Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Những hồi ức về Sherlock Holmes

      1. Bệnh nhân thường trú

      Trời tiết tháng Mười, ngày nặng nề, mưa nhiều. Mành cửa được buông xuống nửa vời. Holmes nằm cuộn mình ghế tràng kỷ để đọc đọc lại lá thư mà vừa nhận được. Về phần tôi, thời gian ở bên Ấn Độ tập cho tôi chịu đựng được nóng hơn là chịu lạnh. Nhưng tờ báo lại chẳng có gì đáng đọc. Mọi người bỏ khỏi thủ đô và tôi thèm muốn nghỉ mát ở bờ biển, nhưng đủ tiền.
      Holmes quá mải mê, tiện chuyện, tôi bèn liệng tờ báo, ngồi thoải mái trong ghế bành và chìm vào trong giác mơ. Bất thình lình giọng của chen vào trong tư tưởng tôi:
      Buổi tối đem đến chút mát mẻ. Ta dạo thành phố nhé.
      Tôi tán thành ngay. Trong ba tiếng đồng hồ, chúng tôi lang thang, chăm chú vào cái kính vạn hoa ngàn đời thay đổi ngừng của cuộc sống trong đại lộ và khu bờ sông. Cuộc chuyện của Holmes luôn luôn gây thích thú.
      Chúng tôi trở về phố Baker lúc 10 giờ. xe ngựa bốn bánh đậu trước cửa nhà chúng tôi.
      - “Hừm! bác sỹ... tôi nhận thấy thế” Holmes . Ông này hành nghề chưa bao lâu, nhưng rất bận rộn. Ông tới hỏi ý kiến chúng ta”.
      Ánh sáng lung linh đằng sau khuôn cửa sổ chứng tỏ người khách chờ đợi chúng tôi. Tôi theo Holmes vào nhà. người xanh xao có bộ mặt dài và để râu má vàng hoe đứng lên khi chúng tôi bước vào. Ông ta chưa quá bước mươi hoặc ba mươi bốn tuổi, nhìn nhớn nhác. Đó là thái độ của người rụt rè và dễ kích động: bàn tay trắng mà ông tì lên lò sưởi khi đứng dậy khỏi ghế hẳn thích hợp với nghệ sĩ hơn là y sĩ. Ông ta ăn mặc đàng hoàng với quần áo màu sẫm. cái áo rơ-đanh-gốt đen, quần màu sẫm, thắt cà vạt trang nhã.
      - “Xin chào bác sỹ!” Holmes vui vẻ . Tôi vui mừng được thấy bác sỹ phải chờ chúng tôi quá lâu”.
      - Vậy là ông chuyện với người đánh xe của tôi?
      - . Ngọn đèn nến bàn . Xin mời ông ngồi xuống và xin cho biết tôi có thể giúp ông điều gì.
      - Tôi là bác sỹ Percy Trevelyan ở số 403 phố Brood.
      - Có phải ông là tác giả của cuốn sách chuyên khảo về các thương tổn thần kinh ? - Tôi hỏi.
      Niềm vui sướng làm cho cặp má xanh xao của ông ta trở thành có mầu sắc.
      - “Tôi ít khi được nghe nhắc tới cuốn sách đó” ông trả lời. “Nhà xuất bản nó bán rất ế. Ông cũng là bác sỹ?”
      - Bác sỹ quân y nghỉ phép.
      - Tôi muốn chuyên về bệnh thần kinh, nhưng chúng ta buộc phải “có gì lấy nấy”. Nhưng đó là chuyện ngoài đề. Thưa ông Holmes, muột chuỗi việc xảy ra nơi nhà tôi khiến tôi tới đây để xin ông lời khuyên.
      Holmes ngồi xuống và mồi tẩu thuốc.
      -Hoan nghênh ông đến. Câu chuyện như thế nào?
      - Tôi theo học đại học London và các giáo sư coi tôi như đối tượng có nhiều hứa hẹn. Sau khi tốt nghiệp, tôi tiếp tục chuyên tâm vào việc nghiên cứu chứng giản huyết: sau chót, tôi được tặng giải thưởng và huân chương cho cuốn sách chuyên khảo về những thương tổn thần kinh mà bạn ông vừa nhắc tới hồi nãy.
      “Nhưng chướng ngại chính ngăn chặn con đường lập nghiệp của tôi là thiếu vốn. Muốn khởi nghiệp, tôi bắt buộc phải định cư tại trong mười hai con đường trong khu sang trọng Cavendish: tiền thuê nhà rất cao và số đồ đạc đắt giá, lại còn phải nuôi kẻ ăn người ở, phải nuôi con ngựa và cỗ xe coi được. Điều đó vượt quá khả năng của tôi. Tôi hy vọng ăn uống dè sẻ trong mười năm, mới có thể gắn được tấm bảng hiệu lên trước cửa nhà mình. Nhưng buổi sáng, có người khách tên là Blessington đến tìm tôi. Tôi vừa mới mời ông ta ngồi xuống là ông ta liền hơi:
      - Ông có phải là cái ông Percy Trevelyan, người vừa được trao giải thưởng ?.......
      Tôi nghiêng mình.
      - “Hãy thẳng thắn trả lời tôi”, người khách tiếp. “Rồi ông phải hối tiếc. Tài năng của ông còn đưa ông tiến xa hơn nữa. Ông có khéo xử ?”
      Tôi thể mỉm cười trước câu hỏi.
      - Tạm được.
      - Và có các thói hư tật xấu đấy chứ? có những tính ham .... uống rượu chẳng hạn?
      - Nhưng mà, thưa ông! - Tôi kêu lên.
      - Rất tốt! Hoàn toàn tốt! Nhưng tôi buộc phải đặt ra những câu hỏi đó. Ông có tài, có đức, tại sao lo lập nghiệp.
      Tôi nhún vai.
      - “Coi nào, coi nào”, người khách . “Trong đầu ông có nhiều thứ hơn là ở trong bốp. Ông nghĩ sao nếu tôi bố trí cho ông mở phòng mạch ở đường Brook?”
      Tôi nhìn người khách với vẻ ngạc nhiên.
      - “Ồ, nếu như tôi làm việc đó, chính là vì lợi ích của tôi, chứ chẳng phải để làm vừa lòng ông đâu. người khách kêu lên.” Tôi hết sức thành với ông. Tôi có vài ngàn bảng và tôi muốn đầu tư. Phải, tôi muốn đầu tư vào đầu óc ông”.
      - Như thế nào?
      - Cách đầu tư này ăn chắc.
      - Nhưng tôi phải làm gì.
      - Tôi mướn nhà. Tôi sắm đồ đạc. Tôi trả lương cho kẻ hầu hạ. Nghĩa là tất cả mọi khoản chi tiêu. Ông chỉ ngồi trong cái ghế bành nơi phòng khám bệnh. Ông chia cho tôi 3/4 tiền thu được, ông hưởng 1/4 còn lại.
      Tôi nhận lời, tới ngụ tại đường Brook và bắt đầu hành nghề, làm theo những điều kiện mà ông ta đưa ra. Ông ta tới ở trong nhà tôi như người khách trọ được hưởng bổng lộc. Tôi nhận thấy ông ta bị yếu tim và tình trạng sức khỏe của ông ta cần được chăm sóc thường xuyên. Ông ta sửa đổi hai căn phòng lầu thành phòng khách và phòng ngủ để dùng riêng. Đó là con người kỳ quặc: ông trốn tránh xã hội và ít khi ra phố. Tối nào cũng vậy, cứ đúng giờ là ông ta lại vào phòng mạch tôi, xem sổ khám bệnh, rồi chia tiền cho tôi và cất kỹ số còn lại vào cái két sắt đặt trong phòng.
      Việc đầu tư của ông ta có kết quả. vài thành công trong những ca bệnh khó mau chóng đưa tôi lên hàng đầu. Trong hai năm, tôi làm cho ông ta trở thành người giàu có.
      “Cách đây vài tuần, ông ta tới gặp tôi trong trạng thái cực kỳ bồn chồn. Ông với tôi về vụ trộm vừa mới xảy ra trong khu West End. Ông cho tôi hay là trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa, then cửa an toàn được đặt vào các cửa sổ và cửa ra vào nhà tôi. căng thẳng thần kinh của ông kéo dài khoảng chừng tuần. Luôn luôn ông đứng rình bên cửa sổ và ra khỏi nhà để dạo chơi như ông vẫn làm đều đặn trước bữa ăn tối. Nhìn thái độ ông, tôi suy luận rằng ông mối sợ hãi kinh khủng đối với ai đó hoặc cái gì đó. Tôi nêu ra với ông vài câu hỏi, nhưng ông tỏ vẻ hờ hững tới mức tôi muốn tìm hiểu thêm nữa. Thời gian trôi qua, mối lo sợ của ông dường như tan biến dần. Ông nối lại những thói quen ngày trước.
      “ Cách đây hai ngày, tôi nhận được lá thư đề ngày tháng và ghi địa chỉ người gửi. nội dung như sau: “ thành viên thuộc giới quý tộc Nga rất sung sướng được Bác sỹ nhận chăm sóc. Từ nhiều năm qua, người này bị chứng giản huyết. Khi được biết bác sỹ rất giỏi về môn này, bệnh nhân muốn đến khám bệnh vào chiều mai, lúc 6 giờ 45 phút.
      “Lá thư đó làm tôi thích thú bởi vì khó khăn chính trong việc nghiên cứu về bệnh giản huyết là căn bệnh này ít có bệnh nhân để thực tập. Vậy là tôi có mặt ở phòng mạch vào giờ hẹn. Thân chủ tôi là người đứng tuổi, gày gò, ung dung. Bề ngoài khá tầm thường: chẳng có chút nào giống với cái ý nghĩ mà chúng ta thường có về nhà quý phái Nga. Nhưng tôi lại ngạc nhiên nhiều hơn về người cùng . Đó là thanh niên cao lớn, đẹp lạ lùng, với bộ mặt rầu rĩ và dữ tợn, thân hình mạnh khoẻ. Khi hai người vào phòng, người trẻ tuổi giang vòng tay đỡ lấy ông già rồi đặt ngồi xuống với âu yếm và dịu dàng.
      - “Tôi xin được thứ lỗi, thưa bác sỹ”, ta với tôi bằng tiếng với giọng yếu ớt “Tôi phải cùng với cha tôi, vì cha tôi rất yếu”.
      hiếu thảo đó làm tôi cảm động.
      - Phải chẳng ông muốn ở lại bên ông cụ trong lúc tôi chẩn bệnh.
      - Ồ, ! đời nào”, ta kêu lên, tay phác ra cử chỉ hoảng sợ. “Tôi rất đau buồn khi phải thấy ba tôi trong những cơn cấp phát kinh hoàng đó. Hệ thần kinh của tôi rất nhạy cảm. Tôi xin ngồi ở phòng đợi”.
      ”Người thanh niên bỏ ra ngoài. Tôi chuyện với người bệnh và ghi chú. Ông già thôngminh, những câu trả lời của ông thường tối nghĩa, tôi cho là ông đủ từ ngữ tiếng . Tuy nhiên, bất thình lình, trong lúc tôi lúi cúi ghi chép, ông ngưng trả lời. Tôi ngửng đầu lên, thấy ông ta ngồi thẳng trong ghế bành mà ngó nhìn tôi, mặt ông tái mét, cứng đơ: con bệnh lại tái phát. Tôi đếm số mạch đập và đo nhiệt độ của người bệnh, cơ bắp cứng. Tôi phát ra điều bất thường đặc biệt nào. Trạng thái của ông phù hợp với điều mà những cuộc quan sát trước đó cho tôi biết. Bệnh này trị bằng cách cho xông chất nitrat amyl. Tôi tự nhủ rằng mình gặp cơ hội tuyệt vời để chứng tỏ hữu hiệu. Vì chai thuốc đặt ở tầng dưới trong phòng thí nghiệm, tôi để thân chủ ngồi đó, chạy lấy. Phải mất năm phút mới tìm ra nó: khi trở lại phòng mạch người bệnh bỏ .
      ”Tôi chạy ra ngoài. Người con trai cũng bỏ . Cánh cửa ra vào được khép lại, nhưng đóng kín. Người đầy tớ, kẻ đưa khách vào, mới vào làm và lại hơi đần độ. Y cứ ở bên dưới và chỉ lên lầu để chỉ đường cho người bệnh hoặc khi tôi gọi chuông. Y chẳng nghe thấy gì và chúng tôi lúng túng trong bí mật hoàn toàn. sau đó lát, ông Blessington trở về sau khi dạo. Tôi với ông lời nào về việc xảy ra.
      ”Tôi đinh ninh mình chẳng bao giờ gặp lại người Nga nọ cùng cậu con trai! Thế mà chiều nay họ lại tới phòng mạch tôi.
      Tôi phải xin lỗi ông nhiều vì bỏ bất thình lình ngày hôm qua, thưa bác sỹ! - Thân chủ của tôi .
      - Quả việc đó làm tôi hơi ngạc nhiên...
      - Khi ra khỏi cơn cấp phát, đầu óc rối rắm, tôi còn nhớ gì về điều xảy ra trước đó. Tôi thấy mình tỉnh lại trong căn phòng lạ, thế là tôi bỏ và tôi ngoài phố như trong sương mù.
      - ”Còn, tôi“, người con trai thêm, ”khi thấy ba tôi ra ngoài, tôi tưởng là cuộc khám bệnh xong. Tôi chỉ biết khi về tới nhà“.
      - ”Vậy “, tôi cười, ”chẳng có gì là phiền hà cả. Bây giờ, ông có thể lui ra ngoài phòng khách, tôi tiếp tục chẩn đoán cho thân phụ ông“.
      Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi khám xong, kê toa. Sau đó ông ra về, vịn tay vào người con trai.
      lát sau, Blessington về nhà và leo lên phòng. Liền ngay sau đó, tôi nghe tiếng chân ông lao xuống cầu thang và ùa vào trong phòng mạch tôi như viên đại bác.
      - Ai vào phòng tôi? - Ông ta hét lên.
      - ai cả.
      - Ông dối! Hãy lên mà xem!
      ”Tôi bỏ qua lời lẽ lỗ mãng của ông ta. Khi lên tới nơi, ông chỉ cho tôi thấy nhiều vết chân tấm thảm màu nhạt.
      - Đây đâu có phải là các dấu chân của tôi - Ông ta kêu toáng lên.
      ”Quả đó là những dấu chân mới có. Nó lớn hơn dấu chân của ông ta. Buổi chiều đó trời mưa nhiều, khách đến nhà tôi đều là bệnh nhân. Vậy là, trong lúc tôi khám bệnh cho người cha, thanh niên rời phòng đợi và leo lên phòng của ông Blessington. có nơi nào bị đụng tới hoặc bị lấy , nhưng ràng căn phòng bị xâm nhập.
      ”Blessington bị kích động cực kỳ mạnh mẽ. Ông ngồi sụp xuống ghế bành và khóc. Phải rất lâu tôi mới làm ông tỉnh lại đôi phần. Ông ta khuyên tôi đến đây để gặp ông, thưa ông Holmes. Nếu ông vui lòng cùng với tôi, có thể ông trấn an được ông ấy“.
      Holmes, nghe câu chuyện kể dài dòng ấy với chú tâm mãnh liệt. Khi người khách chấm dứt, Holmes lời, đưa cái mũ cho tôi rồi theo thân chủ.
      Mười lăm phút sau, chúng tôi dừng lại trước ngôi nhà của bác sỹ. người đầy tớ mở cửa và chúng tôi leo ngay lên cái cầu thang rộng có trải thảm. Ngọn đèn thềm cầu thang đột ngột bị gió thổi tắt. Từ trong bóng tối, giọng , run rẩy vọng tới chúng tôi.
      - Ông Blessington, ông quá đáng rồi đấy. - Bác sỹ Percy kêu lên.
      - ồ, thế ra là ông đấy à, bác sỹ?“ Giọng thốt ra có kèm theo tiếng thở dài nhõm.“ Nhưng còn những người kia, ông có bảo đảm cho họ ?“.
      Blessington quan sát tỉ mỉ chúng tôi.
      - ”Tốt. Được rồi. Sau cùng ông ta , ”Các ông có thể lên. Tôi xin lỗi nếu đề phòng làm quý ông khó chịu“.
      Ông ta đốt gas lên và chúng tôi thấy trước mặt mình là người kỳ lạ. Ông ta rất mập, nước da bệnh hoạn. Mỗi tay cầm khẩu súng lục; ông nhét súng vào túi khi chúng tôi tiến lên.
      - Xin chào ông Holmes. Tôi rất mang ơn ông cất công đến đây. Bác sỹ cho ông biết về vụ xâm nhập tồi tệ vào nhà tôi?
      - Có, hai người đó là ai vậy, tại sao họ lại định hại ông?
      - Thế , đó là ... là khó . Tôi chẳng biết trả lời ông ra làm sao, thưa ông Holmes.
      - cách khác, ông biết họ là ai?
      - Xin mời vào. Xin vui lòng ngang qua đây.
      Ông dẫn chúng tôi vào trong phòng ông. Đó là căn phòng đẹp, đồ đạc bày biện cách thích đáng.
      - ”Quý ông thấy cái này chứ?“. Ông khi chỉ vào cái hộp đen lớn để ở dưới chân giường.“ Tôi chưa bao giờ giàu có. Trọn đời, tôi chỉ đầu tư vào mỗimột việc như bác sỹ Percy cho quý ông . Tôi chẳng bao giờ tin chủ ngân hàng nào cả, thưa ông Holmes. Chút ít vốn mọn mà tôi có được để cất giấu trong cái rương này, vậy là ông hiểu điều tôi cảm nhận khi có những kẻ vô danh lẻn vào nhà tôi.
      Holmes nhìn kỹ Blessington với con mắt dò hỏi và lắc đầu.
      - Tôi thể giúp gì cho ông nếu ông tìm cách dối tôi. - .
      - Tôi tất cả rồi.
      Holmes xoay gót với cử chỉ chán ghét:
      - Xin chút đêm an lành, bác sỹ Percy.
      - Ông bỏ mà chẳng với tôi điều gì ư? - Blessington kêu lên với giọng kiệt quệ.
      - Thưa ông, tôi chỉ có lời khuyên: đó là hãy .
      phút sau, chúng tôi ra tới ngoài phố và chúng tôi lại đường về nhà.
      - Watson, tôi rất tiếc làm phải ra khỏi nhà vì cuộc dạo chơi của những người điên. Thực ra, đây là chuyện lý thú đấy. Holmes .
      - Tôi chẳng hiểu gì hết!
      - Có hai người ... Có thể hơn hai người ... oán thù gã này, cái chàng trai nọ hai lần lẻn vào phòng của Blessington trong lúc người đồng lõa kiềm giữ bác sỹ trong phòng mạch.
      - Thế còn bệnh giản huyết?
      - chứng-bệnh-giả và đó là chứng rất dễ bắt chước. Tôi từng bắt chước chứng đó. Tôi, người với đây này.
      - Thế rồi sao?
      - Bọn chúng mà đến khám bệnh muộn như thế là vì lúc đó trong phòng đợi còn khách. Tuy nhiên, giờ đó lại trùng hợp với thói gàn của Blessington. Vậy là bọn chúng biết thói quen hàng ngày của ông ta. Nếu chúng chỉ muốn “xoáy” món thôi hẳn chúng để lại dấu vết của chuyến ăn hàng. Vả chăng, tôi có khả năng đọc được trong mắt người để biết là người đó lo sợ cho mạng sống của mình. Ông ấy có hai kẻ ham trả thù đến thế mà lại biết họ là ai ư? . Ông ta phải biết họ. Nhưng ông ta dối. Có thể là ngày mai chúng ta gặp lại ông ta trong trạng thái cởi mở hơn!
      Liệu có giả thiết nào khác ? Liệu có thể nào câu chuyên người Nga bị bệnh với con trai ông ta chỉ là sản phẩm tưởng tượng của bác sỹ Percy ?
      Dưới ánh sáng ngọn đèn đường thắp bằng khí đốt, tôi thấy Holmes cười với vẻ thích thú.
      - Chàng trai để lại những vết chân rất ràng: giày cả ta có mũi vuông chứ nhọn như giày của Blessington và giày đó lớn hơn giày của ông bác sỹ tới 3 inch. Vậy dấu chân các tấm thảm là hề bị lầm lẫn. Nhưng tốt hơn chúng ta nên ngủ, bởi vì sáng sớm mai có tin mới.
      Sáng hôm sau, vào hồi 7 giờ rưỡi, trong ánh sáng lời mờ đầu tiên của buổi sớm mai, tôi thấy Holmes mặc áo ngủ đứng ngay đầu giường tôi. :
      - Watson! cỗ xe đợi chúng ta.
      - Để làm gì?
      - Về vụ ở đường Brook.
      - nhận được tin mới?
      - Nghiêm trọng, nhưng chưa ràng.
      tới kéo tấm mành sáo lên, đoạn quay lại bên tôi
      - hãy xem cái này. Đây là miếng giấy bứt ra từ mọt cuốn sổ tay, với những từ đơn giản này:’vì lòng kính Chúa, xin hãy tới ngay tức khắc. P“. viết nguệch ngoạc bằng bút chì. Ông bạn bác sỹ có đủ giờ! thôi, đây là lời kêu gọi khẩn cấp.
      Mười lăm phút sau, chúng tôi trở lại nhà bác sỹ Percy. Ông chạy ra đón chúng tôi. Vẻ mặt kinh hoàng.
      - ồ, vụ như thế này! - ôngkêu lên khi giờ hai bàn tay ôm lấy trán.
      - Chuyện gì vậy?
      - Blessington tự tử.
      Holmes huýt sáo.
      - Phải, ông ấy treo cổ trong đêm. - Bác sỹ Percy .
      Ông bác sỹ dẫn chúng tôi vào căn phòng đợi.
      - ”Tôi còn biết làm gì hơn“, ông với chúng tôi. ”Cảnh sát lầu. Tôi bị kiệt quệ đến lúc chết được“.
      - Ông phát chuyện đó vào lúc nào?
      - Mỗi buổi sáng người hầu đem lên phòng ông ấy tách trà. Vào khoảng bảy giờ, vào trong phòng, thấy ông ấy toòng teng ngay giữa phòng.
      Holmes ngồi yên lặng hồi lâu, đắm chìm trong suy tư, lo lắng.
      - Nếu được ông cho phép, tôi lên đó để coi việc.
      Chúng tôi vào trong phòng, quang cảnh chẳng lấy gì làm đẹp! Treo lơ lửng và đu đưa cái móc, người chết chẳng còn chút gì là dáng người. Cổ ông ta giãn ra như con gà giò bị nhổ lông, làm tăng thêm phì nộn trong phần còn lại của cơ thể. người ông ta chỉ có cái áo ngủ dài. Cạnh xác ông có viên thanh tra đứng viết cuốn sổ tay.
      - ”A, ông Holmes!“ Ông thanh tra khi thấy bạn tôi. ”Tôi vui mừng được gặp ông“.
      - Chào , Lanner“. Holmes đáp. ”Tôi quấy rầy đấy chứ? có biết những tình huống trước khi vụ này xảy ra ?“
      - Có
      - Quan điểm của như thế nào?
      - Theo tôi. Blessington tự tử trong cơn sợ hãi. Ông ta ngủ say giường, ông nhìn đây này: dấu vết của thân thể lún khá sâu. Ông ta treo cổ vào lúc năm giờ sáng. Dường như đây là hành động hoàn toàn cố ý.
      - Cứ xét theo cứng đờ của các cơ cái chết xảy ra lúc 3 giờ. - Tôi .
      - có gì đặc biệt ở trong phòng sao? - Holmes hỏi.
      - cái bàn ở chậu rửa, có cái vặn đanh ốc và vài con đanh ốc. Ông ta hẳn cũng hút nhiều trong đem. Đây là bốn mẩu xì gà mà tôi vừa lấy trong lò sưởi ra.
      - Hừm! coi cái hộp đựng xì gà của ông ấy chưa? Holmes hỏi.
      - . thấy nó đâu cả.
      - Thế ống đựng xì gà đâu?
      - Nó ở trong túi áo vét của ông ta.
      Holmes mở ống ra và ngửi hơi của điếu xì gà duy nhất.
      - Điếu này là xì gà Havana đây! Những điếu kia là xì gà do người Hà Lan nhập từ những thuộc địa của họ bên Đông Ấn.
      cầm lấy bốn mẩu thuốc và quan sát chúng qua kính lúp.
      - Hai điếu này được hút qua mọt cái đót, hai điếu kia được hút trực tiếp bằng miệng. Hai điếu được cắt đầu bằng con dao nhíp rất bén, hai điếu kia được cắn đầu bằng hàm răng rất tốt. Đây phải là vụ tự sát. Đây là vụ ám sát được dự mưu từ lâu và được thực cách khéo léo.
      - thể được! - Viên thanh tra kêu lên.
      - Tại sao lại thể được?
      - Tại sao lại ám sát người bằng cách treo cổ?
      - Đó điều chúng ta cần phải chứng minh.
      - Người ta lọt vào nhà bằng cách nào?
      - Qua lối cửa ra vào.
      - Buổi sáng, những then chặn được cài.
      - Chúng được cài lại sau khi họ bỏ ..
      - Làm thế nào ông biết được?
      - Tôi thấy những dấu vết của họ. Xin hứ lỗi cho tôi trong chốc lát: tôi sắp cung cấp cho ông những thông tin chính xác hơn.
      ra phía cửa, xoay xoay ổ khóa và quan sát nó. Đoạn rút cái chìa khóa cắm ở phía trong ra và chăm chú nhìn nó. Sau đó quan sát liên tục tấm thảm, những cái ghế, lò sưởi, xác chết và cuộn dây thừng. tỏ ra hài lòng, cầu viên thanh tra và tôi, cởi dây đưa người bất hạnh xuống, đặt lên tấm vải trải giừng.
      - Sợi dây này ở đâu ra? - Holmes hỏi.
      - ”Nó được cắt ra trong cuộn dây này“, bác sỹ Percy trả lời khi kéo từ dưới gầm giường ra cuộn dây thừng. ”Ông ta lo sợ hoả hạn cách lành mạnh và ông luôn giữ cuộn dây này gần mình, ngõ hầu gặp trường hợp cầu thang nhà bị cháy ông có thể trốn thoát qua ngả cửa sổ“.
      - ”Đây là điều giúp cho bọn chúng bớt vất vả“ Holmes thào trong lúc suy nghĩ lung.“ Phải, việc rất đơn giản. Tới buổi chiều tôi giải thích tận tường nội vụ với các ông. Tôi xin mang theo tấm ảnh của Blessington đặt mặt lò sưởi đây“.
      - Nhưng ông chưa cho chúng tôi biết gì hết. - Bác sỹ Percy kêu lên.
      - Bọn chúng có ba người: chàng thanh niên, ông già và người thứ ba mà tôi chưa tìm ra. Hai người đầu, chính là những người dã giả trang thành những nhà quý tộc Nga. Chúng được kẻ đồng lõa đưa vào nhà. Nếu ông muốn có lời khuyên, thưa ông thanh tra, ông hãy bắt giữ người đầy tớ trẻ tuổi, mới vào giúp việc.
      - ” thấy thằng quỷ đó đâu cả“. Bác sỹ trả lời. ” hầu phòng và bà bếp kiếm nó cả buổi sáng nay“.
      Holmes nhún vai...
      - Y giữ vai trò quan trọng lắm trong tấn thảm kịch này. Thây kệ! Ba người leo lên cầu thang, nhón đầu ngón chân, người già dẫn đầu, người rai trẻ sau và người vô danh cuối đoàn...
      - Holmes ơi! - Tôi reo lên.
      - Ồ, chút nghi ngờ nhặt cũng bị cấm đoán dây, chỉ việc nhìn các dấu chân chồng lên nhau cũng thấy . Vậy là bọn họ leo lên tới phòng ông Blessington. Cửa khóa. Dùng cọng dây kẽm, chúng mở ra. Chẳng cần dùng kính lúp, ta cũng nhận thấy, qua những vết xước, cái khe răng ổ khóa này là nơi sức ép được nhấn xuống. Khi vào phòng, đầu tiên chúng nhét giẻ vào miệng Blessington. Có thể là ông ngủ. Có thể là ông bị đờ người vì khiếp sợ. Có điều là ông kêu lên được tiếng nào. Mặt khác, những bức tường này lại rất dày, có thể ông kêu cứu, nhưng chẳng ai nghe.
      ”Sau khi kiềm chế ông xong. Chúng bình tĩnh ngồi thảo luận. Rất có thể là dưới hình thức phiên tòa. Cuộc thảo luận ắt hẳn kéo dài trong thời gian, bởi vì những điếu xì gà được hút trong khoảng thời gian đó. người lớn tuổi hơn ngồi cái ghế dựa đan lát này. người trẻ hơn, chô xkia: ta vẩy tàn thuốc vào cái tủ com-mốt. Về phần người thứ ba, y lại lại. Có lẽ Blessington vẫn ngồi ở giường, nhưng về điểm này tôi chắc lắm. Để kết thúc, chúng tóm lấy và treo cổ ông lên. Vụ này đựơc suy tính kỹ vì chúng mang theo thứ như cái ròng rọc có thể được dùng làm giá treo cổ. Cái vặn con ốc cùng những con óc này dự liệu dùng gắn cái giá đó. Nhưng khi chúng trông thấy cái móc của bộ đàn treo, chúng mừng lắm. Khi công việc làm xong, chúng bỏ và thanh chặn cửa được đứa gài trở lại sau lưng chúng.
      ”Tất cả chúng tôi lắng nghe với mọt chú tâm say sửa bản tóm tắt những việc xảy ra trong đem. những suy diễn của Holmes khởi từ những tiền đề quá tinh tế và quá chi tiết khiến cho ngay cả khi chỉ cho chúng tôi thấy, chúng tôi vẫn còn gặp khó khăn khi theo cái dòng suy luận của . Viên thanh tra gấp gáp bỏ ra ngoài để thúc đẩy truy lùng người đầy tớ trẻ. Holmes và tôi trở về phố Baker để ăn điểm tâm.
      Xong bữa, :
      - Tôi trở về đây vào lúc 3 giờ. Viên thanh tra và ông bác sỹ có mặt nơi đây vào giờ đó. Tôi hy vọng có thể trình bày rành mạch với họ về vấn đề dã hoàn toàn đựơc làm sáng tỏ.
      Các vị khách của chúng tôi có mặt vào giờ hẹn, thế nhưng bạn tôi lại chỉ trở về vào lúc 3 giờ 45. Nhìn , tôi biết ngay là mọi việc đều mỹ mãn.
      - Có gì mới lạ ông thanh tra?
      - Chúng tôi bắt được người đầy tớ.
      - Tuyệt vời! Còn tôi, tôi bắt được ba người kia.- Tôi chỉ bắt được danh tánh của chúng mà thôi. Cái người được gọi là Blessington, là kẻ rất quen biết với cảnh sát, còn những người tấn công y cũng vậy. Đó là Biddle, Hayward và Moffat.
      - Cái băng đánh cướp tại ngân hàng Worthingdon đó hả? - Viên thanh tra kêu lên.
      - Đúng thế.
      - Như vậy, Blessington chính là Sutton.
      - Đúng thế.
      - Vậy tất cả đều ràng! - Viên thanh tra kết luận.
      - Percy và tôi, chúng tôi nhìn lẫn nhau: chúng tôi cahửng hay biết gì về chuyện đó hết.
      - Trong vụ nổi cộm về ngân hàng Worthingdon có năm người tham dự: bốn tên vừa kể và người thứ năm, tên là Cartwright. Người bảo vệ tên là Tobin bị hạ sát; bọn trộm bỏ trốn với bảy ngàn bảng. Chuyện xảy ra vào năm 1875. Tất cả năm tên đều bị bắt giữ, nhưng chứng cớ lại thiếu. Tên Sutton bán đứng bạn bè, Cartwright bị xử giảo, còn ba người kia bị phạt tù mười lăm năm. Vài năm trước khi mãn hạn tù, chúng bắt đầu tìm kiếm tên phản bội. Khi vừa được phóng thích, chúng tìm cách trả thù: hai lần chúng tìm cách đến gần sát , nhưng hai lần đều bị thất bại. Đến lần thứ ba này mới thành công. Ông có thấy cần hỏi thêm tôi lời giải thích nào khác nữa , bác sỹ Percy.
      - ”Ông làm sáng tỏ nội vụ cách đáng khâm phục“. Ông bác sỹ trả lời. ”Chẳng còn chút nghi ngờ gì, cái ngày mà Blessington bị rối loạn quá mức là ngày vừa đọc báo, thấy tin mấy người bạn cũ vừa được phóng thích.
      - Đúng vậy. Chuyện vụ trộm là điều bịa đặt.
      - Tại sao muốn thổ lộ với ông?
      - Bởi vì, biết về tính hay trả thù của những người bạn cũ. cố che giấu căn cước đích thực của càng lâu càng tốt.
      Đó là những kiện liên quan tới người khách trọ đựơc hưởng bổng lộc và ông bác sỹ ở đường Brook. Cảnh sát chẳng tóm được tên nào.
      Người ta tin tưởng rằng bọn chúng đáp tàu Norah Creina, và con tàu này chìm cách đây vài năm ở ngoài khơi Bồ Đào Nha. Thiếu chứng cớ, gã đầy tớ được tha, và ”Bí mật ở đường Brook“ hoàn toàn ở lại trong trí nhớ của những người đọc bạo

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      2. Người thông ngôn Hy Lạp



      Chưa bao giờ tôi thấy Holmes nhắc tới gia đình và quãng đời thơ ấu của . Tôi tôi coi như người kỳ dị cá biệt. Lòng ghét cay ghét đắng đàn bà, ghê sợ có thêm những người bạn mới, khăng khăng nhắc đến những người bạn thân là đặc tính của . Tôi tin rằng là trẻ mồ côi và là kẻ ”vô gia đình“, nhưng ngày nọ tôi ngạc nhiên khi nghe về người của .

      buổi chiều hè, sau lúc uống trà, câu chuyện có vẻ rời rạc. Từ những Câu lạc bộ chơi golf, chúng tôi chuyển tới tranh luận về lai giống cùng những khả năng di truyền. Cái khả năng quan sát và suy diễn mà có được là do được giáo dục có hệ thống.

      ”Tổ tiên tôi là những người điền chủ ở nông thôn, những người sống cuộc sống phù hợp với giai cấp xã hội của họ. Tuy nhiên tôi lại chọn lối sống hoàn toàn khác hẳn, có thể là do bà nội tôi là em Vernet, họa sỹ người Pháp. Nghệ thuật trong dòng huyết thống có thể nảy nở thành những phong cách rất khác nhau.”

      - Nhưng làm thế nào mà biết được những đức tính đó là di truyền?

      - Bởi vì Mycroft của tôi thừa hưởng những đức tính đó ở mức độ cao hơn tôi nhiều.

      - Nếu ở đây có người nào đó có nhiều thiên tư hơn , tại sao người ta chưa biết đến ấy. Phải chăng khiêm tốn mà như vậy?

      Holmes cười với tất cả chân tâm.

      - bạn thân mến! Đó là .

      - Thế sao ấy lại nổi danh.

      - ấy rất nổi tiếng tại Câu lạc bộ.

      - Câu lạc bộ nào?

      - Câu lạc bộ Diogenes.

      Tôi hoàn toàn biết gì về hội quán đó. Holmes rút đồng hồ trong túi ra:

      - Câu lạc bộ Diogenes là hội quán kỳ lạ nhất ở London, và Mycroft luôn luôn đến đó trong khoảng từ 4 giờ 45 đến 7 giờ 40. Bây giờ là 6 giờ, ta đến đó chơi.

      Năm phút sau, chúng tôi ra ngoài đường. Holmes :

      - ngạc nhiên khi thấy Mycroft có khả năng suy diễn giỏi hơn tôi nhưng trở thành thám tử chứ gì? Tôi xin trả lời thắc mắc đó: Mycroft thể làm thám tử được,..

      - Nhưng là...

      - ... ấy quan sát và suy diễn giỏi hơn tôi. Nếu nghệ thuật của nhà thám tử chỉ gồm có mỗi việc ngồi nhà mà suy luận tôi cảnh sát giỏi nhất đời. Nhưng tiếc thay, ấy lại thiếu tham vọng và nghị lực. chẳng buồn bỏ công kiểm tra những điều khám phá được. Tôi thẩm vấn vài vụ và giúp tôi thành công.

      - Như vậy, đó phải là nghề của ấy hay sao?

      - , đó chỉ là thú tiêu khiển của ấy mà thôi. Nhờ có năng khiếu khác thường về những con số, được người ta mời vào việc kiểm tra tài khoản trong các bộ. làm việc đều đặn như cái đồng hồ: sáng tới Câu lạc bộ, chiều trở về nhà... Suốt năm, làm bất cứ việc nào khác và chẳng cần xuất ở bất cứ nơi nào, ngoại trừ Câu lạc bộ Diogenes, nằm ngay trước nhà của .

      - Câu lạc bộ đó rất xa lạ với tôi.

      - Đương nhiên. ở London có nhiều người thích giao du với ai cả. Câu lạc bộ Diogenes được lập ra để giành riêng cho những người ấy. thành viên nào của Câu lạc bộ Diogenes chịu quan tâm tới bất kỳ bạn đồng nào. Ngoại trừ trong phòng khách dành cho người lạ, còn ai được chuyện, dù với bất cứ lý do nào; vi phạm tới lần thứ ba, kẻ ba hoa đó có thể bị trục xuất. tôi là trong những người sáng lập ra Câu lạc bộ đó.

      Vừa vừa , lát sau chúng tôi tới Pall Mall. Holmes dặn tôi giữ yên lặng, rồi trước, dẫn tôi vào trong tiền sảnh. Qua tấm vách bằng kính, tôi thấy phòng rộng mênh mông và bày biện đồ đạc sang trọng, bên trong có nhiều người, mỗi người ngồi ở góc, đọc nhật báo, hoặc tạp chí. Holmes đưa tôi tới phòng khách hơn, để tôi ở đó phút, rồi trở lại cùng với người; có thể đó là của Holmes.

      Mycroft lớn hơn và mạnh khỏe hơn Holmes nhiều, cặp mắt xám lợt, tia nhìn sắc sảo, sâu thẳm, tràn ngập linh hoạt.

      - ”Tôi sun sướng được gặp ông, thưa ông“, Mycroft với tôi trong lúc chìa ra bàn tay rộng.“ Tôi nghe thiên hạ nhắc tới Sherlock ở khắp nơi kể từ khi ông viết về chú ấy báo“. Quay sang phía Holmes, tiếp“ à, tuần qua, có ý mong gặp chú về cái vụ Manor House. Chú bị khó khăn, phải thế ?“

      - . Em giải quyết xong vụ đó rồi. _ Holmes cười, trả lời.

      - Đúng là Adams.

      - Phải, chính .

      - tin chắc ngay từ đầu mà.

      Hai em ngồi bên nhau trong chỗ khuôn cửa sổ nhô ra. Mycroft tiếp:

      - Đây là nơi lý tưởng cho kẻ nào muốn tìm hiểu nhân loại. Hãy nhìn những cái mẫu tuyệt đẹp kia mà coi! Hãy nhìn hai gã về hướng chúng ta.

      - Người ghi điểm billiard và người kia?

      - Phải. Chú nghĩ sao về người kia?

      Hai người kia dừng lại ngay trước khuôn cửa sổ, trong hai người có vài vết phấn viết bảng túi áo gi-lê. Người kia rất con, tóc nâu, đội cái nón hất về đằng sau và dưới cánh tay có cắp nhiều gói đồ.

      - cựu quân nhân.

      - Và mới vừa được giải ngũ - Mycroft nhận xét.

      - ta phục vụ bên Ấn Độ.

      - Như hạ sĩ quan.

      - Trong pháo binh.

      - Và góa vợ.

      - Nhưng có đứa con, chú nó. Nhiều đứa con.

      - Coi nào. Điều đó hơi quá đáng chăng. - Tôi cười, xen vào.

      - người có cái tư thế đó, cái dáng và quyền thế đó và cái da bị mặt trời nung đó, ta phải là ” quân nhân“ có ”cấp bậc hạ sĩ quan“ và ‘từ Ấn Độ trở về“. - Holmes hơi.

      - Ông ta vừa mới được giải ngũ bởi vì giờ ông ta vẫn còn ”mang giày nhà binh“. - Mycroft giải thích.

      - Ông ta lối của kỵ binh, ấy thế mà ông ta lại đội mũ lệch sang bên, bởi vì bên vầng trán có màu sậm hơn bên kia; thân hình ông ta phải là của công binh. Vậy ông là ”lính pháo binh“ - Holmes tiếp.

      - Ông ta có tang lớn: chúng ta có thể suy diễn ra là ông ta mất ai đó rất gần gũi. Việc phải mua sắm chứng tỏ là ”vợ ông chết“. Ông ta mua nhiều món linh tinh cho các con. Có cái lúc lắc cho con nít chơi, vậy là trong những đứa con ông ta còn rất . Vợ ông ta hẳn từ trần từ khi sinh con. Việc ông ta kẹp dưới cánh tay cuốn truyện tranh cho thấy là ”ông ta còn có đứa con khác“.

      Tôi bắt đầu tin rằng Mycroft quả có nhiều thiên tư sắc bén hơn Holmes. Holmes liếc mắt nhìn tôi và mỉm cười. Mycroft :

      - Này chú, người ta vừa đưa tới vấn đề rất hợp với chú. có can đảm nghiên cứu nó tận tường, nhưng nếu chú muốn nghe.

      - Em rất vui sướng!

      Mycroft viết vài dòng chữ tờ giấy, goi chuông, rồi đưa lá thư cho người hầu.

      - Tôi mời ông Melas lại đây. Ông ấy ở tầng lầu bên lầu tôi, tôi chỉ biết sơ thôi. Đó là nhà ngữ học người Hy Lạp, làm thông ngôn trong các tòa án và làm hướng dẫn cho những tay nhà giàu Đông Phương.

      lát sau, người thấp và béo lùn đến, ông ta có nước da màu ôliu và mái tóc đen. Ông nồng nhiệt siết tay Holmes.

      - ”Cảnh sát chẳng bao giờ tin những lời khai của tôi“, ông bằng giọng giễu cợt.“Họ cho rằng tôi phịa ra câu chuyện đó“.

      - Tôi vểnh tai lên mà nghe ông đây! Holmes .

      - ”Chuyện xảy ra vào ngày hôm kia. Tôi biết rất nhiều thứ tiếng. Nhưng vì tôi là người Hy Lạp nên được cầu dịch tiếng Hy Lạp nhiều hơn cả. Tôi thường bị gọi vào những lúc ”ngoài giờ“ vì du khách tới muộn. Buổi tối ngày thứ hai, ông Latimer tới giật chuông nhà tôi và cầu tôi theo ông trong cỗ xe ngựa thuê đợi trước cửa.

      - ” người Hy Lạp tới gặp tôi để bàn công việc làm ăn“, ông ta bảo tôi, ” người ấy chỉ được tiếng mẹ đẻ. Ông ta ngụ trong vùng Kensington“.

      ” Trong chiếc xe ngựa sang trọng, ông Latimer ngồi trước mặt tôi. Xe ngang qua bùng binh Charing và đại lộ Shaftessbury, khi tới đường Oxford, tôi đánh liều đưa ra ý kiến nên cho xe theo con đường ngắn nhất để tới Kensington, nhưng tôi ngưng bặt trước thái độ bất thường của người khách.

      ”Ông ta rút ra khỏi túi cây dùi cui rất lớn và khua nó nhiều lần, tựa hồ như ông ta muốn thử sức nặng của nó. Rồi ông ta đặt nó xuống bên cạnh. Sau đó ông ta kéo kính ở hai bên xe lên: các kính đó được dán giấy kín đến mức tôi chẳng còn trông thấy gì còn ở bên ngoài.

      - ”Rất tiếc phải che mắt ông bạn lại, thưa ông Melas!“ ông ta .“ Chúng tôi muốn cho ông biết nơi ông tới, để ông khỏi bị rắc rối về sau“.

      ”Tôi hoàn toàn choáng váng. Latimer còn trẻ, cường tráng với những bờ vai rộng. Ngay cả khi ta có vũ khí nữa, tôi cũng thể nào địch nổi ta.

      - Đây là cách cư xử rất khác thường. - Tôi ấp úng .

      - ”Tôi suồng sã đối với ông“. ta trả lời tôi. ”Nhưng tôi đền bù cho ông. Tuy nhiên, tôi phải báo trước, nếu ông tìm cách báo động hoặc làm bất cứ điều gì chống lại tôi ông hối hận đấy“!

      ta bằng giọng trầm tĩnh, nhưng rất ư đe dọa. Tôi lặng thinh, ngừng tự hỏi vì sao bắt cóc tôi. Nhưng ràng mọi kháng cự đều vô ích.

      ”Xe chạy gần hai tiếng đồng hồ và tôi hề biết hướng xe . Thỉnh thoảng tiếng ầm ầm của bánh xe lăn cho tôi biết xe chạy mặt đường lát: nhiều lúc xe chạy êm ru, gợi ra mặt đường trải nhựa. ánh sáng lọt được qua cửa kính bị dán giấy và tấm ri-đô màu xanh được kéo phủ tấm kính ở đằng trước. Chúng tôi rời Pall Mall vào hồi 7 giờ kém 15 và dừng lại vào lúc 9 giờ kém 10. Chàng trai hạ kính xe và tôi nhận ra vòm cổng ngọn đèn lồng thắp sáng. Khi tôi xuống xe cổng mở ra.

      ”Trong nhà có cây đèn mà ngọn lửa quá đến mức tôi chỉ vừa đủ phân biệt được gian tiền sảnh lớn, có trang hoàng nhiều họa phẩm. Tôi cũng quan sát thấy người ra mở cửa là người đàn ông trạc năm mươi tuổi, bé gầy gò, đôi vai còng, mắt kiếng. Ông ta hỏi.

      - Có phải ông Melas đấy , Harold?

      - Phải.

      - Xin ông đừng giận chúng tôi, chúng tôi rất cần đến ông. Nếu ông xử đàng hoàng ông có gì phải hối tiếc cả.

      ”Ông ta cách đứt khúc, với nhiều tiếng cười cắt ngang mỗi câu . Tôi thú nhận là tôi sợ ông ta hơn là sợ người thanh niên.

      - Ông muốn gì nơi tôi?

      - Chúng tôi nhờ ông phiên dịch. Dịch chính xác và được thêm bớt tí gì cả.

      ”Ông ta lại phát ra tiếng cười nho , rồi mở cánh cửa ra và đưa tôi vào căn phòng rộng rãi, tấm thảm rất dày, ghế bành bọc nhung, cái lò sưởi cao màu trắng. Dưới ngọn đèn có cái ghế dựa: người lớn tuổi mời tôi ngồi xuống đó. Người trẻ tuổi ra khỏi phòng, nhưng rồi ta quay lại qua ngả cửa khác, dẫn theo nhân vật mặc loại áo ngủ rộng và bước chậm chạp. Khi người đó tới trong vùng ánh sáng, tôi thấy ông ta cực kỳ tái mét, gương mặt hốc hác, đôi mắt lồi ra, mặt ông ta quấn chằng chịt nhiều lớp vải mỏng có phết hồ dán: ngay cả cái miệng cũng bị che kín bằng dải rộng làm cho miệng ông bị nghẽn kín hoàn toàn.

      ”Cậu có cái bảng đó , Harold?’ người lớn tuổi kêu lên trong lúc người bị quấn vải buông rơi mình xuống cái ghế dựa. ” cởi trói cho ông ấy chưa? Tốt. Đưa cho ông ấy cây viết chì. Chúng tôi đặt ra những câu hỏi, thưa ông Melas, và ông ấy viết ra các câu trả lời. Trước hết, xin ông hỏi xem ông ấy có sẵn sàng ký giấy “.

      - Đôi mắt người lạ phóng ra những tia lửa. bao giờ ông ta chịu viết bảng đen.

      - ký với bất cứ điều kiện nào hay sao? - Tôi dịch, sau khi bọn kia nêu ra câu hỏi.

      - Tôi chỉ ký khi mà ấy làm lễ cưới trước mặt tôi, do linh mục Hy Lạp mà tôi quen biết đứng chủ lễ.

      Người nọ thốt ra nụ cười hiểm độc:

      - Thế , biết cái gì chờ đợi chứ?

      - Tôi chẳng sợ cái gì cả.

      ”Đó là mẩu những câu hỏi và câu trả lời trong cuộc chuyện kỳ lạ, phân nửa hỏi, phân nửa viết. cách đều đặn, tôi phải hỏi xem ông ta có chịu nhượng bộ và ký tên vào bản cam kết . Cũng kém đều đặn, tôi luôn luôn nhận được câu trả lời phẫn nộ. Nhưng ngay sau đó ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi tự ý thêm những câu ngắn (do chính mình nghĩ ra) vào sau những câu hỏi: thoạt đầu vô hại, ngõ hầu để thử xem hai tay bạo ngược đó có biết chút ít tiếng Hy Lạp . Khi thấy chúng có phản ứng nào, tôi chơi bạo hơn. Cuộc đối thoại của chúng tôi lúc đó giống như thế này:

      - chẳng được lợi ích nếu cứ ngoan cố mãi. Ông là ai?

      - Tôi cóc cần. Tôi là người lạ ở London.

      - Ông thí mạng đó. Ông ở đây từ bao lâu?

      - Thây kệ. Ba tuần.

      - Những của cải đó bao giờ còn thuộc về ông nữa. Ông bị đau ra sao?

      - Của cải rơi vào tay bọn vô lại. Bọn chúng bỏ đói tôi.

      - Ông được tự do, nếu như ông chịu ký. Nhà này là nhà nào?

      - Tôi bao giờ ký. Tôi biết.

      - Ông chẳng giúp ích được chút nào cho ấy đâu. Ông tên là gì?

      - ấy cứ việc đến đây cho tôi biết! Kratides.

      - Ông gặp ấy nếu ông chịu ký. Ông từ đâu tới.

      - Thế tôi chẳng bao giờ gặp lại ấy. Từ Athènes

      Thưa ông Holmes, chỉ cần thêm năm phút nữa là tôi có thể làm sáng tỏ câu chuyện, nhưng ngay lúc đó, cánh cửa lại mở ra và người đàn bà bước vào. ta cao, mảnh mai, tóc nâu và mặc cái áo trắng rộng thùng thình. - ”Harold“, ta kêu lên với tiết tồi. ”Em thể ở nơi đó được nữa. Em cảm thấy quá đơn. ồ, Paul đây mà!’

      ấy câu sau chót bằng tiếng Hy Lạp. Cùng lúc, nạn nhân trong nỗ lực mạnh mẽ, bứt lớp vải mỏng có phết hồ dán đôi môi ra và hét lên:

      - Sophy! Em!

      ”Ông lao vào trong vòng tay người phụ nữ. Hai người chỉ ôm nhau trong thoáng, bởi vì người trẻ tuổi nắm lấy người đàn bà, đẩy ra khỏi phòng, trong lúc người già kia túm lấy người tù nhân và dẫn ra ngã cửa kia. Còn lại mình tôi. Tôi đứng lên, suy nghĩ xem tôi có thể nào tìm ra nơi đây là đâu. Nhưng may là tôi động đậy. Vừa ngước mắt lên, tôi thấy người đứng tuổi quan sát tôi.

      - Thế là đủ rồi, ông Melas! Chúng tôi đánh giá cao những phẩm chất của ông.

      Tôi nghiêng mình.

      - ”Đây là 5 sovereigns“. Ông ta , khi tiến lại bên tôi. ” món thù lao trọng hậu. Nhưng ông hãy nhớ đấy!“ Ông ta thêm, tay vỗ lên vai tôi và buông ra tiếng cười nho .“ Nếu ông ra chuyện này với bất cứ ai... với bất cứ ai, ông nghe chưa? lúc đó Chúa cũng cứu nổi ông. Xe chờ ông“.

      Tôi gần như bị ném ra căn phòng ngoài, rồi vào trong cỗ xe. lần nữa tôi lại thấy cây cối và thửa ruộng. Gã Latimer ngồi trước mặt tôi. Sau chuyến bất tận, chúng tôi dừng lại:

      - Ông hãy xuống đây, thưa ông Melas. Tôi rất tiếc phải bỏ ông xuống cách nhà ông quá xa, nhưng tôi được quyền chọn lựa.

      ta mở cánh cửa xe và tôi có vừa đủ giờ để nhảy xuống, bởi vì người đánh xe quất roi vào con ngựa và cỗ xe phóng nhanh. Tôi nhìn chung quanh, thấy mình ở trong đồng cỏ, rải rác có những bụi kim tước. Đằng xa có dãy nhà, rải rác đó đây những ánh sáng hắt ra ngoài khuôn cửa sổ những tầng lầu. Nhìn về phía bên kia, tôi thấy những tín hiệu đèn đỏ của đường sắt.

      ”Cỗ xe vượt ngoài tầm mắt. Tôi phân vân biết mình ở đâu chợt thấy người tiến tới. Đó là phu khuân vác ở nhà ga.

      - Xin ông vui lòng cho tôi biết đây là đâu?

      - Hạt Wandsworth.

      - Làm sao đáp tàu London.

      - Cách đây hai cây số. Nếu nhanh còn kịp chuyến chót.

      ” Thưa ông Holmes, chuyến phiêu lưu của tôi kết thúc như vậy đó“.

      Chúng tôi ngồi yên lặng hồi lâu. Sau cùng Holmes liếc sang Mycroft.

      - có thấy hướng điều tra nào ? Mycroft lấy tớ báo Daily News mặt bàn:

      - ” phần thưởng được tặng cho người nào biết chỗ ở của công dân Hy Lạp tên là Paul Kratides, từ Athènes tới; và là người biết tiếng . phần thưởng khác được đổi lấy bất cứ tin tức nào liên quan đến phụ nữ Hy Lạp tên là Sophy. Trả lời về X2473. Tất cả các nhật báo đều đăng lời nhắn tin này. Cho tới nay chưa có hồi “.

      - Thế còn đại diện của nước Hy Lạp?

      - Tôi tới hỏi thăm. Người ta chẳng biết gì hết.

      - bức điện gửi cho cảnh sát ở Athènes, thế nào?

      - Sherlock có tất cả nghị lực của gia đình“ Mycroft với tôi. ”Vậy , hãy nhận lấy trách nhiệm và hãy báo cho biết tin, nếu chú thành công“.

      - Em báo tin cho biết cũng như báo cho ông Melas . Trong khi chờ đợi, thưa ông Melas, ông hãy đề phòng cẩn thận.

      đường, Holmes dừng lại bưu cục và đánh nhiều bức điện tín.

      - Watson, chúng ta lãng phí buổi tối nay.

      Vấn đề này có vài dữ kiện kém tầm thường.

      - giải quyết được chứ?

      - Khi biết được phân nửa mà khám phá ra nốt phần còn lại, còn bất hạnh nào hơn!

      - Hy Lạp đó bị chàng trai người tên là Harold Latimer bắt cóc - Tôi .

      - Bắt cóc từ đâu?

      - Từ Athènes.

      Sherlock lắc đầu :

      - Người thanh niên đó được tiếng Hy Lạp, còn được tiếng . Vậy là ta sống trong thời gian ở nước , nhưng còn sang Hy Lạp.

      - Được. Thế chúng ta giả thiết rằng ấy lưu lại nước và gã lưu manh dụ dỗ được ta. - Tôi .

      - Rất có lý.

      - ruột ta tới nước để can thiệp, nhưng ông rơi vào tay bọn chúng. Chúng giam giữ ông, dùng vũ lực buộc ông phải ký vào văn kiện chuyển tài sản của cho chúng, bởi vì ông ta là người quản lý tài sản đó. Ông từ chối. Để có thể đạt tới thoả hiệp, chúng cần có người thông ngôn và chúng chọn ông Melas, sau khi dùng người khác từ trước đó. biết là tới đây và chỉ biết được kiện này nhờ tình cờ.
      - ”Hoan hô, Watson“. Holmes kêu lên. gần đoán ra.“ Chúng ta nắm tất cả mọi quân bài, chỉ còn lo ngại chúng dùng bạo lực“.

      - Làm sao tìm ra sào huyệt chúng“.

      - Nếu tên là Sophy Kratides, chúng ta dễ dàng tìm ra . Bởi vì gã Harold làm quen với ít ra được vài tuần. Nếu họ ở cùng nơi tin nhắn của Mycroft được hồi .

      Chúng tôi về tới nhà Holmes lên cầu thang trước và cửa mở, rất ngạc nhiên khi thấy Mycroft ngồi trong ghế bành và bình thản hút thuốc.

      - Vào , Sherlock. Hãy vào , ông Watson“. Mycroft , khi thấy chúng tôi. ”chú ngờ là tôi chịu dấn thân vào vụ này, phải thế Holmes? Vụ này làm tôi thích thú“.

      - đến đây bằng gì?

      - Xe ngựa.

      - Có tin gì mới chăng?

      - nhận được hồi .

      - A!“

      - Phải, thư trả lời tới vài phút, sau khi các chú ra về.

      - Thư gì?

      - Mycroft rút ra tờ giấy.

      - Nó đây này. Tôi xin đọc nhé. ”Thưa ông, để trả lời cho tin nhắn của ông về ngày hôm nay, tôi cho ông biết rằng tôi hiểu rất về người phụ nữ ấy. Nếu ông đến gặp tôi, tôi cho ông biết vài chi tiết liên quan tới câu chuyện đau buồn của ấy. nay ở tại biệt thự Myrtles tại Beckenham. người bạn tận tâm của ông J.DavenPorlockt“. Ông ấy viết từ Hạ Brixton. Này Holmes, em có nghĩ rằng chúng ta nên tới ?

      - Mạng sống của ta quan trọng hơn câu chuyện đau buồn của ta. Chúng ta cần tới ngay Scoland Yard để tìm thanh tra Gregson và cùng nhau tới Bekenham. cái chết được tính từng giờ!

      - Chúng ta tới rủ ông Melas cùng. Biết đâu chúng ta chẳng cần tới người thông ngôn. - Tôi gợi ý.

      - Ý kiến tuyệt vời!“ Holmes .“ Hãy sai người tới cỗ xe“.

      Holmes mở ngăn kéo và nhét khẩu súng lục vào túi.

      - ”Phải“, để trả lời cho tia nhìn của tôi. ”Chúng ta phải đối phó với băng nhóm đáng sợ“.

      Màn đêm buông xuống khi chúng tôi tới Pall Mall. chúng tôi gọi chuông căn hộ của ông Melas.

      - Bà vui lòng cho tôi biết ông Melas có ở nhà ? - Mycroft hỏi.

      - Tôi biết ông đâu“, người đàn bà mở cửa cho chúng tôi trả lời.“ Tôi chỉ biết là ông ấy ra cùng với ông trong cỗ xe“.

      - Ông kia có xưng tên ?

      - , thưa ông.

      - Có phải người đó là thanh niên tóc nâu, vạm vỡ?

      - Đó là người con, mang mắt kiếng, gày gò nhưng rất ngộ nghĩnh: ông ta cứ cười luôn trong khi .

      - ” thôi!“ Holmes kêu lên với chúng tôi. ”Chuyện nghiêm trọng lắm rồi“!

      Trong lúc chúng tôi cho xe chạy tới trụ sở của Scotland Yard, với chúng tôi:

      - Bọn cướp bắt cóc Melas, rất có thể là chúng còn cần tới ông. Nhưng sau khi dùng ông xong rồi, chúng trừng phạt ông.

      Tới Scoland Yard, phải mất giờ, chúng tôi mới tiếp xúc được với thanh tra Gregson, rồi sau đó vội vã tới ngay biệt thự Myrtles: ngôi nhà lớn tối tăm, nằm thửa đất cách xa đường. Sau khi cho xe ngựa về, chúng tôi lối vào nhà.

      - Các cửa sổ đều có ánh đèn vào cái tổ trống trơn. - Holmes .

      - Tại sao lại vậy?

      - Cách đây gần tiếng đồng hồ, cỗ xe chở đầy hành lý ngang qua đây: nó từ trong nhà chạy ra.

      Viên thanh tra cất tiếng cười vang:

      - Ngọn đèn ở hàng rào chỉ cho tôi thấy những vết bánh xe, nhưng còn hành lý ...

      - Ông hãy quan sát những vết của cùng những bánh xe đó, trong chiều ngược lại: những vết ra cánh đồng hằn hơn trong nền đất. Vậy là xe phải chịu đựng trọng tải nặng hơn rất nhiều.

      - ”Thế là ông xa hơn tôi“, viên thanh tra nhún vai mà trả lời. ”Cánh cửa này chẳng dễ gì mở được. Nhưng trước hết, chúng ta hãy thử gọi cửa xem sao?

      Ông dùng búa gõ rất dữ dội, giật mạnh dây chuông, nhưng có kết quả. Holmes lỉnh . Vài phút sau, trở lại, :

      - cửa sổ mở.

      - ” may mà lại đứng về phía cảnh sát ...“ viên thanh tra quan sát và khâm phục cái cách mà Holmes nạy then móc cửa sổ ra. Chúng ta có thể vào nhà mà cần được mời“.

      Chúng tôi lần lượt vào trong gian phòng lớn, hiển nhiên là nơi ông Melas được đưa vào. Viên thanh tra thắp đèn. bàn có hai cái ly, chai brandy cạn và vài món ăn dư. - Cái gì vậy nhỉ? - Đột nhiên Holmes hỏi.

      Chúng tôi giỏng tai lên nghe ngóng, đứng bất động. Từ nơi nào đó lầu vọng xuống tiếng rên rỉ , nghẹn. Holmes vội leo lên, viên thanh tra và tôi bám theo bén gót, Mycroft cũng đuổi theo chúng tôi.

      Lên tới thềm cầu thang lầu hai, chúng tôi thấy có ba cánh cửa: tiếng kêu xé ruột phát ra từ phía sau cánh cửa giữa. Cánh cửa bị đóng, nhưng chìa khóa lại cắm ở bên ngoài. Holmes mở cửa, lao vào, nhưng rồi quay ra ngay sau đó và giơ tay chặn lấy cuống họng.

      - ”Khói quá!“ kêu lên. ”Chúng ta chờ chút“.

      Liếc vào bên trong, chúng tôi thấy ở giữa phòng có ngọn lửa xanh, bốc lên từ cái giá ba chân đồng. Ngọn lửa vẽ sàn nhà vòng tròn , nhợt nhạt; chúng tôi nhận ra hai bóng người co quắp dựa vào tường. Holmes leo lên bậc thang cao để hít thở khí ít khói, đoạn trở vào phòng, mở cửa sổ ra và liệng cái giá ba chân nóng rực xuống dưới vườn.

      - Trong phút nữa, chúng ta có thể vào được“, hổn hển khi trở ra ngoài. ”Làm sao có ngọn nến nhỉ“ khí như vầy thể đánh diêm quẹt được. Mycroft, hãy cầm lấy cây đèn lồng đứng ngay cửa, rọi sáng để chúng tôi khiêng họ ra ngoài. Nào! Chúng ta xông vào!“

      Chúng tôi nín thở, túm lấy những kẻ bất bạnh, lôi họ ra ngoài cầu thang. Cả hai đều bất tỉnh. trong hai người là viên thông ngôn Hy Lạp. Ông bị trói ở chân và ở tay, con mắt sưng vù. Người kia cũng bị trói tương tự, cao và gầy trơ xương, mặt ông ta trông kỳ quái với những dải vải mỏng có phết hồ dán. Khi chúng tôi đặt ông ta xuống đất ông ta ngừng rên rỉ: ông chết, Melas còn sống.

      Câu chuyện của Melas rất đơn giản: người khách đến kêu cửa, khi nhìn thấy cây dùi cui, ông khiếp sợ, đành để cho bị bắt cóc lần thứ hai, bị đem về Beckenham và phải làm thông ngôn cho cuộc đối thoại còn bi thảm hơn cuộc chuyện lần đầu: Sau chót, thấy thể nào lay chuyển được còn mồi, chúng đưa ông về chỗ giam cũ. Sau khi với ông Melas rằng chúng đọc được tin nhắn các báo; chúng nện cú dùi cui, và ông bị ngất ... cho tới lúc chúng tôi đến cứu ông.

      Chúng tôi khám phá ra được vụ này nhờ người viết thư ở Hạ Brixton. Người này cho biết rằng thiếu phụ bất hạnh thuộc gia đình Hy Lạp giàu có và sang nước ở chơi nơi nhà bạn bè. gặp Harold, gã này thuyết phục bỏ trốn theo y. Các bạn ngao ngán báo tin cho ở Athènes rồi sau đó họ còn bậm tâm gì nữa. Nhưng khi vừa tới nước , của rơi vào tay Harold và Wilson Kemp. Hai tên lưu manh đó giam giữ ông và ra sức ép buộc ông ký tên vào văn kiện chịu từ bỏ tài sản của hai em ông. Chúng giam giữ ông và ngụy trang ông bằng những dải vải mỏng có phết hồ dán, ngỡ tưởng em

      nhận ra người , trong trường hợp nhìn thấy ông. Tuy nhiên, cái trực giác của người đàn bà giúp nhận ra mình. Thế là đến phiên bị cầm giữ trong nhà người đánh xe ngựa và vợ y. Khi hai tên bất lương biết rằng bí mật của chúng bị phát giác và người bị chúng giam khăng khăng chịu ký tên, chúng bỏ trốn cùng với . Nhưng trước khi bỏ , chúng ra tay trả thù con người cả gan thách thức chúng.

      Vài tháng sau, bản tin kỳ lạ đánh từ Budapest được đăng các báo. Tin cho hay hai người du hành cùng thiếu phụ kết cuộc bi thảm. Cả hai người đàn ông đều bị đâm chết. Cảnh sát Hungary cho rằng hai người đó gây lộn với nhau và giết nhau... Holmes cho rằng những nối thống khổ của hai em người Hy Lạp được trả thù.

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      3. Kẻ dị dạng
      M
      ột buổi tối, tôi ngủ gà ngủ gật cuốn tiểu thuyết. Nhà tôi lên lầu. Tiếng then cài cánh cửa ra vào báo cho tôi biết là những người giúp việc lui về. Tôi còn chờ thêm chút nữa rồi mới đứng lên khỏi ghế. Đúng vào lúc đó, tiếng chuông vang lên.

      Tôi nhìn đồng hồ: 11 giờ 45. Muộn thế này chỉ có thể là khách, ca bệnh làm tôi phải thức thâu đêm. Hơi cáu kỉnh, tôi ra phòng ngoài dể mở cửa: Sherlock Holmes

      - A Watson! - reo lên. - Tôi đến thăm quá muộn.

      - Có gì đâu. Vào chứ!

      - tỏ vẻ ngạc nhiên... có thể cho tôi ngủ nhờ đêm nay ?

      - Sẵn sàng. ăn tối?

      - , xin cảm ơn, tôi dùng rồi, ở ga Waterrloo.

      Tôi đưa cái túi đựng thuốc cho . im lặng hút. Tôi biết là chỉ có vụ quan trọng mới có thể đưa tới đây vào giờ muộn như vậy. Vậy là tôi kiên nhẫn chờ vào chuyện.

      - Ngày mai tới Aldershot được ?

      - Tôi nhờ bác sỹ bạn thay tôi chăm sóc các bệnh nhân.

      - Tốt lắm! Tôi muốn đáp chuyến tàu 11 giờ 10 ở ga Waterloo.

      - Rất thuận tiện cho tôi.

      - Vậy , nếu chưa buồn ngủ, tôi xin tóm tắt những việc và những gì cần làm.

      - Trước khi tới, tôi ngủ gà ngủ gật nhưng bây giờ hoàn toàn tỉnh táo.

      - Đó là vụ ám sát đại tá Barkerclay thuộc sư đoàn Royal Munsters ở Aldershot. việc xảy ra cách đây hai ngày.

      "Royal Munsters là trong những trung đoàn Ailen nổi tiếng trong quân đội . Tối thứ hai vừa qua, trung đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá James Barkerclay, lính già can đảm được lên lon nhờ vào lòng dũng cảm. Barkerclay lấy vợ khi ông còn là trung sĩ. Ông kết hôn với Nancy Devoy, con thượng sĩ Devoy trong cùng đơn vị. Vợ chồng Barkerclay thích nghi mau chóng với địa vị mới của họ. Bà vợ sống ăn ý với các bà vợ sĩ quan cũng như chồng bà đối với các bạn đồng đội. Tôi xin thêm bà là phụ nữ rất đẹp và cho mãi đến bây giờ, sau ba chục năm lập gia đình, xuất của bà còn gây ấn tượng mạnh."

      "Thoạt nhìn, cặp vợ chồng này được hưởng hạnh phúc hiền hòa. Tôi đến hỏi ông thiếu tá Murphy, ông này đoán chắc với tôi là ông chẳng bao giờ thấy có bất hòa trong gia đình đó. Tôi hỏi ông cặn kẽ hơn. Thiếu tá rằng gắn bó của ông Barkerclay đối với vợ lớn mạnh hơn là gắn bó của bà Barkerclay đối với chồng. Nếu phải xa vợ trong ngày, ông rất buồn phiền; nhưng bà vợ chứng tỏ mãnh liệt đến thế. Dẫu sao, trong trung đoàn, họ vẫn được coi như là cặp vợ chồng lý tưởng."

      "Dường như là đại tá Barkerclay có tính khí khác thường. Bình thường, ông là quân nhân già, vui tính, hăng hái. Nhưng đôi khi ông cũng hung bạo và thù hằn. Tuy vậy, bà vợ bao giờ chịu đựng những tật xấu đó. Có điều khác là: theo định kỳ, tâm trạng gì đó như trầm uất lại giáng xuống ông. Viên thiếu tá mà tôi hỏi chuyện ghi nhận điều đó và họ lấy làm ngạc nhiên. Nó theo ông thiếu tá nụ cười biến mất mặt ông Barkerclay tựa hồ như có bàn tay vô hình xua đuổi nó. Và các tượng đó xảy ra trong những buồi họp mặt xã giao cũng như tại bàn ăn của sĩ quan ở đơn vị. Có khi trong nhiều ngày liên tục, ông như bị giày vò bởi ưu sầu đen tối nhất."

      "Tiểu đoàn 1 (trước là tiểu đoàn 117) trung đoàn Royal Munsters hạ trại tại Andershot từ vài năm qua. Các sĩ quan lập gia đình ngủ ngoài doanh trại. Ông đại tá chọn biệt thự Lachine, cách trại bắc chưa tới nửa dặm, nhưng mặt nhà phía tây cách đường cái 30 yard. Gia nhân gồm có bác xà ích và hai người hầu . Vợ chồng Barkerclay con, rất ít khi tiếp khách trong nhà. Tóm lại, có năm người sống trong biệt thự đó."

      "Bà Barkerclay là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Bà rất bận rộn với Hội Thánh Georges và hết lòng với việc lo cấp quần áo cho những người nghèo trong vùng. Tối hôm đó, buổi họp được khai mạc vào lúc 8 giờ. Bà vội vàng ăn bữa tối để kịp họp. Khi rời khỏi nhà, bà báo cho chồng biết là bà vắng mặt lau. Theo lời chúng của người xà ích, bà đón láng giềng còn trẻ Morrison, rồi cả hai cùng . Buổi họp kéo dài bốn mươi phút. Tới chín giờ mười lăm phút, bà cho ngừng xe để xuống trước cửa và về nhà ."

      "Ngôi biệt thự của đại tá có căn phòng được dùng làm phòng khách , có cửa hướng ra ngoài đường. Từ bên ngoài, muốn vào phòng đó phải băng qua bãi cỏ tròn, đường kính ba mươi mét. Nó được ngăn cách với con đường băng bức tường thấp, phía có gắn lưới sắt, bà đại tá vào nhà qua ngả đó. Bà thắp đèn và gọi chuông rồi sai hầu phòng đem tới tách trà: đó là điều trái ngược với những thói quen của bà. Ông đại tá ở lại trong phòng ăn; biết vợ mình về nhà, ông sáng phòng khách để gặp bà. Bác xà ích trông thấy ông ngang qua gian tiền sảnh rồi vào trong đó."

      "Mười phút sau khi được lệnh, hầu phòng đem trà lên cho bà chủ, ngạc nhiên nghe ông chủ và bà chủ cãi nhau kịch liệt. gõ cửa, có tiếng trả lời. muốn mở cửa nhưng cánh cửa bị khóa từ bên trong. hối hả chạy xuống bếp, báo động với bà bếp. Thế rồi hai người đàn bà cùng bác đánh xe vào trong gian tiền sảnh, gióng tai lên mà nghe cuộc cãi lộn. Cả ba người đều nhất trí rằng họ chỉ nghe thấy có hai giọng : giọng của ông đại tá và của bà vợ. Những câu của ông Barkerclay thô bạo, với giọng thất thanh, khiến người nghe hiểu được. Còn những câu của bà Barkerclay lại còn ác liệt hơn nữa: Ba người giúp việc ràng:" thằng hèn!" Bà ngớt lặp lặp lại câu đó. Và bà còn : Biết làm sao bây giờ? Hãy trả lại cho tôi được tự do! bao giờ ta còn có thể thở chung bầu khí với mi! Đồ hèn!“ Bất chợt người đàn ông hét lên tiếng khủng khiếp rồi tiếp đó là tiếng đổ ngã, tiếng thét xé tai của bà chủ. Bác đánh xe lao mình vào cánh cửa, cố sức bật nó ra. Bên trong những tiếng thét nối tiếp nhau. Người đánh xe phá được cánh cửa và hai người tớ lại quá lo sợ nên chẳng giúp được gì. ý kiến chợt lóe lên trong trí bác. Bác bỏ ra ngoài, vòng ngôi nhà, ngang qua bãi cỏ đó có mở ra cánh cửa sổ sát đất. Cửa mở rộng, bác vào trong phòng khách . Bà chủ ngưng kêu gào. Bà nằm im -văng; ông đại tá hai chân vắt ngang cái tay dựa của ghế bành, đầu gục xuống đất; ông chết trong vũng máu."

      "Người đánh xe định mở cửa ra. Nhưng chìa khóa có trong ổ khóa và cũng thấy để ở đâu trong căn phòng. Vậy là bác lại nhảy qua cửa sổ sát đất, mời cảnh sát và y sĩ, rồi trở lại. Bà Barkerclay được chuyển sáng phòng riêng của bà, vẫn còn hôn mê. Thi hài ông đại tá được đặt nằm dài ghế trường kỷ. Và người ta tiến hành cuộc điều tra."

      "Vết thương người nạn nhân là vết đứt dài 2 inch ở phía sau đầu, được gây ra bởi loại hung khí có mũi nhọn. sàn nhà, gần bên xác chết, người ta tìm thấy thứ như cây gậy ngắn bằng gỗ rắn, có cái cán bằng xương: Ông đại tá có bộ sưu tập lớn những khí giới mà ông đem về từ nhiều Quốc gia khác nhau, tại những nơi mà ông tham chiến. Cảnh sát cho rằng cây gậy đó là trong những vũ khí sưu tập của ông. Nhưng các gia nhân là trước đó, họ chưa từng trông thấy nó. Cảnh sát khám phá ra được điều gì khác. Và đây là việc quái lạ mà chưa ai có thể giải thích được: người bà Barkerclay, người nạn nhân, cũng như ở bấc cứ chỗ nào trong phòng khách , người ta thể tìm thấy cái chìa khóa. Cần phải gọi người thợ khóa từ Aldershot tới để mở cánh cửa ra. Trường tình hình bế tắc như vậy, thiếu tá Murphy mời tôi xuống Aldershot để phụ giúp cảnh sát."

      "Trước khi quan sát căn phòng, tôi thẩm vấn nhiều gia nhân, nhưng thâu đạt được gì hơn là những điều mà tôi vừa trình bày với . Tuy nhiên, hầu phòng có cung cấp cho tôi chi tiết đáng chú ý: số là khi nghe tiếng cãi cọ, ta xuống bếp và lên cùng với hai người đầy tớ khác. Nhưng rằng lúc đầu, khi chỉ có mình , những giọng của ông bà chủ bị nghẹt đến mức gần như chẳng thể nào hiểu được điều gì và rằng chính là do những ngữ điệu nhiều hơn là những tiếng hiểu ra rằng hai người cãi nhau. Tôi dồn dập đặt nhiều câu hỏi. Sau chót nhớ rằng có hai lần nghe thấy bà chủ thốt lên cái tên "David". Điểm đó có tầm quan trọng cao để soi sáng cho chúng ta về những nguyên cớ gây ra cãi vã."

      "Mội điều gây ra cảm tưởng sâu đậm cho mọi người là: những nét nhăn của ông đại tá. Theo lời chúng của họ, vẻ mặt ông có mọt nét biểu lộ khiếp sợ và kinh hoàng chưa từng thấy. ràng là ông biết mình sắp chết và rằng trông thấy cái chết làm cho ông kinh hoàng. Điều đó, phù hợp với lý thuyết của cảnh sát: ông đại tá hẳn thấy vợ mình chuẩn bị giết mình. Và cái việc cú đánh được giáng xuống từ đằng sau cũng mẫu thuẫn với lý thuyết đó, bởi vì ông đại tá rất có thể quay mình để né tránh cú đánh. Về phía bà Barkerclay, người ta tin tức nào cả. Bà bị cơn cấp phát sốt thuộc não và tạm thời bị mấy lý trí."

      "Cảnh sát cho biết là Morrison (người cùng với bà Barkerclay vào buổi tối hom đó), quả quyết là biết chút gì về nguyên cớ gây ra cơn tức giận của bạn mình. Watson, khi tập hợp những dữ kiện đó, tôi chú ý đến việc mất cái chìa khóa. Căn phòng đó được lục soát hết sức kỹ lưỡng mà chỉ uổng công. Do đó cái chìa khóa bị lấy. Nhưng cả ông đại tá lẫn bà vợ đều lấy. Vậy người thứ ba hẳn vào trong phòng và cái người thứ ba đó chỉ có thể vào được qua ngả cửa sổ sát đất."

      "Ngay tức khắc tôi tin rằng cuộc quan sát kỹ căn phòng khách và bãi cỏ có thể phát ra dấu vết nào đó của nhân vật bí mật kia. Tôi bỏ sót dấu vết nào. Và sau chót tôi tìm ra nhiều dấu vết. người ở trong căn phòng khách . Người đó qua bãi cỏ từ ngoài đường vào. Tôi phát 5 dấu chân rất : đường, ở nơi mà người đó leo lên đường, hai trênbãi cỏ, và hai ván sàn gần khuôn cửa sổ mà qua đó người lạ vào trong phòng. Chắc chắn là ngườiđó chạy băng qua bãi cỏ, bởi vì dấu những ngón chân sâu hơn dấu những gót chân. Nhưng phải người đó làm cho tôi ngạc nhiên đến bối rối. Chính là cái kèm với người đó."

      - Cái kèm?

      Holmes rút từ túi áo ra mọt tờ giấy lụa lớn và mở ra cách thận trọng đầu gối .

      - nghĩ sao về cái này?

      Tờ giấy phủ đầy những tranh vẽ phỏng sao lại những dấu chân con vật . Có năm ngón chân, có móng dài. Mỗi dấu lớn bằng cái muỗng dùng để ăn món tráng miệng.

      - Đây là con chó. - Tôi .

      - Con chó làm sao leo lên được những tấm ri-đô? Tôi phát ra những dấu vết này tấm ri-đô.

      - Thế con khỉ?

      - phải.

      - Thế là cái gì?

      - Đây là con chó, là con mèo, cũng chẳng là con khỉ, cũng chẳng là con vật nào mà ta biết. Tôi thử hình dung ra con vật đó theo các kích thước của dấu chân nó. Đây là bốn dấu chân ở nơi mà con vật đứng bất động. Giữa chân trước và chân sau cách nhau vào khoảng gần 15 inch. hãy thêm vào đó chiều dài của cái cổ và của cái đầu con vật mà chiều dài thân mình chưa tới 2 feet, và nó có thể còn ngắn hơn thế nữa, hoặc dài hơn nếu nó có cái đuôi. Nhưng khi con vật di chuyển, ta có chiều dài của bước chân nó. Dấu bước chân là 3 inch. Vậy là con vật này có cái thân mình dài với những chân rất ngắn. Tóm lại, đó là thú leo được lên tấm riđô và là con thú ăn thịt.

      - Làm sao mà suy diễn ra được điều đó?

      - Bởi vì ở khuôn cửa sổ có treo lồng chim hoàng yến. Dường như mục tiêu của nó khi leo lên ri-đô là để bắt con chim.

      - Thế con vật đó là gì?

      - Đó là loại chồn hạt dẻ, mõm nhọn, lớn hơn những con chồn mà tôi từng thấy.

      - Nhưng nó dính dáng gì đến tội ác?

      - Điều đó cũng lại tối tăm. Nhưng chúng ta biết là có người đứng đường và rình mò cuộc cãi vã của hai vợ chồng, bởi vì những mành sáo còn chưa buông xuống và ngọn đèn còn được thắp sáng. Chúng ta cũng còn biết là người đó dã chạy băng ngang bãi cỏ, vào trong phòng khách , có đem theo con thú bí mật, và y đánh ông đại tá (nếu , vừa lúc trông thấy y, ông đại tá té bật ngửa xuống thanh gác củi và bị tét đầu). Sau chót y bỏ với chiếc chìa khóa cửa.

      - Những khám phá của làm cho nội vụ tối tăm hơn, thay vì làm cho nó được sáng tỏ!

      - có lý! Nhưng tôi làm cho thức quá khuya! Vậy ngày mai, đường Aldershot, tôi kể tiếp.

      - Cảm ơn! cứ kể tiếp.

      - Khi ra khỏi nhà vào hồi bảy giờ rưỡi, bà Barkerclay giận hờn gì chồng; người đánh xe nghe bà chuyên với ông đại tá theo lối thân tình. Mặt khác, ngay sau khi về nhà, bà vào trong căn phòng và kêu người hầu pha trà; bất cứ người phụ nữ nào bị bồn chồn cũng đều làm như vậy, và ngay sau khi ông địa tác ra là bùng nổ. Thế mà Morrison rời khỏi bà trong suốt khoảng thời gian đó, cho nên mặc dù ta có chối cãi, nhưng chắc chắn có biết cái gì đó.

      "Ý nghĩ đầu tiên của tôi là có dan díu giữa Morrison và ông lính già, và này hẳn ít nhiều thổ lộ với người vợ. Điều đó giải thích về cơn tức giận khi trở về nhà cũng như những lời chối bỏ của trong cuộc. Và điều đó cũng mâu thuẫn lắm với những từ mà 3 người giúp việc nghe được. Nhưng lại có người tên là David, lại có trìu mến của ông đại tá đối với vợ, và sau chót còn có lẻn vào của người đàn ông khác. khó mà chọn ra đường để tiến hành điều tra. Dù sao nữa, tôi thiên về việc Morrison có "tình ý" với ông đại tá, nhưng tôi lại vững tin rằng chính ấy là người biết bí mật vì sao bà Barkerclay thình lình thay đổi tính khí. Vậy là tôi tìm tới nhà Morrison, giải thích rằng tôi tin chắc là biết những việc, và tôi báo cho biết là bà Barkerclay bị đặt vào ghế của bị cáo về tội ám sát chồng, nếu nội vụ được làm sáng tỏ.

      Morrison là , thanh khiết, có cặp mắt e lệ và mái tóc vàng hoe. Sau khi nghe chuyện, ngồi suy tư trong lúc, rồi quay sang phía tôi và với dáng vè của người quyết định dứt khoát:

      - Tôi hứa với bạn tôi rằng tôi ra bất cứ điều gì. Nhưng nay bà ấy lâm trọng bệnh và bờ của tù tội, vậy tôi thể làm thinh. Thưa ông, tối thứ hai đó chúng tôi từ Hội quán trở về. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ kém 15. Khi băng ngang qua đường Hudson - con đường rất lớn và rất yên tĩnh- tôi thấy người đàn ông tiến lại phía chúng tôi: lưng rất còng và đeo cái hộp chéo qua vai, đầu cúi thấp và bớc với hai đầu gối co gấp lạ. Ông ta ngước mắt lên đúng vào lúc chúng tôi bước vào trong cái vòng ánh sáng của ngọn đèn đường. Ngay tức khắc, ông ta đứng lại và kêu lên bằng giọng khủng khiếp:" Lạy Chúa tôi, đây đúng là Nancy!" Bà Barkerclay bỗng tái mét. Bà hẳn sụp xuống nếu con quái vật đó đỡ lấy bà. Tôi trực kêu cứ, nhưng bà lại dịu dàng với người đàn ông.

      - Henry, em cứ tin rằng chết từ 30 năm qua.

      - Tôi từng bị chết! - người kia trả lời.

      là kinh khủng khi nghe cái ngữ điệu trong tiếng của ông ta. Ông có bộ mặt rám nắng, đáng lo ngại, với ánh chói trong tia mắt. Tóc, râu má lấm tấm những sợi xám. Những nếp nhăn, những vết nhăn hằn mặt ông.

      - Hãy tiếp quãng, em ! - Bà Barkerclay bảo tôi. - Chị muốn chuyện với ông đây. có gì phải lo sợ cả". Bà với vẻ quả quyết, nhưng bà vẫn còn tái xanh.

      Tôi trước quãng để cho hai người tự do chuyện trong vài phút. Sau đó bà xuống phố. Cặp mắt bà long lanh. Tôi thấy người dàn ông khốn khổ đứng lại bên ngọn đèn đường và vung nắm đấm lên khí, tựa hồ như ông ta bị điên vì tức giận. Bà lời nào cho tới khi chúng tôi về đến cửa nhà tôi. Lúc đó bà mới nắm lấy bàn tay tôi, cầu tôi đừng gì với bất cứ ai về cuộc gặp gỡ này.

      - Đó là người quen cũ của chị, nay lại ra.

      Tôi hứa, bà hôm hôn tôi. Giờ đây vì lợi ích của bà, tất cả chuyện đó phải được biết đến."

      " Watson, những lời khai của Morrison như là ánh sáng trong đêm. Tất cả những gì trước đây lợi ích liên lạc với nhau nay lại ràng buộc nhau trong trật tự bình thưòng. Tôi chỉ còn việc tìm gặp cái người dị dạng đó. Nếu ta còn ở Aldershot việc đó dễ dàng. Ban ngày tôi dò hỏi và buổi tối hôm đó, tôi biết địa chỉ. Đó là Henry Wood ở trọ trong cùng đường phố và bà Barkerclay gặp ông ta. Ông ta chỉ mới tới đó có năm ngày. Tôi đến gặp bà chủ nhà trọ và tự xưng là nhân viên mới đến thu những phiếu thuộc cảnh sát và bà ta bép xép:" Cái ông Henry Wood là nhà ảo thuật và nghệ sĩ diễn rong. Ông ta diễn quanh các trại lính và các quán cà phê buổi chiều". Trong cái hộp, có con vật làm cho bà chủ nhà trọ phải nhiều phen sợ bở vía: đó là con thú mà ông đem ra trình diễn. Bà ấy còn cho biết đôi lúc ông thứ tiếng lạ hoắc và hai đêm vừa qua ông ta cứ rên rỉ và khóc lóc ở trong phòng. Về tiền bạc, ông sòng phẳng, nhưng dẫu sao trong số tiền ứng trước ông trả cho bà đồng florin[1] giả. Bà đưa cho tôi xem; đó là đồng rupi[2] Ấn Độ.

      ”Giờ đây, hoàn toàn sáng tỏ rằng: hai người đàn bà chia tay nhau, người dị dạng theo họ trong khoảng cách xa, ông ta chứng kiến cảnh cãi cọ giữa hai vợ chồng, ông ta vội vã chạy vào trong phòng khách và con thú mà ông ta mang theo trốn ra khỏi hộp. Nhưng ông ta là người duy nhất có thể cho chúng ta biết những gì xảy ra."

      - Và có ý định hỏi ông ta?

      - Tất nhiên! Nhưng hỏi trước mặt người chứng.

      - Người chứng là tôi?

      - Phải, điều đó làm sáng tỏ vấn đề. Nhưng nếu ông ta từ chối, chúng ta buộc lòng đưa nội vụ cho cảnh sát.

      - Liệu ông ta còn ở đó ?

      - trong những chú nhóc của tôi lảng vảng trước nhà trọ và nếu ông ta bỏ chú bé bám sát ông ta như con đỉa. Ngày mai chúng ta gặp lại chú bé. Nhưng trong lúc chờ đợi, chính tôi là kẻ gây ra tội ác nếu tôi còn bắt thức lâu hơn nữa.

      Chúng tôi tới nơi xảy ra tấm thảm trạng vào hồi giữa trưa rồi tới đường Hudson ngay lập tức.

      - Đây là đường Hudson. A! Kìa, chú tới báo cáo.

      - Ông ta vẫn còn ở đó, thưa ông! - cậu bé vừa chạy tới vừa kêu lên với chúng tôi.

      - Tốt! - Holmes khi vuốt ve má chú bé. - Lại đây, Watson. Chúng ta tới nơi rồi.

      Holmes đưa vào tấm thiếp đó chỉ vài lời ngỏ ý muốn được gặp ông Henry Wood về việc quan trọng. Ngay sau đó chúng tôi được mời vào nhà. Mặc dù mùa nóng nực, ông ta vẫn thu mình bên ngọn lửa và căn phòng đúng là cái lò. Henry Wood hoàn toàn dị hình và co rúm cái ghế dựa. Nhưng khuôn mặt ông hướng về chúng tôi, thuở trước hẳn là rất điển trai.

      Ông nhìn chúng tôi với vẻ nghi hoặc. mà cũng chẳng đứng lên, ông chỉ cho chúng tôi hai cái ghế dựa.

      - Ông từ bên Ấn Độ về, tôi nghĩ thế? - Holmes hỏi với giọng nhã nhặn. - Tôi tới về cái vụ nho mà ông biết: cái chết của đại tá Barkerclay.

      - Vụ đó can hệ gì tới tôi?

      - Tôi cũng mong muốn việc như thế. Bởi vì nếu nội vụ được làm sáng tỏ bà Barkerclay - vốn là người bạn cũ của ông - bị gán cho tội giết người.

      Người đó giật nẩy mình, kêu lên:

      - Tôi biết ông là ai, cũng chẳng hiểu vì sao ông lại biết được điều đó.

      - Người ta chỉ còn chờ đợi bà tỉnh lại để bắt giam bà.

      - Lạy Chúa! Ông là cảnh sát hả?

      - .

      - Thế sao ông lại can thiệp vô?

      - Tôi can thiệp là để cho công lý được thể .

      - Ông có thể tin nơi tôi, bà ấy vô tội.

      - Thế chính ông là phạm tội.

      - . Tôi gây ra tội ác.

      - Vậy, ai giết đại tá James Barkerclay?

      - Chúa giết ông ta. Nhưng ông hãy nhớ lấy điều này: nếu như tôi có đập vỡ óc y ra cũng rất đáng với cái tội của y. Ông muốn tôi khai à? Được, tôi chẳng có gì phải hổ thẹn cả. Đây, giờ lưng tôi có cái bướu lạc đà và những xương sườn xiêu vẹo. Nhưng thời, hạ sĩ Henry Wood này là người đẹp trai nhất trong tiểu đoàn bộ binh 117. Thuở đó, chúng tôi ở bên Ấn Độ, tại vùng Bhurtee. Barkerclay là trung sĩ trong cùng đại đội với tôi. Còn người đẹp của trung đoàn... đúng thế! Là Nancy Devoy; thân phụ là thượng sĩ trưởng đội. Hai chàng trai cùng và chỉ có được thương: Tôi. Tôi chiếm được trái tim , nhưng cha lại ưa Barkerclay hơn. Tôi là người mạo hiểm, tay phiêu lưu, còn Barkerclay là người có học và người ta dự đoán trước là thành sĩ quan. Nhưng Nancy lại tha thiết tôi và tôi tin là tôi lấy được nàng. Than ôi, cuộc nổi loạn của lính bản xứ Cipayes bùng nổ và khắp xứ ngập chìm trong máu lửa!

      "Toàn thể trung đoàn, thêm phân nửa đội pháo binh, đại đội lính người Sikhs và nhiều người thường dân cùng đàn bà, trẻ con bị bao vây trong miền Bhurtee. Tới tuần thứ hai nước bắt đầu khan hiếm. Cần phải liên lạc với binh đoàn của tướng Neill ngược lên xứ đó. Đó là cơ may duy nhất. Tôi tự ý tình nguyện lẻn ra khỏi vòng vây và báo cho tướng Neill biết về tình trạng nguy ngập của chúng tôi. Đề nghị của tôi được chấp thuận. Tôi bàn bạc với trung sĩ Barkerclay, là người biết thực địa hơn bất cứ ai. Ông ta vẽ cho tôi bản đồ để ra khỏi vòng vây. Tới 10 giờ tối tôi lên đường. Có cả ngàn sinh mạng cần được cứu sống, nhưng thạt tâm tôi chỉ nghĩ đến có người: Nàng."

      "Con đường men theo dòng nước cạn: tôi hy vọng là như thế thoát được canh chừng của bên địch. Nhưng trong lúc bò, tôi rơi vào tay sáu tên lính gác chờ đợi tôi. Trong hai giây, tôi bị choáng váng vì cú đánh rồi bị trói. Cú đánh đó làm cho tôi đau đớn trong lòng người hơn là ở đầu, bởi vì tôi nghe quân Cipayes với nhau rằng chính Barkerclay cho đầy tớ địa phương đến báo tin cho họ, nhờ vậy họ mới bắt được tôi.

      Ngày hôm sau, vùng Bhurtee được quân của tướng Neill giải cứu, nhưng quân nổi loạn đem tôi chúng trong cuộc rút lui. Tôi bị tra tấn. Tôi đào thoát. Tôi bị bắt lại và bị hành hạ thành người tàn phế. phần quân phiến loạn bỏ trốn qua Népal; tôi phải theo đoàn đó. Chúng tôi còn xa hơn, tới tận Darjeeling. ở đó dân sơn cước giết quân phiến loạn và tôi trở thành nô lệ của họ. Tôi lại bỏ trốn nữa. Nhưng thay vì về hướng nam, tôi lại ngược lên hướng bắc, đến xứ người Afghans. Tôi lang thang ở đó trong người năm, rồi trở xuống Punjab là nơi tôi sống với dân địa phương, kiếm ăn bằng cách làm trò ảo thuật. Tôi làm sao dám trở về nước . Thà cứ để cho Nancy và các bạn cũ cứ giữ mãi cái hồi ức về gã Henry Wood chết với cái lưng thẳng, hơn là thấy tôi trong cái hình thể của kẻ dị dạng gớm ghiếc như vậy. Họ tin chắc là tôi chết. Như thế lại càng hay! Tôi nghe Barkerclay cưới Nancy và được thăng cấp trong trung đoàn."

      "Nhưng khi về già, người ta tha thiết nhớ cố hương. Trong những năm dài, rồi những năm dài, tôi đeo đuổi theo hình ảnh bao đồng cỏ xanh và các hàng rào bên nước . Sau cùng tôi muốn nhìn lại chúng lần chót trước khi lìa đời".

      - Câu chuyên của ông là cảm động,- Sherlock Holmes . - Tôi dã biết có cuộc gặp mặt giữa ông và bà Barkerclay. Ông theo bà ấy về nhà, nhìn qua cánh cửa sổ, ông thấy họ cãi nhau, chắc hẳn là người vợ trách móc ông chồng về câu chuyện ngày xưa. Những tình cảm cá nhân của ông lúc đó thắng, ông liền chạy băng qua bãi cỏ và vào trong phòng.

      - Đúng, thưa ông. Và khi thấy tôi, y té gục đầu xuống thanh gác củi. Nhưng y chết trước khi gục xuống: tôi trông thấy cái chết mặt y, cũng ràng như tôi đọc sách này. Việc nhìn thấy tôi tựa như viên đạn súng lục bắn thẳng vào trái tim tội lỗi của y.

      - Rồi sau đó?

      - Nancy ngất . Tôi rút trong bàn tay nàng cái chìa khóa, định mở cửa tìm người cấp cứu. Nhưng tôi nảy ra cái ý định nên để nàng lại đó, còn mình bỏ trốn. Tôi nhét cái chìa khóa vào túi và đánh rơi cây gậy trong lúc đuổi theo Teddy lên lên tấm ri-đô. Khi tôi nhốt được nó vào trong cái hộp, tôi chạy với tốc độ nhanh nhất.

      - Teddy là ai? - Holmes hỏi.

      Henry cúi xuống và lôi ra con vật bé xinh đẹp màu đỏ lạt, mảnh mai và mềm mại, cái mũi dài màu hồng và cặp mắt đỏ tuyệt đẹp.

      - con chồn đen.

      - Vâng, người ta gọi như thế, hoặc còn gọi nó là cầy ăn rắn. Tôi gọi nó là con bắt rắn. Tôi có nuôi con rắn hổ bẻ hết răng nanh, và mỗi tối Teddy lại bắt rắn để mua vui cho những người trong xứ. Còn có chuyện gì ông muốn biết nữa , thưa ông?

      - Rất có thể là chúng tôi cần đến ông, nếu bà Barkerclay bị gặp khó khăn.

      - Trong trường hợp đó, xin ông hãy tuyệt đối tin cậy nơi tôi!

      - Giờ đây, ông vừa ý khi biết rằng trong ba mươi năm qua, lương tâm ông đại tá ngừng cắn rứt về cái hành vi phản bội của mình. A, ông thiếu tá Murphy bên kia đường. Xin chào, ông Wood.

      Chúng tôi đuổi kịp ông thiếu tá.

      - A, Holmes, - thiếu tá reo lên, - ông biết tin gì chưa.

      - Chuyện gì vậy?

      - Cuộc điều tra kết thúc. Y sĩ chứng nhận rằng nạn nhân chết vì chứng ngập máu. Tóm lại đây chỉ là vụ tầm thường.

      - Ồ, rất tầm thường! - Holmes cười và trả lời. - Mình thôi, Watson! người a chẳng còn cần đến chúng ta nữa.

      Trong lúc ra nhà ga, tôi với Holmes:

      - Có điều tôi vẫn chưa : người chồng tên là James và người kia là Henry, tại sao bà ấy lại đến tên David?

      - Đó là từ ngữ dùng để oán trách.

      - Để oán trách?

      - Trong kinh Thánh, nhân vật David thỉnh thoảng lại sa đoạ, hành động y hệt như trung sĩ James Barkerclay vậy.
      Hết
      ---

      [1] Đơn vị tiền tệ

      [2] Nguyên văn: rupee (Đơn vị tiền tệ Ấn Độ)

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      4. Những nghiệp chủ ở Raigate

      N gày 14 tháng 4 năm 1887 tôi nhận được bức điện gửi từ Lyon báo tin Holmes bị ngã bệnh, phải nằm liệt giường ở khách sạn Dulong. Trong vòng 24 giờ, tôi sang nước Pháp, tới tận bên giường và thấy bệnh trầm trọng. Thể trạng cứng cáp như sắt thép nhưng cũng chịu nổi trước cuộc điều tra kéo dài hai tháng; trong thời gian đó, mỗi ngày phải làm việc 15 tiếng đồng hồ: còn xác nhận là có lúc được nghỉ ngơi lấy tiếng đồng hồ trong 5 ngày liên tiếp.
      Ba ngày sau đó, chúng tôi quay về nhà ở phố Baker. Nhưng đại tá Hayter, người bạn thân mà tôi chăm sóc bên xứ Atghanistan, tậu được ngôi nhà ở gần Reigate, trong hạt Surrey, và ông thường mời tôi và Holmes tới đó để đổi gió. Khi Holmes được biết đại tá là người độc thân liền đồng ý. Thế là, tuần sau ngày trở về London, chúng tôi tới nhà đại tá Hayter.
      Buổi tối hôm đến nơi, chúng tôi quây quần trong phòng trưng bày vũ khí. Holmes nằm dài ghế trường kỷ, trong lúc Hayter và tôi xem bộ sưu tập súng. Đại tá :
      - Nhân đây, tôi đem lên lầu trong những khẩu súng lục này để phòng ngừa trường hợp chúng ta cần báo động.
      - Báo động ư? - Tôi kêu lên.
      - Phải, mới đây ông già Acton bị trộm tới viếng đêm thứ hai tuần qua. Thiệt hại đáng kể, nhưng tên trộm vẫn chưa bị bắt.
      - có hướng điều tra nào sao? - Holmes hỏi, liếc nhìn ông đại tá.
      - Cho tới nay . Nhưng đây là vụ đáng kể, vụ trộm vặt ở thôn quê, hoàn toàn đáng làm cho ông phải bận tâm sau cái vụ quốc tế lớn lao kia.
      Holmes khua tay như gạt bỏ lời khen ngợi, nhưng nụ cười của lại chứng tỏ là lấy thế làm khoái chí.
      - có chi tiết đặc trưng nào sao?
      - . Bọn trọm lục tung cái thư viện. Tất cả căn phòng bị đảo lộn tùng phéo, các ngăn kéo bị mở tung, giấy tờ bị ném tung toé. Các món bị mất chỉ có: cuốn sách, hai cây đèn nến bọc quý kim, phong vũ biểu bằng gỗ sồi và cuốn dây mảnh.
      - lô hàng kỳ lạ! - Tôi thầm.
      - ồ, hiển nhiên là bọn trộm vội quơ lấy những gì mà chúng có thể mang theo.
      ghế trường kỷ, Holmes buông ra tiếng làu bàu:
      - Cảnh sát địa phương hẳn rút ra điều gì đó chứ! Coi nào, ràng là...
      Nhưng tôi giơ ngón tay lên:
      - tới đây là để nghỉ ngơi, chớ có lao mình vào vấn đề nào, trong lúc hệ thần kinh còn rã rời.
      Holmes nhún vai, ném về phía ông đại tá tia nhìn mang dấu cam chịu rồi câu chuyện chuyển sang những đề tài bớt nguy hiểm hơn.
      Tuy nhiên chúng tôi dùng điểm tâm người quản gia của đại tá ùa vào trong phòng.
      - Ông hay tin gì chưa? thưa ông?... ở đằng nhà cụ Cunningham đó, thưa ông!
      Ông đại tá bất động với tách cà phê trong tay, lơ lửng giữa mặt bàn và miệng ông.
      - Trộm à?
      - vụ giết người!
      Ông đại tác nghiến răng và rít lên:
      - Mẹ kiếp! Ai bị giết? Ông tòa hòa giải hay là con ông ta.
      - Gã đánh xe ngựa. phát trúng tim. Chết mà chẳng lấy nửa lời.
      - Ai giết ta?
      - Kẻ trộm. biến mất. vừa bẻ gãy cửa sổ gian bếp phụ William tới đó. William mất mạng khi bảo vệ của cải cho chủ mình.
      - Lúc đó là mấy giờ?
      - Vào khoảng nửa đêm.
      - Tốt. Lát nữa, chúng tôi tới đó. - Ông với giọng rất thản nhiên.
      Ông chờ cho người quản gia ra khỏi phòng rồi mới thêm:
      - Chuyện tồi tệ! Ông già Cunningham là nhân vật rất có thế lực ở đây, hơn nữa, ông là người trung hậu. Ông đau khổ, bởi vì người đánh xe là người đầy tớ rất tốt. Chắc là cũng cùng những tên trộm cướp tới viếng nhà Acton.
      - Và là kẻ ăn trộm cái sưu tập quá đặc biệt đó ư? - Holmes hỏi với vẻ ngẫm nghĩ.
      - Đúng vậy.
      - Hừm!
      Thoạt nhìn việc ra vẻ kỳ cục. Thông thường băng trộm cắp hoạt động tại vùng hề thực hai lần trong cùng thành phố, cách nhau có vài ngày. Tối qua, khi ông cần đề phòng, tôi nghĩ rằng Riegate là giáo khu sau chót ở nước bị bọn trộm để ý tới.
      - Nếu vấn đề là do tên chuyên nghiệp ở địa phương hiển nhiên hai gia đình Acton và Cunningham là những nhà lớn nhất trong xứ này mà.
      - Và là những nhà giàu có nhất chứ?
      - Họ giàu từ trước, song từ nhiều năm qua, chủ nhân của cả hai nhà dấn vào cuộc tranh tụng kéo dài và nay họ bị sạt nghiệp, ấy là theo ý tôi. Ông già Acton đòi lại phần nửa cơ nghiệp của nhà Cunningham. ở cả hai bên, các luật gia đều đòi thù lao đắt...
      - ” Nếu là tên vô lại ở trong vùng lân cận, hẳn người ta tóm cổ dễ dàng“. Holmes , cố nén tiếng ngáp. ” đừng có lo sợ, Watson! Tôi chẳng can thiệp vào chuyện này đâu.
      - Thanh tra Forrester đến, thưa ông!- người quản gia loan báo khi mở cửa ra.
      Người đại diện của cảnh sát còn rất trẻ, trông có vẻ đàng hoàng, bước vào trong phòng.
      - Xin chào, thưa đại tá. Tôi hy vọng làm phiền đại tá? Nhưng chúng tôi được biết là ông Holmes có mặt nơi đây...
      Ông đại tá chỉ vào bạn tôi. Viên thanh tra nghiêng mình chào.
      - Thưa ông Holmes, chúng tôi mong rằng ông sẵn lòng cùng ít bước với tôi.
      - ”Số mệnh chống lại rồi, Watson ơi“! Holmes vừa kêu lên vừa cười. ”chúng tôi bàn luận về vụ án ông tới đó, ông thanh tra. Ông có thể cho chúng tôi biết vài chi tiết ?
      Khi tôi thấy Holmes ngồi ngả vào thành ghế dựa với trong những tư thế được ưa thích tôi thất vọng.
      - Chúng tôi dấu vết nào trong vụ Acton. Nhưng chắc chắn là cả hai vụ đều do cùng băng nhóm gây ra. Người phạm tội bị nhận diện.
      - A!
      - Vâng, nhưng chuồn như cơn gió, sau khi dã nổ súng vào William Kirwan. Cụ Cunningham trông thấy y từ cửa sổ phòng cụ và Con trai cụ, ông Alec Cunningham, cũng trông thấy từ cánh cửa sau, dành cho người giúp việc. Hồi 23 giờ 45 phút có tiếng báo động. Cụ Cunningham vừa vào giường, còn Alec hút thuốc. Cả hai đều nghe tiếng William kêu cứu. Ông Alec chạy vội xuống. Cánh cửa sau mở rộng. Khi tới chân cầu thang, ông thấy bên ngoài có hai người đánh nhau. trong hai người nổ phát súng, người kia gục xuống, kẻ sát nhân nhảy bổ ra vườn và leo vượt hàng rào. Cụ Cunningham từ khuôn cửa sổ phòng mình, cũng thấy tên cướp nhảy ra tới đường, và mất dạng. Ông Alec đứng lại để xem có thể cứu giúp gì được cho người hấp hối, khiến cho kẻ sát nhân có thời giờ trốn thoát. Ngoài chi tiết là người tầm thước và mặc vải sẫm, chúng tôi còn chỉ - dấu đặc biệt nào khác.
      - chàng William làm gì tại đó? ta được điều gì trước khi chết ?
      - lời. ta ở cùng với bà mẹ trong nhà người gác cổng, đó là người giúp việc tận tụy; có lẽ về phía ngôi nhà để xem mọi việc có bình thường . Khi tên trộm vừa chạy phía xong cánh cửa sau, William nhào lên người .
      - William có gì với mẹ trước khi ra khỏi nhà ?
      - Bà mẹ rất già lại điếc. tài nào moi được từ nơi bà điều chỉ dẫn nào! Cái chết của con trai quật sụp bà. Tuy nhiên, có nguyên tố cực kỳ quan trọng. Ông hãy coi đây!
      Viên thanh tra rút ra từ cúon sổ tay mảnh giấy bị rách và ông mở rộng ra đầu gối.
      - Mẩu giấy này được tìm thấy giữa hai ngón tay cái và ngón tay trỏ của nạn nhân. Dường như đây là góc của tờ giấy lớn hơn. Con số ghi mẩu giấy này là giờ mà William bị hạ sát. Kẻ sát nhân giật lấy phần còn lại của tờ giấy; nếu , William có thể giành lấy nguyên vẹn tờ giấy rồi:
      - ” ... Vào lúc 11 giờ 45... được biết... nhiều ... rất hữu ích...“.[1]
      Holmes cầm lấy tờ giấy.
      - ”Cứ cho đây là cuộc hẹn“. Viên thanh tra tiếp“ Chúng ta có thể ngờ rằng, gã William mặc dù có tiếng là lương thiện, thông đồng với tên trộm. Gã gặp tên trộm ở đó, hoặc giúp tên trộm cạy cửa, rồi sau đó hai đứa gây lộn với nhau...
      - Miếng giấy này hữu ích biết bao“! Holmes thầm sau khi quan sát nó rất kỹ, ”chúng ta bị ngập sâu trong nước hơn là tôi tưởng“.
      vùi đầu trong hai bàn tay giữa lúc viên thanh tra cười thỏa mãn trước chú tâm của chuyên gia nổi tiếng ở London.
      Holmes ngay sau đó:
      - Điều nhận xét sau chót của ông là tài tình, tờ giấy này mở cho chúng ta...
      Lần nữa lại gục mặt vào trong lòng hai bàn tay và khép kín mình trong vài phút vào tư tưởng của . Khi ngửng đầu lên, tôi ngạc nhiên thấy cặp mắt long lanh như trước những ngày chưa bệnh. nhảy cẫng lên với tất cả năng lực cũ của mình:
      - Tôi gì với ông nhỉ: tôi muốn xem xét những chi tiết của vụ án. Nếu được ông cho phép, thưa đại tá, tôi dạo vòng cùng với ông thanh tra để kiểm soát lại vài ý nghĩ bông lông của tôi. Tôi trở về trong nửa tiếng.
      tiếng rưỡi trôi qua. Viên thanh tra quay lại có mình :
      - Ông Holmes bách bộ ngoài đồng và muốn chúng ta tới ngôi nhà.
      - Tới nhà cụ Cunningham sao?
      - Vâng, thưa ông.
      - Để làm gì?
      Viên thanh tra nhún vai.
      - Tôi biết. Giữa chúng ta với nhau, tôi nghĩ rằng ông Holmes chưa được hoàn toàn bình phục. Ông cư xử cách kỳ lạ, sôi động.
      - Ông cần phải lo âu. ấy luôn luôn có phương pháp trong điên rồ - Tôi .
      - Ông Holmes đầy nhiệt tình đòi , thưa đại tá. Nếu hai vị sẵn sàng, chúng ta cũng nên đến đó.
      Chúng tôi gặp lại Holmes ngoài trời. từng bước dài đường, cằm gục xuống ngực, hai bàn tay thọc sâu trong túi quần. :
      - Vụ án có tầm lợi ích đây. Watson, chuyến chơi vùng quê này thành công đáng kể. Tôi hưởng buổi sáng thú vị.
      - Ông tới nơi xảy ra vụ án à? - Đại tá hỏi.
      - Phải. Ông thanh tra và tôi.
      - Đưa tới thành công chứ?
      - Quả vậy, chúng tôi thấy nhiều điều khác nhau rất lý thú. Thoạt tiên, chúng tôi xem thi hài của kẻ bất hạnh: ta chết vì viên đạn súng lục, như các được cho biết.
      - nghi ngờ chuyện đó sau?
      - Ồ, luôn luôn nên kiểm tra tất cả. Việc quan sát của chúng tôi vô ích. Sau đó chúng tôi có trao đổi với cụ Cunningham và con trai cụ. Alec hướng dẫn chúng tôi tới nơi mà kẻ sát nhân chuồn qua khi vượt hàng rào, trốn chạy. Rất đáng quan tâm.
      - Tất nhiên.
      - Chúng tôi gặp bà mẹ đau khổ nhưng thu thập được điều gì. Bà quá yếu.
      Và kết quả cuộc điều tra cho thấy là...
      - ... tội ác này tầm thường. Thưa ông thanh tra, giờ đây chúng ta đồng ý với nhau về mẩu giấy đó có viết giờ chết của nạn nhân?
      - Mẩu giấy đó chẳng cho chúng ta điều chỉ dẫn, thưa ông Holmes.
      - Nó cho chúng ta thấy : người viết bức thư lôi William ra khỏi giường trong đêm hôm khuya khoắt. Nhưng phần còn lại của tờ giấy ở đâu?
      - Tôi quan sát mặt đất rất kỹ với hy vọng tìm ra mẩu giấy đó. - Viên thanh tra thào.
      Mảnh giấy được giựt ra khỏi bàn tay người chết. Bởi vì tờ giấy kết tội y nên y nhét vội nó vào túi mà hề để ý thấy góc bị thiếu. Nếu thu hồi được phần còn lại của tờ giấy, chúng ta kết thúc vấn đề.
      - Đúng. Nhưng phải làm thế nào bây giờ.
      - Điều đó đáng tốn công. Còn điểm này nữa. Lá thư được gởi tới cho William. Người viết thư tự mình trao cho người nhận; nếu , dùng lời chứ viết thư làm gì. Vậy ai chuyển bức thư? hoặc lá thư được gửi tới qua đường bưu điện?
      - ” Tôi cho điều tra về điểm đó“, - viên thanh tra trả lời. ”Hôm qua William có nhận được lá thư trong chuyến phát thư buổi chiều. ta hủy cái bao thư“.
      - ”Tuyệt vời!“ Holmes kêu lên khi vỗ lên lưng viên thanh tra. ”Ông gặp nhân viên đưa thư. thích thú khi được làm việc chung với ông! Tốt! Đây là nhà người gác cổng. Thưa đại tá, xin cho phép tôi được chỉ cho ông thấy nơi xảy ra tội ác.
      - Chúng tôi ngang qua căn biệt thự , nơi người đánh xe ở và leo lên lối vào hai bên có trồng cây sồi, đưa tới ngôi nhà cổ kính.
      cảnh sát viên đứng gác ở cửa sau.
      - ”Xin ông vui lòng mở cửa ra“. Holmes .“Giờ đây, các bạn trông thấy cái cầu thang này: chính từ những bậc thang đó mà cụ Cunningham trông thấy hai người vật lộn nhau tại nơi chúng ta đứng. Ông cụ đứng ở cửa sổ này, cái thứ hai bên tay trái, và cụ trông thấy kẻ sát nhân bỏ chạy ngay bên trái bụi cây. Alec cũng trông thấy y nữa. Sau đó, Alec chạy tới quỳ xuống bên người bị thương. Nền đất rất rắn, như các bạn có thể ghi nhận: có dấu vết nào để hướng dẫn chúng ta.
      Trong lúc , có hai người xuống lối vào vườn, sau khi vòng quanh nhà. người lớn tuổi, có cái đầu mạnh mẽ, nhưng có nét nhăn sâu, mí mắt nặng trĩu. người kia là thanh niên lanh lợi.
      - ”Thế nào, vẫn còn về việc đó à?“ ta với Holmes. ”những người từ London đến, phải là những người thể đánh bại. Nhưng quý vị tiến tới được bao nhiêu“.
      - Cần phải cho chúng tôi ít giờ. - Holmes trả lời bằng giọng vui vẻ hồn nhiên.
      - Quý vị cần nhiều thời giờ nữa đây!“ Alec dõng dạc. ”Dường như chúng ta chỉ dẫn nhoi nào“.
      - ”Mỗi “, viên thanh tra trả lời, ”chúng ta tìm thấy... Lạy chúa tôi! Này ông Holmes, ông làm sao vậy? Ông Holmes!“.
      Bộ mặt Holmes có dáng vẻ đáng ghê sợ. Mắt đảo lộn tròng, nét mặt bị cơn đau làm cho quặn lại, khi buông ra tiếng rên rỉ, té lăn xuống đất. Hoảng hốt, chúng tôi khiêng vào trong bếp, đặt vào ghế bành rộng và ngồi đó thở nặng nề trong vài phút. Cuối cùng, sau khi cáo lỗi về yếu đuối của mình, lại đứng lên, :
      - Tôi vừa mới qua cơn bệnh nặng. Tôi vẫn còn dễ bị những cơn cấp phát thần kinh đột ngột đó.
      - Ông muốn về nhà bằng cỗ xe độc mã của tôi ? - Cụ Cunningham đề nghị.
      - Tôi phải ở đây để xác minh điểm.
      - Điểm gì?
      - Thế này: biết William tới trước hay là chỉ tới sau khi tên trộm lọt vào nhà. Quý vị rằng tuy cánh cửa bị cậy phá, nhưng kẻ trộm chưa lọt vào bên trong.
      - ”Điều đó là hiển nhiên rồi“. Cụ Cunningham trả lời cách nghiêm trang. ”Coi nào, Alec vẫn còn chưa vào giường chắc chắn là cháu nó nghe thấy tiếng động“.
      - Cậu ấy ngồi ở đâu?
      - Trong phòng tắm của tôi, hút thuốc và nhìn qua cửa sổ - Ông cụ trả lời.
      - Cửa sổ nào? - Holmes tiếp
      - Cửa sổ cuối cùng bên trái, kế bên cửa sổ phòng cha tôi. - Aléc đáp.
      - Đèn nơi phòng và nơi phòng ông cụ vẫn còn thắp sáng cả chứ?
      - còn nghi ngờ gì cả.
      - ” ràng là có vài điẻm kỳ lạ trong vụ này“. Holmes cười .“ kẻ trộm vào nhà trong lúc đèn vẫn còn sáng và cả hai người trong gia đình còn thức“.
      - Y phải cực kỳ bình tĩnh.
      - ”Nếu vụ án mà kỳ lạ, chúng tôi nhờ ông làm chi“! Alec :“ Kẻ trộm lấy đồ trước khi bị William bắt gặp, bằng cớ là chúng tôi đâu có mất món gì và trường cũng bị bừa bộn.
      - ” Cái đó còn tùy thuộc vào bản chất của những món đồ“. Holmes trả lời. ”Chúng ta đối phó với kẻ trộm thuộc loại đặc biệt và hành động theo cách đặc biệt, chẳng hạn như, cái lô hàng ở nhà cụ Acton chỉ là cuộn dây mành, cái phong vũ biểu....“.
      - ”Chúng tôi phó thác hoàn toàn nơi ông, thưa ông Holmes - Cụ Cunningham .
      - Mở đầu, tôi muốn cụ treo giải thưởng. Tôi soạn sẵn mẫu, cụ có ưng ký tên ? 50 bảng là đủ.
      - ”Tôi sẵn lòng thưởng 500”. Ông tòa hòa giải , sau khi cầm lấy tờ giấy mà Holmes đưa cho cụ.“ Nhưng giấy này chưa được đúng“, cụ thêm khi đọc lướt qua nội dung“.
      - Tôi viết nó khá vội...
      - Coi này! Sao ông lại bắt đầu như vậy: ”Xét rằng, vào hồi O giờ 45 phút, mưu toan“. Nó là hồi khắc trước nửa đêm, 11 giờ 45, nếu ông ưa thế.
      nhầm lẫn đó khiến tôi buồn. Holmes nổi tiếng là chính xác về các việc. Nhưng con bệnh làm như đãng trí. Trong lúc, bị bối rối. Viên thanh tra nhướn lông mày lên. Alec phá ra cười. Ông già sửa chỗ viết sai và trả tờ giấy lại cho Holmes, :
      - Ông cho in càng sớm càng tốt. Ý kiến của ông là tuyệt hảo.
      Holmes cẩn thận đặt tờ giấy vào trong bóp, rồi :
      - Ta cùng khắp nhà để tìm xem cái tên trộm kỳ quặc kia mang món đồ nào.
      Trước đó, Holmes quan sát cánh cửa bị cạy phá. con dao cứng hoặc cây kéo được cắm sâu vào ổ khóa và ổ khóa bị bung ra. Những dấu vết gỗ hãy còn thấy .
      - Như vậy là cụ cần cho đặt then chặn cửa? - Holmes hỏi.
      - Chúng tôi thấy cần phải làm như vậy.
      - Cụ có nuôi chó ?
      - Có, chó được cột ở phía bên kia nhà.
      - Các gia nhân ngủ vào lúc nào?
      - Khoảng mười giờ.
      - Thông thường William ngủ vào giờ đó, phải ?
      - Phải.
      - kỳ lạ! Vào đúng đêm đó, ta lại thức khuya hơn thường lệ. Giờ đây, thưa cụ, chúng tôi rất hân hạnh nếu được phép vô thăm nhà cụ.
      hành lang lát đá, đưa tới cầu thang bằng cây dẫn thẳng lên lều của ngôi nhà. bậc thềm dẫn lên cầu thang thứ hai đến tiền sảnh, người ta trông thấy ở đó nhiều cánh cửa phòng khách cũng như cửa nhiều phòng, trong số đó có cửa phòng cụ Cunningham và phòng Alec. Holmes bước chậm rãi, quan sát kỹ. Cứ theo vẻ mặt , tôi biết theo hướng điều tra nóng bỏng.
      - ”Ông hảo tâm của tôi ơi!“. Cụ Cunningham kêu lên, vẻ mất kiên nhẫn. Điều này cần thiết đâu. Phòng của tôi là đây, nơi cuối cùng những bậc thang, và phòng con trai tôi là phòng kế cận. Nếu kẻ trộm lên đây cha con tôi nghe tiếng động do gây ra rồi.
      - Ông hãy điều tra theo hướng khác thôi. - Alec với nụ cười.
      - Tuy nhiên, tôi xin quý vị lượng thứ cho cái ý thích thất thường của tôi. Chẳng hạn như tôi muốn biết tầm nhìn từ những khuôn cửa sổ kéo dài tới tận đâu. Phòng của Alec đây ạ?“ Holmes hỏi khi đẩy cánh cửa ra. ”Và đây là phòng tắm mà ngồi hút thuốc có tiếng báo động. Cánh cửa sổ mở ra cái gì đây?“.
      băng ngang phòng, mở cánh cửa và liếc nhìn sang căn phòng ở sát bên.
      - Giờ đây ông được thỏa mãn? - Cụ Cunningham hỏi với vẻ hỏm hỉnh.
      - Xin cảm ơn. Tôi thấy tất cả những gì muốn biết.
      - Nếu là cần thiết, chúng ta có thể vào trong phòng tôi.
      - Nếu làm phiền cụ quá dáng...
      Ông tòa hòa giải nhún vai và ông dẫn chúng tôi vào trong phòng riêng của ông, đồ đạc đủ tiện nghi. Trong lúc chúng tôi ngang phòng tới hướng khuôn cửa sổ, Holmes chậm bước lại để sánh ngang tôi ở cuối toán. ở chân giường có kê cái bàn vuông , có đặt bình nước và giỏ cam. Khi ngang cái bàn, Holmes cúi xuống và hất đổ cái bàn. Bình nước vỡ tan và trái cây văng tung toé.
      - Đồ quỷ, Watson“. kêu lên cách lạnh lùng. ”Thế là ngược đãi tấm thảm rồi“:!
      Hoàn toàn bối rối, tôi cúi xuống và bắt đầu tìm lượm trái cây. Hẳn là vì duyên cớ nào đó nên Holmes mới muốn để tôi cáng đáng cái trách nhiệm về vụng về này. Những người khác cũng lượm trái cam và dựng cái bàn thẳng đứng trở lại.
      - ”Coi kìa!“ Viên thanh tra kêu lên. ”Ông ấy đâu vậy?“.
      Holmes biến mất.
      - ”Quý ông hãy đợi tôi ở đây“. - Alec . - Cái ông này coi bộ thần kinh bình thường. Hãy với con , ba!
      Cả hai chạy vội ra khỏi phòng. Còn ba chúng tôi cứ đứng đó, sững sờ nhìn nhau.
      - ”Mẹ kiếp, tôi bắt đầu tin rằng cậu Alec có lý.“ Viên thanh tra thầm. Có thể đây là hậu quả về căn bệnh của ông ấy, nhưng dù sao cũng...“
      Bỗng ông ngưng mặt. tiếng kêu, gần như tiếng hét, vang lên.
      - Cứu tôi với! Sát nhân!
      Như người điên, tôi phóng ra thềm cầu thang, bởi vì tôi nhận ra giọng Holmes. Những tiếng kêu cứu biến thành tiếng rên rỉ khàn khàn, thành tiếng. Chúng thoát ra từ căn phòng mà chúng tôi vào thăm trước hết. Tôi lao vào trong, rồi chạy vào phòng tắm. Hai cha con Cunningham cúi cơ thẻ lả của Holmes. Người con dùng hai bàn tay siết chặt cổ họng Holmes, ông bố vặn cổ tay . Trong chớp mắt chúng tôi lôi được hai cha con ra. Holmes đứng lên, xanh xao, lảo đảo.
      - Hãy bắt giữ những người này, ông thanh tra! - hổn hển .
      - Về tội gì?
      - Tội ám sát người đánh xe của họ.
      Viên thanh tra ngơ ngác nhìn .
      - Coi nào, coi nào, ông Holmes, ông đâu muốn rằng...
      - à? Ông hãy nhìn họ mà xem! - Holmes kêu lên.
      Ông già Cunningham đờ người ra, tưởng chừng như hóa đá, khuôn mặt nhăn sâu, in hằn nét tànnhẫn sâu xa. Người con trai mất hết thói ba hoa, thói nhạo báng, trong cặp mắt đen của ta lóe lên tính hung dữ của con thú hoang, nguy hiểm. Viên thanh tra ra cửa và rút cái còi ra. Hai cảnh sát kéo tới nơi ngay đó.
      - ”Thưa cụ Cunningham“, viên thanh tra . ”Tôi hy vọng rằng chuyện này chấm dứt bằng chứng minh về vô tội của cụ. Nhưng cụ cũng có thể thấy rằng. A, muốn vậy sao? Hãy buông ngay cái đó ra coi“!
      Ông vung tay về phía trước và khẩu súng lục rớt xuống sàn nhà.
      - ”Giữ lấy tang vật này“! - Holmes khi đặt bàn chân lên khẩu súng. ” Nó có ích trong phiên tòa. Đây mới là cái chúng ta cần có hơn hết“!
      giơ lên cao mảnh giấy bị vò nát.
      - Phần còn lại của lá thư? - Viên thanh tra reo lên.
      - Chính nó.
      - Ông tìm ra nó ở đây vậy?
      - Ở chỗ mà tôi tin chắc là tìm ra nó. Tôi giải thích. Thưa đại tá, ông và Watson có thể trở về nhà. Tôi cũng về trong giờ nữa. Ông thanh tra và tôi, còn phải chuyện với các phạm nhân.
      Sherlock Holmes giữ lời. Khoảng giờ sau, bước vào phòng hút thuốc của ông đại tá. cùng với ông lão mà giới thiệu là cụ Acton. Holmes tươi cười :
      - Thưa quý vị, ngay từ đầu, tôi thấy chìa khóa của vấn đề là mẩu giấy nằm trong tay nạn nhân.
      Nếu chuyện kể của Alec là và nếu kẻ trộm bỏ trốn ngay tức khắc, giựt và làm rách tờ giấy. Nếu phải như vậy thủ phạm chính là Alec, bởi vì trước khi ông già xuống, nhiều gia nhân khác hẳn chạy tới. Đó là chi tiết đơn giản nhưng ông thanh tra bỏ qua, bởi vì ông ấy cho rằng những vị chức trọng quyền cao trong địa hạt chẳng liên can gì tới vụ án.
      Thế là tôi nghiên cứu kỹ cái mẩu giấy. Nó đây này. Nó gợi ra ý nào ?
      - Toàn chữ đều. - Ông đại tá .
      - ”Ông bạn thân mến ơi“, Holmes kêu lên, ”nó được viết bởi hai người, mỗi người viết chữ: Nhìn cách gạch ngang khá nét chữ ”t“ trong những từ ”phút“ quý vị tin chắc rằng toàn chữ do hai người viết. cuộc phân tích ngắn cho phép quý vị xác nhận rằng những từ ” được biết“ và ”nhiều“ được viết bởi bàn tay rắn rỏi, trong lúc từ ”hữu ích“ lại được viết bởi bàn tay yếu hơn.
      - ”Sáng như ban ngày!“ Ông đại tá kêu lên. ”Tại sao lại quái gởi khi cần đến hai người để viết lá thư“.
      - Đây là vụ bỉ ổi. trong hai người có tính rất đa nghi, quyết định mỗi người có phần bằng nhau về điều gì xảy ra. Nhưng trong hai người, kẻ viết những chữ ”“ và chữ ”rất“ là kẻ xúi giục gây ra vụ này.
      - Do đâu ông tới cái kết luận đó?
      - Tôi so sánh đặc tính của hai chữ. Quý vị hãy quan sát cẩn thận mẩu giấy này: người có bàn tay rắn rỏi viết trước, và chừa lại những khoảng trống để cho người kia điền vào. Nhưng những khoảng trống đó phải lúc nào cũng đủ chỗ cho kẻ viết sau. Người có bàn tay yếu hơn gặp khó khăn, chẳng hạn như khi ông ấy viết chữ ”giờ“ vào khoảng giữa hai chữ ”“ và ”bốn“. ”“ và ”bốn“ ràng là những chữ được viết từ trước. Vậy người được phép viết trước, là người chủ mưu.
      - Tuyệt vời! - Cụ Acton kêu lên.
      - Hẳn quý vị biết rằng thông thường người ta có thể xem xét nét bút mà đoán ra tuổi của người, chênh lệch chừng mươi năm. Tôi thông thường, bởi vì có những trường hợp do bệnh hoạn hoặc do suy yếu cơ thể kết quả khác . Nhưng trong vụ này, khi quan sát chữ rắn rỏi của người (dấu gạch ngang các chữ t rất ) và nét chữ ngập ngừng của người kia (những chữ t gần như mất hẳn nét ngang) chúng ta có thể xác định rằng trong hai người này, người còn trẻ và người tuổi cao, tuy hãy còn tráng kiện.
      - Tuyệt vời! - Cụ Acton kêu lên lần nữa.
      - Tuy nhiên, giữa hai nét chữ này có những điểm giống nhau. Thường những giống nhau đó xuất phát từ hai chữ ”e“ Hy Lạp mà cả hai cùng viết giống nhau. Nhưng những nét giống nhau khác kém khẳng định hơn cũng cho thấy cùng điểm đó. Tôi tuyệt đối tin chắc rằng có ” nét chữ gia đình“ trong hai nét chữ viết này. Thế là tôi vững tin rằng cha con ông Cunningham là tác giá của bức thư.
      Tôi tới nhà đó cùng với ông thanh tra. Tôi thấy vết thương xác chết, gây ra bởi phát súng lục bắn cách xa hơn bốn mé.t quần áo nạn nhân có những vết sạm đen gây ra bởi thuốc súng. Vậy là Alec dối khi khai rằng hai người đánh lộn súng nổ. Mặt khác, hai cha con đều đồng ý về cái nơi mà ”hung thủ“ bỏ chạy ra đường. ở chỗ đó có vài hố ngập bùn, nhưng hề có những dấu chân: nghĩa là chẳng hề có kẻ xa lạ nào can dự vào vụ án.
      Tôi lại còn phải khám phá cái động cơ của tội ác kỳ cục này. Trong mục đích đó, trước hết tôi phải tìm hiểu vụ trộm xảy ra nơi nhà cụ Acton. Ông đại tá rằng vụ tranh tụng làm cho cụ Acton với cha con Cunningham kình địch nhau. Ngay lập tức, tôi đoán là họ xông vào thư viện nhà cụ với ý định lấy trộm tài liệu quan trọng khả dĩ giúp họ chiếm phần thắng ở phiên tòa.
      - ”Tuyệt vời!“ Cụ Acton lại kêu lên y như hai lần trước. ”ý định của họ . Tôi có đủ giấy tờ để được hưởng phần nửa cơ nghiệp của nhà đó. Nếu họ cướp những giấy tờ ấy, chúng tôi nguy mất“.
      - Chúng ta tới đích rồi vậy!“ Holmes cười . ”Đó là mưu toan khá liều lĩnh do Alec đề xướng. Lục soát khắp nơi mà tìm ra được cái gì, họ làm như những tên trộm tầm thường để đánh lạc hướng cảnh sát. Chính vì thế mà họ quơ lấy bất cứ cái gì họ thấy. Tất cả điều đó khá sáng tỏ, nhưng tôi còn muốn thâu hồi lại phần còn thiếu của lá thư. Tôi tin chắc rằng Alec nhét vào trong túi áo ngủ. Vả chăng, ta còn có thể để nó vào đâu? tất cả vấn đề là tìm hiểu xem nó có còn ở đó ? Vì thế tất cả chúng ta đều vào trong nhà.
      Cha con nhà Cunningham gặp chúng tôi ở bên ngoài, gần bên cánh cửa nhà bếp. Cần phải tuyệt đối làm cho họ nhớ lại hữu của tờ giấy đó; nếu , họ hủy nó ngay tức khắc. Viên thanh tra sắp ám chỉ đến tờ giấy khi giải thích với họ về tầm quan trọng của nó. Lúc đó“tình cờ“ tôi bị mệt và đề tài của câu chuyện được thay đổi.
      - Trời đất thánh thần ơi! - Ông đại tá cười vang.
      - Đóng trò khéo tuyệt vời! - Tôi kêu lên khi nhìn Holmes với lòng khâm phục.
      - Có những trò hề hữu ích“, Holmes trả lời. ”Khi đứng lên, tôi có sẵn mưu mẹo: làm cho ông già Cunningham viết ra 2 chữ ”giờ“ và ”phút“ để có thể so sánh nó với 2 chữ giờ và phút viết mẩu giấy.
      - Ồ, tôi ngu xuẩn làm sao! - Tôi kêu lên.
      - Lúc đó tôi có nhìn thấy lòng trẵc của đối với tôi!“ Holmes cười . ”Tôi lấy làm tiếc gây cho nỗi buồn nho . Khi lên lầu, tôi vào trong phòng, thấy cái áo ngủ treo ở đằng sau cánh cửa, tôi xô ngã cái bàn để chuyển hướng chú ý của họ trong chốc lát và vội vã khám xét các túi áo. Tôi vừa mới tìm ra được tờ giấy hai cha con nhào lên tôi. Tôi tin rằng họ chủ tâm giết tôi, nếu các bạn tới kịp; người con siết cổ, còn người ha vặn tay tôi để tôi phải buông tờ giấy ra.
      Sau đó, tôi chuyện tới ông Cunningham để làm sáng tỏ cái động cơ gây ra tội ác. Ông cụ tỏ ra biết điều, trong lúc Alec vẫn cứ hung hăng như loài quỷ dữ. Cụ Cunningham thú nhận rằng William bí mật theo dõi hai cha con ông trong cái đêm họ ăn trộm nơi nhà cụ Acton. William đe dọa và đòi tiền họ. Nhưng Alec thuộc hạng người dễ khuất phục. Thế là William bị gài bẫy và bị giết. Nếu cha con nhà Cunningham thu hồi được nguyên vẹn lá thư) trong đó họ hẹn giờ gặp nhau), và nếu họ sơ sớt vài chi tiết , chẳng bao giờ họ bị nghi ngờ gì cả.
      - Thế còn cái lá thư trứ danh đó đâu? - Tôi hỏi.
      Sherlock Holmes đặt nó trước mặt chúng tôi khi ráp hai mảnh giấy lại. Chúng tôi đọc được:
      “Nếu tới vào lúc 11 giờ 45 ở cửa sau, biết được điều làm ngạc nhiên nhiều và nó rất hữu ích cho cũng như cho cả Annie Morrison. Nhưng chớ có tiết lộ với bất cứ người nào“.[2]
      - Watson, có điều là chúng ta chưa biết các mối liên hệ giữa Alec Cunningham, William Kirwan và Annie Morrison là như thế nào; nhưng ràng kỳ nghỉ ngắn ngày của chúng ta ở nông thôn rất là thành công. Ngày mai, tôi trở về nhà, hoàn toàn khỏe khoắn...
      --------------
      AT QUARTER TO TWELVE
      LEARN WHAT
      MAY
      [2] Nguyên văn: ”IF YOU WILL ONLY COME AROUND AT QUARTER TO TWELVE
      TO THE EAST GATE YOU WILL LEARN WHAT
      WILL VERY MUCH SURPRISE YOU AND MAY
      BE OF THE GREATEST SERVICE TO YOU AND ALSO
      TO ANNIE MORRISON. BUT SAY NOTHING TO ANYONE
      UPON THE MATTER.”
      những chữ màu đỏ là những chữ bị xé

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      5. Bản Hiệp ước Hải quân

      Tháng 7, ngay sau đám cưới của tôi, là tháng đáng ghi nhớ bởi 3 vụ phá án của Sherlock Holmes mà tôi có tham gia. Điều thú vị là những vụ án này có liên quan đến từng vấn đề trong xã hội theo cách trình tự: gia đình, quốc gia và cuối cùng là quần chúng. Trong vụ án mà tôi sắp kể lại dưới đây, nó minh họa cách nét cho phương pháp phân tích và những mối liên hệ sâu xa của Holmes. Tôi vẫn còn giữ những ghi chép của ông Dubugue[1] của sở cảnh sát Paris và ngài Fritz von Waldbaum, chuyên viên nổi tiếng của Dantzig, cả hai đều mất khá nhiều công sức để tiếp cận vụ việc. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề còn trong vòng bảo mật. Bản ghi chép dưới đây của tôi trình bày số yếu tố quan trọng, có thể dẫn đến những biến cố của quốc gia. Nó chỉ có thể được phép công khai về sau này, khi những yếu tố bảo mật còn hiệu lực.
      Lúc còn học tôi rất thân với Percy Phelps, cũng trạc tuổi tôi nhưng học tôi hai lớp. Là học sinh ưu tú giành được nhiều giải thưởng và học bổng ở Cambridge; thuộc dòng dõi danh giá: ông cậu của là huân tước Holdhurst. Ở tại trường, cái quan hệ họ hàng ấy chẳng đem lại cho cái gì. Trái lại, chúng tôi còn thấy thích thú khi lôi ra sân chơi và đá vào mông vài cú. Nhưng lúc ra đời khác hẳn: ảnh hưởng của ông cậu đưa lên địa vị tốt ở Bộ ngoại giao. Thế rồi tôi quên bẵng , cho tới khi nhận được lá thư dưới đây.
      “Briarbrae, Woking.
      Watson thân mến,
      Hy vọng cậu chưa quên tôi, Phelps “Nòng nọc” thời học trung học. Có thể cậu cũng biết rằng tôi nắm giữ chức vụ quan trọng ở Bộ ngoại giao và được tin cẩn. Nhưng gần đây bất hạnh xảy đến, phá tan nghiệp của tôi. có cách nào để diễn tả việc khủng khiếp đó. Trừ phi tôi có thể kể cách tường tận trực tiếp với cậu. Ngoài ra, tôi lại vừa ra khỏi cơn sốt viêm não, phải nghỉ ngơi 9 tuần lễ và vẫn còn rất yếu.
      Cậu có thể mời ông Holmes tới nhà tôi được ? Tôi mong được biết ý kiến ông ấy về vụ này, tuy nhà chức trách khẳng định rằng chẳng còn gì để mà tìm kiếm nữa. Tôi mong ông ấy đến đây càng sớm càng hay. Mỗi phút dài như cả tiếng đồng hồ kể từ lúc chuyện đó xảy ra. Cậu nhớ với ông ấy rằng nếu tôi hỏi ý kiến sớm hơn, đó phải là vì tôi nghi ngờ tài năng của ông ấy mà vì tôi mất lý trí. Giờ đây tôi tỉnh táo lại, nhưng chưa dám suy nghĩ nhiều, sợ bệnh tái phát. Cậu thấy đó, tôi suy nhược đến độ phải đọc thư này cho người khác viết.
      Cậu hãy cố mời ông Holmes đến đây giúp tôi.
      Bạn học cũ của cậu.
      Percy Phelps”.
      Tôi xúc động đến nỗi, dù cho việc đó có khó khăn đến mấy tôi cũng vẫn làm. Vợ tôi đồng ý là nên để lỡ phút nào. Thế là tôi vội vàng tới ngôi nhà cũ ở phố Baker, và đưa lá thư ra. Holmes chăm chú đọc.
      - Thư chẳng cho chúng ta biết chi nhiều? - Holmes , lúc đưa trả lại tôi.
      - Hầu như chẳng có gì.
      - Ấy thế mà tuồng chữ lại đáng chú ý.
      - Nhưng đâu có phải là ấy viết.
      - Đúng. Đó là chữ của đàn bà.
      - Chữ đàn ông chứ - Tôi phản đối.
      - . Thư này do đàn bà viết. Đó là phụ nữ có cá tính hiếm có. xem, việc bắt đầu khảo sát, đó là cần biết rằng khách hàng của bạn thường xuyên tiếp xúc với những người nào, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc môi trường khác thường. Vụ này gây hứng thú cho tôi rồi đó. Nếu sẵn sàng, chúng ta Working ngay tức khắc, để gặp nhà ngoại giao và người đàn bà viết thư.
      Chúng tôi bắt kịp ngay chuyến tàu ở ga Waterloo. Chưa đầy giờ sau, chúng tôi tới giữa khu rừng thông ở Working. Nhà bạn tôi nằm giữa khu đất mênh mông, cách nhà ga khoảng năm phút đường. Chúng tôi được mời vào trong phòng khách sang trọng, nơi đó có người đàn ông vạm vỡ đón tiếp chúng tôi với lòng hiếu khách nhất. Ông ta gần 40 tuổi, nhưng cặp má hồng hào và đôi mắt rất vui khiến ông giữ được sắc mặt của đứa bé mũm mĩm và tinh nghịch.
      - Tôi vui mừng khi thấy quý ông tới - ông ta , nồng nhiệt bắt tay chúng tôi - Suốt buổi sáng nay, Phelps ngớt lo âu. Bố mẹ Phelps cầu tôi tiếp quý ông, bởi vì mỗi lần nhắc đến câu chuyện là hai cụ đau buồn.
      - Chúng tôi chưa được biết gì cả - Holmes nhận xét - Cứ theo tôi thấy, ông phải là thành viên trong gia đình.
      Người tiếp chuyện chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi sau khi đưa mắt lên nhìn bộ quần áo, ông ta bật cười:
      - A, ông thấy chữ "J.H" thêu áo của tôi? Lúc đầu, tôi cứ tưởng ông là nhà tiên tri. Tôi là Joseph Harrison. Vì Phelps sắp cưới em Annie của tôi nên tôi vợ cậu ấy. Quý ông gặp em tôi trong phòng của Phelps, ấy chăm sóc Phelps suốt 2 tháng nay. Chúng ta tới đó ngay. Phelps rất sốt ruột.
      Gian phòng được trang trí nửa như phòng khách của phụ nữ, nửa như phòng ngủ. Nhiều hoa được trưng bày với phong cách nhã nhặn khắp các căn phòng. trường kỷ kê bên cửa sổ mở rộng, thanh niên xanh xao, nằm dài. thiếu nữ ngồi cạnh ta, đứng lên khi thấy chúng tôi bước vào.
      - Em ra ngoài, phải thế Percy? - hỏi.
      Phelps giơ tay ra, níu lại.
      - Cậu khoẻ chứ, Watson? - ta với giọng thân mật - Tôi khó nhận ra cậu với bộ ria kia. Chắc đây là ông Sherlock Holmes?
      Sau khi giới thiệu xong, chúng tôi ngồi xuống ghế. Người của vị hôn thê lẩn , nhưng em ở lại, tay trong tay người bệnh. rất đáng chú ý: hơi thấp và đầy mình, làn da bóng láng, cặp mắt đen lớn sẫm tối của phụ nữ Ý và mái tóc mun đen như hạt huyền.
      - Tôi muốn làm ông mất giờ - bắt đầu - Khi gượng ngồi dậy, tôi xin thẳng vào vấn đề. Tôi thành công mỹ mãn. Nhưng ngay trước ngày lễ thành hôn, bất hạnh giáng xuống đầu tôi.
      “Tôi làm việc tại Bộ ngoại giao và nhờ có Huân tước Holdhurst, tôi mau chóng đạt tới chức vị có trách nhiệm. Khi cậu tôi được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, ông giao cho tôi nhiệm vụ tế nhị và tôi hoàn thành cách mỹ mãn. Ông tới chỗ tuyệt đối tin tưởng vào những khả năng và kín đáo của tôi
      Cách đây hai tháng rưỡi, chính xác là ngày 23 tháng 5, cậu tôi gọi tôi tới văn phòng, báo cho tôi biết rằng tôi sắp nhận nhiệm vụ mới. Ông đặt lên bàn cuộn giấy màu xám, :
      - Đây là bản chính của bản hiệp ước bí mật giữa và Ý. may là số chi tiết linh tinh lọt vào tay báo giới. thể để lọt thêm chi tiết nào nữa. Các tòa đại sứ Pháp và Nga chi rất nhiều tiền để được biết nội dung của văn kiện này. Nó được đưa ra khỏi bàn giấy của ta, nhưng ta cần có bản sao. Bàn giấy cháu có khóa chứ?
      - Dạ có.
      - Thế cháu hãy cầm bản hiệp ước về và cất kỹ nó. Ta cho những chỉ thị để tối nay cháu có thể ở lại trong văn phòng, sau khi các bạn đồng của cháu ra về, cháu chép cách yên tĩnh. Khi chép xong, cháu cất bản chính cùng với bản sao vào trong ngăn kéo có khóa và sáng mai cháu tận tay đem cả hai đến cho ta.
      Tôi nhận lấy những tài liệu và...”
      - Xin lỗi - Holmes - Chỉ có mình ông trong cuộc chuyện đó thôi chứ?
      - Vâng, chỉ có hai người.
      - Trong gian phòng lớn?
      - Mỗi cạnh 30 feet.
      - Hai người ở giữa phòng.
      - Phải.
      - Và hai người thấp giọng.
      - Cậu tôi luôn luôn thấp giọng. Về phần tôi, hầu như tôi chỉ có 2 tiếng.
      - Cám ơn ông - Holmes nới, nhắm mắt lại - Xin ông vui lòng kể tiếp
      “Tôi chờ cho các nhân viên khác ra về. nhân viên khác là Charles Gorot còn ở nán lại để làm cho xong cái gì đó. Tôi để ta ở lại và ra phố ăn bữa tối. Khi tôi trở về ấy . Tôi vội chép bản hiệp ước cho xong, bởi vì Joseph, vợ tôi ở London, đáp chuyến tàu 11 giờ để tới đây.
      Nội dung bản hiệp ước xác định vị trí của nước đối với Liên minh tay ba. Nó cũng dự kiến cho đường lối chính trị mà nước theo trong trường hợp hạm đội Pháp có ưu thế hơn hạm đội của Ý. Văn kiện này hoàn toàn đề cập đến các vấn đề thuộc về hải quân. Bên dưới có chữ ký của những nhân vật cao cấp. Sau khi đọc xong, tôi bắt đầu chép.
      Văn kiện này rất dài, bằng tiếng Pháp và gồm 26 điều khoản. Tôi chép nhanh nhưng tới 9 giờ chỉ mới được có 9 điều khoản. Lúc đó tôi biết là bị nhỡ chuyến tàu 11 giờ. Tôi thấy người mình mụ , phần vì thức ăn khó tiêu, phần vì làm việc cả ngày. Tôi bắt đầu thèm tách cà phê. Ở dưới chân cầu thang có nhân viên phục vụ, ông thường pha cà phê cho các viên chức phải trực đêm. Tôi giật chuông, gọi ông ta lên.
      Tôi rất ngạc nhiên khi thấy người bước vào phòng tôi là người đàn bà luống tuổi, to lớn đeo tạp dề. Bà ta rằng chồng bà ta bận... Tôi bảo bà đem cà phê lên cho tôi.
      Tôi chép thêm được 2 điều khoản nữa. Rồi càng lúc càng thêm buồn ngủ, tôi đứng lên, lại lại trong phòng cho giãn gân giãn cốt. Vẫn chưa có cà phê và tôi tự hỏi vì sao lâu quá như vậy? Tôi mở cửa, vào hành lang nối liền nơi tôi làm việc tới cầu thang xoáy ốc ở mé dưới là căn phòng của người phục vụ. Lưng chừng cầu thang có bực thềm, với hành lang khác thẳng góc với hành lang này. Cái hành lang thứ hai, qua cầu thang , dẫn tới cánh cửa dành cho nhân viên phục vụ hoặc những viên chức vào từ phố Charles.
      Tôi xuống cầu thang và thấy người phục vụ ngủ vùi trong phòng; ấm nước đặt ngọn đèn cồn sôi sùng sục, nước tràn ra cả sàn nhà. Tôi lay ông ta có tiếng chuông reo phía đầu tôi và ông ta cũng giật mình thức giấc.
      - Ông Phelps, thưa ông! - ta .
      - Tôi xuống để xem cà phê xong chưa.
      - Tôi ngủ thiếp , thưa ông.
      Ông ta nhìn tôi rồi ngước mắt nhìn lên cái chuông vẫn còn kêu vang, sau cùng ông :
      - Ông ở đây, vậy ai gọi chuông?
      - Gọi chuông? - tôi lặp lại. - Cái chuông nào?
      - Cái chuông trong văn phòng ông đó.
      Tôi có cảm tưởng như có bàn tay lạnh giá bóp tim tôi. Tôi leo lên cầu thang, nhảy từng bốn bước , tôi chạy trong hành lang; có ai trong văn phòng tôi cả. Tất cả vẫn y nguyên như khi tôi bỏ ra ngoài. Bản sao chép của hiệp ước còn đó, nhưng nguyên bản biến mất.
      Holmes nhỏm dậy ghế và xoa hai bàn tay vào nhau.
      - Vậy lúc đó ông làm gì? - Holmes hỏi.
      - Tôi đoán rằng kẻ trộm lẻn vào qua ngả cửa và lối cầu thang thứ hai. Nếu , tôi gặp y rồi.
      - Ông có chắc là người đó nấp trong văn phòng hoặc trong hành lang chứ?
      - thể nào được? Ngay đến con chuột cũng thể mình trong văn phòng tôi hoặc trong hành lang. chỗ nào để nấp cả.
      - Cám ơn, xin ông tiếp tục.
      - Bấy giờ người phục vụ cũng chạy lên. Chúng tôi cùng chạy bổ vào hành lang thứ hai và tuột xuống cầu thang chật hẹp trổ ra phố Charles. Bên dưới, cánh cửa đó đóng lại nhưng khóa. Chúng tôi mở cửa và chạy ra ngoài. Lúc đó tháp chuông nhà thờ điểm 3 tiếng: 10 giờ thiếu 15.
      - Chi tiết này hết sức quan trọng - Holmes và ghi vội vào cổ tay áo .
      “Đêm đó trời tối, và có cơn mưa . thấy bóng ai, nhưng ở cuối phố Charles, xe cộ vẫn lại nườm nượp như mọi ngày. Chúng tôi chạy vỉa hè, tới góc đường, gặp cảnh sát đứng gác.
      - Vừa xảy ra vụ trộm - Tôi kêu lên với ông ta - tài liệu quan trọng vừa bị đánh cắp tại Bộ ngoại giao. Ông có thấy người nào ngang qua đây ?
      - Tôi đứng gác ở đây 15 phút và chỉ thấy có mỗi người qua: bà to lớn, luống tuổi, đầu choàng khăn san.
      - Đó là bà vợ tôi - Người phục vụ vội - ai khác qua đây sao?
      - ai.
      - Thế kẻ trộm hẳn bỏ trốn qua đầu bên kia - người phục vụ kêu lên, sau khi kéo vào tay áo tôi.
      Nhưng điều đó làm tôi hài lòng, và nài nỉ lại càng làm cho tôi thêm hồ nghi.
      - Bà ấy lối nào? - Tôi hỏi.
      - Tôi biết, thưa ông. Tôi chỉ thấy bà ấy ngang qua, rất nhanh - Người cảnh sát báo cáo.
      - Bao lâu rồi?
      - Ồ, chưa lâu lắm.
      - Năm phút?
      - tới năm phút đâu.
      - Ông chỉ phí giờ - Người phục vụ kêu lên – Và mỗi phút là đáng kể. Tôi với ông rằng vợ tôi chẳng liên can gì đến vụ này hết. Tốt hơn chúng ta nên tới đầu phía đằng kia. Nếu ông , tôi .
      xong, ông ta bỏ chạy về hướng ngược lại. Nhưng tôi bắt kịp ngay và tôi nắm lấy cổ tay ông ta.
      - Nhà ông ở đâu?
      - Số 16 đường Ivy Lance ở Brixton. Nhưng thưa ông Phelps, ông hãy tới đầu phố bên kia để thử xem chúng ta có biết được điều gì chăng.
      Cùng với người cảnh sát, chúng tôi chạy lại đầu đằng kia. Nhưng chúng tôi chỉ thấy đường phố chật ních dòng lưu thông dày đặc. Những người qua đường hối hả, tìm chỗ trú mưa. Chẳng có những người thơ thẩn chơi rong để chúng tôi có thể hỏi thăm.
      Thế là chúng tôi quay trở lại Bộ. Lùng khắp cầu thang và hành lang, nhưng có kết quả. Cái hành lang dẫn tới văn phòng tôi có lót tấm thảm bằng vải nhựa. Chúng tôi quan sát kỹ lưỡng nhưng chúng tôi tìm thấy dấu chân nào!”
      - Trời mưa suốt buổi tối đó?
      - Trời mưa lúc 7 giờ.
      - Thế tại sao người đàn bà vào trong văn phòng ông lúc 9 giờ mà lại để lại các dấu bùn?
      - Tôi sung sướng thấy ông nhấn mạnh điểm đó. Ngay lúc đó nó cũng làm tôi chú ý. Nhưng mấy bà quét dọn trong nhà có thói quen khi tới Bộ, thường tháo giày ra trong căn phòng của người phục vụ để thay bằng đôi giày vải .
      - Thế là rồi. Vậy là có dấu vết nào cả trong lúc bên ngoài trời vẫn có mưa. Sau đó ông làm gì?
      - Chúng tôi quan sát văn phòng. lối cửa bí mật nào, còn các cửa sổ cao hơn mặt đất tới 30 feet. Vả chăng cả hai cửa sổ đều đóng kín từ bên trong. Tôi dám đem mạng sống mà đánh cá rằng kẻ cắp lẻn qua ngả cửa chính.
      - Thế còn lò sưởi?
      - dùng đến. Sợi dây giật chuông treo ngay bên phải bàn giấy để với lấy nó. Nhưng tại sao kẻ phạm tội lại muốn giật chuông? Điều này quả khó hiểu.
      - Sau đó ông làm gì? Các ông quan sát căn phòng, thử xem kẻ lén nhập có để lại dấu vết nào ? có tàn thuốc, hoặc cái bao tay mà y có thể đánh rơi, hoặc cây trâm cài tóc, hoặc bất cứ cái gì đó.
      - Hoàn toàn cái gì hết.
      - có cái mùi gì sao?
      - Chúng tôi nghĩ tới điều này.
      - mùi thuốc hút có thể giúp chúng ta nhiều trong cuộc điều tra.
      - Tôi hút thuốc. Cho nên nếu có mùi thuốc ắt hẳn tôi ngửi thấy. , tuyệt đối dấu vết nào. Cái việc xác định duy nhất là vợ người phục vụ hối hả rời khỏi trường. Người cảnh sát và tôi đều đồng ý là cần phải tóm lấy người đàn bà đó, trước khi bà ta tẩu tán tài liệu.
      Trong thời gian đó, Scotland Yard được báo động. Thám tử Forbes tới ngay sau đó và nắm lấy nội vụ với lòng hăng hái nhất. Chúng tôi mướn cỗ xe ngựa và nửa giờ sau tới địa chỉ được biết. ra mở cửa: đó là con lớn của bà Tangey. Mẹ chưa về tới. đưa chúng tôi vào trong căn phòng phía trước để chờ bà.
      Mười phút sau, có tiếng gõ cửa. Và lúc đó chúng tôi mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng. Thay vì chúng tôi ra mở cửa chúng tôi lại để cho làm việc đó. Chúng tôi nghe : “Mẹ ơi, có hai ông đợi mẹ”. Liền đó, chúng tôi nghe tiếng những bước chân bước vội ngoài hành lang. Forbes mở cánh cửa ra và cả hai chúng tôi đều nhào về phía căn phòng ở cuối nhà bếp, nơi mà người đàn bà tới trước chúng tôi. Bà ấy nhìn chằm chặp vào chúng tôi với cặp mắt ngờ vực, rồi bất chợt bà ấy nhận ra tôi và hết sức ngạc nhiên.
      - Nhưng... Nhưng đây là ông Phelps ở Bộ Ngại giao mà!
      - Vậy bà tưởng chúng tôi là ai, khi bà bỏ chạy? - Người cùng với tôi hỏi bà.
      - Tôi cứ tưởng các ông là cảnh sát. Chúng tôi gặp khó khăn với nhà buôn.
      - Chúng tôi tin rằng bà lấy tài liệu quan trọng ở Bộ ngoại giao và vội vã vào đây để giấu nó. Bà phải về trụ sở của Scotland Yard.
      Bà ta phản đối và kháng cự, nhưng uổng công. cỗ xe ngựa lớn được gọi đến và cả chúng tôi lên xe. Trước đó chúng tôi quan sát khắp gian bếp, đặc biệt là cái lò, để xem bà ta có tẩu tán tài liệu trong thời gian ngắn ngủi chỉ có mình bà ở trong bếp. có dấu vết tàn tro hoặc mẩu giấy nào. Ngay khi về tới Scotland Yard, bà ta được giao cho nữ cảnh sát. Thời gian chờ đợi cuộc khám xét dường như dài bất tận: tim tôi như hấp hối. Sau chót, người nữ cảnh sát tới báo cáo rằng bà mang theo cái gì trong người.
      Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy ra nỗi khủng khiếp. Cho đến lúc đó, tôi vẫn tin chắc là mình thâu lại được bản hiệp ước. Nhưng giờ đây chẳng còn gì để làm nữa. Nó là thê thảm. Thưa ông Holmes, cậu Watson cho ông biết là hồi còn học, tôi là đứa bé nhạy cảm, dễ kích động. Tôi nghĩ tới cậu tôi, tới nỗi nhục nhã mà tôi sắp bắt ông phải hứng chịu, tôi phải hứng chịu và tất cả những ai thân cận với tôi đều phải liên quan. Tôi biết điều gì xảy đến với tôi. Dường như thần kinh tôi bị kích động quá mãnh liệt. Tôi còn nhớ cách mơ hồ rằng toán nhân viên cố tìm cách làm cho tôi bình tĩnh lại. người trong toán đó dẫn tôi ra ga và đưa tôi về đây. Mẹ tôi tan nát cõi lòng vì buồn phiền. bạn Joseph bị tống ra khỏi căn phòng xinh đẹp này để nó được biến thành bệnh xá. Trong 9 tuần, tôi cứ nằm đây trong cơn mê sảng, bị giày vò bởi chứng sốt viêm não. Nếu Harrison và ông bác sĩ tận tình chăn sóc chắc tôi chết rồi. là người điều dưỡng ban ngày. Ban đêm nữ điều dưỡng chuyên nghiệp khác thức chanh chừng tôi. Dần dà trí nhớ trở lại với tôi. Việc đầu tiên tôi làm là đánh điện cho ông Forbes. Ông ta tới đây, rằng vẫn chưa có mấu chốt nào được phát . Người phục vụ và bà vợ bị thẩm vấn đến cùng vẫn đem la5i ánh sáng nhoi nào. Thế là những mối nghi ngờ được chuyển sang Gorot, là người làm việc đến khuya hôm đó ở văn phòng. Việc ta ở lại Bộ và cái tên gốc Pháp của ta là hai điểm duy nhất có thể làm ta bị nghi ngờ. Nhưng ràng tôi chỉ ghi chép khi ta ra về. Rốt cuộc người ta chẳng tìm ra được cái gì và nội vụ dừng lại ở đó. Vậy là tôi hướng về ông, thưa ông Holmes. Ông là nguồn hy vọng cuối cùng của tôi. Nếu ông thành công danh dự và nghiệp của tôi vĩnh viễn sụp đổ.
      Bị kiệt sức vì câu chuyện kể dài, người bệnh lại nằm xuống Người nữ tá cho uống thứ thuốc nào đó. Holmes vẫn ngồi yên, đầu ngả ra đằng sau, hai mắt nhắm nghiền lại để tập trung tư tưởng. Sau cùng :
      - Bản tường trình của ông quá minh bạch. Tuy nhiên có điểm mà tôi cho là rất quan trọng. Ông có với bất cứ ai về việc ông được giao phó cho làm công việc đ1o ?
      - Tôi với ai cả.
      - Ngay với Harrison?
      - . Tôi trở về Working trong khoảng thời gian từ lúc nhận được lệnh tới lúc bắt đầu ghi chép.
      - ai tình cờ gặp ông?
      - ai.
      - Có ai trong những thành viên thuộc gia đình ông lại biết con đường tới văn phòng ông ?
      - Ồ, có. Tất cả đều biết.
      - Nếu ông với người nào về bản hiệp ước, những câu hỏi đó quả là thừa.
      - Tôi điều gì, với bất cứ ai!
      - Ông biết gì về người phục vụ.
      - Chỉ biết ông ta là cựu quân nhân.
      - Trung đoàn nào?
      - Ồ, người ta với tôi... Coldstream Guards!
      - Cám ơn. Tôi được Forbes cho biết những chi tiết. Nhà cầm quyền thu thập tài liệu giỏi nhưng sử dụng chúng theo cách tốt nhất.
      từ bên giường ra khuôn cửa sổ mở rộng và nâng lên bông hoa rủ, chiêm ngưỡng nét hài hòa của màu đỏ và màu xanh.
      - Tất cả những thực phẩm đều thực cần thiết cho đời sống chúng ta. Nhưng đóa hoa hồng này là món xa hoa. Hương thơm và sắc màu của nó là tô điểm cho cuộc sống. Chính lòng nhân từ của Thượng đế tạo cho con người những cái dư thừa ấy, và vì thế chúng ta phải hy vọng nhiều nơi những đóa hoa.
      Phelps và y tá nhìn Holmes với nét mặt đầy vẻ ngạc nhiên và thất vọng. Holmes đắm chìm vào mơ mộng và bông hồng tay. Sau vài phút im lặng, thiếu nữ chen vào.
      - Ông có phương cách nào để giải đáp cái bí này , thưa ông Holmes? - hỏi với thoáng chua chát trong giọng .
      - Ồ, điều bí à? - Holmes lặp lại khi bất thình lình bị lôi trở về với thực tại - Quả đây là vấn đề rắc rối, nhưng tôi chú tâm đến. Tôi thông báo cho biết.
      - Ông có thấy dấu vết nào ?
      - Quý vị cho chúng tôi biết tới 7 vấn đề. Nhưng tôi phải kiểm tra lại chúng, trước khi có thể bày tỏ ý kiến.
      - Ông có nghi ngờ ai ?
      - Tôi nghi...
      - Ai?
      -... Rằng tôi rút ra những kết luận của mình cách quá nhanh.
      - Vậy ông hãy trở lại London và kiểm tra lại chúng.
      - Lời khuyên của là chí lý, thưa Harrison. - Holmes khi đứng lên. - Watson, tôi tin rằng chúng ta chẳng có thể làm gì khá hơn. Ông Phelps, ông đừng có quá hy vọng. Vấn đề rất là rối rắm.
      - Tôi sống trong cơn sốt cho tới lúc được gặp lại ông. - Nhà ngoại giao kêu lên.
      - Thế ngày mai tôi trở lại bằng cùng chuyến tàu. Nhưng rất có thể là bản tường trình của tôi mấy lạc quan.
      - Khi được biết là có người cố làm cái gì đó, tôi có thêm chút khí lực. Nhân đây, tôi vừa nhận được thư của Huân tước Holhurst.
      - Thế à? Ông ta gì vậy?
      - lá thư lạnh nhạt, nhưng khô khan. Ông lặp lại là vụ này có tầm quan trọng hàng đầu và thêm rằng ông quyết định nào về tương lai của tôi trước khi tôi được bình phục và có khả năng để sửa chữa cái tai họa do tôi gây ra.
      - Vậy , đó là người biết điều và đầy lòng nhân hậu - Holrnes - Ta thôi, Watson, chúng ta còn có cả ngày để làm việc.
      Ông Joseph tiễn chúng tôi ra ga và ngay đó chúng tôi lên tàu. Holmes chìm đắm trong suy tư sâu lắng. chỉ mở miệng khi tới vùng phụ cận London.
      - chàng Phelps uống rượu chứ?
      - Tôi nghĩ là .
      - Tôi cũng vậy. Nhưng cần phải tính đến mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra. chàng đó lún mình trong những làn nước sâu, và tất cả vấn đề là liệu chúng ta có thể kéo ta lên bờ được chăng. nghĩ sao về Harrison?
      - là người có cá tính riêng.
      - Đúng, nhưng hoặc là cá tính hướng về điều thiện, hoặc là tôi bị lầm to. ta và người là con của người thợ cả xưởng rèn ở bên Northumberland. Phelps đính hôn với trong chuyến vào mùa đông năm ngoái và cùng mình tới đây để được giới thiệu với gia đình bên chồng. Rồi tai họa nổ ra và ở lại để chăm sóc cho hôn phu, trong lúc ông Joseph, thấy mình được chăm chút cách đầy đủ, nên cũng ở lại luôn. thấy đó, có lúc tôi làm vài cuộc điều tra hoàn toàn biệt lập. Nhưng ngày hôm nay chúng ta tìm...
      - Các bệnh nhân của tôi.
      - Ồ, nếu thấy những công việc của lại lý thú hơn ... - Holmes với giọng trách cứ.
      - Tôi định với rằng các bệnh nhân của tôi có thể cần đến tôi trong hai hay ba ngày, bởi vì lúc này mùa ít việc.
      - Tuyệt vời! - kêu lên, lấy lại tính khí vui vẻ - Thế chúng ta cùng nhau chăm lo cái vụ này. Tôi nghĩ là khởi đầu chúng ta cần phải gặp Forbes để có những chi tiết mà chúng ta cần biết. Rồi chúng ta biết cần tấn công theo chiều hướng nào.
      - là có dấu vết?
      - Chúng ta có nhiều dấu vết. Nhưng sau cuộc điều tra, ta kiểm tra lại giá trị của các điểm đó. Vụ án khó giải thích nhất, là vụ án được thực hành mục đích. Vụ án này ở đây có mục đích. Nó đưa lại lợi ích cho ai? Có ông đại sứ nước Pháp này, ông đại sứ nước Nga này, và có cả người trả giá cao hơn hai ông đại sứ đó, và còn có huân tước Holdhurst nữa.
      - Huân tước Holdhurst?
      - tưởng tượng nổi chính khách bị rơi vào hoàn cảnh như thế mà lại tiếc nuối về biến mất của tài liệu quan trọng đến nhường đó.
      - Nhưng huân tước Holdhurst là chính khách có quá khứ khả kính.
      - Nhưng chúng ta thể chỉ mới thoạt nhìn mà gạt bỏ nó. Ngày hôm nay chúng ta tới đó, để xem ông với chúng ta điều gì. Trong lúc chờ đợi, tôi cho phát động cuộc điều tra rồi.
      - Thế à?
      - Phải. Từ ga Working tôi đánh hai bức điện cho các tờ báo ở London. Lời nhắn tin này được đăng tải các báo phát hành vào chiều nay.
      đưa cho tôi tờ giấy xé ra từ cuốn sổ tay. đó được viết bàng bút chì: “Thưởng 10 bảng cho người nào biết số xe của cỗ xe ngựa đổ người khách xuống cổng hoặc gần cổng Bộ ngoại giao phố Charles, vào hồi 10 giờ kém 15 đêm 23 tháng 5. Trả lời về 221B, phố Baker”.
      - Kẻ trộm xe ngựa đến à?
      - Nếu ông Phelps lầm lẫn khi khai rằng chỗ nấp nào trong văn phòng cũng như ngoài hành lang người khách tất phải từ bên ngoài vào. Nếu người đó tới vào đêm ẩm ướt mà để lại vết chân nào vải nhựa lót nhà (được quan sát vài phút sau khi y qua), chắc chắn là y tới bằng xe ngựa.
      - Điều đó có thể chấp nhận được.
      - Có thể dấu vết này dẫn chúng ta đến nơi nào đó. Nhưng, còn có hồi chuông, chi tiết lố lăng nhất trong vụ này. Tại sao y lại gọi chuông? Có phải tên trộm làm thế để tỏ thái độ hùng? Hoặc có ai khác cùng với kẻ trộm giật chuông để ngăn chặn vụ trộm? Hoặc việc đó chỉ là ngẫu nhiên? Hoặc đó là... - Holmes lại rơi vào trạng thái suy tư thầm lặng. Nhưng tôi thấy dường như có giả thiết mới bất chợt hình thành trong óc .
      Chúng tôi xuống tàu vào hồi 3 giờ 20. Sau khi nuốt vội vàng miếng ở quầy ăn nhà ga, chúng tôi thẳng tới Scotland Yard. Forbes là người thấp , gương mặt thông minh và những đường nét kiên quyết, nhưng kém dễ thương. Cuộc tiếp xúc lạ lùng và thái độ của ông còn lạ lùng hơn nữa khi ông được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi.
      - từ lâu tôi biết phương pháp làm việc của ông, thưa ông Holmes - ông ta với giọng mỉa mai cay độc - Ông luôn luôn sử dụng những tin tức mà cảnh sát cung cấp cho ông và rồi tìm cách tự mình kết thúc vụ án để làm mất uy tín của những cơ quan công quyền.
      - Trái lại - Holmes đáp - Trong 53 vụ, tên tôi chỉ xuất có 4 lần, và cảnh sát lấy về phần mình 49 vụ. Tôi trách ông vì ông chưa biết đến điều đó, bởi lẽ ông còn trẻ và thiếu kinh nghiệm. Nhưng nếu như ông muốn nổi danh trong cái vụ mới này, ông cần phải cộng tác với tôi, chớ phải chống lại tôi.
      - Tôi mong gì hơn là có được vài thành tích - ông thanh tra thay đổi giọng - Cho tới nay, tôi thâu đạt được chút gì.
      - Ông áp dụng những biện pháp nào?
      - Khi theo dõi ông Tangey, chúng tôi biết ông ấy là người dũng cảm và rất tốt. Nhưng bà vợ chẳng ra gì. Tôi có cảm tưởng là bà ấy biết rất nhiều, nhưng chẳng muốn ra.
      - Ông cũng cho theo dõi bà ấy chứ?
      - Phải. Bà ấy uống rượu, và nhân viên của chúng tôi hai lần ngồi bên bà khi bà quá chén, nhưng cũng moi ra được điều gì.
      - Những kẻ môi giới tới nhà họ phải ?
      - Phải, nhưng họ thanh toán cái món nợ cho nhà buôn xong rồi.
      - Tiền do đâu mà có?
      - Tiền lương hưu của ông chồng. Họ chẳng có vẻ gì là có tiền cả.
      - Bà ta giải thích ra sao về cú chuông gọi của ông Phelps kêu đưa cà phê lên?
      - Bà rằng chồng bà rất mệt và bà muốn làm đỡ cho chồng.
      - Điều đó phù hợp với việc ít lâu sau người chồng ngủ vùi trong phòng. Vậy là chẳng có gì chống lại họ, ngoại trừ tính nết của bà vợ. Ông có hỏi tại sao bà hối hả ra về trong đêm tối đó?
      - Bà ra về muộn hơn ngày thường và muốn trở về nhà ngay.
      - Ông có cho bà ta biết ông và ông Phelps sau bà ta tới 20 phút mà lại đến nhà trước bà ?
      - Bà ta giải thích rằng xe ngựa phải nhanh hơn bộ.
      - Bà ta có giải thích cái lý do khiến cho bà ta ngay khi vừa về tới nhà chạy vội vào trong bếp ?
      - Tiền để trả nợ nằm trong bếp.
      - Ít ra bà có câu trả lời cho mọi chuyện. Ông có hỏi bà ta xem, khi ra khỏi trụ sở Bộ, bà có gặp ai , hoặc có thấy ai thơ thẩn bên phía phố Charles ?
      - Bà chỉ trông thấy có người cảnh sát thôi.
      - Vậy tôi thấy ông thẩm vấn bà ta rất kỹ càng! Thế ông còn làm những gì khác?
      - Nhân viên Gorot được theo dõi trong suốt 9 tuần qua, nhưng có kết quả gì. có gì chống lại ông ta.
      - Và còn gì nữa?
      - , chúng tôi chẳng có gì để mà tiến hành.
      - Ông nghĩ gì về cái chuông trong lúc ông Phelps ở trong phòng của người phục vụ?
      - Tôi xin thú là tôi còn chưa hết ngạc nhiên. Phải là kẻ to gan lớn mật mới vừa ăn trộm vừa báo động.
      - Đúng, là kỳ cục! Tôi xin cảm ơn ông về tất cả những chỉ dẫn đó. Ta thôi, Watson.
      - Bây giờ chúng ta đâu? - Tôi hỏi khi ra bên ngoài.
      - Chúng ta tới huân tước.
      Chúng tôi gặp may: Huân tước Huldhurst vẫn còn ở trong văn phòng ông. Holmes cho trình danh thiếp và ngay đó chúng tôi được mời vào. Nhà chính khách đón tiếp chúng tôi với vẻ mặt lịch . Ông mời chúng tôi ngồi trong hai ghế bành sang trọng kê hai bên lò sưởi. Đứng tấm thảm giữa hai chúng tôi, ông có dáng đẹp với thân hình cao mảnh, bộ mặt nhọn và trầm tư.
      - Tên ông đối với tôi rất quen thuộc, thưa ông Holmes? - ông cười - Và đương nhiên tôi thể làm như biết lý do của chuyến viếng thăm này. Nhưng tôi muốn được biết ông hành động vì lợi ích của ai, nếu như tôi có thể tự cho phép đặt ra với ông câu hỏi đó.
      - Vì lợi ích của ông Percy Phelps.
      - A! Vì đứa cháu của tôi ông thừa biết rằng tôi rất thích câu: Luật pháp chừa bất cứ ai.
      - Nhưng nếu tôi tìm ra tập tài liệu đó?
      - A! Vấn đề lại khác hẳn!
      - Có hoặc hai câu hỏi mà tôi mong muốn được đặt ra với huân tước!
      - Tôi sung sướng được thông báo cho ông điều gì tôi có thể , trong phạm vi quyền hạn của tôi.
      - Có phải ngài ban những chỉ thị sao chép bản văn tại gian phòng này.
      - Phải.
      - Thế ai có thể nghe được lời ngài?
      - Phải.
      - Ngài có với người nào đó rằng ngài có ý định chép lại bản hiệp ước ?
      - .
      - Ngài tuyệt đối tin chắc như vậy chứ?
      - Tuyệt đối.
      - Thế , bởi vì ngài bao giờ đến, bởi vì ông Phelps bao giờ đến, bởi vì ai ngoài hai cậu cháu ngài biết được, nên có mặt của kẻ trộm trong văn phòng là hoàn toàn do ngẫu nhiên. Kẻ đó thấy mình bỗng nhiên gặp cơ may. Và y lấy trộm.
      Nhà chính khách mỉm cười :
      - Điều đó vượt khỏi phạm vi của tôi.
      Holmes suy nghĩ trong lát:
      - Theo chỗ tôi biết, ngài e sợ rằng phổ biến bản hiệp ước kéo theo nhiều hậu quả trầm trọng.
      Ông bộ trưởng sa sầm nét mặt:
      - Đúng thế.
      - Nhưng những hậu quả đó chưa xảy ra?
      - Chưa.
      - Nếu bản hiệp ước lọt tới Bộ ngoại giao Pháp hoặc Nga hẳn là ngài nghe thấy tiếng vọng?
      - Hẳn là như thế - Huân tước nhăn mặt, .
      - Gần 10 tuần lễ trôi qua mà ngài vẫn còn chưa nghe thấy động tĩnh nào. Vậy phải chăng vì lý do nào đó, bản hiệp ước vẫn chưa đến đó?
      Huân tước nhún vai:
      - Chúng ta thể tin rằng tên ăn trộm đem bản hiệp ước về nhà rồi đóng khung treo lên tường.
      - Có thể là y đợi cuộc đấu giá.
      - Nếu y đợi quá lâu y chẳng còn được cái gì. Trong vài tháng, bản hiệp ước còn gì là bí mật cả.
      - Phải chăng tên trộm đột nhiên ngã bệnh.
      - cơn sốt viêm não, chẳng hạn? - Nhà chính khách hỏi, phóng lên người Holmes tia nhìn sắc sảo.
      - Tôi dám như thế - Holmes điềm tĩnh trả lời - Giờ đây, thưa ngài, chúng tôi làm ngài tốn nhiều giờ, và chúng tôi xin từ giã.
      - Tôi xin cầu chúc ông tất cả thành công, cho dù kẻ phạm tội là ai? - ông Bộ trưởng khi tiễn chúng tôi ra cửa.
      - cá tính cao quý! Nhưng ông ấy phải tranh đấu để bảo vệ cương vị mình. Ông ấy chẳng giàu có gì cả và có nhiều việc phải làm. Chắc hẳn thấy là đôi giày của ông phải thay đế. Watson, hãy trở lại với công việc của , nhưng nhớ trở lại Working vào ngày mai.
      Sáng hôm sau, tôi cùng xuống Working. cho tôi biết là nhận được hồi cho lời nhắn tin các tờ báo và cũng chẳng có gì để cho tôi biết thêm.
      Chúng tôi gặp lại Phelps, ta khá hơn buổi tối hôm trước, có thể đứng lên được.
      - Ông có tin gì mới ? - Phelps hỏi ngay tức khắc.
      - Như tiên liệu bản báo cáo của tôi là tiêu cực - Holmes đáp.
      - Nhưng ông nản chí chứ?
      - .
      - Nếu chúng ta kiên trì thắng. – Harrison .
      - Ở đây, chúng tôi có nhiều điều để với ông hơn - Phelps khi ngồi xuống trường kỷ.
      - Tôi hy vọng ông có tin gì mới.
      - Chúng tôi gặp biến cố...
      Gương mặt Phelps trở thành rất nghiêm trọng và ở đằng sau tia nhìn của , là sợ hãi.
      - Tôi bắt đầu tin rằng tôi là mục tiêu của mưu quỷ quái nào đó.
      - A! - Holmes kêu lên.
      - Điều đó khó mà tin nổi, bởi vì tôi có kẻ thù nào. Tuy nhiên, sau đêm qua, tôi tới kết luận như thế.
      - Mong ông kể cho nghe.
      - Trước hết, đó là đêm đầu tiên có người canh chừng trong phòng tôi. Tôi cảm thấy mình khoẻ mạnh đến mức còn cần đến y tá nữa. Tuy nhiên, tôi tắt đèn trong khi ngủ. Vào khoảng 2 giờ sáng, tôi ngủ bị đánh thức bởi tiếng động . tiếng động giống như tiếng con chuột gây ra khi nó gặm tấm ván. Tôi nằm yên để lắng nghe, với cảm tưởng đó chỉ là con chuột nhắt. Rồi tiếng động lại mạnh hơn và từ của sổ vang lên tiếng động gọn của kim khí. Tôi ngồi dậy. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: người nào đó cố nhét dụng cụ qua khe hở giữa các khung của và cái tiếng động lớn là do then móc cửa sổ bị đẩy ra.
      Trong 10 phút, tôi nghe thấy gì hơn: tựa hồ như người ta muốn kiểm tra xem tiếng động có đánh thức tôi dậy . Rồi tiếng kêu cọt kẹt và cánh của mở ra từ từ. Tôi biết cách tự chủ để chờ xem việc ra sao, nên nhảy ra khỏi giường. người đàn ông ngồi xổm bên khuôn cửa sổ. Tôi nhìn y vì y chuồn như tia chớp, tấm áo choàng che kín phần dưới mặt y. điều mà tôi tin chắc, là trong tay y có cầm con dao dài.
      - Thế rồi sau đó ông làm gì?
      - Tôi định gọi chuông và đánh thức cả nhà dậy. Nhưng chuông đặt trong bếp còn các gia nhân ngủ tuốt cao. Tôi la lên. Joseph chạy xuống và báo động cho những người còn lại trong nhà. Joseph và người hầu phòng tìm thấy những dấu chân trong cái bồn hoa ở mé dưới cửa sổ, nhưng thời tiết khô ráo của mùa này khiến họ còn theo được dấu vết bãi cỏ. Tuy nhiên có chỗ hàng rào gỗ dọc theo con đường là nơi có những dấu vết. Họ cho rằng có ai đó nhảy qua và làm cho hàng rào bị hư. Tôi chưa báo với cảnh sát địa phương, bởi vì tôi mong được biết ý kiến ông trước .
      Câu chuyện kể của Phelps tạo ra tác dụng khác thường nơi Holmes. đứng lên khỏi ghế và lại lại trong phòng trong trạng thái bị kích động.
      - Hoạ vô đơn chí! - Phelps cười, kết luận.
      - Ông có thể dạo vòng quanh nhà với tôi được chăng? - Holmes .
      - Tôi rất mong được hưởng chút nắng trời. Joseph cùng .
      - Và cả em nữa - Harrison .
      - cứ ngồi ngay tại cái chỗ mà ngồi đây - Holmes kêu lên.
      thiếu nữ ngồi xuống, bất mãn. cố nhập bọn, và bốn người chúng tôi ra khỏi nhà. Chúng tôi dọc theo bãi cỏ để tới khuôn cửa sổ. Quả ở đó có những dấu chân bồn hoa, nhưng những dấu đó bị làm rối và còn nữa. Holmes cúi nghiêng xuống trong chốc lát rồi đứng lên và nhún vai:
      - Chẳng ai rút ra từ đây dược cái gì! Chúng ta hãy quanh nhà để xem vì sao căn phòng này lại được chọn lựa.
      - Căn phòng được nhìn thấy hơn từ ngoài đường - ông Joseph gợi ý.
      - À phải, đương nhiên ở đây có cánh cửa ắt hẳn định cạy phá. Cửa này dùng để làm gì?
      - Đây là lối vào của những người giao hàng, ban đêm được khóa lại.
      - Trước đây có lần nào báo động tương tự ?
      - Chưa bao giờ - Phelps đáp.
      - Trong nhà ông có cất giữ những bát đĩa hoặc đồ dùng bằng bạc khiến cho kẻ trộm dòm ngó chăng?
      - Chẳng có món đồ đắt tiền nào cả.
      Holmes dạo, tay đút trong túi, và dáng vẻ vô tư lự đó hoàn toàn trái ngược với các thói quen của .
      - Nhân đây, - với Joseph, - ông tìm ra chỗ mà từ đó kẻ trộm leo lên hàng rào. Chúng ta tới đó coi qua?
      Người thanh niên dẫn chúng tôi đến nơi mà thanh của hàng rào bị nứt rạn. mẩu gỗ hãy còn vướng đó. Holmes rút mẩu gỗ ra và quan sát kỹ lưỡng.
      - Ông tin là cái này mới có từ đêm qua? Tôi có cảm tưởng là nó có từ lâu rồi, phải thế ?
      - Rất có thể là như ông .
      - Tôi thấy nơi nào mà ai đó lại nhảy từ phía bên kia sang. , chúng ta thu được tin tức nào ở đây: Hãy trở về phòng để bàn chuyện.
      Phelps rất chậm và vịn vào cánh tay người vợ tương lai. Holmes băng mau qua bãi cỏ và chúng tôi tới khuôn cửa sổ trước hơn hai người kia.
      - Thưa Harrison - Holmes với giọng nghiêm trọng - phải ở lại đây suốt ngày, được rời khỏi phòng giây phút nào cả. Việc này rất quan trọng.
      - Chắc chắn rồi, bởi vì ông muốn thế, thưa ông Holmes - thiếu nữ trả lời, vẻ ngạc nhiên.
      - Khi ngủ, hãy khóa cửa phòng từ bên ngoài và hãy cất giữ chìa khóa. hứa với tôi làm như thế chứ?
      - Nhưng còn Phelps...
      - ấy London cùng với chúng tôi.
      - Và ông buộc tôi phải ở lại nơi đây?
      - Vì ấy. giúp cho ấy. Mau lên! Hãy hứa .
      gật đầu vào lúc hai người kia tới ngang tầm chúng tôi.
      - Tại sao em lại cứ phiền muộn trong căn phòng đó, Annie? - kêu lên - Hãy dạo vòng dưới nắng .
      - , cám ơn Joseph. Em hơi bị nhức đầu. Phòng này lại mát mẻ và thoải mái nên em thích lắm.
      - Giờ đây ông đề nghị điều gì, thưa ông Holmes? - Phelps hỏi.
      - Nếu ông có thể cùng tới London với chúng tôi điều đó giúp ích cho tôi rất nhiều.
      - Ngay tức khắc sao?
      - Trong vòng tiếng đồng hồ nữa.
      - Tôi hoàn toàn mạnh khoẻ. Ông cầu tôi ở lại London trong đêm nay?
      - Tôi định đề nghị như vậy.
      - Nếu vị khách đêm qua trở lại tìm gặp tôi y thấy con chim bay rồi. Thưa ông Holmes, ông có muốn Joseph cùng , để chăm sóc tôi?
      - Ồ ! bạn Watson là bác sĩ, ấy chăm sóc cho ông. Chúng ta dùng bữa ở đây, sau đó chúng ta cùng London.
      Tất cả được thu xếp như đề nghị. Harrison xin lỗi thể ra khỏi phòng. Tôi hiểu được cái dự định của bạn, ngoài cái việc muốn tách xa hai người hứa hôn. Nhưng sau khi cùng với chúng tôi ra ga và đưa chúng tôi lên toa tàu rồi, Holmes báo cho chúng tôi biết là phải ở lại Working:
      - Còn có hai hoặc ba điều mà tôi muốn làm cho sáng tỏ. vắng mặt của ông, thưa ông Phelps, tầm lợi ích nào đó. Watson, khi về tới London, đưa Phelps về phố Baker và ở bên bạn cho tới lúc tôi trở về. Là bạn cũ, hai hẳn có rất nhiều chuyện để với nhau. Ông Phelps có thể ngủ trong phòng của tôi. Tôi trở về nhà dùng bữa điểm tâm.
      - Nhưng còn việc điều tra của chúng ta ở London sao? - Phelps hỏi, cáu kỉnh.
      - Chuyện đó có thể đợi đến ngày mai.
      - Ông có thể báo cho gia đình tôi biết là tôi trở về vào tối mai - Phelps kêu lên, vào lúc con tàu chuyển bánh.
      - Đâu có ai trông thấy tôi ở nhà . - Holmes đáp, vui vẻ vẫy tay.
      Phelps và tôi tán chuyện trong lúc đường.
      - ấy muốn thu thập đầu mối liên quan tới vụ trộm đêm vừa qua. Riêng tôi, tôi cho đó là tên trộm bình thường.
      - Thế ý ra sao?
      - Có lẽ cậu rằng đó là do hệ thần kinh của tôi bị mệt mỏi, nhưng tôi tin rằng có mưu chính trị triển khai quanh tôi và những kẻ chủ mưu lại còn muốn ám hại tôi. Điều đó nghe ra có vẻ phi lý, nhưng cậu cứ xem việc . Tại sao kẻ trộm lại cạy phá cửa sổ phòng ngủ trong đó có cái gì để mà đánh cắp cả, và tại sao y lại tới với con dao lớn?
      - Đó có thể chỉ là dụng cụ mà kẻ trộm dùng để cạy cửa.
      - Nó chính là con dao. Tôi thấy lưỡi dao lóe lên cách ràng.
      - Nhưng chẳng hiểu vì sao lại bị theo dõi với ác tâm tới nhường đó!
      - A! Đó chính là vấn đề.
      - Nếu Holmes tin lời là chính xác ấy hẳn tiến được bước lớn về nhận dạng kẻ đánh cắp bản hiệp ước về hải quân. vô lý khi giả thiết rằng có tới hai kẻ thù, kẻ đánh cắp tài liệu và kẻ muốn ám hại .
      - Nhưng ông Holmes rằng ông ấy trở về nhà tôi.
      - ấy chưa bao giờ hành động mà có lý do chính đáng. Hãy tin lời chúng tôi.
      Tới đó câu chuyện của chúng tôi chuyển sang những đề tài khác.
      Bữa đó là ngày kiệt sức đối với tôi. Phelps hãy còn yếu sau cơn bệnh dài ngày và nôn nóng. Tôi cố gắng làm cho Phelps quan tâm tới những vấn đề xã hội, tất cả những cái gì có thể làm cho khuây khỏa, nhưng tôi chỉ uổng công. luôn luôn quay lại với bản hiệp ước bị mất. tự hỏi Holmes làm gì, huân tước xử trí ra sao, sáng mai chúng tôi nhận được những tin tức nào. Đến tối, trở thành hoàn toàn khó chịu.
      - Cậu có tin ở Holmes ? - Phelps hỏi.
      - ấy hoàn thành được nhiều vụ đáng kể.
      - Nhưng có bao giờ ấy làm sáng tỏ được việc đen tối như vụ này chưa?
      - Ồ, có chứ?
      - Nhưng có vấn đề mà những tầm lợi ích lớn lao đến thế bị lâm nguy?
      - Cái đó tôi biết. Trái lại, ấy hoạt động thay cho ba gia đình trị vì ở châu Âu trong những vụ trọng đại.
      - Tôi chẳng còn biết nghĩ sao nữa. Cậu có tin là ấy có hy vọng ? Cậu có tin là ấy chắc thành công ?
      - ấy gì hết.
      - Dấu hiệu xấu?
      - Chính khi ấy ở hướng tốt, mới ít . Bạn thân mến ơi, bực dọc chẳng được việc gì. hãy ngủ, ngõ hầu được tỉnh táo.
      Bạn tôi theo lời khuyên của tôi, nhưng bản thân tôi cũng trằn trọc mãi. Tôi đặt ra cả trăm câu hỏi. Tại sao Holmes lại ở lại Working? Tại sao lại cầu Harrison ở nguyên trong phòng người bệnh suốt ngày hôm đó? Tại sao lại báo cho gia đình Phelps biết việc ở lại? Tôi hành hạ bộ óc mình cho tới khi hai mắt sụp xuống vì mệt mỏi.
      Tôi thức giấc vào lúc 7 giờ và tôi ngay sang phòng Phelps: suốt đêm qua ngủ. Câu hỏi đầu tiên của là chuyến trở về của Holmes.
      - Holmes hứa là Holmes giữ lời. Và giờ giấc đối với ấy là giờ giấc: sớm quá mà cũng muộn quá.
      Tôi đúng, bởi lâu sau lúc 8 giờ, cỗ xe ngựa dừng lại trước nhà và bạn tôi ra khỏi xe.
      Đứng cửa sổ, chúng tôi thấy bàn tay trái bị quấn băng; bộ mặt u tối, nhợt nhạt. vào trong nhà, nhưng vài giây trôi qua, tôi mới thấy lên tới cầu thang.
      - ấy có vẻ như người bại trận? – Phelps kêu lên.
      Tôi buộc phải nhìn nhận là Phelps có lý. Tôi :
      - Cuối cùng, chìa khóa của bí mật chắc chắn là ở đây, ở London.
      Phelps thốt ra tiếng rên rỉ:
      - Tôi biết chìa khóa đó là cái gì. Nhưng tôi hy vọng biết bao về chuyến trở về của ông ấy. Hôm qua tay ông ta đâu có bị băng bó? Có chuyện gì xảy ra vậy?
      - bị thương đấy chứ, Holmes? - Tôi hỏi, khi bước vào phòng khám.
      - Suỵt! vết xước do tôi vụng về mà ra. Vụ của ông, thưa ông Phelps, là trong những vụ hắc ám nhất mà chưa bao giờ tôi nắm trong tay.
      - Có vượt quá sức ông ?
      - Đó là gian truân rất lý thú.
      - Chuyện gì xảy ra?
      - Để ăn điểm tâm xong , bạn Watson thân mến. Tôi đoán chừng rằng có hồi nào cho lời nhắn của tôi liên quan tới cỗ xe ngựa? Ừ phải, đâu cứ lần nào tấn công là cũng thắng.
      Bàn ăn dọn sẵn và bà Hudson đem trà và cà phê tới. Holmes háu ăn, tôi tò mò, còn Phelps ở độ chót của ủ rũ
      - Bà Hudson quả rất khéo léo - Holmes khi thấy đĩa thịt gà nấu cà ri - Nghệ thuật nấu ăn của bà được đa dạng, nhưng với tư cách là phụ nữ xứ Scotland, bà biết thế nào là bữa điểm tâm. có món sò đằng đó , Watson?
      - Trứng chiên jambon.
      - Tốt, ông dùng món gì nào, ông Phelps: gà nấu cà ri, trứng hay là ông muốn tự mình chọn lấy món ăn?
      - Cám ơn, tôi chẳng nuốt nổi cái gì.
      - Ô, coi nào! Hãy dùng cái món này, để ngay trước mặt ông đó.
      - Xin cám ơn, tôi thể nào ăn được!
      - Thế - Holmes với cái nháy mắt tinh nghịch - ông nhường nốt món đó cho tôi chứ?
      Phelps mở cái vung ra và thốt lên tiếng kêu. Mặt trở thành trắng bệch. Ở giữa cái liễn đựng thức ăn có cuộn giấy màu xám xanh. vồ lấy cuộn giấy, chăm chăm nhìn vào nó, đứng lên và múa may trong phòng. hét lên vì sung sướng. Đoạn rơi xuống ghế bành và kiệt sức.
      - Thôi chứ! Thôi chứ - Holmes khi vỗ lên vai - Tôi biết ông mòn mỏi chờ đợi.
      Phelps nắm lấy bàn tay và hôn nó:
      - Chúa phù hộ cho ông! Ông cứu được danh dự cho tôi.
      - Danh dự của tôi cũng bị lâm nguy, nếu tôi thất bại trong vụ này.
      Phelps nhét bản tài liệu vào túi trong của áo vét.
      - Tôi dám làm gián đoạn lâu hơn bữa điểm tâm của hai ông, nhưng tôi lại mong muốn được biết, ông thu hồi được nó như thế nào.
      Sherlock Holmes uống tách cà phê và lưu ý đến món trứng chiên jambon. Sau đó, đứng lên, mồi mẩu thuốc và ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành:
      - Sau khi tạm biệt các bạn ở nhà ga, tôi ngang qua vùng đồng quê ở Surrey, tới làng tên là Riphey. Tới đó, tôi uống trà ở lữ quán và chế đầy bầu nước, nhét bánh sandwich vào đầy túi. Tôi ở lại đó cho tới chiều tối. Đoạn tôi quay trở lại Working vào đúng lúc mặt trời lặn. Tôi đợi cho con đường vắng hẳn bóng người rồi mới leo lên hàng rào về nhà.
      - Nhưng cửa song sắt mở mà? - Phelps .
      - Đúng. Nhưng tôi có những sở thích đặc biệt trong lãnh vực này. Tôi chọn cái chỗ có ba cây thông và, nhờ những cành nhánh của ba cây đó che chở mà tôi lọt được vào trong mà ai trông thấy. Tôi náu mình giữa những bụi cây, rồi bò từ bụi này sang bụi kia... Các bạn cứ coi tình trạng thảm hại của hai đầu gối quần tôi đủ?
      Sau chót, tôi tới được lùm cây đỗ quyên đối diện với cửa sổ phòng ông Phelps. Tới đó tôi ngồi xổm xuống và chờ đợi.
      Tấm mành còn chưa được buông xuống; tôi trông thấy Harrison ngồi đọc sách bên cạnh bàn. Tới 10 giờ 15, gấp sách lại, cột những cánh cửa lá chập lại và lui ra. Tôi nghe tiếng khép cánh cửa và cảm thấy gần như chắc chắn xoay chìa khóa trong ổ khóa.
      - Chìa khóa? - Phelps ngạc nhiên.
      - Phải. Tôi cho Harrison những chỉ thị để khóa cửa lại từ bên ngoài và đem theo chìa khóa ấy về phòng ngủ. làm theo lời dặn dò của tôi đúng từng ly từng tý, ra, các ngọn đèn bị thổi tắt. Đêm rất đẹp trời, nhưng tôi mệt mỏi. Ở Working, tháp chuông giáo đường báo từng khắc. Sau chót, vào khoảng 2 giờ sáng, bất thình lình tôi nghe thấy tiếng động của cái then cài bị người ta đẩy ra và tiếng kêu cọt kẹt của cái chìa khóa. lát sau, cánh cửa bên dành cho những người giao hàng mở ra và ông Joseph xuất dưới ánh trăng.
      - Joseph? - Phelps kêu lên.
      - Ông ta để đầu trần, nhưng vai có vắt cái áo choàng đen. Ông ta nhón gót trong bóng tối, dọc theo bức tường. Khi tới trước cửa sổ, ông lùa con dao dài xen qua khung cửa sổ và đẩy then móc cửa sổ lên. Thế rồi ông mở rộng cánh cửa sổ ra và dùng con dao ông lùa nó qua khe hở giữa những cửa lá chập, nậy cái thanh lên và tách chúng ra.
      Từ chỗ mai phục, tôi nhìn vào trong phòng . Ông ta đốt hai cây nến, đặt mặt lò sưởi, đoạn lật cái góc tấm thảm gần cánh cửa ra vào lên. Liền đó ông cúi xuống và rút ra miếng ván chân tường, lấy ra cuộn giấy, đặt miếng ván chân tường lại, phủ tấm thảm lại như trước, thổi tắt những ngọn nến và rơi vào trong hai cánh tay tôi chờ đợi sẵn. Mẹ kiếp, ta hung dữ cầm dao xông thẳng vào tôi. Tôi phải đốn ngã xuống đất tới hai lần. làm đứt mạch máu ở ngón tay tôi. Tất cả chuyện đó xảy ra trước khi tôi có thể chế ngự được . chỉ còn có thể nhìn đời bằng con mắt thôi, nhưng từ con mắt đó, ném cho tôi tia nhìn giết người... tóm lại, sau cùng chịu giao trả cho tôi tập tài liệu. Khi thu hồi lại được bản hiệp ước, tôi để cho nhưng sáng nay tôi gửi cho Forbes vài chi tiết. Nếu Forbes nhanh tay bắt kịp con chim ta cứ tự xoay xở lấy: nhưng nếu ta lại thấy cái tổ trống rỗng càng hay. Tôi có cảm tưởng rằng cả huân tước lẫn ông Phelps, chẳng ai muốn đưa vụ này ra tòa?
      - Vậy là trong mấy tuần lễ, giấy tờ bị đánh cắp ở trong phòng tôi?
      - Đúng vậy!
      - Và Joseph là tên vô lại?
      - Hừm! Tôi được ta cho biết ta thua đậm khi chơi ở thị trường chứng khoán, và ta dám làm bất cứ chuyện gì để tạo dựng lại địa vị của mình. ta chẳng cần quan tâm chi tới hạnh phúc của em mình và cũng cóc cần đến danh tiếng của ông.
      Phelps lún xuống trong ghế bành.
      - Những điều ông làm tôi choáng váng.
      - Tôi bắt đầu nghi ngờ Joseph, vì trong đêm xảy ra vụ trộm, ông có ý định trở về cùng với ta. Mặt khác, là tự nhiên khi ta tới rủ ông cùng về, bởi vì ta biết đường vào văn phòng ông. Rồi khi được biết có người muốn bẻ khoá cửa sổ để vào phòng ngủ của ông, trong cái phòng mà ai, ngoài Joseph, có thể cất giấu cái gì đó, những nghi ngờ của tôi chuyển thành tin chắc. Vậy kẻ muốn đột nhập phải là kẻ biết những chuyện xảy ra trong nhà.
      - Tôi mù quáng biết chừng nào!
      - Những việc được tóm tắt như thế này: Joseph vào trong Bộ ngoại giao qua ngả phố Charles, ta thẳng tới văn phòng ông đúng vào lúc ông vừa bỏ ra ngoài. Vì thấy có ai, ta giật chuông. Trong lúc gọi chuông, ta trông thấy tờ giấy trải mặt bàn. Chỉ lướt qua, ta thấy ngay là thần may mắn mỉm cười với mình. ta vội nhét nó vào túi rồi bỏ .
      ta trở về Working bằng chuyến tàu đầu tiên để xem cất giấu vào trong chỗ mà ta cho là nơi cất giấu tốt, với ý định đến ngày hôm sau hoặc ngày hôm sau nữa lấy để đưa ra làm tiền. Nhưng bất thình lình ông lại trở về. ta được báo trước, và bị đuổi ra khỏi căn phòng trước đó dành cho ta. Và từ đó cho mãi tới ngày hôm qua, lúc nào trong phòng cũng có hai người, khiến ta thể lấy lại được kho báu. Cái tình huống đó hẳn làm cho ta điên lên được. ta thử lấy cắp nó đêm hôm trước, nhưng thất bại bởi vì ông thức giấc. Ông hãy nhớ lại là buổi tối hôm trước, ông uống thuốc ngủ như mọi khi.
      - Đúng vậy.
      - ta phải thu xếp để cho thuốc nước phải có công hiệu, và ta tin rằng ông thức dậy. Tôi tin chắc rằng ta làm lại mưu toan đó khi tôi đưa ông về London. Tôi cầu Harrison rời phòng suốt ngày hôm đó để ta thể ra tay trước chúng ta... Tôi nghi là giấy tờ ở trong phòng, nhưng tôi muốn tự mình tìm kiếm. Để cho ta lấy chúng ra, tôi đỡ mất công biết bao.
      - Tại sao ta lại muốn vào phòng qua ngả cửa sổ, trong lúc mà ta có thể vào bằng cửa chính?
      - Muốn tới được cửa ra vào chính, ta phải qua trước bảy căn phòng ngủ. Phần khác, ta có thể bỏ chạy trốn qua ngả vườn.
      - ta có ý định giết người sao? Con dao có thể chỉ là dụng cụ để đào tường khoét gạch thôi ư?
      Có thể lắm! - Holmes nhún vai trả lời.
      Hết
      ---
      [1] Nguyên văn: Monsieur Dubugue

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :