Septimus Heap - Tập 3: Y Thuật - Angie Sage [Kỳ Ảo]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 11. Tấm kính

      Septimus bồn chồn đứng trước tấm kính, cố ý nhìn tịt xuống đôi ủng của mình để tránh nhìn vào kính. Nó nhớ ngài Alther kể về cái lần ngài nhìn vào tấm kính và thấy hồn Mai phục mình. Nó sợ mình có thể thấy thứ tương tự. “Làm sao mụ biết có nhìn vào Tấm Kính hay ?” Nó hỏi.

      “Em biết,” Jenna đáp, ỉu xìu lặn vặn túm lông viền áo khoác mới của mình. “Em hỏi. Em sợ mụ đảo ngược phép Giành Lại đến nỗi em bảo đảm với mụ là bắt nhìn vào Tấm Kính.”

      “Mụ có tại sao phải làm thế ?”

      . Mụ chỉ… đe dọa thôi. Kinh khủng lắm. Liệu mụ có làm như mụ , Sep? Mụ có đảo ngược phép Giành Lại ?”

      Septimus tức giận lê đôi ủng sàn đá hoa cương. “Có chứ, mụ làm đấy, Jen. Trong vòng hai mươi bốn giờ, nếu mụ có khả năng làm điều đó cá là mụ làm. dám chắc là trước kia mụ nhiều lần cứu người tội nghiệp nào đó, xong rồi giữ họ lại để đòi tiền chuộc.”

      “Mụ ấy khủng khiếp quá,” Jenna làu bàu. “Em ghét mụ.”

      “Bà Marcia bảo ta nên ghét ai cả,” Septimus . “Bà thường dặn là hãy xỏ vào giày của họ trước rồi hẵng phán xét họ.”

      “Bà Marcia chịu xỏ vào giày của ai đâu,” Jenna với nụ cười nhăn nhó, “trừ đôi ủng da trăn tía, mũi nhọn, đính đinh khuy duyên dáng của bà.”

      Septimus cười phá lên sau đó im bặt. Cả Jenna cũng vậy. Chúng cảm thấy bị hút về phía Tấm Kính nhưng đứa nào dám nhìn nó. Bỗng dưng Septimus buột mồm. “ nhìn nó đây, Jen.”

      “Giờ à?” Giọng Jenna bị lạc thít lên.

      “Ừ. Làm xong cho rồi. Rốt cuộc điều tệ hại nhất xảy ra là gì? Có thể thấy hồn hoặc Cái Vật già cú đế gớm ghiếc, nhưng đến thế là cùng. Cái ta nhìn đâu thể làm đau ta, đúng ?”

      “Ờm. Em mong là vậy…” Jenna coi bộ vững tin lắm.

      “Thế làm đây. Em trở lên buồng rồi lên ngay. Nhé?”

      , em để ở đây mình đâu,” Jenna phản đối.

      “Nhưng nếu có hồn Mai phục , Jen à, cấm em được nhìn nó đấy. Kẻo nó Ám cả em nữa. biết cách xử trí bọn hồn chứ em .”

      “Nhưng…” Jenna chù chừ.

      , Jen. Nhé.” Septimus nhoẻn cười với Jenna. “ mau nào.”

      Jenna lưỡng lự tới chân cầu thang bạc dẫn lên buồng độc dược. Khi an toàn ra khỏi phòng Hoàng Bào, Septimus hít hơi sâu để ổn định thần kinh.

      Sau đó nó nhìn vào Tấm Kính.

      Mới đầu chẳng thấy gì. Tấm Kính đen xỉn, như ao sâu sình lầy. Septimus cúi xuống sát hơn, thắc mắc sao thấy bóng mình và, dù cố hết sức cưỡng lại, nó tưởng tượng ra đủ loại Linh hồn khiếp đảm bám vào vai mình, Mai Phục mình.

      ổn chứ? nhìn vào gương chưa?” Tiếng Jenna từ buồng vọng xuống.

      “Ờm… rồi. Giờ nhìn…”

      thấy gì vậy?”

      có gì… chỉ tối đen… à, khoan… giờ thấy gì đó… nó, nó quái đản… ông già… nhìn trừng trừng. Ông ta có vẻ rất ngạc nhiên.”

      ông già?” Jenna hỏi.

      “Ồ, quái lạ…”

      “Hả?” Giọng Jenna lo lắng.

      “Ờ, nếu giơ tay phải lên ông ấy cũng giơ tay phải lên. nhíu mày ông ấy cũng nhíu mày.”

      “Giống như soi gương vậy?”

      “Ờ, ừ. A, biết nó là gì rồi… Nó thuộc loại Gương-Bảo-Việc-Xảy-Tới. Rất phổ biến thời xưa. Hay bán dạo ở chợ trời. Chúng cho ta biết diện mạo của mình thế nào khi ta sắp chết.”

      “Ghê quá, Sep,” Jenna vọng xuống.

      “È. Đời nào mình muốn giống thế. Eo ơi. Coi, nếu thè lưỡi, ông… hây!”

      “Gì đó?” Jenna thể chịu nổi nữa. bé hấp tấp xuống cầu thang và vào phòng Hoàng Bào đúng lúc thấy Septimus bật bắn ra khỏi Tấm Kính, rớt huỵch xuống sàn nhà đá hoa cương bóng loáng, té tuột luốt. Trong khi nó lồm cồm bò dậy và tránh xa ra, Jenna thét kinh hãi. đôi bàn tay nhăn nheo, khô đét thò ra khỏi Tấm Kính. Những ngón tay xương xẩu, dài ngoằng, móng vàng khè, cong vếu tóm lấy áo chẽn của Septimus, giữ rịt lấy, xong chúng quấn mấy vòng vào đai lưng Học Trò và kéo nó về phía Tấm Kính. Hồn xiêu phách lạc, Septimus cố giẫy giụa, cự tuyệt lại đám vuốt chim túm chắc lấy mình.

      “Jen! Cứu, Je…” nó thét lạc giọng, thế rồi nín bặt luôn. Đầu Septimus biến mất vào Tấm Kính, như chìm lút xuống ao mực.

      Jenna phóng lẹ xuống cầu thang, trượt băng qua sàn, kinh hoàng chứng kiến vai của Septimus biến phụt vào Tấm Kính. bé nhoài tới, chộp được hai chân thằng và lôi hết sức lực. Từ từ, từ từ, Septimus bắt đầu ló ra khỏi Tấm Kính. Jenna bám chắc như con chó giữ cục xương của nó, quyết bao giờ, khi nào để tuột mất Septimus. Từng tí từng tí , như được rút lên khỏi bãi lún của đầm Cỏ Thô, đầu Septimusbật thoắt ra. Nó quay lại hét. “Cẩn thận, Jen! Đừng để lão ấy bắt em!”

      Jenna ngước lên, thấy ngay bộ mặt mà suốt đời bao giờ quên. Đó là cái mặt của lão già – Cổ Nhân – mũi dài khoằm khoằm, đôi mắt lõm hốc trổ đờ ra kinh ngạc nhìn Jenna, làm như có quen biết bé vậy. Từng lọn tóc dài, vàng đục xõa xượi xuống, phủ kín đôi tai già nua to bành. Hốc miệng chứa ba cái răng cải mả há to ra méo mó vì tập trung cố kéo Septimus khỏi bé. Bất thình lình, bằng cú giật hoành tráng, lão thắng. Septimus bay chíu qua Tấm Kính, còn Jenna bị bỏ trơ lại trong phòng Hoàng Bào, trợn trạo, kinh hồn bạt vía nhìn những gì còn lại của Septimus – đôi ủng nâu cũ, trống lốc trong tay mình.

      Mặc kệ những ngón chân bị toác vì đá Tấm Kính và cổ họng đau rát do thét gào đòi trả Septimus lại đây. Jenna lao bắn lên cầu thang, vẫn cầm chặt đôi ủng của Septimus. Khi an vị trong phòng độc dược bất định, bé đóng sầm cửa sập lại, mở chiếc ngăn kéo cuối cùng bên dưới những kệ trống ra. bé nghe tiếng kim loại xủng xoảng quen quen, và rồi, cố thở lấy hơi, Jenna nôn nóng chờ cho đến khi cái gì đó trong buồng dịch chuyển, và bé ngửi thấy mùi bắp cải nấu quen thuộc.

      Jenna đẩy mở cửa và bước ra ngoài trời, vào ngôi nhà tranh của dì Zelda.

      “Ôi,” giọng giật mình từ tấm thảm bên lò sưởi thốt lên. thằng bé tóc dài rũ rượi, bận áo chẽn thô màu nâu, thắt sợi dây da cũ mèm, đứng bật dậy và kinh hãi nhìn. Nhận ra Jenna, thằng Sói giãn người ra, , “Hây, lại là . thể chỗ khác được hả?” Đến chừng để ý vẻ nhớn nhác hoảng loạn của Jenna, nó liền hỏi: “Jenna, chuyện gì vậy?”

      “Ồ… 409,” Jenna thở dốc, nhiễm thói quen của Septimus gọi thằng Sói bằng số hiệu Thiếu sinh quân hồi trước của nó. “Dì Zelda đâu? Em phải gặp dì Zelda. Khẩn cấp.”

      Thằng sói cần hối tiếc cái việc phải bỏ lại quyển nhập môn điều chế thuốc bên lò sưởi để chạy ra với Jenna. Nó vốn bao giờ quán triệt nổi kỹ năng đọc, và luôn sợ khiếp vía ông thầy dạy đọc và viết cho nó trong Thiếu sinh quân. Còn giờ, dầu nó có cố gắng đến đâu chăng nữa, và dầu dì Zelda có kiên nhẫn với nó thế nào, cách kết hợp những chữ cái với nhau để tạo thành từ - hoặc thành từ – vẫn còn rất lơ mơ đối với thằng Sói. “Bà có ở nhà, Jenna,” nó giải thích. “Bà hái thảo dược đầm lầy với các thứ rồi. Ủa, đó là ủng của 412 phải ?”

      Jenna đau khổ gật đầu. Lúc này chắc là dì Zelda biết phải làm gì, giờ bé dựa hẳn người vào cửa buồng, bất giác mệt rũ ra.

      “Tôi giúp gì được ?” Thằng sói lẳng lặng , vẻ lo âu đượm trong đôi mắt nâu đậm của nó.

      “Em biết…” Jenna suýt gào toáng lên, nhưng kịp nén lại được. Mình phải bình tĩnh, bé tự nhủ. Mình phải nghĩ ra cách gì đây. Phải nghĩ thôi.

      “412 gặp nạn hả?” Thằng Sói hỏi.

      Jenna lại gật đầu biết phải gì bây giờ. Thằng Sói quàng tay qua vai Jenna. “Thế chúng ta cứu cho nó thoát nạn… nhé?”

      Jenna gật đầu.

      “Tôi với . Khoan , tốt hơn tôi nên viết mẩu nhắn cho dì Zelda để dì biết chúng ta đâu.” Thằng Sói xông tới chiếc bàn viết của dì Zelda, cái bàn lố bịch với những cẳng chân vịt làm chân và có thêm đôi cánh tay để phụ sắp xếp giấy tờ – cả hai đều được Bà Marcia Overstrand ưu ái tạo ra. Dì Zelda ghét mấy thứ rườm rà thêm thắt đó lắm, nhưng thằng Sói học cách tận dụng chúng cho mình.

      “Làm ơn, giấy,” nó bảo hai cánh tay. Lập tức đôi bàn tay vùng về ở đầu hai cánh tay khoắng tít vào ngăn kéo bàn, lôi ra tờ giấy nhàu nhĩ, vuốt thẳng nó lại và đặt ngay ngắn bàn.

      “Bút, vui lòng,” thằng Sói .

      Bàn tay phải chộp lấy cây bút lông trong khay để bàn và cầm bút khéo cách đáng ngạc nhiên, nhấp nhấp phía tờ giấy.

      “Nào viết: Kính gởi dì Zelda… gì đó?” Bàn tay trái nóng nảy gõ lóc cóc ngón tay vào tờ giấy. “Ồ, xin lỗi. Mực, vui lòng. Nào viết: Kính gởi dì Zelda, Jenna và con giải cứu 412. Gởi dì tình thương của 409. À, và Jenna. Tình của Jenna nữa. Xong rồi, cảm ơn. Cảm ơn, mi ngừng được rồi. Cất bút . , cần thấm mực, cứ để bàn của bà và phải bảo đảm bà nhìn thấy.” Đôi bàn tay líu quíu cất cây bút , xong rồi hai cánh tay khoanh lại đầy bức bối, ra điều hài lòng vì bị sai viết ít quá.

      thôi,” Jenna giục giã, bước trở lại cánh cửa buồng Độc dược bất định và Độc dược đặc biệt.

      “Tới ngay,” thằng Sói , bỗng rồi nhớ ra gì đó, nó chạy ù lại lò sưởi và nhặt lên cái bánh mì bắp cải chưa ăn.

      Jenna rầu rĩ nhìn miếng bánh. “ thích nó hả?”

      . Chịu nổi. Nhưng 412 rất thích. Tôi nghĩ cậu ấy thích cái này.”

      ấy cần số mệnh hơn cái bánh mì bắp cải nhiều, 409,” Jenna thở dài.

      “Ờ. Rồi, tôi với kể cho tôi nghe việc, được chứ?”

      Thằng Sói và Jenna từ căn buồng bước vào phòng Nữ hoàng, với thằng Sói mang trong mình tâm trạng ủ ê. Jenna kể cho nó xong việc xảy ra. Chúng bước ngang qua ghế của nữ hoàng, nhận ra vẻ choáng sốc của bà trước thay đổi quá sức đột ngột của Septimus – từ cậu Học Trò chỉnh tề tới thằng bé trông hoang dại. Khi thằng Sói qua con ma, nó cảm thấy lông đằng sau gáy mình nổi hết cả lên, nó dáo dác nhìn quanh như con thú hoảng sợ, từ sâu trong cổ họng vuột ra tiếng gừ. “Có gì đó kỳ kỳ ở đây, Jen,” nó thào.

      Jenna rùng mình, thất kinh vì tiếng tru man rợ của thằng Sói. “ nào. Chúng ta ra khỏi đây mau.” bé nắm lấy tay thằng Sói và lôi nó qua cánh cửa.

      Jillie Djinn, người vừa Được Chọn là Tổng trưởng Sao chép Mật chờ chúng.

      Chương 12. Jillie Djinn

      “Ối, Djinn!” Jenna hết hồn, giật bắn lại khi bất ngờ thấy chiếc áo thụng Tổng trưởng màu chàm, óng ánh vàng lẫn vào đâu được. Làm sao Jillie Djinn biết mình vừa ở đâu? Và làm sao bà Tổng trưởng biết vị trí phòng Nữ hoàng ở đâu, trong khi ngay cả bà Marcia cũng biết.

      “Tâu lệnh bà,” Jillie Djinn hình như nín thở. Bà cúi đầu kính cẩn, tấm áo thụng mới bằng lụa kêu sột soạt theo từng chuyển động của bà.

      “Làm ơn đừng gọi tôi thế,” Jenna phát cáu. “Hãy gọi tôi là Jenna. Jenna thôi. Tôi chưa là nữ hoàng. Mà tôi cũng muốn làm nữ hoàng. Đó chẳng qua là cái người khủng khiếp làm toàn những điều khủng khiếp cho người ta. kinh khủng.”

      Jillie Djinn nhìn Jenna, lo âu lộ , và biết phải trả lời thế nào. Bà Tổng trưởng Sao chép Mật có con cái, và ngoài đứa bé thợ chép đền thờ nghiêm nghị, khôn trước tuổi ở đất nước xa xôi nhiều năm trước ra, Jenna là bé 11 tuổi đầu tiên bà chuyện kể từ hồi bà 11 tuổi. Cả đời mình Jillie Djinn hiến dâng cho nghiệp, với chuỗi ngày tháng chu du các vương quốc xa xôi, thu nhập biết bao bí mật tuyệt kỹ cùng những tầm mức kiến thức khác nhau. Bà cũng nhiều năm dày công nghiên cứu những bí truyền của Lâu Đài, điều mà bà hài lòng thấy rằng mình hề uổng công.

      “Jenna,” Jillie Djinn chỉnh lại cách xưng hô, “quý bà Marcia muốn gặp . Học Trò bà ấy mất tích và bà ấy cứ sợ lỡ xảy ra điều xấu nhất.” Ánh mắt Jillie Djinn dán chăm chăm vào đôi ủng của Septimus, thòng dây tòn teng trong bàn tay phải của Jenna. “Tôi chắc mình đúng là có điều siêu phàm gì đó diễn ra?”

      Bối rối, Jenna gật đầu. Tự hỏi làm sao bà Marcia biết có chuyện xảy ra. Bỗng rồi bé hít. Hít thêm cái nữa. Mùi phân rồng lạ lẫm phảng phất trong khí. Jillie Djinn cũng hít ngửi. Bà mạnh bạo cà cà chiếc ủng bên phải – cột giày đen ngay ngắn – xuống sàn, săm soi đế ủng, xong lại chà chà.

      “Liệu tôi cũng đúng , thưa công chúa, rằng có Tấm Kính ở trong phòng Nữ hoàng?” Đôi mắt xanh lá cây rực của Jillie Djinn quấn chặt vào Jenna, hau háu chờ đợi. Jillie biết vô số những giả thiết về vô số điều, và bà phấn khích nghĩ rằng trong số những giả thuyết đó sắp sửa linh nghiệm ngay bây giờ.

      Jenna trả lời, mà bé cũng cần trả lời. Bà Tổng trưởng phải là người giỏi đọc cảm xúc nhân loại nhất Lâu Đài, nhưng với cái vẻ ngạc nhiên nét mặt Jenna thế kia còn gì nghi ngờ nữa.

      “Có lẽ nhận thấy, công chúa Jenna à, rằng tôi nghiên cứu rất sâu rộng – cực sâu rộng – về những Tấm Kính thời Giả Kim, và ở ngay trong buồng Tuyệt Mật chúng tôi cũng có tấm. Sáng nay, tôi phát xáo trộn trong Tấm Kính ấy. Tôi đến ngay tháp Pháp Sư để báo cáo về việc này, Hoàng Triều quy định bổn phận của chúng tôi là thế mà, và tôi vấp phải bà Marcia Overstrand vào trong trạng thái rất đau buồn. Tôi suy đoán rút ra được những kết luận của chính mình, và bây giờ tôi cung kính hỏi có đồng ý cùng tôi đến Văn phòng Sao lục hay ,” bà Tổng trưởng tựa như diễn thuyết trước cử tọa toàn những học giả chậm hiểu. “Tôi cũng đề nghị bà Marcia Overstrand gặp chúng ta ở đó.”

      Gặp bà Marcia vào lúc này đối với Jenna là điều tối kỵ, bởi vì Jenna biết thế nào mình cũng buộc phải thú nhận với bà ấy rằng chính mình khiến cho Septimus biến mất. Nhưng Jillie Djinn vừa nhắc tới Tấm Kính khác trong Văn phòng Sao lục, khơi lên chút hy vọng cho bé. Dám lão già trong Tấm Kính kia chỉ là thợ chép già lẩm cẩm, ra từ hầm mộ ma quái bị ếm bùa mà có lần Septimus kể lắm chứ? Có lẽ lão ấy chỉ kéo Septimus qua Văn phòng Sao lục? chừng lúc này Sep chờ mình ở đó, rồi ấy lại suốt ngày kể lể cho mình nghe, đến khi mình chán ngấy thôi? Có thể…

      Lòng dạ rối bời, quyết định tới Văn phòng Sao lục, Jenna theo bà Tổng trưởng lăng xăng, mắt sáng rỡ xuống những bậc thang hẹp, ngoằn ngoèo. Thằng Sói nãy giờ nấp trong xó tối, trong tư thế gập người sát đất như con thú rừng ăn sâu vào máu nó, xồ ra nhập đoàn với họ, khiến Jillie giật thót mình kinh hãi. Tới chân cầu thang, Jillie lại chà ủng phát nữa rồi đằng cửa hông ra khỏi tháp.

      “Tôi phải rằng,” Jillie cách tự cao tự đại khi sải bước con đường ôm lấy đằng sau chòi tháp, “phấn khởi nhất là khi giả thuyết được chứng minh là đúng. Tôi thu hẹp lại còn hai vị trí có thể vào được phòng Nữ hoàng. Vị trí thứ nhất ở đằng kia…” Jillie Djinn phẩy tay về phía tòa Hạ Gia cũ bên bờ sông, mái vàng hình bát giác của nó nhô vút lên khỏi làn sương mù buổi sớm giăng kín dòng sông. “Dĩ nhiên, thưa công chúa Jenna, tôi biết chìa khóa của có thể mở được cả hai nơi, nhưng tôi hề biết thêm gì khác về tòa Hạ Gia đó, mặc dù tôi tự hỏi, liệu truyền thuyết quỷ sứ tang tóc mà các đời nữ hoàng đặt ra về nơi đó là nhằm xua mọi người ta tránh xa nó ra có đúng hay . Nhưng, rất tự nhiên, bằng cách xem xét tất cả những dữ kiện và đưa ra những kết luận xác đáng về chúng, tôi chọn đúng nơi thích hợp. Thú vị nhất đấy.”

      “Thú vị?” Jenna lùng bùng trong cổ họng, thắc mắc phải chăng mất tích của Septimus là gì hơn cuộc thí nghiệm hàn lâm đầy thú vị đối với bà Tổng trưởng.

      Thằng Sói và Jenna lò tò theo Jillie Djinn quẹo quanh chòi tháp và đâm ra mặt tiền Cung Điện. Cả ba băng qua bãi có về phía cổng, và trong khi bàn chân họ in dấu màu đen trong sương ẩm, bà Tổng trưởng Sao chép Mật vẫn thao thao giải nghĩa các loại học thuyết nổi trội, bởi vì Jillie vừa tóm được nhúm diễn giả bất đắc dĩ, và bà nhất định phí phạm cơ hội này. Tuy nhiên, nhúm thính giả này lại biết thưởng thức tài hùng biện của bà – Jenna lo sốt vó cho Septimus, chẳng còn bụng dạ nào mà nghe với ngóng, còn thằng Sói thôi lắng tai ngay từ câu đầu tiên. Kiểu của Jillie Djinn khiến nó nhức đầu.

      Bất chấp tạng người được khiêm tốn cho lắm, Jillie liên tục bước thoăn thoắt, và nhoáng cái tong tóc đường Pháp sư, bắt đầu nhộn nhịp. Đường Pháp sư là trong những con đường cổ xưa nhất Lâu Đài. đại lộ thẳng tắp, rộng, hai bên dựng những cột đuốc bạc duyên dáng, dẫn từ cổng Cung Điện tới đầu cổng vòm lớn của tháp Pháp Sư. Nhà và cửa hàng xây bằng loại đá vôi vàng cổ nhất, lấy từ mỏ đá cạn kiệt cách đây lâu rồi. Tất cả đều mang dáng vẻ liêu xiêu, phong trần, nhưng lại toát lên vẻ thân thiết mà Jenna rất quý. Con đường san sát biết bao nhiêu tiệm buôn và nhà in, bày bán thiếu các loại giấy, mực, vở, sổ tay và bút, cùng với cơ man nào là mắt kính và thuốc nhức đầu, dành cho người hay đọc sách quá lâu trong góc tối.

      Khi cánh chủ tiệm và thợ in ngó qua cửa sổ mờ sương và quyết định phơi hàng hóa của mình ra trời ẩm nữa, điều đầu tiên đập vào mắt họ là bà Tổng trưởng Sao Chép Mật xăng xái đường, rồng rắn cùng với thằng bé quái dị, tóc tai bù xù và công chúa, tay xách đôi ủng cũ.

      hết hai phần ba con đường, bộ ba dừng lại bên ngoài cửa tiệm sơn màu tía, cửa sổ cao chất kín giấy và sách đến nỗi thể nhìn được vào bên trong. cửa cái ghi con số 13, và cửa sổ khắc dòng chữ: VĂN PHÒNG SAO CHÉP PHÁP THUẬT TỔNG HỢP VÀ HIỆP HỘI KIỂM ĐỊNH BÙA CHÚ. Jillie Djinn, trong thân hình lụng thụng chiếm gần hết ngưỡng cửa hẹp, với Jenna và thằng Sói bằng cung cách long trọng:

      “Buồng Tuyệt Mật cho phép bất cứ ai hội đủ đúng những quy tắc cơ bản của Văn phòng Sao lục vào,” bà thông báo cho chúng cách tẻ ngắt, “Tuy nhiên trong những trường hợp khó khăn như thế này, tôi áp dụng tình thế ngoại lệ cho công chúa, nhưng chỉ công chúa mà thôi. ra có thể còn xét tới quyền tước, bởi vì tôi có lý do để tin rằng vài trong số những nữ hoàng Cổ Nhân được chấp thuận vào Buồng.” Dứt lời, cánh cửa Văn phòng Sao lục mở ra với tiếng két , và Jillie Djinn bước vào trong.

      “Bà ấy gì vậy?” Thằng Sói hỏi Jenna.

      “Bà ấy bảo được vào”.

      “Ồ.”

      “Ờm, được vào buồng Tuyệt Mật”.

      “Buồng gì?”

      “Buồng Tuyệt Mật. Em biết nó là cái gì, nhưng Sep có kể cho em chút ít về nó. ấy từng vào đó rồi.”

      “Có lẽ giờ cậu ấy ở trong đó,” thằng Sói rạng rỡ lên.

      “Ừ, em… em mong vậy,” Jenna , hề dám hy vong.

      vào xem . Để tôi chờ bên ngoài như bà ấy bảo, chỉ xíu nữa là tôi gặp lại à 412 thôi. Vậy được ?”

      Jenna cười toe. “Được đấy,” , đoạn theo Jillie Djinn vào trong.

      Chương 13. Hộp hoa tiêu

      Khi bước vào sảnh trước của Văn phòng Sao lục, Jenna nghe thấy tiếng gì là lạ, nghe như tiếng chuột đồng cùng đường kêu lít chít nghèn nghẹt từ sau cánh cửa vọng ra. bé ngó quanh quất và thấy cậu bé mầm mập, tóc đen rức mắt, đứng lủi thủi sau tay nắm cửa. “Beetle? Phải đó ?” Jenna hỏi.

      Con chuột đồng quẫn bách đó, là Beetle , giữ cửa mở cho Tổng trưởng Sao chép Mật, đáp lại bằng tiếng chít nữa mà Jenna chắc mẩm nó đáp là “phải”.

      Jenna nháo nhác nhìn quanh Văn phòng Sao lục, nhưng rồi hơi dịu khi thấy bóng dáng bà Marcia đâu.

      “Xin lỗi lối này, Jenna. Chúng ta phải tiến hành mà có quý bà Marcia.” Tiếng Jillie Djinn phát ra ở đâu đằng cuối phòng, Jenna lật đật về hướng đó, vòng qua cái bàn lớn ở mép cùng. gặp bà Tổng trưởng đứng bên cạnh cánh cửa trong bức tường nửa gỗ nửa kính. Jillie Djinn đẩy cửa ra, và Jenna theo bà vào Văn phòng Sao lục.

      bầu khí im phăng phắc treo lơ lửng trong Văn phòng Sao lục, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng bút đưa lột rột và tiếng ngòi bút gẫy thi thoảng kêu cái khụp. Hai mươi mốt thợ chép cần cù sao chép nào là Thần Chú và Lời Khấn, nào là Bùa và Ngải, nào là phép Triệu Hồi và Ếm Nguyền, và có khi còn chép luôn cả thư tình của những nhân vật muốn chơi nổi. Mỗi thợ chép ngồi chót vót bên cái bàn cao, miệt mài làm việc dưới khoảng ánh sáng vàng xíu từ trong hai mươi mốt bóng đèn rủ xuống khỏi những sợi thừng lâu năm, chốc chốc lại đu đa đu đưa cách nguy hiểm trần nhà mái vòm.

      Tổng trưởng Sao Chép Mật ra hiệu cho Jenna theo sau mình. Jenna tự động kiễng gót qua những mép bàn cao, tới đâu mỗi thợ chép lại quay qua ngó bé tới đó, thầm hỏi biết công chúa làm cái quái gì ở đây, và hà cớ chi lại xách theo đôi ủng cũ. Thế rồi hai mươi mốt cặp mắt dõi theo Jenna bám đuôi Jillie Djinn vào hành lang hẹp dẫn tới buồng Tuyệt Mật. Nhiều cái liếc mắt ngạc nhiên trao đổi qua lại, vài đôi lông mày nhướng lên, nhưng ai gì. Khi Jenna khuất dạng vào ngõ quẹo đầu tiên, tiếng bút rột rẹt giấy và giấy da dê hảo hạng liền trở về nếp bình thường của nó.

      Hành lang hun hút, tối om dẫn tới buồng Tuyệt Mật phải quẹo hết bảy lần, nhằm cắt đứt đường chạy của lũ bùa ngổ ngáo hay bất cứ vật gì có ý đồ đánh tháo khỏi buồng Tuyệt Mật. Nó cũng cắt đứt luôn ánh sáng chiếu vào, nhưng Jenna cứ lần theo tiếng áo thụng lụa loạt soạt của Jillie Djinn mà , và lâu sau bé bước vào căn phòng , hình tròn, màu trắng. Căn phòng trống lơ trống lốc; chính giữa kê cái bàn bình thường, đặt nến thắp sáng, nhưng phải ngọn nến thu hút chú ý của Jenna, mà chính là Tấm Kính – nó cũng cao, đen xì, trông quen đến rợn óc, lồng khung chạm trổ dựa vào bức tường trát vữa xù xì của buồng Tuyệt Mật.

      Jillie Djinn nhận thấy niềm hy vong mặt Jenna tắt ngúm. có Septimus, chỉ thấy Tấm Kính khác, trong khi nó là thứ cuối cùng đời bé muốn thấy lại.

      “Theo những nghiên cứu của tôi,” bà Tổng trưởng lại bắt đầu, “tôi hiểu rằng những Tấm Kính cổ chẳng qua là loại cửa mở chỉ đúng chiều rất đơn giản. Và từ những tính toán của tôi, tôi có thể rằng Tấm Kính này là mẫu cổ và được làm cùng thời với Tấm Kính trong phòng của . Tôi nghi ngờ rằng cái này đúng là lối trở lại từ nơi đó.”

      “Từ nơi có Septimus phải ?” Jenna hỏi, hy vọng lại hơi nhú lên.

      “Đúng vậy. Có thể là bất cứ nơi nào. Cho nên, xin hãy cho tôi biết, cái này trông có giống như Tấm Kính ở trong phòng Nữ hoàng ?”

      “Ờm, nó ở chính xác trong phòng Nữ hoàng,” Jenna đáp.

      “Ồ,” bà Tổng trưởng có vẻ chưng hửng. “Thế ở đâu?” Bà cầm cây viết và quyển sổ từ dưới bàn lên và đứng trong tư thế sẵn sàng ghi chép thông tin. Có điều thông tin mà bà chờ đợi lại tới.

      “Tôi thể ,” Jenna đáp, cam chịu cái giọng điệu nhiễu của bà Tổng trưởng. bé muốn nổi sùng trước những câu hỏi tọc mạch, có tính xâm phạm đó – bí mật trong phòng Nữ hoàng phải là việc của Tổng trưởng.

      Jillie Djinn có vẻ phật ý nhưng thể làm gì hơn. “Nhưng Tấm Kính này giống với tấm kia – cho dù tấm ấy ở đâu chăng nữa?” Bà khăng khăng.

      “Tôi nghĩ vậy,” Jenna . “Tôi thể nhớ chi tiết của cái kia. Nhưng nó có kính đen và… cũng gây ra cảm giác kinh khủng như nhau.”

      vậy làm sáng tỏ được gì. Bởi vì Tấm Kính chung, tới mức độ nào đó – tùy thuộc vào nhạy cảm của ta xem món đồ hào nhoáng đó có trong suốt hay – thường phản ánh niềm mong chờ của chính ta.”

      Jenna cảm thấy ong ong u u giống như thằng Sói cảm thấy ngay từ ban đầu. “Chúng có thể làm được gì?” bé hỏi.

      “Giúp ta thấy được điều ta mong muốn thấy,” Jillie Djinn nhanh.

      “Ồ.”

      Bà Tổng trưởng ngồi xuống bàn, mở ngăn kéo, lôi ra quyển sách to cộp bọc da, tập giấy chi chít những cột số, cây viết và bình mực màu xanh lá cây. “Cảm ơn, Jenna,” bà ngước lên, “tôi tin là mình có đầy đủ thông tin rồi. Bây giờ tôi xử lý chúng đây.”

      Jenna kiên nhẫn chờ được vài phút, sau đó, khi bà Tổng trưởng tỏ ý gì là dừng hý hoáy, bé hỏi, “Thế… Septimus… ấy trở lại phải ?”

      Tổng trưởng Sao chép Mật nhìn lên, nhưng xem ra bà đắm chìm trong thế giới của những con tính và kết nối. “Có thể. Mà cũng có thể . Ai biết được?”

      “Tôi tưởng bà biết,” Jenna phát cáu.

      “Tôi chỉ có thể biết,” Jillie Djinn nghiêm trang, “khi thực xong những tính toán của mình.”

      “Khi nào xong?” Jenna bồn chồn hỏi, cảm thấy mình thể chờ thêm phút nào nữa để thấy Septimus trở lại và hỏi ấy chuyện gì xảy ra.

      “Lần này phải năm tới, nếu tiến triển tốt,” bà Tổng trưởng kề cà.

      “Lần này phải năm tới?”

      “Nếu tiến triển tốt.”

      Jenna bước trở lại sảnh trước trong tâm trạng âu sầu. Trông thấy công chúa, Beetle vội đứng bật dậy khỏi chỗ ngồi của mình sau bàn. Tai cậu chàng tự dưng đỏ rần lên; miệng bỗng vuột ra tiếng chuột chít rồi , “Hớ.”

      “Hả?” Jenna quặc lại.

      “Ừm. Tôi tự hỏi…”

      “Cái gì?”

      “Ừm… Sep có sao ?”

      ấy ổn,” Jenna đáp.

      Đôi mắt đen của Beetle nhàng lên nỗi lo âu. “Tôi cũng đoán vậy.”

      Jenna liếc Beetle cái. “Sao biết?”

      Beetle nhún vai. “Đôi ủng của Septimus. Cậu ấy chỉ có duy nhất đôi thôi. Mà lại xách nó.”

      “À, tôi mang trả lại cho ấy,” Jenna vừa vừa tiến ra cửa. “Tôi biết tìm ấy bằng cách nào, nhưng tôi tìm… tôi chờ cả năm mới tìm đâu.”

      Beetle cười ngoác. “Ừm, nếu chỉ cần làm có thế dễ ợt.”

      “Ối, Beetle, ha ha.”

      Beetle nuốt nước miếng khan. Nó thích làm Jenna bực. “, , hiểu. Tôi đùa. Mà là đấy. Cậu ấy dễ tìm… là vì cậu ấy In Dấu con rồng.”

      Jenna đứng sững lại, tay đặt lên nắm cửa, và nhìn Beetle thao láo. “Ý là sao?” bé hỏi chậm rãi, dám hy vọng Beetle có câu trả lời mà bà Tổng trưởng có.

      “Ý tôi là rồng luôn luôn tìm thấy Người In Dấu của nó,” Beetle đáp “Ta chỉ việc thực phép Dò Tìm và rồi, chííuu, rồng phóng vút . Dễ ẹc. có thể cùng với nó nếu muốn, bởi là Hoa Tiêu mà. Cứ làm phép Thay Thế là xong. Vấn đề được giải quyết.” Beetle khoanh tay lại đầy vẻ tự mãn.

      “Beetle, có thể lại được ? Lần này chậm chậm thôi.”

      Beetle cười tít với Jenna. “Chờ chút,” nó rồi lách mình qua cánh cửa, biến mất vào phía sau Văn phòng Sao lục. Jenna còn thắc mắc biết chàng này làm chuyện gì cánh cửa bật mở, Beetle trở lại, tay cầm chặt hộp thiếc màu vàng kim và đỏ rực.

      Nó chìa cái hộp cho Jenna. “Của đó,”

      “Của tôi?”

      “Phải.”

      “Ồ, cảm ơn,” Jenna . Im lặng rơi tõm xuống khi bé nhìn cái hộp và đọc dòng chữ KẸO BƠ CỨNG DÍNH RĂNG KÈM VỚI KẸO BƠ CỨNG MẬT ĐƯỜNG HẢO HẠNG in kiểu chữ đen đậm nắp hộp. “ thích kẹo bơ cứng à, Beetle?” Jenna hỏi, cố tò mò tìm cách mở hộp.

      phải kẹo bơ cứng đâu,” Beetle đỏ lựng mặt.

      “Ủa?”

      “Để tôi mở nắp cho nào.”

      Jenna trao cái hộp cho Beetle. Cậu ta liền ra sức vặn mất vài giây; chợt nắp hộp bật bắn , cùng lúc đống gì trông như da mỏng, hầu hết đều cháy sém, nhàu nhĩ hoặc rách tướp tuôn vèo xuống sàn. Mùi rồng gây nồng tràn xộc vào khí. Nóng mặt lẫn xấu hổ, Beetle quỳ thụp xuống đất để hót lại mớ da rồng lột.

      phải kẹo bơ cứng,” Beetle vừa hốt vừa lầm bầm.

      “Ừ, phải,” Jenna đồng ý.

      “Bảo bối của Hoa Tiêu đấy,” Beetle giải thích. Nó nhặt ra mẩu da dài màu xanh lá cây, giơ lên xem, miệng bảo, “Dò Tìm này.” Xong, nó cầm mảnh tróc màu đỏ cháy thành than, “Lửa này.” Cuối cùng nó tìm thấy cái cần tìm – mẩu da màu xanh dương mỏng như giấy, nhăn nheo – và đắc thắng “Thay Thế đây rồi!”

      “Ôi, cảm ơn, Beetle. tốt quá.”

      Beetle đỏ nhừ mặt hơn nữa. “ có chi. È, ý… ờm, số là, sau khi trở thành Hoa Tiêu của Septimus với Khạc Lửa, tôi sưu tầm tất cả những bảo bối của Hoa Tiêu mà tôi có thể tìm thấy được rồi đem cất vào hộp đựng kẹo bơ cứng của mình. Hộp kẹo này là dì tôi tặng tôi dịp lễ hội Đông Chí. Tôi hy vọng phiền,” nó hơi bẽn lẽn. “Tức là, tôi hy vọng cho tôi là tọc mạch hay gì gì đó.”

      “Ồ , đâu. Tôi luôn muốn tìm hiểu xem làm Hoa Tiêu tức là làm gì, nhưng chưa bao giờ hiểu được. Tôi đinh ninh Sep nghĩ… à, Sep nghĩ Hoa Tiêu tức là cắt móng tay móng chân và rửa dọn cũi cho Khạc Lửa.”

      Beetle bật cười phá lên, nhưng rồi im bặt khi sực nhớ là có chuyện kinh khủng xảy ra với Septimus. “Vậy, có muốn tôi chỉ cho cách làm phép Thay Thế ?” Nó hỏi.

      “Phép gì?”

      “Phép Thay Thế. Khạc Lửa chấp thuận cho nhận lãnh vị trí của Sep, và nó làm tất cả mọi thứ cầu… à, hoặc nó làm tất cả mọi thứ nó có thể làm cho Sep.”

      “Thế hẳn tất cả đâu,” Jenna mỉm cười.

      “Đúng. Nhưng đó là khởi đầu. Sau đấy có thể Dò Tìm và bay với Khạc Lửa tìm Sep. Dễ… à, cũng dễ. Xem này.” Beetle cẩn thận cầm miếng da lột màu xanh dương, mỏng léc, vuốt thẳng nó ra và đặt lên bàn. “Cũng hơi phức tạp, nhưng tôi đoán là công hiệu.”

      Jenna căng mắt nhìn hàng đống biểu tượng rối rắm được viết thành đường xoắn ốc, quấn chặt xít vào nhau theo chiều lên tới góc bị cháy đen. Phức tạp là cách văn vẻ. Chứ đúng ra biết phải bắt đầu nhìn từ đâu cả.

      “Tôi có thể dịch ra nếu muốn,” Beetle đề nghị.

      Jenna cười toét. “ làm được à?”

      Tai Beetle lại đỏ bầm đỏ dập lên. “Ờ, Được chứ. thành vấn đề.” Đoạn rút trong ngăn kéo ra các kính lúp lớn và nheo mắt nhìn mẩu da. “Đơn giản thôi. chỉ cần món đồ gì đó thuộc sở hữu của Người In Dấu…” Beetle ngừng lời và liếc nhìn đôi ủng của Septimus. “Là cái… ờm… có rồi. Đem đặt nó… à, chúng trước mặt con rồng, ý tôi là Khạc Lửa, xong rồi đặt tay lên mũi con rồng, nhìn vào mắt nó và với nó… thế này, để tôi viết lời chú ra cho khỏi quên.” Beetle thọc tay vào túi quần lôi ra tấm thẻ nhăn nhúm, rồi lấy cây bút từ giá bút và viết tràng dài những con chữ với tập trung cao độ.

      Cảm kích vô cùng, Jenna cầm lấy tấm thẻ. “Cảm ơn, Beetle. Cảm ơn rất nhiều.”

      có chi. Bất kể lúc nào. Ngoại trừ… ý tôi là tôi hy vọng có lần nào nữa. Tức là, tôi hy vọng Sep ổn và… nếu cần giúp đỡ…”

      “Cảm ơn, Beetle,” Jenna , hơi ứa nước mắt. bé chạy ào ra cửa và giật nó mở tung. Thằng Sói dựa vào cửa sổ, trông chán nản cực kỳ. “ thôi, 409,” và chạy bay về phía cổng vòm lớn ở cuối tháp Pháp Sư. Trong nháy mắt bé và thằng Sói biến mất qua cánh cổng vòm màu xanh dương.

      Ở lại Văn phòng Sao lục, Beetle ngồi xuống và áp nguyên bàn tay lên trán. Nóng ran. Nó biết kiểu nóng này phải là vì nó luôn đỏ mặt mỗi khi nhìn thấy Jenna. Khi Beetle dựa lưng vào ghế, dòng mô hôi lạnh chạy khắp người nó từ đầu tới ngón chân và văn phòng bắt đầu quay tít.

      Tốp thợ chép bên trong Văn phòng Sao lục nghe thấy tiếng rầm khi Beetle ngã chổng kềnh khỏi ghế. Foxy, con trai của cựu Tổng trưởng Sao Chép Mật bị giáng chức, chạy bay tới thấy Beetle nằm sõng xoài dưới sàn. Điều đầu tiên Foxy để ý là vết cắn lủng da duy nhất, từ đó lan ra dề mụn hột đỏ lòm, nơi mảnh thịt hở giữa mép ủng và xà cạp của Beetle.

      “Nó bị chuột cắn!” Foxy la thất thanh với tất cả đám thợ chép bị sốc. “Beetle tiêu rồi!”

      Chương 14 Marcellus Pye

      Marcellus Pye rất ghét buổi sáng. Dầu người ta thể dễ dàng biết được khi nào là trời sáng ở sâu dưới đất, nơi lão náu này. Ngày hay đêm, luôn có thứ ánh sáng đỏ quạch lờ nhờ chiếm lĩnh Lối Xưa dưới lòng Lâu Đài. Ánh sáng đó phát ra từ những quả cầu lửa bất diệt, mà Marcellus coi là thành tựu vĩ đại nhất, và đương nhiên là có ích lợi nhất, của mình từ trước đến nay. Bản thân Lối Xưa được thắp hai hàng quả cầu thủy tinh lớn, do chính Marcellus lắp đặt cách đây khoảng hai trăm năm, vào thời điểm lão quyết định sống mặt đất, sống cùng với dân chúng Lâu Đài nữa, bởi vì nó quá ồn ào, quá hối hả và quá sáng chói, và cũng bởi lão chẳng còn thiết tha với bất kỳ thứ gì đời nữa. Bây giờ đây, lão ngồi ướt đầm, run lập bập bên quả cầu ở chân ống khói lớn, cảm thương cho thân phận mình quá đỗi.

      Marcellus biết trời sáng là vì lão ra ngoài suốt đêm hôm qua, trong chuyến dạo đêm khuya dưới hào nước. Ngày nay, phải mười phút lão mới cần thở lần, nhưng nếu như ba mươi phút chưa thở lão cũng chẳng phàn nàn gì. Lão khoan khoái thưởng thức cảm giác trọng lượng dưới nước – nó tạm thời làm tan cơn đau khủng khiếp nơi những khúc xương già khụ khị của lão. Lão thích lang thang lội qua bùn mềm nhoét, nhặt những đồng xu lạ lùng người ta thảy xuống hào để cầu may.

      Khi lão quay trở lại, ép mình qua trạm kiểm soát hào bị quên lãng từ lâu, Marcellus cầm cây nến cao, có đánh dấu giờ theo độ dài của cây nến và cầm cái chốt ghim vào khắc thứ tư làm báo thức. phải tại lão sợ mình ngủ gật, do lẽ Marcellus Pye còn ngủ nữa – ra lão chẳng còn nhớ lần cuối cùng mình ngủ là khi nào – mà bởi vì lão sợ mình quên mất giờ hẹn, giờ mà lão hứa chắc chắn với mẹ lão là bỏ lỡ. Nghĩ đến mẹ khiến Marcellus nhăn mặt như thể là cắn phải miếng táo thối có con giòi mập ú bên trong. Lão rùng mình và co ro vào trong tấm áo xơ xác cho ấm. Lão đặt cây nến vào lồng kính, rồi ngồi xuống băng ghế đá lạnh lẽo dưới ống khói lớn và nhìn ngọn nến cháy qua đêm, trong khi những công thức giả kim thuật ngày xửa ngày xưa cứ bật ra bật vào trong óc lão, đúng kiểu bừa bãi, lộn xộn và vô ích như thói thường của chúng.

      Sừng sững phía lão, ống khói lớn vút lên như cây cột đen xì. Gió lạnh thổi xoáy xóc bên trong ống khói, rú rin rít hệt như đám sinh vật trong những bình thí nghiệm thót cổ của Marcellus thời xưa từng hú hét đòi ra – giờ lão mới biết bọn chúng cảm thấy thế nào. Cây nến cứ đều đặn chảy xuống. Marcellus thỉnh thoảng lại thấp thỏm liếc nhìn cái chốt ghim xong rồi ngó trừng trừng lên ống khói lớn đen thui. Khi ngọn lửa táp tới cái ghim, lão lo lắng nhịp bàn chân và nhằn nhằn móng tay, thói quen cũ mà lão sực nhớ là phải bỏ ngay. Móng tay lão có vị tởm lợm quá.

      Để giết thời gian và để rứt tâm trí ra khỏi điều mình sắp bị buộc phải làm, Marcellus nghĩ về chuyến phưu lưu đêm trước của mình. hàng trăm năm rồi lão mới lại ra ngoài trời lồng lộng, và kể ra cũng đến nỗi quá tệ. Trời đầy mây, đen kịt, sương mù dễ chịu chặn đứng bất cứ thanh nào. Lão ngồi lúc Bờ Trượt Rắn và chờ, nhưng mẹ lão sai. có ai đến cả. Điều đó làm lão bực mình, vì lão thích bờ trượt – nó lưu giữ bao kỷ niệm vui sướng thời lão còn sống ở đó, sát bên ngôi nhà bây giờ người ta chứa mấy cái thuyền ngớ ngẩn. Lão ngồi đúng chỗ cũ ngày xưa mình hay ngồi, bên mép nước, và kiểm tra thấy đồng sói bằng vàng ròng của lão vẫn còn ở đó. Lại trông thấy vàng lần nữa cũng hay, mặc dù chúng bị phủ dưới lớp bùn, và bị trầy xước thảm hại do những chiếc thuyền vớ vẩn kia cào xát. Marcellus nhíu mày. Hồi còn thanh niên trai tráng lão chiếc thuyền thực thụ. Thời đó dòng sông rất sâu, chứ quánh nghẽn bùn và lờ đờ như bây giờ. Đúng vậy, những con nước xiên xiết, bất trắc và thay đổi dòng chảy liên tục, nhưng trong những ngày ấy thuyền bè rất lớn, thôi đủ những sà lan dài và nặng, những thuyền buồm hoành tráng, những con tàu lộng lẫy, chạm trổ vàng bạc cùng những tuyệt tác của cánh thợ mộc. Phải, Marcellus nghĩ, thuyền ra thuyền vào thời đó. Mặt trời luôn chiếu rực rỡ. Luôn luôn. Lão nhớ là bao giờ có ngày mưa dầm. Lão thở dài và xòe bàn tay ra, kinh tởm nhìn vào những ngón tay héo quắt, lớp da như da dê bao sát sạt và nổi từng mấu xương già khú khụ bên trong, u gồ lên hay lõm xọm vào, những móng tay vàng khè, dày cui mà lão còn đủ sức để cắt nữa. Lão lại nhăn mặt – lão phẫn nộ đến bầm gan tím ruột. Phải chăng gì có thể giải thoát được lão? ký ức hy vọng mong manh hơi nhòe lên trong lão nhưng rồi lại trượt khỏi óc lão. Chẳng ngạc nhiên – ngày nay lão hầu như quên sạch mọi thứ rồi.

      tiếng cạch thình lình vang lên khi cái chốt ghim bị nến cháy tới rơi xuống chạm vào lồng kính. Marcellus uể oải đứng dậy, sờ soạng bên trong ống khói lớn, lão nắm chặt thanh ngang và đu mình lên dây thang sắt gắn hẳn vào lớp gạch của bức tường bên trong. Rồi, như con khỉ dị dạng, nhà giả kim cuối cùng bắt đầu quãng đường dài leo lên ở trong lòng ống khói lớn.

      Marcellus mất nhiều thời gian hơn định mới lên tới đỉnh ống khói. Phải hơn tiếng sau, khi kiệt sức và bải hoải, lão mới hích người lên gờ tường rộng chạy vòng quanh miệng ống khói. Và lão ngồi đó, mắt nhắm tịt, tái xanh tái mét và khò khè cố thở lấy hơi, hy vọng mình quá trễ. Mẹ nổi cơn cuồng nộ mất. Vài phút sau Marcellus cố mở mắt ra. Liền ước gì mình đừng thế. Ánh sáng leo lét từ cây nến lão để ở dưới đáy ống khói khiến lão hoa mắt và buồn nôn trước ý nghĩ mình leo cao cỡ nào. Lão rùng mình trước cơn gió ẩm ướt và rụt bàn chân vào trong áo khoác – cảm thấy những ngón chân nứt nẻ, răn reo của mình tựa như những cục băng. Mà có lẽ, Marcellus nghĩ, chúng là băng .

      Đúng lúc đó Marcellus nghe thấy tiếng người – tiếng người trẻ – dội qua bức tường ống khói. Rệu rã như cánh cổng rỉ sét, nhà giả kim ráng gượng đứng lên và lết về phía mà, thoạt đầu, tưởng như ô cửa sổ tối ăn vào bức tường ống khói. Nhưng khi lão tới nơi, hóa ra cửa sổ đó phải là cửa sổ bình thường, mà nó tựa như cái ao sâu, nước đen ngòm, đen thể tưởng tượng được. Lập bập, Marcellus lấy cái đĩa vàng lớn từ bên dưới lớp áo thụng rách tơi tả ra và chạm nó vào vết lõm đỉnh của Tấm Kính. Lão nhìn hồi vào màn đen của Tấm Kính đầu tiên do chính lão làm ra, và ngạc nhiên quá đỗi. Cứ như mơ, lão giơ bàn tay trái lên rồi nhăn mặt. Vài thoáng sau Marcellus thè lưỡi, rồi bỗng nhiên vồ tới.

      Với tốc độ làm xốc nảy những khớp xương già cú đế, Marcellus Pye nhào người về phía Tấm Kính và thục cả hai cánh tay qua nó, những ngón tay lão bấu chặt lấy gian trống rỗng. Nhà giả kim buông lời nguyền rủa, lão hụt rồi. Hụt. Thằng bé – tên nó là gì nhỉ? – vuột thoát. Với lực rướn cuối cùng lão với xa hơn nữa qua Tấm Kính và, lão thở phào, tóm được mẩu áo chẽn của thằng bé. Sau đó dễ dàng thôi; lão quấn những ngón tay vào đai lưng Học Trò – đây là chỗ cho những móng tay cong khoằm phát huy tác dụng – và lôi. Thằng bé giãy giụa chống đối, nhưng điều đó cũng là thường tình. Điều mà lão ngờ là xuất đột ngột của Esmeralda.Bộ óc già uột của lão dạo này hay chơi khăm lão đáo để. Nhưng Marcellus lôi bằng tất cả sức mạnh của mình, bởi vì đây là vấn đề sống còn đối với lão, và thình lình, đôi ủng của thằng bé tuột ra nằm trong tay Esmeralda , và Septimus Heap – đó là tên thằng bé – trôi tuột qua Tấm Kính.

      Chương 15: Lối Xưa

      Septimus vừa trôi vừa quẫy đạp. Nó tống được ba cú thọi vào nhà giả kim và tung được vô số cú đá ít tác dụng vì ủng vào lão, tuy vậy cũng khiến Septimus hơi hài lòng chút chút. Nó vặn người, giãy giụa, và có lúc nó vùng thoát khỏi gọng kìm xương xẩu của Marcellus rồi chạy nhào nhào trở lại Tấm Kính, chỉ tổ bị nảy bưng như húc phải bức tường đá

      “Cẩn thận, Septimus,” Marcellus . Lão túm chặt áo chẽn của Septimus và lôi nó . “Con tự làm mình bị thương bây giờ.”

      “Buông tôi ra,” Septimus kêu gào inh ỏi, vẫn cố giằng co điên cuồng.

      Marcellus Pye quyết buông Septimus. “Này, Septimus. này con phải cẩn thận. Cả quãng đường xuống xa tít tắp. Con muốn bị rơi đấy chứ?”

      Septimus ngừng đạp khi nghe thấy tên mình. “Sao lão biết tôi là ai?” Nó chất vấn.

      Marcellus Pye mỉm cười – hài lòng vì mình nhớ đúng – “Chúng ta trở xuống quãng đường rất dài, Đệ Tử à,” lão .

      Septimus chắc mình có thích cái từ đó hay , nhưng nụ cười của lão già khiến nó hơi yên lòng. Nó đứng im hồi để đánh giá tình hình. Theo nó nhận thấy mình ở trong cái hang động tối đen với lão già khú đế. Vậy là tệ hơn, hoặc cũng có thể là tốt hơn. Hình như hồi mới đầu nó có mang ủng. Thế rồi bàn chân phải của Septimus chạm trúng cạnh của gờ đá và nó nhận ra có lẽ là hoàn toàn tốt hơn .

      “Làm sao chúng ta ở tuốt đây được?” Septimus vừa hỏi vừa rê bàn chân lờ rờ rìa đá, cảm giác chóng mặt quen thuộc ập đến với nó.

      “Ta thể chính xác được, Đệ Tử à. Chỉ biết là quãng leo rất dài. Giờ phải leo xuống nữa, vì thế tốt nhất chúng ta hãy thôi.”

      Septimus lắc đầu lùi lại. “Tôi bất cứ đâu. Đừng hòng tôi với ông.”

      “Ờ đúng vậy, bởi vì nếu cháu với ta chẳng đâu cả,” Marcellus cười khích khích. “Ở đây chắc chắn làm gì có lối nào lên.”

      “Tôi chui trở lại Tấm Kính. Trở lại với Jen. Tôi với ông.” Septimus vùng ra khỏi cú kẹp của Marcellus và lại quăng mình qua Tấm Kính. Và lần nữa lại đâm sầm vài bức tường, lảo đảo văng trở lại, mất thăng bằng.

      “Bình tĩnh,” Marcellus , túm được nó ngay trước khi nó rơi ra khỏi rìa tường. “Con bao giờ trở về qua Tấm Kính được đâu,” lão bảo Septimus. “Chính ta chế tạo ra Tấm Kính mà. Chỉ ta mới có chìa khóa mở.”

      Septimus im re. Nó sợ chết khiếp là lão già gớm ghiếc này . Nó nhìn chiếc Nhẫn Rồng, lóe lên thứ ánh sáng vàng dịu trấn an như thường lệ, nhưng chẳng an ủi nó được bao nhiêu.

      Marcellus Pye lệt phệt ra mé gờ tường và đặt chân xuống gióng thang cùng. Septimus nghe thấy tiếng Marcellus dịch chuyển. Bèn giơ chiếc nhẫn lên để coi lão già làm gì, và Marcellus mỉm cười với nó, ba chiếc răng dài của lão nhóe vàng, nhớt nhát nước dãi. “Xuống , Septimus. Đến lúc con thấy nơi mình sống đời Đệ Tử rồi. Việc gì phải ủ ê thế. Khối người có cơ hội là Đệ Tử của ta đâu.”

      “Đệ Tử! Đừng hòng bao giờ tôi là Đệ Tử của ông. Tôi là Học Trò rồi. Của Pháp sư Tối thượng. Bà ấy sắp tới đây để đưa tôi về bây giờ,” Septimus cứng, làm ra vẻ tự tin hơn nó cảm thấy.

      “Ta chẳng nghĩ thế,” Marcellus đáp. “Nào, đến lúc xuống rồi.”

      “Tôi đâu hết,” Septimus ương bướng.

      “Đừng ngốc. Con lạnh và đói sau vài ngày ở đây, lúc đó lại năn nỉ ta đòi xuống ấy chứ. Nếu thế con cũng té lộn cổ và nát bấy thành từng mảnh. Chả thú vị đâu, tin ta . Giờ, có xuống nào?” Giọng Marcellus giấu ý đồ dụ dỗ.

      ,” Septimus dứt khoát. “ bao giờ.”

      Lần thứ hai trong buổi sáng bộ móng vuốt của Marcellus lại vụt ra tóm lấy áo chẽn của Septimus mà lôi. Sức mạnh của lão già khiến Septimus ngạc nhiên quá, đâm mất cảnh giác. Nó chới với và bổ nhào về phía rìa tường. “Cẩn thận!” Marcellus thét vang, đột nhiên hoảng sợ “phần thưởng” của mình yểu mạng.

      Nhưng Septimus học từ giấc mơ của mình. Trong tay trái nó bây giờ nắm chặt bùa Khinh Công. Giữ chắc bùa giữa ngón cái và ngón trỏ, nó chĩa mũi tên vàng cổ xưa xuống ống khói, hít hơi sâu, và lao mình vào trung.

      kinh hoàng bạt vía nhìn Đệ Tử tiềm năng của mình rơi phầm phập xuống, lão Marcellus chợt thấy ánh vàng lóe chói của món đồ mà lão nhớ như in. Đó là vật thời lão sở hữu và quý hơn bất cứ thứ gì khác đời, ngoài người vợ thân của lão, Broda. “Tấm bùa!” Lão thét váng lên. “Mi có bùa của ta!”

      Nhưng Septimus rơi kìa, rơi sâu vào lòng ống khói.

      Đó chẳng phải là quãng bay dễ dàng cho cam. Mặc dù Septimus luyện tập thường xuyên với ngài Alther, nhưng đấy luôn là ở ngoài khoảng bao la. Điều kiện chật hẹp trong ống khói này khó xoay xở hơn nhiều – lại dễ sợ nữa. Nhưng Septimus nhanh chóng khám phá ra bí mật kiểm soát của bùa Khinh Công là rơi tự do càng chậm càng tốt. Vài phút sau, Septimus đáp bẫng xuống đáy ống khói.

      Septimus vừa thở hồng hộc vừa nhìn quanh. Sau lưng nó là bức tường gạch vững chắc của ống khói, nhưng trước mặt nó trải dài ra hành lang mà nó biết chắc chắn là đường hầm cổ xưa. Lâu Đài có rất nhiều tầng nhiều lớp đường hầm được xây dựng qua các thời đại khác nhau, nhưng loại đường hầm lát gạch là xa xưa nhất. tường phòng ngủ của Septimus có treo bản đồ những đường hầm được biết đến, nhưng có ghi cái này. Nó thầm nghĩ bổ sung thêm đường hầm này vào bản đồ khi trở về - nếu nó có thể trở về được.

      Những lưỡi lửa trong hàng quả cầu xếp dọc hai bên hành lang hắt ra ánh sáng tẻ ngắt, run rẩy múa tường. Septimus buột huýt sáo trong hơi thở. Đây hẳn là Lửa Bất Diệt của những nhà giả kim thuật mà nó đọc thấy trong sách, nhưng bao giờ tin là có . quả cầu ở ngay dưới chân Septimus và nó sao cưỡng nổi ý muốn nhìn cho kỹ hơn. Liền quỳ xuống và chạm vào quả cầu. Mặt thủy tinh dày màu xanh lá cây mát rượi, cho dù gọn lửa chồm lên liếm vào bàn tay nó mà nhín nhảy, hệt như con chó nhách ham nghịch cứ nhắng nhít đòi được lưu ý.

      Septimus bị xô khỏi cơn mê mải bởi tiếng thang lách cách ở xa tuốt phía nó, Marcellus Pye đu mình thang và bắt đầu cuộc leo dài ngoẵng xuống. Cứ mỗi lần Marcellus đặt chân vào gióng thang là cái thang lại rung lên.

      Septimus hồn xiêu phách lạc. Nó đâm đầu chạy, đôi vớ len dầy trong chân nó lấp vấp, lượt trượt nền đá vôi trơn láng của Lối Xưa, và vừa chạy mắt nó vừa quét khắp hai bức tường trơ lì xem có dấu hiệu cửa nẻo hay nhánh rẽ nào khả dĩ hé lộ cơ may tẩu thoát cho mình . Nhưng chẳng thấy gì, lối thoát, chỗ nấp khi lão già xuống tới đất – mà Septimus biết là còn lâu nữa đâu.

      Lối Xưa uốn khúc song hành theo đúng in lộ trình của Lối Giả Kim thuật xa tít bên nó nhiều tầng. chốc sau Septimus quẹo khúc quanh đầu tiên và, đỡ cho nó biết chừng nào, hút khỏi tầm nhìn thấy ống khói. Nín thở, Septimus chậm nhịp lại và ngó quanh cẩn thận hơn. phải mất lâu nó được tưởng thưởng bằng cảnh tượng ô vòm đón mời, khoét tường cách mặt đất gần thước. Lập tức Septimus leo lên, chui qua cửa vòm và thấy mình ở chân cầu thang thoai thoải, uốn lượn, xây bằng đá lapis lazuli.

      Cuối cùng cũng cảm thấy hy vọng, Septimus hộc tốc leo lên các bậc thang. Chúng quanh quẹo lằng ngoằng hệt như rắn hướng lên . Được vài phút Septimus chậm lại để thở. Nó lắng nghe tiếng bước chân đuổi theo, nhưng người, nó chẳng nghe thấy gì. Giờ bước chậm hơn, Septimus tiếp tục lên, chiếc Nhẫn Rồng chiếu mặt đá xanh dương ở phái trước và đằng sau nó, tuyệt nhiên thấy dứt trong tầm mắt. Septimus vừa bắt đầu có cảm giác những bậc thang kéo dài vô tận nó ngoặt vào khúc cua cuối cùng, và thấy mình chạm mặt với Tấm Kính khác. Đứng đen thù lù, huyền bí ở đỉnh cầu thang. Septimus thấy bóng mình lờ mờ trong đó, mắt mở to, khiếp hãi, trân trối nhìn lại. Nó hít thở sâu, nó tự nhủ mình hãy bình tĩnh.

      Thầm cầu mong cho bề mặt tấm Kính này cũng chìm lún xuống dưới ngón tay mình như tấm vừa qua, Septimus nguyên bàn tay vào Tấm Kính. Nhưng đúng như nó sợ hãi – lão già . Tấm Kính cho nó qua. Mà rắn chắc như đá. Tuyệt vọng, Septimus phang cả thân người vào kính, đẩy bằng tất cả sức lực của mình. Nhưng kính vẫn trơ gan, lì lợm như muôn thuở. Dẫu thừa biết là vô ích, nhưng kìm nén nổi, Septimus giơ nắm đấm quai tới tấp vào kính, cho đến khi bàn tay nó sưng vều, bầm tím, còn cánh tay ê nhức. Ở phía bên kia Tấm Kính, Jillie Djinn ngước lên khỏi tập giấy và mỉm cười. luôn luôn thỏa nguyện mỗi khi tính xong được con toán. Bà cất những cây bút thành hàng ngay ngắn, gấp giấy lại, và xăm xăm cất bước tới Cung Điện.

      Septimus đá cú văng mạnh cuối cùng vào Tấm Kính và làm dập ngón chân mình. Cảm thấy nước mắt sắp tuôn xối xả tới nơi, nó phóng ngược trở lại cầu thang. xuống dễ hơn lên và Septimus nhanh chóng thấy lại ô cửa vòm ở phía trước, cũng quầng sáng đó của hàng quả cầu ngọn lửa bất diệt đằng kia. Nó vừa nhảy xuống khỏi cửa vòm nghe thấy tiếng . “Gặp nhau nha, Đệ Tử.” Cái giọng rè rè của lão già dội trong đường hầm trong lúc lão liêu xiêu về phía nó. “Chúng ta gần tới đích rồi.”

      Vẻ tự tin trong giọng của lão già mách bảo Septimus rằng mình sa bẫy, nhưng Septimus vẫn có thể tung “đòn” chót hết để tránh né cú chộp của lão già lâu thêm chút nào hay chút ấy. Nó mò vào đai lưng Học Trò định lấy bùa Khinh Công. có bùa ở đó.

      Septimus xổ lao . “ có chỗ chạy đâu,” tiếng kẻ truy đuổi nó thủng thỉnh nhưng tàn nhẫn gọi to lên, và khi Septimus quẹo ngã rẽ cuối cùng trong dh hầm nó biết lão già đúng. Nó tới ngõ cụt. Trước mặt nó, Lối Xưa bị chắn ngang bởi hai cánh cổng bằng vàng, cao sừng sững. Hai quả cầu ngọn lửa bất diệt khổng lồ, to bằng cả thân người Septimus đặt ở hai bên cổng. Septimus ngồi phệt xuống giữa chúng và nhìn lửa nhảy múa chào đón mình như đón người bạn cũ. Nó thể xa hơn nữa. Tất cả còn lại với nó chỉ là lắng nghe tiếng bước chân lậm chậm, mỗi lúc mỗi tiến đến gần hơn.

      “A, Đệ Tử,” lão già thở phì phò, phô nụ cười hàm răng cải mả ra. “Ta tin rằng cái này là của con.” Lão vẩy vẩy tấm bùa Khinh Công cách trêu ngươi vào Septimus. “Người ta buộc phải thận trọng khi giữ bùa Khinh Công, vì nó là vật thể bay và rất ưa thích trốn tránh kẻ nghĩ rằng mình sở hữu nó. Nhưng giờ , lần nữa, xem ra nó lại là của ta.”

      “Bùa Khinh Công thuộc về ai cả,” Septimus uất nghẹn.

      Lão già cười khẹt khẹt. “Trả lời hay đấy, Đệ Tử, lại đúng nữa chứ. Ta thấy chúng ta làm việc với nhau tốt đây. Chúc mừng – bởi vì con vượt qua bài kiểm tra đầu vào. Và con cũng tìm thấy cửa vào… ha ha. Ta đùa tí thôi. Ờm, giờ , ta cất chìa khóa ở đâu nhỉ?”

      Septimus bạt kinh hồn vía quay đầu chạy, nhưng bàn tay thuần thục của Marcellus vươn ra, quấn những mấu xương quanh đai lưng Học Trò của Septimus và giật nó trở lại. Thở khặc khè trước nỗ lực ấy, lão già rút cái đĩa vàng ra và tra vào hốc lõm hình tròn ở chính giữa hai cánh cửa vàng. Rồi vừa giật Septimus tránh ra lão vừa , “Lùi lại, Đệ Tử, việc hôm nay chúng ta làm đây là rất nguy hiểm.”

      Cánh cửa đôi chầm chậm mở ra khoảng đen ngòm, sâu hoắm, có gương phản chiếu. Septimus dòm trơ trơ ra trước, hiểu nổi mình thấy cái gì. Lơ lửng giữa khoảng đen, giương trố mắt nhìn ra Marcellus Pye và Septimus là người đàn ông trẻ, tóc quăn đen, mặc áo đụng đen và đỏ, thêu vòng tròn vàng giống như cái đĩa lão già cầm trong tay. Vẻ mặt của người đàn ông trẻ lộ vẻ choáng sốc pha lẫn chờ đợi.

      Với ánh nhìn khao khát giấu nổi – bởi vì Marcellus biết mình đối diện với điều mà có lẽ lão bao giờ trở lại, đó là chính lão khi còn là thanh niên 30 tuổi – lão già đẩy Septimus cái mạnh bạo, làm thằng ngã nhào vô màn đen băng giá đó.

      Rất lặng lẽ, cánh cửa đôi đồ sộ đóng lại đằng sau lão, và Septimus ra .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 16: Cung điện trống vắng

      Khi Septimus bị đẩy qua cánh cửa vàng vĩ đại lão Gringe, người gác cổng Bắc, băng qua cây cầu gỗ dẫn tới Cung Điện.

      “Chào ,” lão Gringe chào Hildegarde, phó pháp sư làm bổn phận gác cổng sáng hôm đó.

      “Chào ông Gringe,” Hildegarde đáp lễ.

      “A, biết tên tôi!” Lão Gringe reo lên.

      “Dĩ nhiên tôi biết, ông Gringe à. Tất cả mọi người đều biết người giữ cổng Bắc. Tôi có thể giúp ông được gì nào?”

      “À, … có vấn đề nhạy cảm, mà tôi thể nần nà ở lại lâu được, lúc tôi bà Gringe rất khó chịu vì phải gác cổng, với lại vào những lúc vui vẻ nhất bà ấy còn thích đếm tiền nữa là, vì vậy tôi phải trở về gấp, ờm…”

      “Vậy tôi có thể làm gì cho lão?” Hildegarde hỏi.

      “Ồ. À, , tôi đếp gặp Silas Heap. Nếu phiền.”

      , tôi phiền đâu, ông Gringe. Nếu ông muốn ngồi ở cái ghế đằng kia để tôi phái người đưa tin tìm ông ấy.” Xong, Hildegarde tới Lối Dài và rung cái chuông lắc tay bằng bạc ở tủ com mốt cổ bằng gỗ mun. Tiếng leng keng vang động cả hành lang vắng teo.

      Cung Điện khiến lão Gringe cảm thấy kính nể quá chừng; lão thể tin lấy mảy may là Silas Heap lại sống trong đó. Lão lia mắt nhìn hàng ghế vàng thanh thoát, mặt ngồi bọc nhung đỏ mà Hildegarde ra hiệu cho lão tới, bèn quyết định là chúng có vẻ ghê ghê, nên hấp tấp nhào vô góc tối nhất của hành lang, nơi mà lão thầm nhắm trước chiếc ghế bành trông có vẻ rất thoải mái. Nhưng cái ghế bành khuất trong bóng tối đó, lão Gringe thấy, có con ma Cố Nhân Godric, cựu gác cửa ngủ an lành bên trong.

      “Ối đừng!” Tiếng Hildegarde la chói lói. “Đừng ngồi cái ghế đó, ông Gringe!”

      Lão Gringe, định ghé mông ngồi xuống, vội nảy thót lên như bị con gì cắn.

      “Có người ngự đó rồi,” Hildegarde giải thích.

      Lão Gringe, cả đời chưa bao giờ thấy ma và cũng có ý định bắt đầu thấy ma từ bây giờ, lắc đầu câm cảnh. Chả trách dân chúng hay kháo nhau trong Cung Điện toàn bọn thần kinh. Mà dĩ nhiên cũng phải, chính vì thế mới hợp với Silas Heap.

      Lão Gringe thở phào nhõm khi Silas tới cùng với Maxie lèo đèo theo sau. Silas hơi hơi đỏ mặt – chẳng là ông mừng húm vì có cớ để bỏ . Mặc cho bà Marcia lùng sục Septimus trong Cung Điện, thằng bé hóa ra lỡ mất bài thi, làm Silas thán phục quá chừng. Rốt cuộc thằng con ông cũng chịu xếp càng và chịu hành động đúng như thằng bé bình thường.

      Lão Gringe nhảy cỡn lên như con chó sục đuổi theo thỏ. “Nó đâu rồi, hả?” Lão cật vấn.

      “Đến ông mà cũng thế nữa,” Silas càm ràm. “Tôi vừa mới với bà Marcia xong, rằng tôi biết. Vả lại, chuyện bình thường chứ có gì mà bấn nhặng lên vậy. Cá nhân mà , tôi trách thằng lỡ cái kỳ thi quái gở đó.”

      “Kỳ thi nào?” Lão Gringe , sửng sốt.

      “Hừ, đó chắc chắn chẳng phải là cái thứ tôi thèm nhớ. Làm gì quan trọng đến thế. Mà này, lão muốn gặp nó để làm gì vậy? Bộ nó nô giỡn cầu rút à? Tùy lão xử lý tụi đó thôi.” Silas cười khà khà vẻ bao dung, nhớ lại cái hồi mình và chúng bạn phóng rần rần lên cầu rút ngay lúc cầu rút lên rồi gan xem đứa nào rơi xuống hào cuối cùng.

      “Nô giỡn?” Lão Gringe hỏi, lão bắt đầu cảm thấy trớt quớt như thường lệ, kiểu như sống hành tinh khác hẳn với Silas Heap. “Simon giờ đuổi gà qué(*) ư? Nó mà thế tôi cũng chẳng ngạc nhiên, ông nhớ kỹ tôi đấy. Nó tới đâu gieo rắc tai họa tới đó, cái thằng.”

      Giờ đến lượt Silas sửng sốt. “Simon? Gà?”

      Lão Gringe có ý định hòa hoãn. “Này, Heap. Tôi chỉ muốn biết Simon ở đâu thôi?”

      “Hừ, bộ chúng tôi biết chắc?” Silas gắt.

      “Ừ. Thằng Rupert nhà tôi truy sát đến cùng, chắc chắn. Nó thân thiết với con chị nó lắm, thằng Rupert ấy, thế mà con chị nó lại chạy theo ngỗng trời…”

      “Chạy theo Simon á?” Silas hỏi, ông bắt đầu ngờ ngợ hiểu ý lão Gringe muốn hỏi về thằng con ngỗng trời của mình. “Bằng cách nào?”

      “Có trời biết. Nếu mà tôi biết nó thế nào tôi ngăn nó rồi.”

      “Ừm, tôi xin lỗi, lão Gringe,” Silas mệt mỏi vì bị đổ thừa cho hành vi độc ác của Simon, “nhưng tôi biết Simon ở đâu. Tôi thấy xót xa vì Lucy nhà ông vẫn quấn quít với . Con bé là dễ thương.”

      “Ờ,” lão Gringe , nguôi ngoai phần nào. Lão Gringe và Silas đứng long ngóng trong tiền sảnh Cung Điện lát. Sau đó lão Gringe bảo, “Hờ… Chắc rồi tôi cũng phải cố quen thôi. Ông coi chừng để ý đến Jenna nếu cái thằng Simon đó lảng vảng quanh đây đấy.”

      “Jenna…” Silas ngớ ra. “Kể cũng lạ, cả sáng nay tôi chưa hề thấy nó…”

      “Chưa thấy? Ờm, thế tìm ấy , nếu tôi là ông. Tôi đây. Gặp ông làm vài ván cờ sau nhé, nếu ông thích. Tôi cho ông mượn bộ Đấu Thủ.”

      “Tôi có bộ riêng của mình rồi, Gringe. dám, cảm ơn ông,” Silas khịt mũi. Rồi, sực nhớ lời dặn của Sarah. “À, sao ông đến đây? Phải thay đổi chứ.”

      “Tôi? Tới Cung Điện hai lần ngày? Ố, ố,” lão Gringe cười khinh khích. “Cảm ơn, Silas.”

      Silas tiễn lão Gringe ra cổng Cung Điện. “Hẹn gặp ông,” lão Gringe , rồi ngẫm nghĩ thế nào lại them “Chúng mình chẳng có con gà nào cầu cả. con cũng .”

      “Ờ phải đấy,” Silas trơn tru. Ông vẫy tay chào tạm biệt lão Gringe rồi cùng Maxie tìm Jenna.

      Silas có rất ít cơ may tìm thấy Jenna, hệt như bà Marcia lúc này. Bà xồng xộc trong Lối Dài với ngài Alther bám sát gót. Đùng đùng hết mở cánh cửa này lại đóng sầm cánh cửa kia vào, miệng hét vang, “Septimus? Jenna!” cho đến khi ngài Alther hết chịu nổi nữa.

      “Có chuyện xảy ra ở đây rồi, Marcia,” ngài Alther bảo bà.

      “Quá đúng, ngài Alther à. Septimus? Jenna?” Rầm!

      “Quái lạ là cũng chẳng thấy Jenna đâu.”

      “Phải. Rất quái lạ. Septimus? Jenna?” Rầm!

      “Marcia, ta đằng này lát đây. Ta muốn chuyện với người về việc này.”

      chuyện chẳng làm nên tích gì, ngài Alther. Sáng nay tôi chuyện đủ với mụ Tổng trưởng sao chép Mặt để mà tởn tới già rồi – cả đống toàn rác rưởi. Tôi phải tìm Septimus ngay bây giờ. Septimus? Jenna?” Rầm!

      Ngài Alther để mặc bà Marcia ở đó sầm cửa và bay khỏi Lối Dài. Đến cuối hành lang ngài trôi lềnh bềnh vào ngọn tháp ở phía Đông Cung Điện, rồi ngài tự cuốn mình lên cầu thang xoáy ốc, đứng lặng thoáng ở chiếu nghỉ tầng cùng để sắp xếp các ý nghĩ lại với nhau. Trông ngài Alther có vẻ run sợ. Phủi nếp áo thụng xuống, động thái tất nhiên cũng chẳng làm tấm áo thẳng hơn chút nào, và vuốt mạnh chòm râu dài. Xong, hít hơi sâu, rồi với phong thái tôn kính hiếm thấy ở ngài Alther, ngài chậm rãi bước xuyên qua bức tường vào phòng Nữ hoàng.

      Nữ hoàng đứng phắt dậy.

      “Xin thứ lỗi, tâu lệnh bà,” ngài Alther cất lời, hơi trịnh trọng, khẽ cúi đầu xuống.

      “Miễn lễ, Alther, ta miễn lễ,” nữ hoàng đáp, thấp thoáng nét cười. “Hãy cho ta biết điều gì đưa ông tới đây. Và lại thánh thần, làm ơn đừng ‘tâu lệnh bà’ với ta nữa. Gọi ta là Cerys được rồi. Ta chỉ là con ma như ông thôi. còn là nữ hoàng nữa, Alther à.” Bà thở dài.

      “Thần tự hỏi sáng nay Người có thấy con của Người , Cerys?”

      Nữ hoàng mỉm cười rạng rỡ. “Có, ta có thấy,” bà đáp.

      “À. Vậy là đến nhà của Zelda chăng?”

      ra ông cũng biết về lối dành riêng cho nữ hoàng, phải Alther? Nó còn là bí mật như xưa nữa rồi.”

      “Với thần, bí mật của Người luôn luôn được đảm bảo. Xin hỏi Jenna có tình cờ dắt cậu Học Trò Pháp sư Tối thượng cùng ?”

      “Thằng bé với con bé. Thằng xinh ghê. Ông biết nhiều việc quá, vẫn như thuở nào. Ta vốn dĩ luôn dè chừng ông. Hình như ông hiểu hết… ờ, tất cả mọi thứ vậy.”

      “Như vậy bé có đưa Septimus cùng? Ồ, thế là rồi. Cảm ơn, Cerys. Tôi về bảo Marcia đừng dồn mọi người phát điên lên nữa.”

      “Marcia, Marcia quý,” nữ hoàng ưu tư. “ ấy cứu Jenna của ta, ông biết mà.”

      “Thần biết ạ,” ngài Alther . Cả hai cùng im lặng lát, nhớ lại cái ngày họ cùng hóa kiếp ma, mãi đến khi ngài Alther bừng tỉnh cơn mê. “Thần xin cáo từ. Cảm ơn Người.”

      Ngài Alther dợm quay chợt bảo, “Thưa, Cerys, Người nên ra ngoài nhiều hơn. Tự giam mình trong ngọn tháp này suốt tốt đâu. Và có lẽ Người hãy nghĩ tới việc Hình với Jenna non trẻ. Thần biết đó là quyết định lớn lao, nhưng…”

      “Ta Hình vào Thời Điểm Thích Hợp, Alther,” nữ hoàng ngắt lời, hơi nghiêm sắc mặt. “Quan trọng là công chúa phải tự mình khám phá mọi điều và phải tự chứng tỏ mình xứng đáng trở thành nữ hoàng – như chính ta phải như vậy. Trong khi đó, ta ở đây để bảo vệ lối Nữ hoàng khỏi xâm hại, như mẹ ta làm cho ta. Và như Jenna làm cho con của nó.”

      “Tạ ơn Người, Cerys. Lối đó luôn an toàn, tôi hy vọng.”

      “Ta cũng hy vọng vậy. Nhưng vẫn phải mãi mãi cẩn trọng. Tạm biệt. Cho tới khi chúng ta gặp lại…” nữ hoàng trôi trở về chiếc ghế của mình bên lò sưởi bất diệt, và ngài Alther biết cuộc diện kiến kết thúc. Ngài lại trôi lều phều qua bức tường với cảm giác hài long lắm – nhưng chỉ sau đó ngài Alther mới nhận thấy là nữ hoàng trả lời thẳng bất kỳ câu hỏi nào của mình cả.

      Ngài Alther tìm bà Marcia để khuyên bà ngưng đóng mở cửa sầm sập , bởi vì Jenna dẫn Septimus thăm dì Zelda rồi. Ngài bắt gặp bà Marcia giằng co với ngài Hereward bên ngoài phòng Jenna.

      “Nếu ngài tránh sang, ngài Hereward,” bà Marcia cáu kỉnh bảo con ma, “ ta buộc phải Xuyên Qua ngài đấy, lôi thôi gì hết.”

      Ông hiệp sĩ già lắc đầu cách u phiền. “Xin lỗi, thưa Pháp sư Tối thượng, nhưng công chúa đặc biệt ra lệnh cho tôi được phép để bất kỳ ai vào phòng ấy. Rủi quá, kể cả bà. Tôi ước gì mình có thể làm khác , nhưng…”

      “Hừ, thôi đừng sợ thái quá nữa, ngài Hereward. Ta cần chuyện với ấy khẩn cấp, Tránh ra, mau!”

      “Hự!” Ngài Hereward thở dốc lên khi mũi giày da trăn màu tía nhọn hoắt của bà Marcia chọc qua mu bàn chân bọc giáp của ngài.

      “Marcia!” Ngài Alther nạt lớn. “Marcia, cần phải thế. cần. Ngài Hereward làm việc rất tốt. Jenna có trong phòng đâu. đưa Septimus tới thăm Zelda rồi.”

      “Cái gì?” Bà Marcia đứng sững, chân bà vẫn dẫm mạnh vào chân ngài Hereward. Ông hiệp sĩ rút chân mình ra, rồi tuốt gươm, đặt chắn ngang cánh cửa và thảy cho bà Marcia ánh nhìn khinh thường.

      Bà Marcia lùi khỏi con ma. “Nhưng… nhưng bé đưa Septimus đến Zelda làm cái quái quỷ gì? Ngài Alther, việc này khủng khiếp. Ngày hôm nay Septimus tuyệt đối được rời khỏi tôi, nó ở trong vòng nguy hiểm rất ác nghiệt. Còn về Jenna, cả ngài lẫn tôi đều biết ấy buộc phải ở trong Lâu Đài. Ai mà biết điều gì xảy đến với chúng con đường tới đầm Cỏ Thô. Bọn chúng nghĩ gì thế biết?”

      Ngài Alther liếc nhìn ngài Hereward, ngại ngùng tiện trước có mặt của ông hiệp sĩ, nhưng con ma ấy lịch ngó xuống chân mình. Ngài Hereward thừa biết khi nào nên rút lui. Lập tức ngài Alther nắm cùi chỏ bà Marcia và kéo bà khỏi con ma già. Trong khi bước hành lang ngài Alther giật mình nhận thấy bà Marcia run rẩy.

      Ngay khi tin chắc mình ra ngoài tầm nghe, ngài Alther liền . “Ừm, chúng qua đầm Cỏ Thô, Marcia. Có Lối khác.” Ngài Alther ngượng ngùng. Lối Nữ hoàng là bí mật mà chỉ có nữ hoàng và các hậu duệ của Người được biết. Cách đây nhiều năm, khi còn là Pháp sư Tối thượng ngài Alther lảo đảo băng qua lối Nữ hoàng từ ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm, trong khi ngài mải tìm người tiền nhiệm của dì Zelda là Betty Crackle. Betty đãng trí để mở Lối , và ngài Alther sửng sốt thấy mình ở trong phòng Nữ hoàng cùng với nữ hoàng Matilda, bà ngoại đáng sợ của Cerys. Ngài vội vàng tìm đường trở lại ngôi nhà tranh, nhưng là sau khi nữ hoàng Matilda bắt ngài phải thề độc là bao giờ tiết lộ bí mật về lối này.

      “Ừm, qua Bến Cảng cũng chẳng tốt hơn, ngài Alther.”

      “Cũng qua Bến Cảng, Marcia. Mà nhanh hơn… và an toàn… hơn thế.”

      Bà Marcia hiểu ông thầy già của mình khá , đủ để biết khi nào ngài giấu mình điều gì. “Ngài biết điều gì đó, phải ? Ngài biết nhưng ngài ra.”

      Ngài Alther gật đầu. “Xin lỗi, Marcia, ta thề là bao giờ ra. Đó là bí mật của nữ hoàng.”

      ràng phải là bí mật đối với Septimus,” bà Marcia .

      “Ờ. Septimus hình như khác.”

      “Thế mới rắc rối đó, ngài Alther,” bà Marcia đáp, giọng bà vút cao lên mức ngài Alther nghĩ là kinh hoàng. “Nó khác lắm. Khác tới nỗi viết cho tôi lá thư cách đây năm trăm năm.”

      ++++++++++++++++++++

      (*) Silas dùng từ “play chickens” với ý là “nô giỡn”, nhưng lão Gringe lại hiểu lầm là “đuổi gà qué”- ND

      Chương 17: Những con ma Cung Điện

      Nguôi dịu hẳn , ngài Hereward nhìn bà Marcia và ngài Alther khỏi hành lang rộng, quẹo phải ở cuối đường và biến mất khỏi tầm nhìn.

      Đằng sau cánh cửa phòng Jenna, con ma khác, hoàn toàn hài lòng như ngài, vội nhấc tai khỏi cánh cửa, nụ cười vắt ngang đôi môi mím chặt của mụ. Vậy là con bé công chúa càn quấy chạy tới đầm Cỏ Thô với thằng Học Trò rồi ư! Và nghe coi bộ nó làm như hứa với mụ. Con bé phải trả giá cho điều này, còn thằng Học Trò cũng đừng hòng nghĩ là mình thoát nạn hay gì gì.

      Con ma nữ hoàng Etheldredda hùng hổ băng qua phòng, tới cái hộp cục mịch mà Jenna cất giữ tất cả những báu vật của mình. Con ma xem xét cái hộp rồi làm phép Khiến cho nắp hộp mở ra nhàng. Thò ngón tay dài, xương xẩu vào bới kho tàng của Jenna, nữ hoàng Etheldredda tìm thấy vật mụ tìm và làm việc mà con ma nào có thể làm được – nhặt vật đó lên, ấy là viên bi bạc, , khắc mẫu tự L.P. và nhét nó vào túi áo. Rồi, với nụ cười ngạo nghễ, con ma nữ hoàng Etheldredda bước xuyên qua cánh cửa, Xuyên Qua cả ngài Hereward bị ngược đãi.

      Con ma nữ hoàng Cerys xét theo diện mạo ràng ngủ ngon lành trong chiếc ghế bên lò sưởi, cho nên, khi con ma nữ hoàng Etheldredda thấm vào phòng qua bức tường và xộc thẳng đến buồng chứa thuốc, mụ sững sờ thấy mình đột nhiên bị chặn lại bởi hậu duệ vô cùng kiên quyết.

      “Bà được qua,” Cerys lạnh lùng bảo nữ hoàng Etheldredda.

      “Dẹp lố bịch , cháu. Ta có đủ đầy quyền để qua lối Nữ hoàng. Và ta qua đây. Tránh ra.”

      “Tôi tránh.”

      “Mi phải tránh!” Nữ hoàng Etheldredda điên cuồng dấn tới. Cerys thở hốc lên – chỉ sốc vì bị Xuyên Qua, mà còn sững sờ vì cảm thấy nữ hoàng Etheldredda rắn chắc cách đáng ngạc nhiên – nhưng kịp thời trấn tĩnh để làm phép Khiến cửa buồng thuốc đóng chặt lại.

      “Hai chúng ta đấu nào,” nữ hoàng Etheldredda quát tháo và Khiến cửa mở ra.

      “Nhưng chỉ có người thắng,” Cerys đối đáp, Khiến cửa đóng lại.

      “Ái chà, cháu. Ta mừng là mi hiểu.” Nữ hoàng Etheldredda Khiến cửa mở ra.

      “Tôi nhất định bảo vệ con mình. Bà ngăn được tôi đâu,” Cerys giận dữ tuyên bố, và lại Khiến cửa đóng cái sầm. Sau đó, khi nữ hoàng Etheldredda trả miếng, Cerys bắt đầu quay tít. Càng lúc càng nhanh, quay tít, tựa như cơn lốc, cuốn khí trong tháp xoáy trào theo mình, cho tới khi nữ hoàng Etheldredda, dù cố chống cự, bị cuốn vào dòng xoáy và quay mòng mòng trong căn phòng hình tròn như chiếc lá thu bị gió xoáy.

      !” Cerys thét. Nữ hoàng Etheldredda bị tống khỏi phòng, ra khỏi ngọn tháp, bay vèo qua những bãi cỏ về phía dòng sông, và đáp đánh bẹp xuống giữa trong những bãi phân rồng được Billy Pot vun vén lại cẩn thận. Tức sôi máu, mụ lóp ngóp bò ra khỏi đống phân và kiêu hãnh trôi về phía bờ sông, nơi con thuyền hoàng gia ma đợi mụ.

      Đầu ngỏng cao và ngoái lại lần nào, nữ hoàng Etheldredda bước lên cầu tàu. Khi mụ yên vị ngai vàng, con thuyền ma bắt đầu xuất bến. Nó im lìm lướt xa dần những khu vườn Cung Điện và hướng ra giữa sông rồi xuôi dòng, Xuyên Qua đám thuyền bè chướng ngại vật, mà hiểu vì lý do gì đó hình như bốc cháy. Nữ hoàng Etheldredda chẹp lưỡi khó chịu trước vô lề lối, mất trật tự của Lâu Đài và tự an ủi là điều đó còn kéo dài lâu nữa đâu. Mụ thấy điều đó mà.

      Nhệch ra nụ cười mãn nguyện, nữ hoàng Etheldredda ngã lưng vào ghế để thưởng thức cuộc hành trình. Có hơn đường, con ma nghĩ, để đến ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm.

      Đúng lúc nữ hoàng Etheldredda bị quẳng khỏi tháp, ngài Alther dẫn bà Marcia xuống trong rất nhiều cầu thang dẫn xuống Lối Dài. “Chính xác là định gì, Marcia… nó viết cho lá thư cách đây năm trăm năm hả?”

      “Sáng nay, ngài Alther à… tôi mở kệ sách Niêm Kín.”

      làm gì?”

      “Ngài biết đấy, có lần ngài dạy tôi cách mở cái kệ đó mà. Ở đó chứa điều mà tôi phải xem xét.”

      phải Ta, Marcellus chứ?” Ngài Alther liên tục tái nhợt trong vòng nửa giờ qua. Giờ ngài trong suốt rồi.

      Bà Marcia gật đầu.

      mở Ta, Marcellus? Nhưng nó bị Niêm Kín từ trước thời những tháp canh bị Đông cứng cơ mà.”

      “Tôi biết, tôi biết, nhưng đó là việc tôi phải đánh liều. Tôi thấy… tôi thấy gì đó trong khi xem những tính toán của Jillie Djinn để soạn bài kiểm tra thực hành Tiên tri cho Septimus.”

      “Hừ. Người phụ nữ đó cái gì mà chả tính với toán. Hôm qua ta còn bắt gặp ta tính toán tỉ lệ hao mòn đôi ủng mới của ta nữa kìa. ta muốn biết chính xác nó được bao lâu.”

      “Việc đó cũng làm tôi ngạc nhiên, ngài Alther. Thực lòng mà , ta khiến tôi phát rồ phát dại. Giờ mà tôi định tới Văn phòng Sao lục để nghe thêm mớ học thuyết chán phèo của ta nữa á. Ô, xin kiếu cho.”

      “Marcia. Chính xác thấy gì trong Ta, Marcellus?”

      “Con thấy…” bà Marcia bắt đầu, bỗng giọng bà nghẹn ứ và dừng sựng giữa chừng. “Ôi, khủng khiếp.”

      “Trò thấy gì?” Ngài Alther nhàng hỏi.

      “Con thấy lá thư của Septimus. Đề địa chỉ gởi cho con.”

      “Marcia, trò có chắc ?”

      “Chắc. Con biết Septimus luôn ký tên bằng những nét loằng ngoằng ở cuối… Con nghĩ hình như nó có nghĩa là số 7 phải?”

      “Ờ ờ. Giả tạo hết sức, nhưng tụi trẻ ngày nay chuộng những kiểu chữ kỳ quái lạ nhất đời. Ta chỉ hy vọng lớn lên chút nữa thằng bé chịu yên ổn với cái gì đó thực tế hơn thôi.”

      “Nó muốn ký kiểu quái đản nào kệ xác nó, ngài Alther. Nó muốn ký tên bằng mứt dâu rồi trét lên đầu nó cũng kệ… Tôi quan tâm. Nhưng tôi sợ là chúng ta bao giờ trông thấy nó lớn lên nữa… ít nhất là trong Thời này.”

      Ngài Alther nín thinh. Ngài choáng váng, bởi vì ngài biết bà Marcia phải là kẻ hay nhiều . Cả bà Marcia cũng im thít, vì nhận thấy lời mình vừa đó rất có thể là .

      “Lá thư viết gì vậy?” Ngài Alther lặng lẽ hỏi. Họ đến chân cầu thang và dừng lại trước ngưỡng cửa che rèm lối đen. cơn mưa lạnh buốt chớp nhoáng đột ngột xé tan bầu trời phía họ, và bà Marcia rùng mình khi lôi ra mẩu giấy cũ trông mục nát. Cẩn thận, kéo tờ giấy có nguy cơ muốn rã thành bụi, bà Marcia mở tờ giấy ra, và nheo mắt trong ánh sáng tù mù, bà đọc to những dòng chữ mà Septimus viết hàng mấy trăm năm trước.

      Kính gửi bà Marcia,

      Con biết ngày nào đó bà tìm thấy lá thư này, bởi vì khi con trở lại con biết bà lùng tìm khắp mọi nơi trong thư viện, lục bới qua tất cả những vật từ thời Giả kim thuật. Dù con bao giờ thấy quyển sách của Marcellus trong thư viện nhưng con tin chắc là bà biết nó ở đâu. Chắc chắn nó nằm ở trong kệ Niêm Kín. Con hy vọng bà tìm thấy nó ngay sau khi con ra , để bà phải lo lắng về con quá nhiều và để bà có thể trả lời cho mọi người biết con ở đâu. Con kẹp nó vào phần Biên Niên Sử trong quyển sách của Marcellus. Lúc này ông ấy viết về Thời của chúng ta… à, ý con muốn là Thời của bà. Nó còn là Thời của con nữa rồi. Con kẹp nó ở đúng ngày con ra để bà biết nơi mà tìm. Con hy vọng lũ bọ giấy ăn mất nó.

      Con muốn lời cảm ơn bà vì vô cùng sung sướng được là Học Trò của bà, và con ước gì mình vẫn là Học Trò của bà, nhưng giờ đây con là Đệ Tử của Marcellus Pye rồi. Xin bà hãy đừng lo lắng cho con bởi vì điều đó đến nỗi tệ lắm đâu, nhưng con nhớ mọi người lắm, và nếu bà có bất kỳ cơ hội nào để đưa con về lại được (nhưng con biết bà có thể làm cách nào), con RẤT hạnh phúc.

      Con phải đây, Marcellus tới kìa.

      Con đến đây bằng Tấm Kính, Jenna kể cho bà biết.

      Vô vàn thương,

      Septimus x x x

      “Ối,” ngài Alther thảng thốt.

      Chương 18: Cũi Rồng

      Jenna và thằng Sói ở bên ngoài củi của Khạc Lửa. Dù củi mới được dựng lên có hai tháng mà cửa nẻo trông cong vênh và phọ bày vài chỗ nứt toác, buộc phải chèm lại bằng những thanh kim loại.

      cầm đầu thanh chắn còn em cầm đầu kia nha,” Jenna bảo thằng Sói. “Chúng nặng lắm đấy, Sep., ờm, Sep luôn phải có người giúp ấy. Thường là em.” Cánh cửa được chẹn bằng ba thanh sắt to bành, và Jenna cùng thằng Sói chuẩn bị dời thanh cùng.

      Septimus vốn thích để Khạc Lửa bị nhốt vào ban đêm, nhưng nó bị buộc phải khuất phục sau khi đại diện pháp sư nhất định chịu rời các phòng của bà Marcia cho đến chừng nào biện pháp gì đó được thi hành. Tính cho đến lúc đó Khạc Lửa còn được phép chạy trong sân tháp Pháp Sư, nhưng kết hợp giữa con rồng choai, được ấp nở hoàn toàn tự nhiên, với những đống phân rồng cao hơn nửa thước dẫn tới tai họa. Chẳng bao lâu sau hiếm có pháp sư nào ban đêm lại vô tình bước thẳng vào trong những bãi phân ấy và mất tiêu ủng, hay thậm chí, tệ hơn, ngã vập đầu vào đó, phải cần người lôi mới ra được. Khạc Lửa cũng đâm ra khoái nhấp nhấp áo chùng len xanh da trời của các Pháp sư Thường đẳng, và có gì khiến con rồng khoái bằng cú chớp nhoáng đuổi theo khổ chủ quanh sân, nhắm tới chiếc áo chùng trông ngon lành để thỏa mãn cơn them.

      Cái cũi này dội lại tiếng ngáy của con rồng choai, do Khạc Lửa, ngấp nghé tuổi vị thành niên của rồng, dạo này bắt đầu nhiễm thói ngủ dậy trễ vào buổi sáng. Nhưng khi thằng Sói và Jenna nhấc thanh sắt lên và cẩn thận đặt xuống đất, Khạc Lửa liền thức dậy. tiếng rầm inh tai, đuôi nó quất bụp vào những thanh rầm mái, kèm theo tiếng rắc lớn, báo hiệu vụn gỗ văn tòe loe . Thằng Sói giật bắn người lùi lại, nhưng Jenna, quen nghe những tiếng động dữ dội hơn thế này từ cũi của Khạc Lửa, vẫn đứng nguyên tại chỗ.

      “Xin lỗi, Jenna,” thằng Sói lầm xầm, hơi xấu hổ, “Tại bất ngờ quá. Nào, để tôi nhấc nốt hai thanh kia cho.” Rồi trước kinh ngạc của Jenna, thằng Sói tự mình giật phăng những thanh sắt cong oằn ở giữa và ở dưới cùng ra, thả chúng xuống đất ầm, ầm. Bên trong cũi có tiếng thịch đáp lại khi Khạc Lửa quật đuôi phấn khích trước viễn cảnh được thả ra.

      Giờ Jenna chỉ phải mở khóa cửa cũi. bé lấy chiếc chìa khóa to treo móc và xỏ vào lỗ khóa đồng. “Cửa mở hướng ra ngoài đấy,” bé cảnh báo thằng Sói. “Nên phải cẩn thận kẻo nó đè bẹp khi Khạc Lửa xông ra. Coi chừng tém tém cái chân vào nữa, vì nó thích đạp lên ngón chân người ta lắm. Sep bảo… à thường hay bảo là nó vô tình đâm phải thôi, nhưng em đoán là Khạc Lửa cố ý. Nó nghĩ đấy là trò chơi, nó thích cảnh người ta nhảy mòng mòng, ôm bàn chân đau la choe chóe lắm.” Jenna vặn chìa khóa, cánh cửa mở ra cái kịch và Khạc Lửa rồ tới trước, cổ duỗi ra đón khí trời buổi sáng mát mẻ, nện móng lịch phịch xuống đoạn dốc thoai thoải. Đến chân dốc, con rồng choai dừng sựng lại, nhìn quanh vẻ bối rối. Nó nghiêng đầu qua bên và rồi, dường như thất vọng, nó ngồi thừ xuống, im lặng khác thường.

      Khạc Lửa trổ mã thành chú rồng đẹp trai. Dù chú chàng mới chỉ dài chừng bốn thước rưỡi – bằng nửa kích cỡ trưởng thành của chú – nhưng trông lớn tướng và mạnh mẽ. Những chiếc vảy xanh lá cây sáng lấp lánh trong nắng mai, và song sánh theo từng gợn cơ bắp bờ vai rộng chắc khi chú hơi dịch chuyển thế ngồi. Đôi cánh lởm chởm lông màu xanh lá pha nâu xếp ngay ngắn hai bên hàng gai rồng đen, dày chạy dọc theo sống lưng, kéo suốt từ mí tai xuống tận chỏm đuôi. Đôi mắt màu ngọc lục bảo của Khạc Lửa lóe sáng và hai lỗ mũi loe ra hít hít khí, dò tìm mùi của Septimus Heap, người In Dấu của chú.

      Cầm chặt đôi ủng của Septimus, Jenna thận trọng nhích dần đến gần Khạc Lửa, chú ý gây chuyển động bất thần nào, bởi vì buổi sáng tính khí nó hay thất thường, khó đoán. Nhưng con rồng phản ứng khi Jenna chậm rãi bước tới gần và đặt bàn tay lên những chiếc vẩy mát lạnh cổ nó. “Septimus có ở đây, Khạc Lửa à,” bé dịu dàng. “Mình ở đây thay thế ấy.”

      Khạc Lửa ngờ vực dòm Jenna và hít ngửi đôi ủng. Nó khịt khịt rồi khọt ra dải nước mũi rồng màu xám xanh to tướng, bãi nước nhầy đó bắn thẳng qua sân và đập đánh phẹt, rền vang lên khung cửa sổ tầng hai của tháp Pháp Sư. Tích tắc sau khung cửa sổ đó bật mở và pháp sư giận điên thò đầu ra. “Hây!” bà hét um. “Bộ kiểm soát được con chằn tinh đó hay sao? Tôi phải mất ba ngày mới lau sạch bãi nhớt vừa rồi đấy.” bỗng chợt nhận ra Jenna chứ phải Septimus ở bên con rồng, “Ối, ối trời, xin lỗi. Tâu lệnh bà,” và đóng sầm cửa sổ lại.

      “Đừng gọi tôi như thế,” Jenna làu bàu, rồi, bắt gặp ánh nhìn kỳ quặc của thằng Sói, , “Em phải là nữ hoàng. Họ nên gọi em như thế. Mà em cũng chẳng muốn làm nữ hoàng.” Thằng Sói lộ vẻ ngạc nhiên nhưng gì, đó là thái độ chung của thằng Sói trước việc có tính chất mưu mẹo gì đó.

      “Em bắt đầu thực phép Thay Thế đây, 409,” Jenna , hơi hồi hộp. “Hy vọng là nó hiệu nghiệm.”

      “Đương nhiên hiệu nghiệm,” thằng Sói , theo ý nó Jenna có thể làm bất cứ điều gì ấy muốn. Nó nhìn Jenna lôi tấm thẻ nhăn nhúm ghi lời chỉ dần của Beetle từ trong túi áo chẽn ra và chậm rãi đọc, xong rồi mở hộp kẹo bơ cứng, lấy ra mảnh da rồng xanh da trời và cẩn thận trải nó ra. Jenna lặng lẽ ngồi xuống cạnh đôi ủng của Septimus và thằng Sói thấy môi bé mấp máy đọc đọc lại câu thần chú miếng da rồng, ráng ghi nhớ kỹ lưỡng. Nó ngạc nhiên thấy việc đó mới lâu làm sao – lâu gần bằng khi nó đọc trong những công thức bào chế thuốc của dì Zelda. Thằng Sói biết có gì để cho mình có thể giúp Jenna làm phép Thay Thế, nhưng nó nghĩ mình có thể thử những kỹ năng học được khi sống với đàn sói trong Cánh Rừng.

      Và thế là thằng Sói ngồi xuống cách ba mét trước mặt Khạc Lửa và tập trung hết sức nhìn con rồng, quyết buộc chú ta phải im lặng và dịu yên. Khạc Lửa bắt gặp ánh nhìn của thằng Sói liền lập tức ngoảnh , nhưng vậy cũng đủ. Con rồng biết mình Bị Nhìn. Nó ngọ nguậy bức bối, nhưng bỏ . Khạc Lửa ngồi im lìm trong cơn mưa lất phất, hy vọng người In Dấu của mình xuất và dẹp con sói hai chân thiểu năng cứ nhìn mình dứt thế kia.

      Cuối cùng Jenna tin chắc là mình thuộc phép Thay Thế. bé cầm đôi ủng của Septimus lên và đặt chúng ngay chân Khạc Lửa. Vẫn ngồi im, Khạc Lửa hít ngửi đôi ủng. Sau đó nhỏng cao đầu lên, phì ra luồng hơi dài, nóng hổi. Thằng Sói thấy phát ói. Nó quen với mùi hơi thở rồng, mà được mô tả hay nhất là mùi cao su cháy gớm ghiếc trộn nhào với mùi vớ cũ và mùi hôi xóc óc của lồng chuột cần rửa gấp.

      Jenna đứng khiễn chân lên và đặt bàn tay vào mũi Khạc Lửa. “Nhìn mình đây, Khạc Lửa,” . Khạc Lửa hết nhìn xuống hai chân lại ngó lên trời, hết tự ngắm móng vuốt lại vặn đầu ra sau, tự dưng thấy chóp đuôi của mình mới hay hay làm sao. “Khạc Lửa,” Jenna cương quyết, “Làm ơn… nhìn tôi đây.”

      Có gì đó trong giọng Jenna khiến Khạc Lửa lưu ý. Nó nghiêng đầu qua bên và nhìn bé. Jenna giữ chặt tay cái mũi dính dính, ươn ướt của con rồng. Tay bé run run. Đây là cơ hội duy nhất cho mình tìm Septimus, và tất cả tùy thuộc vào Khạc Lửa, vốn phải là sinh vật dễ bị lệ thuộc. Khạc Lửa lờ đờ nhìn Jenna. ấy muốn mình ăn sáng với ấy chăng? Nó tự hỏi.

      Jenna nhìn thẳng vào mắt Khạc Lửa. Rồi hít sâu và chậm. “Khạc Lửa, nhìn tôi đây và tôi với năm điều mà phải hiểu. Thứ nhất: Khạc Lửa, bằng thiện ý tôi báo với rằng người In Dấu của mất tích,” Khạc Lửa nghoẹo oặt đầu, hy vọng bữa sáng phải là cháo nữa.

      “Thứ hai: Khạc Lửa, bằng thiện ý tôi mang cho món đồ vốn thuộc về người In Dấu của .” Khạc Lửa nhắm mắt lại và quyết định phải chi là hai con gà mê ly biết mấy.

      “Mở mắt ra, Khạc Lửa,” Jenna nghiêm giọng. Khạc Lửa mở mắt ra. Gì mà nhặng xị lên vậy?

      “Thứ tư: Khạc Lửa, bằng lòng thiện ý tôi cầu chấp nhận tôi là người In Dấu thay thế của .” Khạc Lửa tự hỏi liệu họ có cảm phiền mang cho mình ba con gà với cháo , bởi vì bữa sáng trễ rồi.

      “Thứ năm: Khạc Lửa, bằng thiện ý tôi khẩn cầu hãy tìm người In Dấu đích thực của , qua lửa và nước, đất và khí, dù bất cứ ở nơi nào.” Jenna nhìn ánh mắt Khạc Lửa đúng mười ba giây như cầu và rồi quay . Khạc Lửa thắc mắc mình phải tìm Septimus trước hay là sau bữa sáng. Nó hy vọng là sau. Thế rồi nó ngoạm đôi ủng của Septimus… và ăn luôn.

      “Khạc Lửa!” Jenna thét. “Nhả ra!” bé chộp lấy sợi dây giày vụt biến mà lôi. Khạc Lửa ngả đầu ra sau rị lại. Nó thích trò kéo co và xem ra đây là hiệp kéo ngoạn mục. Nó vốn dĩ luôn nghĩ rằng giày của Septimus trông ngon miệng, Jenna giật mạnh, tiếng phụt và bé chẳng cầm được gì ngoài mẩu dây cột giày ướt láp nháp, te tua đầu. Khạc Lửa nuốt chửng, ở phát mãn nguyện, bỗng nhảy nhổm lên, ngạc nhiên quá đỗi.

      tràng phèng la với gỗ phách đinh tai điếc ráy bất chợt nổi lên bên ngoài cổng vòm lớn, hòa cùng tiếng thét lác, hăm he, dọa dẫm. Thằng Sói kinh sợ đứng bật dậy. Nó ưa tiếng ồn ào đột ngột – thứ gợi nhắc nó nhớ mồn đến những mệnh lệnh đánh thức lúc nửa đêm của Thiếu sinh quân.

      “Đội trấn áp chuột đó,” Jenna bảo. “Chắc là họ vừa trông thấy chuột. Tội nghiệp con vật. Giờ đừng hòng thoát. coi đấy, người ta còn thiếu gì việc để làm hơn là suốt ngày chạy bắng nhắng khắp Lâu Đà gõ nắp thùng rác và giết chuột.”

      Tiếng la ó trở nên khủng khiếp hơn khi đội trấn áp chuột bắt đầu đồng thanh. “Chuột, chuột, bắt chuột. Chuột, chuột, giết chuột! Bẫy chuột, bẫy chuột, đập, đập, đập!” Tiếng thét dội ình ình vào sân tháp Pháp Sư và rất nhiều pháp sư mở tung cửa sổ ra xem tiếng gì náo loạn vậy. Thế rồi, nhất tề gầm vang, đội quân ô hợp tràn qua cổng vòm lớn trong cơn say đuổi con mồi của mình: hai con chuột tháo chạy thục mạng, con này theo sát nút con kia.

      Tại sao chuột lại hướng đến cũi rồng, Jenna biết, chỉ thấy chúng phóng chíu qua sân, bỏ qua chỗ núp tương đối an toàn là cái giếng và hai đường mương thoát nước thuận tiện. Chúng đâm bổ qua giữa hai bàn chân Khạc Lửa, lao bắn lên con dốc dẫn tới cũi và quăng mình lún sâu vào đống rơm chăm chích, dùng để rải phủ sàn cũi.

      Trong nháy mắt đội trấn áp chuột bao vây cũi rồng, gõ nắp thùng và hô la rầm trời. Khạc Lửa khịt mũi sửng sốt. rồng nào thích bị bao vây cả, nhất là bởi đám người gõ thùng và la thét khản giọng thế kia. Rồng chung có đôi tai rất ư nhạy cảm, thích thưởng thức loại nhạc cổ điển du dương và những giai điệu đồng ca trong nhà thờ kìa – ra rất nhiều tu viện hẻo lánh sửng sốt pháp con rồng hay lân la tới nghe họ đọc kinh Gregory buổi tối. Khạc Lửa cũng ngoại lệ. Tiếng đập gõ om sòm khiến cái tai tinh tế rồng của nó bị đau, trong khi tiếng người lại chẳng ra vần điệu gì. Gầm tiếng, nó quẫy người ngoáy ra đối mặt với đội trấn áp chuột, phà hơi rồng nóng chảy vào họ.

      Đa số người hẳn bỏ cuộc ngay từ thời điểm này, hoặc vài kẻ theo đốm ăn tàn có lẽ cũng chỉ phọt cười hà hà tỏ ý bông lơn, nhưng phần lớn đội trấn áp chuột vẫn đứng im. Họ đời nào chịu để mất con chuột nào và giờ họ cũng định để mất hai con này.

      Jenna nổi giận. “Sao các người dám? Sao các người dám xông vào đây đuổi theo hai con chuột tội nghiệp và làm con rồng trẻ hoảng sợ. Sao các người dám?” Tiếng ầm ĩ hạ bớt lại khi đội trấn áp chuột – trong cơn hăng máu lúc nãy nhận ra công chúa – hạ nắp thùng rác xuống. Tiếng hô hoán của họ lụi thành im lặng tẻn tò.

      Kẻ cầm đầu đội trấn áp chuột, ông còn trẻ trông bộ cốt cẩn, đeo phù hiệu vẽ con chuột kinh hoàng bạt vía, có những răng nanh vàng nhiều màu, bước tới trước thưa. “Chúng tôi làm bổn phận công dân của mình, thưa công chúa. Chuột mang mầm bệnh bẩn thỉu, chúng gieo rắc bệnh…”

      Đến đây Jenna thể nhịn được cười. “Lố bịch. Chúng sạch hệt như ông hay tôi vậy mà. Chính con người lây lan bệnh tật, phải chuột.”

      “Chúng tôi muốn có bằng chứng, thưa công chúa,” người đàn ông trẻ đáp. “Dịch bệnh đến Lâu Đài là do lũ chuột mang đến. Phải hủy diệt chúng.”

      “Điên rồ,” Jenna , lắc đầu tin nổi. “Các người đuổi theo chuột tại vì các người thích giết chóc loài thú vô phương tự vệ. kinh khủng.”

      “Công chúa phải biết ơn chúng tôi,” giọng tham lam, mỏng quẹt kêu píp píp lên từ đằng sau đám đông.

      “Tại sao?” Jenna hỏi, nắm bắt lời đe dọa trong đó.

      “Bởi vì có người chính Người mang dịch bệnh đến, thưa Công chúa.”

      “Ta?” Jenna hoài nghi.

      “Người ta nó đến Thuyền Rồng của Người. Họ tiếc là để mặc con thuyền quái thai đó chìm lỉm dưới đáy hào .” Lời này tức khắc được hùa theo bằng tiếng lầm rầm đồng ý từ cuối hàng, nhưng ai ở gần Jenna dám hó hé gì.

      Jenna choáng váng đến cứng hàm, im thít luôn, và đội trấn áp chuột hiểu im lặng của bé là cho phép xâm nhập cũi của Khạc Lửa. Cả đám họ chồm lên dải dốc, và nhoáy cái vào trong bới tung thảm rơm, lục tìm chuột. Jenna và thằng Sói bị số đông rầm rộ áp đảo và thể làm gì được… nhưng Khạc Lửa khác. Khi đám Trấn Áp Chuột nhốn nháo ùa qua chú chàng, Khạc Lửa tức giận vung đuôi, đẩy cái gã sở hữu giọng chua cay vào giữa đống phân rồng đằng cuối cũi. Tiếp theo là tiếng lạn rạn lớn báo hiệu da rồng thô kệch dãn ra khỏi nếp gấp – phả ra mùi mồ hôi rồng oi rức mùi – Khạc Lửa quạt cánh rồi giương cánh lên , xỏa thành mảng tối che khắp cũi rồng. Đội trấn áp chuột dừng phắt cuộc săn lùng lại và khiếp đảm nhìn trao tráo khi Khạc Lửa cúi đầu về phía Jenna, như thể mời bé ngồi vào chỗ Septimus luôn ngồi – ngay đằng sau cổ, giữa hai vai chú chàng.

      Sợ Khạc Lửa đổi ý bất tử, Jenna lật đật leo lên ngồi vào vị trí Septimus đồng thời lôi giật thằng Sói leo ngồi vào vị trí Hoa Tiêu, nơi mình hay ngồi. Xong, nhớ lại lời ngài Alther chỉ dẫn Septimus trong lần bay đầu tiên của Khạc Lửa, bé đá hai cái vào sườn bên phải con rồng. Quả nhiên, Khạc Lửa đập cánh chầm chậm, cái, hai cái, đến cái thứ ba Jenna cảm thấy cơ bắp rồng căng ra khi chú chàng nâng người khỏi mặt đất vài phân, giữ thăng bằng và lèo lái trong khoảng chật hẹp của sân tháp Pháp Sư. Đúng lúc Khạc Lửa uốn lượn cho chuyển động nhanh, chuẩn bị vút lên, tiếng thét kinh thiên từ đội trấn áp chuột vang lên: “Chúng kìa! Bắt lấy chúng!”

      Khạc Lửa rời mặt đất, chú chàng mang thêm nhiều hành khách hơn chú thương lượng. Treo tòn teng cái ngạnh ở đuôi rồng là hai con chuột thất kinh hồn vía.

      Chương 19. Đội trấn áp chuột

      Răng của hai con chuột va lập cập vào nhau, sợ hãi khi Khạc Lửa bay lên khỏi sân tháp Pháp Sư giữa tiếng thét gào phản đối dữ dội của đội trấn áp chuột bên dưới. Jenna mải tập trung để nhớ lại tất cả những gì mình biết về lái rồng bay đến nỗi hay biết, nhưng bỗng giọng đay nghiến nổi vút lên khỏi đám huyên náo.

      ta là đồng bọn của chúng. Có phải tôi bảo các ông bà rồi ? Chính ta và con thuyền của ta mang dịch bệnh tới đây mà. nào, em ơi.” Mặc dù cái giọng đó phát ra từ phụ nữ cao lớn, mặt càu cạu, nhưng đội trấn áp chuột phần lớn đều là đàn ông và thanh niên trai tráng. “ nào, để nhấn chìm nó vĩnh viễn.” Đám còn lại của đội trấn áp chuột hú lên đáp lời.

      Khạc Lửa bay cao hơn, Jenna và thằng Sói thấy dòng người chen chúc nhau bươn qua cổng vòm lớn và rẽ vô con hẻm dẫn tới xưởng thuyền. Bên dưới con rồng, đôi chuột đu đưa cách nguy hiểm.

      “Dawnie,” con chuột lớn hơn hét, nó lúc lắc đằng đuôi Khạc Lửa, trong khi con mập hơn và to mồm hơn bám vào mắt cá nó. “Dawnie, móng em giết bây giờ. Em có cần phải bám chắc thế ?”

      tưởng em bám vậy để chơi cho vui à, Stanley? Chứ bảo em phải làm gì? Buông ra rồi bị giết bởi đám ô hợp dưới kia chắc? muốn thế lắm à?”

      “Úi. . Đừng dại dột, em . chỉ tự hỏi liệu em có nới lỏng nắm tay ra chút được ? thể cảm thấy chân mình nữa rồi.”

      Khạc Lửa đánh võng xuống đám đông, kẻ trong bọn quăng nguyên cái nắp thùng rác được nhắm khéo léo. Nắp thùng rác bay về phía lũ chuột, quay chiu chíu như lưỡi cưa tròn bay. Stanley nhắm mắt lại. Thế là hết, nó nghĩ. Cách ra mới hay hớm làm sao, lìa đời bởi cái nắp thùng rác.

      Nhưng Khạc Lửa phát tên lửa bay về phía mình, mấy tuần tập luyện môn né đạn với Septimus vừa qua, cái môn mà nó thấy ghét, bao gồm Beetle quăng ném đủ thứ vào nó, giờ thành công. Như nhà chuyên nghiệp, Khạc Lửa chỉ né cái nắp thùng rác mà còn tính toán vừa duýt để quét cho nó cú trời giáng bằng đuôi.

      “Aargh, Stanley! Chúng ta chếếếếếttt mất…” Dawnie thét kinh. Thằng Sói, xây xẩm mặt mày, thấy tội nghiệp cho Dawnie.

      Jenna thúc Khạc Lửa bay hết tốc lực tới xưởng thuyền. Họ bay đầu đội trấn áp chuột và Jenna ước tính quân mình đến xưởng thuyền trước đám đông năm phút. Trong năm phút đó Jenna phải vừa cho Khạc Lửa hạ cánh, vừa tiếp cận nhà thuyền và tìm cách bảo vệ Thuyền Rồng.

      Jannit Maarten chẳng hài lòng chút nào khi thấy Khạc Lửa hướng về xưởng thuyền của mình. Lần vừa rồi con rồng đó xuất gây nên thảm họa toàn tập, chở theo đám nhà Heap, như thường lệ. Và lần này lại nữa, nghi ngờ gì có đứa nhà Heap lưng rồng. Khi Khạc Lửa hạ thấp xuống để vào xưởng thuyền, Jannit cố hướng dẫn con rồng đáp xuống khoảnh trống mà mới đây là chỗ đậu của chiếc thương thuyền Bến Cảng do bà với Rupert hạ thủy. Khạc Lửa phớt lờ Jannit. Nó thích người ta huơ tay múa chân vào nó mà la hét. “Đằng đây, đằng đây này! Trời ơi, mép thuyền với máy khoan, con vật vô tích đó định làm gì vậy?”

      Khạc Lửa bay lước qua đầu Jannit, cách bà trong đường tơ kẽ tóc và đáp xuống buồng Hoa Tiêu của chiếc thuyền đánh cá lưới rà cũ, vốn lâm vào tình trạng rệu rã. Buồng Hoa Tiêu đó chỉ chống đỡ nổi con mòng biển già lớt phớt đậu chơi, chứ làm gì có chút cơ may để đón tiếp con rồng có trọng lượng bằng 764 con mòng biển cộng lại. tiếng rắc vang trời, buồng Hoa Tiêu sụp tan tành, Khạc Lửa và hành khách của nó thấy mình lọt tõm vào cái ao nước tù đọng trong thân chiếc thuyền đánh cá.

      “Lên, Khạc Lửa, lên!” Jenna thét, thúc lực vào sườn phải con rồng. Chật vật khó khăn, cộng với tiếng rin rít xé tai phát ra từ chóp đuôi nó, Khạc Lửa quạt cánh, lụi hụi leo ra khỏi thân thuyền cách chẳng xứng tầm gì cả, và đáp xuống bên cạnh chiếc thuyền đánh cá.

      “Coi vừa làm gì đó!” Jannit phản đối, thở hụt hơi chạy đến bên đống tàn tích. “Lẽ ra chúng tôi sửa được nó. Ngày mai Rupert bắt đầu rồi. Giờ , coi nó kìa.”

      “Xin lỗi, bà Jannit,” Jenna xin lỗi khi tuột xuống khỏi cổ Khạc Lửa. “Cháu thành xin lỗi. Nhưng đội trấn áp chuột đường đến đây để phá hủy thuyền Rồng.”

      “Để làm gì. Bà ấy đâu phải là chuột.”

      “Cháu biết,” Jenna cộc cằn. Để thằng Sói kìm giữ Khạc Lửa, còn mình chạy về phía nhà để thuyền Rồng.

      Jannit luýnh quýnh chạy theo. “Jenna!” bà gọi to. “Jenna!” nhưng Jenna dừng bước. Jannit giận điên- bà thích vụ này tí nào. là vài tháng trước bà hẳn xúc động khi cái thứ nửa thuyền nửa rồng này tự dưng lù lù xuất giữa đêm khuya. Nhưng bây giờ, vì thuyền Rồng nằm trong xưởng thuyền của mình, nên Jannit nghĩ nó thuộc trách nhiệm quản lý của mình, và ai được quậy phá thuyền bè của Jannit Maarte, cái đám quân hồi vô phèng tự phong mình là đội trấn áp chuột kia lại càng . Với lại, Jannit thích chuột.

      “Rupert,” Jannit gọi, Rupert Gringe quyết phục thù bận cưa gỗ, “đưa hết tay thợ ra đóng chặt các cổng đường hầm lại. Lấy thanh gỗ chẹn vào. Nhanh lên!” Rupert Gringe thảy việc làm đấy để làm theo lệnh Jannit lập tức. Cậu biết khi nào Jannit chứ đùa.

      Thuyền Rồng an vị ở cuối Kênh Đào, cho đến dạo gần đây con kênh này vẫn là ngõ cụt ngập nước nằm mé bên xưởng thuyền, kết thúc ở vách đá trơ trụi của bức tường Lâu Đài. Kể từ khi lập xưởng thuyền, Jannit luôn thắc mắc biết Kênh Đào này thực chất là cái gì. Cách đây ba tháng bà hiểu ra. Giữa đêm bị dựng dậy thấy hang động khổng lồ mở toác ra, ăn sâu vào bức tường cuối Kênh Đào. Nó như bất cứ cái hang cũ nào, mà là căn phòng rộng, cao vút, lát toàn đá lapis lazuli xanh dương cùng những chữ tượng hình vàng óng. Jannit, vốn đề cao xa hoa ngồn ngộn, nghĩ nơi này khiến ta bối rối, tuy nhiên bà cũng cưỡng nổi bị ấn tượng. Bà tin đời này lại có xưởng thuyền nào khác có cái hang- hoặc con thuyền độc đáo- như xưởng thuyền của bà. Và điều đó khiến bà tự hào.

      Điều làm Jannit khiếp sợ là mặc dù bà, Rupert Gringe và Nicko sửa sang thuyền Rồng trở nên đẹp tuyệt vời- còn ai biết con thuyền lĩnh trọn hai cú Đòn Sét và bị chìm tận đáy hào- nhưng sinh vật này vẫn còn vô thức. Thuyền Rồng nằm tựa đầu lên lối lát đá hoa cương mát lạnh, ở bên hông nhà thuyền, đôi mắt xanh lá cây nhắm nghiền, hơi thở khẽ và chậm. Đuôi bà được đặt trang trọng lên bệ đá hoa cương ở cuối nhà thuyền, được Jannit và Nicko cuộn lại ngay ngắn như cuộn dây thừng khổng lồ màu xanh lá cây, và hề nhúc nhích kể từ đó.

      Tiếng la hét rùng rùng dội vang khắp xưởng thuyền khi Rupert vừa đặt xong thanh gỗ chắn ngang cánh cổng đường hầm. Chốp mắt sau tiếng hét hò đập gõ thậm chí còn lớn hơn cả khi nó bắt đầu nổi lên. Đội trấn áp chuột tới nơi đúng lúc thấy cánh cửa đóng sập lại ngay trước mũi mình.

      “Tôi để cho lũ người bất kham bạo ngược đó vào đây phá hoại thuyền bè của tôi đâu,” Jannit khi đuổi kịp Jenna. Họ thót người quành qua đống ván lớn dùng để đóng thuyền dựng tựa vào bức tường Lâu Đài đồ sộ, sau đó họ xuyên qua lối hẹp giữa hai con thuyền buồm cao ngất còn thiếu thiết bị lắp ráp, và nhanh chóng tới lối vào nhà để thuyền Rồng. Tiếng thét lác cuồng nộ và tiếng đập cửa rầm rầm vang vọng khắp xưởng, Jenna và Jannit bước vào khoảng tối lặng câm của nhà để thuyền Rồng.

      Thuyền Rồng nằm im lìm, cái đầu to gối lên những tấm thảm Ba Tư duy nhất của Jannit, giờ cháy đen, rải ở lối lát đá hoa cương dọc bên hông. Jenna quỳ xuống đặt tay lên đầu Rồng, nhưng vẫn như mọi khi, bà hề động đậy. Những chiếc vẩy láng sờ vào lạnh ngắt và đôi mắt lục bảo dưới mi mắt xanh lá cây chớp mảy may khi Jenna khẽ vuốt chúng.

      Jannit đứng lùi lại và nhìn Jenna. Ngay cả vào thời điểm như thế này, Jannit cũng thích cắt ngang riêng tư gì đó giữa Jenna và Thuyền Rồng. Bà quen những khoảnh khắc ở bên Thuyền Rồng của Jenna, và thường đứng lánh ra xa, vì bà cảm thấy mình xâm phạm nếu như đến quá gần. Jannit để ý thấy rằng xưởng thuyền thường rơi vào im lặng mỗi khi Jenna đặt tay lên Thuyền Rồng, nhưng hôm nay khác. gian vang động tiếng đội trấn áp chuột dộng cánh cửa ình ình cách dồn dập. Jannit hiểu Jenna làm gì mà phí thời gian vuốt ve Thuyền Rồng như thế, trong khi việc nên làm là mau mau tìm cách dựng chướng ngại vật ở đằng trước nhà thuyền. Nhưng bà đề nghị làm vậy, bởi vì trong vài tháng qua Jannit bắt đầu chờn chợn Jenna và quyết tâm đánh thức Thuyền Rồng của ấy.

      Bất ngờ Jenna đứng bật dậy. “Cháu nghĩ cháu ngh thấy tiếng bà ấy,” , mắt ngời lên rạng rỡ.

      “Cái gì?” Jannit hỏi, bị phân tâm bởi tiếng chửi rủa đầy khích động của Rupert Gringe xả tới đội trấn áp chuột.

      “Rồng. Bà rất yếu, nhưng cháu chắc chắn mình làm được. Chúng ta phải Niêm Kín nhà thuyền lại.”

      “Làm sao được?” Jannit nạt, giờ lo lắng tột độ, nhận ra đám đông bỏ ngừng ý định nghiền nát Thuyền Rồng.

      “Có cách cho nó mở ra. Bằng Lửa- Rồng khạc lửa.” Mặt Jenna bỗng xị xuống khi nhớ ra. “Ồ, Khạc Lửa biết phun lửa.”

      “Nó biết đấy,” Jannit nghe Nicko kể đầy đủ câu chuyện về Khạc Lửa lúc mới nở ra. “Nó phun lửa khi mới nở mà.”

      “Đó là Lửa Non. Tất cả rồng đều phun lửa khi mới nở.”

      Tiếng gỗ nát văng báy xáy dội qua xưởng thuyền.

      “Chúng sắp phá được cửa rồi,” Jannit cất giọng khẩn-trương-làm-việc của mình. “ còn thời gian nữa. Xin lỗi, tôi lấy rìu đây. Nếu chúng muốn rắc rối chúng được rắc rối.”

      Jenna biết còn cách nào khác nữa. Phải buộc Khạc Lửa phun lửa thôi. Lấy hộp kẹo bơ của Hoa Tiêu ra khỏi túi áo chẽn, Jenna mở hộp và vớt ra miếng da rồng màu đỏ. bé trải nó ra và ngạc nhiên choáng vàng, nó chỉ có vỏn vẹn từ đó: Lửa. Lẽ nào thế là đủ?

      Nhưng Jenna biết mình phải thử. Liền chạy bay trở lại chỗ Khạc Lửa.

      “Xin lỗi, 409.” Jenna nín thở , leo trở lên Khạc Lửa. Thằng Sói cũng định lên theo, nhưng mừng húm khi Jenna bảo, “Em phải làm việc này mình. Buộc Khạc Lửa phun lửa.”

      Khạc Lửa vểnh tai lên. Lửa ư? Ngay bây giờ? Thế còn bữa sáng sao?

      Tiếng nhao nhao lạon xạ nổi lên từ phía bên kia cánh cổng xưởng thuyền và tiếng Rupert được nghe thấy, “Nếu lão muốn chuột, Matey à, đó. Chuột bự với rìu. Ngon, giỏi làm !”

      Như đáp lại lời mời tử tế của Rupert Gringe, đội trấn áp chuột xô cửa cú quyết định. Ầm, vỡ vụn, thế là đám đông hỗn tạp tràn vào. Tiếng động kinh khủng vụt lên khi trận chiến bùng nổ ở ngay cổng. Rupert, Jannit và các tay thợ dàn quân chiến đấu hăng say, và hình như thắng thế, tuy nhiên cũng có tốp trấn áp chuột né thoát được cơn mưa đòn.

      Được cầm đầu bởi phụ nữ cao lớn, mặt càu cạu, chúng phá vỡ hàng phòng thủ; và được trang bị đủ thứ vũ khí tự tìm, chúng xông tới nhà thuyền, miệng thét ran, “Bắt con rồng. Giết, giết, giết!”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 20. Lửa và Dò Tìm

      Jenna và Khạc Lửa bay .

      Khi toán trấn áp chuột ly khai xông thẳng vào xưởng thuyền bên dưới, Jenna lái Khạc Lửa về phía tấm đĩa vàng gắn bức tường mái vòm cửa vào nhà thuyền. Khạc Lửa bay đẹp mắt, đôi cánh thảnh thơi đập khí cách làm chủ hoàn toàn- nó tuân theo từng mệnh lệnh của Jenna. bao lâu con rồng lượn trước tấm gương, ngoan ngoãn giữ thăng bằng, như hiểu tường tận điều Jenna muốn nó làm. Trước mặt nó, chiếc đĩa vàng tẻ ngắt trong khí trời ẩm lạnh, nhưng bên dưới, toán trấn áp chuột chạy hàng giữa hai con tàu cột buồm cao. Chúng sắp tới nhà thuyền.

      “Lửa!” Jenna thét hết buồng phổi. “Lửa! Lửa! Lửa!”

      có gì xảy ra. Lo sợ phải cần nhiều hơn thế rồng mới phun lửa, Jenna tá hỏa nhìn cái bà mặt càu cạu ló ra khỏi hai con tàu cao, vung vẩy tấm ván to oành, đóng đinh tua tủa. Mụ nhăm nhe lao thẳng tới đầu của Thuyền Rồng ngủ.

      “Làm ơn, Khạc Lửa, làm ơn. Lửa!”

      Sau đó Jenna cảm thấy Khạc Lửa rùng mình. Từ sâu trong ruột con rồng, tiếng rộn rạo tiềm bắt đầu. Khởi phát từ ngăn chứa lửa trong bụng rồng, vận nén công lực cho đến khi van lửa bật mở ra, tống lửa vào buồng khí quản dày và mạnh. Jenna cảm thấy sóng lửa chạy rật lên cổ rồng. Khạc Lửa ho vì ngạc nhiên, tự động nở to lỗ mũi và luồng khí khổng lồ phụt ra.

      “Lửa!” Jenna thét căng lồng ngực. tiếng phùùù hoành tráng, luồng khí phực Lửa. Tia lửa bắn tới trước và ôm lấy cái đĩa vàng, trong khoảnh khắc khiếp vía, Jenna lo sợ sức lửa làm tan chảy vàng ra mất, bởi vì chiếc đĩa bùng lóe lên, chói lung linh, trông gần như chất lỏng trong ánh sáng đỏ rực. Và rồi, xa bên dưới, Jenna nghe tiếng hét sững sờ của toán trấn áp chuột. bé liếc xuống xem họ tới Thuyền Rồng chưa, và kinh ngạc làm sao, tất cả những gì bé thấy chỉ là khối đá trải rộng của bức tường Lâu Đài.

      Khạc Lửa thành công! Nhà để thuyển biến mất như chưa hề bao giờ tồn tại. lần nữa nó bị Niêm Kín đằng sau bức tường Lâu Đài, như nó vốn thế kể từ thời Hotep-Ra.

      Jenna vòng tay ôm choàng lấy cổ con rồng. Nó nóng bỏng, nóng đến chạm vào được, nhưng quan tâm. “Cảm ơn, Khạc Lửa, cảm ơn. Mình bao giờ kêu ca cái việc cắt móng cho cậu nữa đâu. Mình hứa đó.” Khạc Lửa khị mũi, ho ra thêm luồng khí bóc khói, cộng với cục lửa nữa buộc toán trấn áp chuột phải nhảy ùm xuống nước tìm chỗ núp. Nó cũng phát hỏa vài chiếc thuyền guồng của Rupert Gringe mang vào để sữa chữa.

      Jenna và Khạc Lửa bay trở lại chiếc thuyền lưới cá bị sụp tanh bành. Jenna lái Khạc Lửa đáp xuống bên cạnh cái xác thuyền nát bét, giữ cho cánh vẫn xòe ra đặng còn cất cánh khẩn cấp, con rồng đợi thằng Sói leo lên ngồi vào chỗ đằng sau Jenna.

      “Xin lỗi,thưa nữ hoàng,” giọng quen quen cất lên cạnh chiếc ủng trái của Jenna, “ làm ơn nhích nhích chút được ? Để tôi và Dawnie có thể ép mình đằng sau .”

      Jenna biết cái giọng ấy. Xem ra nó luôn xuất vào lúc bất ngờ nhất. bé dòm xuống, và đúng như mình d0oa1n, đó là Stanley- cựu Chuột Đưa Tin, Chuột Đưa Tin Mật thời. Cương vị tại: kẻ tháo chạy khỏi đội trấn áp chuột.

      “Thế nhanh lên, Stanley, trước khi đội trấn áp trông thấy .” Jenna cuối xuống đỡ Stanley lên.

      “Em lên cái… cái vật đó đâu,” con chuột ục ịch hơn cùng với Stanley kêu rêu.

      “Nhưng Dawnie cưng à, đó là hy vọng duy nhất của chúng ta.”

      Thình lình, tiếng nhốn nháo của đội trấn áp chuột đổi hướng.

      ta đó,” cái giọng khoan xoáy của người phụ nữ mặt càu cạu. “Chính ta là thủ phạm. ta phải trả lời cho việc này. Ngay.”

      “Ngay, ngay, ngay!” tiếng hô hoán bắt đầu. “Ngay, ngay, ngay!”

      “Chúng sắp tới đây đấy,” thằng Sói hối. “Nhanh, Jenna. Bỏ bọn chuột lại nếu chúng muốn . Chúng ta phải .”

      Jenna cuối xuống tóm lấy chân Stanley.

      “Đừng bỏ em, Stanley!” Dawnie khóc lóc. nành phi thân cú cực kỳ xuất sắc, chộp níu mắt cá chân của Stanley xuống.

      “Dawnie, buông ra!”

      Jenna vớt cả hai con chuột chí chóe lên, mỗi con trong tay, và đặt chúng chắc vào giữa hai cái gai rồng lớn đằng sau mình, con này sau con kia. Thoáng cái Khạc Lửa , bị đuổi theo bởi trận mưa nắp thùng rác với tấm ván trông kinh hãi, đóng đinh lởm chởm.

      Sáu chục mét phía Lâu Đài, trận đấu đá vẫn tiếp diễn. “Em hy vọng nhận ra là suýt làm cả hai đứa mình mất mạng, Stanley.”

      ? suýt giết cả hai chúng ta? Em này tức cười chê vào đâu được. Nếu mà theo em, Dawnie, mà khẳng định là em hay theo ý mình làm lắm, có lẽ giờ này chúng ta bị đập bẹp và bêu xác tấm ván đầy đinh đó rồi.”

      ham ấm ớ lắm, Stanley. Mẹ em bảo sai mà.”

      cần phải lôi mẹ em vào đây, Dawnie. cần chút nào hết.”

      “Hê, rất mừng thấy chị đoàn tụ,” Jenna reo vui, cố thay đổi đề tài.

      Đôi chuột đột nhiên nín khe.

      Lợi dụng quãng im lặng đó, Jenna trao hộp Hoa Tiêu cho thằng Sói. “ lấy giùm em mảnh, à… da màu xanh lá cây được ?” hỏi. “Mảnh có ghi chữ Dò Tìm đó đó. Em cần mảnh đó để bảo Khạc Lửa tìm Sep.”

      “Dò Tìm?” Thằng Sói hoảng lọan hỏi. “Dò Tìm đọc thế nào?”

      “D-Ò-T-Ì-M,” Jenna đánh vần lớn, ráng át tiếng rồng đập cánh. “Những mẫu tự màu đen ấy. bỏ lỡ nó được đâu.”

      “Có thể lỡ chứ,” thằng Sói lầm bầm mình. “Chữ S trông thế nào(*)?” Nó hét lại.

      “Giống như con rắn! Rắn ấy, thấy chưa?”

      Jenna bận lái cho Khạc Lửa viền theo bức tường thành. bé quyết định để con rồng bay theo hình tròn đến chừng nào mình có thể thực được phép Dò Tìm. Đó cũng là lời biện minhcho việc nhìn ngắm Lâu Đài, trải ra bên dưới như tấm bản đồ đầy ắp những đàn kiến chậm chạp di chuyển ngược xuôi, khiến bé mê mẩn. Nó nhắc bé tới tấm bản đồ quý báu mà Simon có lần cho mình xem vào lễ Đông Chí. Trong đó chỉ từng mái nhà, từng thân cây, từng mái vườn, từng hang cùng ngõ hẻm và từng ngóc ngách bí mật trong Lâu Đài. Mà , khi Khạc Lửa bay nhàn nhã về phía trụ sở Sở Bưu Chuột cũ, tháp canh cổng Đông, Jenna thắc mắc biết người vẽ tấm bản đồ ấy có cưỡi con rồng nào , mà sao tấm bản đồ ấy giống với khung cảnh trải ra bên dưới kia đến thế.

      Thằng Sói khó nhọc tìm mãi thấy mảnh da Dò Tìm. Cả trăm mét , nó nghĩ, chóng mặt hoa mắt, cố rơi khỏi con rồng bay là đủ lắm rồi, đâu cần phải đọc thêm chữ nghĩa gì nữa. Khạc Lửa hề bay êm ả tí nào. Cứ mỗi cú đập cánh là lại có luồng khí ngập ngụa mùi rồng phả vào mặt thằng Sói. Sau đó con rồng phóng vút lên cao, trụ im đó vài giây rồi mới đập cánh. Lại thêm luồng khí tanh lợm nữa, sau đó rồng bay tiếp. Đây chẳng phải là điều kiện lý tưởng để tìm chữ cái mang hình con rắn.

      Trong khi nó bới tung hộp kẹo bơ cứng, cố để bay mất mảnh da rồng nào, bỗng có điều nảy ra trong đầu nó, giải thích việc nó khó tìm thấy mẩu da Dò Tìm. “Nhưng phải tất cả rắn đều có hình chữ S, đúng ?” Nó gào về phía Jenna, “Ngoài ra còn có trăn hay rắn vipe hay rắn đại ngàn, hay…”

      Jenna ngoái ra sau thấy vẻ ù cạc mặt thằng Sói. “ gì? Sao chỉ việc đưa cho em tất cả những miếng da màu xanh lá cây?”

      “Hây, thấy rồi!” Thằng Sói reo lên đắc chí, ngay lúc cánh rồng quạt xuống. “Tôi lẫn lộn là vì… aargh”- cánh rồng lại tung lên- “… có hai con rắn miếng này. Nhưng miếng nào khác… hự…”- rồng đập cánh xuống- “… có hình con rắn cả, vậy nên chắc chắn nó phải là mảnh này. Đây, hự”- cánh tung lên- “… này.” Nó trao cho Jenna mảnh da rồng nứt nẻ. Ở đằng trước có ghi Hãy Dò Tìm và Ngươi Tìm Thấy.

      “Tuyệt!” Jenna . Khó khăn chật vật- tựa như đọc xe lửa siêu tốc- và nắm chặt mẩu da rồng xanh lá cây để nó vuột bay mất, bé đọc to câu thần chú Dò Tìm:

      “Rồng trung thành Dò Tìm

      Người In Dấu

      Hãy ghi khắc Dò Tìm trong tâm trí ngươi

      Dẫn đường tới người In Dấu!”

      Lập tức Khạc Lửa nghiêng gắt qua bên phải. Jenna bị bất ngờ. Vội buông cả hai tay khỏi gai của Khạc Lửa trong khi đọc Dò Tìm, và chì chuyển động nhanh đến kinh hoàng, bé tuột khỏi chỗ ngồi đằng sau cổ Khạc Lửa, cố chộp lấy gai rồng mình vừa nắm… và hụt.

      “Jenna!” Thằng Sói thét. “Jenna!”

      có lời đáp. Jenna rơi rồi.

      (*) Jenna đánh vần bằng tiếng là “S-E-E-K”- ND

      Chương 21. Giành lại người cưỡi

      Jenna hoảng đến nỗi kêu được tiếng nào, biết chẳng có gì ngoài khí giữa mình và vách đá Quạ Đen xa tít bên dưới.

      Nhưng, khi Khạc Lửa cảm thấy sức nặng đằng sau cổ mình hẫng , có gì đó thuộc về bản năng nổi lên. Có gì đó, ngoài tầm nhận biết của Khạc Lửa, mà tất cả rồng được con người In Dấu đều có: bản năng Giành Lại Người Cưỡi. Khi Jenna rơi, Khạc Lửa liền thả mình như hòn đá, chộp lấy hai bàn chân bé. Hai tích tắc sau nó quắp Jenna vào móng vuốt như chim ó quắp mồi.

      Thằng Sói hồn xiêu phách tán. Nó thấy Jenna lủng lẳng bên dưới. Tất cả những gì nó biết là còn ở đó nữa.

      “Jenna!” Nó gào. “Jenna!”

      “409!” Có tiếng đáp lại, hay là nó nghĩ vậy thôi.

      ấy đâu rồi, Stanley?” Dawnie cáu kỉnh hỏi. “Em nghĩ ngay là thể nào cũng ngã lộn cổ như thế mà. Bây giờ ai lái cái vật này đây, em muốn biết?”

      “Ôi, im coi, Dawnie!” Stanley quát. Bấn loạn trước cảnh tượng vừa chứng kiến, chú chuột cố ngó ra khỏi cái gai rồng khổng lồ, nhưng chỉ thấy rặt cái bụng mỡ màng của Khạc Lửa thôi.

      “409!” Lại giọng Jenna bị đánh bạt trong gió.

      “Jenna?” Thằng Sói vặn người ra sau coi có ấy ở đằng sau mình , nhưng chẳng thấy gì. Nó nhìn xuống xem ấy có bấu bám bên dưới , chỉ thấy cái bụng của Khạc Lửa.

      “409… em ở đây…” thằng Sói bắt đầu nghi là mình tưởng tượng ra. ấy ở đâu?

      Khạc Lửa quay trở lại phía Lâu Đài và hạ độ cao, chậm và cẩn thận. Thằng Sói nhìn xuống, tia khắp mặt đất, nom nóp sợ điều khủng khiếp nhất. Chúng bay phía vách đá Quạ Đen, qua cụm thuyền bè phong tỏa vừa mới dựng, giăng kín dòng sông để chặn cho tàu thuyền nhiễm dịch bệnh tới được Bến Cảng, và giờ hướng về bến sông dưới quán Trá và Rượu của Sally Mullin. Khách khứa ùa ra khỏi quán, và thằng Sói thấy người ta xô lấn nhau, ngước lên trời mà chỉ trỏ kích động. Khi Khạc Lửa hạ thấp xuống hơn nữa, thằng Sói có thể nghe thấy tiếng người nhao nhác:

      “Công chúa đó!”

      “Con rồng pháp sư bắt CÔng chúa!”

      “Nhìn ấy kìa… Sao lại treo đu đưa thế kia… ối, quỷ thần thiên địa ôi…”

      “Chết.”

      “Đừng bậy. ấy chết đâu. thể nào.”

      “Ừm, chết cũng ngắc ngoải.”

      “Còn mong cái nỗi gì, kẹt giữa móng vuốt ghê gớm thế cơ mà. Tôi chẳng luôn bảo rằng con rồng đó phản. Giống chúng nó là thế.”

      “Coi! Coi… ấy cựa quậy. ấy còn sống, coi kìa…”

      “Nó sắp đáp xuống. Nó đè nát ấy mất.”

      “Aaargh! Tôi dám nhìn…”

      Khạc Lửa bây giờ cách mặt đất hơn ba mét. Vẻ nguôi dịu của thằng Sói khi nhận thấy Jenna rơi bị thay thế bời ý nghĩa kinh khủng: Khạc Lửa đáp như thế nào mà đè nát ấy?

      Từ từ, từ từ Khạc Lửa xuống thấp cho đến khi nó gần bến sông đến mức thằng Sói dễ dàng nhận ra những hình vẻ đủ kiểu mũ của các ngư dân. Tiếng đập cánh của Khạc Lửa- cùng mùi rồng ngây ngất- lùa đám đông lùi lại. Thằng Sói nhìn những gương mặt kinh ngạc, đớ ra dòm con rồng chỉ còn độ hơn mét cách mặt đất, bung vuốt ra cho Jenna nhảy nhàng lên mép sông, chạy lúi chúi tới trước để giữ thăng bằng.

      Đám đông vỗ tay reo hò, có người huýt sáo tán thưởng, điều này dường như tác động đến đầu Khạc Lửa, bởi vì con rồng đậu xuống bến sông, vươn cổ ra mà lắc mạnh đến nỗi thằng Sói cảm thấy ruột gan mình rung chuyển. Đám khán giả hồ hởi khi được thấy Khạc Lửa gần mình đến vậy, nhất là sau chiến công táo bạo vừa rồi, liền sán tới gần, lao xao chỉ trỏ bàn luận những phần lạ lùng này với chỗ kỳ lạ kia của con rồng.

      “Nó có gai đen dễ sợ chưa…”

      “Nhìn kích thước cái đuôi…”

      “Ối chao, bị dính vào những móng vuốt thế kia chả thú vị gì đâu…”

      Bỗng rồi, họ nhận thấy thằng Sói: “Ô, có thằng lưng…”

      “Nó cứ trố mắt ra. Đêm tối ai mà dám ngang qua nó.”

      “Suỵt, nó gnhe thấy bây giờ.”

      “Còn lâu. Làm gì nghe được?”

      Tiếng rung chuyển bên trong Khạc Lửa to dần, Jenna né lùi lại, bởi bé biết điều gì sắp xảy tới, và trượt chân khỏi mép nước rơi tòm xuống sông. Vẫn kích động trước con rồng, đám đông nhận thấy nước bắn tóe lên khi công chúa của họ biến mất dưới đống thuyền bè ngổn ngang. Như bị nam châm hút, đám người mỗi lúc mỗi nhích đến gần Khạc Lửa hơn, dòm con rồng ngả đầu ra sau, tòe lỗ mũi ra, lắng nghe dòng núi lửa sủi ục ục trong bụng mình. bị ai nhìn thấy, Jenna ngoi lên, phun ra con cá chết ươn sình và bơi về phía những bậc thang ở cuối bến sông.

      Thình lình, với tiếng động cơ phản lực gầm, luồn khí nóng tuôn phọt ra khỏi mũi Khạc Lửa và bốc Lửa. Mười, hai mươi, ba mươi giây lửa bắn lên và vòng trở xuống nước, ngay đúng cột buồm của hai thuyền câu đấu vào nhau tạo thành rào chắn ngang dòng sông. Vào lúc kết thúc ba mươi giây đám đông cũng tản hết. nhiều người trốn chạy thục mạng vào quán Trà và Rượu của Sally Mullin thấy mình bị ấn vào tay xô nước cứu hỏa lớn, được chuẩn bị sẵn, và được bảo “hãy dội vào con rồng đó trước khi nó bốc cháy”. Số còn lại chạy tan tác lên ngọn đồi về phía cổng Nam, đem theo câu chuyện ly kỳ để kể trong các quán rượu vào tầm ăn trưa.

      Cho đến khi đêm xuống hầu hết dân chúng Lâu Đài đều nghe được bản sao về vụ “Công chúa bị con rồng pháp sư cướp , phải, chính ấy, tôi nhấn mạnh là chính công chúa. Con vật mới lớn xác làm sao. Nó quẳng ấy như hòn đá, đúng thế. Phải, đúng mà. , ấy sao. bị nảy tưng. Mà rớt xuống sông. ấy là tay bơi cừ. Nhưng rồi con rồng, hừ, nó quay lại. Rồng nào mà chả thế. Lửa tóe khỏi mũi nó, trúng ngay chó tôi- cháy sém cả tóc, thấy chưa? , coi này, đây, phải, đây này. Hừ, tố hơn quý vị hãy tự sắm cặp kính tốt , tôi chỉ có thể khuyên thế thôi.”

      Đa số người cũng nghe bản sao khác nữa- Công chúa bị kết tội mang dịch bệnh tới con thuyền quỷ quái như thế nào, ta rắp tâm đánh bẫy đội trấn áp chuột trong Lâu Đài bẳng Hắc Thuật ra sao… “Hừm, nếu các người cần chứng cứ, ta đưa chứng cứ. ta cứu cặp chuột ôn dịch. phải chồn lịch? Các người điếc hả? Chuột, đồ ngu, chuột í. Đưa chúng lên con rồng cùng với mình. Giờ các người gì về việc đó đây?” Xong, kẻ kể chuyện khệnh khạng ngồi xuống, khoanh tay trước ngực, toét ra nụ cười xảo trá.

      Rất có thể người ta tin cả hai câu chuyện đó, tùy thuộc vào việc bấy giờ ai là người kể. Nhưng ai cũng đồng ý điều rằng: công chúa này có gì đó khác lạ với mắt thường thấy nhiều. Rất nhiều.

      Stanley và Dawnie chứng kiến đám đông chạy trốn mà trong lòng nhõm. Giữa cơn hảong loạn chả ai để ý tới đôi chuột núp chèm bẹp giữa những cái gai dày của Khạc Lửa. Chúng ngồi thẳng người trở lại, và Dawnie lắng dịu vào tư thế của con chuột quen với việc trốn chạy. “Em hy vọng chúng ta mau lên. Em thấy đói đến chết rồi đây. Giờ mà ăn trưa ở Bến Cảng hay biết mấy.”

      Stanley thở dài, nhưng gì. ta nhìn Jenna ướt lướt thướt, leo trở lên lưng Khạc Lửa. “Có sao , tâu lệnh bà?” nó hỏi.

      Jenna bực Stanley tâu lệnh bà với mình. ra bé còn hơi thích thích, bởi vì bé biết Stanley rất thực lòng. “Ổn, cảm ơn Stanley. ổn chứ?”

      bao giờ tốt hơn,” Stanley hăng hái. “Buổi sáng hanh khô, trời quang mây tạng, và chuẩn bị cất cánh. con chuột còn muốn gì hơn thế nữa?”

      “Bữa trưa,” Dawnie lào thào trong hơi thở.

      Chương 22. Thuyền Alfruns

      Khạc Lửa lộ phong thái tự tin và biết mình làm gì. Chú bay với nhịp độ nhàn nhã, nhắm hướng nam dòng sông về phía Bến Cảng

      “Hy vọng nó ra biển,” Jenna .

      “Ờ,” thằng Sói thừa nhận,nó bị say rồng ngầy ngật và nghĩ còn gì có thể tệ hơn thế được nữa. Để rứt tâm trí khỏi chuyến bay, thằng Sói nhìn chong chong xuống dòng sông rải bạc bên dưới và cố định vị Bãi của Sam, chỗ nó và 412 tạm biệt Cánh Rừng để lên đường tìm Jenna cách đây vài tháng. Thằng Sói mỉm cười, nhớ cái cảm giác vui mừng khôn xiết khi gặp lại thằng bạn nối khố, mặc dù 412 chẳng còn tí dáng dấp nào của Thiếu sinh quân. chỉ là tóc của 412 mọc dài, mà nó còn được nhận gia đình, được mang cái họ kỳ quặc, và lại còn được mặc áo chẽn và đeo đai lưng Học Trò điệu đàng nữa; hết thảy những điều ấy, 412 trở nên đĩnh đạc, ngô ngố và thậm chí lại càng bộc lộ… ờm, bộc lộ những phẩm chất hay nhất của 412. Thế mà bây giờ… bây giờ 412 lại mất tăm rồi… chừng mất vĩnh viễn.

      có thấy tấm biển báo Cách Ly Kiểm Dịch ở bến sông kia ?” Tiếng Jenna đột ngột len vào dòng suy tưởng của thằng Sói. Nó mừng là vậy.

      “Biển báo gì?” Nó hét thi với tiếng quạt cánh ầm ĩ của Khạc Lửa. Thằng Sói nghĩ mình làm sao biết phân biệt biển báo này với biển báo khác. Hơn nữa, cách ly kiểm dịch là gì? Thằng Sói tưởng tượng con quái vật khủng khiếp, loại đúng là quái vật, vào lúc đó rượt đuổi 412 khắp Cánh Rừng, hay ở bất cứ nơi nào. Thằng Sói thấy bối rối, bất chấp tài dò tìm dấu vết của mình. Làm thế nào nó có thể lần tìm được dấu vết của người bị lôi qua tấm gương soi?

      “Biển báo dịch bệnh á!” Jenna la to qua hai con chuột, chúng theo dõi cuộc đàm thoại như kiểu xem trận đấu tennis. “Cả chướng ngại vật nữa kìa. Điều đó có nghĩa là năm nay lái buôn phương Bắc vào được đâu. Rồi là lễ Đông Chí buồn tẻ nếu có chợ phiên!”

      “Ồ.” Thằng Sói . Xong lại thét lên, “Lái buôn phương Bắc là gì?”

      “Họ có những con thuyền rất đẹp,” Stanley mạo muội trả lời. “ bấ cứ nơi nào, những con thuyền ấy. Còn nhớ, khi còn là Chuột Đưa Tin tôi phải rất cẩn thận. Cánh lái buôn triệt để chính sách ‘ chuột’. Ờ , họ phải tuân thủ những quy tắc luật lệ Bán Buôn. Những tên mèo sát thủ nhất mà tôi từng chạm trán đều ở cả các thương thuyền. Cuộc đấu tranh với tên méo cựu lái buôn trong phi vụ cuối cùng của Chuột Đưa Tin mới ác liệt làm sao.” Stanley lắc đầu buồn bã. “Đáng ra phải đoán biết thể chuyển biến thế nào chứ. Ai đời, nhiệm vụ tệ hại nhất trần đời… bao giờ thấy con chuột nào khác từng đương đầu với việc như thế cơ. Tôi kể về Jack Điên chưa nhỉ…” Và thế là Stanley cứ ra rả, sung sướng hề hay biết rằng chẳng ai nghe được ta gì giữa tiếng cánh ràn rạt của Khạc Lửa, ngoại trừ Dawnie, trong khi nàng vốn luôn chú ý thèm lắng tai hơn câu đầu tiên Stanley .

      “Có chiếc dưới kia kìa!” Jenna thét lên để trả lời câu hỏi của thằng Sói. “Đó đó.”

      Thằng Sói dòm tho ló xuống sông. Xa bên dưới, nó thấy chiếc thương thyền dài, hẹp, cột buồm lớn màu trắng xuôi dòng- và cả Khạc Lửa cũng trông thấy. Thằng Sói cảm thấy nhịp bay của con rồng thay đổi và bắt đầu hơi bớt buồn nôn .

      “Chúng ta sắp xuống!” Jenna thét.

      Khạc Lửa đập cánh chậm lại và chuẩn bị hạ độ cao. Jenna ngó quanh coi con rồng nhắm đâu, bỗng cảm thấy phấn chấn trong lòng. nghi ngờ gì, Khạc Lửa định hướng rất thành thạo. Phép Dò Tìm phát huy tác dụng. Có lẽ nhanh thôi, chúng tìm thấy Septimus.

      “Nó hướng xuống nước!” thằng Sói la bài hãi.

      phải. Nó nhắm đến Cánh Rừng!” Jenna hét om.

      Khạc Lửa lượn vòng để còn ở phía dòng sông nữa; nó vẫn hạ thấp và hướng thẳng tới Cánh Rừng. Thế nhưng, ngay khi thằng Sói và Jenna vừa chuyển sang tư thế hạ cánh trong rừng, con rồng bắt đầu quành trở ra sông.

      “Nó liện vòng tròn!” Jenna gào khản cổ. “Em nghĩ nó suy tình chỗ đáp.” Jenna đúng phần. Khạc Lửa có liện vòng, nhưng nó biết đích xác nơi mình đáp xuống- nó chỉ phải lựa cách đáp như thế nào thôi.

      Sau khi lượn thêm ba vòng nữa, Khạc Lửa và đám hành khách bay bên những ngọn cây của Cánh Rừng, sát đến độ chúng có thể cúi xuống ngắt lá cây. làn khói lửa trại mỏng manh cuộn lên, khiến thằng Sói trào dâng nỗi nhớ nhà- nhớ khu trại của các cậu trai nhà Heap.

      Khạc Lửa bỏ rừng cây lại đằng sau và bất ngờ hạ toẹt xuống sông. Dawnie thét rầm. Ngay trước mặt chúng là chiếc thương thuyền, từ đó bốc lên mùi thịt muối chiên hấp dẫn.

      Jenna nghĩ con rồng bốn mét rưỡi lại có thể đáp xuống chiếc thuyền mười tám mét,khoe lá buồm to đỏm dáng thế kia. Khi Khạc Lửa hạ tòm xuống chiếc thuyền, suy nghĩ của bé được chủ thuyền đồng tình- chị ấy rối rít khua tay khoắng chân, thét lác bằng thứ ngôn ngữ mà Jenna hiểu được lời,nhưng ý nghĩa của nó bé hiểu .

      Khạc Lửa chẳng hiểu mà cũng chẳng quan tâm. Cứ nhào tới nóc cabin bằng phẳng của chiếc thương thuyền và có thể ngửi thấy mùi bữa sáng. Ngay cả con rồng cũng cần ăn sáng, đặc biệt là con rồng Dò Tìm.

      Cả bọn đáp cáo bùm. phải tiếng bùm theo tiêu chuẩn rồng đáp, mà là tiếng bùm đủ lớn để nhấn thuyền Alfrún chìm lún tới tận mép. Con thuyền nảy tưng lên, rồi chòng chành nghiêng ngả, đánh sóng văng tóe sang cả hai bên bờ sông, còn chủ thuyền nổi giận phừng phừng, vừa chạy bay về phía chúng vừa vung cái móc thuyền dài.

      “Cút ! Cút!” Snorri Snorrelssen thét lên điên cuồng. Hôm nay Snorri ngày chẳng ra làm sao. Thức dậy lúc bình minh bởi tiếng chân nện thình thịch nóc cabin và tiếng búa quai dồn dập vào cửa hầm. Snorri vốn phải là người dễ hoảng sợ, nhưng vụ này khiến sợ xanh mặt. Vài ngày trước Lâu Đài bỗng trở thành nơi ghẻ lạnh đối với dân ngoại quốc. Người ta bắt đầu đổ lỗi cho đám thuyền buôn là nguyên nhân gây ra dịch bệnh, và Snorri phải nhận lãnh vô khối lời lăng mạ nhắm vào mình đường thơ thẩn dạo quanh Lâu Đài. Mấy ngày qua Snorri phải trốn biệt trong thuyền Alfrún, chờ thêm lái buôn phương Bắc tới. Nhưng có ma nào. Snorri đâu hay biết rằng tốp thuyền đánhca1 phong tỏa vách Quạ Đen xua đuổi họ quay lái bỏ bằng những trận mưa sỉ vả và cá thối.

      Cho nên mới tờ mờ sáng hôm ấy, khi bình minh còn xám xịt, Snorri phải dong buồm ra , sau khi nhận được tối hậu thư gia hạn cho mười phút để “cuốn xéo ngay, …” Snorri chả thích cái “ …” đó tí nào- dù cho nó là gì- vì vậy mà ra . Thế rồi, ngay khi vừa mới bắt đầu kiểm kê hàng hóa con rồng nặng cỡ 764 con mòng biển đáp xuống ngay nóc cabin của . chẳng phải là ngày tốt đẹp.

      Thuyền Alfrún được đóng bằng vật liệu vững chắc hơn chiếc thuyền cá ươn ở xưởng thuyền nhiếu. Boong thuyền kêu kọt kẹt phản đối tí nhưng vẫn còn nguyên. Thân thuyền hơi chuối xuống nước rồi lại tiếp tục cuộc hành trình xuôi dòng cùng với khối hàng hóa mới của nó, bị chọc thương tiếc vào mạn sườn bằng móc thuyền nhọn sắc. Bên dưới chân mình, Jenna cảm thấy tiếng ùng ục sai vào đâu của lửa bắt đầu nhen nhóm trong bụng Khạc Lửa.

      “Đừng, Khạc Lửa!” Jenna thét. “Đừng!” bé vội leo xuống khỏi con rồng, trước cơn sửng sốt đơ người của Snorri, chị nhận ra là con rồng có chở theo hành khách. Tiếng ùng ục vẫn tiếp tục gia tăng. Thằng Sói nghe thấy liền vội nhảy ra, cùng hai con chuột lút cút leo ngược lên cột buồm và đậu chênh vênh chạc ba, cúp rúp như đôi mòng biển kỳ cục.

      Jenna chộp lấy cây móc Snorri thúc vào Khạc Lửa. “Đừng kích động nó!” Jenna thét. “Làm ơn !” nhưng Snorri, cao hơn và khỏe hơn Jenna, giằng lại cái móc. Tiếng rục rục trong ngăn lửa của Khạc Lửa càng lớn tợn, cho đến khi Snorri cũng nhận thấy. Chị dừng tay, chẳng hiểu mô tê gì.

      “Cái… gì… đó?” Chị hỏi bằng ngôn ngữ của Jenna.

      “Lửa!” Jenna thét. “Nó sắp phun lửa!”

      Snorri, như bất kỳ chủ thuyền nào khác, hiểu rất cái từ “lửa”. Chị liền vớ lấy đôi gàu có quai bằng dây thừng và ấn vào tay Jenna. “Nước!” Snorri thét. “Lấy nước!”

      Jenna làm theo Snorri và, nắm chắc quai thừng, bé vục cái gàu bên hông thuyền xuống sông, xách lên gàu đầy tới miệng thứ nước xanh lá cây đục bùn, và tạt. Nguyên cả gàu nước hắt thẳng vào thằng Sói sững sờ, gấp rút cho Khạc Lửa xơi bữa sáng của Snorri- bánh mì và thịt xông khói. Chỉ khi đó Jenna mới nhận thấy là tiếng rùng rục ngưng.

      Thằng Sói cười toe toét. “Tôi suy đoán rằng nó khôn ghte63 vừa ăn đồng thời phun lửa được,” nó .

      Snorri nhìn Khạc Lửa nuốt trợn trạo tảng thị xông khói cuối cùng của mình, hút sạch số nước còn lại trong gàu cứu hỏa, và kết thúc bằng cách nuốt chửng luôn cái mâm gỗ. Thế này , Snorri nghĩ, rầy rà to rồi. Ta cần phải là người Kiến Vong mới nhận thấy điều đó.


      Chương 23. Người Kiến Vong

      Khạc Lửa lăn ra ngủ, để lại cho Snorri chổ trống lốc trong gian hầm chật cứng hàng hóa, nơi trước đó từng đặt trong những thùng cá muối. Thuyền Alfrún được neo chặt vào thân liễu lớn, nhoài xuống khỏi bờ sông phía bên vùng nông trại, bởi vì chủ của nó cảm thấy cứ tiếp tục cuộc hành trình với con rồng khó đoán ở boong là nguy hiểm chết người.

      Snorri và Jenna ngồi giữa bãi chiến trường đằng đuôi thuyền, cố giả như nghe thấy tiếng ngáy và tiếng khụt khịt ầm ĩ của Khạc Lửa. Thằng Sói, vẫn còn lay say sau chuyến bay và thèm cảm nhận mặt đất vững chắc dưới chân mình, giờ thám hiểm vườn táo d05c theo triền sông.

      Snorri bao giờ mong gặp lại công chúa lần thứ hai, chứ đừng là đích thân công chúa đáp oạch xuống thuyền của mình lưng con rồng. Chị thấy hơi kính nể. Bèn mời Jenna và thằng Sói bữa sáng hậu hĩ gồm bánh mì, bánh nướng, cá tẩm gia vị và táo,và họ xơi ngấu nghiến. Thằng Sói hối hận là đút hết cả thị xông khói cho Khạc Lửa, nhất là nhiêu đó chẳng bõ bèn chỉ với cơn thèm ăn của con rồng, buộc Snorri phải đãi con vật cả thùng cá muối của chị.

      “Em xin lỗi, Snorri,” Jenna khẩn khoản sau khi thằng Sói khỏi. “Bọn em đường tìm Septimus, và Khạc Lửa tự quyết định đáp xuống. Em ngăn nó lại vì em cũng tưởng Septimus ở đây… nhưng có.” Jenna bỗng lặng thinh. khỏi thắc mắc liệu Dò Tìm có tác dụng với Khạc Lửa hay . Nếu như cái con rồng choai mãnh thú này bị xao nhãng bởi mùi thịt xông khói, thử hỏi, còn cái gì nữa có thể lôi kéo nó chệch lộ trình?

      trai Septimus của em… Cậu ấy… rơi xuyên qua tấm gương à?” Snorri hỏi.

      Jenna gật đầu.

      “Thế … chắc chắn em gặp cậu ta trong bệnh xá.”

      Jenna lắc đầu. “Nó là Tấm Kính… chứ phải gương soi,” bé giải thích.

      “À… Loại Tấm Kính cổ xưa. Giờ tôi hiểu rồi.”

      “Chị biết nó à?” Jenna ngạc nhiên.

      “Bà nội tôi có cái. Nhưng nhà tôi… chúng tôi bao giờ được phép sờ vào nó. Bà Ells, chị của bà nội tôi, rơi qua đó khi bà ấy còn trẻ.”

      “Thế”- Jenna dám hỏi- “thế nhà chị có bao giờ tìm thấy bà ấy ?”

      ,” Snorri đáp.

      Jenna im thít. Bất chợt Snorri vùng đứng lên và chạy ra mạn thuyền, ngó về phía thượng nguồn. Jenna dõi theo ánh mắt của chị nhưng chẳng thấy gì. Dòng sông vắng tanh và tĩnh lặng. Cơn mưa lất phất tạnh hồi, và bây giờ mặt nước phẳng phiu, trơi lững lờ, phản chiếu từng cụm mây nặng trĩu treo giữa trời. Tuyệt nhiên có gì xáo trộn mặt nước, ngay cả con cá phiêu lưu nảy lên bề mặt cũng .

      Snorri rút ống nhòm Vong từ trong túi áo chẽn ra và đưa lên mắt trái. Chị lầm thầm gì đó trong hơi thở.

      “Cái gì vậy?” Jenna hỏi.

      “Tôi thích con thuyền này,” Snorri lầm bầm.

      “Nhưng nó là con thuyền đẹp mà,” Jenna . “Em thích nó lắm, nhất là cabin của chị. ấm cúng.”

      “À, phải thuyền này,” Snorri giải thích. “Mà là thuyền kia.” Snorri hạ ống nhòm Vong xuống và chỉ ra hướng thượng lưu. Jenna nhìn theo tay của Snorri, nhận thấy mắt chị khóa chặt vào cái gì đó, và lia theo nhịp độ chậm chạp của vật đó xuôi về phía họ.

      Snorri liếc qua Jenna. “À, thể nhìn thấy thuyền siêu hình đâu.”

      Jenna lắc đầu.

      “Nó về hướng mình,” Snorri thầm.

      Đột nhiên, khí buốt lạnh hơn và dòng sông bỗng trở nên đáng sợ. “Cái gì về hướng mình?” Jenna hỏi.

      Snorri đáp. Nheo mắt qua ống nhòm Vong, chị mải nhìn chiếc thuyền hoàng gia của nữ hoàng Etheldredda tiến đến gần. Con thuyền vừa mới ở tuốt mé bờ sông bên kia đấy, khi nó quành qua khúc cua, mà giờ băng dòng và hướng thẳng tới thuyền Alfrún. Snorri rùng mình.

      “Cái gì đó? Chị có thể thấy gì vậy?” Jenna thào.

      “Tôi thấy chiếc thuyền. Mũi thuyền cao và kiểu dáng dường như được đóng cách đây lâu lâu rồi. Có bốn tay chèo ma bân mạn trái và bốn tay nữa bên mạn phải; chúng di chuyển mà gây xáo động mặt nước. Tôi thấy bức màn trướng hoàng hoàng gia giăng những cây cột mạ vàng, che cho con thuyền, và thấy nữ hoàng ngồi bên dưới.”

      “Có phải… nữ hoàng đó mặc áo viền cổ cứng và có những bím tóc cuộn úp vào hai tai ?” Jenna lào thào, bất giác kinh hãi cảm thấy mình biết nữ hoàng đó là ai. “Phải mặt bà ta trông như thể ngửi thấy mùi gì ghê tởm lắm?”

      Snorri mỉm cười quay qua Jenna, nụ cười đầu tiên Jenna thấy gương mặt Snorri.

      “Ố, ra cũng là người Kiến Vong. Từ lâu tôi luôn ao ước được gặp người Kiến Vong!” Snorri ôm choàng lấy Jenna, nhưng, vì hoảng sợ bị nữ hoàng Etheldredda trông thấy, Jenna cố giãy ra và luýnh quýnh chạy trốn vào cabin của Snorri.

      Snorri theo Jenna xuống dưới hầm. “Xin lỗi, nếu tôi… xúc phạm ,” chị .

      Jenna ngồi phệt xuống bậc thang, mặt trắng bợt, ôm gối thu lu. “Chị… chị xúc phạm em đâu,” Jenna lầm rầm. “Em dứt khoát được để nữ hoàng đó trông thấy. Mụ ta chính là kẻ bắt em dụ trai mình nhìn Tấm Kính. Mụ ta kinh khủng. Kinh khủng lắm.”

      “À,” Snorri vỡ lẽ, nhưng ngạc nhiên, nhớ lại cảm giác buốt thấu xương chạy khắp người khi lần đầu mình nhìn thấy con thuyền hoàng gia đó. “Em cứ ở đây, Jenna. Để chị Theo Dõi mụ nữ hoàng này. Xem mụ ta làm gì rồi báo cho em biết, bởi vì chị nghĩ mụ chẳng chịu Hình với em đâu, bởi mụ có mưu đồ xảo quyệt mà. chừng mụ giam giữ trai của em con thuyền đó cũng nên.”

      “Sep! thuyền ma. Nhưng nếu như thế có nghĩa là ấy cũng là ma…”

      hẳn luôn vậy. Có thể bị hồn Bắt nhưng vẫn Sống. Điều đó xảy ra với ông chú Ernold của chị.” đạon Snorri biến lên boong, để lại Jenna nghĩ bụng bảo dạ gia đình Snorri coi bộ dễ gặp tai nạn khi có hồn dính líu tới việc.

      Chiếc thuyền hoàng gia sắp đến gần thuyền Alfrún, Snorri thấy nó từng là chiếc thuyền đẹp lộng lẫy. Mình thon dài, vẽ đầy những hình thù màu vàng óng và bạc, uốn cong rối rắm. Những cây cột trang trí tinh vi, chống bức màn trướng xa hoa màu đỏ để che nắng mưa cho nữ hoàng và các cận thần, đám người này chắc hẳn hay ngồi chầu ở hàng ghế đệm bục chỗ đuôi thuyền. Nhưng lúc này nữ hoàng Etheldredda ngồi mình, như mụ vốn thường ngồi trơ trọi trong phần lớn cuộc đời của mình, do bởi đám cận thần khéo tìm được đủ mọi lý do biện minh để tránh phải bị kẹt cứng thuyền hoàng gia kẻo sao thoát khỏi nữ hoàng. Dưới boong tám tay chèo ma ngồi những băng gỗ hẹp, đẩy những mái chèo vô hình tới rồi lui, tới rồi lui, trong khi nước sông hề gợn sóng.

      Khi thuyền hoàng gia lao về phía thuyền Alfrún, Snorri cất ống nhòm Vong , và giả bộ bận bịu dọn dẹp bữa sáng. Chị ao ước chường mặt ra cho nữ hoàng biết mình là người Kiến Vong. Snorri chắc chắn rằng nếu Jenna khôn gtro6ng thấy nữ hoàng tức là mụ ta chọn cách Hình. Nữ hoàng Etheldredda nhổm dậy khỏi ghế của mụ, bước tới mép thuyền và nhìn trừng trừng qua dòng nước tới Snorri. Nữ hoàng khịt mũi bất bình. con hầu , hơn. Ánh mắt nữ hoàng chọc xoáy vào đống tàn dư của bữa sáng, mà hầu chậm rãi dọn - chậm cách nhục nhã. Trong Thời này bọn đầy tớ lười chảy thây; rồi đây mọi thứ thay đổi khi mụ lại lên ngôi nữ hoàng. Tia mắt Etheldredda lại trở về nhìn Snorri. Có cái gì đó quái đản ở con bé này, mụ nghĩ. Mụ thích cái kiểu mắt nó láo lia láo lịa như mắt tắc kè nhưng vẫn tránh nhìn bất cứ nơi nào. Rất ư là tinh ranh. nghi ngờ gì, có ngày chủ thuê nó giữa đêm thức dậy, tá hỏa nhận thấy toàn bộ hàng hóa của mình bị bán sạch ngay dưới mũi. Đáng đời ta.

      Với nụ cười mím môi, nữ hoàng Etheldredda cho phép thuyền hoàng gia trôi về phía thuyền Alfrún, trong khi mụ đảo khắp xó xỉnh còn lại của chiếc thuyền để tìm Jenna. Nữ hoàng đường tới đầm Cỏ Thô, nhưng khi vừa mới quẹo khúc quanh và phát thuyền Alfrún thả neo dọc bờ sông, đột nhiên mụ bị lấn át bởi linh giác mạnh mẽ rằng đứa cháu lang bạt của mụ ở rất gần đâu đây, điều mà mụ sao hiểu được, bởi vì con bé ở ngôi nhà trang của Người Giữ Đầm cơ mà. Hai tên Pháp sư Tối thượng đáng căm tức đó xì xồ quá nhiều- mụ nghe lõm chúng từ đằng sau cánh cửa phòng Jenna. Nữ hoàng Etheldredda là người tin cậy những thông tin thu thập được qua nghe lén; sinh thời mụ hoàn thiện nó tới mức bao giờ tin ai gì tận mặt mình, trừ phi đích thân mụ thân hành nghe lỏm.

      Khi thuyền hoàng gia song song với thuyền Alfrún, cảm giác Jenna ở thuyền của nữ hoàng Etheldredda thậm chí còn mạnh mẽ hơn, nhưng mụ thấy bé đâu cả. Hoang mang hết sức, nữ hoàng sục sạo chiếc thuyền. Coi bộ nó chẳng hơn gì thương thuyền điển hình của lái buôn phương Bắc: thuyền tung bay lá cờ của Nghiệp đoàn Hanseatic, gọn gàng, ngăn nắp, được duy tu chu đáo, bất chấp đứa con hầu lôi thôi lếch thếch kia. Tất cả đều yên ắng, bình lặng. Những cuộn thừng xếp thẳng thớm, thành thạo- nó có con rồng ở boong.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 24. Vụ tấn công tàu

      Con rồng boong thuyền hề cục cựa trước ánh nhìn xuyên xoáy của nữ hoàng Etheldredda. Khạc Lửa ngáy. cục bong bóng khí u trồi lên chỗ thành bụng nó rồi vỡ tung ra tìm tự do với tiếng bốp inh tai. Nữ hoàng Etheldredda nhảy dội lên, hình như bị đánh trúng, và chiếc thuyền hoàng gia cuốn quít chuồn khỏi cú rắm hãi hùng. NỮ hoàng Etheldredda nhướn hẳn qua mạn thuyền để chĩa đôi mắt híp rịp vào thuyền Alfrún. Có gì đó, con ma chắc chắn, lôi trôi trong chiếc thuyền ấy và mụ nhất định tìm ra. Thanh tao như con diệc bước qua vùng nước cạn, con ma nữ hoàng bước khỏi thuyền hoàng gia và, tựa như bách bộ bãi cỏ Cung Điện, mụ thong dong lướt mặt nước và bước lên thuyền Alfrún.

      “Mụ ta tới!” Snorri quính quíu bằng ngôn ngữ của mình. Jenna, tuy hiểu Snorri vừa gì, nhưng đủ hiểu được sắc thái của nó, liền chui tọt vào tấm chăn len lớn, trục xuất Ullr ra ngoài, con mèo ngủ sau đêm thức canh. Con vật phóng vèo ra khỏi cabin và nhảy lên boong, túm đuôi xù lên phẫn nộ như cây xúc xích bự nhận nùi bông. Ullr chỉ là sinh vật sống về đêm, mà còn thuộc dòng giống mèo Kiến Vong lâu đời- tất nhiên là mèo Kiến Vong phổ biến hơn người Kiến Vong rất nhiều. Vừa lên tới boong nó quyết định ngay mình thích diện mạo con ma vãng lai kia chút nào. Nó cũn gkho6n gưa hai con chuột đánh đu cột buồm, nhưng hãy để chúng đợi đó . Có thể làm thành bữa tối ngon lành cho tối nay.

      Trông thấy nữ hoàng Etheldredda lù lù tới, Ullr xông thẳng vào con ma,ngao lên thanh mà chỉ mèo Kiến Vong mới có- món thanh nạo óc, kiểu như thần chết và Giun nhép cùng hòa , có thêm bọn than khóc đầm lầy phụ họa. Nữ hoàng Etheldredda thở hốc lên trước cú sốc Xuyên Qua tàn bạo đó, liền đổ sụm xuống boong, ho sặc sụa, rũ rượi, tưởng chừng như mình vừa nuốt nguyên con mèo- cả lông, móng vuốt, lẫn tiếng ngao, tất tật.

      bờ sông, thằng Sói nghe thấy tiếng Ullr ngao. Vội chạy bươn qua vườn táo coi có chuyện gì. Và nó tới thuyền Alfrún đúng lúc mục kích cảnh tượng kỳ quái nhất đời: lái buôn và con mèo của nổi giận tam bành, giận long trời lở đất. Con mèo- cái vật ốm tong teo, xù xì màu cam- xồ tới xồi lui, cứ như xuyên thủng cái gì đó, hết cú này tới cú khác. huơ huơ cánh tay và gào thét chi đó bằng ngôn ngữ của ấy, kiểu như khích lệ con mèo vậy. Bỗng, con mèo bất thình lình ngừng tấn công. đấm khí mừng chiến thắng, bồng con mèo lên, chạy ra mạn thuyền, nhìn xuống sông, cười như nắc nẻ.

      Thằng Sói nhảy xuống thuyền, băm bổ tới cabin. “Jenna? Jenna?” Nó thầm bằng giọng khản đặc.

      “Hà?” Có tiếng đáp từ dưới tấm chăn.

      làm gì dưới đó vậy?”

      “Trốn,” tiếng Jenna bị nghẹt lại. “Suỵt. mụ ta thấy đấy.”

      “Trốn cũng vô ích thôi, Jenna, mụ ta điên đấy. Chúng ta ra khỏi đây ngay lập tức. Nhanh lên, trước khi mụ… ối, xời.”

      Gương mặt tươi cười của Snorri ra ô cửa hầm. “Kẻ phá bĩnh rồi,” chị thông báo. “Mụ ngã lăn khỏi thuyền và chìm ngỉm xuống nước. Bây giờ mụ ngoi lên thuyền của mụ rồi, bị tảo rêu dính vào vương miện.” Bỗng nụ cười của Snorri tắt ngúm. Chị vội chui tọt xuống cửa hầm mà ngồi ở bậc thang cùng, lắc đầu nguầy nguậy.

      Thằng Sói cũng lắc đầu. Đường thoát của nó với Jenna bị bít. Đáng ra chúng phải trốn ngay khi có cơ hội.

      “Có vài điều chị hiểu,” Snorri lầm bầm.

      “Điều gì?” Jenna hỏi, vui mừng giải thoát mình khỏi tấm chăn ngứa ngáy kinh khủng.

      điều về nữ hoàng đó, rằng mụ hề lên thuyền của chị vào Thời mụ sống… thế mà tại sao mụ bị Hoàn Trả?”

      “Cái gì?” Thằng Sói hỏi. Tại sao cái Snorri này toàn lời đánh đố thế biết?

      “Ma chỉ đến được những nơi mà Thời còn Sống ông hay bà ấy tới thôi,” Snorri giải thích.

      “Đó là trò dọa con nít,” thằng Sói phỉ báng.

      phải trò con nít,” Snorri độp lại, phật ý. “Đó là Luật Kiếp ma.”

      Thằng Sói khịt mũi.

      “Đúng mà,” Snorri khăng khăng. “Mọi người Kiến Vong đều biết điều đó.”

      “Hừ,” thằng Sói làu bàu.

      “Suỵt 409,” Jenna bắn cho thằng Sói cái liếc mắt cảnh cáo. Jenna tin Snorri, bởi Snorri thấy Etheldredda ràng, và bé muốn nghe chị thêm về mụ. “Chị còn hiểu điều gì nữa?”

      “Tôi hiểu tại sao tảo sông lại mắc được vào vương miện của mụ. hồn phải là vật chất. Vậy sao điều đó xảy ra được.”

      Thằng Sói thở dài- quái dị, toàn là quái dị. Hãy cho nó vào Cánh Rừng , nơi ấy ít nhất người ta đều biết mình đứng đâu với hầu hết cư dân của rừng đều có thể là bữa tối tiềm tàng.

      “Vậy… vậy mụ ta là cái gì?” Jenna hỏi, giọng khản , như sợ nữ hoàng Etheldredda nghe lỏm ở ngoài cabin.

      Snorri nhún vai. “Chị biết. Mụ ta là hồn… nhưng còn hơn cả hồn nữa.”

      Thình… thình… thình. Có người nào đó- hoặc có gì đó- dộng vào thân thuyền. Snorri đứng bật dậy. “Gì đó?” Chị thở hết hồn.

      Jenna và thằng Sói khiếp vía rụng rời, mặt thất sắc. Tiếng động rung chuyển tới cabin. “Thình… thình…”

      “Nữ hoàng Etheldredda trở lại,” Jenna thầm.

      Snorri bạo gan thò đầu ra ngoài cửa hầm. “Xin chào?” Chị cất giọn gdu dương của lái buôn phương Bắc.

      “Chào!” giọng hoan hỉ đáp lại. “Quý vị có biết quý vị có con rồng bị sổng boong ?”

      “Bị sổng? Ở đâu” Snorri hỏi.

      “Lâu Đài. Nó là rồng của em trai tôi. Thể nào nó cũng tìm xất bất xang bang cho xem.”

      “Em trai ?” Snorri lật đật leo lên boong và thấy chàng mắt xanh lá cây tươi cười cột thuyền của mình vào thuyền Alfrún. nhìn bộ áo chẽn biển ngấm muối và mái tóc quăn rối của , cũng màu vàng gần như tóc , và biết mình có thể tin cậy chàng này.

      “Chà. Đáng ngại ,” Nicko . “Tôi định đề nghị đưa nó về cùng nhưng nó quá bự so với thuyền của tôi. Mà cũng quá bự so với thuyền của nữa. Ủa… Jen!”

      “Nik!” Jenna vuột chạy khỏi cabin và cười hớn hở. “ làm gì ở đây?”

      thu hồi đám thuyền guồng thổ tả của Rupert. Đêm qua có kẻ đột nhập nhà thuyền của nó và nó tính toán là mình mất khá khẳm. Nhưng đến giờ chỉ tìm thấy có cái.” Nicko ngụ ý chiếc xuồng màu hồng kéo theo. “ là mất thời gian quá.”

      Jenna để ý thấy vẻ hoang mang của Snorri. “Đây là Nicko. trai của em,” bé giải thích.

      trai?” Snorri hỏi, cảm thấy số lượng các trai tăng lên chóng mặt. “Thế ai là người rơi qua Tấm Kính?”

      “Tấm Kính nào?” Nicko hỏi.

      “Ố,” Jenna , nỗi mừng rỡ gặp Nicko bỗng trôi tuột, như thình lình bị lủng lỗ. “ biết gì về Sep à?”

      Nicko thấy nước ngân ngấn trào khỏi mắt Jenna. Với tâm trạng nặng trĩu, leo lên thuyền Alfrún.

      Thằng Sói để Jenna và Nicko ở lại với nhau rồi lỉnh khỏi. Nó muốn kiểm tra người. Và nó thấy Lucy Gringe ở chỗ lúc nãy nó rời chị ta, bờ sông dưới bóng cây liễu.

      “Lại mày nữa?” Chị ta cằn nhằn. “Tao bảo mày hãy để tao mình mà. Tao cần cái thuyền guồng đó nữa.” Lucy ngồi, với tấm áo choàng xanh da trời quấn quanh người, tay vòng ôm gối, dây cột giày bằng ruy băng màu hồng sờn tưa dính cỏ ướt. Tay cầm mẩu giấy gấp nhiều nếp, nhàu nát, miệng mấp máy đọc chầm chậm những chữ mà chị ta thuộc nằm lòng. Đó là mẩu tin nhắn của Simon Heap, mà chị ta tìm thấy trong mép áo choàng xanh da trời Jenna đem trả. Được viết giấy tiêu đề của Đài Quan Sát, viết rằng:

      Lucy của riêng ,

      Tấm áo này dàng tặng em. chóng trở lại và chúng ta sống bên nhau đỉnh Tháp. khiến em phải tự hào về . Hãy chờ .

      Tình của em,

      Simon

      Nhưng Lucy chờ đợi mòn mỏi, và biết Simon bao giờ có thể trở về Lâu Đài được nữa, vì vậy chị ta lên đường tìm người . Tính cho đến lúc này tất cả những gì chị ta làm được là ngủ quên mất, và thức dậy thấy xuồng của mình trôi mất. Chẳng phải là khởi đầu tốt. Giọng thằng Sói xộc vào dòng suy nghĩ của chị ta.

      “Tôi tìm thấy xuồng của chị,” nó nín thở.

      “Ở đâu?” Lucy hỏi, vội vàng gấp tờ giấy quý giá lại và đứng bật dậy.

      “Nicko lấy nó rồi.”

      “Nicko Heap? Em trai Simon?”

      “Ờ. ấy buộc phải làm như vậy.” thằng Sói bị trúng dư chấn đòn Sét của Simon, nên đâm ra ác cảm với Simon Heap.

      “Mày nó ‘buộc phải vậy’ là sao, thằng mọi!” đội mắc nâu của Lucy quắc lên giận dữ.

      ,” thằng Sói thoái lui, nó thấy Lucy rầy rà. Nó bắt đầu ước gì lúc nãy, khi thấy chị ta đầm đìa nước mắt tìm kiếm gì đó bờ sông, mình đừng hỏi thăm chị ta có sao .

      “Vậy Nicko Heap đâu?” Lucy hạch hỏi. “Để tao hỏi nó nghĩ gì mà lấy cắp thuyền của tao. Đồ khùng.”

      Biết là mình nên chỉ điểm, thằng Sói khoát tay vu vơ về hướng thuyền Alfrún và nhìn Lucy chạy huỳnh huỵch khỏi bờ sông về phía chiếc thương thuyền. Nó theo sau ở khoảng cách an toàn, mà với Lucy Gringe là khoảng khá xa.

      Khi thằng Sói gần tới thuyền Alfrún nó nghe thấy tiếng rầm rĩ.

      “Trả thuyền lại cho tao!”

      “Đó là thuyền của Rupert, phải của chị.”

      “Rupert bảo tao có thể sử dụng bất cứ khi nào, đưa đây.”

      “Ừm, tôi…”

      “Đưa tao dùng nó ngay bây giờ, Nicko Heap… nghe ?”

      “Nhưng…”

      “Xin lỗi! Mày có tránh ra ?”

      Thằng Sói đến đúng lúc thấy Lucy Gringe chạy bon bon boong thuyền Alfrún và vấp trúng đuôi Khạc Lửa ngủ. Nhưng gì ngăn cản được bước chạy của Lucy Gringe. Chị ta đứng lên, bit mũi tránh luồng bong bóng hơi phụt ra khỏi Khạc Lửa, và trèo xuống đằng hông thuyề Alfrún.

      Nicko theo chị ta. “Chị định làm gì đó?” cậu hỏi, lo lắng.

      phải việc của mày, đồ tọc mạch. Cả lũ em của Simon đều thích thò mũi vào việc của người khác hay sao vậy?”

      Snorri tính thêm Simon vào danh sách các em trai. Vậy, Jenna có bao nhiêu cả thảy?

      “Chiếc xuồng guồng đó an toàn sông đâu,” Nicko cương quyết. “Nó hơn món đồ chơi là bao. Nó chỉ để tiêu khiển hào nước thôi.”

      Lucy nhảy vào chiếc xuồng guồng, nó chòng chành báo động. “Nó đưa tao xa tới đây được nó cũng đưa tao đến Bến Cảng. Rồi mày xem.”

      “Chị thể tới Bến Cảng với nó được!” Nicko thất kinh. “Chị có biết thủy triều thế nào ở cửa sông ? Nó quay tít chị và kéo chị ra biển- Ấy là chị chưa bị những con sóng cuốn vào Cồn Các nhấn chìm đó. Chị điên rồi.”

      “Có lẽ. Tao cóc cần,” Lucy hằn học. “Kiểu gì tao cũng .” Chị ta tháo dây thừng, đặt chân vào guồng và bắt đầu đạp điên cuồng.

      Nicko nhìn chiếc xuồng màu hồng lảo đảo nhoi ra sông, đến khhi chịu nổi nữa. “Lucy!” cậu hét. “Lấy thuyền của em này!”

      “Cái gì?” Lucy thét lại giữa tiếng guồng quay rọt rẹt.

      “Lấy thuyền em mà … này!”

      Lucy mừng rỡ, nhưng để lộ ra. Trong lòng chị ta sợ phát khiếp, nhỡ Nicko về thuyền guồng. Tuy hơi chật vật, nhưng chỉ với cú đạp guồng lẹ, thêm guồng nữa trong ít nhất là năm phút, Lucy quay xuồng lại và trở về thuyền Alfrún, thở đứt hơi, mồ hôi đầm đìa và vẫn còn sừng sộ.

      Jenna, Snorri, và thằng Sói nhìn Lucy Gringe ra khơi lần nữa, lần này con thuyền mái chèo chịu được sóng biển sâu của Nicko.

      “Nhưng giờ làm sao về nhà được?” Jenna hỏi Nicko. “ định chiếc thuyền guồng ấy chứ?”

      Nicko khịt mũi. “Em giỡn chơi. còn lâu mới để bị thấy chết thứ thuyền đó, chiếc sơn màu ngô nghê đó lại càng . cùng em tìm Septimus, ngốc ạ.”

      Jenna mỉm cười lần đầu tiên kể từ khi Septimus biến mất. Nicko dàn xếp mọi chuyện ổn thỏa thôi. bé biết mà.

      Chương 25. Ta, Marcellus

      Trích nhật ký của Marcellus Pye:

      Ngày Mặt Trời. Xuân Phân(*).

      Hôm nay là ngày tuyệt vời nhưng cũng là ngày kinh khủng nhất.

      Mặc dù ta tiên đoán trong Biên Niên Sử (thuộc phần cuối cùng của bộ Ta ,Marcellus) của ta rằng việc này xảy ra, vậy mà ta vẫn sao tin nổi nó lại xảy đến.

      Vào Giờ Hẹn hôm nay, tức bảy giờ bảy phút sáng nay, Đệ Tử mới của ta xuyên thời gian đến. Mặc dù sáng nay ta đến đúng giờ để chắc chắn có mặt ở Đại Môn, tức là Cổng chính, chờ nó Mở Ra, nhưng ta vẫn vô cùng ngạc nhiên khi cánh cổng rẽ ra và để lộ Tấm Kính của ta. Phía bên kia Tấm Kính, ta thấy lờ mờ thằng bé mang vẻ sợ hãi trong mắt. Trang phục người nó là áo chẽn lạ lùng, màu xanh lá cây, thắt lưng bạc, chân giày, và tóc rối bù, nhưng nó có gương mặt dễ chịu và ta thích nó ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nhưng điều mà ta thích, đúng ra ta căm ghét và sợ hãi, là hình thù của sinh vật đằng sau nó. Bởi vì ta biết sinh vật đó phải ai khác mà chính là Bản Ngã đáng thương của ta… trong năm trăm năm nữa.

      Thằng bé xuyên qua lòng giếng của Tấm Kính, và giờ nó ở đây, trong ngôi nhà của ta. Ta mong cho nỗi tuyệt vọng của nó mau dịu , khi nó thấy những kỳ quan mà định mệnh ấn định cho nó dự phần vào và những điều tốt đẹp mà nó làm.

      Ngày thần Woden.

      khoảng chừng ba ngày kể từ khi Đệ Tử mới của ta xuyên thời gian tới. Nó là thằng bé đầy hứa hẹn, và khi đến ngày Hợp Nhất Các Hành Tinh, ngày mà ta chờ đợi bấy lâu, ta bắt đầu kỳ vọng vào Linh Đan(**) mới của mình.

      Ta mong cho việc luyện đan tiến triển tốt, bởi vì hôm qua ta ngớ ngẩn hỏi Đệ Tử của ta rằng “Con thấy cái nhớt nhầy xửa xưa, tức Bản Ngã đáng thương của ta, kẻ lôi con ra khỏi Thời của con, thế nào hả? Lão… à, tức là ta… có ghê tởm ?” Đệ Tử của ta gật đầu nhưng gì. Ta ép buộc nó . Thấy vẻ âu sầu của ta nên nó mủi lòng. Ta ước gì nó đừng ra. Nó có cách chuyện rất quái lạ, tuy nhiên ta nghĩ rằng ta hiểu nó rất .

      với ta rất chit tiết rằng ta bốc mùi hôi thối đến mức thể chịu được như thế nào, rằng ta bò lết như con cua, và rên xiết đau đớn theo từng bước chân ra sao- ôi cái số mệnh đáng nguyền rủa của ta. Nó mũi ta u gồ và to như có giấu con voi trong đó (mặc dù ta biết voi là sinh vật gì, nhưng ta nghi nó là con cóc gớm guốc nhất) và tai ta giống như cái bắp cải lớn, lúc nhúc đầy ốc sên. Ốc sên ư- sao lại vậy? Móng tay ta dài và vàng khè như móng vuốt, lại cóc cáy hàng trăm năm ghét bẩn thỉu. Ta vốn chúa ghét móng tay bẩn- có chắc chắn là ta trở nên như thế ? Nhưng dường như đúng là phải vậy. Ta phải chịu đựng năm trăm năm lụi tàn và mùn nát. Chỉ nghĩ tới đó thôi mà ta sao chịu nổi rồi.

      Sau dó ta thăm dò thấy có nguôi dịu trong nỗi u uẩn của Đệ Tử ta, nhưng lại gia tăng nỗi u uẩn trong ta.

      Ngày nữ thần Freya. Ngày Hợp nhất các Hành Tinh.

      Ngày của Hy vọng tới rồi. Septimus và ta cùng nhau bào chế Linh Đan vào Giờ Hẹn. Bây giờ nó lên men và được Chưng Cất ở trong tủ của Đại Thất và chỉ có Septimus mới biết khi nào ta có thể thêm Thành Phần Cuối Cùng vào. Chỉ có con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy mới có thể thực được khoảnh khắc này, bây giờ ta mới hiểu điều đó. Đau đớn làm sao cho ta, bởi ta uống liều Linh Đan đầu tiên của mình trước khi Septimus xuyên thời gian tới đây. Chẳng phải mẹ đúng khi bà luôn hấp tấp và ngạo mạn của ngươi làm hại ngươi đấy, Marcellus” đó sao? Quả thực, ta quá hấp tấp và quá ngạo mạn nên nghĩ rằng tự mình ta có thể vào chế thuốc trường sinh mà cần con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy. Trời đất, đúng vậy (như mẹ cũng thường ), ta chỉ là thằng ngu.

      Ta cầu cho Linh Đan này công hiệu, để ta chỉ bất tử mà còn có tuổi xuân vĩnh cửu nữa. Ta đặt niềm tin vào Đệ Tử cùa ta- nó là thằng bé thông minh và cẩn thận nhất ta từng gặp, lại có lòng say mê Y thuật nữa, hệt như ta ngày xưa vào tuổi nó, mặc dù ta chán nản và câm nín như nó.

      Ngày Đế chế Tir.

      Đến giờ vài tháng trôi qua kể từ khi bọn ta hòa trộn mẻ Linh Đan mới vậy mà Septimus vẫn chưa là Linh Đan sẵn sàng. Ta dần mất kiên nhẫn và ta e sợ là có bất trắc xảy ra trong khi bọn ta chờ đợi. Đây là cơ hội cuối cùng của ta. Ta thể luyện thêm được Linh Đan nào nữa, vì ngày hợp nhất của bảy hành tinh xảy đến trong vòng hàng mấy trăm năm nữa kể từ đây, và ta biết rằng ở Trạng Thái Tương Lai của mình ta thích hợp để luyện thêm gì nữa. Mỗi ngày mẹ đều hối thúc ta hoàn tất Linh Đan cho mẹ. Bà vòi vĩnh theo sát tất cả những gì ta làm, và ta thể giấu giếm được bà bất cứ cái gì.

      Ngày thần Loki khổng lồ.

      Ta viết với niềm phấn khích, bởi vì hôm nay bọn ta Niêm Kín quyển sàch quý nhất của ta- Ta, Marcellus. Đệ Tử trẻ của ta, giờ ở đây trăm sáu mươi chín ngày và làm việc rất tốt, hoàn tất những bước kiểm tra cuối cùng đối với những trang sách cuối cùng. Chẳng bao lâu nữa ta di chuyển tới Đại Thất bởi vì tất cả mọi thứ sẵn sàng chờ ta ở đó. Sau khi ta Niêm Kín tác phẩm vĩ đại của mình, ta lại cầu thằng bé Septimus thăm xem Linh Đan mới của ta sẵn sàng chưa. Ta mong cho nó mau sẵn sàng để ta còn uống nó. Mẹ cũng hết kiên nhẫn vì bà nghĩ nó là dành cho bà. Ha! Ta mà khao khát mẹ cũng sống vĩnh cữu á? Ta thà chết còn hơn. Trừ phi ta thể… Ối, than ôi.

      À, chuông điểm mười giờ. Ta thể chậm trễ nữa mà phải nhanh chóng hoàn tất quyển sách của ta.

      Thoáng trông thấy Marcellus Pye tới, Septimus vội vàng viết nốt lá thư nó gởi cho bà Marcia và nhét vào túi quần. Nó dự tính lén kẹp lá thư vào Ta, Marcellus càng nhanh càng tốt, trước khi quyển sách bị Niêm Kín vào buổi chiếu, giờ điềm lành 1:33.

      Timus biết rất quyển sách của Marcelus Pye; nó đọc đọc lại quyển sách trong những ngày dường như vô tận nó trải qua ở Thời của Marcellus. Quyển sách được chia làm ba phần: phần đầu là Giả Kim thuật, mà theo như Septimus kết luận hoàn toàn thể hiểu nổi- mặc dầu Marcellus hai quả quyết rằng nó cung cấp những hướng dẩn đơn giản và ràng cho việc chuyển hóa thành vàng và tìm ra chìa khóa của bất tử(***).

      Phần thứ hai, Y thuật khác hẳn, Septimus hiểu cách dẽ dàng. Phần này bao gồm những công thức phức tạp để bào chế thuốc sắc, xi-rô, thuốc viên, thuốc độc. Y thuật cũng gồm cả những chú giải có lập luận vững chắc về nguồn gốc các loại bệnh tật, cùng nhiều hình vẽ tuyệt vời, chi tiết về giải phẫu cơ thể người, toàn những điều Septimus chưa bao giờ được đọc ở đâu cả. Tóm lại, quyển sách chứa tất cả mọi thứ cần thiết cho bất cứ ai muốn trở thành thầy lang kỳ tài. Và Septimus đọc tới đọc lui, đọc xuôi đọc ngược, và đọc đọc lại đến khi nó biết mình thuộc nằm lòng phần lớn. Giờ nó biết tất cả về i-ốt và ký ninh, về thảo dược chiết xuất từ nhựa cây và thuốc an thần, về các loại rễ cây và các loại hạt, về nhiều loại nguyên liệu có tính bào chế kháng độc tố và thuốc giảm đau, thuốc mê, thuốc sắc, thuốc bôi ngoài da và thuốc luyện đan (tiên dược, thuốc bổ). Marcellus để ý thấy thằng bé say mê quá liền tặng cho nó quyển sách Y thuật của riêng mình- món đồ cực quý hiếm Thời đó bởi vì giấy rất mắc.

      Phần thứ ba của Ta, Marcellus là Biên Niên Sử, niên giám từng ngày cho suốt ngàn lẻ năm tới. Đây là phần Septimus định giấu là thư của nó- ở đúng trang viết cho ngày nó mất tích.

      Septimus mặc áo thụng đen và đỏ của Đệ Tử nhà giả kim, viền vàng, ống tay áo thêu những biểu tượng bằng vàng của Giả Kim thuật. Quanh eo nó thắt sợi dây da dày, gài khóa vàng to nặng, và dưới chân, thay cho đôi ủng nâu bị mất- và nó rất quý- nó mang đôi giày hợp thời trang, mũi cong độc đáo nhưng khiến nó thấy mình ngố ác. Septimus cắt xoẹt phần mũi cong , nhưng thế cải thiện được hình dáng cảu đôi giày chớ mà lại làm cho những ngón chân của nó lạnh cóng. Nó ngồi co ro trong chiếc áo choàng mùa đông bằng len. Đại Thất Giả Kim thuật và Y thuật sáng đó lạnh nhạt, vì lò luyện kim nguội sau nhiều ngày nổi lửa.

      Đại Thất là căn hầm lớn, hình tròn tọa lạc dưới lòng đất ngay chình giữa Lâu Đài. Ở mặt đất người ta thấy gì ngoài ống khói lớn vươn thẳng lên từ lò luyện kim khổng lồ, ngày đêm thải ra khí độc- thường dưới dạng khói mang nhiều màu sắc rực rỡ. Quanh mé hầm kê kín những chiếc bàn gỗ mun, được cắt gọt vừa khít với đường cong của tường, bàn lủ khủ những chai lọ, bình thót cổ bằng thủy tinh lớn, chứa thiếu loại nguyên liệu và sinh vật nào, cả sống lẫn chết- và cả nửa sống nửa chết- xếp hàng ngay ngắn, có dán nhãn ràng. Dù Đại Thất ở xa mặt đất và có ánh sáng tự nhiên rọi tới, nhưng nó luôn sáng rực rỡ, vàng chói. Khắp nơi nơi những cây nến to bự cháy hừng hực, và ánh nến phản chiếu biển vàng ròng càng khiến căn hầm rực chóa hơn.

      Xây chìm hẳn vào tường gần lối vào Đại Thất là lò luyện kim Marcellus Pye lần đầu chuyển hóa kim loại Bazơ thành vàng. Marcellus mê cái cảm giác sướng ngây khi chiêm ngưỡng chì đen xì chán ngắt và thủy ngân xám xịt từ từ biến thành chất lỏng màu đỏ tươi, khi nguội biến thành màu vàng óng tinh khiết của vàng, đến nỗi hầu như ngày nào, kể tử khi thành công, ông lại luyện ít vàng, chỉ nhằm cho thoả chí. Kết quả, Marcellus tích lũy hàng núi vàng, đến độ tất cả mọi đồ vật trong Đại Thất đều được làm bằng vàng- từ bản lề các cách cửa tủ, tay cầm ngăn kéo, đến chìa khóa, dao, giá ba chân, giá cắm nến, tay nắm cửa, vòi nước- tất tật. Thế nhưng những món đồ trang trí lặt vặt đó chẳng thấm vào đâu so với hai khối vàng đặc đồ sộ nhất mà Septimus từng thấy- và ao ước mình đừng bao giờ thấy- cửa Cổng Thời Gian uy hùng.

      Chính cánh cửa đôi này là nơi Septimus bị đẩy qua cách đây trăm sáu mươi chín ngày. Nó ăn luôn vào bức tường đối diện với lò luyện kim, hai khối vàng đặc cao ba mét khắc cồm cộm những dòng chữ biểu tượng dài, mà Marcellus bảo với nó là những Phép Tính Thời Gian. Cánh cổng đôi có hai bức tượng vung gươm sắc bénle6n đứng gác, cả hai đều được Khóa và Chặn- Septimus nhận ra thế ngay tức khắc- và chỉ có Marcellus mới có chìa khóa.

      Sáng hôm ấy, Septimus được đặt vào ngồi ở chỗ thường lệ của nó bệ Hoa Hồng, ngay sát đầu chiếc bàn dài kê giữa Đại Thất, đấu lưng lại cánh cử đôi mà nó ghét cay ghét đắng. Chiếc bàn thắp hàng nến sáng rực ở gần giữa. Ngay trước mặt Septimus là chồng giấy dày cộp, xếp ngay ngắn, kết quả của công việc nó làm sáng nay, liên quan đến việc kiểm tra tỉ mỉ lại lần sau cùng những tính toán chiêm tinh học của Marcellus, thuộc phần chi tiết cuối cùng cho cái mà ông gọi là tác phẩm vĩ đại.

      Đằng cuối bàn có bảy người thợ chép, do Marcellus đặc biệt ưu ái con số 7, chứ tốp thợ chép này có rất ít việc để làm, thường suốt ngày chỉ nhìn trừng trừng vào khảong , ngoáy mũi và ngâm nga những khúc hát buồn tẻ quái lạ. Những bài hát đó luôn khiến Septimus cảm thấy đơn kinh khủng, bởi vì những giai điệu của chúng gắn kết với nhau cách quái đản, chẳng giống cái gì Septimus từng nghe thấy. Tuy nhiên, hôm nay tất cả bảy thợ chép đều tất bật. Họ nôn nóng ngoáy bút, nắn nót chép bằng thứ chữ đẹp nhất của mình bảy trang cuối cùng của tác phẩm vĩ đại, ráo riết thời hạn chót. Thỉnh thoảng người cố nén ngáp- như Septimus, tốp thợ chép làm việc cật lực từ sáu giờ sáng. Bây giờ là khoảng chừng 10 giờ, theo như Marcellus nhắc nhở tất cả mọi người khi ông sải bước vào Đại Thất.

      Marcellus pye là người đàn ông trẻ, tuấn tú, kiêu ngạo, tóc đen dày, rủ lọn xuống che kín chân mày theo đúng mốt thời đó. Tấm áo thụng dài màu đen và đỏ của nhà giả kim dát nhiều vàng hơn áo Đệ Tử của ông. Sáng hôm đó thậm chí còn có cả vụn vàng dính vào móng tay ông. Ông mỉm cười khi nhìn quanh hầm. Tác phẩm vĩ đại của ông- Ta, Marcellus mà ông tin chắc là nguồn tham khảo trong nhiều thế kỷ tới và làm tên tuổi ông trở thành bất diệt- gần xong.

      “Thợ đóng sách!” Marcellus nóng nảy bật ngón tay trong khi đảo mắt khắp căn hầm tìm người thợ thủ công vắng mặt. “Đồ ngu si đần độn, ngươi trốn ở đâu hả, người đóng sách?”

      “Bề tôi trốn, thưa bậc thầy,” giọng run rẩy vang lên đằng sau Marcellus. “ thế, bề tôi ở đây này. Thậm chí bề tôi đứng những phiến đá lạnh ngắt này suốt bốn giờ qua hay hơn. Quả , bề tôi ở đây lúc đó và bây giờ vẫn còn ở đây.”

      Vài thợ chép nén cười, còn Marcellus quay ngoắt lại, nhìn chằm chằm vào ông già lưng gù đứng bên dụng cụ ép sách . “Tiếng líu quíu của ngươi khiến ta nổi sùng, mang dụng cụ đó lên bàn.”

      Thấy ông già khệ nệ nhấc máy lên, Septimus liền tut xuống khỏi chỗ ngồi và ra giúp ông. Họ cùng đặt máy lên bàn cái kịch, làm cho lọ mực với bút văng khỏi hố đựng lọ mực, bắn xuống sàn.

      “Cẩn thận!” Marcellus quát khi những giọt mực màu xanh dương đậm đáp trúng những trang cuối cùng trong tác phẩm của ông. Macellus nhặt trang giấy mà thợ chép vừa viết xong lên. “Cái này hỏng rồi,” Marcellus thở dài. “Nhưng giờ hẹn chống lại chúng ta. Nó buộc phải ở đúng thời điểm đó. Điều này chứng tỏ cho dù con người luôn cố gắng đạt tới hoàn hảo nhưng vẫn đành phải thất bại thôi. Đời là vậy. Nhưng vài giọt mực làm thay đổii mục đích của ta đâu. Septimus, giờ đến thời điểm cho bổn phận của con.”

      Septimus cầm cuộn giấy da dê dày cộp lên và, làm chính xác như Marcellus Pye chỉ dẫn nó hồi sớm, nó lấy ra tám trang đầu tiên, gập lại và trao nó cho thợ chép gần nhất. Người này lấy ra cây kim xâu sẵn chỉ lanh dày và, cắn lưỡi giữa hai hàm răng vì tập trung cao độ, ta may xấp giấy lại theo đường gấp. Xong, Septimus trao nó cho người đóng sách. Quy trình đó tiếp diễn đến hết thời gian còn lại của buổi sáng, cả bảy thợ chép vừa may vừa lúng búng nguyền rủa trong họng khi bị kim đâm vào tay hoặc chỉ đứt. Septimus lăng xăng chạy ngược xuôi từ thợ chép này đến thợ chép kia, vì Marcellus Pye muốn chính tay Septimus trao những tay sách(****) cho họ. Ông tin rằng cú chạm của con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy thậm chí có thể truyền quyền năng bất tử cho quyển sách.

      Họ mải miết may đóng phần Biên Niên Sử, và khi họ may đến trang ghi ngày mình bị bắt, Septimus bỗng hồi hộp quá, dù cố hết sức che giấu. Nó tha thiết muốn gửi thông điệp cho bà Marcia và cố liên lạc với Thời của nó. Septimus cam chịu thể rằng bà Marcia thể giúp đỡ gì được nữa, bởi vì- tâm trí nó luôn luôn lướng vướng ở điểm này- nếu bà ấy có thể giành lại nó khỏi Thời này chắc chắn bà làm rồi, và nó phải ở đây suốt năm tháng trời… đúng ? Nhưng cho dù bà Marcia có làm gì được hay , Septimus đều muốn báo cho bà biết việc gì xảy ra.

      Thình lình Septimus nhận ra trang tiếp theo là ngày đó. Đôi bàn tay run run, nó sắp trang giấy vào chính giữa tám trang giấy khác- tuy theo đúng thứ tự, nhưng đành vậy- rồi truyền tay giấy cho thợ chép gần nhất vừa ngơi tay, để ta may lại. Ngay khi thợc chép may xong, Septimus nhận xấp giấy và tuồn lá thư của mình vào trong. Cảm thấy tội lỗi, nó dòm quanh, tưởng chừng như mọi con mắt đều gắn vào mình, nhưng công việc vẫn khẩn trương tiếp diễn. Ông thợ đóng sácg đón xấp giấy với vẻ chán ngán rồi chồng nó vào đống giấy da dê củ mình. ai để ý thấy cả.

      Run lẩy bẩy, Septimus ngồi xuống và luống cuống hất văng lọ mực.

      Marcellus nhăn mặt, bật ngón tay tới người trong nhóm thợ chép. “Ngươi, lấy giẻ. Ta quyết để chậm trễ tác phẩm này.”

      Lúc 1 giờ 21 phút. Người đóng sách hoàn tất công đoạn đóng cuốn Ta, Marcellus. Ông trao nó cho Marcellus Pye giữa tiếng xuýt xoa kín đáo của đám thợ chép, bởi vì quyển sách đẹp tuyệt mỹ, đẹp quá sức tưởng tượng. Bìa bọc da mềm, tựa sách được dát vàng lá, bao quanh là những biểu tượng Giả Kim thuật mà giờ đây Septimus hiểu, và ước gì mình đừng hiểu. Người thợ đóng sách viền hết những trang giấy bằng chính thứ vàng lá Marcellus luyện ra, và đặ tquye63n sách lên sợi ruy băng lụa dày màu đỏ.

      1 giờ 25 phút. Marcellus hơ chảo sáp xi màu đen bằng đồng ngọn nến.

      1 giờ 31 phút. Septimus cầm quyển sách cho Marcellus Pye đổ sáp niêm phong màu đen vào hai đầu ruy băng để cột chúng lại với nhau.

      1 giờ 33 phút. Marcellus Pye ấn chiếc nhẫn có dấu hiệu riêng của mình vào miếng sáp. Ta, Marcellus được Niêm Kín và toàn căn hầm thở phào nhõm.

      “Tác phẩm vĩ đại hoàn thành,” Marcellus , cầm quyển sách trong tay với vẻ tôn kính, gần như thốt nên lời.

      “Bụng bề tôi sôi ầm lên đây,” giọng giận dỗi của người thợ đóng sách xộc vào giấc mơ vĩ đại của Marcellus Pye. “Vì giờ này qua thời gian ăn bánh mì lâu rồi. Bề tôi chậm trễ thêm nữa. bề tôi chúc ngài ngày lành, thưa bậc thầy.” Ông thợ đóng sách cúi đầu và rời căn buồng. Những thợ chép liếc nhìn nhau. Bụng họ cũng chịu im., nhưng họ dám gì. Họ chờ trong khi nhà giả kim cuối cùng chìm đắm trong trong giấc mơ về huyền thoại bất diệt, ôm tác phẩm vĩ đại của mình trong tay,nhìn đắm đuối vào quyển sách như thể nó là đứa bé mới sinh.

      Tuy nhiên, bất chấp những hoài bão lớn lao của Marcellus Pye, về sau chẳng có ai từng bao giờ được đọc quyển sách của ông cả. Nó bị Niêm Kín sau đại họa của Giả Kim thuật và bao giờ được mở ra… cho tới khi bà Overstrand bóc niêm nó vào ngày mà Học Trò của bà bị cướp khỏi Thời của nó.

      (*) Là 1 trong 24 tiết khí trong Nông Lịch (diễn ra vào khoảng 19-3 hoặc 21-3 dương lịch). Đây là ngày mặt trời gần xích đạo nhất trong năm- ND.

      (**) Giả Kim thuật của người Trung Quốc cổ được gọi là Luyện Đan (bào chế Linh Đan, loại tiên dược được cho là thuốc trường sinh bất lão)- ND

      (***) Giả Kim thuật của Marcellus kết hợp thuật Giả Kim của người Hy lạp lẫn người Trung Quốc, tức là vừa luyện vàng đồng thời vừa luyện thuốc trường sinh bất lão- ND.

      (****) Mỗi tập giấy gồm nhiều trang giấy khâu lại thành tập để đóng thành cuốn sách được gọi là “tay giấy”- ND

      Chương 26: Tháp Pháp Sư

      Tốp thợ chép ăn trưa, bỏ lại Septimus trong hầm.Marcellus đến bên đệ tử của mình với ánh mắt lo âu.

      khoảnh khắc dành cho con đó, đệ tử à,” ông , ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh Septimus, thường là chỗ ngồi của thọ chép riêng của Septimus.”Chắc chắn linh đan sắp hoàn thành rồi và đòi hỏi quan tâm chú ý của con .”Marcellus hất hàm về phía tủ kính dựng chân ghế vàng trong những chiếc bàn gỗ mun ở góc Đại Thất.Bên trong tủ kính có lọ chứa đầy chất lỏng màu xanh da trời đặt cáo gá ba chân bằng vàng. Đầu Septimus mệt đừ về đống công việc suốt buổi sáng, nhưng nó vẫn bỏ lỡ cơ hội được làm việc với Marcellus về y thuật . Nó gật đầu và đứng lên.

      Sắt bên tủ kính là tủ com-mốt mới toanh bằng gỗ sồi,các góc đều bịt vàng, quấn chặt bằng hai thanh nẹp dày, cũng bằng vàng. Đó là tủ y thuật cá nhân-niềm tự hào của Septimus do chính tay Marcellus tằng nó khi họ bắt đầu công việc hoàn thiện thuốc trường sinh.Đó là tài sản duy nhất của Septimus trong thời này, trong tủ cất đầy đủ những ghi chép cẩn thận của Septimus về các loại hỗn dược, xi-rô, những phương thuốc và liều dung.nhưng quý giá hơn hết thảy là tập giấy nó chép lại của Marcellus những phương thuốc giải trừ dịch bệnh –được nó gấp cẩn thận đem cất ở tuốt dưới đáy. Tủ Ythaajt ấy là món đồ duy nhất nó tiếc đứt ruột nếu phải bỏ lại nếu có cơ hội thực , và thành công, kế hoạch đào thoát của mình.

      Tuy nhiên, dù cái tủ là sở hữu của nó nhưng Septimus đc giữ chìa khóa. Như tất cả các đồ đạc trong Đại Thất Giả Kim Thuật và Y thuật, cái tủ đó chỉ mở đc bằng chìa khóa- chiếc chìa treo sợi dây vàng dày cui ở cổ Marcellus, lại đc ghim chặt ngắc vào áo chẽn của ông bằng kim băng lớn cuãng bằng vàng. Vẫn rời ánh mắt cảnh giác khỏi Septimus, Marcellus tháo kim băng, lôi ra sợi dây, cùng đúng cái đĩa vàng dày chạm nổi bảy ngôi sao vây quanh vòng tròn có chấm ở chính giữa mà lão Marcellus già khọm đeo. Septimus tia chiếc đĩa cách thèm muốn, biết rằng nó mở ra chánh cổng thời gian- là chìa khóa mở ra tự do cho nó. Nhưng ngoài cách mai phục Marcellus và giật lấy- việc bất khả thi do kích thước khác nhau giữu hai người- nó còn cách nào khác để đoạt đc món ấy. Marcellus đặt đỉa vàng vào chổ lõm đằng trước tủ Com-mốt, lập tức nắp tủ mở vung ra như được nâng lên bằng những ngón tay ma.

      Septimus chọn trong tủ ra ống thủy tinh mỏng, dụng cị phân chia của nó, mà khi nhúng vào vật chất báo cho nó biết chất ấy có Nguyên Chất như Marcellus gọi hay . Rồi nó mở cửa tủ kính và lấy linh đan ra. Nó mở nút bần, nhúng thỏi vàng vào hợp chất chứa bên trong, xoay bảy lần và giơ lên gần ngọn nến.

      “Con nghĩ sao, Đệ Tử?” Marcellus hỏi Septimus cách thắc thỏm. “Chúng ta sẵn sàng cho độc chất đó chưa?”

      Septimus lắc đầu.

      “Con nghĩ khi nào nó đc?” Marcellus sốt ruột.

      Septimus gì. Mặc dù nó dần quen với cách loanh quoanh của Marcellus và tất cả mọi người ở Thời này, nhưng nó thấy khó mà bắt chước theo kiểu của họ được. Hễ nó mở miệng là người ta lại ù ù cạc cạc- phải ngẫm nghĩ hồi người ta mới hiểu lời nó , nhưng họ cho rằng trong cách nó có cái gì đó rất kỳ cục. Septimus còn đếm xuể có bao nhiêu người hỏi nó từ đâu tới. Đó là câu hỏi mà chính nó cũng biết trả lời và chính nó cũng muốn nghĩ tới. Tệ nhất là bây giờ, vào những lúc hiếm hoi nó , sắc và ngữ điệu nghe còn quái dị với cả chính nó, làm như nó còn biết mình là ai nữa.

      Thường thường Marcellus bận tâm đến câm nín của thằng đệ tử- nhất là khi xem ra đề tài duy nhất Septimus sẵn long là về tình trạng già cú đế, hom hem của Marcellus trong tương lai- nhưng nhiều khi điều đó cũng gây mếch lòng khủng khiếp. Những lúc đó Marcellus chỉ còn biết than van thế này, “Trời đất ôn dịch ơi, Đệ Tử, coi nào.”

      Ngày thẳng mà , Linh Đan sẵn sàng gần như ngay tức khắc, nhưng vào lúc đó Septimus có kinh nghiệm để nhận ra. Theo những thuộc tính phức tạp của Linh Đan và độc dược cái luacs “sẵn sàng”đó rất dễ trở nên bất ổn, và Septimus phải mất toi nhiều tháng sau đó để kiên nhẫn dụ nó trở về nguyên chất, bởi vì nó biết Marcellus tin rằng tương lai ông phụ thuộc vào điều này.

      Dù cố hết sức, Septimus vần thể nào ưa thích Marcellus Pye cho đc. Đành rằng Marcellus cướp Septimus ra khỏi thời của nó, rồi giữ nó lại ngoài ý muốn của nó, nhưng nhà giả kim vẫn luôn luôn tử tế với nó, và quan trọng hơn, dạy nó tất cả mọi thứ nó muốn thắc mắc về Y thuật- và còn hơn thế nữa.

      “Con biết đây là vấn đề sống còn đối với ta mà, Đệ Tử,” Marcellus lẳng lặng .

      Septimus gật đầu

      “Con cũng biết lượng linh đan này là những gì ta còn lại. hơn, cũng thể luyện thêm được, bởi vì ngày Hợp Nhất Các Hành Tinh trở lại.

      “Cho nên ta mong con nghĩ kỹ về cái này rồi trả lời ta, bởi vì đây ;à hy vọng duy nhất cho tat hay đổi hình dạng khủng khiếp của mình. Nếu ta có thể uống Linh Đan do con luyện đây, ta hy vọng mình già héo và mủn rã như ta phải chịu.”

      Septimus chẳng thấy Marcellus có thể thay đổi điều này được ở chỗ nào. Nó trông thấy ông là lão già nhúm nhó, mục ruỗng, và đó là tất yếu, nhưng Marceelus cương quyết bám vào hy vọng duy nhất này. “Vậy hãy cho ta biết khi nào chúng ta có thể them nọc độc vào, Đệ Tử,” Marcellus gấp gáp. “Bởi vì ta sợ linh đan này phân rã rất mau.”

      Septimus lẹ

      “Rất nhanh.”

      “Nhanh à?Nhanh thế nào?Sáng mai?Tối mai?”

      Septimus lại lắc dầu.

      “Khi nào?” Marcellus nổi cáu “Khi nào hả?”

      “Chính xác là sau bốn chín giờ. sớm hơn khoảnh khắc nào.”

      Marcellus vui mừng ra mặt. Hai ngày. Ông đợi lâu đến vậy rồi ông có thể xoay xở đợi thêm được hai ngày nữa. Ông nhìn Septimus cẩn thận đặt cái lọ vào tủ kính và nhàng đóng cửa tủ lại. Marcellus thở hắt ra, mỉm cười.

      Tạm thời yên tâm về linh đan của mình, Marcellus dành thời gian để ý đến thằng đệ tử. Thằng bé gầy guộc, xanh xao, có những quầng thâm dưới mắt. Hẳn nhiên diện mạo của nó ra nông nỗi thế là vì nó cứ khăng khăng từ chối cho người ta cắt, chải nái tóc ổ quạ của nó, nhưng cho dù vậy, Marcellus vẫn cảm thấy áy náy.

      “Đệ Tử à,” ông bảo, “Con cứ ngồi đây suốt như con mối trong tủ là tốt. Mặc dù mặt đất rất lạnh và còn tuyết phủ nhưng ngoài trời có nắng đó.” Marcellus lấy ra 2 đồng xu và dúi vào long bàn tay bị dính mực cự tuyệt của Septimus. “Hội chợ Đông cuối cùng họp đấy. Cầm hai đồng tiền nàu và mau vui chơi .”

      Septimus nhìn chúng cách hờ hững.

      “Dân gian đúng , Septimus à, rằng: Ngụp lặn trong mực khiến cho tinh thần ta chìm ngỉm(*). con.”Marcellus đủng đỉnh trở lại chiếc bàn lớn, nhặt xấp giấy thấm ở chỗ Septimus vừa ngồi lên, để lộ ra bông hồng đỏ khắc vào gỗ, mà lúc này Septimus u hoài ngó chằm chằm vào. “ ”,ông thầy giục giã, đẩy Septimus ra.

      Septimus ra khỏi Đại Thất đằng cửa dành cho thợ chép. Lên dãy cầu thang dốc và hòa vào mạng lưới đường hầm dẫn lên Tháp Pháp Sư. Đây là phần thưởng Septimus hay tự thưởng cho mình: Nó rất thường hay bước qua tiền sảnh của Tháp Pháp Sư, đặc quyền mà đệ tử nhà giả kim hoàn toàn có đc. Đó là dạng trải nghiệm ngọt ngào pha lẫn cay đắng, nhưng dẫu sao, như thế cũng gợi nhắc nó về quê nhà theo cách mà gì khác ở Thời này có thể gợi nhắc nó đc. Bây giờ nó thong tỏ lối ấy như long bàn tay, và lúc này nó rề rà bước qua những đường hầm thắp nến bấc, sang tù mù. lâu sau, nó tới cổng vòm dưới lòng đất, qua đó có thể thấy dãy cầu thang ở phía bên kia.

      “Chào ngày tốt lành, Septimus Heap”, con ma ngồi ở chân cầu thang cất tiếng- con mà Pháp sư Tối thượng lịch lãm, xét theo tấm áo thụng rực rỡ của ông.

      Septimus gật đầu, nhưng gì.

      “Hãy quẹo trái và nêu mật khẩu”, con ma chỉ dẫn chậm rãi và ràng. Vì Septimus bao giờ hé răng lời nào, nên con ma kết luận thằng bé phải là Đệ Tử thông minh sáng láng gì cho cam, thành thử lúc nào hễ cứ gặp Septimus là ông lại rành rọt chỉ dẫn đúng điều ấy cho nó.

      Septimus lễ phép gật đầu lần nữa và hướng lên cầu thang với tâm trạng lạ thường cứ kích rich trong bụng nó. Lên tới đầu cậu thang nó quẹo trái như nó luôn quẹo trái, và qua phòng để áo khoác mà nó vẫn nghĩ là buồng để chổi. Chính cái tủ tường này là nơi luôn nhen nhóm niềm hi vọng trong nó, dẫu bao lần nó tự nhủ mình đừng lố bịch như thế. Nó đẩy cửa và bước ra tiền sảnh của Tháp Pháp sư.

      Trong lần đầu tiên Septimus vào tháp Pháp sư, nó lao vào tiền sảnh và tin chắc mình về lại thời của mình. Tất cả mọi thứ đều y nguyên. Cũng những bức tường sang choang, cũng những hình vẽ pháp thuật trôi dập dìu, cùng bầu khí pháp thuật lan tỏa khiến nó hoa mắt lên vì mừng rỡ. Thậm chí cả sàn tiền sảnh cũng mang lại đúng cái cảm giác lạ lung như thế khi nó chạy qua. Để rồi, quá phấn khích đến nỗi nó quên nhìn xuống dòng chữ chào mừng ra đón Đệ Tử. Nó nhảy lên cái cầu thang bạc và xoáy lên đỉnh Tháp, hệt như nó làm hàng ngày trong gần 2 năm nay. Nó để ý thấy ánh nhìn bối rối của những Pháp sư Thường Đẳng chĩa vào mình chiếu nghỉ của các tầng khác nhau- tất cả những gì nó muốn là chạy bay lên gặp bà Marcia và kể cho bà biết cặn kẽ những chuyện vừa xảy ra- và nó hứa với bà bao giờ lang thang ở lối Ven Thành nữa. bao giờ, bao giờ. Ở tầng thứ 21 nó nhảy khỏi cầu thang và đâm nhào về phía cánh cửa màu tía ở lối vào dãy phòng của Pháp sư Tối thượng.

      Cánh cửa mở ra.

      Septimus nôn nóng đẩy mạnh cửa, cảm thấy mình thể chờ gặp bà Marcia them giây nào nữa, nhưng cánh cửa vẫn im lìm. Nó thể hiểu nổi. Có lẽ bà Marcia gặp tai nạn gì chăng. Hay bà Chặn cánh cửa lại rồi…

      Septimus đau dngẩn ngơ xem thể ra sao cánh cửa đột nhiên mở và than hình mặc áo thụng tía bước ra.

      “Marcia, con…”

      Vị Pháp sư Tối thượng ngó xuống Septimus, chăm chú nhìn nó mà nó chẳng hiểu ất giáp gì, và hỏi.

      “Làm sao mi lên đc đây, nhóc?”

      “Tôi…tôi…” Septimus lắp bắp, đứng đực ra dòm Pháp sư Tối thượng, người đàn ông gầy, tóc vàng, thẳng, rủ xuống tran, che khuất cả đôi mắt Pháp sư xanh lá cây. Quanh cổ ông đeo bùa hộ mạng Akhu của bà Marcia, quanh lưng ông đeo đai lưng bạch kim và thắt lưng vàng Pháp sư Tối thượng của bà Marcia. Bất giác, Septimus hiểu ra của những gì mình thấy.

      “Đừng sợ, nhóc,” Pháp sư Tối thượng tử tế, nhận thấy vẻ tái nhợt đột ngột của Septimus. “Mi mới tới, phải ?” Pháp sư Tối thượng nhìn Septimus từ đầu đến đuôi, nhận ra tấm áo chẽn đỏ và đen với biểu tượng các hành tinh thêu vàng ông tay áo. “A, chắc chắn mi là cậu bé giả kim mới tới?”

      Septimus gật đầu, thốt nhiên thấy đau khổ tột cùng vì hi vọng vừa dâng lên của mình vừa bị xì như bong bóng.

      nào nhóc, ta dẫn mi xuống tiền sảnh và chỉ cho mi lối ra.Theo ta.” Septimus theo vị Pháp sư Tối thượng xuống cầu thang xoắn ốc bạc, và họ im lặng đứng bên nhau khi cầu thang chầm chậm xoáy xuống tháp Pháp sư.

      Giờ đây Septimus biết mình còn thiết tha vào Tháp Pháp sư nữa. Hoặc đúng hơn, nó nhận ra sau những ngày tuyệt vọng đầu tiên rằng mình buộc phải thuộc về thời này. Tuy vậy mình khó mà tránh xa đc ngọn tháp

      Khi Septimus bước qua tiền sảnh, cái thông điệp Hân hoan Chào Mừng Đệ Tử Nhà Giả Kim màu đỏ và vàng kim nhấp nháy, loe lóe quanh chân nó, xong xuôi, dòng chữ lại rung rung chuyển thành thong điệp quan trọng hơn: “ Hân Hoan Chào Mừng Học Trò Pháp Sư Tối Thượng”. Đúng lúc dáng hình mảnh dẻ, áo chẽn xanh lá cây, đeo thắt lưng bạc của Học Trò Pháp sư Tối thượng- đúng cái thắt lưng bạc của Septimus, có điều nó còn đc sử dụng nữa- cũng qua cánh cổng lớn dẫn vào Tháp Pháp sư. Septimus tự nhiên có ác cảm với con Học Trò Pháp Sư Tối Thượng này, đứa con lớn hơn nó bao nhiêu. Dẫu nó biết ghét vậy là bất công. nàng khá là than thiên và gật đầu với nó từ xa khi vừa mới trông thấy nó, nhưng ta chiếm vị trí của nó. Hay là, nó đắn đo, hay là về sau nó tiếp nhận vị trí của ta- rốt cuộc là thế nào? Đến đó đầu óc Septimus nhất định chịu suy nghĩ nữa.

      màng đến việc cần phải giải thích có mặt của mình ở đây, Septimus lỉnh vào bóng tối và xuống dãy cầu thang đá vỡ lam nham ở đằng sau Tháp Pháp sư. Sau đó nó lượn vòng qua chân Tháp rộng lớn và băng qua khoảng sân rải sỏi ngập tuyết về phía cổng vòm lớn. Đúng như Marcellus , quả ngày đẹp trời- khí hanh khô nhưng sáng sủa, mặt trời xuống thấp phản chiếu những vân vàng óng ả của lớp đá lapis lazuli quý giá màu xanh da trời lát cổng vòm. Tuy nhiên, Septimus chẳng mấy đoái hoài đến quang cảnh ấy khi nó bước ra con đường pháp sư nhộn nhịp. Nó đứng sững lúc, rồi kéo tấm áo len vàng đỏ dày vào người, chống lại hơi lạnh buốt giá, hít vào những mùi lạ và lắng nghe những thanh xa lạ. Nó lắc đầu tin nổi, cảm thấy mình ở ngay nhà mình nhưng lại xa xôi cách true ngươi- xa chính xác là năm trăm năm.

      Khi septimus đứng dưới ánh mặt trời mùa đông buốt thấu, nhận thức rành dội ào xuống nó. Rốt cuộc nó có vài giờ tự do- tức là nó có thời gian để xúc tiến kế hoạch của mình. kế hoạch liều lĩnh-nhưng biết đâu- lại thành công.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 27: Hugo Tenderfoot

      Trong khi Septimus bước dọc theo đường Pháp sư, chân nó đặt xuống mặt đường đá vôi nhạt như nó quen vào Thời của nó, mà dẫm đất ngập tuyết. Những cột đuốc bạc mà Septimus hay ngắm từ cửa sổ phong nó từ Tháp Pháp sư vẫn trong quá trình xây dựng nhân kỷ niệm 25 năm trị vì của Nữ Hoàng. Những toà nhà thấp bằng đá màu vàng ở hai bên đại lộ rộng lớn tuy cũ kĩ, nhưng mang vẻ phong trần sương gió, mà phô bầy những đường nét tinh tế Septimus chưa bao giờ thấy. Khi ngang qua Văn phòng Sao lục tại nhà số 13, Đường Pháp sư, Septimus liếc nhìn vào cửa sổ, thấy nơi này lạ đời, bởi vì nơi đây hầu như vắng tanh và rất sạch , bất giác cơn them đc gặp Beetle xâm chiếm lấy nó.Beetle gì lúc này nhỉ? Septimus tự hỏi. Beetle vốn có đủ thứ chuyện, về đủ thứ việc để cho nó nghe, nhưng nó nghĩ lúc này ngay cả Beetle chắc cũng cứng hàm thôi.

      Septimus giũ bỏ những kỷ niệm vui giữa nó và Beetle hồi trc để quay ý nghĩ về đích đến của mình bây giờ: mạng lưới đường hầm, mà Septimus biết Thời của nó gọi là Đường hầm Băng, nối tất cả những toà nhà có trong Lâu Đài với nhạu..Ở thời này đường hầm chưa có băng gúa, là lối chi những nhà giả kim và Pháp sư sử dụng khi làm nhiệm cụ khắp Lâu Đìa, để khỏi bị nhận thấy hay bị để ý. Hàng ngày Septimus qua đường hầm từ nhà Marcellus tới Đại Thất làm việc. vưad rồi nó được sai đến Cung Điện để trao vài cái tô đúc từ vàng đặc làm quà cho Nữ Hoàng- lời tạ lỗi của Marcellus vì làm gì đó sai trái. Chính chuyến ấy khiến Septimus nảy ra kế hoạch. Và lần này nó nhắm tới chính những đường hầm cung điện, có điều nó ở bên mặt đất, do muốn tình cờ chạm chán thợ chép tọc mạch nào đó, hoặc chính Marcellus cũng nên.

      Phiện chợ Đông cuối cùng bít kín đoạn cuối của con đường, ngay trước cổng cung điện. Những làn khói bốc lên nghi ngút từ hang chục lò than luộc hạt dẻ, bắp trái, hâm súp đặc mùa đông, nướng xúc xích, khoai tây. Septimus len lỏi qua đám đông mang mùi lạ, từ chối những lời mời chào “Tai heo cứng giòn , Đệ Tử,” hoặc “Bánh chân móng giò đây, ai bánh móng giò đây?” Cố phớt lờ tiếng đàn réo rắt mà nó nghĩ là từ nhạc hội vọng tới, Septimus bặm mình thoát khỏi thầy bói bám dai như đỉa, hai đòi “ giải đoán số mệnh chỉ với đồng groat nhé, cậu chủ…bởi vì ai mà biết cuộc đời dành sẵn cái gì cho ta?” Quả ai mà biết? Septimus phiền muộn nghĩ, khi nó giằng khỏi bàn tay túm níu mình.

      Septimus tránh sang bên để tránh cặp sinh đôi cà kheo, chui qua sợi dây kéo căng, và né kịp trong gang tấc thanh gỗ bự do kẻ chầu rìa quầy bán bẫy chuột nhiệt tình đập xuống. Với cú chen lần chót cùng qua hai bà béo thảy tôm song và gạo vào vạc nước sôi sung sục Septimus thoát khỏi đám đông. Nó hấp tấp rẽ vào ngõ Ngoặt, con hẻm dẫn tới Bờ Trượt Rắn. Chẳng mấy chốc nó rung chuông ngôi nhà mà nó vẫn nghĩ là nhà của giáo sư Weasal Van Klampff.

      Trong khi đứng chờ mở cửa, Septimus nhớ lại tất cả những lần bà Marcia sai nó đến đúng chỗ naỳ để nhận những mẩu nối cho Két Nhốt Vong của bà. Nếu nhắm mắt lại, nó dễ dàng mường tượng mình ở đó, giữa tiếng chọc ghẹo rầm trời của bọn con trai cầu tàu văng vẳng bên tai. Septimus bao giờ ngờ có ngày mình lại ao ước đc nghe chúng nó réo gọi om sòm Ê!Thắng sâu bướm đến thế.

      thằng bé quắt mặc đồng phục gọn gàng của gia nhân ra mở vửa. Thằng bé ngạc nhiên nhìn Septimus, bởi Septimus thường hay đến đây bằng đường hầm cơ mà, nhưng nó vẫn mỉm cười cúi chào đệ tử nhà giả kim. “Vui lòng bước vào trong, Septimus Heap,” thằng bé , nó có con mắt xám linh lợi, mặt đềy tàn nhang và mái tóc màu cát để kiểu ổ bánh Pudding úp ngược vào đầu như tất cả bọn con nít Thời này. Septimus cường quyết chịu để kiểu tóc đó, mà nhất định để cho đám tóc quăn của mình mọc dài hơn và rối bù hơn mỗi ngày.

      Thằng bé kiên nhẫn nhìn Septimus, chờ hộ tống đệ tử đến nơi ấy muốn . Septimus thở dài-vụ việc này nằm trong kế hoạch của nó. Nó quên phéng thằng nhóc Hugo Tenderfoot, cái thằng hay có tật tò tò theo nó khắp nơi như chú cún con bị lạc. Septimus buộc phải mở miệng, “Cảm ơn em nhiều, Hugo. Em có thể đc rồi.”

      “Làm ơn?” thằng bé tròn to con mắt, phần ngạc nhiên vì Septimus , nhưng phần nhiều vì nó cảm thấy mình nên hỏi thế, mặc dù nó hiểu Septimus vừa gì cho lắm.

      Septimus cố nặn ra lời mà nó nghĩ là Ngôn Ngữ Cổ. “Ừ, làm ơn, Hugo, .”

      ?”

      Septimus đỡ phải cố lần nữa vì được tiếng chuông Kính Koong ở lầu giải cứu, và Hugo, sau khi cúi chào Septimus, chạy biến .

      Septimus tất tưởi bước ra phía cuối nhà và leo cầu thang ọp ẹp xuống hầm chứa, tại đây theo đường hầm quen thuộc dẫn tới ngách cụt, theo đúng lộ trình lần đầu tiên nó theo mụ Una Brakket vào phòng thí nghiệm. Đường hầm dốc và thắp sang lờ nhờ ánh nến, như thời của mụ Una, nhưng ngoài ra trông nó vẫn hệt như xưa. Septimus bỏ qua cửa vào phòng Thí nghiệm, mà Marcellus dung cho những thí nghiệm tinh vi hơn, và rẽ vào đường hầm bên hông, mà nó mỗi sang đến nơi làm việc.

      Loáng sau nó tới cánh cửa sập quen thuộc- nhưng cái thang ở đâu? Septimus quỳ gối xuống và mở cửa sập ra. Trông bộ phải khoảng cách xa mới tới sàn bên dưới. Nó sục sạo tìm thang, nhưng tuyệt nhiên chả thấy. còn cách nào khác- nó buộc phải nhảy thôi. Septimus ngần ngại, cố tính coi mình phải rơi bao xa nếu thong người hết cỡ từ cửa sập xuống. Nó tự nhủ Simon có thể nhảy xuống cả khi mang giày trượt nó có thể dễ dàng nhảy đc khi mang dày trượt.

      Trong đường hầm có tiếng người lao xao tiến lại gần, Septimus lùi lại khỏi cửa sập. Nó nhìn nhóm đầy tớ Cùng Điện ríu rít ngang qua bên dưới mình. Họ mặc đồng phục Cung Điện kiểu cũ mà nó nhìn thấy ở những con ma thời của nó. Cảnh tốp đầy tớ rẽ khuất quanh khúc cua làm cho nó nảy ra ý, rằng hoà lẫn vào đám đầy tớ lắm mồm đó dễ dàng vào Cung Điện mà bị để ý hơn. Nghĩ vậy là Septimus luồn qua cửa sập ngay tắp lự. Sau hồi đu đưa tí nó nhận ra lí do tại sao sàn hầm lại cách xa đến vậy- mà xa , bởi vì nó chưa đc tráng lớp băng dày. Nhưng Septimus dứt khoát. Nó nhắm mắt lại, hít hơi, và buông tay ra.

      “Hự!”

      Cú rơi chạm sàn bốc hết hơi thở của nó , và trong khi nằm chem. mẹp dưới sàn, Septimus thấy khuôn mặt lo âu của Hugo hé dòm xuống nhìn mình qua cửa sập. Loáng sau Hugo tháo cái thang treo đâu đó từ trần nhà ra và thong nó xuống cho Septimus.

      “Ngã xuống xa lắm đấy, Đệ Tử,” Hugo vừa vừa loáy hoáy leo xuống. “Em chắc chắn cả ngàn lần là rời cửa sập ko an toàn đâu. Làm ơn đưa tay đây cho em.” Hugo kéo Septimus đứng dậy.

      “Cái thang ở đâu vậy?” Septimus hỏi.

      “Gì hả? Em ước gì xuống cẩn thận.”

      Septimus thở dài.”Hugo. Tôi ko muốn xuống cẩn thận. Nào, biến .”

      “Biến?”

      “Ừ,biến mau. Cút. Ơ… !”

      Mặt Hugo xị xuống. Nó hiểu “ ” có nghĩa là gì. Đó là từ lớn của nó hay . Cả hai chị lớn của nó cũng hay vậy. Rồi cả những họ sống ở góc đường của nó cũng hay thế.

      “Ờ, thôi vậy, nếu mi muốn,” Septimus dịu giọng, nhận thấy nếu Hugo trở lại, thằng mách lẻo với bất cứ ai rằng Đệ tử nhà giả kim vào đường hầm mình. Septimus linh cảm là Marcellus nghi ngờ.

      Hugo nhìn Septimus cách kì quặc. “Muốn?” nó nhại giọng Septimus. “Muốn…muốn chứ!”

      “Ừ, cùng,” Septimus bảo Hugo, đoạn nôn nóng đuổi theo tốp đầy tớ Cung Điện ríu rít xa dần.

      Hugo lọt tọt bám theo. “Biến!” thằng bé chạy đằng sau Septimus vừa rìi như con ong . “Biến. biến, biến!”

      Septimus nửa chạy nửa bên dưới ánh đèn bấc chăng trong đường hầm rộng, lát gạch rẽ về phía cung điện. Chú ong đằng sau giữ nhịp với nó, ngoài từ “biến” chốc chốc lại vọt ra khỏi miệng, còn đâu thằng bé ko hề tỏ ý muốn chuyện. Khi tiếng láo nháo của những đầy tớ cung điện đc nghe hơn. Septimus tập trung gĩư khoảng cách với họ mà vẫn nhìn thấy họ, bởi vì càng gần tới cung điện lại càng có thêm nhiều ngã rẽ phụ xuất và đường hầm bắt đầu giống như hang thỏ.

      Vài phút sau, tốp đầy tớ quẹo vào đường hầm đúng lúc Septimus vừa kịp thấy họ biến vụt qua cánh cửa hẹp màu đỏ. Nó quay qua Hugo. “Giờ em nên về ,” xong, thấy vẻ hiểu của Hugo, nó thêm, “Làm ơn . cầu cho em đừng tiết lộ cuộc hành trình của chúng ta, bởi vì làm nhiệm vụ bí mật cho bậc thầy.”

      Hugo nghẹo đầu qua bên như con vẹt, phân vân ko biết có đáng lặp lại lời Septimus vừa hay . “Biến?” nó hỏi.

      “Ừ, biến. Nhảy . , xuỳ!”

      Hugo nhận được thông điệp.Mặt nó xị xuống và nó vùng vằngquay trở lại đường hầm. Septimus chợt hối hận quá. Kể từ khi nó bị kẹt trong Thời này, chẳng ai tỏ ra thích thú với nó, dù là nhất, như thằng nhóc này. “Ờ, cùng, “ nó gọi to.

      Mặt Hugo rạng rỡ hẳn lên. “ biến?”

      ,”Septimus thở dài. “ biến.”

      Vài phút sau Septimus và Hugo lớ xớ ở trong hành lang nhà bếp chính, hình như nơi này náo loạn với những công việc chuẩn bị cho buổi yến tiệc. Làn song đầy tớ quet qua chúng trong khi chúngđứng như hai tảng đá giữa dòng nước chảy xiết, trơ mắt dòm những chồng đĩa nghễu nghện, những mâm nĩa và những thau đựng dai vàng tất bật qua. Hai đầy tớ va phải chúng khi họ lặc lè khiêng cái liễn bạc khổng lồ. Tiếp nối họ là đoàn thiếu nữ mỗi người bưng hai cái tô bạc . Trong mỗi tô có đầu của con vịt con thò ra.

      Septimus kinh ngạc sửng sốt. Nó vốn quen Cung Điện im ắng như tờ và hầu như vắng tanh. Nó dự định lẻn vào đây rồi lần mò đến Tháp có phòng Nữ Hoàng mà bị để ý. Kế hoạch của nó là theo Nữ Hoàng hặc Công Chúa vào căn phòng đó trong khi cánh cửa vô hình còn mở. Xong, nó lỉnh xuống phòng Hoàng bào và cđi qua Tấm Kính lần nữa. Đó là kế hoặch vô cùng rủi ro, rất ít cơ may thành công nhưng cũng rất đáng thử. Nhưng giừo nó thấy nếu bây giờ Cung Điện chỗ nào cũng đông như thế này thể có cơ hội, nhất là nó luôn lồ lộ giữa thanh thiên bạch nhật trong bộ cánh nhà giả kim thêu chỉ vàng.

      Quả , lối phục sức lạ đời của Septimus lôi kéo vài ánh mắt. Những đầy tớ chậm bước lại và dòm nó chòng chọc. Chẳng mấy chốc tắc nghẽm người xảy ra trong hành lang, khiến cho lính hầu to lớn, nóng tính phải rang len ra khỏi buồng đựng khăn ăn đằng sau Septimus và Hugo, xông bừa lên trước và bổ nhào về phía chúng. Điên máu, lính hầu túm lấy cổ áo Septimus, cách ngờ vực, “Mày là người lạ ở đây.”

      Septimus cíô dứt ra, nhưng lính hầu giữ chặt quá. Bất ngờ, Hugo cất tiếng. “Thưa đức ngài, chúng tôilà người đưa tin, đến để đưa tinh khẩn cho người làm bánh ngọt.” lính hầu nhìn vẻ mặt sốt sắng của Hugo bèn buông Septimus ra.

      “Quẹo ngã thứ ba rồi sau đó vào lối thứ hai. Bà Choux đc tìm thấy ở đó. Dậm chân khẽ thôi, bởi vì bà ấy làm cháy bốn tá bánh trong giờ vừa qua rồi.” lính hầu nháy mắt với Septimus và Hugo rồi hoà vào dòng đầy tớ và bị cuốn khỏi.

      Hugo nhìn Septimus, cố hiểu xem ấy muốn làm gì. Hugo thích này, vì Septimus là người duy nhất, trong những người nó biết, quát mắng nó hoặc ra lệnh cho nó như thể nó hơn con chó. “Biến chứ?” Hugo hỏi khi ba người phụ nữ sồ sề cắp những ổ bánh mỳ vòng to tường chen ngang qua.

      Septimus lắc đầu và nhìn sựng vào ba phụ nữ nọ, tất cả họ quay lại trố mắt nhìn nó. “ biến,” nó đáp. “Có việc cần làm,” Bằng lối cổ, Septimus bảo. “ cần…truy tìm. Ở đây, trong Cung Điện.”

      Hugo hiểu từ truy tìm. Tất cả những hiệp sĩ và bọn tiểu đồng đều hay truy tìm, và nó chẳng thấy có lí do nào mà Đệ tử nhà giả kim lại truy tìm. Tuy nó bao giờ nghe có truy tìm trong Cung Điện cả, nhưng với nhưng nhà giả kim bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra. Nó cầm tay Septimus mà lôi vào dòng đầy tớ. Lần theo mùi nước sôi và bọt xà phòng, Hugo chẳng bao lâu thấy cái nó tìm kiếm: Phòng giặt.

      Vài phút sau- vơi mất hai đồng groat- có hai đầy tớ mới của Cung Điện, mặc đồng phục đầy tớ sạch , lỉnh ra khỏi phòng giặt và lên đường, tên choắt, tóc màu cát lóc cóc theo tên cao hơn, tóc vàng bù xù.Chúng chưa xa hơn ngã quẹo bà to dềnh dàng, đeo tạp dề nhem nhuốc xồ ra khỏi ngưỡng cửa nhà bếp nấu nước sốt, tay bưng hai chiếc bình hoc văn vàng. Bà giúi vào tay mỗi đứa bình nước sốt cam nóng bỏng, và giục, “Nhanh, nhanh,” rồi đẩy chúng nhập vào đoàn đồng nam, đứa nào cũng bưng chiếc bình vàng tương tự.

      Hugo và Septimus còn cách nào khác. Dưới con mắt ó của bà nấu nước sốt, và bị theo sau bởi lính hầu to lớn cầm xấp khăn trắng tinh, đề phòng thằng bé nào làm song sánh nước sốt ra ngoài lau ngay, chúng trong hang đồng nam đến dãy cầu thang dài, uốn lượn ở đằng sau Cung Điện, và quẹo vào quầng tối lù mù của lối dài. Khi chúng chậm rãi , tiếng huyên náo và loảng xoảng của buổi tiệc vừa khai mào trong phòng Đại Lễ vọng về phía chúng. Thình lình cánh cửa đồ sộ phòng đại lễ mở tung ra và tiếng ồn ào ập trùm lên chúng. Đoàn đồng nam bắt đầu vào phòng.

      Septimus và Hugo ở cuối hang lết bết vào phòng Đại Lễ, và người lính hầu đóng cửa lại đằng sau chúngu. Há hốc miệng, Hugo trố mắt nhìn cảnh tượng trước mắt nó. Chưa bao giờ nó thấy căn phòng rộng, lại đầy những người giàu có quần là áo lượt như vậy. Tiếng ồn ào điếc ráy và tiếng đồ ăn phưng phức làm đầu thằng bé bơi bơi, bởi vì từ đầu đến giừo ai nhớ cho Hugo ăn nhiều lắm.

      Septimus, quen với cảnh này hơn-bà Marcia là chủ xị hào phóng ở Tháp Pháp sư- cũng há hốc miệng, nhưng vì lí do khác. Ngồi ở bàn cùng, than hình quen thuộc khảo sát toàn khung cảnh trước mặt mình, Nữ Hoàng Etheldredda đeo bộ mặt bất bình như thường lệ.

      Chương 28: Bị giam thuyền

      Chiếc thương thuyền của Snorri Snorrelssen vừa neo tại vũng tàu đậu dành cho lái buôn ở Bến Cảng. Alice Nettles, trưởng phòng Hải Quan, đứng ở đầu cảng nhìn ra cách hoài nghi. Bà Alice có vóc người thanh cao, tóc xám, dáng vẻ đường bệ nhờ cách đây nhiều năm bà từng là thẩm phán Alice Nettles. Nhưng bây giờ bà mặc áo thụng xanh da trời của trưởng phòng Hải Quan, có hai phù hiệu vàng chói ở ống tay. Dân bến cảng ko ai dám lôi thôi với bà Alice, hoặc quá lắm chỉ lần là tởn luôn.

      “Tôi muốn có lời với chủ thuyền của ,” bà Alice bảo Snorri.

      Đây ko phải là cách mào đầu câu chuyện hay ho đối với Snorri. trân mắt nhìn bà Alice và ko đáp.

      có hiểu tôi gì ko?” bà Alice cầu, bà tin là Snorri hiểu. “Tôi muốn chuyện với chủ thuyền của .”

      “Tôi là chủ thuyền đây,” Snorri bảo bà Alice. “Bà hãy chuyện với tôi.”

      à?” bà Alice hỏi, choáng sốc. rang hơn mười bốn tuổi là cao. này quá trẻ để làm chủ chiếc thương thuyền.

      “Phải,” Snorri bực mình. “Bà muốn gì?”

      Bà Alice giương gai( Cách chơi chữ: Nettles-gai tầm ma) ra. “Ta muốn xem Giấy Kiểm Dịch tại Lâu Đài của .”

      Quắc mắt lên, Snorri trao giấy cho bà.

      Bà Alice xem xét kĩ lưỡng, sau đó lắc đầu. “Thế này chưa đủ.”

      “Đó là tất cả tôi được cấp.”

      ko tuân thủ những quy tắc cách ly kiểm dịch khẩn cấp. Vì vậy ta giam thuyền lại.”

      Snorri đỏ mặt tía tai. “Bà…bà được làm thế,” kháng cự.

      “Ta buộc phải vậy,” bà Alice ra hiệu cho hai sĩ quan Hải Quan đứng trong bong râm gần đó, đề phòng rắc rối. họ lấy ra cuộn băng keo vàng to tướng và tiến hành rào kín thuyền Alfrún lại.

      phải rời thuyền ngay lập tức,” bà Alice bảo Snorri. “Nó đc kéo về vũng tàu đậu ở vùng cách ly kiểm dịch cho đến khi tình trạng nguy cấp chấm dứt. Khi đó có thể cii phải trả phí neo đậu và phí kiểm dịch.

      !”Snorri thét om. “!Tôi để bà làm vậy!”

      “Nếu manh động gì them có thể bị nhốt trong xà lim của Hải Quan,” bà Alice nghiêm giọng. “Ta cho năm phút để gói ghém đồ dùng cá nhân. có thể mang theo con mèo của nếu muốn.”

      Năm phút sau, Snorri Snorrelssen vô gia cư. Từ chỗ đậu choc ngóc cột buồm, Stanley và Dawnie nhìn Snorri thất thểu bước , cái giỏ lẳng vai, với Ullr lẵng nhẵng theo sát gót.

      “Thế quá đáng,” Stanley lầm bầm với Dawnie. “ dễ thương thế mà. Giờ ấy biết làm gì đây?”

      “ Hừ, ít ra chúng ta vừa kịp bữa trưa muộn,” Dawnie ca cẩm. “Em thích món gì đó ở cửa hang bánh đằng kia kìa.”

      Stanley chẳng thiết ăn uống gì hết, nhưng chú vẫn theo Dawnie tụt xuống cột buồm và cun cút theo vợ tới tiệm bánh ngọt.

      Snorri bước thấp bước cao khỏi, đắm chìm trong suy nghĩ. Kể từ khi đặt chân tới Lâu Đài là cả chuỗi thảm hoạ kéo dài. gặp hầu như tất cả Ma của Lâu Đài- ngoại trừ con ma mà ao ước gặp. bị quẳng ra khỏi Lâu Đài ngay trc ngày phiên chợ buôn bắt đầu, rồi suýt bị đắm thuyền vì con rồng. vừa mới tống đc cái sinh vật đáng thương đó ra khỏi thuyền xong, bây giờ, tai nạn này lại ập đến. Snori điên giận đến độ mới đầu ko nghe thấy bà Alice gọi với theo mình. Mãi cuối cùng nghe đc Snorri cố ý lờ tịt bà trưởng phòng Hải Quan .

      Nhưng bà Alice dừng lại.”Chờ …chờ chút!” bà chạy theo Snorri và đuổi kịp . “ còn trẻ quá nên ở mình bến cảng.”

      “Tôi mình. Tôi có Ullr,” Snorri làu bàu, liếc xuống con mào cam.

      “Ở đây ban đêm rất nguy hiểm. con mèo đồng hành đc chứ nó ko bảo vệ …”

      “Ullr bảo vệ được,” Snorri lạnh lung.

      “Đây,” bà Alice ấn tờ giấy vào bàn tay bất cần của Snorri. “Đây là nơi ta sống. Nhà kho số 9. Tầng cùng.Có chỗ cho và Ullr ngủ thoải mái. Rất sẵn sàng đón chào .”

      Snorri lộ vẻ hoang mang.

      “Đôi khi,” bà Alice phân bua, “ta phải làm điều mà ta thích, nhưng công việc nó bắt buộc thế. Ta rất tiếc về chiếc thuyền của nhưng đó là vì lợi ích của Bến Cảng. Chúng tôi ko thể liều để cho bệnh dịch lây lan tới đây. Thuyền bè mang chuột, mà chuột mang mầm mống bệnh.”

      “Có người dịch bệnh đó ko phải do chuột gây ra. Họ ấy là do sinh vật khác.”

      “Người ta đủ thứ cả,” bà Alice cười phá lên. “ Họ có tủ vàng khổng lồ xuất cách bí tàu họ mà họ ko biết. Họ những thùng nước bỗng nhiên biến thành Rượu nho thần kỳ trong suốt cuộc hải hành. Họ bảo quay trở lại đóng thuế hang hoá của họ. Điều đí có nghĩa rằng tất cả những gì người ta đều là đúng.” Bà Alice nhận thấy đôi mắt trong sang màu xanh da trời của Snorri dưới hàng long mày nhạt rất lạ. Bà nhìn vào mắt Snorri và bảo, “Nhưng những gì ta với là đúng. Ta hy vọng nán lại.”

      Snorri uể oải gật đầu.

      “Tốt.Nhà kho số 9 nhé. thấy nó đường số 15, qua khỏi vũng tàu đậu cũ. Tốt nhất hãy tới trc khi đêm xuống, bởi vì vũng tàu đậu cũ ấy ko an toàn khi trời tối. Hãy vào cánh cửa xanh da trời trong xanh lá cây, lấy cây nến giá và qua nhà kho thấp. Cứ leo lên cầu thang sắt ở phía sau lầu cùng. Cửa nhf luôn luôn mở. Có bánh mì và pho mát trong chạn và rượu trong bình. “À…Tên ta là Alice.”

      “Tôi là Snorri.”

      “Hẹn gặp lại, Snorri.” xong bà Alice tới chiếc xuồng chờ bà ở chân cầu thang cảng. Snorri nhìn những tay chèo đưa bà Alice về phía con tàu lớn neo đậu cách Bến Cảng nửa dặm, và Ullr cạ vào áo kêu meo meo. Nó đói…và Snorri nhận ra mình cũng đói.

      Chìm khuất giữa trụ sở Hải Quan Bến Cảng dành cho lái buôn và gác xép bỏ hoang là tiệm bánh Cảng Tàu. Ánh sang vàng mời gọi lấp loá rọi ra từ những cánh cửa đầy hơi nước, và mùi bánh nhân hấp nóng hổi, mê ly bay ra khỏi cánh cửa rộng mở. Cả Snorri lẫn Ullr đều ko cưỡng lại đc. lâu sau chngs nhập vào hang thực khách đói ngấu chờ đc phục cụ bữa tối. Hàng người chậm chạp tiến lên, nhưng cuối cùng cũng đến lượt Snorri.

      thằng bé từ trong bếp ra bưng khay bánh nhân mới nướng và Snorri chỉ vào khay. “Cho tôi hai cái này.”

      Người phụ nữ trẻ sau quầy mỉm cười với Snorri. “Xin bốn đồng groat.”

      Snorri đưa ra bốn đồng bạc vụn.

      Maureen-cựu hầu bàn nhà bếp, cựu hầu ngôi nhà búp bê và bà chủ mới của tiệm bánh cảng tàu- gói cặp bánh nguyên và cho them ít bánh vụn nữa. “Cho con mèo của ,” chị bảo.

      “Cảm ơn,” Snorri , ôm chặt gói bánh nóng hổi vào người, bụng bảo dạ Bến Cảng cũng hẳn là nơi tồi tệ. Vừa rời tiệm bánh, chợt nghe tiếng Maureen thét thất thanh.

      “Chuột! Nhanh!Kevin, Kevin!Bắt lấy chúng!”

      Snorri và Ullr ngồi xuống bên bức tường Cảng lái Buôn ăn bánh. Ullr, vốn hay đói khi trời gần tối, loáng cái xơi sạch chỗ vụn bánh Maureen cho, rồi đả luôn chiếc bánh Snorri mua cho nó. Bầu trời sậm dần và mây mưa bắt đầu vần vũ từ hướng tây, Snorri và Ullr nhìn chiếc tàu dắt kéo thuyền Alfrún ra khỏi vũng tàu đậu và hướng tới cảng Cách Ly Kiểm Dịch- bãi lầy hoang vắng ở đằng kia cửa song. Dù có bánh nóng, có Ullr kề bên, và có lời đề nghị của bà Alice Nettles, Snorri vẫn cảm thấy trống trải, chơi vơi khi chứng kiến thuyền Alfrún rời khỏi vùng nước đc bảo vệ của cảng và nhồi sóc cập kênh đu vào vùng nước thuỷ triều đen ngòm. Lời mẹ lại văng vẳng bên tai :”Con dại lắm, Snorri Snorrelssen, nên mới nghĩ mình có thể tự mình buôn được- cái gì làm con đặc biệt thế, hả? đó phải là cuộc sống của phụ nữ, huống hồ con chỉ mới 14 tuổi. Cha của con, Olaf, cầu cho linh hồn ông ấy an nghỉ, chắc hẳn khiếp vía lắm- khiếp vía, Snorri **. Người cha tội nghiệp của con biết mình làm gì khi để lại Giấy Chứng Nhận cho con. Hãy hứa với mẹ , nhân danh tình của thần Freya, rằng con . Snorri…quay lại đây ngay!

      Nhưng Snorri hứa, và cũng quay lại đây ngay. Và giừo ở chốn này, lang thang cảng lạ, nhìn tất cả niềm hy vọng bán buôn của mình bị kéo , và bị bỏ cho mục nát trong vũng tàu đậu đầy dịch bệnh nơi ở xó xỉnh nào đó. Snorri thở dài đứng lên. “, Ullr.”

      Giữ những con mưa thu lạnh buốt lác đác rơi, Snorri lên đường. Hướng nhà bà Alice chắc hẳn rất dễ tìm, nhưng Snorri mải suy nghĩ đến độ thấy mình lạc vào ma trận của kho hànghoá vô thừa nhận và những con ma hom hem, lụ khụ. Trong đời Snorri chưa từng bao giờ thấy lũ ma nào lưu manh, bất hảo đến thế. Đường phố nêm chật ma buôn lậu, ma quấy rối, ma say xỉn,và ma trộm cắp lại nghênh ngang, chửi rủa, phun nước bọt phì phì, xô đẩy chen lấn nhau hệt như hồi chúng còn sống. Hầu hết chúng ko đếm xỉa tới Snorri, vì chúng còn bận đánh đấm, tranh giành, lưu tâm đến sinh vật sống, cũng chẳng mất công hỉnh với hị. Nhưng hay hai con ma bắt gặp Snorri nhìn chúng, liền bắt đầu bám theo qua những con phố, khoái chí tận hưởng vẻ mặt hốt hoảng của khi ngoái lại coi chúng có còn ở đó hay .

      Mưa bắt đầu nặng hạt, và tâm tạng Snorri càng sầu thảm hơn nữa. cảm thấy mình bị sa bẫy. la bàn, bản đồ, tất cả mọi thứ trông đều giống nhau: phố nối tiếp phố những hình thù đen đúa, sừng sững vươn cao, choán hết bầu trời. Snorri thà phiêu bạt những con song bạc đầu vùng biển Bắc thuyền Flfrún còn hơn là trơ trọi lạc lõng giữa kho hàng cũ nguy hiểm rình rập như thế này. Lấm lét ngó quanh, cuống quýt tìm cánh cửa xanh da trời trong màu xanh lá cấy- mà thế nào là xanh da trời trong xanh lá cây?- Snorri bắt đầu hoảng lọan. dừng bước để lấy lại phong thái, nhưng lũ ma bám đuôi xán lại gần khiến Snorri còn thấy mình ở đâu nữa. bị bao vây giưũa những bộ mặt cười cợt phô bày những hàm răng mục, mũi gãy, tai sần và mắt mù.

      “Cút !” Snorri thét, tiếng thét của dội dọc theo đường phố thăm thẳmvà nảy dội trở về với .

      lạc đường **, em?” giọng ngọt xớt gần đó. Hốt hoẳng sợ phải thấy kẻ vừa đó, Snorri lỡ xuyên qua vòng tròn ma xấn xổ chửi bới và ẩu đả nhau. phụ nữ trẻ ăn mặc đủ sắc độ khác nhau của màu đen đứng chình ình trong bóng tối của ngưỡng cửa cách đó vài thước- ngưỡng cửa màu xanh da trời trong cả cánh cửa lớn màu xanh lá cây của nhà kho. Kắc hẳn vào mái vòm gạch bên cánh cửa là con số 9.

      , tôi bị lạc, cảm ơn,” Snorri , cảm kích hướng tới cửa nhà bà Alice. Thấy Snorri hướng tới đâu, người phụ nữ trẻ bèn xăm xăm vượt lên trước và chặn cánh tay ngang cửa, chắn đường Snorri. Bủn rủn cả người, Snorri nhìn đôi mắt đen cháy của mụ nhoé lên ánh da trời đậm. biết mình chạm chán hắc phù thuỷ.

      “Mày muốn vào đó đâu,” Mụ phù thuỷ bảo .

      “Tôi muốn vào trong đó đấy,” Snorri đốp chát.

      Mụ phù thuỷ nhệch cười và lắc đầu ra chiều Snori hiểu ý mụ gì. “Làm gì có, em dễ thương, mày muốn vào đâu. Mà mày muốn với tao kia. Đúng ?” tia lửa xanh da trời nhoáng qua đôi mắt của mụ hắc phù thuỷ khiến Snorri cảm thấy mất sức kháng cự. Mắc gì mình lại muốn vào cái nhà kho cũ rich ghê tởm kia cơ chứ.

      Đúng đấy, mày trở về nhà với Linda ngay bây giờ. nào.” Linda, kẻ tập của Hiệp Hội Phù Thuỷ Bến Cảng , cầm tay Snorri, lập tức Snorri cảm thấy cú vồ như kìm êtô của mụ ngoạm vào những khúc xương bàn tay mình và kẹp chúng lại với nhau.

      “Ui da,” Snorri phản đối, cố rút tay ra trong khi Linda càng siết chặt gọng kìm hơn, vặn những khúc xương của vào với nhau. “Ối, bà làm đau tôi.”

      “Đau đâu mà đau. khoẻ mạnh như mày làm sao mà bì được với kẻ liễu yếu như tao.” Linda cười khùng khục, biết chắc mình đưa Snorri vào tròng quyền lực của mình. Mụ ló mặt ra ngoài đường để thực cái mà bọn phù thuỷ gọi là cất mẻ lưới lúc chạng vạng- mụ cần tìm người thay thế hầu quán-xuyến-tất-tần-tật-mọi-việc cho Hội Phù Thuỷ của bọn chúng sau khi hầu cũ lâm phải tai nạn đáng bực mình, rơi vào cái vạc trong sào huyệt của Hội hồi sớm hơn trong ngày. Dù cuối cùng bọn chúng cũng vớt đc ra, nhưng mà quá trễ. Giờ đây Linda quyết định đem về hầu trông khoẻ như vâm, hứa hẹn chắc chắn nàng cầm cự được lâu hơn quãng hai tháng như thường lệ.

      Tuy nhiên, Snorri dễ bị thu phục như Linda mong đợi. Mụ Hắc Phù Thuỷ bạo ngược lôi ra khỏi ngưỡng cửa và Snorri kháng cự. Linda kẹp tay mạnh hơn. Snorri thở dốc lên đau đớn, nhưng tự dưng Linda nới lỏng tay ra và Snorri thấy thoáng kinh hoàng nhoé lên trong đôi mắt đen của mụ phù thuỷ. dõi theo ánh nhìn của Linda và suýt nữa cười phá lên nhõm.

      Ullr biến hình.

      Con mèo cam gầy nhom mà Linda vừa mới lén lút nhắm cho cú đá lúc mày còn gầy trơ xương hay thâm chí còn chút gì màu cam nữa. Khi Linda trợn trừng, vẫn sẵn sàng buông tay siết Snorri, mụ thấy Ullr đêm dần dần ra. Cái chỏm đen ở chop đuôi cam loang khắp người con mèo như bóng nguyệt thực lan ra mặt đất. Bộ lông của Ullr trở nên bong mượt, ngắn và sang nhoáng; bộ lông bao lấy lớp cơ mới của nó, cuộn rập rờn dưới làn da nó, biến hình rồi biến hình lại trong lúc nó lớn lên chầm chậm, đều đặn, trở thành con báo lớn đầy đủ kích thước.

      Nhưng Linda vẫn siết chặt gọng kìm của mụ vào bàn tay Snorri. Làm như bị thôi mien, mụ nhìn Ullr trao tráo và kế hoạch ranh ma lập tức hình thành trong đầu mụ. Với con thú đen dự tợn thế này ở bên mình còn ai dám tranh chấp vị chí Mẹ Phù Thuỷ hợp pháp với mình nữa- đâu với kẻ đồng hành như vậy. Con vật này tống khứ mụ già Pamela cách dễ như chơi, kể lũ phù thuỷ khác vốn hay chành choẹ với mình, và nghĩ coi, cả cái con mẹ y tá hang xóm kề bên nữa. Hội Phù Thuỷ chiếm đoạt chỗ ở của y tá, để bồi thường cho việc con mẹ ấy làm cháy cây cầu. Linda mỉm cười. Vụ này vui biết chừng nào.

      Sau đó rồi Ullr thực công đoạn biến hình cuối cùng mỗi khi đêm về: mắt nó trở thành mắt Ullr Đêm. Linda nhìn vào con mắt của Ullr Đêm và có gì đó bên trong mụ lạnh teo . Mụ biết mình đọ được với sinh vật này. Có gì đó hắc ám, hắc thuật hơn Linda từng biết toát ra từ Ullr. Mụ buông rơi bàn tay Snorri như thể bị nó cắn và quay ngoắt lại nhìn Ullr, miệng làm xàm. “Mèo ngoan, mào .”

      tràng ngao đục, dài, đầy đe doạ rộ lên trong cổ họng Ullr- môi con mào đen bạnh ra gầm gừ, nhe hàm răng trắng nhởn. Linda quay đầu bỏ chạy, xuyên bừa qua vòng ma chầu rìa ngó xem. Mụ phóng mạch tới tận Hội Phù Thuỷ Bến Cảng, ở đó mụ phải dộng cửa thình thình ít nhất nửa giờ đồng hồ mới có người hạ cố ra mở cửa cho mụ vào.

      Xuýt xoa cái tay đau của mình, Snorri đẩy cánh cửa màu xanh da trời mở ra, thế rồi cùng Ullr Đêm bước vào Nhà kho số 9.

      Chương 29

      Nhà kho số 9

      Snori ngủ say khi bà Alice Nettles trở về nhà khuya khuya đêm ấy. Bà trưởng phòng Hải Quan vừa lạnh vừa mệt rũ và ướt nhem sau chuyến làm việc gay go với con tàu bất hợp tác trở về, nhưng khi đẩy cánh cửa màu xanh da trời mở ra, bà mỉm cười, bởi vì cùng bước qua ngưỡng cửa với bà còn có con ma ngài Alther Mella.

      Ngài Alther cũng vừa trải qua ngày khó khăn ở Cung Điện. Lúc chiều sau khi gặp Jillie Djinn ở Văn phòng Sao lục, Marcia rền rĩ, "Ối, ngài Alther ơi, tôi muốn gặp thêm bất cứ ai nữa - kể cả ngài. Ôi . Tôi cũng biết khi nào tôi lại có thể ra ngoài được. Chắc chắn phải vài tháng nữa. Giờ, ngài ." Ngài Alther tiếp tục lùng sục khắp Cung Điện tìm Jenna và Septimus, nhưng chẳng thấy tăm hơi chúng đâu. Tuy nhiên, số câu chuyện về những gì có thể xảy ra với chúng lại tăng lên vô tận. Ngài Alther suy đoán xem ra chắc chắn có Khạc Lửa liên quan ở đây, nhất là kể từ khi con rồng đó cũng biến mất tiêu, nhưng ngoài điều đó ra, ngài thể đoán thêm được gì nữa. Ngài Alther dễ gì thuyết phục được mình tin rằng lá thư Marcia tìm thấy đó là do Septimus gửi . Ngài vẫn hy vọng Jenna và Septimus thăm Zelda, mặc dù ngày sắp tàn và màn đêm bắt đầu buông, ngài nhận thấy mình sắp chết đuối bám được cọng rơm cũng cố bám, bởi ngài biết Zelda đời nào cho phép đứa nào trong chúng nó xa nhà lâu đến vậy.

      Trong khi đó, Silas càng lúc càng nản lòng. Đến đêm, ngài Alther cuối cùng đành phải chấp nhận với mình rằng lá thư của Septimus là . Ngài trấn an Silas rằng “vẫn còn vài chỉ dẫn phải bám sát” và hẹn sáng mai trở lại. Ngài Alther để lại Silas và chó Maxie ngồi ủ rũ bên cửa Cung Điện chờ lão Gringe tới.

      Điều ngài Alther cần chuyện với Alice Nettles.

      Thế cho nên, khi bà Alice được thuyền đưa về phía ngọn hải đăng gọi mời của Bến Cảng, nơi vùng biển gào réo đen ngòm, bà trông thấy con ma ngài Alther đứng kiên nhẫn bức tường cảng, hệt như bà lần thấy ngài Alther đứng đó cách đây nhiều năm, khi ngài là Pháp sư Tối thượng còn sống. Nhớ lại, hôm đó là ngày bà Alice trở về sau chuyến công du bí mật thường niên vào mùa đông của toà án Lâu Đài. Ngài Alther tìm hiểu và biết được địa điểm của chuyến công du – Đảo Cát lộng gió cách Bến Cảng vài dặm về phía Nam – và thân hành ra đón riêng bà. Bà Alice chưa bao giờ, trước đó và cả sau này, ngập tràn hạnh phúc đến thế khi bà nhận ra bóng hình khoác áo thụng tía của ngài Alther dõi mắt ra biển chờ mình. Hai tuần sau ngài Alther chết, do viên đạn của ám sát binh.

      Bà Alice nhấc nến ra khỏi giá, đánh đá lửa và thắp nến lên. Ngài Alther theo bà Alice qua nhà kho, luồn lách qua những hẻm núi hẹp, tạc sâu hút vào giữa những núi hàng hoá cổ xưa cao ngất nghểu. Ánh sáng từ cây nến bà cầm run rẩy quăng bóng qua những chồng rương gỗ cũ nát, đồ gia dụng, đủ thứ hầm bà lằng, và cả toa xe khách trang trí công phu, với những bánh xe khổng lồ màu đỏ và hai con cọp nhồi bông được thắng vào xe. Ngài Alther giật nảy mình trước ánh mắt lấp loá bằng thuỷ tinh của đôi cọp, trông như trừng trừng nhìn ngài cách nhục mạ, ra điều ngài phải chịu trách nhiệm về số phận của chúng vậy.

      Nhà kho của bà Alice là trong nhiều nơi cũ mục nhất của Bến Càng, chất kín hàng hoá từ những con tàu ải mục theo thời gian, được mang tới Bến Cảng vì những người biển chết từ lâu, đoái hoài hoặc từ chối việc đóng thuế cho chúng nữa, phần lớn vì chúng nằm đó nhiều thế kỷ và số tiền thuế phải đóng còn lớn gấp nhiều lần giá trị món hàng.

      Sau nhiều khúc quanh và quẹo, bà Alice và ngài Alther tới được dãy cầu thang ở phía sau nhà kho. Tiếng chân bà Alice lua khua, dội vang những bậc sắt cao dốc khi bà leo qua các tầng lầu, mà lầu nào cũng két bụi đất tới tận mái trần cùng mạng nhện xen kẽ giữa của cải và rác.

      thể ngờ nổi sao em lại sống ở đống xà bần này, Alice,” ngài Alther trêu bà, “trong khi em dư sức có chỗ tươm tất Vũng Nhất của trưởng phòng Hải Quan.”

      “Cả em cũng thể ngờ,” bà Alice , hụt hơi, khi họ leo tới lầu năm và vẫn còn phải leo tiếp. “ phải làm gì đó với con ma già cứ lẽo đẽo bám theo em khắp nơi chứ.” Bà Alice dừng ở chiếu nghỉ tầng sáu để lấy hơi, dựa lưng lát vào chồng đĩa cao ngất làm bằng gỗ liễu của Trung Hoa cho ý nghĩ thông suốt hơn. “Tiếc là ngài bao giờ tới dự tiệc tùng của Hải Quan, Alther,” bà thở hồng hộc. “Vậy có phải em đỡ được bao nhiêu phiền toái .”

      “Lẽ ra dáng em thon gọn thế này đâu,” ngài Alther đáp, mỉm cười. “Trông em đẹp là nhờ chăm thể dục thế này đấy mà, Alice.”

      “Chao, cảm ơn, Alther. Em tin chắc là bây giờ mình được khen ngợi hơn là hồi ngài còn… à, còn…”

      “Sống, Alice. sao, em cứ từ đó. Hừ, lúc đó ta là tên ngốc. nhận ra, đến khi quá trễ.”

      Bà Alice biết phải đáp lại thế nào. Bà quay và chạy nốt quãng cầu thang cuối cùng lên tầng bảy, đẩy cánh cửa vào cái tổ chim cao tít của mình và bắt mình bận rộn nhóm bếp lò to xụ ở chính giữa sàn nhà.

      Ngài Alther trôi vào sau bà thoáng, bằng lối những bậc thang mà ngài cách đây nhiều năm, sau khi dì Zelda phát ra vài lá thư giấu sau ống khói ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm. Bã bất ngờ đến gặp ngài Alther, quả quyết cho rằng có gì đó rất quan trọng ở trong Nhà kho số 9 và bà muốn ngài giúp bà tìm ra nó. Khi ngài Alther hỏi dì Zelda xem chính xác nó là cái gì, bà chỉ trả lời rằng nhìn thấy nó bà biết ngay. Do bị dì Zelda nài ép dữ dội mà ngài Alther đồng ý thực phép Dò Tìm. Cuộc Dò Tìm đó khiến ngài mất ba tuần – mà sau đó ngài mắc chứng dị ứng bụi – lăn xả cùng với dì Zelda nhưng chẳng tìm được gì quan trọng theo như ngài thấy, ngoài cái tổ nhện nhiệt đới cực hiếm, kỳ dị quá trời ở đằng sau ống dẫn nước nông. Tới lúc đó dì Zelda thèm chuyện với ngài nữa. Sau này, khi giữa họ nảy sinh cuộc cãi vã, dì Zelda muốn trở lại đó tìm lần nữa. Thế nhưng, như nhiều thứ trong cuộc đời mình, ngài bao giờ thực được điều này.

      Và ngài Alther luôn cho toàn bộ quãng thời gian tìm kiếm đó là vô bổ, mãi đến những năm sau này, khi bà Alice cố tìm chỗ ở tại Bến Cảng mà con ma ngài Alther có thể tới thăm bà. Hồi còn sống ngài Alther đến nhiều nơi ở Bến Cảng, cho nên khi Nhà kho số 9 rao bán, ngài và bà Alice vui mừng khôn xiết. Bà Alice mua Nhà kho số 9, bao gồm cả hàng hoá trong đó, và dọn đến sống ở tầng cùng. Giờ ngài Alther có thể thăm bà Alice và thoải mái bay dạo khắp toà nhà mà sợ bị Hoàn Trả, điều ngài vốn sợ chết khiếp.

      tổ chim của mình, bà Alice đặt cây nến lên cái bàn lớn cạnh trong những cửa sổ nhìn ra ngoài cảng, ngài Alther đến bên bà và họ yên lặng ngồi sát bên nhau. Ở góc xa, trong bóng tối, Snorri hơi trở mình nhưng thức giấc. Bà Alice liếc nhìn thân hình nhắn nằm tấm thẳm Ba Tư dày, trùm vừa khít trong tấm chăn da sói, và mỉm cười. Bà mừng vì Snorri an toàn nhưng… cái gì thế kia?

      Trong khoảnh khắc quên mất ngài Alther là con ma, bà Alice nắm lấy cánh tay ngài. “Alther,” bà thầm, khi tay bà chơi vơi trong hư . “Alther, có gì đó ở đây. con thú. To lắm. Trời ơi, nhìn kìa.”

      Hai con mắt xanh lá cây phản chiếu ánh nến. Chúng gườm gườm nhìn bà Alice và ngài Alther.

      “Ối quỷ thần, Alice,” ngài Alther hoảng hốt. “Em có con báo ở đây.”

      “Ngài Alther, em nuôi báo đây. Hay bất cứ ở đâu. Em thích báo. Ối, nghe nó coi…” tiếng gừ trầm đặc lấp kín tầng cùng của Nhà kho số 9 khi Ullr Đêm đứng hẳn dậy bốn đệm chân, túm lông phía sau sổ nó dựng lên. Snorri thức giấc.

      “Yên, Ullr,” lào thào, thấy bóng bà Alice và ngài Alther nổi bật dưới ánh trăng và biết mình an toàn. Ullr Đêm gừ thêm tiếng cuối cùng nữa để thị uy. Xong nó lại nằm xuống bên chủ nhân, đầu tự gối vào chân, và leo nheo đôi mắt nhìn bà Alice và con ma cạnh bên bà. Snorri gác cánh tay lên tấm lưng mượt êm của nó và lại ngủ thiếp .

      “Em biết ấy có con vật vừa là báo vừa là mèo,” bà Alice lầm thầm. “Đáng lý ra ấy phải báo cho em biết chứ. Cánh lái buôn kỳ dị.”

      Ngài Alther mỉm cười trìu mến nhìn bà Hải Quan trưởng. Ngài cái cách bà Alice tỏ ra khắt khe, xù xì bên ngoài, chứ ra trong lòng bà hề có ý vậy. Nếu có ai gặp hoạn nạn, bà Alice đời nào đứng ngó. “Lại đứa trẻ bơ vơ của em nữa hả, Alice?” ngài hỏi.

      bị giam thuyền để cách ly kiểm dịch. Em thấy áy náy về việc đó quá, nhưng em biết phải làm sao? Dịch bệnh hoành hành khắp lâu đài như lửa cuồng. Chúng ta thể liều để nó lan tới đây.”

      “À, ừ… nhắc ta mới nhớ.” Lời bà Alice nhắc tới Lâu Đài bất đắc dĩ lôi ngài Alther trởi về thực tế, chứ đáng ra ngài có thể sung sướng ngồi với bà Alice bên cửa sổ, nhìn ra ánh đèn cảng suốt đêm rồi.

      “Có gì vậy, ngài Alther? Sao em cứ có cảm giác đây phải là tối lãng mạn chuyện trò dưới trăng?”

      Ngài Alther thở dài. “Ta tính như vậy đấy, nhưng có việc xảy ra.”

      Lại đến lượt bà Alice thở dài. “ ? Luôn luôn có việc gì đó sao?”

      “Alice à, làm ơn . Việc này rất nghiêm trọng. Ta cần trợ giúp của em.”

      “Ngài biết là ngài cần phải hỏi mà. Em có thể làm được gì?”

      “Ta cần Dò Tìm nhà kho từ tầng hầm tới tầng thượng. Ở đây có món ta cần tìm. Zelda và ta bao giờ tìm thấy nó cách đây nhiều năm, nhưng giờ ta là ma, ta nghĩ mình có thể tìm được.” ngài Alther thở dài. “Ta phải Xuyên Qua tất cả mọi thứ.”

      Bà Alice bàng hoàng. “Nhưng ngài rất ghét Xuyên Qua mà, ngài Alther. Và… èm, ngài biết ở đây có hằng hà sa số đồ vật. Cả núi xà bần ai biết được là cái gì với cái gì. Việc đó kinh khủng lắm. Trời ơi, việc này chắc là nghiêm trọng.”

      “Ờ đúng, Alice… rất nghiêm trọng. Em biết , sáng nay Septimus và Jenna… hả, cái gì ngoài đó đó?”

      Có tiếng đập rầm rầm ở ngoài đường phố dưới lầu, làm rung chuyển những tấm kính cửa sổ phòng bà Alice. Lúc họ lắng tai, tiếng động càng lúc càng dữ dội lớn hơn và bức bách hơn, cho đến khi nó chuyển thành những tiếng thịch, thịch, thịch đều đặn làm rung sàn nhà và dội vào cái bàn.

      “Đôi khi ta lo lắng cho em sống ở địa bàn phức tạp thế này.”

      “Cái bọn chè chén đêm khuya thôi, ngài Alther. Để em ra bảo họ im lặng.” Bà Alice thò đầu ra cửa sổ và kêu lên. “Ối, quỷ thần ôi, ít nhất phải là con báo.”

      “Cái gì phải là con báo?”

      con rồng.”

      “Rồng phải là báo?” ngài Alther đủng đỉnh lặp lại. Ngài cảm tưởng như bà Alice nêu mật mã.

      chung, ối. Rồng là rồng, và báo là báo. Thế thôi. Đừng hỏi em tại sao. Em tin là chúng ta nên ra mở cửa cho chúng vào trước khi chúng nghiền nát cửa thành từng mảnh.”

      “Ai? Cái gì?”

      “Con rồng, ngài Alther. Em bảo ngài rồi, có con rồng ở ngoài cửa.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :