Septimus Heap - Tập 2: Khinh Công - Angie Sage [Kỳ Ảo]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 43 Cú khinh công đầu tiên

      Bà Marcia ngồi chiếc ghế của Cathpole ở đầu cầu thang, giữ chặt quyển Vô Hiệu Hoá Hắc Thuật trong tay. Cánh cửa đỏ tía dẫn vào căn phòng của bà giờ lại bị Chốt Chặn lần nữa, nhưng lần này tất cả mọi người, ngoại trừ Khạc Lửa, đều ở ngoài cửa, lắng nghe những phép Tẩy Sạch Sâu, Khắc Phục và Kháng Hắc Thuật được tiến hành bên trong những căn phòng của bà Marcia. Bà Marcia, lo lắng vì cái vệt bẩn của DomDaniel bị Simon đá văng trúng con rồng , để Khạc Lửa ở lại cho thần chú Kháng Hắc Thuật tẩy rửa.

      Catchpole cảmt hấy mình hơi giống như vị chủ xị của bữa tiệc đáng sợ. Lọng cọng, cố tạo ra cuộc trò chuyện lịch . “Đây hẳn là chiêu Tẩy Sạch-trong-năm-phút phải, thưa quý bà Marcia?” hỏi, cố nhớ lại Thời biểu Tầy Sạch mà mình học tuần trước.

      “Năm phút,” bà Marcia quật lại cách dè bỉu. “ phải mất hơn năm phút để gột rửa hết cái dấu Hắc Thuật nhoe nhoét xịut tứ tung trong đó ấy chứ. Chưa kể cái bãi chiến trường con rồng đó gây ra. , phải dùng bùa vô hạn mới xong.”

      “Vô hạn. Lạy trời.” Catchpole á khẩu. hình dung ra cái viễn cảnh phải tiêu tốn hết phần đời còn lại của mình để lay lắt ở chiếu nghỉ mà gắng chuyện trò lịch với bà Marcia Overstrand. Nghĩ đến chẳng thấy có gì dễ chịu.

      câu niệm chú Vô Hạn kéo dài biết đền chừng nào,” bà Marcia cho biết. “Nó chỉ ngừng lại khi nào công việc hoàn tất. Đó là thứ mà có lẽ ngươi học hỏi được đấy, Catchpole – như ta nhớ lầm đề mục niệm chú Vô Hạn nằm ở trang chót hết của Thời biểu Tẩy Sạch.”

      “Ô… À, phải ạ. Giờ tôi nhớ ra rồi, bắt đầu nghĩ về nó đây, thưa quý bà Marcia,” Catchpole nuốt ực cách lo lắng, nhưng bà Marcia dường như chẳng đoái hoài đến . Bà còn khối điều cấp thiết hơn trong đầu.

      “Ngài Alther, tôi muốn ngài mang Weasal và mụ quản gia quỷ sứ của lão ta về đây. Tôi muốn chúng được giải đến đây ngay bây giờ. Tôi rất thích thú nghe xem chúng cần phải biện hộ kiểu gì.”

      “Được thế còn gì vui bằng, nhưng ta bị Hoàn Trả khỏi căn nhà đó,” ngài Alther lắc đầu ảo não. “Marcia, ta rất tiếc vì cho lời khuyên tệ đếnt hế. Ta ngờ là sau tất cả những gì Otto Van Klamff làm cho ta, con trai ông ta hoá ra lại lầm lạc thế.”

      “Tôi trách ngài, Alther à,” bà Marcia . “Tôi trách ngài Uan Brakket. Và Hugh Fox. Ngài cảnh bào tôi về Hugh Fox, và tôi nghe.”

      bị Vong ảnh hưởng mà,” ngài Alther trả lời. “ còn là nữa.”

      “Và tôi cũng lắng nghe Septimus khi Simon bắt Jenna ,” bà Marcia . “Tất cả những dấu hiệu sờ sờ ra đó nhưng tôi nhìn thấy.”

      thể thấy được, Marcia, thể,” ngài Alther trả lời. “Đó là điều khủng khiếp khi bị Vong ám.”

      Bà Marcia bất ngờ đứng dậy, và Catchpole chồm tới vồ chiếc ghế khi nó đổ nhào ra sau.

      “Hừ, ngài Alther à, Vong chết rồi, và giờ tôi thấy mọi thứ ràng. Và thậm chí cả khi còn bị Vong ám, tôi cũng đủ sáng suốt để biết là phải luôn để mắt tới nơi làm Két Nhốt Vong cho tôi. Và điều tôi biết chắc chắn rằng mặc dù chính Simon là kẻ vận chuyển những khúc xương đó trong suốt cả năm, nhưng giao chúng qua ngả cửa trước nhà Weasal. Đám Tai Mắt của tôi chưa từng thấy …”

      “Tai mắt của ?” ngài Alther hỏi. “Tai mắt gì?”

      “Mấy thằng bé cựu Thiếu sinh quân từ trại Tái định cư. Có vài đứa dễ thương muốn trở thành pháp sư…”

      “Dễ thương!” Septimus khịt mũi. “Chúng kinh khủng. Mỗi lần con đến đấy chúng đều réo chửi con đủ thứ đời.”

      “Ừm, ta bảo chúng phải đóng như . Ta muốn bất kỳ ai nghi ngờ. Chúng làm rất tốt. Ở ngoài cầu tàu suốt ngày đêm trong mọi thời tiết, chúng rất tận tuỵ. Chúng trở thành những pháp sư giỏi khi lớn lên.”

      ý nghĩ chợt loé lên trong đầu Septimus. “Có phải ta qua Đường Hầm Băng? Vậy là ta vẫn thường làm như thế.”

      “Suỵt!” Bà Marcia nhắc nhở. “ được trước mặt… Này, Catchpole, xuống bờ trước Rắn và đem Weasal Van Klamff với Una Brakket tới đây. Nhốt chúng vào phòng Kiên Cố ngoài đại sảnh cho đến khi sẵn sang gặp chúng. Sau đó ngươi bắt Hugh Fox và cùng làm tương tự. Hiểu ?”

      Catchpole cúi đầu và hướng ra cầu thang xoắn ốc, cảm kích vô cùng vì được miễn khỏi bổn phận của vị chủ tiệc.

      Vài phút sau tiếng rù rù báo hiệu rằng cánh cửa tự Tháo Chốt chặn. Cửa mở bung ra và mọi người bước vào căn phòng tinh khiết, được làm phép Khắc Phục và Tẩy Sạch tuyệt còn vướng víu tí Hắc Thuật nào. Ngay cả bà Marcia cũng lộ vẻ hài lòng – trong giây ngắn ngủi – cho đến khi bà thấy con Khạc Lửa ngồi tấm thảm Trung Hoa tốt nhất của mình.

      “Nó rải lòng khắp tấm thảm của ta,” bà Marcia tin nổi, thét lên. “Đồ quái đản!”

      Khạc Lửa lãnh đạm – nó bận mở ra lần đầu tiên đôi cánh của mình. Lớp lông tơ mềm bao phủ cánh rụng hết, để lại lớp bụi lông tơ xanh lá cây dày xộp tấm thảm của bà Marcia. Giờ đây Khạc Lửa bị niềm thôi thúc thể cưỡng lại được là phải vung cánh ra và bay lên – và bà Marcia biết đủ nhiều về rồng mà hiểu rằng gì có thể chặn nó lại được.

      “Chúng ta cần phải đưa nó ra bệ phóng ngay,” bà Marcia . “Ta muốn nó thử cú Khinh Công đầu tiên của nó ở đây.”

      “Bệ phóng gì?” Septimus hỏi, lúng túng.

      “Ối, cái bệ phóng cũ bên ngoài cửa sổ rồng ấy,” bà Marcia , vẩy bàn tay về phía cánh cửa sổ mà Simon lúc nãy làm phép Xui Khiến để mở ra.

      “À…” Septimus vỡ lẽ, cuối cùng cũng nhận ra tại sao lại có hình con rồng bay được khắc xíu trong rầm đỡ bằng đá phía cửa sổ.

      “Đừng lo,” bà Marcia . “An toàn mà. Tất cả các đời Pháp sư Tối thượng đều phải giữ lại bệ phóng đó – chẳng biết ai biết được khi nào tìh phải cần tới nó – mặc dầu chỉ có khi xui xẻo nó lại còn giúp cho những kẻ dốt nát như Simon Heap nơi để mà đáp xuống.”

      Khạc Lửa được dụ ra ngoài bệ phóng bằng hộp bánh quy mà Septimus tìm thấy dưới bồn rửa. Bánh bị ẩm và ướt nhoét nhưng điều đó dường như làm con rồng phiền lòng. Nó ngồi mãn nguyền bục gỗ, nhai bánh quy và quan sát toàn cảnh Lâu Đài, phơi bày ra bên dưới như bàn cờ Cản Bắt khổng lồ.

      Bên trong tháp Pháp Sư, cuộc thảo luận vẫn tiếp diễn.

      “Giờ , Septimus,” bà Marcia . “Ta muốn con làm bất cứ điều gì rắc rối với cú Khinh Công Đầu Tiên của con đâu. Con bay quanh tháp vòng và đáp xuống sân. Con có muốn Hoa tiêu ?”

      gì… gì ạ?” Septimus hỏi, nhìn ra cửa sổ và cảm giác như cẳng chân mình hoá thành thạch đông.

      “Rồng Draxx, quy tắc 16b, phần phụ lục viii : Hoa tiêu có thể được cần tới nếu /cậu/ tham gia vào việc thực cú Khing Công Đầu Tiên. Vì thế nếu con muôn Hoa tiêu, phải ngay, hoặc bao giờ.”

      “Hỏi là vô ích thôi, Sep,” Beetle vẻ xin lỗi, trong khi cố giúp bà Marcia đẩy cái đuôi rồng ra ngoài cửa sổ. “ còn giao kèo học việc với văn phòng Sao lục năm năm nữa. Nếu may mắn mỗi nửa tháng chỉ được nghỉ có ngày. Đừng nghĩ là thích hợp để làm Hoa tiêu đấy. Mà sau tất cả những chuyện này, nghĩ thà có việc làm còn hơn…”

      “Dĩ nhiên cậu có việc làm,” bà Marcia với Beetle. “ việc mà đến lão Hugh Fox cũng có được.”

      “Cám ơn bã,” Beetle lắp bắp.

      “Để em làm cho, Sep,” Jenna xung phong. “Em là Hoa tiêu của . Ý em là, nếu muốn có Hoa tiêu em làm.”

      chứ, Jen?” Septimus hỏi, tươi tỉnh lên chút với ý nghĩ rằng ít ra mình còn có người đồng hành khi ở cách mặt đất cả ba chục mét.

      chứ. Em rất vinh dự đấy.”

      Bên ngoài bệ phóng, Khạc Lửa kết thúc cái bánh quy cuối cùng và sau đó, để tránh lãng phí bất kỳ vụn bánh nào, con rồng nuốt luôn cái hộp. Nó hít hà khí buổi tối. Luồng điện mà mọi con rồng đều cảm nhận trước lúc Khinh Công lần đầu chạy rần rật trong người nó. Nó thở hồng hộc và quật mạnh đuôi xuống để chuẩn bị. Marcia và Beetle nhảy lùi lại kịp thời.

      “Con phải nhanh lên và leo lên , Septimus,” bà Marcia giục giã. “Con muốn nó cất cánh mà có con chứ hả - chúng ra muốn Lâu Đài bị tàn phá vì con rồng người cười trong ròng rã nhiều năm tới đâu đấy.”

      Septimus buộc mình phải trèo ra cửa sổ và đứng bệ phóng. Mày làm được mà, nó tự nhủ. Mày từng ở cái cây chin mươi mét, từng băng qua cây cầu rệu rạo tít gần nóc nhà bọn phù thuỷ và bay chiếc thuyền. Mày sợ độ cao. Dứt khoát sợ. Nhưng dẫu Septimus có tự nhủ cái gì chăng nữa, cẳng chân nó vẫn tập trung được và nó vẫn có cảm tưởng như chúng được làm từ thạch đông bị bỏ quên bên ngoài trong ngày hè nóng bức.

      “Nhanh lên, Sep,” Jenna thúc hối, leo lên bệ phóng theo sau. bé choàng tay qua vai Septimus và dẫn nó dọc theo bệ gỗ rộng. Septimus chao đảo thoáng khi nó cảm thấy gió thổi quanh đỉnh tháp Pháp Sư thốc vào tóc nó. “Ổn mà,” Jenna thầm. “Nhìn kìa, Khạc Lửa chờ leo lên kìa.”

      Septimus mảy may biết mình leo lên thế nào, nhưng ít giây sau nó ngồi cổ rồng, trong hõm ngay trước vai rồng. Dường như đó là chỗ tự nhiên để ngồi và nó cảm thấy an toàn cách đáng kinh ngạc. Những vảy rồng, mặc dù mượt mà, vẫn hơi gờ lên nham nhám để ngăn nó khỏi bị trượt; và những cái gai rộng chạy như bờm xuống mặt sau cần cổ cơ bắp của Khạc Lửa vừa khớp cách hoàn hảo với bàn tay nắm lại của Septimus.

      Jenna thoải mái cho lắm. “Nhích lên tí coi, Sep,” . “Em mém ngồi lên cánh nó rồi này.” Septimus gắng hết sức bình sinh nhích tới trước, và Jenna lọt vào chỗ hõm sau lưng nó.

      “Rồi,” ngài Alther , bay lều phều bên cạnh hai đứa. “Ba điều cần nhớ. Thứ nhất – cất cánh. Khi nó nhảy là nó sắp rơi xuống như hòn đá. Nhưng, hãy tin ta, cái đó chỉ chừng hoặc hai giây thôi. Cú Khinh Công Đầu Tiên bao giờ cũng khởi đầu như thế. Sau đó các con bay. Thứ hai – điều khiển. Đá bên trái để quẹo trái, đá bên phải để quẹo phải. Hai cái bên trái để xuống, hai cái bên phải để lên. Hoặc các con có thể bảo nó. Nó là con rồng sáng dạ, nó hiểu. Thứ ba – ta ở ngay đây với các con. Các con ổn mà.”

      Septimus gật đầu, màn hồi hộp bắt đầu.

      Bà Marcia và Beetle nhìn ra lo lắng bứt rứt. “Sẵn sàng chưa?” Bà Marcia hỏi.

      Septimus giơ ngón tay cái lên.

      !” Bà Marcia thét. “! Nào, Beetle, đẩy!”

      Cùng nhau, bà Marcia và Beetle xô con rồng cái mạnh. Rủi sao, họ chẳng tác động được chút gì – Khạc Lửa vẫn ngồi an vị bệ phóng.

      “Ồ, trời đất!” Bà Marcia thở hồng hộc, đẩy con rồng phát nữa. “ , đồ lười chảy thây!”

      Giống như kẻ nhảy cầu từ cao hối tiếc vì quyết định trèo lên tấm ván cao nhất của mình, và biết rằng chỉ có cách duy nhất để xuống, Khạc Lửa ì ạch lết tới trước, quặp chặp những ngón chân vào mép bệ phóng. lưỡng lự, con rồng dòm xuống quãng rơi thẳng đứng và nhìn chăm chú mảnh sân ở xa tít bên dưới. Septimus nhắm mắt lại và bám chặt vào. Đằng sau nó, Jenna cảm thấy đôi cánh rồng giật giật, nhưng có gì xảy ra.

      “Này, con rồng mất trí kia, đừng nghĩ là mày có thể dẫn xác trở lại vào đây, bởi vì đời nào mày vào được đâu!” Bà Marcia hét. “Và nếu mày biết cái gì tốt cho mày hãy ngay !” Vận tất cả sức mạnh, bà Marcia và Beetle tống phần đuôi rồng còn lại ra bệ phóng.

      Ánh mắt hoang mang của Khạc Lửa chuyển sang hốt hoảng. Bà Marcia chắc hẳn phải là rồng mẹ nhưng bà có khả nhiều phẩm chất từng khiến các rồng mẹ nổi danh lẫy lừng, và Khạc Lửa thấy khó mà phân biệt được với nhau.

      “Làm như ta bảo và bay ngay!” Bà Marcia quát lớn, và đóng sầm cửa sổ lại.

      Khạc Lửa làm như nó được bảo. Nó ném mình khỏi bệ phóng – và rơi như hòn đá. Xuống, xuống, xuống, qua tầng mười chín, mười tám, mười bảy. Qua tầng mười sáu, mười lăm, mười bốn, chúng lao thẳng đuồn đuột. Đến tầng thứ mười ba Khạc Lửa bỗng nhận ra mình phải làm gì. Đến tầng thứ mười hai nó tính toán cách làm thế nào để thực điều đó. Đến tầng thứ mười đôi cánh của nó bị mắc. Đến tầng thứ tám cuối cùng nó cũng giương được cánh ra và đến tầng thứ bảy đứng tim Khạc Lửa dang rộng cánh thành tán dù xanh lá cây khổng lồ, đón bắt khí và vung lên thành vòng cung tuyệt đẹp rồi lần nữa bay lên ngang tới đỉnh tháp Pháp Sư. Thò ra khỏi tháp là gương mặt trắng bệch của bà Marcia vỡ thành nụ cười rộng và Beetle reo lên tiếng mừng hú.

      “Ôi, tạ ơn trời đất,” ngài Alther lầm thầm, gần như trong suốt vì sợ hãi, lao vút lên gặp con rồng và những hành khách thất kinh của nó. “Ổn chứ?” Ngài Alther hét lớn, khó nhọc theo kịp tốc độ - bởi vì giờ đây, khi Khạc Lửa tìm thấy cánh của mình, con rồng bèn say sưa mê đắm trong cảm giác bay lượn, và nó lại bay nhanh.

      Septimus gật đầu.

      vòng quanh toà tháp, và đáp nó xuống sân trong,” ngài Alther thét lớn.

      Septimus lắc đầu. Ở đằng xa nó có thể thấy cái hình dáng đen bất bình thường là Simon Heap. Simon vừa mới nhảy qua những nóc nhà của dãy nhà tiếp giáp với bước tường bao quanh sân tháp và rơi xuống phía bên kia.

      , Khạc Lửa. Bắt lấy ,” Septimus thét lớn

      Chương 44 Khinh công lần cuối

      Ở dưới kia, bên trong xưởng đóng thuyền của Jannit, công việc bắt đầu Thuyền Rồng. Jannit kéo rồng ra khỏi nhà Thuyền Rồng, quay đầu lại rồi lật lưng rồng vào trong để rồng có thể nhìn ra thế giới bên ngoài. Đó là điều mà Jenna câu Nic** làm từ đêm trước, với cậu rằng chính rồng cầu làm như vậy. Nic**, vẫn còn khúc mắc với ý nghĩ rằng Thuyền Rồng cũng là sinh vật sống, khôn hiểu tại sao cái việc thuyền quay mặt về hướng nào lại quan trọng đến thế, nhưng Jenna cứ khăng khăng nài nỉ mãi.

      Từ chiếc thuyền kéo của mình, Jannit quan sát Thuyền Rồng bằng con mắt xét nét. Bà và Nic** cẩn thận bó nẹp cái cánh gãy lại và cố định nó vào thân thuyền, nhưng cái cánh nát bấy và thứ chất lỏng xanh lá cây trông quái gở rỉ rả chảy từ đó và xuống nước. Bản thân rồng trông khoẻ lắm. Vảy rồng héo hon, đôi mắt nặng sụp và cái đuôi rũ xuống yếu ớt. “Rồng trông được khoẻ,” Jannit gọi với lên chỗ Rupert Gringe, cùng với Nic** sàn Thuyền Rồng chỉ huy công việc.

      Rupert gật đầu. “ biết phải làm gì đây,” cậu ta làu nhàu. “Chắc là phải dùng tới mấy mớ xì bùa rác rưởi mới được.”

      Ba phátp sư, được Jannit chọn là những vị ít ấm ở nhất trong số mười ba vị mà bà Marcia phải tới để bảo vệ con thuyền, rú lên những tiếng phản đối. Quả đúng là xì bùa.

      Nic** gì. Cậu thích cái cách Rupert vừa về Thuyền Rồng, nhưng cậu nghĩ nó đúng. xưởng đóng thuyền bình thường mà hy vọng gì làm được cho cái Thuyền Rồng sống và hít thở cơ chứ?

      “Cái quái gì…” Rupert bất ngờ ré lên, bắt gặp cái hình thù chuyển động cao cao phía mình. “Có tên khùng nào đó vừa mới phi thân khỏi mái nhà. , phải – đồ khốn – bay!”

      Với cảm giác như bị chìm, Nic** ngước lên. “Simon,” cậu thầm. “Đó là Simon.”

      “Cái… Simon của cậu?”

      phải là Simon của tôi,” Nic** hét to đầy phẫn uất. “Nhanh lên, Rupert – rất nguy hiểm. Đem Thuyền Rồng trở vào trong mau.”

      Nhưng Rupert dường như bị thôi miên bởi hình hài đen thùi vừa phóng tòm xuống, qua những bức tường Lâu Đài và quạt loi choi như con quạ bị thương, bay cách chậm chạp về phía họ.

      “Đúng. Đó là Simon Heap đểu cáng,” Rupert vung nắm đấm và hét lên trời. “Cút khỏi đây, Heap. Hay là tao phải đến để kết liễu mày hả?”

      “Rupert,” Nic** rít ta. “Đừng làm nổi cáu.”

      “Làm nổi cáu? Tớ làm nổi cáu đây.” Rupert thét cao giọng về hướng Simon. “Thằng Heap kia! Đừng có nhảy tưng tưng như đứa con trong lễ hội Đông Chí chứ. Xuống đây và chiến đấu như đàn ông nào.”

      “Rupert, đừng.” Nic** nài nỉ. “Tránh ra. tung đòn Sét Đánh đấy.”

      “Ồ, cứ việc, dì Gertie của tao là nữ hoàng Sheba đấy. Tốt, tới kìa. Tiếp , Heap. Đừng mắc cỡ thế chứ. Ha ha!”

      Simon Heap gặp rầy rà to với bùa Khinh Công.

      Chỉ khi đường bay đến tháp Pháp Sư, gã mới nhận ra lão Trưởng phòng Sao chép Mật chẳng động tay động chân gì để nâng cấp cái bùa. Trước đó gã ta dám trở lại và đòi Hugh Fox sửa chữa bùa, bởi vì gã thể trễ cuộc hẹn với DomDaniel và màn mở đầu vị trí Đồ Đệ mới của mình. Simon ra hề biết rằng, dù gã có trở lại Hugh Fox cũng thể chữa bùa Khinh Công được – bởi vì tất cả những bảng mã và mật mã đều nằm cả trong cuốn Vô Hiệu Hoá Hắc Thuật.

      Simon vừa mới qua khỏi được những bức tường thành Lâu Đài và vận dụng tất cả công lực của mình để vẫn còn . Thuyền Rồng lọt vào tầm mắt gã và lần này Simon biết mình đời nào bỏ lỡ - lần thứ ba may mắn, gã lầm bầm mình, hoặc lần thứ ba may nếu đúng mày lại là cái đồ biến dị giữa chiếc thuyền và con rồng. Khi bay loạng choạng qua xưởng đóng thuyền, Simon lấy đòn Sét Đánh cuối cùng còn lại từ thắt lưng ra. Mới đây gã hết sạch đòn Sét Đánh, thế nhưng cái thằng Merrin những vô dụng mà còn tệ hại làm được thêm đòn mới – nhưng chuyện đó thành vấn đề. Chiếc thuyền lúc dễ tấn công nhất; lần này cách chi mà gã có thể bắn trượt được. Điều này dạy cho thằng oắt Rupert quặt quẹo về cái tội dám chửi mắng gã. Gã hạ hai con chim bằng hòn đá – thậm chí còn hơn thế nữa.

      Simon châm ngòi đòn Sét Đánh.

      tiếng thét kéo theo hai tiếng bắn nước ùm vang cả trung. Nic** vừa đẩy Rupert Gringe xuống hào nước và nhảy tòm theo sau. Tức tối vì mất cơ hôi trả thù Rupert Gringe, Simon ném mạnh đòn Sét Đánh. Nó vừa bay rền rĩ, vừa gầm gào lăn tròn trong khí. Bằng động tác quay người với tốc độ đáng ngạc nhiên, ba pháp sư cũng nhào mình xuống hào nước.

      Đòn Sét Đánh đụng Thuyền Rồng trúng ngay đuôi, sượt qua thân thuyền gỗ dát vàng tựa như con dao vạt qua miếng bơ và ngừng lại dưới đáy hào phát nổ, bắn cột nước bay vút lên trời. Giữa khối bọt nước và hơi nước xoáy trào, Thuyền Rồng từ từ biến mất và chìm xuống lòng hào.

      Jannit Maarten đứng há hốc miệng chiếc thuyền kéo, kinh khiếp trước những gì vừa xảy ra. ai, kẻ nào, dám khuấy động dám thuyền bè được Jannit chăm sóc. Bà nhặt lên thứ vũ khí gần nhất trong tầm tay, cây búa lớn, và vung mạnh về hướng Simon. Jannit vẩy cánh tay cú vô cùng mạnh mẽ và cái búa bay vèo lên , chỉ hụt Simon trong đường tơ kẽ tóc. Chiếc búa lại bay tiếp, uốn vồng lên, và con rồng trong chuyến Khinh Công Lần Đầu của nó từ đâu xồ tới, lách mình tránh được cú tên lửa lần đầu tiên (nhưng phải cuối cùng), nhờ vào tiếng thét kịp thời từ vị Hoa tiêu của nó.

      Simon cũng vừa trông thấy Khạc Lửa. Gã thể tin vào mắt mình – hay đúng hơn là con mắt độc nhất của mình, vì Simon vẫn còn mang băng che mắt sau cú bắn chính xác của Thằng Sói. Thằng em mạo danh của gã sao vậy nhỉ? Tại sao nó luôn xuất như đồng xu xui rủi, đúng vào lúc gã muốn thấy nó nhất? Và nó làm gì con rồng thế kia?

      Cú ra đòn trúng Thuyền Rồng của Simon khiến gã vênh váo tự mãn. Dẫu còn đòn Sét Đánh nào và phải đối phó với cái bùa Khinh Công láu cá, nhưng Simon cảm thấy mình bất khả chiến bại. dễ dàng – xoá sổ con rồng này rồi xoá sổ nốt con rồng kia và thế là xong. Vĩnh biệt thằng Học Trò ti toe và nàng Công Chúa bé .

      Simon phóng mình lên trung, nhắm đến Septimus trước tiên.

      Hoa tiêu thấy xông đến và hét lớn, “Xuống, Sep, xuống!” Septimus đá con rồng hai cái bên trái và Khạc Lửa bắt đầu rơi về phía rừng cột buồm tua tủa bên dưới.

      “Quẹo phải!” Hoa tiêu hét lớn. “Đáp xuống cầu phao!”

      Septimus đá cái bên phải kết hợp với hai cú bên trái và Khạc Lửa nhủi đầu xuống về phía cầu phao, nơi Jannit lôi chiếc thuyền kéo và dắt díu thoe ba pháp sư bám dọc bên hông thuyền.

      Simon có ý định dừng lại. Gã lao mình về phía Septimus, và phát ra bùa Khinh Công của nghiêng cách đáng báo động sang bên phải, và giờ hướng thẳng vào mũi Khạc Lửa. Mũi rồng là điểm nhạy cảm, đặc biệt là ở rồng con, và Khạc Lửa tử tế được khi bị ai húc mạnh vào. Theo bản năng, con rồng mở miệng ra để táp cái to vào Simon, và cú táp này chỉ bị chặn kịp thời bởi cái hắt hơi ghê gớm chưa từng thấy.

      “Hắắ… ắttt… xìììì!” Giống cái nút bần bắn ra khỏi chai xèo xèo vừa bị lắc dữ dội, dải nước dãi rồng ấm nóng, nhớt nhát giội vào Simon và ném gã nhào lộn trung. Nước dãi rồng là chất ăn mòn; nó trúng vào bụng Simon, quất tung gã, và trong vài giây, ăn phăng cái áo chùng, rồi áo chẽn của gã, xong đến chiếc thắt lưng đỏ có ba ngôi sao đen của DomDaniel. Simon trong cú nhào lộn thứ ba bùa Khinh Công tách ra khỏi thắt lưng và rơi oặt ẹo xuống đất, đáp tọt vào hộp đựng đồ nghề mà Jannit vừa mới dùng trước đó.

      Simon rớt khỏi bầu trời.

      suy nghĩ, Septimus hét lớn ra mệnh lệnh đầu tiên với con rồng của mình… “Cứu ta!”

      Khạc Lửa biết phải làm gì. Nó rơi như tảng đá, bắn về trước và hứng được Simon chỉ vài giây trước khi gã đâm xuống đất. Sau đó rồng đáp tiếng rợn người lên cầu phao, ngay điểm mà cánh của Thuyền Rồng còn nằm xoà ra ít phút trước. Hoa tiêu rơi bịch xuống và đứng dậy giận giữ.

      làm gì thế Sep?” bé chất vấn, nhảy xa khỏi Simon, gã nằm vắt lưng Khạc Lửa.

      Septimus trả lời. Nó nhìn trừng trừng vào Simon.

      ta chết chứ?” Septimus hỏi Jannit, bà kéo Simon ra khỏi Khạc Lửa và cố xem gã có phản ứng gì .

      Simon nằm trắng bợt và ngay đơ cầu phao, mớ áo thụng đen của gã lỗ chỗ những vết thủng do nước dãi có chất axit của rồng, mái tóc quăn vàng nhà Heap của gã bết mồ hôi còn hai mắt nhắm nghiền. Jannit quỳ xuống và áp tai lên ngực gã.

      ,” bà thầm. “Tôi có thể nghe thấy nhịp tim đập. Hắm chỉ bất tỉnh thôi.” Nghe thấy giọng của bà Jannit, mắt Simon giật giật và gã rên rỉ. “Này, mấy người kia,” Jannit hét lớn với đám pháp sư, “đến đây tỏ ra mình có ích chứ.”

      Ba pháp sư nước ròng ròng cũng vừa lúc đến bên Jannit. “Giúp tôi đưa vào nhà giam,” Jannit bảo họ.

      Jenna va Septimus nhìn mặt Jannit và ba pháp sư mỗi người cầm tay và chân của Simon khiêng gã qua xưởng đóng thuyền tới nhà giam – toà nhà bằng gạch bé xíu có cửa sổ bên cạnh bức tường Lâu Đài vẫn kiêu hãnh về cánh cửa sắt dày, chắc chắn, với ba chốt cửa nặng nề được tra dầu mỡ ướt đẫm.

      “Em vẫn hiểu tại sao lại làm thế, Sep,” Jenna cách gay gắt.

      “Làm gì?” Septimus hỏi, vuốt ve cái mũi bị thâm tím của Khạc Lửa.

      “Cứu Simon.”

      Septimus ngước lên nhìn Jenna, bối rối bởi giọng giận dữ của bé. “Nhưng còn có thể làm gì khác nữa Jen?” Nó hỏi.

      “Để rơi xuống. Nếu là êm em làm thế.” Jenna giận dữ đá viên sỏi xuống hào nước.

      Septimus lắc đầu. “Nhưng ta là trai ,” nó cách buồn bã.

      Chương 45. THÁP CANH

      Nic** khăng khăng đòi được đeo mặt nạ - đời nào cậu chịu để cho Rupert lặn xuống Thuyền Rồng mà có mình. Tuy nhiên cũng là nhờ có Jannit thuyết phục, vì trước đây Nic** chưa hề dùng mặt nạ bao giờ. Jannit phát minh ra cái mà bà gọi là mặt nạ kiểm tra để bà có thể kiểm tra thuyền bè của mình phía dưới ngấn nước. Đó là miếng thủy tinh hình quả trám được viền da mềm để vừa khít với khuôn mặt và buộc chặt phía sau đầu bằng dây da. Miếng thủy tinh cứng và dày, lại có màu xanh lá cây đậm, nhìn được lắm, nhưng thế vẫn còn hơn là cứ cố phải mở to mắt dưới làn nước quánh phù sa.

      Nic** là tay bơi cự phách. Hồi lũ con trai còn , Silas thường dắt bọn chúng ra khỏi Lâu Đài tới bãi cát hơi quá cầu Chiều chút, đó là nơi Nic** học bơi. Nhưng trước giờ Nic** chưa bao giờ lặn sâu dưới nước, và bây giờ, khi cậu và Rupert ráng vật lộn để nâng cái đầu cồng kềnh của Thuyền Rồng lên khỏi lớp bùn lên khỏi lớp bùn dưới đáy hào nước, Nic** phải tuyệt vọng mà hớp lấy hơi.

      Rupert giơ ngón tay cái lên ra hiệu và hai đứa cùng nhau ngoi lên bề mặt, nâng đầu rồng lên lần nữa. Jannit đợi chúng với sợi dây quàng lớn bằng vải bạt, bà nhanh chóng tròng dây vào đầu rồng để kéo khối nặng lên.

      “Giỏi lắm, các chàng trai,” Jannit , nhàng đỡ cái cổ và cái đầu rồng ủ rũ đặt lên bên bờ kênh đào, ở đó bà đặt sẵn tấm thảm Ba Tư duy nhất của mình để cho đầu rồng tựa vào.

      Jenna đứng nhìn. Septimus đưa Khạc Lửa trở lại tháp Pháp Sư, nhưng Jenna từ chối với nó. Septimus – vì muốn bay mà có Hoa tiêu của mình – phải dẫn Khạc Lửa qua các nẻo đường, khiến ai gặp cũng phải chú ý.

      Jenna quỳ gối bên cạnh cái đầu vấy bùn của rồng, tìm kiếm dấu hiệu của sống – nhưng tịnh có. Cái đầu nằm bất động và hai mắt nhắm nghiền, những mí mắt xanh lá cây nặng trĩu. Cẩn thận, Jenna phủi bùn khỏi đôi tai vàng, và bằng vạt váy của mình, bé chùi sạch phù sa đóng hai mí mắt có vảy, trơn trơn của rồng. chuyện với rồng như vẫn hay làm vậy, nhưng có hồi đáp. Chỉ có im lặng.

      Jannit ngồi xuống và nhìn vào cái đầu bằng con mắt nhà nghề. có dấu hiệu bị hư hại ràng, nhưng cho cùng, bà biết gì cơ chứ? Đây là con thuyền hay sinh vật sống? Nếu là sinh vật sống, liệu nó có thể thở dưới nước đựơc ? Và nếu thể, sinh vật này hẳn bị chết ngộp – hay nó bị đòn Sét Đánh giết chết rồi? Jannit Maarten lắc đầu. Chuyện này vượt quá tầm hiểu biết của bà.

      “Rồng…. chết rồi à?” Jenna thầm.

      “Tôi, tôi biết, thưa ,” Jannit trả lời, cảm thấy hơi khó xử khi Công Chúa lại quỳ gối bên cạnh mình, người bê bết bùn và nước mắt đầm đìa mặt. “Nhưng khi nào mấy cậu trai quàng được dây kéo xuống dưới thân rồng xong là chúng tôi đưa rồng lên khỏi mặt nước ngay lập tức. Chúng tôi làm lại thân của rồng tốt như mới.”

      “Nhưng bà có thể làm cho rồng mở mắt được ?” Jenna hỏi.

      “À… điều đó tôi dám chắc,” Jannit trả lời, bà bao giờ hứa bất cứ điều gì bà chắc chắn.

      Nhưng bỗng nhiên có cái gì đó khiến Jenna rất chắc chắn. biết tại sao, chỉ biết chắc chắn đó là – rằng rồng sắp chết và chỉ có dì Zelda mới có thể cứu sống được rồng.

      Jenna đứng dậy. “Có việc tôi cần phải làm ngay,” . “Bà có thể ở cạnh rồng cho đến khi tôi trở lại được chứ?”

      Jannit gật đầu và Jenna lao , băng ào qua xưởng đóng thuyền. bé phóng qua đường hầm ẩm ướt và ló ra phía bên kia, bươn vào những con đường ngập nắng của Lâu Đài. hộc tốc chạy lêy dãy cầu thang gần nhất dẫn lên gờ tường phía trong những bức tường của Lâu Đài, và hướng tới tháp canh cổng Đông. Đây là cơ hội cuối cùng của mình, Jenna nghĩ, trong lúc tất tưởi dọc theo gờ tường rộng, ràng là có quãng rơi dốc đứng ở bên. Mặt đá khô cứng của bờ rìa mòn và trơn nhẵn dưới chân Jenna, và hay hai lần trong lúc vội vã suýt nữa trượt chân, tí nữa rơi . Chậm lại, Jenna tự bảo mình – chẳng có ích lợi gì cho Thuyền Rồng nếu mi rơi xuống đó.

      Tường thành Lâu Đài ngoằn ngoèo và quẹo ôm theo những ngôi nhà lộn xộn, mọc thành từng cụm. Jenna dán chặt mắt vào tháp canh nhô lên khỏi bức tường thành ở phía xa xa và nhìn về phía cánh rừng. giữ cho nhịp bước đều đặn và chẳng bao lâu thấy mình đứng dưới chân tháp, nóng bức, mặt đỏ gay và hết cả hơi.

      Jenna mất vài phút để lấy lại hơi, hít phải cái mùi chua lợm bốc lên từ những thùng rác xếp hàng bên cạnh cánh cửa gỗ dẫn vào tháp.

      tấm biển mờ căm treo cánh cửa:

      VĂN PHÒNG KHÁCH HÀNG

      DỊCH VỤ CHUỘT ĐƯA TIN

      CÓ SẴN CHUỘT ĐƯA TIN ĐƯỜNG DÀI, MẬT, THUÊ BAO

      MỞ CỬA MỌI LÚC

      Bên dưới tấm biển đó treo tấm biển mới hơn nhiều:

      ĐÓNG CỬA

      Jenna quyết để bị trì hoãn – bé đẩy cánh cửa gỗ cái mạnh và gần như ngã nhào vào căn phòng tối om.

      biết đọc à? Chúng tôi đóng cửa,” giọng cằn nhằn đón từ nơi nào đó trong bóng tối.

      “Tấm biển đề MỞ CỬA MỌI LÚC,” Jenna chỉ ra.

      “Và tấm kia thông báo rằng ĐÓNG CỬA,” cái giọng đó vặn lại. “Và giờ chúng tôi đóng cửa. có thể trở lại vào ngày mai, Giờ, xin thứ lỗi, tôi chuẩn bị khóa cửa đây.”

      “Ta cóc quan tâm,” Jenna . “Ta muốn Chuột Đưa Tin và ta muốn con ngay. Khẩn cấp. Đó là vấn đề sống còn.”

      “Ồ, ai cũng kiểu đấy,” con chuột cách thô bạo, nhặt cặp táp lên và ra cửa. Jenna bước chặn đằng trước con chuột – sinh vật màu nâu đẫy đà. Con chuột ngẩng lên và lần đầu tiên nó thấy người mà nó chuyện nãy giờ là ai. Nó nuốt nước miếng. “Ối,” nó thốt lên. “Tôi… Ừm… Tôi nhận ra đó là Người. Thưa Công Chúa. Thành xin lỗi.”

      có chi. Chỉ cần gởi tin , được ?” Với Jenna vẫn chặn cửa, con chuột trở lại bàn làm việc của mình và mở cặp táp ra, lướt nhìn qua danh sách những cái tên và lắc đầu.

      “Thưa Công Chúa,” con chuột vẻ tiếc rẻ, “ có gì tôi muốn làm hơn là việc này, nhưng tất cả chuột đưa tin đều rảnh. Chính vì vậy chúng tôi mới phải đóng cửa. Sớm nhất tôi có thể có con cho Người là sáng mai…”

      “Sáng mai quá muộn,” Jenna cắt ngang.

      Con chuột già lộ vẻ lo lắng. “Tôi rất lấy làm tiếc, thưa Công Chúa. Dạo này chúng tôi ở trong thời kỳ khó khăn do bệnh dịch lan truyền qua những ống thoát nứơc thải, việc này lấy mất vài con chuột trẻ giỏi nhất của tôi, còn giờ nửa số nhân viên của tôi nghỉ mát. Và rồi chúng tôi có rất nhiều cuộc gọi đường dài mà chúng tôi cách chi đếm xuể…”

      “Thế ta lấy chuột mật vậy, ” Jenna . “Stanley có sẵn ở đây ?”

      Con chuột trông ngây thộn ra. “Chuột Mật?” Nó hỏi. “Tôi rất tiếc, nhưng có chuột như thế.”

      “Hả, đừng có giả ngố,” Jenna gắt lên điên tiết. “Dĩ nhiên là có. Ta biết.”

      Con chuột ngoan cố. “Tôi biết Người về cái gì,” nó . “Giờ tôi phải chờ thôi, thưa Công Chúa. Nếu tôi phái Chuột Đưa Tin đến Cung Điện ngay sớm mai liệu có giúp ích gì ?”

      kiên nhẫn của Jenna cạn kiệt. “Này,” đanh thép, “Ta muốn Chuột Mật và ta muốn con ngay bây giờ. Đó là mệnh lệnh. Và nếu ta con có Sở Đặc Nhiệm Đưa Tin Mật nữa. Huống hồ là Sở Bưu Chuột. Hiểu chưa?”

      Con chuột nuốt ực cái và xê dịch đống giấy tờ của nó. “Tôi… tôi gọi khẩn cấp ngay,” nó . Sau đó trước ngạc nhiên của Jenna, nó chồm người ra ngoài cửa sổ bên cạnh bàn làm việc và hét, “Stanley! Này, Stanley! Đưa cái đuôi chuột của xuống đây! Ngay tức khắc!”

      Ít giây sau Stanley xuất ở cửa sổ. “Giữ lông ông lại coi, Humphrey, gì mà hệ trọng dữ vậy?” Và rồi, chợt trông thấy Jenna, chú chàng thốt lên, “Ồ.”

      cầu đặc biệt dành cho đây, Stanley,” con chuột già vẻ hơi biết lỗi.

      “È,” Stanley , nghe hơi kém nhiệt tình.

      Jenna để mất thời gian. “Stanley,” , “tôi muốn đưa tin khẩn đến cho dì Zelda. Dì cần phải đến đây ngay lập tức. Dì là hy vọng duy nhất của tôi để…”

      Với cử chỉ quen thuộc, Stanley giơ chân lên. “,” nó kiên quyết.

      “Cái gì?” Jenna . Thậm chí Humphrey cũng sốc.

      “Tôi rất tiếc,” Stanley , bước từ cửa sổ qua bàn làm việc. “Tối nay tôi sẵn sàng.”

      “Đâu có,” Humphrey .

      “Có, có chứ,” Stanley cãi lại. “Dawnie cầu tôi ở nhà dùng bữa tối. Tôi hiểu rằng ấy và chị có bất hòa. Tôi học được bài học rồi. Trong quá khứ tôi để công việc lên hàng đầu và Dawnie là thứ hai. Nhưng giờ thế nữa.”

      “Nhưng…” Jenna phản đối.

      “Tôi biết gì, thưa Công Chúa, và tôi rất lấy làm tiếc – nhưng tối nay Dawnie là hết, thậm chí có mất việc chăng nữa tôi cũng . Và bây giờ, nếu tha lỗi cho tôi, tôi muốn chọn vài bông hoa từ thùng rác của người bán hoa trước khi nó trống rỗng.” xong Stanley cúi đầu chào khẽ rồi bước ngang qua Jenna, đầu ngẩng cao. Chết điếng người, Jenna giữ cho cửa mở để con chuột qua và nhìn nó nhảy xuống khỏi rìa tường và biến mất qua mái nhà.

      “È,” Humphrey , “Tôi biết phải gì…”

      “Khỏi,” Jenna , “Ta cũng biết luôn. Đó là hi vọng cuối cùng của ta. Nhưng dù sao tao cũng nghĩ dì Zelda thể đến đây cho kịp nữa. Ta nghĩ là còn nhiều thời gian nữa. Chúc ngủ ngon.”

      “Chúc ngủ ngon, thưa Công Chúa,” Humphrey , khi Jenna yên lặng đóng cửa lại và quay về xưởng đóng thuyền.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 46. TRONG NHÀ GIAM

      Bên trong nhà giam, Simon Heap mở mắt ra và rên rẩm. Mất lúc gã nghĩ là mình ở Hầm ngục số , nhưng sau đó gã nhận ra có tia sáng lọt qua cửa sổ bé tí có song chắn và Simon cả người. Hầm ngục số bị làm phép Niêm lại trong bóng đêm rồi cơ mà, và chỗ gã ở vào lúc này đây, dù có là đâu chăng nữa, dù có bốc mùi gớm ghiếc đến mấy chăng nữa, cũng còn lâu mới bằng hầm ngục. Simon từng được Bảo hộ Toàn quyền chỉ cho thấy hầm ngục số , và gã bao giờ quên.

      Uể oải, Simon ngồi dậy. Đầu gã đau như búa bổ và bụng gã như bị bầm dập kinh khủng, nhưng theo như gã biết rất có cái xương nào bị gãy. Gã hơi hoang mang về những lổ thủng khổng lồ áo chẽn của mình, cho đến khi, chợt lóe lên, tất cả trở về với gã. Con rồng… thằng ranh con… và bùa Khinh Công – tiêu hết. Simon lại rên rẩm. Gã là kẻ thất bại. thất bại thảm hại. chỉ có bà Marcia bao giờ cầu gã làm Học Trò, mà giờ đây hóa ra cả lão DomDaniel đó cũng bao giờ muốn gã nữa – mà lại sau tất cả những gì gã làm cho lão cơ chứ. Hết thu thập những khúc xương lầy nhầy kinh khiếp của lão đến thực những chuyến vô tận đến văn phòng Sao lục cùng với mớ xương đó, rồi phải đối phó với gã Hugh Fox khinh khỉnh học đòi, kẻ luôn chĩa cái mũi vừa nhọn vừa dài ra mà dè bỉu, xong phải lại như điên trong Đường Hầm Băng để chuyển giao những khúc xương cho mụ đàn bà ma quái, Una Brakket, rồi lại còn phải bảo đảm chắc chắn lão Weasal bao giờ trông thấy mình. Thỉnh thoảng đích thân gã còn phải giúp mụ ta đặt những khúc xương thổ tả đó vào trong hợp chất, để mụ rảnh chân đến cho kịp giờ những cuộc nhảy nhót kiểu đồng quê. Gã quả là thằng ngu hết biết. Và rồi, hết, thằng em vờ vịt của gã bỗng đâu xuất con rồng. Thằng đó là cái gì chứ - chỉ mới mười tuổi đầu - ấy thế mà nó chỉ là Học Trò của Pháp sư Tối thượng, mà giờ đây lại còn sở hữu hẳn con rồng chết dẫm nữa chứ. Nó làm cách nào vậy?

      Simon ngồi bệt dưới sàn nhà giam, buồn bã than thân trách phận. ai muốn gã. cái gì suôn sẻ đến với gã bao giờ. Cuộc đời chó má và công bằng với gã.

      Sau hồi để cho cảm giác điên giận quen thuộc chiếm lĩnh mình, Simon đứng lên và bắt đầu nhìn quanh quất nhà giam. Gã cho bọn chúng thấy bọn chúng thể thuần hóa được Simon Heap này đâu – gã ra khỏi chỗ này trong tích tắc. Nổi xung thiên, Simon xô cánh cửa, nhưng nhằm nhò gì, ngoại trừ tiếng thầm khiếp đảm.

      cố thoát ra…”

      “Chúng ta làm gì bây giờ?”

      vô cùng nguy hiểm phải?”

      “Này, đừng trẻ con thế, Brian.”

      “Hai người thôi cãi vặt . Pháp sư Tối thượng có mặt ngay bây giờ.”

      Simon cười khì. Ờ, cứ để mụ ta tới, nhưng gã ở đây để nghênh tiếp mụ ta đâu. Bởi vì Simon Heap đây vừa mới nhận ra mình ở đâu.

      Cách đây nhiều năm, Jannit mở rộng xưởng đóng thuyền của mình để tiếp nhận bến hải quan cũ của Lâu Đài bị bỏ phế. Nhà giam gạch này, vốn được dùng để nhốt những thủy thủ say rượu và những kẻ khả nghi cập bến tới Lâu Đài, là phần duy nhất còn tồn tại của trạm hải quan cũ, và Jannit giữ nó để cất giữ dụng cụ quý giá hơn của mình. Căn nhà vẫn còn cánh cửa sắt nặng nề với ba cái then chắc nặng ở bên ngoài và chiếc chìa khóa đồng khổng lồ cắm trong ổ khóa. Simon sẵn lòng đánh cuộc rằng căn nhà này vẫn còn cửa sập dẫn vào trong Đường Hầm Băng.

      Simon quỳ xuống và nhanh chóng bắt tay vào việc di chuyển những khối đất tích tụ nhiều trăm năm ra khỏi sàn nhà. May thay, Jannit chu đáo để lại cho gã cái xẻng khá tốt, và nó giúp Simon mất nhiều thời giờ trước khi cái xẻng đập trúng tấm kim loại khoảng ba tấc bên dưới mặt sàn.

      Cửa sập được ếm bùa Niêm dễ dàng bung mở ra dưới đôi tay đầy kinh nghiệm của Simon. luồng gió lạnh ngắt ập lên đón gã, và Simon trượt qua cửa sập, chui xuống dưới bầu khí lạnh lẽo quen thuộc của Đường Hầm Băng.

      Toàn bộ quân số đầy đủ mười ba pháp sư – nhờ Jannit tức tốc triệu tập mười vị khác từ cầu tàu câu cá bên ngoài xưởng đóng thuyền – vây kín nhà giam theo đúng bổn phận khi bà Marcia hành quân vào xưởng đóng thuyền, được tháp tùng bởi Sarah và Silas Heap.

      Sarah và Silas cứ nằng nặc đòi gặp thằng con cả của mình. thể tin những điều mà bà Marcia , họ quyết định gặp tận mặt nó. “Ít ra, ” Sarah “lần này nó phải ngồi và lắng nghe chúng tôi. Nó thể lẩn trốn như nó vẫn hay vậy.”

      Jannit hộ tống phái đoàn đến nhà giam, dáng người dẻo dai rắn chắc của bà có phần bị lấn lướt bởi bà Marcia trong bộ áo thụng lụa đỏ tía, cuồn cuộn quanh thân trong cơn gió buổi tối mùa hè.

      “Tới rồi, thưa quý bà Marcia,” Jannit khi họ dừng lại bên ngoài vòng tròn pháp sư. “ ở trong đó. Chúng tôi tống vào đấy chừng hai giờ trước và chắc chắn lúc này tỉnh dậy rồi. Bị con rồng mà tấn công đập cú ác hiểm vào đầu.”

      “Trời ơi,” Sarah lo lắng xót xa, “tôi ước gì nó làm những điều ngu ngốc này.”

      “Ta chắc chắn tất cả chúng ta đều ước điều đó, Sarah,” bà Marcia cách nghiêm nghị. “Nhưng may là nó quá xa, dừng lại ở mức ngớ ngẩn nữa rồi. Giờ là mức cố ý mưu đồ xấu xa quỷ quyệt đúng hơn.”

      “Ôi, Silas,” Sarah than khóc. “Chúng ta phải làm gì đây?”

      “Chúng ta phải chuyện với nó, Sarah à” Silas để an ủi. “Và lắng nghe xem nó phải gì. Thôi đừng lo lắng nữa – chúng ta thể làm gì hơn đâu. Simon giờ trưởng thành rồi.”

      Hai pháp sư đứng bên cánh cửa đứng lùi về sau cách kính cẩn cho Pháp sư Tối thượng bước qua. Jannit tháo phăng chốt cửa, vặn chìa khóa đồng thau nặng nề trong ổ khóa và kéo mở cánh cửa sắt dày.

      “Simon!” Sarah , xông vào nhà giam trước khi bất kỳ ai có thể cản bà lại. “Simon… Simon?”

      “Bà biết là có cái này chứ?” Bà Marcia cật vấn khi Jannit Maarten nhìn vô hồn vào ô cửa sập bằng kim loại bóng loáng ở chính giữa sàn nhà bẩn thỉu của nhà giam.

      ,” Jannit cộc lốc. Bà thích cách năng của bà Marcia và lại càng thích có thêm chuyện rắc rối xảy ra trong xưởng đóng thuyền của mình mà mình biết gì về nó.

      “Cái… cái gì vậy?” Sarah hỏi, bíu chặt vào Silas để dựa dẫm, quẫn trí vì lần nữa Simon lại chạy trốn.

      gì cả.” bà Marcia lẹ. “ chị cần phải biết gì nữa. Ta muốn cửa sập này được niêm lại. Ngay. Ngài Alther đâu?”

      Ngài Alther Mella bay phấp phới tới chỗ bà Marcia.

      “Ngài Alther, còn bất kỳ Cổ Nhân nào từng vào đường hầm đó ? Tôi muốn từng cửa sập được canh giữ cho đến khi tất cả dấu Niêm đều được kiểm tra.”

      “Cổ Nhân duy nhất thích hợp, người lẩm cẩm hoàn toàn, ở cửa sập tháp Pháp Sư. Marcia,” ngài Alther . “Bản thân ta chưa bao giờ xuống đến đường hầm đó. Hồi đó chẳng ai làm thế cả.”

      “Và thời nay cũng ai nên vào đấy, thưa ngài Alther. Ngoại trừ lão thư ký thanh tra. Cái lão Hugh Fox đó có rất nhiều câu hỏi cần phải trả lời.” Bà Marcia suy nghĩ lát. “Ngài Alther, ngài làm ơn dẫn pháp sư xuống văn phòng Sao lục và mang ít sáp niêm lại đây được chứ? Ít nhất chúng ta có thể niêm cái cửa sập này lại.”

      “Xin lỗi,” Jannit ngắt ngang, “xà lan bến cảng đến. Tôi chờ nhận hàng.” đoạn Jannit quầy quả biến ra khỏi cầu phao để đón chiếc thuyền dài hẹp chất đầy những hộp với giỏ cao nghều nghệu

      Jenna – người chẳng bao giờ muốn ở cạnh Simon Heap dù chỉ xíu xiu – trở về với Thuyền Rồng, vuốt ve đầu rồng và lẩm bẩm những lời khích lệ vào tai rồng, tuyệt vọng tìm kiếm dấu hiệu của sống, trong khi Nic** và Ruper hì hục đặt hai dây quàng khổng lồ bằng vải bạt bên dưới thân thuyền bị hủy hoại. Khi xà lan bến cảng áp sát cầu phao, Jenna liếc lên và thấy Jannit chụp lấy dây thừng và cột xà lan vào hai cây cọc buộc thuyền lớn. Sau đó, kinh hãi, bé còn thấy thứ khác, hay đúng hơn, người khác – người lạ mặt đen từ bến cảng.

      Người đàn ông cao lớn đứng đĩnh đạc sàn thuyền, thận trọng và đợi để nhảy lên bờ. Mái tóc đen dài của ông ta được giữ trong mảnh băng buộc đầu màu bạc và chiếc áo chẽn tơ lụa đỏ tía của ông trông nhàu nhĩ và vương bụi đường xa. Jenna sợ cứng cả người. bé chuồn ra núp phía sau đầu Thuyền Rồng và nghe giọng nhấn trọng nhàng của người lạ mặt hỏi Jannit, “Xin lỗi bà, nhưng tôi biết rằng có thể tìm thấy Công Chúa ở quanh đây. Có đúng thế ạ?”

      “Và ông là ai?” Jannit hỏi cách ngờ vực.

      Người lạ mặt lảng tránh. “Chỉ là người tìm Công Chúa,” ông ta trả lời. Bất ngờ mắt ông chộp được cảnh chộn rộn bên nhà giam. “Đằng kia có phải là Pháp sư Tối thượng , thưa bà?” Ông hỏi.

      “Có lẽ,” Jannit , bận tay cột cái nút thừng.

      “Xin lỗi, tôi phải gặp ông ấy.”

      “Bà ấy,” Jannit sửa lại, nghe thấy tiếng người lạ mặt bước khỏi.

      “Xin lỗi,” người lạ cất cao giọng khi ông đến gần nhóm người bên nhà giam. “Tôi thắc mắc hiểu có thể chuyện với Pháp sư Tối thượng ?”

      Bà Marcia quay lại và người lạ mặt trông có vẻ bối rối. Ông dừng lại chốc và luống cuống lục lọi túi áo chẽn của mình, tìm kiếm cái gì đó. “Ngài Alther?” Ông . “Ngài Alther, phải là ngài ?”

      Bà Marcia khôgn trả lời. Trông bà trắng bệch.

      “Aha, tìm thấy rồi.” Với vẻ hân hoan, người lạ mặt lôi ra cặp kính bằng vàng khỏi túi áo và cẩn thận đeo kính lên. Nét mặt ông chuyển sang kinh ngạc.

      “Marcia Overstrand,” ông thốt lên, “Pháp sư Tối thượng! Ồ, ồ, ồ. ”

      “Milo?” Bà Marcia hỏi xíu. “Milo Banda? Là ông đó sao?”

      Người lạ mặt dường như mất tự chủ. Ông gật đầu thốt nên lời, và trước hoảng sợ của Jenna, bà Marcia choàng tay ôm ông nồng nhiệt. “Ông ở đâu tự bấy đến giờ?” Bà hỏi. “Chúng tôi cứ nghĩ chắc là ông chết rồi.”

      Khi bà Marcia buông người lạ mặt ra, tiếng hét lớn từ kênh đào vọng lên – Nic** vừa đánh rơi trong những dây quàng bằng vải bạt xuống nước.

      Lần đầu tiên bà Marcia trông thấy tình trạng khủng khiếp của Thuyền Rồng. “Jannit!” Bà thét lên. “Jannit… chuyện gì thế này?”

      Jannit muốn trả lời. Bà cương quyết nâng Thuyền Rồng lên trước khi đêm xuống, và đám pháp sư chộn rộng trong xưởng đóng thuyền của bà đủ để làm bà vướng chân vướng cẳng đến hết đời rồi. cách mệt mỏi, bà , “ lấy dây quàng khác, Nic**? Sau đó chúng ta thử lại lần nữa.”

      Jenna nhìn bà Marcia chào đón người lạ mặt đen với ngờ vực càng tăng cao. Và khi bà Marcia bắt đầu ngang qua xưởng đóng thuyền về phía Thuyền Rồng, với người lạ mặt theo, bé dợm đứng lên. kịp để ai ngăn mình lại, Jenna vội hướng tới đường hầm và lỉnh ra khỏi xưởng đóng thuyền.

      Chương 47. PHÒNG NỮ HOÀNG

      Jenna chạy bạt mạng qua những con hẻm và những hành lang, hướng về Cung Điện. Trong tay bé nắm chặt chiếc chìa khóa vàng mà bà dì Zelda đưa cho , chìa khóa đến phòng Nữ Hoàng. tệ hết sức là biết được phòng Nữ Hoàng nằm đâu, và tệ hơn nữa là ở đó biết đâu lại chẳng có gì để cứu được Thuyền Rồng. Nhưng chỉ còn mỗi đó là cơ hội cuối cùng, bởi vì bà Marcia ràng là có quen thân với người lạ nọ và như thế thể tin được.

      Giờ đây Jenna hiểu được cảm giác của Septimus khi bà Marcia tin là Simon bắt cóc . bé quẹo ào vào góc đường và tông thẳng vào con Khạc Lửa.

      “Úi!”

      “Jen!” Septimus kêu lên ngạc nhiên. “ tưởng em ở đó với Thuyền Rồng chứ. định đến gặp em đây. Nhưng con Khạc Lửa cứ chịu ở trong sân. Nó ăn gần hết cái cũi rồng mà mấy phó pháp sư làm cho nó, xong…” Septimus đột nhiên ngừng lại, nhận thấy vẻ hớt hơ hớt hải của Jenna. “Này Jen, chuyện gì vậy?”

      “Ồ, Sep, rồng… rồng chết mất. Mà bây giờ người lạ mặt ngoài bến cảng – ông ta ở đây. Ông ta đến để bắt em!”

      “Cái gì?”

      “Tệ hơn nữa là bà Marcia lại quen biết ông ta! Bà ấy vui mừng khi gặp ông ta nhé. Bà ấy ôm ông ta.”

      Septimus bị sốc. Bà Marcia chưa bao giờ ôm bất cứ ai. bao giờ.

      “Sep, với em. Em đến Cung Điện. Em định tới phòng Nữ Hoàng. Biết đâu, biết đâu đấy, có gì ở đó cứu được Thuyền Rồng. loại độc dược hay gì đó… em biết. ”

      “Ừ, cũng nên thử xem. Lẹ lên, Khạc Lửa. Lối này. , lối này. Đợi , Jen, em biết phòng Nữ Hoàng ở đâu mà.”

      “Em biết, nhưng dì Zelda em tìm thấy nó vào Thời Điểm Thích Hợp. Biết đâu Thời Điểm Thích Hợp là đúng lúc này.”

      Jenna và Septimus tiến nhanh cho đến khi tới được nửa đường Pháp Sư, lúc đó Septimus rớt lại đằng sau để cho Khạc Lửa, con rồng vừa mới khiến cho Septimus phen lúng túng. Jenna dừng lại để xem cái gì giữ chân Septimus lại và thấy Septimus ngẩn người ra nhìn đống phân rồng to tướng ngay giữa đường Pháp Sư, tự hỏi phải làm gì đây. Septimus quyết định điều tốt nhất cần làm là phớt lờ và tiếp.

      “Này, có rồng kia!” giọng thét lên đằng sau. Septimus quay lại, thấy người đàn ông ốm ròm, vẻ nghiêm chỉnh, mặc áo chẽn sợi nhà dệt đuổi theo mình với cái bao và cái xẻng. Người đàn ông đuổi kịp nó và ấn hai món đồ vào tay Septimus. “Hội Bảo Tồn đường Pháp Sư… Nhân viên Cưỡng chế Kẻ làm bẩn đường phố,” ông ta thở phù phù. “ là đáng sỉ nhục khi làm bẩn con đường. Làm ơn dọn dẹp đồ thải của con vật đó rồi mang cùng với cậu.”

      Septimus ngờ vực nhìn vào cái bao mà người đàn ông vừa dúi vào tay mình. “Được,” nó , “nhưng cháu nghĩ cái bao này đựng được hết.”

      Septimus bận rộn với cái xẻng trong khi Jenna mất kiên nhẫn giữ cho cái miệng bao mở ra.

      ****

      Mặt trời lặn, và Billy Pot đẩy cỗ máy kỳ quặc của mình cất sau ngày cố gắng đặc biệt – lũ thằn lằn cỏ lại giở chứng. Vẻ mặt ông ta bỗng hơn hớn khi trông thấy Jenna, Septimus và Khạc Lửa qua bãi cỏ. Billy Pot lần ngửi thấy mùi phân rồng trong khóa học cấp Chứng chỉ Nuôi giữ Thằn Lằn và bao giờ quên cái mùi ấy – ra gần như ai cũng vậy, từng lần ngửi thấy phân rồng bao giờ quên được nó.

      “Cảm phiền, thưa cậu chủ,” Billy Pot mở lời, chạy tới chỗ Septimus. “Xin thứ lỗi cho tôi vì quá táo tợn, nhưng tôi thắc mắc… ờm, tôi tự hỏi liệu cậu có thể để lại cái đồ chứa trong bao đó của cậu hay . Tôi biết ơn mãi mãi. có gì bằng đặt phân rồng ở vị trí chiến lượng để giữ cho thằn lằn vào khuôn khổ trật tự. Và tôi rất tuyệt vọng – kể từ khi con ngựa đó chạy ngang qua cỗ máy kỳ quặc bọn thằn lằn thể kiểm soát được và…”

      “Ừ,” Septimus . “Cầm lấy. Làm ơn.”

      “Cậu biết đấy, thưa cậu chủ, tôi vẫn hằng mơ ước có ngày được đặt tay mình lên ít phân rồng. Chỉ dám mơ thôi. Nhưng ai mà có thể tìm thấy con rồng vào thời nay chứ? Đó là cơn ác mộng cho Người Giữ Thằn Lằn như tôi. Ác mộng.” Billy Pot lắc đầu buồn thảm. “Nhưng dĩ nhiên nếu cậu muốn bỏ bãi phân rồng đó tôi cũng hoàn toàn thông cảm.”

      … làm ơn, làm ơn cầm lấy ,” Septimus . Nó ấn mạnh cái bao phình to vào Billy Pot, và ông ta mỉm cười, lần đầu tiên trong ngày hôm đó.

      Khi Jenna, Septimus và Khạc Lửa đến cửa Cung Điện, giọng phều phào của Godric trôi trong khí buổi tối. “À, buổi tối tốt lành, Công Chúa. vui được gặp nàng. Chào buổi tối tốt lành, Học Trò. Môn Biến Hình tiến triển thế nào? quán triệt được Tam Hóa Thể chưa?”

      “Gần được,” Septimus , kéo lê Khạc Lửa đằng sau.

      “Cừ lắm.” Godric khen rồi ngủ lại ngay lập tức

      Chương 48. NỮ HOÀNG TRẺ TUỔI

      Septimus ngồi chiếu nghỉ đầy bụi đất, ngó mảng vữa bị tróc tường, thắc mắc khi nào Jenna xuất trở lại. Nó cố tưởng tượng xem làm gì trong Phòng Nữ Hoàng, và cái gì giữ ở lại lâu đến vậy. Nhưng nó ngại chờ đợi. Có món đồ mà Septimus nóng lòng muốn nhìn kỹ hơn bao giờ hết kể từ khi Jannit moi món đó ra khỏi hộp đồ nghề của bà, đưa cho Septimus và bảo, “Coi bộ đây là thứ mà cậu có thể dùng được, Chủ Soái Septimus.”

      Nó thọc tay vào túi áo chẽn và lấy ra bùa Khinh Công.

      Cái bùa mang lại cảm giác quen thuộc kỳ lạ cho Septimus làm như trước kia nó biết bùa này ở đâu đó rồi. Xét theo công lực đó là cái bùa đơn giản đến kinh ngạc, và nước vàng xưa cũ bị trầy xước, với chùm đuôi – tình mà bị bóp méo và cong vêu. Cầm mũi tên nằm im ắng trong lòng bàn tay, Septimus cảm thấy bỗng tê rật cả bàn tay, và có gì xui khiến nó thò tay vào thắt lưng Học Trò, lấy ra đôi cánh bạc mà bà Marcia đưa nó khi bà cầu nó là Học Trò của bà. Septimus chiếc đôi cánh này lắm. Với chiếc bùa này, chỉ cần tập trung là nó có thể lơ lửng cách mặt đất khoảng ba mét, nhưng bay được, như Simon làm được. Septimus thường mơ thấy mình bay, và kỳ thực nhiều phen nó thức giấc đinh ninh là mình bay được, nhưng rồi chỉ là thất vọng.

      Ngồi bệt dưới sàn nhà bằng đá lạnh lẽo, chẳng thấy dấu hiệu Jenna trở lại, Septimus chìa hai bàn tay xòe ra, mỗi bên đặt cái bùa. Nó nghĩ cả hai cái đều đẹp theo những cách khác nhau – trong bàn tay trái, nó cảm nhận được linh hồn mạnh mẽ của mũi tên vàng cổ xưa, và trong bàn tay phải là vẻ đẹp tinh tế của đôi cánh bạc. Nhìn vào chúng, Septimus cảm nhận được Pháp Thuật từ cả hai cái bùa thấm qua da mình và làm nhiễu bầu khí quanh mình.

      Và rồi – có cái gì đó xê dịch, có cái gì đó chuyển động.

      Bất ngờ đôi cánh dựng thẳng đứng lên giữa lòng bàn tay Septimus, bay phấp phới tới lui như con bướm sưởi ấm trong nắng. Mê mẩn, Septimus quan sát đôi cánh bạc dập dờn từ bàn tay phải qua bàn tay trái, tại đó đôi cánh đáp điệu nghệ xuống bùa Khinh Công. tia chớp Pháp Thuật nháng lên, vàng và bạc của hai bùa trộn lẫn vào nhau khi đôi cánh đáp xuống đúng chỗ của nó là chùm đuôi kỳ lạ của bùa Khinh Công.

      Septimus cầm bùa Khinh Công hoàn tất lên và giữ nó giữa ngón tay trỏ và ngón tay cái. Cái bùa nóng – quá nóng – để mà chạm vào. cảm giác tê tê chạy khắp những ngón tay và Septimus bất giác thấy mình bị thúc ép phải bay. Nó đứng bật dậy và đến cửa sổ tháp canh trông ra toàn bộ những khu vườn của Cung Điện. Nó thấy những mảng tối dài của buổi chiều muộn giữa mùa hè và nghe thấy tiếng quạ kêu trong những tàn cây, và tất cả những giấc mơ bay của nó chợt ùa về - nó tưởng tượng mình nhào xuống những bãi cỏ, xua bọn quạ và bay la đà con sông… ráng cố gắng chút, Septimus giũ mình ra khỏi cơn mơ màng. Nó bận cất bùa Khinh Công trở lại thắt lưng Học Trò của mình – cố tránh khỏi cám dỗ - Jenna bước qua bức tường.

      Septimus nhảy nhỏm, “Jen..,” nó bắt đầu, và rồi dừng sững lại kinh ngạc khi dì Zelda và Thằng Sói theo bé bước ra chiếu nghỉ.

      “Ố, Septimus,” dì Zelda , trong khi Septimus trố mắt nhìn, miệng há hốc. “ tuyệt khi thấy con an toàn… nhưng để mất giờ được. Theo ta. Chúng ta phải thẳng tới Thuyền Rồng.” Dì Zelda chạy lóc cóc xuống cầu thang hẹp, và Septimus nghe tiếng thét ngạc nhiên khi dì đâm sầm vào con Khạc Lửa.

      “Xuống, Khạc Lửa. Chà, cũng thú vị khi gặp mi. Nào làm ơn bước ra khỏi bàn chân ta.”

      Septimus cần phải tháo dây cho Khạc Lửa bởi vì con rồng nhai sạch sợi dây thừng. Cả đám theo sau dì Zelda và Jenna ra đằng cửa phụ ở chân tháp canh rồi xuống cổng Cung Điện. Dì Zelda bước thoăn thoắt. Với thông thạo đáng ngạc nhiên về những con hẻm, những ngõ ngách hẹp tí của Lâu Đài, dì ào ào bước tới trước. Những khách bộ hành tới sững sờ trước cảnh cái lều to đùng đầy mảnh vải đắp tiến hết tốc lực về phía mình. Họ ép sát người vào tường để tránh đường, và cái lều băng ngang qua họ cùng với Công Chúa, Học Trò của Pháp sư Tối thượng và thằng bé trông hoang dã có hai bàn tay quấn băng – đó là chưa kể con rồng – và họ dụi mắt tin nổi.

      Chẳng mấy chốc dì Zelda và đoàn tùy tùng của dì ra khỏi đường hầm nằm bên dưới tường thành Lâu Đài dẫn vào xưởng đóng thuyền. Họ nghe thấy tiếng bà Jannit dội vang những con thuyền lật úp. “Kéo… kéo… kéo…”

      Dì Zelda thét lên tiếng thê thiết – bởi vì đằng kia, chầm chậm, rất chậm, là thân hình đóng bùn, nước ròng ròng của Thuyền Rồng, được nâng lên bởi toán thợ phụ nhịp nhàng kéo sợi dây thừng, nhô lên khỏi mặt nước. Cái đuôi xanh lá cây với những gai ngạnh vàng óng rủ xuống trong khi đầu Thuyền Rồng vẫn tựa vào bên bờ kênh đào. Nic** ngồi xếp bằng, chậm rãi vuốt những cái vảy xanh lá cây xuội lơ cái mũi dài của rồng.

      Rupert Gringe sàn Thuyền Rồng. Người cậu trét kín bùn và ướt chèm nhẹp, cậu vừa mới lặn xuống hào nước và rốt cục cũng quàng được những sợi dây kéo khổng lồ bằng vải bạt vào vị trí bên dưới sống thuyền. Với mặt nạ đẩy lên khỏi mắt, Rupert chạy đôn chạy đáo từ bên này sang bên kia, liên tục kiểm tra dây thừng.

      Hoảng kinh hồn vía, dì Zelda chạy băng qua xưởng đóng thuyền, luồn lách giữa những sợi dây thừng và mỏ neo, những cột buồm và dây néo cột buồm bỏ , rồi ngồi phịch xuống bên cạnh Nic**.

      “Dì Zelda?” Nic** , tin vào mắt mình.

      “Ừ… là dì đây,” dì Zelda trả lời, thở ra hơi, chìa tay ra chạm vào cái đầu bất động của rồng. Dì dừng tay mình ở đấy lát, lắc đầu tin nổi. “Jenna, Septimus – nhanh lên. Tới ngồi đây bên dì. Tất cả ba chúng ta – Người Giữ Đầm, Nữ Hoàng Trẻ tuổi và Chủ Soái Rồng – phải làm điều này,” dì .

      “Làm gì ạ?” Jenna hỏi.

      “Tam Hóa Thể,” dì Zelda , lục lục lọi lọi trong vô số những cái túi vá víu của dì.

      “A – Sep làm được đấy,” Jenna vui mừng .

      , làm được,” Septimus .

      “Được, làm được mà. À, mém được. Em nghe được bảo với con ma Godric thế mà.”

      “Tại lần đầu tiên ông ấy hỏi , trả lời là ‘’, làm được, thế là ông ấy nổi xung thiên và bắt đầu than vãn. Sau đó tất cả những Cổ Nhân khác trong Cung Điện cũng bắt đầu than thở. khủng khiếp… và họ chịu ngưng. phải đến gặp bà Marcia, và bà bảo đừng chi li thế quá, cứ chiều lòng ông ngốc già đó cho rồi. Nhưng mà cũng có đọc qua về nó, chỉ để phòng hờ nhỡ Godric có cắc cớ hỏi câu gì. Đó là bốn nguyên tố, phải dì Zelda?”

      “Đúng vậy, Septimus,” dì Zelda trả lời, lấy ra cái túi bằng da trông xưa xưa. “Chẳng ai nhớ được cái này được lưu truyền từ Người Giữ Đầm này sang Người Giữ Đầm khác từ lúc nào. Chúng ta giữ nó trong hộp được khóa kỹ có tên gọi là Phương sách Cuối cùng. Mỗi Người Giữ Đầm đều hy vọng mình cần phải sử dụng đến nó, nhưng mỗi Người Giữ Đầm đều biết rằng ngày nào đó Thời Điểm Đến. Có lời tiên tri được viết hộp…”

      Thời Điểm Đến, vì nó phải đến

      Khi Người Bay cùng với Hai trong Ba

      Khi ấy Ngươi phải Sẵn sàng

      Và Giữ Chặt Bộ Ba đó vào Ngươi.

      ai biết bốn câu đó có nghĩa gì, nhưng khi Septimus tìm thấy Nhẫn Rồng ta nhận ra rằng, lần nữa, lần đầu tiên kể từ thời Hotep-Ra, chúng ta có bộ ba: Chủ Soái Rồng, Nữ Hoàng và Người Giữ Đầm. Rồi sau đó khi con và Jenna bay với Thuyền Rồng, ta biết rằng phần đầu của lời tiên tri linh ứng, rằng Thời Điểm Đến. Vì thế ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho điều gì đó xảy ra, nhưng khi Jenna bước ra khỏi buồng độc dược, giống hệt cái người mẹ kính của bé vẫn làm mỗi Ngày Hạ Chí, ta… ừm, ta suýt nghẹn cả cái bánh bắp cải. Giờ , chúng ta hãy xem chúng ta có gì ở đây nào… ”

      Dì Zelda dốc nghiêng cái túi bằng da và ba cái bát đúc bằng vàng, quanh miệng có tráng men xanh da trời rớt xuống tấm thảm đầy bùn của Jannit. Dì giũ cái túi da lần nữa, nhưng có gì khác rơi ra. Dì thọc cả bàn tay vào trong túi và sờ quanh, nhưng nó trống rỗng. Vẻ mặt dì Zelda xịu xuống. “Phải có nhiều hơn thế này chứ, chắc chắn vậy,” dì . “ chỉ dẫn – có gì. Cái Betty Crackle này tình … quá là tắc trách. Quá là bất cẩn. Chúng ta có thể làm được gì với ba cái bát trống trơn này cơ chứ?”

      “Con nghĩ con biết làm gì với chúng.” Septimus từ tốn.

      Dì Zelda nhìn nó, lại thêm thứ để nể phục. “ ?” Dì hỏi.

      Septimus gật đầu. “Dì đặt những cái bát trước Sinh Linh dì muốn Phục Hồi…” nó , vắt óc ra suy nghĩ. Septimus đọc tất cả sách vở nó có thể tìm được về Tam Hóa Thể, nhưng khi nó hỏi bà Marcia bộ ba cái bát ở đâu, bà bảo với nó rằng chúng biến mất cách đây nhiều trăm năm.

      “Con làm , Septimus,” dì Zelda . “Là Chủ Soái Rồng, chỉ có con mới có quyền làm điều đó.”

      Mắt của rồng chớp khi Septimus, Jenna và dì Zelda sắp hàng thành hình bán nguyệt quanh đầu rồng. Nic** lẳng lặng đứng dậy và rời , dẫn Thằng Sói cùng với mình. Nic** có thể cảm thấy Pháp Thuật đậm đặc trong khí và cậu thích giữ khoảng cách hơn. Thằng Sói trông sợ hãi; mắt nó mở to còn những chiếc răng vàng khè nhe ra khi quan sát thằng bạn cựu Thiếu sinh quân cũ của nó trong vai trò mới lạ - đan kết Pháp Thuật mạnh mẽ.

      “Bốn nguyên tố trong lời khấn này,” Septimus khẽ, “là Đất, Khí, Lửa và Nước. Nhưng chúng ta chỉ chọn duy nhất trong những nguyên tố đó để Phục Hồi rồng. Con nghĩ đó nên là Lửa.”

      Dì Zelda gật đầu đồng ý. “Rồng có quá nhiều những thứ kia rồi,” dì thầm.

      “Jen thấy sao?” Septimus hỏi.

      Jenna gật đầu. “Phải,” thầm, “Lửa.”

      “Tốt,” Septimus . “Giờ mỗi người chúng ta phải chọn ra nguyên tố từ ba cái còn lại.”

      “Đất,” dì Zelda . “Đất tốt để trồng bắp cải.”

      “Nước,” Jenna . “Vì rồng quá đẹp khi ở dưới nước.”

      “Và con chọn khí,” Septimus , “bởi vì hôm nay con lái Thuyền Rồng. Và bởi vì con có thể Khinh Công.”

      Dì Zelda bắn cho Septimus cái liếc châm chọc, nhưng nó bận sắp xếp những cái bát nên chú ý đến điều đó.

      “Giờ,” nó , “chúng ta mỗi người lấy cái bát và đặt nguyên tố của mình vào đó.”

      Jenna lom khom bước tới và nhúng cái bát của mình vào hào nước. Dì Zelda từ cầu phao cúi người xuống và cạo lên ít đất khô. Septimus nhìn cái bát của mình và phân vân biết phải làm gì. Nó nhìn và tự hỏi màn sương đỏ tía xuất ở đáy cái bát vàng. Dì Zelda há hốc miệng – dì thấy những dấu hiệu Pháp Thuật xuất quanh Septimus, mái tóc quăn vàng hoe của nó được viền trong vầng hào quang đỏ tía, lung linh, và bầu khí ngột ngạt, giống như khí trời trước khi có cơn bão.

      Nhận thấy dì Zelda và Jenna nhìn mình chăm chú, Septimus tập trung cả ba cái bát lại, và giữ chúng ép sát vào nhau, nó lẹ làng úp ngược chúng xuống. Đất và nước đổ thẳng xuống tấm thảm, nhưng màn sương đỏ tía chìm xuống từ từ - theo sát chuyển động của màn sương là cặp mắt màu xanh lá cây, cặp mắt tím, và cặp mắt phù thủy xanh da trời – cho đến khi màn sương ấy gặp đống bùn đất loét nhoét thảm nổ bùng lên thành ngọn lửa. Septimus nuốt nước miếng – đây là phần nó lo sợ. Nó chìa tay ra để nắm lấy ngọn lửa, và tiếng hét từ Thằng Sói, khiếp hãi quan sát bỏ sót gì đằng sau con thuyền. “412… !” Thằng Sói thét vang, cảm thấy tay mình lại bùng cháy lần nữa. Septimus cảm thấy đau đớn gì khi nó gom ngọn lửa lại và đặt vào hai lỗ mũi rồng.

      Bất thình lình, cái hít hơi cực mạnh, và ngọn lửa bị hút sâu vào trong lỗ mũi rồng. Vài giây sau, rồng ngẩng đầu lên, thở phì phì, ho khạc, phun ra lưỡi lửa màu cam chói lóa, bắt cháy tấm thảm Ba Tư của Jannit và hất dì Zelda, Jenna và Septimus phải nhảy lùi lại chỗ an toàn. Nic** dội thùng nước dập tắt đám cháy tấm thảm. Con rồng thoáng mở mắt ra và sau đó, với cú rơi đánh sầm, cái đầu xanh lá cây to lớn của rồng gục xuống tấm thảm cháy sém và nằm rũ im lìm như trước.

      Cả xưởng đóng thuyền rơi vào im lặng. Thậm chí Jannit cũng dừng việc bốc dỡ của mình và đứng chờ thấp thỏm.

      Jenna thất kinh. bé liếc nhìn Septimus dường như để cho vững dạ nhưng Septimus sầu thảm nhìn trừng trừng vào Thuyền Rồng, tin rằng Tam Hóa Thể của mình thất bại. Dì Zelda bật tiếng ho nho nhhỏ và vừa mới định gì đó giọng sang sảng của bà Marcia vọng khắp xưởng đóng thuyền.

      “Ai đó lấy cái thùng chết tiệt này ra khỏi chân ta được chứ?” tay thợ phụ hấp tấp chạy tới giúp bà Marcia, giật cái thùng mà bà vô tình bước tọt vào trong lúc vội vã trở lại Thuyền Rồng. Với áo thụng tung bay, bà Marcia tiếp tục tiến bước qua xưởng đóng thuyền, và khi gần đến chỗ rồng, cả Jenna, dì Zelda, và Septimus đều thấy rằng bà cầm trong tay cái chai lớn màu xanh lá cây.

      Bà Marcia đến cầu phao, thở hết cả hơi và tháo nút chai ra.

      “Marcia, tính làm gì vậy?” Dì Zelda hỏi gắt.

      “Cứu Thuyền Rồng. Ta biết ta có ít ở đâu đấy. Đó là thuốc Hồi Sinh chế từ thằn lằn. Ta luôn cất giữ nó dưới ván sàn trong thư viện.”

      “Dẹp nó ,” dì Zelda cầu. “Đừng để thứ đó gần rồng. Nó giết chết rồng.”

      “Đừng lố bịch, Zelda,” bà Marcia đốp chát. “Bà còn quyền ra lệnh được làm cái gì cho Thuyền Rồng nữa. Giờ ở đây ta là Nguời Giữ Thuyền.”

      Mắt của Jenna và mắt Septimus gặp nhau. có rắc rối đây.

      …” dì Zelda lắp bắp tin nổi. “… Người Giữ Đầm?”

      rành rành,” bà Marcia . “Bây giờ Thuyền Rồng ở đây, dưới chăm sóc của ta. Bà ở quá xa, thể tiếp tục bổn phận của bà được… Ơ, làm thế nào bà đến đây nhanh quá vậy?”

      Dì Zelda đứng thẳng lên hết cỡ - tuy chiều cao của dì nhiều để so sánh với bà Marcia, nhưng dù sao nữa đứng lên như thế cũng khiến dì Zelda cảm thấy tốt hơn. Đôi mắt phù thủy xanh da trời của dì lóe lên đắc thắng. “Những bí mật của Người Giữ Đầm được tiết lộ cho bất cứ người nào, Marcia, và ta được phép cho biết ta đến đây bằng cách nào. Tất cả những gì muốn là, chừng nào mà ta còn sống, chừng đó ta là Người Gìn Giữ Thuyền Rồng và ta vẫn là Người Giữ Đầm, luôn sẵn sàng cho Thuyền Rồng mọi lúc mọi nơi. Tam Hóa Thể cần có thời gian và thứ gì, nhất là cái thứ Hồi Sinh thằn lằn cổ xưa đó, được phép can thiệp vào rồng. Giờ Marcia, đây là vấn đề sống còn, nhân danh Người Giữ Đầm, ta cầu dẹp cái thứ Hồi Sinh đó . Ngay lập tức.”

      Lần đầu tiên Septimus thấy, bà Marcia thốt nên lời. Rất khoan thai, bà đóng nút bần trở lại cái chai thuốc Hồi Sinh, và với tất cả vẻ kiêu hãnh, bà qua xưởng đóng thuyền, thận trọng tránh cái thùng đường ra. hay tí nào với bản tính cáu bẳn của bà, khi bà phát ra rằng Milo Banda, cùng với Sarah và Silas, từ trong bóng tối của căn nhà giam bị bỏ hoang, chứng kiến toàn bộ tình tiết.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 49: Khinh công

      Bà Marcia bước qua hào nước Cung Điện, tiếng bước chân bà nện vang những tấm ván còn nóng ấm của cây cầu gỗ cũ. Bên cạnh bà là Milo Banda, người mang trọng trách xoa dịu bà Marcia suốt quãng bộ chóng vánh từ xưởng đống thuyền đến Cung Điện, sau cuộc chạm trán với dì Zelda.

      Tại cửa Cung Điện, đứng bên cạnh chiếc ghế vàng đó có con ma Godric ngồi ngủ gật, là phó pháp sư, phụ nữ trẻ duyên dáng có đôi mắt xanh lá cây long lanh.

      "Chào buổi tối. Chào mừng đến với Cung Điện," phó pháp sư tươi cười.

      "Chào buổi tối, Hildegarde," bà Marcia đáp lời.

      Milo Banda lùi lại, đứng thập thò ở ngưỡng cửa. Bà Marcia để ý ông hơi run run và mắt ngân ngấn nước.

      "Ồ," bà nhàng. "Xin lỗi, Milo. Tôi nghĩ ra. Ông có muốn chúng tôi để ông mình lúc ?"

      Milo Banda gật đầu. Ông thơ thẩn xuống Lối Dài, nhìn vào những bức tường trống và lắc đầu buồn bã.

      Bất ngờ bà Marcia cảm thấy kiệt sức - quả là ngày dài. Vụ Nhận Dạng để lại trong cái cảm giác trống rỗng cách kỳ lạ, và hơn hết thảy, bàn chân bà đau thốn vì bị Khạc Lửa cạp hồi sáng. Thở phào hơi nhõm, bà ngồi phịch xuống chiếc ghế của Godric và tháo chiếc giày ra. Con ma hoảng hồn nhảy khỏi ghế và rơi xuống sàn nhà thành đống lùng nhùng.

      "Ngài Alther," bà Marcia bực bội, "tôi tưởng ngài tống khứ tất cả lũ Cổ Nhân rồi chứ. Chúng ta cần họ nữa. Chúng ta có đám phó pháp sư làm nhiệm vụ giữ cửa rồi."

      "Godric rất bực mình khi ta cầu ngài ấy , cho nên ta bảo ngài ấy ở lại. Dù sao ," ngài Alther tặc lưỡi, " cũng nên có chút kính trọng đối với những Cổ Nhân. rồi cũng Cổ Nhân, vào ngày nào đó." Ngài Alther phủi bụi cho Godric và dìu ông ấy tới chiếc ghế bành thỏai mái trong góc tối u, yên lặng của đại sảnh. Con ma già chìm vào giấc ngủ sâu ngay tức khắc và thức dậy cho đến nhiều năm sau đó, khi con của chính Jenna va phải ông bằng cái xe tập của nó.

      may là khi trở về đến Cung Điện, Jenna nhìn thấy ngài Alther và bà Marcia ngồi yên lặng tong vùng tối mà những hàng nến lung linh đặt khắp đại sảnh hắt tới được. Người đầu tên bé thấy, khi ông ta ló ra khỏi cảnh u của Lối Dài, là người lạ mặt của bến cảng. Chợt trông thấy Jenna, ông ta há hốc miệng và dừng sững lại ngay. Jenna thét lên thất thanh.

      Bà Marcia đứng phắt dậy. « Jenna… chuyện gì vậy ? » Bà hỏi liếc nhìn quanh lo lắng.

      Jenna trả lời. bé chạy bán sống bán chết ra khỏi Cung Điện và xông đến náu chỗ Septimus, Nic**, dì Zelda và Thằng Sói chậm chạp băng qua những bãi cỏ Cung Điện, và con Khạc Lửa cứ nằng nặc đòi rượt theo con thằn lằn cỏ.

      « Ông ấy ở đây ! » Jenna thét om khi đến bên dì Zelda. « Cái ông ấy đấy – ông ấy ở đây ! »

      « Ông nào ? » Dì Zelda hỏi, vừa sửng sốt vừa thích thú trước cảnh bà Marcia tất tả chạy qua bãi cỏ về phía họ, chỉ mang có mỗi chiếc giày.

      « Jenna, » bà Marcia kịp thở khi cuối cùng bắt kịp bé. « Jenna, có chuyện gì à ? »

      « Chuyện gì à ? Chuyện cái ông ấy ấy – cái ông ở bến cảng. Cái ông túm lấy Thần Sấm, cái ông theo sau con, cái ông đồng lõa với Simon – thế mà bà bảo ông ấy đến Cung Điện của con. Đó ! »

      « Nhưng Jenna, » bà Marcia phản đối, « nười đàn ông đó có toàn quyền ở trong Cung Điện. Ông ây là Milo Banda. Ông là… »

      « Con quan tâm ông ấy là ai ! » Jenna hét lớn.

      « Nhưng Jenna, Jenna nghe ta này.. ông ấy là cha con. »

      Mọi người điếng hồn nhìn bà Marcia sửng sốt.

      « , , » Jenna lắp bắp. « Ba ở dưới xưởng đóng thyền.. với mẹ. »

      « Ừ, Silas ở dưới xưởng đóng thuyền, » bà Marcia nhàng. « và Milo ở đây. Milo chính là cha ruột của con, Jenna. Ông ấy đến thăm con. »

      Jenna im lặng lúc lâu. Rồi bất ngờ , « Thế tại sao trước đây ông ấy đén thăm con – khi con còn ? » Và bé chạy vùng ra khỏi bãi cỏ, đâm thẳng vào con đường dẫn tới mặt sau Cung Điện.

      « Ôi trời, » bà Marcia kêu lên.

      Silas Heap đón nhận trở về của Milo Banda cách tử tế cho lắm, đặc biệt là khi Sarah cứ nhất mực đòi tổ chức bữa tiệc ăn mừng mái Cng Điện để chào mừng ông về nhà.

      « hiểu làm thế nào mà em có thể ăn mừng khi thằng con cả của chúng ta bị kẹt cứng trong Đường Hầm Băng dễ sợ đó, » Silas phản đối.

      Sarah bận rộn bày biện cái bàn khi Silas đổ người đánh rầm xuống chiếc ghế vàng của Cung Điện và nhìn đăm đăm cách thiểu não lên bầu trời mùa hè tối dần.

      « Em thậm chí còn muốn nghĩ về Simon nữa, » Sarah nhanh. « Đội Tìm Kiếm sớm tìm ra nó, và sau đó ít ra nó được về nơi nào đó an toàn và ấm áp. »

      « An tòan và ấm áp trong Lâu Đài phải là điều muốn cho nó, Sarah à, » Silas làu bàu.

      Sarah lắc đầu. « Silas, nếu còn nhớ đến hôm qua chúng ta vẫn còn biết đứa nào ở chỗ nào kìa. Hôm nay chúng ta có ba đứa trở về - bốn chứ, nếu tính cả Simon – và chúng ta nên xem mình là những kẻ may mắc. Từ nay em nhìn nhận việc theo cách đó. » Bà vuốt thẳng tấm khăn trải bàn và bảo nguwofi phục vụ bữa tối xem đầu bếp nấu nướng thế nào rồi. « Dù sao , Silas à, chúng ta cũng phải chào đón Milo Banda. Xét cho cùng ông ấy cũng là cha của Jenna. »

      « Hứ, » Silấ cục cằn.

      «Sarah cẩn thận đặt những giá cắm nến ưa thích của mình vào giữa cái bàn dài. « Chúng ta vẫn biết ngày nào đó điều này xảy ra mà. chẳng hay ho gì khi lạ lẫm với chuyện này. »

      « lạ lẫm, » Silas phản đối. « chỉ nghĩ là kỳ quái khi ông ta xuất sau ngần ấy năm. Ys là, ông ta ở đâu suốt thời gian đó ? Với có vẻ rất đáng ngờ. Hứ ! »

      « Đừng có « hứ » hòai, Silas. Làm thế trông quái gở lắm. »

      « Ờ, có lẽ tôi quái gở . Và tôi cứ « hứ » nếu tôi muốn, Sarah. Hứ. »

      « Bữa tối kéo dài đến tận đêm khuya. Sarah xếp cho Milo Banda ngồi ở đầu cái bàn trải khăn trắng đơn giản. Nó nhắc Jenna nhớ buổi sáng ngày sinh nhật thứ mười của mình, mà bây giờ cảm tưởng như cuộc đời khác. Jenna cố ngồi càng xa khỏi Milo Banda cang tốt - ở tuốt đầu bàn bên kia – nhưng hóa ra đến lúc ngồi xuống rồi bé mới nhận ra mình ngồi đối diện với Milo, và cứ hễ nhìn lên là bé lại thấy ông rángmỉm cười với mình hoặc cố bẳt ánh mắt mình. Mất gần trọn bữa ăn Jenna cứ phải nhìn chăm chăm vào đĩa đồ ăn của mình hay chuyện trò dấm dẳng với dì Zelda ngồi kế bên .

      Khi những cây đuốc lụi dần và nửa đêm đến gần, khí mùa hè thành mát dịu và mọi người bắt đầu ngáp. Dì Zelda chồm qua Jenna và thầm, « Ba con là người đàn ông tốt, Jenna. Con nên nghe những gì ông ấy buộc phải . »

      « Con quan tâm ông ấy phải gì, » Jenna trả lời.

      « Nữ Hoàng Trẻ khôn ngoan lắng nghe trước . Sau đó hẵng phán xét. »

      « Bữa tối kết thúc. Bà Marcia, Septimus và Khạc Lửa trở lại tháp Pháp sư. Nic** về cùng Silas, ông muốn chỉ cho cậu thấy đội hình đất thủ cờ Cản Bất mà ông vừa mới tìm thấy đằng sau ống nước trong gác mái của Cung Điện ; Sarah chăm sóc Thằng Sói, nó ngủ thiếp vào lúc bắt đầu bữa tối, và dì Zelda ở khu nhà bếp, cố gắngbảo đầu bếp trực khuya luộc cây bắp cải cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Ngài Alther Mella ngồi yên lặng trong bóng tối, nghiền ngẫm những việc xảy ra trong ngày.

      Và Jenna lắng nghe Milo Banda.

      “Con biết ,” Milo , “mẹ con và ba đều vui mừng khôn xiết khi biết mình sắp có con. Cả ba lẫn mẹ đều hi vọng có để sau này trở thành Nữ Hoàng. Dĩ nhiên, ba bao giờ là vua cả - điều đó có trong luật ở đây, giống như mấy vương quốc Xa Xôi đâu. Ở đó, con có tin , người ta trao quyền kế vị cho những đứa con trai. Nhưng ba rất vui là mình phải làm Vua, bởi vì dù sao ba cũng chỉ là thương gia bình thường nhưng ba thích công việc của mình. Ba cái phấn khích của việc đó đây và viễn cảnh ngày nào đó ba kiếm được cả gia tài cho riêng mình. Thế rồi, sáu tháng trước ngày con sinh ra, ba nắm bắt được cơ hội đúng như thế. Với lời chúc phúc lành của mẹ con, ba thuê con tàu ở bến cảng và bắt đầu lên đường. Vận may đến với ba và chả bao lâu sau ba có cả con tàu chất đầy của cải để mang về cho con và mẹ con. Tất cả mọi thứ đều tốt đẹp, ba có thủy thủ đoàn giỏi giang và những cơn gió bình yên suốt chặng đường về nhà, và ba về đến bến cảng ngay đúng ngày con hẳn là chào đời. Mọi thứ, bà nghĩ, đều hòan hảo. Nhưng rồi … khi ba cập cảng…” giọng của Milo nghẹn lại. “Ba… ba nhớ cứ như mới hôm qua thôi… thủy thủ tàu báo tin cho ba, cái tin khủng khiếp lan truyền khắp bến cảng… rằng Cerys thân của ba – mẹ của con – bị giết. Và con bé bỏng của ba cũng vậy.”

      “Nhưng con bị giết,” Jenna làu bàu.

      “Ừm. Giờ ba mới biết điều đó. Nhưng khi đó… ba biết. Ba tin những gì mọi người .”

      “È, họ sai. Thế tại sao ông đến Lâu Đài và xem có vậy ? Tại sao ông đến tìm tôi? Ông chạy trốn.”

      “Ừ, Ba cho rằng dường như là thế. Nhưng lúc đó ba thể chịu nổi để mà ở lại. Bar a ngay trong dòng thủy triều kế tiếp và lang thang bất cứ nơi đâu cơn gió đưa ba – cho đến khi ba bị Deakin Lee bắt giữ.”

      “Deakin Lee!” Jenna há hốc miệng. Ngay cả , kẻ chẳng ham mê gì về bọn cướp biển, mà còn nghe về tay Deakin Lee khét tiếng đó.

      Milo đánh bạo mỉm cười ảo não với Jenna. bé đáp lại ông nụ cười nửa miệng rụt rẻ.

      Ba bao giờ quên bảy năm dài đăng đẳng trong ách kìm kẹp của Deakin Lee,” ông xuống giọng. “Từng giờ từng phút bà luôn nghĩ đến điều kinh hoàng xảy ra với con và mẹ thân của con…”

      “Làm thế nào ba trốn thóat?” Jenna hỏi.

      đêm nọ, vào mùa xuân năm ngoái, con tàu gặp phải những cơn sóng dữ. Ba nghe rằng chúng là song nhồi từ trận bão Hắc Thuật cách xa hang ngàn dặm, nhưng chúng la những con song tốt lành đối với ba. Deakin Lee bị song đánh rơi xuống biển và thủy thủ đòan của thả bar a. Ba nắm quyền chỉ huy con tàu. Vài tuần sau cập tàu vào cảng và ba nghe tin đồn rằng con còn sống. Ba gần như tin điều đó – ba cảm thấy như cuộc đời mình hồi sinh lại lần nữa. Ba dong buồm lên đường ngay lập tức và gió yên bình suốt chặng đường đưa ba đến bến cảng. Bọn ba căng cờ thông báo cho Hải quan, và Chỉ huy Hải quan xuống tàu ba ngay sang hôm sau. Bà ta nhìn lượt châu báu tàu và bảo chúng ta phải đợi cho đến khi kho hang chính được giải phóng – bà ta là người hung bạo, cái bà quan Nettles đó. Nhưng ba biết ơn bà ta, vì nếu bà ta làm thế ba gặp con vào buổi tối hôm đó.”

      Jenna nhớ cảnh ở kho hang. Đến giờ mọi thứ đều rang.

      Milo kể tiếp, “Khi ba nhìn lên và thấy con ngồi lưng ngựa, đúng y cung cách mà mẹ con vẫn thế, và rồi ba thấy chiếc vòng đội đầu con, ba biết chắc chắn con là con của ba. Nhưng ba xin lỗi, Jenna, ba nghĩ tối hôm đó ba làm con hoảng sợ. Ba nghĩ ngợi gì – ba chỉ muốn chuyện với com. Jenna… Jenna?”

      Jenna quay và nhìn chăm chăm vào bóng tối, chỗ những ngọn đuốc tan chảy mái Cung Điện hắt ánh sáng tới.

      “Jenna?” Milo lặp lại.

      “Con cảm thấy ai đó nhìn mình,” .

      Milo ngọ nguậy vẻ thỏai mái. “Ba cũng cảm thấy vậy,” ông . Milo Banda và con nhìn trừng trừng vào những khoảnh tối nhưng cả hai đều thấy được hồn ma của Nữ Hoàng nhìn chồng và con mình chuyện với nhau lần đầu tiên trong đời.

      Ngài Alther bay thấp thoáng đến bên Nữ Hoàng. “ tốt khi thấy Người rốt cuộc cũng đánh liều ra khỏi phòng Nữ Hoàng,” ngài .

      Nữ Hoàng cười buồn bã. “Ta phải trở lại ngay lập tức, ngài Alther; nhưung ta thể cưỡng lại việc phải nhìn Milo dấu của ta chỉ lần nữa – và cả con nữa.”

      “Người có thể an tâm rằng họ là cha và con rồi,” ngài Alther nhận xét.

      “Ừ, đúng vậy.” Nữ Hoàng gật đầu chầm chậm. “Cái cách họ đứng với nhau, phải vậy ?”

      “Trông ấy rất giống Người – giống cách đáng kinh ngạc.”

      “Ta biết,” Nữ Hoàng thở dài. “Chúc ngủ ngon, ngài Alther.”

      “Ngài Alther nhìn Nữ Hoàng lẳng lặng trôi , ngang qua Jenna và Milo Banda, cả hai người đều nhìn thẳng vào Nữ Hoàng nhưng thấy gì. lâu sao Nữ Hoàng tới tháp canh và khéo léo bước qua bức tường đá dày. Bên trong phòng Nữ Hoàng, ngọn lửa trong lò bừng sáng như vẫn luôn luôn thế và Nữ Hoàng ngồi im lặng trong ghế của Người, nhớ lại những việc trong ngày hôm nay – cái ngày mà Người đợi chờ rất nhiều năm rồi.

      Septimus, bà Marcia và Khạc Lửa thủng thỉnh bộ dọc theo đường Pháp Sư. Những ngọn đuốc chiếu sáng rực trong cột trụ bằng bạc, và Khạc Lửa cứ nhảy nhót vào những mảng tối lập lòe hắt xuống vỉa hè. Giờ là sau nửa đêm và tất cả những cửa hiệu đều đóng cửa tối om, nhưng khi họ ngang qua Văn phòng Sao lục, Septimus nghĩ mình thoáng thấy ánh sáng đằng sau những chồng sách và giấy khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỳ hơn nó lại thấy gì.

      Bà Marcia khập khiễng cách đau đớn lên những bậc thang bằng đá hoa cương đến tháp Pháp Sư. Septimus đặt Khạc Lửa vào cái cũi rồng cho nó ngủ đêm.

      « Phải đảm bảo để nó ra ngoài được, Septimus, » bà Marcia dặn Septimus khi cánh cửa đôi bằng bạc của tòa tháp mở ra cho Pháp sư Tối thượng. « Và đừng quên cài then đôi cho cánh cửa. »

      « Dạ, » Septimus đáp, và bà Marcia liêu xiêu vào trong với vẻ biết ơn.

      Khạc Lửa nằm xuống ngoan ngoãn đến ngạc nhiên. Septimus đẩy hai cái then sắt khổng lồ xuyên qua cánh cửa và nhón gót khỏi tiếng ngáy của con rồng làm rung cả cái cũi.

      Đó là buổi tối đẹp trời. Sân trong của tháp Pháp Sư vắng vẻ ; những ngọn đuốc Pháp Thuật được đặt dọc đỉnh những bức tường bao quanh sân thả ánh sáng màu đỏ tía dịu xuống mảnh sân lát đá phiến cũ, lờ mờ đủ cho Septimus vẫn nhìn thấy hàng vạn ngôi sao bầu trời đêm.

      Septimus kề rề vào trong. Nó nhìn lên những vì sao và tất cả những giấc mơ bay xưa cũ ùa về trong nó. Nó biết mình thể kháng lại nữa rồi – nó lấy bùa Khinh Công, mũi tên vàng với những cái đuôi bạc mới ra, ngồi đó vân vê trong tay, và Septimus cảm thấy luồng Pháp Thuật chạy xuyên qua mình. Khi chùm đuôi bắt đầu vẩy vẩy, Septimus cảmt aháy mình nâng lên khỏi mặt đất, lên, lên, cho đến khi nó cao bằng với mái vòm lớn. Giữ mũi tên giữa ngón trỏ và ngón cái, nó chỉ mũi tên về phía Cung Điện, sau đó giang rộng cánh tay ra như nó có lần nhìn thấy ngài Alther làm – và nó bay.

      Nó sà xuống đường Pháp Sư, thấp và nhanh đúng như ngài Alther vẫn thích làm, tăng tốc bay vù qua cổng Cung Điện, và rồi vút lên mái Cung Điện, y như nó vẫn luôn làm trong giấc mơ của mình. Bên dưới nó thấy Jenna và cha ruột của dựa người vào bức tường có lỗ châu mai, rù rì chuyện. Phân vân biết có nên cắt ngang họ hay , nhưng nó nóng lòng muốn làm Jenna ngạc nhiên và muốn biểu diễn cho thấy nó có thể Khinh ông tuyệt đến thế nào. Septimus lượn lờ lúc, đợi may ra chộp được khoảng nghỉ trong câu chuyện dông dài của Milo. Chợt có gì đó đập vào mắt nó.

      Ở phía bên kia song, con ngựa phi nước đại qua vùng nông trại. Cưỡi lưng con ngựa – vừa mới trộm được từ quán trọ Cá Bơn Sảng Khóai – là bóng dáng quen thuộc. Simon.

      Septimus chỉ bùa Khinh Công về phía hình dáng lờ mờ của cả mình. “Bám theo,” nó thầm với bùa. Trong chớp mắt, nó thấy mình bứt xa khỏi Cung Điện và lao vèo vèo qua những bãi cỏ dẫn tới dòng song. lâu sau mùi ẩm ướt của dòng song tràn ngập lỗ mũi khi nó bay là đà qua mặt nước ban đêm lạnh giá, làm kinh sợ mấy con vịt bơi. Khi tiếng quác quác giận điên của lũ vịt chìm xuống, Septimus qua được đến bờ bên kia; nó bay phía mái lợp tranh của căn nhà nông trại đơn độc và chao liệng lúc, tìm kiếm mình. Qủa sai, ở đằng xa, dọc theo con đường đất quanh co uốn lượn quanh vùng nông trại, Septimus thấy kỵ sĩ thúc ngựa bươn vào màn đêm cú chuỷen tóc dọ chung cuộc ngoạn mục đưa Septimus ngang bằng với Simon, và Septimus bay – thọat đầu bị nhing thấy – sát bên cạnh gà, dễ dàng giữ cho ngang tốc độ với con ngựa mồ hôi nhễ nhại.

      Cuối cùng Simon bỗng nhận ra mọi việc được suôn sẻ, “Mày!” Gã thét lên, dừng kịt lại trong đám mây bụi.

      Septimus đáp xuống nhàng đằng trước con ngựa.

      “Mày… mày… mày lấy bùa Khinh Công của tao,” Simon líu lưỡi, nhìn thấy mũi tên vàng trong bàn tay Septimus.

      “Tôi có bùa Khinh Công ,” Septimus đồng ý, bay gọn ghẽ khỏi tầm với khi Simon lảo đảo chồm tới trước để giằng lấy bùa. “Nhưng bùa Khinh Công phải là của tôi. Bùa Khinh Công thuộc về ai cả, Simon. nên biết rằng lá bùa cổ xưa luôn là chủ nhân của chính nó.”

      “Đồ ngu vênh váo,” Simon rít trong hơi thở.

      gì?” Septimus hỏi, dù nghe mồn .

      gì cả. Biến khỏi đường tao thằng ranh, và đừng nghĩ lần này mày có thể thực cái trò Chết Đứng rác rưởi đó.”

      “Tôi ,” Septimus đáp, lượn lờ đằng trước con ngựa. “Tôi đến để bảo rằng phải khỏi nơi này.”

      “Thế chính xác mày định làm gì,” Simon gầm lên.

      Septimus giữ nguyên vị trí, chặn đường của Simon. “Tôi cũng đến để bảo rằng nếu còn muốn làm hại Jenna lần nữa, phải đối đầu với tôi. Hiểu chứ?”

      Simon nhìn trừng trừng vào thằng em út. Septimus cũng nhìn trả lại trừng trừng, đôi mắt xanh lá cây rực của nó lóe sáng giận dữ. Simon gì, bởi vì có sức mạnh tóat lên ở Septimus mà nhận ra – sức mạnh của người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy.

      “Hiểu ?” Septimus lặp lại.

      “Hừm,” Simon ậm ừ.

      “Giờ có thể ,” Septimus lạnh lùng và đáp xuống đất, đứng dạt qua bên để Simon có thể qua.

      Simon nhìn xuống thằng nhóc áo xanh lá cây vô phương tự vệ giữa vùng nông trại hoang vắng, tối mịt mùng vào lúc quá nửa đêm. Chỉ cần thoáng chớp thôi, làm cho thằng Septimus biến mất dễ biết chừng nào – ai biết chuyện gì xảy ra. ai mảy may nghi ngờ… nhưng Simon làm gì. Và rồi bất thình lình gã đá thúc con ngựa và phi nước đại vụt biến mất, ngoái đầu lại la lớn, “Tao ước phải chi mày chết khi bà mụ nhặt được mày!”

      Septimus bay chầm chậm trở lại tháp Pháp Sư với những lời của Simon văng vẳng trong đầu.

      Nó mỉm cười. Người cuối cùng trong số các trai nó chấp nhận nó.

      Chuyện gì xảy ra trước đó...

      Billy Pot

      Billy Pot từng là chủ cửa hàng chuyên bán bò sát nuôi trong nhà. Billy mê đám thằn lằn và rắn, ta đặc biệt chuyên về gây giống loài trăn màu đỏ tía. Con trăn lớn nhất mà Billy từng gây giống sống ở sân sau cửa hàng giày của Terry Tarsal. Terry, vốn chẳng ưa gì loài rắn, phải rất miễn cưỡng dùng bộ da lột của chúng để làm những đôi giày da trăn mũi nhọn cho bà Marcia.

      Khi Bảo hộ Toàn quyền mua bày rùa đớp từ cửa hàng của Billy và sau đó ra lệnh cho ta chuyển đến Cung Điện để trông nom chúng, Billy dám từ chối. Cháu của Billy, Sandra, tiếp quản cửa hàng, và trước phản đối kịch liệt của Billy, nàng bắt đầu bán chuột đồng làm cảnh và thỏ lông mịn như tơ. Những mặt hàng thú mới của Sandra tỏ ra được rất nhiều người ưa chuộng và lâu sau nàng đề nghị mua luôn cửa hàng thú cưng của Billy.

      Với số tiền Sandra đưa cho mình để mua lại cửa hàng, Billy lập nên những hang nuôi thằn lằn gần bờ sông, sáng chế ra cỗ máy kỳ quặc và bắt tay vào công việc bao giờ kết thúc là thực cho được bãi cỏ hoàn hảo. Khi gia đình Heap chuyển vào Cung Điện với Jenna, Silas mời Billy tiếp tục ở lại và giúp họ tống khứ bọn rùa đớp . Billy đồng ý, nhưng công việc cho thấy là khả thi và ta bỏ cuộc sau khi suýt mất ngón tay cho con rùa đặc biệt hung dữ.

      Una Brakket

      Una Brakket là quản gia ở Doanh trại Thiếu sinh quân khi Septimus mới chập chững biết . Una thích lũ con trai, thậm chí đoái hoài tới chúng và khiến bọn Thiếu Sinh Quân sợ chết khiếp; chẳng bao lâu sau mụ ta bị thuyên chuyển và trở thành quản gia cho Thợ Săn và đội truy sát của . Una Brakket lòng dạ ngưỡng mộ Thợ Săn, mặc dù liệu Thợ Săn có thèm chú ý tới mụ hay vẫn còn là mối nghi ngờ. Có lần chỉ hỏi mụ xem vớ của đâu, thế mà mụ ngơ ngẩn loanh quanh trong cơn mộng tưởng suốt nhiều ngày sau đấy. Sau đó mụ bắt đầu thích giấu vớ của Thợ Săn để mong có thể hỏi đến mụ lần nữa, nhưng bao giờ hỏi.

      Khi Bảo hộ Toàn quyền chạy trốn và jenna trở về sống trong Cung Điện với tư cách là Công Chúa, Una lợi dụng Dự án Cơ Hội Thứ Hai[1] của ngài Alther và bà Marcia. Mụ xin vào làm quản gia cho Cung Điện, nhưng thành vì Sarah Heap nghĩ mụ đáng sợ. Rốt cuộc, Dự án lại đưa mụ đến yết kiến giáo sư Weasal Van Klamff, ông đành nhận mụ vào làm chỉ bởi vì quá kinh sợ mụ nên dám từ chối.

      Tuy nhiên, cảm tình của Una vẫn dành cho DomDaniel, và mụ tham gia vào Tổ chức Khôi phục, mạng lưới bí mật của những kẻ mong muốn trở lại. Chúng gặp nhau mỗi tối thứ bảy dưới vỏ bọc là những buổi khiêu vũ kiểu đồng quê. Chính nhờ thông qua chúng mà Una bắt nối được với Simon Heap.

      [1] Dự án Cơ Hội Thứ Hai: dự án giúp những kẻ thân bảo bộ có cơ hội hoàn lương và tạo dựng cuộc sống mới. (ND)

      Giáo sư Weasal Van Klamff

      Weasal Van Klamff xuất thân từ dòng họ lâu đời gồm những giáo sư. Cách đây nhiều trăm năm, giáo sư Doris Van Klamff phát minh ra công thức bí mật rất phức tạp nhằm trừ khử Những Thứ Ám Ảnh. Những thứ này bao gồm Vong, chẳng hạn như Vong theo bà Marcia, và những Bóng Ma, giống như loại Chờ Đợi ngài Alther khi ngài còn là Học Trò của DomDaniel. Mặc dù dòng họ Van Klamff có khả năng toán học tuyệt vời, nhưng họ có khuynh hướng rất dễ bị mắc lừa và cực kỳ hay quên; Weasal phải là ngoại lệ.

      Sau khi cho của Weasal, Otto, trong khi pha chế hợp chất để bay hơi tự thôi mình mất, cùng với phòng thí nghiệm Van Klamff truyền thống, Weasal quyết định từ bỏ việc thí nghiệm và sống cuộc sống yên bình bên cạnh hào nước. Khi chuyển đến sống trong ngôi nhà của mình bờ trượt Rắn, ông hoảng hốt khi phát ra phòng thí nghiệm cổ bị giấu kín ở cuối cụm đường hầm chằng chịt. Weasal mất nhiều nằm cố phớt lờ phòng thí nghiệm đó, nhưng cuối cùng sức lôi cuốn quá lớn, và ông quyết định tiếp tục công việc của cha mình. Ông hoàn chỉnh Hợp chất của Otto, nhờ đó nó hoạt động như bức màn tất đắc lực, che chắn được năng lượng. Hắc thuật, và do đó vô tình cung cấp nơi nấp lý tưởng cho những khúc xương của DomDaniel.

      Weasal Van Klamff là người cả tin và biết tí ti gì về việc Una Brakket thuộc về Tổ chức Khôi phục.

      Beetle

      Beetle chỉ đứa bé. Cậu lớn lên ở khu Mở Rộng – ba mẹ cậu có hai phòng lớn ở ngay tầng bên dưới gia đình Heap. trong những kỷ niệm đầu đời của Beetle là mẹ cậu thúc mạnh lên trần nhà bằng cán chổi, và thét vang, “Ôi lạy trời yên lặng coi!” Ba mẹ Beetle quyết cho Beetle lèo bánh hay dính líu bất cứ điều gì tới nhà Heap, và như thể chỉ càng khiến gia đình mang vẻ hấp dẫn hơn đối với Beetle, và chẳng bao lâu sau cậu kết bạn với Jo-Jo Heap, đứa bằng tuổi cậu.

      Vào lúc mười tuổi, vui mừng khôn xiết đối với bà mẹ, Beetle vượt qua bài kiểm tra tuyển người mang tính cạnh tranh rất cao của Văn phòng Sao lục. Beetle bắt đầu bằng chân chạy việc vặt, và sau khi nhân viên Kiểm tra rời khỏi ván trượt và gãy mắt cá chân, Beetle được tin cậy đủ để tiếp quản vị trí kiểm tra đường hầm băng hàng tuần.

      Beetle thích Heaptimus lắm, nó gợi cho cậu nhớ vè Jo-Jo, nhunwng nó cũng chia sẻ yên thích của Beetle về Phép Thuật và sở thích những thức uống có ga kỳ lạ. Beetle cùng chia sẻ ghê lạnh của Septimus đối với Hắc thuật, như có lần với Septimus khi uống ca rễ cây xèo xèo, “Tất cả các thứ Hắc thuật đều đen tối. Cái lão già kinh khủng đó vừa trở về tháp Pháp Sư là con chuột đồng của chết luôn, mẹ bị cái nhọt to tướng ở mũi, còn con mèo chạy mất. Tất cả chỉ vì cái thứ Hắc thuật bám vào người trong khi làm việc, xong rồi lại mang nó về nhà. Khủng khiếp.”

      Septimus cũng rất thích Beetle. Nó tin cậu hoàn toàn.

      Boris Catchpole

      Trong trí nhớ của Boris Catchpole người ta chỉ gọi bằng họ của . Mẹ cố hết sức để gọi là Boris, nhưng cho đến lúc bắt đầu được chập chững cuối cùng bà cũng phải như những người khác, tức là bỏ cuộc và chuyển qua gọi cách đơn giản là Catchpole – dù sao cái tên Boris cũng có vẻ quá phổ biến.

      Hoài bão của Catchpole là trở thành Thợ Săn. chạy trốn khỏi nhà và gia nhập đội Truy sát ở Vùng Đất Hoang vào lúc DomDaniel chuẩn bị cuộc ám sát Nữ Hoàng. CatchPole rèn luyện chăm chỉ trong Đội, nhưng được chú ý. bỏ việc đánh răng từ khi còn bé và hề có ý định đánh răng lại bởi vì có mẹ ở đó để mà nhắc nhở. Khi né, thói quen hãi hùng là búng tặc tặc lưỡi lên vòm miệng và khiến cho mọi người dễ bực mình, và hết, lớn quá nhanh, chẳng bao lâu trở nên quá cao nên thể trở thành mọt Thợ Săn Giỏi được.

      Catchpole, đúng như tên (*), trở thành phố Thợ Săn nhưng tiến xa hơn được nữa. Sau cuộc lật đổ Bảo hộ Toàn quyền, tham gia vào Dự án Cơ Hội Thứ Hai và được châp nhận làm phó Pháp Sư – vị trí pháp sư mới học hành cho những người trưởng thành hoặc có kiến thức Pháp Thuật nền.

      Hoài bão của Catchpole giờ là trở thành pháp sư đúng nghĩa. Ít nhất là muốn trở thành Pháp sư Thường đẳng, nhưng quyết định rằng từ chối công việc của Pháp sư Tối thượng nếu được trao cho – Điều đó là điều bao giờ xảy ra.

      Jannit Maarten

      Nếu bạn cầu Jannit Maarten diễn tả về mình, bà , “thợ đóng thuyền.” Và bà chỉ như thế. Jannit chỉ dành chút thời gian chính trị, thậm chí cho đám pháp sư còn ít hơn. Bất kỳ chuyện gì diễn ra trong Lâu đài cũng ảnh hưởng được đến Jannit, cả thế giới của bà chỉ là xưởng đóng thuyền ngay bên ngoài những bức tường Lâu Đài. Bà ngủ ngon lành trong chiếc vòng của mình vào ban đêm, thức dậy lúc bình minh và sung sướng tiêu hết thời gian ban ngày vào việc đóng, sửa, sơn, cào – cũng như hàng trăm việc tỉ mỉ khác mà những con thuyền đòi hỏi.

      Mặc dù Nic** thấy khó tin, nhưng Jannit cũng từng là , dù chính bà cũng quên điều đó – có thể bởi vì bé đó lớn lên trong nông trại ở giữa Vùng Nông Trại và rất thích gà, rất ghét bò, và ghê tởm heo. Ba me của bao giờ hiểu tại sao , lúc mười bốn tuổi, Jannit ăn bận như thằng con trai và chạy biến ra biển. Lúc mười chín tuổi, trở về với chiếc thuyền của chính mình và lập xưởng đóng thuyền Jannit Maarten sát bên bến hải quan bỏ hoang của Lâu Đài. Jannit hoàn toàn hạnh phúc với cuộc sống của mình và bất đắt dĩ mới đặt chân ra ngoài xưởng đóng thuyền quý.

      Bóng Săn

      Bóng Săn có thời là trái banh quần vợt. Nó mất hai năm nằm trong cái rãnh ướt lũng bũng bên cạnh sân quần vợt của bến cảng sau khi ai đó đánh nó ra ngoài cửa sổ trong cơn nóng giận. Nó bị chuột gặm thảm hại và từ từ rả ra, cho đến ngày nọ Simon Heap nhặt lén, đút nó vào túi gà và đưa nó trở về đài quan sát.

      Trong vài tháng sau đó, Bóng Săn nằm trong cái niêm phong được Simon Deap cẩn thận chăm sóc. thường xuyên chăm đầy khí độc và độc dược và đó, tụng niệm bên nó suốt nhiều giờ dài dằng dặc và bao bọc nó bằng những bùa Đảo Ngược. Khi Bóng Săn dần dần tỉnh lại, nó nghe những câu thần chú được lẩm bẩm phía mình vào nửa đêm và ngửi thấy mùi khói Hắc Thuật mà Simon rải đều khắp cái hộp. Nó nằm đó, lo lắng phập phồng nhưng thích thú, đợi xem chuyện gì xảy ra.

      Sau đó, tối nọ, vào đêm Hắc ám của Mặt Trăng, Bóng Săn được thả ra khỏi hộp, lần đầu tiên nó được thấy thế giới, và nó vô cùng vui thích. Simon Heap cũng hài lòng với tạo vật của kém. Bóng Săn tỏa ánh sáng rực và xem ra khá thông minh; nó biết nghe lời và học hỏi rất nhanh. Chẳng bao lâu nó được theo Chủ Nhân khắp mọi nơi và trở thành đầy tờ trung thành và tin cậy nhất của Simon Heap.

      Y ta Meredith

      Y tá Agnes Meredith, cựu bà mụ chinh, cựu kẻ bắt cóc trẻ con, đến bến cảng sau khi được thả khỏi Nhà Thương Điên của Lâu Đài dành cho những kẻ bị lừa dối và đau khổ. Mụ lang thành các nẻo đường tìm kiếm thằng con của mình, Merrin, nhưng gặp. Cuối cùng mụ tiêu cạn tiền trợ cấp của Nhà Thương Điên và tìm được việc làm là chân quét dọn tỏng nhà trọ xơ xác ở Nhõ Dây Thừng, sát bên nhà của Bộ lạc Phù thủy bến cảng.

      Chủ của nhà trọ là bà Lorrie Bundy, phụ nữ to lớn cộc tính và nhớ dai. Florrie có mối thù sâu sắc, nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và chính từ cuộc tranh cãi nóng nảy về gói trà dùng rồi (Florrie cho rằng gói trà đó nhắm vào đầu bà cách có chủ đích) mà dẫn đến sụ kết liễu của bà. Linda, kẻ ngày nọ biết làm gì hay hơn là ném gói trà vào đầu Florrie , cuối cùng chán ngấy chuyện bị la hét nên đặt bùa Co Rút vào Florrie. Sau vài tuần, bùa co rút dần dần mòn kích thước của Florrie lại chỉ còn bằng đúng gói trà, và buổi sớm sương giá, bà trượt chân băng, rơi xuống cái mương bên ngoài cửa sau và chết đuối.

      Anges Meredith quan sát Florrie co rút lại với vẻ khoái chí vô cùng. ngày nọ, khi thể tìm thấy bà chủ nhà trọ bé tí đâu, y tá Meredith liền tiếp quản căn nhà trọ cứ như gì xảy ra. Chẳng bao lâu sau mụ biến nó thành của chính mụ - treo giấy dán tường có rắc bột lên, dán lên tường những thông điệp kỳ dị và nhồi ngập căn nhà bằng hoa khô và búp bê. Mụ thích ở bên lũ búp bê của mụ, và sau thời gian mụ ngừng tìm kiếm Merrin. Ít nhất là với búp bê, người ta biết mình ở đâu, mụ tự nhủ như vậy.

      Maureen

      Maureen lần chạy trốn đến bến cảng với trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây sau biến cố trong nhà bếp Cung Điện. Maureen và trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây, Kevin, dành dụm để mua quán ăn của riêng mình. Khi Kevin được nhận làm đầu bếp con tàu buôn lớn cho chuyến vòng quanh thế giới, Maureen nhận công việc duy nhất mà có thể tìm được lúc đó, tứ làm việc trong Nhà Búp Bê. Điều đó lý tưởng lắm nhưng xoay xở để dành được tiền boa từ những vị khách dễ chịu, và ít ra sống trong cái buồng dưới cầu thang cũng có nghĩ là cần phải trả tiền thuê nhà. khát khao mong chờ ngày Kevin trở về và họ tìm được nơi bé của riêng mình gần bến tàu.

      Bộ lạc phù thủy cảng: Veronica

      Trong số những phù thủy thuộc Bộ lạc Phù thủy Veronica là người ở lâu nhất, nhưng mụ nắm được chức vụ Mẹ Phù thủy vì tính hay quên, cộng với khuynh hướng hay mộng du ra khỏi Bộ lac rồi lạc nhiều ngày liền của mụ. Veronica thích chuột, nỗi đam mê này mụ thừa hưởng từ cha mình, Jack, sống bãi cỏ tranh gần Đầm Cỏ Thô. Giống cha, Veronica có bộ sưu tập lớn những con chuột nhốt trong lồng đá mục rửa theo nhiều giai đoạn khác nhau.

      Linda

      Linda là người trẻ nhất trong đám phù thủy, và như ta vẫn tự đắc, “có thể nghĩ ra được bất cứ mưu mẹo gì”. Những phù thủy khác thích sống cùng Linda chứ thích những trò đùa ác ý của ta. Linda tính khí hung hăng và có thiên hướng dùng những câu thần chú khủng khiếp nếu ai đó làm ta cáu tiết. Nhưng sau vụ Dorinda mọc tai voi, ai trong số phù thủy thích ta nữa. Pamela, Mẹ phù thủy, thấy rằng Linda có tiềm năng và bí mật chuẩn bị cho làm người kế vị mình.

      Daphne

      Daphne là người im hơi lặng tiếng trong Bộ lạc Phù thủy. Bà hay thơ thẩn xung quanh cách hòa nhã và thích giao du, sung sướng nuôi bầy mọt khổng lồ, chầm chậm ăn mòn dần ngôi nhà. Daphne lũ mọt và hầu như chỉ chuyện trò với chúng.

      Pamela là Mẹ Phù thủy và phù thủy Hắc ám trong Bộ lạc Phù thủy. Dĩ nhiên tất cả phù thủy đều nghĩ mình là Phù thủy Hắc thuật, nhưng Pamela mới là Hắc thuật . Mụ trả qua vài năm với DomDaniel ở Đài Quan sát và trở về với nhiều câu chuyện Hắc thuật để kể, những câu chuyện đó làm kinh sợ những thành viên khác trong Bộ lạc Phù thủy, mặc dù họ thà uống nước ép ếch thối còn hơn là thừa nhận điều đó. Pamela có căn phòng riêng khóa kỹ mà những phù thủy khác phải tránh xa xa, và đêm đến, khi những tiếng thét rợn óc vang lên từ căn phòng đó, những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy phải nhét ngón tay vào lỗi tai và cố gắng ngủ.

      Dorinda

      Dorinda hề phải lo lắng cách thái quá đến diện mạo của mình cho đến cái đêm tai voi kinh hoàng đó. ta biết mình thuộc loại ưa nhìn đặc biệt cho lắm, vì mũi hơi bị cong sau cuộc tranh cãi với cái thang thoái hiểm, và ta bao giờ thích mái tóc của mình. Nhưng Dorinda từ bỏ bất cứ cố gắng chải chuốt riêng tư nào sau khi Linda buộc tội ta nghe lén cuộc tình tự riêng tư của Linda với thầy phù thủy trẻ mà Linda mang về nhà. Dorinda cực lực phủ nhận vụ - dẫu cả Bộ lạc Phù thủy đều biết tỏng ta hay rón rén quanh để lắng nghe qua lỗ khóa. Linda nổi cơn lôi đình và ban cho Dorinda cặp tai voi (tai voi châu Phi – thứ tai lớn ), bảo rằng “nếu nó định quạt tai lung tung khắp nơi này, có cặp tai tươm tất để mà tha hồ quạt.” Kể từ đêm hôm đó Dorina luôn dội chiếc khăn tắm lớn quấn quanh đầu và luôn giả vờ đối với những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy rằng mình vừa mới gội đầu xong, mặc dù họ biết mười mươi – và Dorina biết bọ biết – rằng bên dưới cái khăn tắm khổng lồ là đôi tai voi châu Phi được gấp lại gọn gàng. Đó là câu thần chú vĩnh cửu, và thậm chí đến Pamela cũng thể tống khứ nó được.

      Hugh Fox, Trưởng phòng Sao chép Mật

      Hugh Fox người sao chép văn bản tầm thường ở Văn phòng Sao lục suốt hai mươi lăm năm ông ta được chọn để trở thành Trưởng phòng Sao chép Mật.

      Khi DomDaniel dụ bà Marcia trở về từ Đầm Cỏ Thô, nắn cướp quyển sách bà mang theo bên người, Vô Hiệu Hóa Hắc thuật Gã Thầy Đồng Gọi Hồn đưa quyển sách cho Waldo Watkins, lúc đó là Trưởng phòng Sao chép Mật và bắt ông ta dùng Quyền năng Hắc thuật Mật luôn luôn cõ sẵn ở mỗi Trưởng phòng để Mở Khóa những bí mật của nó. Watkins tù chối, và tối đó đường về nhà Waldo Watkins biến mất, bao giờ lại nữa.

      DomDaniel dứt khoát đòi thay thế ngay lập tức và việc rút thăm được thực . Rút thăm là nghi thức mỗi người chép văn bản đặt cây bút của mình vào bình tráng men lớn cổ xưa. Cái bình đó được đưa vào buồng Tuyệt Mật và để lại qua đêm. Sáng hôm sau cây bút được thấy nằm bàn, trong khi những cây khác vẫn còn lại trong bình. Theu truyền thống, người chép văn bản trẻ tuổi nhất được phái vào trong để mang cây bút được chọn ra.

      Tuy nhiên, khi Hugh Fox được chọn, DomDaniel đồi đích thân mình phải vào buồng Tuyệt Mật để lấy cây bút. Khi mang ra cây bút bị nhai nát của Hugh Fox, ai tin nổi. Ngay cả Hugh Fox cũng tin. Có tin đồn về việc chọn công bằng, nhưng gì có thể chứng minh cả.

      là DomDaniel đặt cây bút thuộc về Jillie Djinn, người chép văn bản đọc giỏi và tài năng, trở lại bình, và kéo cây bút của Hugh Fox ra – bởi vì cho là Hugh Fox là kẻ dễ lôi kéo.

      Và vì thế Hugh Fox được cung cấp kiến thức từ trong cuốn sách Chép Tay Thần Bí, được giao những con dấu hành chính, và nhậm chức Trưởng phòng Sao chép Mật cách hợp lệ. Nhưng tức đến phần uất đối với DomDaniel, Hugh Fox gặp những rắc rối lớn trong việc Mở Khóa những bí mật trong quyển sách của bà Marcia, tuy vậy lão ra cũng xoay xở tìm thấy bùa Khinh Công – được làm phép Giấu trong bìa sách – ngay đúng lúc DomDaniel trở thành đống xương trong Đầm Cỏ Thô.

      Sau kết thúc của DomDaniel và việc trở về tháp Pháp sư của bà Marcia cùng với Septimus, Tổ chức Khôi Phục đe doại Hugh Fox có số phận giống như số phận giáng xuống Watkins đáng thương nếu lão ta cho Simon vào Đường Hầm Băng. Hugh Fox đồng ý. Và khi Simon Heap đòi hỏi bùa Khing Công, lão ta trao nó cho gã lời ú ớ. DomDaniel đúng – , Hugh Fox là kẻ dễ lôi kéo.

      Partridge

      Colin Partridge từng là lính Bảo Hộ. ta bị ép buộc phải tòng quân từ ngôi làng ở ngoại vi vùng chăn thả cừu. Partridge vốn là đứa trẻ hay mơ mộng mà ngày giờ của nó phải dùng vào việc chăm nom bầy cừa cho cha. Partridge làm mất nhiều cừu hơn là cha nó tính, và cha nó tuyệt vọng tin nó có thể là người chăn cừu giỏi. Vì thế khi Đoàn Chiêu Mộ lính Bảo Hộ hứa “rèn luyện nó nên người”, cha của Partridge để chàng Colin trẻ tuổi khăn gói và ra ngay, trước nỗi hoảng loạn vô cùng của người mẹ lẩm cẩm.

      May mắn cho Partridge, ta tòng quân ngay lúc kết thúc của triều đại Bảo hộ toàn quyền, và trong vòng tháng ra quân, ta ghi tên vào Dự án Cơ Hội thứ Hai và được Văn phòng Sao lục giành giật ngay. Partridge chưa bao giờ vui hơn thế trong đời.

      Những con ma đường hầm băng

      Eldred và Alfred Stone là an hem. Họ, giống như nhiều thợ xây đá khác, được đưa vào đúng thời Đại họa bên dưới Lâu Đài. Họ làm việc khẩn trương nhiều giờ liền để cố gắng sửa chữa những lỗ thủng trong đường hầm nhưng có kết quả. Họ thuộc số ba mươi người bị kẹt bởi bùa Đông Cứng Khẩn Cấp và bao giờ thấy lại ánh sang ban ngày nữa. Cùng với những người đồng hành với mình, họ ngừng lang thang trong cụm đường hầm, nhận thức được rằng hàng trăm năm trôi qua kể từ khi họ bị Đông Cứng. Cả hai em tin rằng cuộc sống vẫn chờ đợi họ, chỉ cần ai đó chỉ cho họ lối ra.

      Ellis Crackle

      Ellis Crackle từng là Đồ Đệ của DomDaniel khi lần đầu Thầy Đồng Gọi Hồn là pháp sư tối thượng ở Lâu Đài, cách đây nhiều năm. Ellis là thanh niên trẻ tuổi vụng về, chậm chạp với rất ít khả năng Pháp Thuật, nhưng DomDaniel quan tâm. chọn Ellis chẳng qua là vì chàng này là em trai của Betty Crackle. Vào lúc đó Betty Crackle là Người Canh Giữ Thuyền Rồng. Bà ta là phù thủy thiện bừa bãi, người có ý định tốt, nhưng luôn luôn để lại sau mình những chuyện rắc rối, do tính đãng trí và thiếu gọn gàng, ngăn nắp chung. Cuối cùng dì Zelda phải nắm quyền thay cho Betty sau khi dì vơ vẩn tới bến cảng vào đêm mùa đông và bị kẹt lại bởi Trận Gío Bấc.

      Ellis Crackle thậm chí còn cẩu thả hơn Betty, nhưng DomDaniel suy đóan rằng phải có cái gì đó rất quan trọng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – cái gì đó ngăn cản kiểm sóat hòan toàn Lâu Đài – và muốn tìn ra cái đó là cái gì. Thuê mướn em trai của Betty Crackle là cách tốt để luồn lách tìm ra bí mật đó.

      Rủi thay cho DomDaniel, sau khi Ellis nhận vị trí Học Trò, Betty và Ellis có trận cãi nhau nảy lửa. Ellis cứ khoe khoang về vị trí mới cực kỳ quan trọng của mình, và Betty, vốn là kẻ hay ghen tị, thể chịu đựng được. Bà ta ếm bùa lên ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm để khiến Ellis tránh xa ra và bao giờ chuyện với em trai của mình nữa. Và vì vậy cho nên DomDaniel đâm ra bao giờ phát ra Thuyền Rồng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – hay thậm chí ngôi nhà tranh đó ở đâu cũng biết.

      Khi dì Zelda thay thế Betty Crackle, Ellis còn lợi ích gì cho DomDaniel nữa. nhận Alther Mella làm Học Trò mới và Ellis bị Lơ Lửng – quy trình Hắc Thuật kinh tởm nhằm hạ ai đó thành Vong. DomDaniel giữ lại Ellis bất hạnh để sử dụng sau này. Sau đó Ellis trở thành hữu dụng ngay, khi thành Vong ám bà Marcia.

      Hildegarde

      Hildegarde làm việc cho Hội đồng Bảo hộ trong hộ phận tài chánh, và tiêu tốn hầu hết thời gian của mình để kiềm chế thói tiêu xài hoang phí của Bảo hộ Toàn quyền. Đó là nhiệm vụ bất khả thi. Sau đo Hildegarde bị chuyển sang Lực lượng Bán hàng, buộc phải bán tất cả của cải quý giá của Cung Điện. Hildegarde đem long mến những bức tranh cổ và những đồ đạc mà buộc long phải đem bán, nhưng thực những cuộc mặc cả sát ván và bán được chúng với giá cao.

      Hildegarde rất vui mừng khi Dự án Cơ hội Thứ hai giúp được nhận vào huấn luyện thành phó pháp sư. hơi thấy bất tiện khi làm bổn phận canh gác Cung Điện, và khi nhìn vào những nơi trống rỗng vốn xưa kia từng phủ đầy của cải lương tâm cắn rứt. hạ quyết tâm trở thành Pháp sư Thượng đẳng và thưc bất cứ cuộc sửa chữa nào có thể.

      END.

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :