi , tôi hút điếu xì gà, trong lòng thư thái, người chủ nhà chợt leo lên phòng tôi, đem theo tấm danh thiếp đó có hàng chữ: “Arthur Pinner, đại lý tài chính". Tôi chưa bao giờ nghe đến cái ông Pinner đó, nhưng tôi vẫn mời ông lên.
      Đó là người tầm thước, tóc nâu, mắt đen, cái mũi có dáng vẻ là dân Do Thái. ông ngắn gọn, tựa như người biết giá trị của thời giờ.
      - Ông là Hall Pycroft?
      - Vâng, chính tôi.
      Tôi đẩy ghế mời ông ngồi.
      - Mới đây ông làm việc cho hãng Coxon and Woodhouse phải ? - ông ta hỏi tiếp.
      - Vâng.
      - Và giờ đây được hãng Mawson thâu dụng?
      - Thưa vâng.
      - Ông còn nhớ ông Parker, quản lý ở hãng Coxon chứ? Ông ấy rất tốt về ông.
      - Tất nhiên, tôi rất vui khi nghe chuyện đó. Ở văn phòng, tôi luôn luôn làm việc cần mẫn, nhưng tôi chẳng bao giờ ngờ được thiên hạ nhiều về tôi đến thế.
      - Ông có trí nhớ tốt đấy chứ? - ông ta hỏi tôi.
      - Cũng tạm được! - Tôi cách khiêm nhường.
      - Ông vẫn tiếp xúc với thị trường chứng khoán trong những ngày ông có việc làm?
      - Sáng nào tôi cũng đọc thông báo của các chứng khoán.
      - Đó là cách người ta làm giàu đấy nhé! Ông giận, nếu như tôi thử thách ông. Các cổ phần Ayrshires hôm nay trị giá bao nhiêu?
      - 106,25 đổi lấy 105,78.
      - Thế còn công trái hợp nhất của New Zealand?
      - 104.
      - Và những công trái Broken Hills của nước ?
      - 7 đổi lấy 7,6.
      - Tuyệt vời - ông ta giang hai cánh tay ra mà reo lên - Chính tôi cũng trả lời đến thế thôi. Chú em này, chú quá giỏi để vào làm cho hãng Mawson.
      - Quả vậy - Tôi với ông Pinner - Nhưng người khác đánh giá tôi như ông. Tôi làm hết sức mình để khỏi phụ lòng ông.
      - Hừ, bạn thân mến! phải bay lên cao hơn mới được chứ. Hãy cho tôi biết, bao giờ đến trình diện tại hãng Mawson?
      - Thứ hai.
      - Tôi sẵn lòng chi số tiền để làm cho hãng Mawson.
      - đến Mawson sao?
      - Đừng đến! Ngày thứ hai làm giám đốc thương mại của công ty trách nhiệm hữu hạn Franco-Midland[1], chuyên kinh doanh hàng kim khí, có 134 chi nhánh trong các thị trấn và làng mạc tại Pháp, chưa kể tới các chi nhánh ở Brussels và San Remo.
      Tôi như bị hụt hơi. Tôi thầm:
      - Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến công ty đó?
      - Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả điều đó được giữ rất bí mật. Vốn hoàn toàn do các tư nhân đóng góp: ông tôi, Harry Pinner là quản trị viên được ủy nhiệm. cầu tôi tìm người trung hậu... có nghĩa là người trẻ tuổi, năng động, đầy nghị lực. Parker với tôi về . Vì thế tối nay tôi mới tới đây. Chúng tôi chỉ có thể trả cho mức lương khởi điểm là 500 bảng.
      - Năm trăm bảng năm à? - Tôi hét lên.
      - Chỉ là để bắt đầu. còn được khoản hoa hồng là 1% tất cả mọi thương vụ. Với khoản hoa hồng đó, lương của coi như được tăng gấp đôi.
      - Nhưng tôi biết kinh doanh hàng kim khí.
      - Suỵt, chàng trai ơi, biết rành nghề đó qua những con số.
      Tiếng vo vo trong đầu làm tôi ù cả tai. Tôi rất muốn giữ cho mình bình tĩnh, nhưng quả là khó.
      - Hãng Mawson chỉ trả cho tôi có 200 bảng, nhưng Mawson là doanh nghiệp đứng đắn. ra, tôi biết quá ít về công ty của ông nên...
      - A, được lắm! Hoan hô! - ông ta kêu lên trong trạng thái như xuất thần - đúng là người mà chúng tôi cần. Người ta chẳng thể lừa dối nổi rất có lý. Cầm lấy này, đây là tờ giấy bạc 100 bảng. Nếu nghĩ là chúng ta có thể thỏa thuận với nhau, chỉ việc nhét khoản tạm ứng đó vô túi.
      - Ông rộng rãi quá. Khi nào tôi bắt đầu nhận việc?
      - Ngày mai, lúc giờ, hãy có mặt ở Birmingham. Trong túi tôi có sẵn lá thư mà trao lại cho tôi. gặp ấy ở 126B phố Corporation, là nơi đặt văn phòng tạm của công ty.
      - vậy ư, tôi biết lấy gì đền ơn ông.
      - Có gì đâu. À, mà tôi muốn thu xếp với . có sẵn giấy ? Tốt. hãy viết : “Tôi ký tên dưới đây... đồng ý nhận chức vụ giám đốc thương mại tại công ty kinh doanh hàng kim khí Franco-midland, với số lương tối thiểu là 500 bảng mỗi năm”.
      Tôi làm theo điều ông cầu và ông ta nhét tờ giấy vào túi.
      - Còn chi tiết nữa - ông ta lại - có ý định như thế nào đối với nhà Mawson?
      - Tôi viết thư từ chối.
      - Đó là điều mà tôi muốn. hãy mường tượng là tôi và nhà Mawson tranh nhau mời cho được . Ông ấy kết tội tôi là muốn phỉnh phờ để làm cho rời bỏ hãng ông ta. Tới phút cuối, tôi mất bình tĩnh, với ông ta: "Nếu như ông muốn thuê được những người giúp việc giỏi ông phải trả lương cao". Ông ta đáp: "Người đó thà lãnh lương thấp ở chỗ chúng tôi hơn là lãnh lương cao của ông!". Tôi tức tối, trả miếng liền: "Tôi dám đánh cuộc với ông năm bảng rằng ấy nghe những lời đề nghị của tôi và ông mất ấy". Ông ta bảo tôi: "Bắt đấy? Chúng tôi moi ta lên từ cảnh đê hèn, ta buông rơi chúng tôi đâu”.
      - Đồ xấc xược! Tôi thấy bao giờ đâu! Vả chăng tại sao tôi lại bận tâm đến ? Nếu ông muốn tôi viết cho , tôi viết?
      - Tốt! Như vậy là hứa với nhau rồi nhé! – ông ta với tôi khi xô ghế đứng lên - Đây là khoản ứng trước 100 bảng và đây là lá thư. Ngày mai lúc giờ. Xin chúc đêm an lành.
      “Thưa bác sĩ Watson, tôi hài lòng biết bao với cơ may này! Sáng hôm sau, tôi vội vã đến Birmingham và tìm tới địa chỉ được dặn. Tôi đến trước giờ hẹn 15 phút. Địa chỉ 126B là dãy hành lang giữa hai cửa hàng lớn, dẫn tới cầu thang xoáy trôn ốc, đó có nhiều phòng cho thuê, dùng làm văn phòng các công ty. Tên những người thuê nhà được viết bằng vôi tấm bảng, nhưng tôi thấy có tên công ty Franco-Midland. Tôi sững sờ, tự hỏi vụ này phải chăng là phỉnh lừa... Thế rồi có người ra và ngỏ lời với tôi. Người đó rất giống với người mà tôi gặp trong buổi tối hôm trước, nhưng có râu mà mái tóc lại có màu sáng hơn.
      - Có phải ông là Hall Pycroft?
      - Phải.
      - A, tôi chờ ông đây, ông đến hơi sớm chút. Sáng nay tôi có nhận được thư của em tôi. Chú ấy ca ngợi ông hết lời.
      - Tôi tìm văn phòng ông.
      - Chúng tôi chưa kịp cho ghi tên lên bảng. Thôi, ông hãy theo tôi, chúng ta bàn công việc.
      Tôi theo ông ta lên lên tít cầu thang, sát dưới mái nhà lợp đá đen. Tới hai căn phòng trống trếnh, đầy bụi bậm, trải thảm và có màn che cửa, ông ta đẩy tôi vào. Tôi nghĩ tới văn phòng lớn với những cái bàn bóng loáng, những nhân viên xếp hàng đằng sau, như tôi vẫn quen từ thuở nào. Thế là tôi bàng hoàng ngắm nhìn hai cái ghế tựa lung lay và cái bàn mà, cũng với cuốn sổ và cái giỏ đựng giấy vụn. Đó là tất cả đồ đạc trong nhà.
      - Đừng có nản lòng, Pycroft - ông ta lớn khi trông thấy cái vẻ mặt thất vọng của tôi - Thủ đô La Mã đâu có được dựng lên trong ngày? Chúng ta có rất nhiều vốn liến, dẫu rằng chúng ta văn phòng loè loẹt. Hãy ngồi xuống và cho tôi coi lá thư.
      Tôi đưa lá thư ra. Ông ta đọc hết sức cẩn thận.
      - Dường như tạo ra ấn tượng rất mạnh nơi chú em tôi - ông khi đặt lá thư xuống - Chú ấy có tài phán đoán. Mong coi như được thu nhận thực .
      - Tôi phải làm việc gì?
      - sắp xếp kho hàng lớn của chúng ta bên Paris, là nơi sắp tung ra thị trường loạt đồ sành và đồ gốm trong những cửa hàng lớn thuộc 134 đại lý của hãng ta ở bên Pháp. Việc mua hàng được thực xong trong tuần này. Từ nay tới đó ở lại Birmingham và trở thành hữu ích.
      - Bằng việc gì?
      Thay cho câu trả lời, ông ta rút trong ngăn kéo ra cuốn sách lớn màu đỏ.
      - Đây là cuốn danh sách những cư dân ở Paris, và nghề nghiệp của họ. - ông với tôi - có thể mang cuốn sách này về nhà, ghi tên tất cả những nhà đại kim khí và địa chỉ của họ. Bản danh sách giúp ích cho tôi rất nhiều.
      - Chắc chắn là nó có trong những cuốn sách niên giám chứ?
      - thể tin vào những cuốn niên giám đó. Hệ thống đó khác với phương thức của chúng ta. hãy làm và đem cho tôi bản danh sách do lập ra vào sáng thứ hai tuần tới, lúc giữa trưa. Hẹn gặp lại.
      Tôi quay về nhà trọ, trong lòng xốn xang những tình cảm mẫu thuẫn nhau. bên tôi có chỗ làm, trong túi có 100 đồng bảng; còn bên kia là cái văn phòng nghèo nàn. Nhưng dầu sao nữa, tôi có tiền, rồi muốn ra sao ra. Thế là tôi bắt tay vào việc. Suốt ngày chủ nhật tôi cúi gằm cuốn danh sách, thế mà qua ngày thứ hai tôi chỉ mới tới được vần H. Tôi quay lại gặp ông chủ tôi. Vẫn gặp nhau trong căn phòng trống trải. ông bảo tôi cứ tiếp tục và hãy quay trở lại vào ngày thứ tư. Thứ tư tôi vẫn chưa làm xong. Tôi ráo riết làm việc, cho tới thứ sáu, có nghĩa là ngày hôm qua. Thế là tôi đem danh sách tới cho ông Harry.
      - Cám ơn nhiều lắm! - ông ta - Danh sách này rất hữu ích cho tôi.
      - Tôi mất khá nhiều giờ.
      - Giờ đây, - ông ta tiếp - Tôi cầu lập cho tôi bản danh sách những nhà bán hàng trang trí nội thất, bởi vì những cửa hàng đó thường bán cả đồ kim khí nữa.
      - Được lắm.
      - Tối mai, đến đây lúc bảy giờ để cho tôi biết là làm được đến đâu. Đừng có làm việc quá sức đấy. Hai giờ nghe nhạc trong buổi tối làm hại .
      Thế là ông ta bắt đầu vừa cười vừa với tôi và tôi chợt nhìn thấy cái răng thứ hai bên mé trái được bịt vàng, rất xấu xí.
      Sherlock Holmes xoa xoa hai bàn tay vào nhau, dáng vẻ rất thích thú, trong lúc tôi ngơ ngác nhìn người thanh niên.
      - Phải, ông quả có lý khi tỏ ra sững sờ, bác sĩ Watson - ta với tôi - Tuy nhiên chuyện là như thế đó. Khi tôi chuyện với cái ông kia ở London ông ta cười trước cái ý kiến là tôi tới hãng Mawson. Lần đó tôi để ý thấy cái răng bịt vàng của ông ta rất chính xác, nó y hệt như cái răng mà tôi thấy ngày hôm qua. Khi tôi nghĩ rằng giọng và dáng dấp cũng như nhau, và chỉ có những nét đặc trưng là khác nhau (có thể do tác dụng của lưỡi dao cạo hoặc mái tóc giả), tôi tự nhủ rằng chắc chắn đây hai người chỉ là mà thôi. Tất nhiên là có thể có hai em giống nhau, nhưng giống tới mức có cùng cái răng được bịt vàng theo cùng cách...
      đường về, tôi biết mình bằng chân hay bằng đầu nữa. Tôi quay trở lại khách sạn, nhúng đầu vào trong nước lạnh và cố suy nghĩ. Tại sao ta lại bắt tôi rời London xuống Birmingham? Tại sao lại đến Birmingham trước tôi? Tại sao viết thư gửi cho chính ? Tôi chẳng hiểu nổi điều gì. Và bất thình lình tôi biết rằng những điều tối đen đối với tôi có thể lại sáng như ban ngày đối với ông Holmes. Thế rồi tôi đến đây".
      Khi câu chuyện chấm dứt, có khoảng thời gian im lặng khá lâu. Sherlock Holmes nháy mắt ra hiệu với tôi, ngả người vào gối đệm.
      - dở, phải Watson? Trong vụ này có chi tiết làm tôi ưng ý. Vậy cuộc chuyện với ông Harry hấp dẫn đấy nhỉ?
      - Nhưng phải làm thế nào? - Tôi hỏi.
      - Ồ, rất dễ! - Pycroft reo lên cách vui vẻ - Hai ông là hai người bạn của tôi, cùng tới đó tìm việc làm. Có gì là bình thường khi tôi giới thiệu hai ông với viên quản trị được ủy nhiệm kia chứ?
      - Rất tuyệt! - Holmes - Tôi muốn nhìn tận mặt nhân vật đó và thử tìm hiểu trò chơi của y.
      Tối hôm đó, lúc 7 giờ, chúng tôi bộ đến văn phòng công ty.
      - Chẳng cần đến sớm làm chi - Thân chủ của chúng tôi giải thích - Chắc là chỉ tới đó để gặp mình tôi thôi. Ủa kìa[2]! trước chúng ta kìa.
      ta chỉ cho chúng tôi thấy người tóc hoe, ăn mặc bảnh bao, rảo bước vỉa hè bên kia.
      nhìn thằng bé bán báo rao toáng lên những tin tức giật gân, rồi thình lình xông vào giữa những cỗ xe và xe buýt để mua tờ báo và biến khuất sau khung cửa.
      - Chỗ đó đấy! - Pycroft kêu lên - leo lên văn phòng. Hai ông hãy lại đó với tôi.
      Chúng tôi leo năm tầng lầu, Pycroft gõ lên cánh cửa hé mở.
      - Cứ vào!
      Lúc đó chúng tôi thấy mình ở trong căn phòng trống tuếch. Ngồi trước cái bàn duy nhất là người đàn ông mà chúng tôi thấy ngoài đường phố, tờ báo trải rộng dưới mắt. Khi người đó ngửng lên, tưởng chừng như tôi chưa bao giờ trông thấy khuôn mặt nào mang theo những dấu vết rã rời hơn. Vầng trán bóng đẫm mồ hôi, đôi mắt long lanh tia nhìn hoang dại, ông ta như còn nhận ra người giúp việc của mình nữa.
      - Ông có vẻ bị đau, thưa ông chủ? - Người thanh niên lớn.
      - Phải, tôi được khoẻ - Người kia trả lời, cố gắng trấn tĩnh lại. ông ta thè lưỡi liếm môi trước khi hỏi: - Các ông đây là ai vậy?
      - Đây là ông Harris ở Bermondsey, ông này là Price ở tại đây - Pycroft trả lời trơn tru - Đây là hai bạn tôi, những người giàu kinh nghiệm nhưng nay lại bị thất nghiệp. Tôi hy vọng ông sử dụng khả năng của họ trong công ty.
      - Có thể lắm chứ - Người đọc báo với nụ cười dễ sợ - Phải, chúng tôi có thể làm được cái đó cho hai ông. Thế ông làm nghề gì, thưa ông Harris?
      - Tôi làm kế toán - Holmes trả lời.
      - Thế à? Vừa đúng lúc chúng tôi cần người giữ sổ sách. Thế còn ông, thưa ông Price?
      - Thư ký hành chính - Tôi trả lời.
      - Công ty thu nhận ông. Tôi báo tin, khi nào chúng tôi quyết định. Và giờ đây, tôi mong các ông hãy để cho tôi được yên, được ở đây mình.
      Những lời sau chót vọt ra khỏi miệng người đó tựa hồ như gò bó lâu ngày, mà ngày nay bất thình lình câu thúc bỗng bị vỡ tan tành. Holmes và tôi trao đổi tia nhìn và Pycroft tiến bước lên phía cái bàn, :
      - Thưa ông, ông quên mất rằng ông hẹn tôi đến đây để cho tôi những chỉ thị hay sao.
      - Chắc chắn rồi - Người nọ trả lời bằng giọng bình tĩnh hơn - Các ông có thể chờ tôi lát...
      đứng lên trong dáng điệu rất lịch , nghiêng mình khi ngang qua chúng tôi, mở cánh cửa ở phía đầu bên kia văn phòng rồi khép lại sau lưng .
      - Như vậy có nghĩa là gì? - Holmes thào - Liệu có vuột thoát khỏi tay chúng ta chăng?
      - thể được! - Pycroft trả lời.
      - Tại sao?
      - Cánh cửa này mở vào căn phòng trong.
      - có lối ra sao?
      - có lối ra nào khác.
      - Phòng có bày đồ đạc ?
      - Cho đến ngày hôm qua nó còn trống trơn.
      - Thế có thể làm gì trong đó nhỉ? cái gì đó vuột khỏi tôi trong vụ án này? Điều gì làm cho run sợ đến thế?
      - nghi chúng ta là cảnh sát. - Tôi .
      - Đúng vậy! - Pycroft .
      Holmes lắc đầu.
      - nhợt nhạt trước khi chúng ta vô đây. Rất có thể là...
      Câu của bị ngắt ngang bởi tiếng "tốc tốc" khá mạnh từ trong cánh cửa phòng bên vọng ra.
      - Ma xúi quỷ giục gì mà lại gõ vào cánh cửa của như vậy? - Pycroft kêu lên.
      Thêm lần nữa và thêm nhiều tiếng "tốc tốc" mạnh hơn nữa. Chúng tôi bực dọc. Tôi quay lại phía Holmes và thấy im lìm, nghiêng mình xuống phía trước với kích động mãnh liệt. Bất chợt chúng tôi nghe thứ tiếng “òng ọc" và tiếng gõ gỗ dữ dội.
      Holmes nhảy vọt qua căn phòng như kẻ điên loạn và đẩy mạnh cánh cửa. Nó được đóng chặt từ bên trong. Chúng tôi hợp sức dốc toàn lực xô mạnh vào cánh cửa. cái bản lề long ra, rồi tiếp theo là cái khác nữa; sau chót cánh cửa bật tung. Chúng tôi xông bừa lên những mảnh vụn.
      Căn buồng rỗng .
      Chúng tôi bối rối giây. Trong góc, cái góc gần nhất với căn phòng là nơi mà chúng tôi đứng chờ đợi còn có cánh cửa thứ hai. Holmes nhảy vọt tới, mở cánh cửa đó ra. Dưới đất có vương vãi tấm áo vét và áo gi-lê. Móc vào cái móc gần sau cánh cửa, dùng những dải đeo quần của chính mình quấn vào quanh cổ, nhà quản trị tự treo cổ mình lên. Đầu gối co quắp, tiếng những gót chân động vào cánh cửa là tiếng động làm ngắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Trong thoáng, tôi đỡ lấy thân mình , nâng lên, Holmes và Pycroft tháo gỡ những dải dây ra. Chúng tôi khiêng sang phòng bên. nằm dài ở đó, mặt có màu sạm của da đen. Theo từng nhịp thở, đôi môi đỏ của phồng lên rồi xẹp xuống.
      - nghĩ sao, Watson?- Holmes hỏi.
      Tôi cúi nghiêng mình xuống để tiến hành cuộc khám nghiệm ngắn. Mạch đập yếu và đều. Nhưng hô hấp của y lại bớt đứt khúc và đôi mi mắt run run ra chút lòng trắng.
      - Chậm chút nữa là rồi đời! Nhưng giờ đây sống. Làm ơn mở cửa sổ ra và mang nước lại đây.
      Tôi mở cổ áo ra, rẩy nước lên mặt và làm hô hấp nhân tạo. Lát sau phát ra hơi thở dài và bình thường.
      - Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. - Tôi khi bỏ mặc nằm đó.
      Holmes đứng gần bên hai cái bàn, hai bàn tay thọc sâu trong túi quần và cái cằm gục xuống ngực:
      - Giờ đây chúng ta phải mời cảnh sát tới. Tuy nhiên, tôi ưa thích giao lại cho cảnh sát vụ được làm sáng tỏ.
      - Tất cả vụ này là khó hiểu - Pycroft vừa gãi đầu kêu lên - Tại sao bọn chúng lại muốn cho tôi lên và giữ tôi lại đây? Thế rồi sao nữa?
      - Hừ! - Holmes buông ra với giọng mất kiên nhẫn - Tất cả ràng rồi. Ngoại trừ cái hành động đột ngột sau chót này.
      - Vậy ông hiểu những gì còn lại?
      - Phần còn lại, là hiển nhiên. nghĩ sao Watson?
      - Tôi chẳng hiểu gì hết.
      - Ồ, coi nào, những nguyên nhân đầu tiên đều dẫn tới có kết luận thôi mà!
      - Thế , lập luận của là gì?
      - Tất cả nội vụ dựa hai điểm. Điểm thứ nhất là bản xác nhận mà người ta buộc Pycroft phải viết và sau đó phải làm trong cái công ty quỷ quái này. thấy tầm quan trọng của điều đó hay sao?
      - .
      - Xem nào! Tại sao bọn chúng lại cần đến những giấy đó. Đâu phải cần làm cho đúng phép, bởi vì những thu xếp thuộc loại này thông thường là lời . Vậy tại sao nó được là ngoại lệ? há chẳng thấy sao, bạn trẻ của tôi, rằng họ mong muốn thu được mẫu chữ viết của để từ đó họ có được cái họ cần có.
      - Tôi chẳng hiểu gì cả.
      - người nào đó muốn tập viết giống kiểu chữ của ta cố kiếm cho ra bản mẫu. Và giờ đây, nếu chúng ta chuyển qua điểm thứ hai, ta thấy rằng điều thứ hai làm sáng tỏ cho điểu thứ nhất. Điểm thứ hai là như thế này: Pinner cầu đừng có viết thư xin thôi việc, vì ông ta muốn để cho ông giám đốc hãng Mawson tin rằng có ông Pycroft mà ông ta chưa từng gặp mặt lần nào, tới nhận việc vào buổi sáng thứ hai. - Lạy Chúa - Thân chủ của chúng tôi kêu lớn - Tôi khờ khạo nhất đời.
      - Giờ đây ước lượng được tầm quan trọng về bản xác nhận chữ viết tay của chưa? Giả sử có ai đó tới nhận chỗ làm dành cho và rằng ai đó lại có kiểu chữ viết rất khác biệt với kiểu chữ mà viết trong đơn dự tuyển gian trá ắt hẳn là bị khám phá ra. Nhưng nếu tên vô lại có kiểu chữ viết giống địa vị của được an toàn, bởi vì tôi phỏng đoán là chẳng ai trong hãng đó biết mặt .
      - ai! - Pycroft rên rỉ.
      - Muốn cho suy nghĩ nhiều về điều đó, muốn kéo ra khỏi mọi tiếp xúc để có khả năng tìm hiểu được là có người trùng tên trùng họ với làm việc tại hãng Mawson, chúng đưa cho số tiền lớn và gửi tới Midland, là nơi chúng bắt phải làm việc bù đầu, khiến thể trở về London mà khám phá ra cái mưu mô bé của chúng. Tất cả mọi việc đều đơn giản.
      - Nhưng tại sao người này lại làm ra vẻ là ruột của y?
      - Trong mưu này, chúng phải có hai người. Kẻ kia giả danh làm việc ở văn phòng, còn gã này chơi trò tuyển dụng . Vả lại, thể nào tìm cho chủ nhân mà lại có ông chủ, tức là nhân vật thứ ba. Đó là điều muốn chút nào. Vậy là đóng luôn vai ruột của (ông chủ) bằng cách hoá trang. thể nào nhận ra, nếu có "cái răng vàng".
      Pycroft giơ hai bàn tay lên cao mà kêu lên:
      - Thế là trong lúc tên Pycroft ở đây cái gã Pycroft giả-mạo-kia làm trò gì ở hãng Mawson? Chúng ta phải làm sao, ông Holmes?
      - Cần phải đánh điện cho hãng Mawson.
      - Ngày thứ bảy họ đóng cửa nghỉ vào buổi trưa.
      - hề gì. Ở đó thế nào cũng có người gác cổng hoặc bảo vệ.
      - Phải đó! Họ có thuê người bảo vệ thường trực để giữ gìn các tủ sắt chứa những cổ phần. Tôi nhớ nghe tới việc đó trong khu City.
      - Tốt lắm. Chúng ta đánh điện cho người bảo vệ để hỏi xem tất cả có an toàn và xem có người nào mang tên làm việc trong hãng đó . Việc này khá ràng, còn việc kém ràng là tại sao tên vô lại chỉ vì trông thấy chúng ta mà lại treo cổ.
      - Tờ báo - giọng kèn kẹt phát ra phía sau chúng tôi.
      Tên vô lại ngồi dậy, tay y xoa bóp cách nôn nóng các vết lằn đỏ lõm sâu quanh cổ.
      - Tờ báo? Đúng thế! - Holmes kêu lớn lên trong tâm trạng kích thích cực độ - Tôi ngu ngốc làm sao.
      trải rộng tờ báo mặt bàn và tiếng kêu chiến thắng vang lên.
      - Đây là tờ báo xuất bản tại London, tờ Evening Standard. Hãy xem những tít này. " tội ác trong khu City. Án mạng trong hãng Mawson and William's. vụ xếp đặt để hại người. Bắt được tên tội phạm". Watson, hãy đọc bài báo to cho chúng tôi nghe .
      "Từ ít lâu nay, Mawson and William's, những nhà môi giới chứng khoán rất nổi tiếng, đảm nhiệm việc cất giữ những phiếu cổ phần mà tổng số vượt quá triệu sterling. Vị giám đốc rất có ý thức về trách nhiệm của mình, cho đặt những két sắt kiểu mới nhất và giám thị có vũ trang giữ nhiệm vụ canh gác ngày cũng như đêm trong ngôi nhà. Tuần lễ vừa qua, nhân viên mới, có tên là Pycroft được công ty thu dụng. chàng này ai khác hơn là Beddington, kẻ làm giả nổi tiếng và là kẻ trộm. Bằng những phương pháp còn chưa được xác minh, y mượn tên giả, xin được chỗ trong hãng, y lạm dụng địa vị của mình để lấy dấu nhiều ổ khoá khác nhau và tìm biết nơi đặt những két sắt.
      Ở hãng Mawson, nhân viên rời sở làm vào trưa thứ bẩy. Trung sĩ Tuson, thuộc sở cảnh sát khu City, lấy làm ngạc nhiên khi thấy người có xách theo cái túi du lịch xuống những bực thềm vào hồi 1 giờ 20. Ông nghi ngờ và theo dõi người đó. Với phụ giúp của cảnh sát viên Pollock, ông bắt giữ người nọ. Ngay tức khắc, ông phát ra vụ trộm rất táo bạo. Gần 100.000 bảng trái phiếu ngành đường sắt Mỹ, và lượng lớn những chứng khoán khác, được kiểm kê trong cái túi. Cuộc xét nghiệm trường đưa tới việc phát tử thi của người bảo vệ bất hạnh, bị gấp làm hai rồi bị nhét và trong cái két sắt lớn nhất từ phía sau. Em y, thường sát cánh với y, lại thấy xuất trong vụ này. nay cảnh sát mở cuộc điều tra xem y ở đâu.”
      - Vậy , chúng ta có thể giúp cảnh sát tay - Holmes , liếc nhìn cái thân hình co rúm gần bên cửa sổ.
      Hết
      ---
      [1] Nguyên văn: Franco-Midland Hardware Company, Limited
      [2] Nguyên văn: By Jove

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      9. Tàu Gloria Scott

      buổi tối mùa đông, khi hai chúng tôi ngồi bên lò sưởi Sherlock Holmes :
      - Đây là những tài liệu có liên quan đến vụ đắm tàu Gloria Scott, nên quan tâm tới nó. Trong số các tài liệu này có lá thư làm cho ông quan tòa Peace Trevor đờ người ra vì kinh hãi.
      Từ ngăn kéo, moi ra cái hộp phai màu, sau khi tháo sợi dây cột ngoài, đưa cho tôi lá thư ngắn, viết nguệch ngoạc:
      “Dụng cụ trò chơi ở London từ từ quá xa.
      Người quản lý Hudson kể nhận tất cả bẫy ruồi trốn và để giữ con gà mái còn mạng sống”[1].
      Khi đọc thư xong, tôi ngước mắt lên, bắt gặp Holmes cười rúc rích:
      - Dường như hơi lúng túng đấy?
      - Tôi chẳng hiểu vì sao tin nhắn như vậy lại có thể làm cho người nhận đờ người ra vì kinh hoàng; trái lại, tôi thấy nó...
      - Đúng thế! Ấy thế mà người nhận thư ngã vật xuống như vừa bị trúng phát súng.
      - khơi dậy óc tò mò của tôi rồi đấy. Nhưng tại sao bảo rằng tôi nên quan tâm đến vụ này.
      - Bởi vì nó là vụ đầu tiên của tôi.
      Trước đây tôi từng tìm cách gợi ý để Holmes kể cho tôi nghe về lý do lựa chọn nghề thám tử nhưng chưa bao giờ Holmes lại ở trọng trạng thóai vui vẻ như lần này. ngồi hẳn vào trong chiếc ghế bành, trải những tờ giấy lên đùi mình, kéo hơi tẩu.
      - chưa hề nghe tôi nhắc tới Victor Trevor phải ? ấy là người bạn duy nhất mà tôi có trong hai năm theo học ở trường cao đẳng. Watson, tôi là người thích nhốt mình trong phòng riêng để hiệu đính những phương pháp lý luận của riêng tôi, vì thế tôi ít có bạn bè. Tôi quen với Victor, trong lúc dự buổi lễ đạo, và con chó săn của ta bất chợt cắn vào mắt cá chân tôi.
      Tôi phải nằm yên trong mười ngày và Victor thường đến thăm tôi. Thoạt đầu chỉ ở lại tán gẫu trong lát. Nhưng rồi những chuyến tới thăm kéo dài và chúng tôi mau chóng thân nhau. Đó là chàng trai khỏe mạnh, nóng nảy, thông minh và có nghị lực. Sau cùng vào kỳ nghỉ hè, mời tôi về nhà thân phụ ở Donnithorpe, thuộc vùng Norfolk, chơi trong tháng.
      Ông già Trevor là quan tòa tòa án hòa giải và là điền chủ. Donnithorpe là xóm ở ngay phía bắc Langmere, trong vùng có nhiều hồ và đầm lầy. Ngôi nhà kiểu xưa, với những cây rầm làm bằng gỗ sồi và tường xây bằng gạch; lối vào nhà hai bên có trồng cây, trong những bụi dương xỉ, người ta săn được nhiều vịt trời; cá cũng đáng chú ý; tủ sách nhưng chứa toàn sách hay.
      Bố Trevor goá vợ, và bạn tôi là con trai duy nhất của ông. Người cha học nhiều nhưng trí nhớ rất tốt. Ông còn được trời phú cho sức khoẻ đáng kể. Ông đọc ít, nhưng nhiều nơi và xa. Đó là ông già hoạt bát, có mái tóc muối tiêu, bộ mặt rám nắng và cặp mắt màu xanh sắc sảo, đôi lúc tạo cho ông dáng vẻ hung hãn. Tuy nhiên ông nổi tiếng là người tốt bụng và từ thiện. Tại tòa, ông nổi tiếng vì lòng khoan dung, độ lượng.
      buổi tối, sau bữa ăn, chúng tôi ngồi trước ly rượu và Victor bắt đầu về những thói quen quan sát suy diễn mà tôi lập thành phương thức riêng dù chưa biết nó được sử dụng như thế nào trorng cuộc sống. Ông cụ cho rằng Victor quá phóng đại khi thuật lại hai hoặc ba kỳ tích của tôi hoàn thành.
      - Coi nào, cậu Holmes - Ông cụ Trevor với tôi vừa cười vui vẻ - Cậu hãy thử suy diễn ra điều gì đó về tôi xem: tôi là đề tài tuyệt hảo đấy.
      - Cháu thể nhiều về bác được. Tuy nhiên trong thời gian gần đây bác có lo sợ về cuộc tấn công nhằm vào cá nhân.
      Nụ cười tắt ngấm môi, ông cụ nhìn tôi vẻ ngạc nhiên:
      - Thực thế. Này Victor, sau khi toà xử phạt cái băng kẻ săn bắn trái phép, bọn chúng thề thanh toán chúng ta. Và mới đây ngài Edward Holly vừa bị tấn công. Từ đó, ta ngừng cảnh giác; nhưng cha tự hỏi biết làm sao mà bạn con lại biết được điều đó.
      - Bác có cây gậy đẹp. Căn cứ theo dấu ghi gậy cháu nhận thấy là bác chỉ mới sử dụng nó được năm. Nhưng bác tốn công khoét cái núm tròn đầu gậy rồi đem đổ chì vào đó: nó là vũ khí. Từ đó cháu suy ra rằng nếu như bác lo ngại về mối nguy hiểm nào đó, bác đề phòng như vậy làm gì?
      - Thế còn cái gì nữa? - Bác vừa hỏi vừa cười.
      - Hồi còn trẻ, bác chơi quyền .
      - Giỏi . Làm sao mà cháu đoán ra? Có phải vì mũi tôi còn thẳng thớm chăng?
      - phải, vì đôi tai của bác. Tai bác sệ xuống và có bề dày, vốn chỉ thấy ở tai những võ sĩ quyền .
      - Có gì khác nữa chăng?
      - Những chỗ chai đôi bàn tay bác cho biết bác đào xới đất rất nhiều.
      - Gia tài của tôi đều đến từ cánh đồng có vàng.
      - Bác tới New Zealand.
      - Chính xác.
      - Bác từng sống thời bên Nhật Bản.
      - Tuyệt.
      - Và bác kết thân rất thân mật với người có tên viết tắt là J.A... rồi sau đó bác tìm cách quên hẳn .
      Ông già Trevor đứng lên khó khăn, chăm chú nhìn tôi bằng cặp mắt mà biểu lộ trở thành thô bạo, hung tợn rồi chúi mũi xuống bàn: bác ngất , cứng đờ.
      Watson, có hình dung ra con trai bác ấy và tôi bị hoảng hốt đến ngần nào. Tuy nhiên, ngay sau khi chúng tôi cởi cúc áo và tưới nước lạnh lên mặt bác, bác nấc lên hai hoặc ba lần rồi lại ngồi dậy.
      - A! Các con của ta - Bác với chúng tôi và cố gượng cười - Ta làm cho các con phải hoảng sợ đấy chứ? Ta biết con tìm ra bằng cách nào, Holmes ạ, nhưng ta có cảm tưởng rằng tất cả các thám tử chính thức so với con đều chỉ là trẻ nít. Chính đó là nghề nghiệp của con, con nhớ nhé!
      Đó là lời khuyên kèm theo đánh giá được phóng đại về những khả năng của tôi, nó khiến tôi tin rằng mình có thể kiếm sống được vào “trò tiêu khiển đơn giản” ấy. Tuy nhiên, trong lúc đó tôi chỉ quan tâm đến sức khỏe của bác ấy.
      - Cháu mong là lỡ lời để làm phiền bác? - Tôi thầm.
      - Do đâu mà cháu lại biết chuyện đó và cháu còn biết thêm về điều gì?
      Lúc đó bác với tôi bằng giọng bông lơn nhưng sâu thẳm, trong ánh mắt bác vẫn còn náu nỗi kinh hoàng.
      - Hồi nãy, khi bác xắn tay áo để bắt cá, cháu thấy những chữ viết tắt “J.A” được xăm ở khuỷu tay. Những chữ đó hãy còn thấy , nhưng bị xoá mờ đến nửa; ràng bác tìm cách làm cho chúng biến . Hiển nhiên thuở xưa, đó là những chữ rất thân mà về sau bác muốn quên chúng.
      - Cặp mắt mới tinh làm sao - Bác kêu lên và thốt ra tiếng thở dài nhõm – Nhưng thôi, chúng ta đừng nhắc tới chuyện đó nữa. Trong tất cả những hồn ma bóng quế bóng ma của những mối tình là tồi tệ hơn cả. Chúng ta hãy sang bên phòng chơi bi da và hút điếu thuốc.
      Kể từ ngày hôm đó, cụ Trevor thường có thoáng nghi ngờ tôi. Con cụ cũng nhận ra điều đó. :
      - làm cho ông già bở vía, ông chẳng còn hiểu là biết những gì và biết những gì.
      Ông cụ có ý cho tôi thấy nghi ngờ, tôi tin chắc như thế, nhưng cảm tưởng đó lại thấm vào tôi mạnh mẽ khiến nó cứ luôn ra trong tất cả mọi lúc, mọi nơi. Sau cùng, tôi thấy nên rút ngắn chuyến nghỉ hè. Tuy nhiên, vào buổi sáng trước ngày tôi lên ra về, lại xảy ra việc quan trọng.
      Chúng tôi ngồi những chiếc ghế đặt ngoài vườn, sưởi nắng và ngắm mặt hồ. Bỗng hầu tới báo là ngoài cửa có người muốn gặp cụ Trevor.
      - Ai vậy? - Chủ nhà hỏi.
      - Ông ta chịu tên.
      - Thế muốn gì?
      - Ông ấy chỉ là người quen biết và muốn gặp bác trong chốc lát.
      - đưa người đó vào đây.
      Chúng tôi thấy xuất người bé, dáng điệu xun xoe, bước chân lết dài. Gã mặc áo vét cài khuy, cổ tay áo có dính hắc ín, áo sơ mi kẻ sọc vuông màu đen và đỏ, quần lao động, chân giày lớn mòn gót. có bộ mặt gầy, rám nắng, quỷ quyệt, miệng luôn luôn cười, phô ra hàng răng khập khểnh. Những bàn tay quắt lại, cứ nắm nửa chừng, như những thủy thủ thường có thói quen như vậy. Trong lúc gã nặng nề ngang qua bồn cỏ, tôi nghe thấy bác Trevor cố nén tiếng kêu , vội vàng đứng lên và chạy vào trong nhà. Bác trở ra ngoài ngay sau đó, khi bác ngang qua bên, tôi ngửi thấy mùi rượu brandy nồng nặc.
      - Thế nào, ông bạn? Tôi có thể làm gì để giúp ông đây? - bác ấy .
      Gã thủy thủ đứng lên nhìn bác với đôi mắt nheo lại. Cặp môi mềm nhão của y cong lên.
      - Bác nhận ra tôi sao?
      - Úi chà, chính là Hudson đây mà - Bác Trevor kêu lên với giọng ngạc nhiên.
      - Hudson đây, thưa bác, hơn ba mươi năm qua, tôi gặp bác. Giờ đây bác sống trong nhà cao cửa rộng, trong lúc tôi vẫn còn phải mót những đồ hộp đồ ăn trong các thùng rác.
      - Suỵt, ông bạn. Rồi thấy là tôi quên những người cũ đâu - Bác Trevor , và tiến tới bên gã thủy thủ, hạ thấp giọng, với y vài lời lại cất cao giọng:
      - Hãy xuống nhà bếp ăn uống. Chắc chắn là tôi tìm cho được việc làm.
      - Xin cám ơn. Tôi vừa trải qua hai năm con tàu chở hàng và tôi mong được nghỉ ngơi ít lâu. Tôi nghĩ rằng tôi có thể thu xếp hoặc với ông Beddoes hoặc với bác đây.
      - biết địa chỉ của ông Beddoes hả? - Bác Trevor kêu lên.
      - Nhờ trời, tôi biết chỗ ở của mọi bạn cũ - Gã thủy thủ trả lời. Thế rồi y theo hầu xuống nhà bếp.
      Bác Trevor với chúng tôi rằng bác từng là bạn cùng tàu với trong chuyến tới những vùng đất có vàng. Đoạn ông cụ bỏ vào nhà. tiếng đồng hồ sau, khi chúng tôi vào, thấy ông cụ say như chết, nằm dài trường kỷ trong phòng ăn. Việc đó để lại cho tôi cảm tưởng xấu và tôi nhận thấy diện của tôi làm cho bạn tôi ngượng nghịu.
      Ngày hôm sau, tôi trở về London, lại ru rú trong căn phòng của mình và tiến hành thí nghiệm hoá học. Tuy nhiên, vào lúc kỳ nghỉ hè sắp hết, tôi nhận được bức điện của Victor cầu tôi trở lại Donnithorpe. Tôi lại lên đường, ngược lên miền Bắc.
      Victor chờ tôi ở nhà ga. Mới thoạt nhìn, tôi hiểu ngay là vừa trải qua hai tháng quá nhiều buồn bực. gầy , đánh mất tính vui vẻ có duyên.
      - Ông già sắp chết - với tôi ngay từ đầu.
      - Đâu có thể? Mà chết vì bệnh gì?
      - cú sốc thần kinh. Suốt ngày hôm nay, ba tôi cận kề cái chết.
      - Nguyên nhân?
      - hãy lên xe ! Dọc đường chúng ta chuyện. còn nhớ cái gã tìm tới nhà ngay trước bữa ra về chứ?
      - Nhớ rất .
      - có biết gã đó là ai ?
      - Tôi biết.
      - Quỷ dữ đó, Holmes ạ.
      Tôi nhìn chòng chọc vào mặt với vẻ kinh ngạc.
      - Đúng đấy, kể từ khi tới nhà, chúng tôi còn yên tĩnh lấy giờ. Kể từ ngày đó, ông già cũng chẳng bao giờ còn ngẩng đầu lên được nữa. Và giờ đây, mạng sống của ông như ngàn cân treo sợi tóc.
      - ta nắm giữ quyền lực gì vậy?
      - À, tôi cần biết điều đó? Cha tôi trung hậu đến thế, độ lượng đến thế, tử tế đến thế. Làm sao ông lại rơi vào móng vuốt của tên đạo tặc đó? Tôi đặt nhiều hy vọng vào . Vào lời khuyên của , Holmes.
      Chúng tôi như bay con đường bằng phẳng và trắng phau, trước mặt chúng tôi trải dài ra tất cả các vùng hồ và đầm lầy long lanh dưới ánh sáng đỏ của buổi hoàng hôn. Giữa lùm cây bên tay trái nhô lên những ống khói cao và cây cột cờ: đó là nhà bác Trevor.
      - Cha tôi cho gã Hudson làm vườn, y có vẻ bằng lòng, ông lại cho làm quản gia. Ngôi nhà như của chính , muốn làm gì tuỳ thích. Các hầu than phiền về rượu chè vô độ và về những cử chỉ thô tục của , ông già tăng lương để cho họ im tiếng. Hudson lấy con thuyền và khẩu súng tốt nhất của cha tôi để săn thỏ. Cái tên đểu cáng đó, ngạo mạn đó, xảo trá đó bị tôi nện đến hai chục lần rồi nếu như y đồng trang lứa với tôi. Nhưng tôi tự kiềm chế, để khỏi làm cho ông già buồn. Than ôi! Cái con thú đó càng lúc càng quấy rầy, luôn luôn xía nhiều hơn vào những chuyện chẳng dính dáng gì tới . hôm, dám đối đáp hỗn xược với cha tôi ở ngay trước mặt tôi. Tôi tóm lấy vai y và tống cổ y ra khỏi phòng. lỉnh , mặt tái xanh, với những ánh mắt ngầm đe dọa. Tôi biết chuyện gì xảy ra sau đó giữa cha tôi và , nhưng ngày hôm sau, ông già tìm gặp tôi và cầu tôi xin lỗi Hudson. Tôi từ chối thẳng thừng và tôi hỏi vì sao cha tôi lại chịu đựng tên vô lại như thế.
      - Con biết là ta lâm vào cảnh khó xử đến nhường nào. Nhưng rồi con biết, Victor. Ta cho con biết, rồi muốn ra sao ra. Con bao giờ nghĩ xấu về cha chứ, con của ta?
      Ông giam mình trong văn phòng ông suốt cả ngày hôm đó. Qua khuôn cửa sổ, tôi nhìn thấy ông: ông cắm cúi viết. Buổi tối hôm đó sau bữa ăn, con quỷ với chúng tôi là y sắp . Y có giọng líu lưỡi của người sắp say:
      - Tôi chán Norfolk rồi. Tôi xuống Hampshire gặp ông Beddoes. Tôi mong rằng chuyến này làm hài lòng ông.
      Cái câu móc họng đó khiến cho tôi giận sôi lên.
      Ba tôi hỏi:
      - Tôi hy vọng là vì giận dỗi mà bỏ chứ, Hudson?
      Gã nọ ném về phía tôi tia nhìn hắc ám:
      - Tôi được xin lỗi.
      Lúc đó ba tôi quay sang phía tôi.
      - Victor, con hãy nhìn nhận rằng con đối xử thô bạo với người này, phải thế nào?
      Tôi phải kìm nén mà trả lời:
      - Trái lại, con tin rằng cả hai cha con ta hết sức kiên nhẫn đối với ông ta.
      Y gầm lên:
      - À ra thế, nghĩ như vậy đó? Được lắm, bạn của tôi. Rồi cứ giương mắt lên mà xem?
      Y lẩn ra khỏi phòng và nửa tiếng đồng hồ sau, y rời khỏi nhà. Ba tôi ở trong tình trạng tồi tệ. Nhưng đúng vào lúc mà ba tôi tìm lại được chút lòng tin xảy ra cú đánh sau cùng.
      - Bằng cách nào vậy?
      - Cú đánh khác thường nhất trần đời. Hôm qua, lá thư được gửi tới. Thư mang con dấu của bưu cục Fordingham. Ba tôi đọc thư, giơ hai bàn tay ôm lấy đầu, rồi ông bắt đầu chạy vòng vòng trong phòng khách. Khi tôi đặt được ba tôi nằm xuống tràng kỷ, miệng ông và mí mắt ông co rúm sang bên. Bác sĩ chạy tới ngay tức khắc. Nhưng cha tôi hôn mê.
      - làm cho tôi lo sợ, Trevor - Tôi thốt lên - Nhưng, trong thư cái gì mà lại gây ra thảm họa tới nhường đó?
      - Chẳng có gì cả. Tin nhắn là phi lý, tầm thường. Nhưng đó chính là điều tôi lo sợ...
      Xe ngựa chạy quanh khúc đường vòng lối vào nhà. Trong ánh sáng chạng vạng của buổi chiều tà, chúng tôi thấy các bức mành trong nhà đều được buông xuống. Chúng tôi vội vã về phía cửa ra vào. người mặc đồ đen vượt qua ngưỡng cửa, ông ta dừng lại khi thấy chúng tôi.
      - Chuyện xảy đến vào lúc nào vậy, thưa bác sĩ? - Victor hỏi.
      - Ngay sau lúc ông vừa lên đường.
      - Cha tôi có tỉnh lại ?
      - Chỉ tỉnh trong chốc lát trước khi tắt thở.
      - Cụ có trối trăng điều gì ?
      - Ông cụ chỉ câu: “Các giấy tờ để trong ngăn kéo dưới căn phòng Nhật Bản”.
      Victor leo lên, cùng với ông bác sĩ về phía buồng người chết. Tôi ở lại trong căn phòng, cảm thấy bị buồn như chưa bao giờ từng buồn đến vậy. Quá khứ của cụ Trevor là thế nào? Cụ từng là võ sĩ quyền , cụ đây đó cụ trở thành người tìm vàng. Và do đâu mà cụ lại rơi vào quyền lực của cái tay thủy thủ gớm ghiếc kìa? Tại sao cụ lại ngất xỉu khi tôi nhắc đến những chữ viết tắt cánh tay, tại sao cụ lại chết vì khiếp sợ khi nhận được lá thư gửi từ Fordingham? Rồi tôi nhớ ra là Fordingham ở trong vùng Hampshire, và rằng cái nhà ông Beddoes cũng nằm trong vùng Hampshire. Như vậy lá thư có thể đến từ tên thủy thủ Hudson, báo tin là tiết lộ điều gì bí mật, tội lỗi dường như có từ thuở trước, hoặc giả lá thư đó do Beddoes báo cho biết kẻ hợp tác ngày xưa rằng phản bội này sắp xảy ra đến nơi. Cho tới đấy, việc là sáng tỏ. Nhưng trong trường hợp này, làm sao mà tin nhắn lại có thể tầm thường, vô lý theo lời của Victor? Có lẽ ấy đọc kỹ, hiểu thấu. Hoặc giả tin nhắn đó được soạn thảo theo trong những hệ mật mã khéo léo được hiểu theo nghĩa khác. Tôi cần phải có lá thư đó.
      Suốt tiếng đồng hồ, tôi ngồi suy nghĩ trong bóng tối, cho tới lúc hầu mặt đầm đìa nước mắt mang tới ngọn đèn và theo sau là Victor. ngồi xuống trước mặt tôi, đẩy ngọn đèn tới sát mép bàn và đưa cho tôi lá thư viết nguệch ngoạc, tờ giấy màu xám và tôi đọc:
      “Dụng cụ trò chơi ở London từ từ quá xa.
      Người quản lý Hudson kể nhận tất cả bẫy ruồi trốn và để giữ con gà mái còn mạng sống”.
      Tôi đọc lại lần nữa, rất chăm chú, nghĩa thứ hai chắc hẳn phải được che giấu trong phối hợp kỳ lạ của những từ này. Phải chăng ý nghĩa được thoả thuận từ trước trong những từ như “bẫy ruồi” hoặc “con gà mái”. Chính đó là điểm mấu chốt của vụ này. có mặt của tên Hudson tại nhà ông cụ cho tôi biết rằng người viết bức thư, chính là ông Beddoés chứ phải là gã thủy thủ. Tôi thử đọc ngược, nhưng những chữ cuối “giữ con gà mái còn mạng sống” làm tôi nản chí. Rồi tôi thử tìm những chữ xen kẽ, kể cả những cụm từ “dụng cụ trò chơi ở London” cũng như “ từ từ quá xa” cũng chẳng soi sáng cho tôi được tí nào. Cuối cùng, bất thình lình, chìa khóa ra với tôi. Tôi thấy là chữ đầu tiên của mỗi nhóm chữ là cần giữ lại, điều đó cho ta chuỗi câu xô đẩy ông lão Trevor đến chỗ tuyệt vọng.
      Lời cảnh cáo ngắn. Tôi dịch cho bạn tôi hiểu:
      “Trò chơi quá xa. Hudson tất cả. Trốn để giữ mạng sống.”[2].
      Victor vùi đầu trong hai bàn tay run rẩy. với tôi:
      - Tôi nghĩ rằng đó là điều chính xác. Nhưng như thế nó còn tồi tệ hơn là cái chết, bởi điều đó còn có nghĩa là ô danh. Nhưng những từ “người quản lý” và “con gà mái” có nghĩa là gì?
      - Chẳng có nghĩa gì, nhưng chúng ta biết nhiều hơn nếu chúng ta khám phá ra người gửi. thấy chứ: người đó bắt đầu viết: “Trò chơi... quá xa... Hudson... ...” vân vân. Sau đó để thuận theo nguyên tắc của mật mã, người đó lấp đầy những chỗ trống bằng vài từ tiếp theo sau. Đương nhiên người đó dùng những từ đầu tiên chợt tới trong ý nghĩ. Và nếu như có nhiều từ liên quan tới các con vật, có thể tin chắc rằng người đó là người ham săn bắn hoặc là người đam mê với việc chăn nuôi. biết gì về ông Beddoes này?
      - Giờ đây tôi chợt nhớ lại là mỗi mùa thu, ông già tôi lại được mời đến săn bắn vùng đất của ông Beddoes.
      - Vậy ông ấy là người gửi thư đến đây: Điều còn lại là tìm hiểu bí mật mà gã thủy thủ Hudson treo lơ lửng đầu ông cụ.
      - Than ôi, Holmes - ta kêu lên - Tôi quả lo sợ đó là bí mật về tội lỗi và ô nhục: Đây là tờ khai mà ba tôi vừa viết. Tôi tìm thấy trong ngăn kéo trong căn phòng Nhật Bản. hãy đọc cho tôi nghe. Tôi đủ can đảm để đọc.
      Bên ngoài ông cụ viết “Chi tiết về chuyến tàu Gloria Scott kể từ lúc tàu rời cảng Falmouth ngày 8 tháng 10 năm 1855 cho đến lúc tàu bị phá hủy ở 15 độ 20 phút độ vĩ Bắc và 25 độ 14 phút độ kinh Tây ngày 6 tháng 11”.
      Bản khai này được viết dưới hình thức viết thư. Đây là nội dung:
      “Con quý của ta,
      Giờ đây ô danh tới, làm đen tối những năm cuối cùng đời cha. Với tất cả lòng chân thành, cha với con rằng cha sợ hãi pháp luật, sợ mất địa vị trong xã hội; chính cái ý tưởng rằng con xấu hổ vì người cha như ta, làm tan nát cõi lòng ta. Nhưng nếu các nỗi nhục nhã giáng xuống đời ta, lúc đó cha muốn con được đọc lá thư này, ngõ hầu con hiểu là cha đáng chê trách đến nhường nào; còn nếu như tất cả đều yên lành và nếu tình cờ lá thư này bị hủy và rơi vào trong tay con, cha xin con hãy ngừng đọc ở nơi đây, đưa nó vào ngọn lửa và còn dành cho nó ý nghĩ nhoi nào nữa.
      “Còn nếu như con tiếp tục đọc, đó là cha bị lột mặt nạ và bị đem ra khỏi nhà. Trong trường hợp này hoặc trường hợp kia, cha cần giấu giếm con điều khi cả. Do đó con hãy coi mỗi từ trong những lời cha trong thư là những chân thành. Ta xin thề như thế.
      “Con quý, cha phải là Trevor. Khi còn trẻ, cha tên là James Armitage. Giờ đây con hiểu cú sốc mà cha chịu cách đây vài tuần khi người bạn đồng song của con với cha về mấy chữ J.A. Dưới cái tên Armitage, cha vào làm việc trong ngân hàng tại London. Dưới cái tên James Armitage, cha bị tuyên cáo có tội tuân thủ luật lệ của đất nước, và bị kết án lưu đày chung thân. Đừng có nghĩ quá xấu về cha. Ta cần trả món nợ danh dự nên biển thủ tiền bạc của ngân hàng. Lúc đó, cha tin chắc là cha có thể bồi hoàn trước khi người ta phát ra số tiền bị thiếu. Nhưng người ta kiểm tra sổ quá sớm, nên làm lộ ra số tiền thiếu hụt.
      “Vụ đó xảy ra vào ngày sinh nhật thứ 33 của ta, cha bị xiềng như kẻ tội phạm cùng với 37 tên tù khổ sai khác con tàu Gloria Scott, sắp sửa lên đường sang châu Úc.
      Đó là vào năm 1855. Cuộc chiến ở Crimée hồi sôi động. Những con tàu cũ kỹ chở tù khổ sai được dùng làm tàu chở quân ngoài Hắc Hải. Vì vậy, chính phủ buộc phải sử dụng những con tàu bé hơn để đưa những người tù lưu đày nơi viễn xứ. Tàu Gloria Scott trước là thương thuyền buôn trà với Trung Quốc, nó quá già nua. Tàu có trọng tải 500 tấn. Thêm vào 38 người đáng bị treo cổ, đoàn thủy thủ 36 người, 18 người lính, đại úy, 3 trung úy, y sĩ, cha tuyên úy và 4 bảo vệ. Tóm lại nó chở chuyến hàng 100 con người.
      “Những vách ngăn giữa các xà-lim nhốt tù làm bằng gỗ sồi rắn chắc như trong các tàu dành riêng để chở tù: chúng mỏng và dễ gãy. Người ngồi ở bên cạnh mé đằng sau cha, là chàng còn trẻ, bộ mặt sáng láng, để râu hàm, cả râu má, ta có cái mũi dài thon, cái đầu có dáng vô tư lự và khi bước , thân hình đu đưa. Chắc chắn là ta cao dưới 6 feet rưỡi[3]; kỳ lạ khi ở giữa mấy chục bộ mặt buồn bã và chán nản lại có cái đầu biểu lộ quả quyết và nghị lực.
      “Cha hài lòng có ta ở bên cạnh và càng sung sướng hơn nữa khi, trong im lặng chán ngắt của đêm đen, cha nghe tiếng thầm sát bên tai: “ khoét được cái lỗ trong tấm ván ngăn cách hai xà-lim”.
      - Xin chào bạn - ta - Tên là gì nhỉ? Tại sao lại ở đây?
      - James Armitage. Còn là ai?
      - Tôi là Jack Prendergast - ta bảo cha - Rồi ra kính trọng tên tôi.
      Cha sực nhớ nghe đến vụ án của ta, bởi vì vụ đó làm xôn xao khắp nước. Đó là người con nhà gia thế và có nhiều tài, nhưng ta mắc phải những thói quen tệ hại, và bằng phương pháp lừa đảo tài tình, lột hết của cải của số nhà buôn giàu có ở London.
      - A, a! Thế ra còn nhớ đến tôi đấy? - ta hỏi cha cách kiêu hãnh.
      - Nhớ rất !
      - Thế còn nhớ chi tiết kỳ lạ trong vụ án của tôi?
      - Chi tiết nào?
      - Tôi có gần 25 vạn, đúng thế nào?
      - Đó là điều thiên hạ .
      - Nhưng người ta lấy lại được đồng xu nào hết, phải ?
      - Phải.
      - Vậy thử nghĩ xem, số tiền đó ở đâu?
      - Tôi biết.
      - Ở ngay giữa ngón tay trỏ và ngón tay cái tôi đây này - ta kêu lên - Tôi có nhiều đồng bảng, hơn là số tóc đầu . Và nếu như có tiền, và biết cách tiêu tiền có thể làm được bất cứ điều gì? Thế có thể nào gã “làm được mọi chuyện” lại chịu kéo lê đôi ghệt của y trong cái hầm hôi thối của con tàu này chăng? đâu. gã như thế, rất chăm lo cho chính và cho những bạn bè của . hãy bám sát riết lấy và thề Kinh Thánh, phải than phiền về đâu.
      “Đó là cách của ta. Thoạt đầu cha tin là những lời như thế có nghĩa gì. Nhưng lát sau, khi ta thử thách ba và bắt cha hứa giữ im lặng với tất cả trang trọng có thể có, ta cho cha biết là mưu để chiếm lấy con tàu. tá những phạm nhân chuẩn bị ngầm mưu đó từ trước khi lên tàu. Prendergast là thủ lĩnh của nhóm đó.
      - Tôi có người hợp tác - ta bảo cha - gã dũng cảm hiếm có, trung thành như cái vòng đai đối với thùng tôn-nô vậy. Và rất nhiều tiền. tay nhà giàu. có biết nó ở đâu ? Chính là ông cha tuyên úy tàu này. ấy lên tàu với chiếc áo lễ đen và các giấy tờ hợp pháp. ấy có đủ tiền để mua đứt từ sống tàu cho tới cái đỉnh cột buồm. Đoàn thủy thủ tận tụy với ấy cả xác lẫn hồn. ấy trả tiền mặt trước cho họ trước khi họ ký giấy cam kết. Có hai tay bảo vệ, thêm Mereer, phó thuyền trưởng. ấy hứa là mua luôn thuyền trưởng.
      - Thế chúng ta phải làm gì? - Ba hỏi.
      - Chúng ta cho vài tên trong số bọn lính vài tấm áo đỏ hơn thứ áo mà thợ may quân phục cấp phát cho họ...
      - Nhưng họ có vũ khí mà?
      - mỗi đứa chúng ta cũng có cặp súng lục. Nếu chúng ta cướp được tàu này, chúng ta phải trở lại trường làng thôi. Đêm nay với người bạn của ở phía bên kia và tìm hiểu xem nó đáng được tin cậy hay .
      “Người bị nhốt bên cạnh cha là chàng trai bị kết tội giả mạo. ta tên là Evans, cũng sẵn sàng tham dự vào cuộc nổi loạn. Khi chưa ra khỏi mũi Nam nước , trong tàu chỉ còn có hai người tù hay biết cái mưu cướp tàu. gã nhu nhược nên bọn cha dám kêu gọi, gã kia bị mắc bệnh.
      Trong đoàn thủy thủy có năm tên gia nhập vào chuyến phiêu lưu này. Ông cha tuyên-úy-giả qua lại các xà-lim để khích lệ bọn ta, ông ta đeo cái bao đen được gọi là “bao chứa những quyển sách đạo”, ông ta thường lui tới lui ra, nên sang ngày thứ ba, bọn ba cái giũa, cặp súng lục, cân thuốc súng và hai chục đồng tiền vàng. Tất cả được bó chặt, giấu dưới gầm giường. Hai trong số những tay bảo vệ nhận lệnh của Prendergast, viên trung úy, phó thuyền trưởng là cánh tay phải của ta. Những người chống lại: viên đại úy, hai viên phó thuyền trưởng khác, hai người bảo vệ, trung úy Martin cùng với 18 người lính dưới quyền của ông ta, thêm vào ông y sĩ. Tuy nhiên, bọn ta quyết định sao lãng bất cứ phòng ngừa nào và tiến hành cuộc tấn công bất ngờ, vào ban đêm; nhưng rồi nó lại xảy ra sớm hơn dự liệu.
      buổi tối, gần ba tuần sau ngày lên đường, viên y sĩ thăm trong những tù nhân bị bệnh. Vừa bàn tay xuống dưới ghế nằm của người bệnh, ông nhận ra hình dáng khẩu súng lục. Nếu ông ta lặng thinh và lên báo cáo vụ mưu bị khám phá ra nhưng ông ta thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và mặt mày tái mét. Thân chủ của ông ta đoán ra ngay cái mà ông ta phát . Y túm lấy ông, nhét giẻ vào miệng ông và trói gô ông bên dưới ghế nằm. Trước đó, viên y sĩ mở cánh cửa dẫn lên boong tàu, vì vậy tất cả tù nhân hăm hở vượt qua cửa đó. Hai lính canh bị hạ, viên hạ sĩ chạy tới xem có chuyện gì xảy ra cũng bị hạ. Ở lối vào các ca-bin, có hai người lính bị giết trong lúc gắn lưỡi lê lên đầu súng. Bọn ta chạy vội vào trong ca-bin của thuyền trưởng nhưng lúc bọn ba đẩy cánh cửa ra, thấy ông ta gục đầu tấm bản đồ Đại Tây Dương mặt bàn, còn ông cha tuyên úy đứng ngay bên cạnh, khẩu súng lục trong tay hãy còn bốc khói. Hai viên trung úy bị toán thủy thủ bắt giữ. Tất cả giải quyết xong.
      “Ca-bin hạng sang ở sát hai bên ca-bin của đại uý; bọn ta ùa vào đó ngồi xệp xuống những ghế dài bọc nệm, đua nhau cùng lượt. Wilson, ông cha tuyên úy giả, đập vỡ cái rương, để moi ra chai rượu vang, đập bể cổ chai và rót đầy các cốc chân. Vào lúc bọn ba nâng cốc lên để cụng ly, loạt súng nổ vang, cả ca-bin tràn ngập khói đến mức ba còn trông thấy được phía bên kia của cái bàn. Khi khói tan, Wilson và 8 người tù khổ sai lăn lộn mặt bàn. Bọn ta bị quang cảnh làm cho tê liệt, và đầu hàng nếu như Prendergast có ở đó. rống lên như con bò mộng, rồi nhảy xổ ra khỏi cửa cùng với tất cả những người sống sót ùa theo sau. Trực diện với bọn ba, mé đuôi tàu có viên trung úy và 10 người lính. Những khung gắn kính phía cái bàn trong ca-bin được hé mở ra và họ bắn qua khe hở. Trước khi họ kịp nạp đạn bọn ta nhào lên. Họ kháng cự kịch liệt nhưng số quân ít hơn. Trong năm phút, tất cả đều hoàn tất. Prendegast vùng vẫy như con quỷ: y gom những người lính lại rồi quẳng họ xuống biển, chẳng cần biết họ chết hay còn sống. trung sĩ bị thương vẫn cố bơi hồi lâu, cho tới khi người trong bọn ta mủi lòng thương hại, nhắm bắn phát vào sọ. Khi cuộc chiến kết thúc, kẻ thù của bọn ta chỉ còn lại có năm người, hai người bảo vệ, hai viên trung úy và ông y sĩ.
      “Thế là nổ ra cuộc tranh cãi lớn. Rất nhiều người hài lòng vì giành lại được tự do; với họ thế là đủ; họ muốn giết thêm người. Tám người trong bọn ta là 3 thủy thủ và 5 tù khổ sai, tỏ ý muốn dự vào cuộc tàn sát sắp diễn ra. Nhưng thể làm lung lay quyết tâm của Prendegast và của những người cùng chia xẻ ý kiến với ta. Phe ta quả quyết rằng cơ may duy nhất để bảo đảm an toàn là phải nhổ cỏ tận gốc rễ và rằng ta để cho cái lưỡi còn sống có khả năng làm chứng chống lại bọn ba. Chỉ thiếu chút nữa là “nhóm tám người” cũng chịu chung với kẻ bị bắt giữ, nhưng sau chót ta bảo nhóm tám người hãy lấy cái xuồng mà bỏ . Nhóm của cha đồng ý vì chán ngán cái cảnh tượng quá tàn bạo đó. Họ phát cho mỗi người trong bọn ta những bộ quần áo của thủy thủ, thùng nước, két thịt bò muối, két bánh bích-quy và cái la bàn. Prendegast dẫn nhóm tám người đến trước tấm bản đồ, dặn dò rằng hãy nhận mình là những thủy thủ bị trôi dạt vì con tàu bị đắm ở vị trí 15 độ vĩ Bắc và 25độ kinh Tây. Xong ta cắt dây buộc chiếc xuồng và để cho nó trôi theo dòng nước...
      “Con thân của ta, giờ đây ta sắp kể tới cái phần gây ngạc nhiên hơn cả trong câu chuyện. Trong cuộc nổi loạn, các thủy thủ kéo thấp cái trục căng buồm mũi. Khi bọn ba rời xa con tàu họ lại dựng nó lên để đón cơn gió đông bắc . Chiếc xuồng của tám người nhì nhằng vượt qua những đợt sóng dài . Evans và cha - vốn là những người có học thức hơn cả bọn - ngồi ở đằng sau tàu để quyết định hướng . Sau chót, vì gió bắc thổi nhiều hơn, Evans quyết định về hướng Sierra Leone. Bất thình lình, trong lúc ngó về con tàu đó, ba thấy cụm khói đen bốc lên cuồn cuộn, khói giăng ra tựa như cái cây khổng lồ. Vài giây sau đó, tiếng nổ long trời. Khi khói bị gió mùa , ba còn thấy dấu vết của con tàu Gloria Scott đâu nữa. Ngay tức khắc, nhóm 8 người chuyển hướng và chèo cật lực tới nơi mà làn khói đen hãy còn bảng lảng mặt nước.
      “Phải mất tiếng đồng hồ, bọn cha mới tới được chỗ đó. Những mảnh vụn của cái ca-nô, những mảnh thùng và những thanh gỗ dài nhấp nhô sóng. tìm ra được dấu hiệu nào của sống, bọn cha vừa quay xuồng lại chợt nghe thấy có tiếng kêu cứu: cách xa quãng, miếng ván, có người nằm thẳng cẳng. Bọn ba kéo người đó lên thuyền. Đó là thủy thủ trẻ, tên là Hudson: bị bỏng, và kiệt sức đến mức phải đợi đến sáng hôm sau, mới đủ sức thuật lại các việc xảy ra.
      - Sau khi các ông bỏ rồi, Prendergast ra lệnh hành hình 5 tù nhân còn sống sót: Hai người bảo vệ bị hạ sát và liệng xuống biển. Rồi đến lượt viên trung úy thứ ba. Sau đó, Prendergast xuống dưới tàu và tự tay mình cắt cổ họng ông y sĩ. Chỉ còn lại có viên trung úy thứ nhất vẫn là người gan dạ và cương quyết. Khi ông ta thấy Prendergast tiến lại gần, trong tay có con dao đẫm máu và ông ta tự gỡ dây trói ra (ông ta nới lỏng được từ trước) và nhảy từ boong xuống khoang hầm sau. tá những tù khổ sai có trang bị súng lục tục xuống tìm bắt ông ta. Chúng thấy ông ngồi bên thùng thuốc súng mở sẵn, trong tay cầm bao diêm.
      Thùng đó là trong số 100 thùng thuốc súng mà con tầu chở theo. Ông ta thề là cho nổ tung tất cả, nếu ông bị hành hạ, thế rồi, vài phút sau, con tầu bị nổ. Tôi nghĩ là thùng thuốc súng bị nổ là do phát súng bắn trượt, hơn là do que diêm của ông trung úy. Nhưng dù cho nguyên cớ là gì nữa, tầu Gloria Scott bị triệt hạ, cũng như cái tên vô lại nắm quyền chỉ huy con tàu.
      “Con thân , đó là câu chuyện về cái vụ khủng khiếp, trong dó ba có tham gia. Ngày hôm sau, nhóm 9 người được con thuyền hai cột buồm nhận ra. Lúc đó thuyền đường sang châu Úc và viên thuyền trưởng tin rằng nhóm của cha là những người còn sống sót khi con tàu chở khách bị đắm. Sau chuyến an toàn, con tàu hào hiệp đó đổ bọn ba lên cảng Sydney là nơi Evans và ba thay tên đổi họ và cùng nhau tới những vùng đất có vàng, chen lấn trong đám dân tứ chiếng từ thập phương kéo tới nơi đó. Bọn ta vĩnh viễn từ bỏ căn cước đầu tiên của đời mình.
      “Cha cần thuật lại phần tiếp theo. Cha làm giàu, đây đó rồi lại trở về nước như những nhà thực dân giàu có về tậu đất đai ở quê nhà. Trong hơn 20 năm, cha sống cuộc đời yên bình và hữu ích với hy vọng là quá khứ hoàn toàn bị chôn vùi. Con hãy hình dung ra điều mà cha cảm nhận khi người thủy thủ vừa chợt ra là cha nhận được ngay tức khắc đó là Hudson. Cha biết nhờ đâu mà tìm ra cha, quyết tâm lợi dụng sợ hãi của cha. Giờ con hiểu trong chừng mực nào đó, con thông cảm với nỗi khiếp sợ cứ mãi ở trong cha, kể từ khi rời khỏi nhà ta với những lời đe dọa để tìm tới bên nạn nhân khác của ”.
      Ở phía dưới lá thư có mấy hàng chữ run rẩy:
      “Beddoes cho ba biết bằng mật mã rằng H. tiết lộ tất cả. Đức Chúa nhân từ, xin Người hãy thương xót linh hồn chúng con?”.
      - Watson thân mến, đó là thiên truyện kể mà tôi đọc cho bạn Victor nghe trong đêm hôm ấy. Victor tan nát cõi lòng, bỏ sang vùng Terai để trồng chè, ở đó rất thành công. Còn về gã thủy thủ và về Beddoes, từ đó tôi chẳng được tin tức gì về họ. Cả hai biến mất hoàn toàn. cáo buộc nào gửi đến cảnh sát. Hudson có thể lẩn tránh đâu đó vì cảnh sát tin vào cáo buộc của đối với Beddoes. Tuy nhiên, tôi tin rằng, bởi bước đường cùng, có thể Beddoes khử Hudson và sau đó lẩn trốn ra nước ngoài. Với số tài sản kếch sù của ông ta, việc đó có gì gọi là quá khó.
      Đó chính là những nét chính của trường hợp này, và nếu chúng có ích cho những ghi chép của , tôi chắc chắn rằng chúng rất thích hợp.
      Hết
      ---
      [1] Nguyên văn: “The supply of game for London is going steadily up.
      Head-keeper Hudson, we believe, has been now told to receive all orders for fly-paper and for preservation of your hen-pheasant's life”.
      [2] “The game is up. Hudson has told all. Fly for your life”.
      [3] Khoảng 2 m.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      10. Công việc cuối cùng của Sherlock Holmes

      Tôi vô cùng đau đớn khi viết lên những dòng cuối cùng của thiên phóng có liên quan đến những thiên tài hiếm có của người bạn vô cùng thân thiết đối với tôi, Sherlock Holmes.
      Thú , tôi muốn im lặng, muốn nhắc đến kiện để lại trong lòng tôi nỗi đơn hoang vắng, trống trải, biết lấy gì để bù đắp cho nỗi mất mát lớn lao này, mặc dù câu chuyện xảy ra hai năm rồi. Những lá thư cuối cùng của ngài đại tá James Moriarty, trong đó ông ta muốn bảo vệ danh dự cho người trai quá cố của mình, buộc lòng tôi phải cầm lấy bút mực. Tôi tự đặt cho mình trách nhiệm phải giới thiệu trước công chúng tất vả những kiện xảy ra theo đúng như trong thực tế. Chỉ mình tôi là người có may mắn chứng kiến, biết được toàn bộ ấy điều này làm tôi thấy xúc động. Giờ đây còn lý do gì để che dấu . Theo tôi được biết, chỉ có ba thông báo sau đây là được đăng báo chí: mẩu tin đăng "Tạp chí Geneva" ngày 6-5-1891, bức điện của hãng thông tin Reuter đăng báo từ ngày 7-5; cuối cùng là những thông báo mới đây. Trong số những thông báo đó, thông báo thứ nhất và thứ hai quá tórn tắt; thông báo bóp méo cách trắng trợn. Trách nhiệm của tôi là làm sao cho toàn thế giới biết, những kiện xảy ra giữa giáo sư Moriarty và Sherlock Holmes đúng như của nó.
      Có lẽ bạn đọc còn nhớ, ngay sau khi tôi lấy vợ và ra phòng mạch, mối quan hệ mật thiết giữa tôi và Sherlock Holmes có thay đổi trong chừng mực nào đó. Tôi bận bịu với công việc chữa bệnh. Còn vẫn ghé lại chỗ tôi khi cần có người bạn đồng hành cùng tham gia giải quyết những công việc khám phá của mình, nhưng ngày càng thưa dần, ít dần. Vì thế trong năm 1890 tôi chỉ thu thập được có ba bài về chuyện phá án của .
      Mùa đông năm ấy và chớm xuân 1891, báo chí đăng tin Holmes được chính phủ Pháp mời sang giải quyết chuyện rất quan trọng; qua hai bức điện gửi cho tôi từ Narbonne và Nimes, tôi đinh ninh cuộc viếng thăm của ở nước Pháp chắc còn kéo dài. Vì vậy tôi vô cùng ngạc nhiên khi vào lúc chập tối ngày 24 tháng 4, đột ngột xuất trong phòng làm việc của tôi. Đầu tiên đập vào mắt tôi là dáng hình gầy gò xanh xao hơn mọi khi rất nhiều.
      - Đúng, tớ tiêu hao gần hết sức lực của mình - đáp, như muốn thanh minh cho cái nhìn e ngại của tôi. - Trong thời gian gần đây, tớ túng bấn quá. Tớ kéo tấm rèm lại được chứ?
      Căn phòng chỉ thắp chiếc đèn bàn, thông thường tôi vẫn đọc dưới ngọn đèn này. Rón rén dọc theo bức tường, Holmes vòng khắp căn nhà và kéo kín các tấm rèm, vén kín cách kỹ lưỡng để hở cỗ trống nào.
      - Cậu có chuyện phải lo sợ hả? - Tôi hỏi.
      - Đúng, tớ rất sợ.
      - Sợ cái gì?
      - loại súng hơi.
      - bạn quý ơi, cậu muốn ám chỉ cái gì?
      - Watson, chắc cậu biết tớ khá đấy, từ lâu cậu biết tớ phải là con thỏ. Đừng cho là có mối nguy hiểm đe dọa cậu. Nó chỉ là hành động mù quáng, phải là hành động hùng. Cậu cho tớ xin que diêm.
      châm thuốc hút, và dường như khói thuốc lá làm tươi tỉnh hẳn lên.
      - Trước hết tớ cần phải xin lỗi vì cuộc viếng thăm quá muộn, - lên tiếng. - Ngoài ra tớ xin phép được làm việc hơi bất nhã, thứ hai là trèo qua bức tường sau vườn nhà cậu. Tớ định ra bằng cách như vậy đấy.
      - Những chuyện ấy có ý nghĩa gì vậy? - Tôi hỏi.
      chìa cánh tay lại sát ngọn đèn, tôi trông thấy hai khớp ngón tay bị xây sát và rớm máu.
      - Cậu thấy đấy, phải là chuyện đùa đâu. - vừa cười vừa . - Cái này có thể làm mất cả bàn tay như . Vợ cậu đâu rồi? Có ở nhà ?
      - , ấy thăm người quen.
      - Hay quá! Nghĩa là cậu ở nhà mình.
      - Chỉ mình.
      - Nếu thế , tớ dễ dàng mời cậu cùng với tớ qua biên giới trong vòng tuần lễ.
      - đâu vậy?
      - đâu mà chả được, tớ thế nào cũng được.
      Tất cả những chuyện này tôi thấy kỳ quặc thế nào ấy. Trong khuôn mặt trắng bệch, mệt mỏi của , tôi cảm thấy hệ thống thần kinh của ở trạng thái căng thẳng tột độ. Qua cái nhìn của tôi biết rằng tôi hiểu. Chống cùi chỏ lên bắp đùi và xiết chặt các ngón tay lại với nhau, bắt đầu giải thích cho tôi nghe tình hình của công việc.
      - Tớ nghĩ là cậu chưa được nghe gì về giáo sư Moriarty? - hỏi.
      - Chưa.
      - Đó là người đại tài về việc giữ kín tung tích của mình. ta thiết lập mạng lưới khắp thành London. Thậm chí chưa ai về . Riêng chuyện này cũng đáng liệt ta vào bậc đàn trong giới hình . Watson, tớ có thể chắc rằng, nếu tớ chiến thắng con người này, tức là làm được việc vạch mặt chỉ tên ta ra trước xã hội đó đúng là thành công lớn trong nghiệp của tớ. Lúc ấy, tớ kết thúc bước đường công danh của mình và tớ sẵn sàng chuyển sang nghiên cứu các lĩnh vực khác yên tĩnh hơn. riêng với cậu nhé. Hai việc cuối cùng tạo cho tớ khả năng thuyết phục vương quốc Scandinavia và nước cộng hòa Pháp cho tớ những công cụ, điều kiện tiến hành cuộc đổi mới, hợp với sở thích của tớ hơn. Lúc đó tớ toàn tâm nghiên cứu trong lĩnh vực hóa học. Nhưng tớ chưa thể ngồi yên trong chiếc ghế bành của mình, khi con người kia, cái tay giáo sư Moriarty tự do tung hoành ngang dọc các đường phố ở London.
      - ta phạm những tội ác gì?
      - Ôi! Hán có tiểu sử khác thường! xuất thân trong gia đình tốt, được đào tạo đến nơi đến chốn, tài năng hiếm có về toán học. Khi tròn 21 tuổi, viết xong luận văn về nhị thức Newton, làm cho tên tuổi của nổi tiếng khắp châu Âu. Sau đó, được phụ trách khoa toán trong trường đại học tổng hợp của nước . tương lai sán lạn, rạng rỡ chờ đón . Nhưng bỗng biến mất cách lạnh lùng và trở thành tên hung đồ độc ác.
      Trong huyết quản của dòng máu của kẻ phạm tội chảy. Do có trí óc thông minh hiếm có nên hành động độc ác của càng nguy hiểm. Trong trường đại học, những lời đồn đại hay về bay khắp nơi, cuối cùng buộc lòng phải rời bỏ trường để đến cư trú tại London. Ở đấy ta bắt đầu chuẩn bị đội ngũ những tên ăn cắp, lưu manh chuyên nghiệp trẻ tuổi. Đó là những điều tớ biết về .
      Chính cậu biết đấy, ai nắm vững giới hình ở London này bằng tớ. Cách đây lâu, tớ bắt đầu cảm thấy là ở sau lưng của bọn tội phạm, có thế lực lường được bảo vệ, che chở cho chúng - thế lực hùng mạnh, có tổ chức hoạt động trái với pháp luật, được núp dưới những bộ mặt giả tạo. Rất nhiều lần, trong các trường hợp khác nhau, qua những vụ ăn cắp hoặc giết người, tớ đều nhận thấy có mặt của cái thế lực ấy. Bằng con đường tính toán rất logic, tớ phát ra dấu vết của nó, ngay cả trong những vụ chưa được khám phá, hay trong những vụ án tìm ra, mà bản thân tớ trực tiếp tham gia, tớ đều thấy thấp thoáng thế lực đó.
      Trong nhiều năm, tớ có ý định xé toạc bức bình phong che đậy tội ác kia, và đến lúc tớ lần theo đầu mối của cuộn dây, bắt đầu công cuộc gỡ dần từng mối rối ren, cho đến khi nào phanh ra, tóm được cái nút cuối cùng dẫn tới vị giáo sư Moriarty - nhà toán học lỗi lạc.
      như Napoléon trong giới tội phạm hình , nhà tổ chức lãnh đạo gần nửa số vụ độc ác và tất cả các vụ phạm pháp chưa được khám phá xảy ra trung thành phố này. Phải thừa nhận đó là thiên tài, triết gia, con người có đầu óc suy luận những vấn đề có tính chất trừu tượng. bộ óc thuộc loại thông thái số . ngồi bất động như con nhện trong mạng tơ của mình, trong mạng nhện có hàng nghìn sợi dây, tóm lấy, giải quyết khi có rung động nho nhở của từng sợi dây. Rất hãn hữu, mới trực tiếp hành động, chỉ tổ chức, xây dựng kế hoạch. Tay chân của rất nhiều, và được tổ chức đến nơi đến chốn. Nếu có ai cần ăn cắp tập tài liệu, cần đột nhập vào nhà, cần giết, thủ tiêu người nào đó... chỉ cần trình bày nguyện vọng đó với giáo sư. Ngay lập tức vụ án được chuẩn bị và thi hành. Bọn tay chân của có thể bị bắt, trong những trường hợp như vậy, bao giờ cũng tung tiền ra mua chuộc hoặc nhờ người bảo lãnh. Nhưng tên chỉ huy chính, cầm đầu, bao giờ cũng nằm ngoài diện nghi vấn.
      Tổ chức ấy là như vậy, bằng con đường suy luận tớ xác định được bộ máy hoạt động của nó. Tớ dồn toàn bộ sức lực của mình để phát và quyết bẻ gãy nó. Nhưng tay giáo sư cũng rất láu cá, luôn thay hình đổi dạng, nguy trang rất khéo và được bảo vệ vững chắc đến nỗi mặc dù tớ tập trung mọi cố gắng nhưng vẫn sao có đủ chứng cớ để buộc tội trước tòa. Watson thân mến, cậu rất biết khả năng của tớ, thú với cậu là phải mất 3 tháng ròng rã, cuối cùng tớ mới tìm thấy đối thủ xứng đáng của mình.
      Những việc làm phạm pháp của gây cho tớ nỗi lo lắng, sợ hãi bây giờ nhường chỗ cho kính nể trước năng lực tài ba của . Tuy vậy; cuối cùng cũng sơ hở, mặc dù sơ hở dáng kể, đáng lý nên để xảy ra sơ hở đó mới phải bởi tớ bám riết như con đỉa. Tớ lợi dụng sơ hở ấy, sau khi dùng nó làm xuất phát điểm cho cuộc tấn công tay đôi, tớ bắt đầu giăng xung quanh cái bẫy. này cái bẫy ấy hầu như chuẩn bị xong; sau ba ngày nữa, nghĩa là đúng vào tối thứ hai, mọi chuyện được giải quyết. Ngài giáo sư cùng với những kẻ cầm đầu băng đảng ấy rơi vào tay tòa đại hình. Còn sau đó công cuộc hình lớn nhất thế kỷ chúng ta bắt đầu: Bức màn che giấu hơn 40 vụ án được vén lên; tất cả những tên tội phạm bị trừng trì dịch đáng. Nhưng cần phải khẩn trương, chỉ cần tính toán sai lầm là chúng nó trượt khỏi bàn tay chúng ta vào đúng thời điểm cuối cùng.
      Mọi việc tốt đẹp nếu tớ có thể hành động cách kín đáo, sao cho tay giáo sư Moriarty hề biết về chuyện này. Nhưng tên thâm hiểm và xảo quyệt. Mỗi cử động của tớ nhằm đưa vào tròng, đều biết hết. nhiều lần mưu toan phá vỡ, để thoát khỏi cái lưới mà tớ giăng, nhưng mỗi lần như vậy, tớ đều tìm cách cản trở cho thực ý đồ. Nếu cứ miêu tả cặn kẽ, tỉ mỉ cuộc chiến đấu thầm lặng và đem xuất bản quyển sách hồi hộp nhất và tuyệt vời nhất trong làng sách về thể loại trinh thám. Chưa bao giờ tớ phải căng thẳng như bây giờ; cũng chưa bao giờ tớ phải chật vật đối phó với địch thủ của mình như nay. Đòn của rất mạnh và tớ đỡ lại bằng sức còn mạnh hơn: Sáng nay, tớ đến quyết định và chỉ cần thêm 3 ngày nữa để dứt điểm công việc. Tớ ngồi trong phòng của mình, suy tính lại nước cờ, bỗng cánh cửa bật mở.
      Trước mặt tớ là tay giáo sư Moriarty đứng sừng sững. Watson ạ, thần kinh của tớ khá vững, nhưng phải thú với cậu, tớ thể nào nén được tiếng thở ra khi nhìn; thấy trước mặt mình con người chiếm toàn bộ ý nghĩ của tớ. Hình dáng bên ngoài của có gì thay đổi, vì tớ quen thuộc từ trước. ta rất gầy và cao lêu ngêu. Trán dô nhưng rộng, da trắng trẻo, cặp mắt sâu hoắm trông rất sắc. Khuôn mặt được cạo nhẵn thín, nhìn có phần khổ hạnh. Đôi vai hơi còng, có lẽ do ngồi nhiều bên bàn làm việc, còn cái đầu nhô tới trước trông như con rắn, ngó bên này, nghiêng bên kia. Cặp mất cú vọ của như đâm xuyên vào người tớ.
      “Hộp sọ của ngài chưa đến nỗi bị vỡ như tôi nghĩ". Cuối cùng lên tiếng. "Thưa ngài Holmes, bỏ khẩu súng lên đạn ở trong túi áo choàng của mình là thói quen nguy hiểm".
      Đúng như thế , khi ta bước vào, tớ hiểu ngay là mối nguy đe dọa tớ. Khả năng duy nhất để tớ tự cứu mình, đó là tớ buộc phải im lặng mãi mãi. Vì vậy, tớ nhanh như chớp, chuyển khẩu súng lục từ ngăn kéo bàn vào túi áo choàng và ngay lập tức cho tay vào cò súng. Sau khi bị điểm huyệt, tớ lôi khẩu súng ra khỏi túi áo, kéo quy lát và để trước mặt. Moriarty tiếp tục cười và nheo nheo cặp mắt, nhưng có cái gì đấy trong mắt ta làm cho tớ phải cảnh giác và buộc tớ phải đến gần khẩu súng của mình.
      " ràng là ngài chưa biết tôi". ta lên tiếng.
      "Ngược lại,” tớ phản đối, “tôi cảm thấy ngài khó mà hiểu nổi tôi biết ngài. Xin mời ngài ngồi, nếu ngài có việc gì muốn với tôi, tôi có thể dành cho ngài năm phút".
      "Những gì tôi muốn với ngài, chắc ngài đoán được" ta lạnh lùng đáp. "Ngài vẫn cương quyết giữ lập trường của mình?"
      "Hoàn toàn thay đổi".
      đút tay vào túi, cồn tớ vội vàng chộp lấy khẩu súng bàn. Nhưng chỉ rút ra từ trong túi quyển sổ ghi chép, trong đó có ghi nguệch ngoạc những con số ngày tháng gì đó.
      "Ngài cản đường của tôi từ ngày mồng 4 tháng giêng,” ta tiếp. “Ngày 23, ngài làm cho tôi phen hú vía, và giữa tháng hai ngài lại làm cho tôi cú hoảng hồn. Cuối tháng 3, ngài làm đảo lộn mọi kế hoạch của tôi. nay, vì những vụ liên tiếp của ngài, tôi rơi vào tình thế có thể mất hết tự do. thể tiếp tục như vậy được".
      "Ngài định làm gì?" Tớ hỏi lại.
      "Thưa ngài Holmes, ngài hãy chấm dứt công việc của mình,” ta và lắc đầu “Ngài hãy từ bỏ công việc đó".
      "Đến hết ngày thứ hai kia". Tớ đáp.
      "Đủ rồi, thưa ngài Holmes. Ngài là người khá thông minh, tất nhiên ngài hiểu tôi, tôi muốn giải lao đầu óc chút, trong lúc theo dõi cách thức hành động của ngài. Mong ngài hiểu cho tôi lấy làm buồn phiền, nếu như ngài cứ cố tình buộc tôi phải dùng những biện pháp hay đối với ngài. Ngài phải tránh ra bên, ngài hãy tin là tôi rất chân thành".
      "Hiểm nguy, đó là người bạn đồng hành thể thiếu được trong nghề nghiệp của tôi". Tớ đáp.
      "Đấy phải chỉ là nguy hiểm, mà là tiêu diệt thể tránh khỏi,” ta phản đối, “Ngài đứng ra cản đường phải chỉ người, mà là cả tổ chức hùng mạnh, mà toàn bộ sức mạnh của nó, với trí thông minh của ngài, ngài thể nào hiểu nổi đâu. Mong ngài hãy tránh ra bên, thưa ngài Holmes. Bằng ngài bị trừng trị".
      "Tôi sợ rằng,” tớ đứng dậy và đáp, “từ buổi chuyện thú vị của chúng ta, tôi có thể bỏ mất công việc quan trọng, nó đưa tôi đến vị trí khác".
      ta cũng đứng dậy, lặng thinh nhìn tớ và buồn bã lắc đầu.
      "Biết làm sao được!” Cuối cùng lên tiếng. “Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng tôi làm mọi việc mà tôi có thể làm được. Tôi biết từng đường nước bước trong công việc của ngài. Đến ngày thứ hai, ngài còn cử động được nữa rồi. Đó là cuộc đọ sức giữa hai chúng ta, thưa ngài Holmes. Ngài hy vọng cho tôi ngồi vào chiếc ghế bị cáo. Tôi cho ngài biết, điều đó bao giờ xảy ra. Ngài hy vọng thắng tôi. Tôi xin cho ngài biết rằng đời nào ngài đạt được điều đó. Nếu ngài có đủ sức mạnh để giết tôi, tôi xin thề với ngài rằng cả ngài nữa cùng chết với tôi".
      "Thưa ngài Moriarty, ngài dùng quá nhiều lời để tán tụng tôi cách quá đáng, cho nên tôi cũng muốn đáp lại bằng những lời lẽ tán tụng như thế. Nhân danh cho công lý, vì phồn vinh của xã hội, tôi rất vui lòng chấp thuận điều kiện thứ hai, mặc dù tôi hy vọng ở điều thứ nhất".
      "Điều thứ nhất tôi thể hứa với ngài được, nhưng điều thứ hai tôi sẵn sàng hứa". ta đáp và cười man rợ.
      Sau khi quay cái lưng khòm về phía tớ, bước ra, nhưng còn quay lại nheo nheo con mắt nhìn tớ.
      Cuộc gặp gỡ đặc biệt của tớ với tay giáo sư Moriarty là như vậy! Thú với cậu, cuộc gặp gỡ này làm cho tớ khó chịu. Phong thái mềm mại, chính xác của làm cho cậu tin vào lòng chân của , mà lòng chân ấy bao giờ có ở những kẻ tội phạm tầm thường. Đấy phải là kẻ thích khoe khoang những điều rỗng tuếch. Tất nhiên cậu hỏi tớ: "Tại sao báo cáo cho Sở cảnh sát?". Vấn đề là ở chỗ, phải tự tay hành động, mà chính bọn tay chân của mới là người thực . Tớ tin như vậy, vì tớ có đầy đủ chứng cứ.
      - Có kẻ tấn công vào cậu hay sao?
      - bạn Watson thân mến! Giáo sư Moriarty phải thuộc hạng người thích để công việc nằm lâu trong sọt rác. Sau khi cút khỏi, khoảng gần 24 giờ đêm, tớ có việc phải ghé phố Oxford. Trong khi băng qua đường ở chỗ góc phố Bentinck và phố Welbeck, tớ trông thấy cỗ xe song mã phóng như bay đâm thẳng vào tớ. Tớ vừa kịp nhảy lui lại bước lên vệ đường, chỉ trậm trễ trong vòng phần mười giây, có lẽ tớ bị bẹp dí rồi. Chiếc xe rẽ ngoặt và biến mất. Lúc ấy tớ quyết định nên bước xuống khỏi vỉa hè, nhưng từ mái nhà ở chỗ phố Vere có viên gạch bay tới và vỡ thành từng mảnh vụn ngay dưới chân tớ. Tớ liền gọi cảnh sát và ra lệnh khám xét ngay nơi xảy ra việc. Ở mái nhà có chất mấy chồng gạch chuẩn bị cho công việc sửa chữa; và bọn chúng muốn khẳng định viên gạch kia là do gió thổi bay tới thôi. Tớ biết thủ đoạn của chúng, nhưng lại đủ bằng chứng để buộc tội. Tớ gọi cỗ xe và đến nhà người trai ở phố Pall Mall, sống tại đó cả ngày hôm nay, rồi từ đó tớ thẳng tới chỗ cậu. Dọc đường có thằng cầm dùi cui đểu cáng xông vào tớ. Tớ tóm nộp cho cảnh sát giam giữ. Tớ bảo đảm với cậu là, ai có thể khám phá ra mối liên hệ giữa tên, mà những chiếc răng cửa bị tớ dùng tay đánh gãy trong ngày hôm nay với tên giáo sư dạy toán mà có lẽ giờ đây giảng cách giải bài tập cho học sinh chiếc bảng cách đấy 10 dặm. Bây giờ chắc cậu hiểu, vì sao khi vào phòng cậu, trước tiên tớ phải kéo kín các tấm rèm che cửa sổ, và vì sao tớ phải xin phép cậu ra khỏi nhà phải bằng cổng trước, mà bằng lối nào đó ít bị chú ý hơn.
      Tôi nhiều lần khâm phục lòng can đảm của bạn tôi, nhưng hôm nay khi ngồi kể lại những việc vừa mới xảy ra trong ngày cách điềm tĩnh, tôi lại càng đặc biệt kính nể hơn.
      - Có lẽ, cậu nên ở lại ngủ qua đêm với tớ. - Tôi đề nghị.
      - được bạn thân mến. Tớ người khách nguy hiểm cho cậu. Tớ suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hành động, và mọi việc kết thúc tốt đẹp. nay công việc ở giai đoạn cuối, cảnh sát có thể tiến hành bắt bớ mà cần tớ phải tham gia. Tớ chỉ cần trong thời gian xét hỏi. Thời gian chờ đợi cảnh sát hành động cũng chỉ còn vài ba ngày nữa, tốt nhất là tớ nên đâu đó. Tớ rất sung sướng nếu cậu cùng qua biên giới với tớ.
      - nay bệnh nhân của tớ nhiều, - Tôi đáp, - bạn đồng nghiệp sẵn sàng thay tớ, tớ cùng với cậu.
      - Ngay sáng sớm ngày mai cậu có thể được ?
      - Được, nếu cần.
      - Ôi, hoàn toàn rất cần bây giờ cậu hãy nghe kỹ lời dặn của tớ. Watson, cầu cậu hãy làm đúng được sai ly nào, bởi hai chúng ta tiến hành cuộc đối đầu chống lại tên bợm tài năng nhất và tập đoàn tội phạm lớn nhất, hùng mạnh nhất ở châu Âu. Cậu hãy lắng nghe đây! Hành lý được đề địa điểm hẹn nhận, ngay bây giờ cậu nhờ người tin cẩn nhất mang ra ga Victoria. Sáng sớm ngày mai, cậu phải sai người giúp việc gọi cỗ xe, nhưng cậu phải dặn họ là hãy bỏ qua chiếc xe đầu tiên cũng như chiếc xe thứ hai mà ta bắt gặp. Cậu ngồi vào cỗ xe và tới phố Strand, đến cầu nối Lowther. Cần thêm là cậu đừng đọc địa chỉ cho người xà ích mà viết lên giấy đưa cho ông ta và dặn ông ta tuyệt đối được vứt mảnh giấy đó xuống đường. Cậu hãy trả tiền trước; khi chiếc xe vừa dừng lại cậu hãy nhẩy ngay vào chỗ cầu nối tính toán sao cho đúng 9 giờ 15, cậu có mặt bên kia cầu. Ngay cạnh vỉa hè cậu nhìn thấy cỗ xe lớn lắm. Người đánh xe bận chiếc áo khoác màu đen, cổ áo được kẹp bằng đường viền màu đỏ. Cậu hãy ngồi vào xe và đến nhà ga đúng lúc tàu chuẩn bị chuyển bánh.
      - Thế tớ gặp cậu ở đâu?
      - Tại nhà ga, người ta dành cho chúng mình buồng hai người hạng nhất.
      - Nghĩa là chúng ta gặp nhau ở trong toa?
      - Đúng thế.
      Tôi hoài công để thuyết phục Holmes ở lại ngủ với tôi. Tôi biết rằng sợ gây ra chuyện hay cho gia đình người bạn thân thiết của mình. Đấy là nguyên nhân duy nhất khiến phải vội vã ra . Sau khi vội vàng căn dặn mọi cách thức thực chương trình hành động cho ngày mai, đứng lên và cùng tôi ra ngoài vườn. trèo qua hàng rào, ngay ra hẻm Mortimer, huýt sáo gọi chiếc xe. Tôi lắng nghe tiếng lọc cọc của bánh xe xa dần.
      Sáng ngày hôm sau, tôi làm đúng theo lời Holmes căn dặn với tất cả thận trọng cảnh giác cần thiết khi gọi cỗ xe. Cỗ đó thể nào là cái bẫy được. Sau khi ăn sáng xong, tôi đến địa điểm được quy ước trước. Khi xe tiến đến chiếc cầu Lowther, tôi lao vào trong cầu với nhanh nhẹn hiếm có. Khi trông thấy cỗ xe đứng đợi tôi đúng như Holmes mô tả, tôi vừa kịp ngồi vào xe người xà ích tầm thước, bịt kín bằng chiếc áo ấm màu đen liền ra roi quất ngựa. Chỉ loáng đến ga Victoria. Tôi vừa bước xuống ngựa người xà ích đánh xe quay lại, và phóng như bay, thậm chí thèm quay nhìn tôi.
      Mọi việc đều tiến triển đúng như ý định. Hành lý của tôi có sẵn ở nhà ga; và tôi cũng khó khăn gì tìm thấy căn buồng mà Holmes chỉ dẫn, bởi nó là buồng duy nhất được treo tấm biển " có người". Bây giờ chỉ còn việc làm tôi lo lắng nhất, đó là vắng mặt của Holmes. Tôi nhìn lên đồng hồ nhà ga, chỉ còn 7 phút nữa là tàu xuất phát. vô ích khi tôi lục kiếm trong đám người ra và những người đưa tiễn thân hình gầy gò của bạn tôi. có trong đám người ấy. Tôi giết thời gian, bằng cách giúp cha cố người Ý trông rất đáng kính, khi ông ta, bằng giọng lơ lớ tiếng , cố gắng giải thích cho người phu khuân vác rằng hành lý của ông cần được gởi thẳng đến Pariss. Sau đó tôi dạo quanh sân ga lần nữa và quay về buồng mình. Ở đó tôi gặp lại ông cha cố người Ý lọm khọm, mà tôi mới làm quen. Mặc dù vé của ông phải vào phòng này, nhưng người phu khuân vác vẫn cứ ẩy vào chỗ tôi. vô ích để giải thích cho người bạn đường mời của tôi hiểu rằng, cuộc đột nhập của ông làm tôi bực bội như thế nào, tôi tiếng Ý còn tồi hơn là ông tiếng . Vì vậy tôi chỉ biết nhún vai và lo lắng nhìn qua cửa sổ, sốt ruột chờ đợi Holmes. nỗi lo sợ bao trùm lấy tôi; vắng mặt của có nghĩa là có chuyện gì xảy ra đêm qua. Các cánh cửa lên xuống được khép chặt, tiếng còi tàu vang lên, đúng lúc ấy bỗng dưng...
      - Watson thân mến, thậm chí cậu thèm hạ cố đoái hoài chào tớ lời.
      giọng phát ra ngay bên cạnh tôi. Tôi nhìn quanh, toàn thân lạnh toát. Bây giờ cha cố đứng ngay trước mặt tôi. Trong giây phút những nếp nhăn của ông bỗng giãn ra, chiếc mũi kéo dài ra khỏi chiếc cằm, môi dưới thôi đưa ra phía trước nữa, còn miệng như thầm, cặp mắt lờ đờ bây giờ sáng lên ánh lửa thường ngày; chiếc lưng khòm được vươn thẳng. Nhưng tất cả những việc ấy kéo dài chỉ vòng khoảnh khắc, và Holmes lại vụt biến nhanh chóng, cũng giống như khi xuất .
      - Lạy Chúa đáng kính! - Tôi thốt lên, - Cậu làm tớ hoảng cả hồn.
      - Chúng ta cần thận trọng đến mức tối đa. - thầm, - tớ có đủ chứng cớ để nghĩ là tụi chúng nó lần được theo dấu vết. Kìa! Chính thằng Moriarty ở kia kìa!
      Holmes vừa xong tàu chuyển bánh. Tôi nhìn qua cửa sổ về phía sau, trông thấy người cao cao, tức tối xô đẩy chen lấn đám đông và vẫy vẫy tay như níu đoàn tầu lại. Tuy nhiên mọi chuyện muộn rồi. Vận tốc con tàu tăng dần và chẳng mấy chốc nhà ga nằm lại khá xa phía sau.
      - Cậu thấy , - Holmes và cười, - Mặc dù chúng ta cảnh giác tới mức tối đa, nhưng cũng phải chật vật lắm mới thoát khỏi được bọn người kia đấy.
      đứng dậy cởi chiếc áo thụng màu đen và chiếc mũ ra, - những thứ thuộc vẻ hình kì dị của - và cho tất cả vào chiếc túi du lịch.
      -Watson, cậu có đọc báo buổi sáng ?
      - .
      - Nghĩa là cậu hay biết tí gì về chuyện xảy ra tại hẻm Baker của chúng ta à?
      - Đêm hôm qua, chính xác hơn là vào gần sáng ngày hôm nay, chúng nó tập kích nhà tớ, nhưng gây tổn thất đáng kể.
      - Làm thế nào bây giờ? Điều ấy quá quắt thể nào chịu nổi.
      - Hình như, sau khi tên đặc phái viên dùng dùi cui xông vào tớ bị bắt, tụi chúng mất hẳn dấu vết về tớ. Lúc đầu chúng cho rằng tớ quay về nhà. Nhưng sau đó chúng đánh hơi và theo cậu từng bước. Chính điều này dẫn thằng Moriarty đến ga Victoria. đường tới nhà ga, biết cậu có sơ xuất gì ?
      - Tớ làm đúng như cậu dặn.
      - Cậu thấy cỗ xe ngay vị trí chứ?
      - Đúng, chiếc xe đợi tớ ở chỗ ấy.
      - Thế cậu có nhận ra người xà ích ?
      - .
      - Đấy là trai tớ, Mycroft. Trong công việc như vậy tốt nhất là cho người ngoài cuộc biết những điều bí mật của mình. Còn bây giờ chúng ta phải tìm cách đối phó với Moriarty.
      - Tớ nghĩ, chúng mình chuyến tàu này làm sao ta có thể đuổi kịp?
      - Watson thân mến! Tớ với cậu, người có trí tuệ cao, trình độ ngang với tớ. Chẳng lẽ, ví như tớ là người đuổi theo, lúc ấy cản trở đáng kể như vậy làm tớ bó tay hay sao? Tại sao cậu đánh giá quá thấp như vậy?
      - Nhưng có thể làm gì được bây giờ?
      - Làm điều mà trong trường hợp đó tớ cũng làm.
      - Cậu hãy cho tớ biết cậu hành động ra sao?
      - Tớ thuê hẳn chuyến tàu tốc hành danh riêng cho tớ.
      - Nhưng dẫu sao cũng vẫn chậm trễ.
      - trễ chút nào. Chuyến tàu của chúng ta dừng lại ở Canterbury, ở đó chúng ta phải đợi tàu thủy ít ra cũng phải mất 15 phút. Và bắt gặp chúng ta ở đấy.
      - Nên nhớ là thằng tội phạm chứ phải là chúng ta. Vậy nếu mang xác đến đây, chúng ta ra lệnh bắt giữ.
      - Làm như vậy đổ xuống sông, xuống biển những công lao của ba tháng làm việc cật lực của tớ. Chúng ta chỉ bắt được con cá to, còn những con cá khác tìm đường chạy thoát. Thứ hai này tất cả bọn chúng lọt vào tay cảnh sát. Bây giờ chúng ta được phép bắt bớ.
      - Thế chúng ta làm gì?
      - Chúng ta cần đến Canterbury.
      - Sau đó?
      - Newhaven, và từ đó Dieppe. Moriarty cũng làm điều này, mà trong trường hợp ấy tớ cũng làm như vậy. đến Paris, đánh dấu những chiếc va li của chúng ta, nằm đợi ở phòng gởi hành lý hai ngày. Còn chúng ta trong thời gian ấy mua cặp bao dệt bằng thảm và buôn bán các mặt hàng công nghệ phẩm ở các địa phương mà chúng ta ngang qua. Rồi chúng ta bình tĩnh ghé thăm đất nước Thụy Điển, qua cửa ngõ thành phố Luxembourg và Basle.
      Tôi là nhà du lịch dày dặn kinh nghiệm, vì thế bao giờ tôi cho phép mình buồn rầu vì chuyện mất mát hành lý. Nhưng thú thực, tôi chịu nổi ý nghĩ là chúng tôi né tránh tên tội phạm có tiền sử quá kinh khủng, toàn là những chuyện rùng rợn, dã man. Tuy thế Holmes là người hiểu tình thế hơn tôi.
      Và chúng tôi đến Canterbury. Ở đây chúng tôi được biết còn giờ nữa mới có tàu thủy Newhaven.
      Tôi lặng lẽ nhìn chiếc tàu chở hành lý của chúng tôi khuất dần từ xa. Lúc đó, Holmes cầm lấy tay áo tôi và chỉ về phía con đường sắt.
      - Cậu thấy đấy, nhanh như chớp! - ta lên tiếng.
      Từ xa, trong cánh rừng Kent, dòng khói bốc lên. Có con tàu chỉ kéo có toa xuất chỗ khúc cua trước khi vào nhà ga. Chúng tôi vừa kịp nấp sau những kiện hàng, chiếc tàu rú lên tiếng đinh tai nhức óc chạy băng qua chỗ chúng tôi và phả vào mặt chúng tôi luồng hơi nóng bỏng.
      - đến! - Holmes thốt lên và đưa cặp mắt nhìn vào toa tàu chạy từ từ và dừng lại đường ray. - Cậu thấy , thông thái của bạn cũng có giới hạn đấy chứ. Nếu rút ra kết luận đúng như tớ làm và hành động thích hợp với nó có lẽ mọi chuyện quá phi thường.
      - làm gì nếu đuổi kịp chúng ta?
      - Còn nghi ngờ gì nữa, muốn giết tớ. Kệ thây , tốt nhất là tớ nên đợi đến lúc ta hạ tay xuống. Bây giờ chỉ còn vấn đề nan giải nhất: chúng ta nên ăn sáng ở đây hay là cứ chịu mang bụng đói đến Newhaven?
      Ngay đêm hôm ấy, chúng tôi đến Brussels và lưu lại đấy hai ngày. Sang sáng thứ ba đến Strasbourg.
      Sáng thứ hai, Holmes đánh bức điện cho cảnh sát London, và đến tối khi quay về khách sạn, chúng tôi thấy bức điện trả lời. Holmes lật xem bức điện, và tức tối ném nó vào lò.
      - Đáng lý ra, tớ phải tiên liệu trước chuyện đó mới phải - ta rền rĩ. - Nó tẩu thoát, lọt lưới!
      - Moriarty?
      - Cảnh sát tóm gọn cả băng, nhưng chỉ triêng ta lại lọt lưới! Bởi tớ khỏi, bọn cảnh sát kia làm sao địch nổi , mặc dù tớ rất tin là cung cấp cho cảnh sát tất cả các đầu mối. Watson, có lẽ tốt nhất cậu nên quay về nước .
      - Tại sao vậy?
      - Bây giờ tớ là người bạn đường nguy hiểm. Con người ấy bị mất hết tất cả. Nếu trở lại quốc bị bắt ngay. Theo tớ được biết về tính cách của bây giờ tập trung tất cả nỗ lực của mình để trả thù tớ. trắng trợn điều đó với tớ trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi hôm ấy. Tớ tin đó phải là lời dọa suông. Tớ thành khuyên cậu hãy trở về nước .
      Nhưng tôi là cựu chiến binh, là bạn cũ lâu đời của Holmes, tất nhiên tôi thể nào ra trong giây phút này và mặc lòng để ở lại mình. Khi ngồi ăn trong nhà hàng của khách sạn Strasbourg, chúng tôi tranh luận về chuyện này hơn nửa giờ. Ngay ngày hôm đó, chúng tôi đến Geneva.
      Suốt tuần chúng tôi lang thang khắp thung lũng Rhone, và bỏ lại đằng sau thị trấn Leuk; chúng tôi vượt qua những con sông còn phủ đầy lớp băng cứng; tiếp tục tiến qua Interlaken, đến Meiringen. cuộc dạo chơi đầy thú vị. Màu xanh của mùa xuân mơn mởn, dưới đất, đầu chúng tôi là màn tuyết trắng bao phủ. Nhưng tôi biết Holmes khi nào sao lãng mối đe dọa treo đầu . Trong những xóm làng trù phú, ấm cúng, hay các con đường mòn quạnh hiu dọc sườn núi đâu đâu tôi cũng bắt gặp cái nhìn rất nhanh và chòng chọc của , như muốn xem xét từng khuôn mặt của từng người mà gặp. ràng hoàn toàn tin vào mối nguy hiểm thể tránh khỏi từng bước đuổi theo chúng tôi.
      Tôi vẫn nhớ mãi trường hợp thế này: Chúng tôi qua vùng Gemmi và dạo dọc bờ hồ Daubensee, bỗng có tảng đá lớn từ bên phải lao xuống và rơi xuống hồ ngay sau lưng chúng tôi. Holmes vội lao lên tít đỉnh ngọn tháp chăm chú quan sát, theo dõi. Người phiên dịch cho yên tâm là chuyện đá lở vào mùa xuân là tượng rất bình thường ở vùng này. Holmes gì, nhưng cười với tôi với dáng điệu của người biết trước kiện này từ lâu. Trái với lo lắng của mình, chút nào tỏ ra rầu rĩ u phiền. Ngược lại, chưa bao giờ tôi thấy trong tâm trạng phấn chấn vui vẻ như hôm ấy. lặp lặp lại nhiều lần điều là nếu tay giáo sư Moriarty bị vạch trần trước xã hội, vui lòng chấm dứt công việc của mình.
      - Watson, tớ cảm thấy tớ hoàn toàn có quyền để rằng tớ sống cuộc đời phải là vô ích. - . – Và thậm chí ngay bây giờ con đường đời của tớ kết thúc, tớ cũng có phần nào khuây khỏa trong lòng: Nhờ tớ mà bầu khí của thành London được trong sạch hơn. Tớ tham gia hơn nghìn vụ án và đảm bảo với cậu tớ chưa bao giờ lạm dụng uy tín, ảnh hưởng của mình để giúp đỡ những việc phi nghĩa. ra, trong thời gian gần đây, công việc lôi cuốn, hấp dẫn tớ hơn là nghiên cứu những câu đố mà bản thân thiên nhiên đặt ra trước mặt; cũng như những vấn đề cấp thiết cần được giải quyết mà trách nhiệm của bộ máy chính quyền quá non nớt thể đảm nhận nổi. Watson, vào ngày mà tớ kết thúc đường công danh của mình bằng cú bắt sống tóm gọn, cũng có khi phải tiêu diệt tên phạm pháp nguy hiểm nhất và tài ba nhất châu Âu, lúc ấy, cuốn sổ ghi chép những hồi ký của cậu đến chỗ kết thúc.
      Giờ tớ cố gắng để hoàn thành nốt công việc chưa được đến, sao cho chính xác. Tớ cố gắng nắm kỹ những tình tiết, điều này phải là dễ. Nhưng tớ đặt ra cho mình trách nhiệm là bỏ sót chi tiết nào là nhặt.
      Ngày 3 tháng 5, chúng tôi đến làng Meiringen, và dừng trú ở khách sạn " quốc". Ông chủ khách sạn là người vui nhộn, thính pha trò và tiếng rất sõi, bởi ông từng làm bồi bàn ở khách sạn "Grosvenor" ở gần ba năm. Mồng 4 tháng 5, sau buổi trưa, theo lời khuyên của ông chủ, cả hai chúng tôi rủ nhau lên núi dạo chơi, với ý định ngủ lại ở làng Rosenlaui. Ông ta cũng khuyên chúng tôi nên tham quan thưởng thức thác Reichenbach nằm lưng chừng ngọn núi; nhưng gần đấy chút là khu vực đáng sợ nhất. dòng thác lũ do những tảng băng tan tuôn xối xả xuống vực thẳm đáy, bọt nước tung như hơi khói bốc lên từ ngôi nhà. khe rãnh: nơi dòng thác đổ vào, được chất đầy những tảng đá to tướng đen đủi như than. Ở phía dưới, trong lòng độ sâu thể nào đo được ấy là các khe bị thu hẹp lại, biến thành cột cái giếng sôi ầm ầm, giếng này luôn luôn được bổ sung thêm nước từ róc xuống với sức mạnh kinh khủng làm cho nước bắn tung toé trở lại, hất ngược lên tới mỏm núi cao. Tất cả những cảnh tượng ấy, làm cho con người cảm thấy choáng ngợp, làm cho ta điếc tai, bởi những tiếng gầm ngớt.
      Chúng tôi leo lên theo con đường có hình dáng nửa vòng tròn; nhờ vậy mà những nhà du lịch có thể nhìn thấy quang cảnh thác nước. Con đường kết thúc cách đột ngột, còn đường nào tiếp. Vì vậy, người nào leo lên rồi, buộc lòng phải quay lại chính con đường lên. Vừa lúc chúng tôi quay xuống, bỗng dưng trông thấy thằng bé Thuỵ Điển. Thằng bé chạy lại chỗ chúng tôi, tay cầm bức thư. phong bì có đóng dấu của khách sạn, nơi chúng tôi thuê trọ. Dường như đó là bức thư do ông chủ khách sạn viết và gởi cho tôi. Ông ta viết rằng: Chúng tôi vừa ra khỏi khách sạn vài phút, có bà người đến, bà ta nằm trong giai đoạn cuối cùng của bệnh lao phổi. Bà ta sống qua mùa đông ở Davos Platz , bà định đến thăm bạn bè ở Lucerne. Nhưng đường bỗng bà ta ho ra máu. Hình như bà ta còn sống được bao lâu nữa, cùng lắm chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Nhưng đối với bà ta có gì an ủi động viên bằng việc được trông thấy người bác sỹ người ở bên cạnh. Nếu tôi đến với bà ta ... ở đoạn tái bút, ông ta còn thêm, chính ông ta đội ơn tôi rất nhiều, nếu tôi đồng ý quay lại khách sạn, bởi người đàn bà kiên quyết cự tuyệt muốn thuê nhờ bác sỹ người Thụy Điển.
      Tôi thể nào từ chối, thể nào thoái thác cầu của bạn đồng hương chết dần chết mòn nơi đất khách quê người. Nhưng cùng lúc ấy tôi rất lo ngại nếu bỏ mặc Holmes ở lại mình. Cuối cùng chúng tôi quyết định như sau: thằng bé mang thư đến là người phiên dịch và bạn đường với , còn tôi quay lại xóm Meiringen. Bạn tôi còn muốn ở lại nơi thác nước lúc; sau đó băng qua mấy ngọn đồi để đến Rosenlaui, và ở đấy tối tôi gặp . Khi ra được đoạn, tôi quay lại nhìn; Holmes đứng, cúi nhìn xuống tảng đá, hai tay bắt chéo sau lưng. Lúc bấy giờ, tôi đâu có hay rằng bao giờ tôi còn gặp bạn tôi nữa.
      Đến chân núi, tôi còn nhìn lên lần nữa, tôi còn nhìn thấy thác nước, nhưng tôi dõi theo con đường dẫn tới thác nước chạy dọc theo sườn núi. Có người đàn ông gấp gáp con đường lên. Hình như bóng đen sậm của ông ta trông rất nền xanh rực rỡ kia. Tôi ngờ ngợ ra cái dáng tất bật của ông ta, nhưng chính tôi lúc ấy cũng rất vội đến bệnh nhân của mình, nên chỉ thoáng tôi quên con người ấy. Gần giờ sau tôi đến khách sạn ở Meiringen, ông chủ khách sạn đứng ở cửa.
      - Thế nào? - Tôi đến gần ông ta và lên tiếng hỏi. - Hy vọng là tình hình bà ấy quá bi đát?
      Nét mặt ông ta lộ vẻ ngạc nhiên, sửng sốt cặp lông mày rướn lên. Tim tôi bỗng thót lại, nhói đau.
      - Nghĩa là phải ngài viết cái này? - Tôi lấy bức thư trong túi ra và hỏi. - Ở khách sạn có bà bệnh nhân người ?
      - Tất nhiên là - ông ta thét lên. - Có chuyện gì thế? Ngoài phong bì đóng dấu khách sạn tôi? À, tôi nhớ ra rồi! Có lẽ bức thư này do người cao cao viết. Ông ta đến khi hai ngài vừa bước ra. Ông ta rằng...
      Nhưng tôi tài nào ngồi nghe những lời giải thích dài dòng của ông ta. Bị nỗi lo sợ bao trùm, tôi vội vàng cắm đầu cắm cổ chạy theo con đường tắt dẫn đến chân núi. Tôi mất gần trọn giờ để chạy xuống núi, và hoặc dù tôi dồn tất cả sức lực của mình để chạy, nhưng cũng mất đứt hai giờ đồng hồ tôi mới đến được thác nước ban nãy. Chiếc gậy của Sherlock Holmes vẫn nằm bên cạnh tảng đá, còn thấy đâu. Tôi gọi, gào thét tên , nhưng vô ích. Câu trả lời duy nhất là tiếng vọng dội lại tiếng gào thét của tôi từ những tảng đá dốc dựng đứng bao quanh.
      Khi thấy cây gậy, tôi lạnh toát cả người: nghĩa là Holmes đến Rosenlaui. còn quanh quẩn đâu đây, con đường mòn bề rộng chỉ có 3 feet, được bọc bởi phía bức tường đá dựng đứng. Kẻ thù gặp tại đây. Thằng bé người Thụy Điển cũng biến mất. Có lẽ thằng bé bị tên Moriarty mua chuộc để cho hai kẻ đối mặt với nhau. Còn chuyện gì xảy ra? Ai có thể được!
      Tôi đứng yên như vậy chừng hai phút, hết sức bối rối vì sợ hãi, và cố trấn tĩnh lại. Tôi nhớ lại những phương pháp của bạn tôi, và tôi thử đem ra vận dụng, với hy vọng làm sáng tỏ những gì tang thương xảy ra. Than ôi! Chuyện ấy mới dễ làm sao?
      Trong lúc chuyện trò chúng tôi chưa hết lối mòn, và cây gậy rơi vào đúng chỗ chúng tôi dừng lại. Mảnh đất đen màu mỡ, chưa bao giờ khô vì quanh năm suốt tháng những giọt nước tung tóe bắn lên. Ngay cả con chim đậu cũng để lại dấu nữa là. Có hai hàng bước chân còn in nét ở đoạn cuối chỗ lối mòn. Những vết chân này đều ra xa, còn dấu quay trở lại thấy đâu hết. Cách mấy bước chân nữa là tới chỗ vực, toàn bộ đất ở đây bị giày xéo, dẫm nát và đào bới tung lên. Những cây dương xỉ mọc gần vực thẳm bị dẫm lên và dây bẩn. Tôi nằm sấp xuống và bắt đầu nhìn chăm chú vào dòng nước gào thét. Bây giờ tôi trông thấy những tảng đá vừa mới được bóng lên do ai dẫm lên. Tôi gào thét nhưng những tiếng vang dội lấn át hết giọng hét của tôi.
      may mắn, lời chào cuối cùng của bạn tôi đến với tôi. Chiếc gậy nằm lại được dựng nghiêng vào vách đá, và ngay phía vật gì đó lấp lánh sáng. Tôi đưa tay với lấy, và thấy đó là hộp đựng thuốc bằng bạc mà Holmes vẫn hay mang nó trong người. Khi tôi cầm lên có vài tờ giấy nằm phía dưới bỗng rơi xuống đất. Tôi nhặt lên. Đó là ba tờ giấy được xé từ quyển sổ tay, và đó có đề dòng chữ gởi cho tôi. Địa chỉ ghi khá nét, chữ ràng, chững chạc, dường như Holmes viết nó trong phòng.
      "Watson thân mến, điều ghi trong mẩu thư này là do nhã ý của ngài Moriarty. Tớ ngồi viết cho cậu mấy dòng. Ông ta đợi tớ để giải quyết dứt điểm những vấn đề có liên quan đến tới cả hai. Ông ta kể qua loa cho tớ nghe cách thức mà ông ta đánh lạc hướng cảnh sát nước , và nắm được cuộc hành trình của chúng mình. Tất cả những điều đó, lần nữa khẳng định nhận xét của tớ về khả năng hiếm có của ông ta là đúng. Tớ thích thú, khi nghĩ rằng có thể vạch trần những việc làm hay, những việc dính líu đến tồn tại của con người này. Nhưng tớ sợ rằng, điều đó có thể cũng phải trả cái giá khá đắt. Việc này có thể làm cho bạn bè tớ buồn, đặc biệt là cậu, Watson ạ! Cần thêm với cậu là cuộc đời tớ đến lúc đến tột đỉnh của nó rồi, tớ thể nào mong ước kết cục tốt hơn. Cũng cho cậu hay, bức thư từ khách sạn Meiringen - đó là cái bẫy, chuyện này tớ mảy may nghi ngờ. Sau khi cậu ra , tớ hoàn toàn yên tâm còn ân hận gì hết. Cậu hãy chuyển cho ngài thanh tra Patterson những giấy má cần thiết dùng để vạch mặt băng cướp ấy. nay những tài liệu đó nằm ở bàn, trong chiếc hộp dưới chữ "M". Chiếc phong bì màu xanh với dòng chữ "Moriarty". Trước khi từ giã nước , tớ kịp làm tất cả những gì cần thiết và gởi nó ở đằng trai tớ Mycroft. Nhờ cậu gửi lời chào thân thiết của tớ tới vợ cậu.
      Người bạn chung thủy của cậu, Sherlock Holmes"
      Những gì còn lại có thể gói gọn trong hai câu. Sau công việc khám xét trường, người ta đều thống nhất cho rằng cuộc vật lộn giữa hai địch thủ kết thúc như thế này: Cả hai cùng bị rơi xuống vực thẳm mà vẫn chịu buông tay ra. Người ta cũng có ý định tìm kiếm tử thi, nhưng cũng mang lại kết quả gì. Thân thể của tên tội phạm nguy hiểm nhất và của người bảo vệ công lý trứ danh nhất vĩnh viễn nằm dưới vực sâu thẳm, quanh năm nước sôi réo ầm ĩ.
      Người ta cũng tìm thấy thằng bé con người Thụy Điển đâu cả. Có lẽ đó là trong số những đặc phái viên do Moriarty tuyển chọn. Còn băng cướp độc ác có lẽ ở London mọi người vẫn còn nhớ, những chứng cứ do Holmes thu thập khá đầy đủ vạch mặt chỉ tên tất cả tổ chức ấy; và người ta khám phá ra đầu đảng cũng như linh hồn của tổ chức ấy chính là tay giáo sư Moriarty mà đáng lẽ phải bị còng bằng chiếc gông sắt. Trong quá trình ấy bản thân con người đáng sợ kia còn chưa được làm sáng tỏ. Nếu buộc lòng tôi phải lên toàn bộ về quá trình phạm pháp của điều này động viên số người bào chữa thiếu lương tâm và trách nhiệm, họ mưu toan minh oan cho bằng những đòn công kích chống lại con người, mà con người đó bao giờ tôi cũng cho rằng: người cao thượng nhất, sáng suốt nhất trong những người mà tôi quen biết.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :