Sự im lặng của bầy cừu - Thomas Harris (Truyện trinh thám kinh dị số 1 thế giới)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      55



      Cũng ngay trong lúc đó, tại điểm ở phía nam của hồ Michigan, phản lực dành cho doanh nhân hai mươi bốn chỗ ngồi bắt đầu hạ cánh xuống Calumet City, Illinois.


      Mười hai thành viên của Biệt Đội chống khủng bố cảm thấy ruột gan lộn tùng phèo và có đây đó từ đầu này đến đầu kia lối vài cái ngáp ung dung có chủ ý.


      Joe Randall, vị đội trưởng, ngồi ở phía trbuồng lái; tháo mũ liên lạc ra khỏi đầu và liếc qua tập ghi chú của mình trước khi lên tiếng. Ông tin rằng, mà cũng chính đáng thôi, toán của ông được huấn luyện chu đáo nhất thế giới. Nhiều thành viên trong toán của ông chưa được thử lửa, nhưng về mô phỏng và trắc nghiệm; đây đúng là những tay cự phách.


      Randall bỏ rất nhiều thời gian đứng các lối của máy bay, nên gặp khó khăn nào để giữ thăng bằng trong rung chuyển của lúc hạ cánh.


      - Này các bạn, DEA, Đội Phòng Chống Ma Túy cung cấp cho chúng ta nhiều chiếc xe được ngụy trang. xe tải bán hoa và của thợ ống nước. Vernon và Eddie, các hãy thay thường phục. Nếu chúng ta buộc phải dùng đến lựu đạn tê liệt, xin các bạn đừng quên mang mặt nạ vào.


      Vernon thầm vào tai của Eddie:


      - Nhớ bảo vệ cái má phình của mày nhé!.


      - Tại sao? Ông ta có đến mông à? Tao cứ tưởng nghe là mặt mà! - Eddie đáp lại.


      Vernon và Eddie, những người phải thực việc tiếp cận đầu tiên, có mặc thêm áo chống đạn mỏng dưới lớp quần áo dân . Những người còn lại có thể dùng loại khác bền hơn, có thể chống được đạn.


      - Bobbie, nhớ cung cấp cho mỗi tài xế máy liên lạc, để chúng ta gặp phải tình huống chuyện với bên DEA - Randall tiếp.


      Cơ quan Phòng Chống Ma Túy thường dùng tần số siêu cao, còn FBI chỉ dùng tần số rất cao, việc này gây bao rắc rối trong quá khứ.


      Họ được trang bị để đối mặt gần như với mọi tình huống, đêm cũng như ngày; với các bức tường họ dùng hệ thống kéo lui đựợc; nếu muốn nghe, họ có những micro cực nhạy; nếu muốn nhìn họ dùng hệ thống hồng ngoại. Các loại vũ khí có tầm hoạt động trong đêm tối rất giống với những dụng cụ của dàn nhạc, trong những chiếc hộp có hông phình lên. Người ta có thể nhận thấy chiến dịch này được chuẩn bị rất chính xác như cuộc phẫu thuật.


      Các thành viên thay bộ đồng phục bằng vải trong khi chiếc phi cơ tiếp tục hạ cánh.


      Randall nhận tin tức từ Calumet City từ chiếc mũ liên lạc. Ông dùng tay che micro lại để :


      - Này các bạn, chỉ còn có hai địa chỉ mà thôi. Chúng ta chọn cái tốt nhất, còn Đội SWAT của Chicago lấy cái kia.


      Họ đáp xuống phi trường Lansing, ở phía đông nam Chicago, gần Calumet City hơn. Chiếc phi cơ liền nhận được phép hạ cánh. Viên phi công thắng hết sức mình để cho chiếc phi cơ ngừng lại ngay chỗ hai chiếc xe hơi đậu ở đầu đường băng, rất xa ga sân bay.


      Cạnh chiếc xe tải, tiếp đón được giảm thiểu tối đa. Vị chỉ huy của DEA trao cho Randall cái gì đó giống như việc giao hoa tận nhà. Đó là cây búa sáu ký lô với cán được trang trí bằng như bó hoa, còn phần bao bằng lá nhôm màu.



      56



      Vào cuối chiều hôm nay Gumb ra tay.


      Đôi mắt vẫn tràn trề nước mắt, cho hát hát lại cuộn băng video. màn ảnh , mẹ leo lên rãnh trượt và cho rớt xuống hồ bơi. Nước mắt làm nhòa tầm nhìn của Jame Gumb, cho đến mức có cảm tưởng chính mình cũng ở trong nước.


      bụng của , bình bonillotte nóng kêu ục ục, giống như bụng của con chó con khi nó nằm mình .


      thể chịu được nữa... cái mà có dưới tầng hầm bắt Quý Báu làm con tin, đe dọa đến tính mạng của nó. biết Quý Báu đau khổ lắm. chắc có thể giết chết cái đó trước khi nó làm cho Quý Báu bị thương nặng, nhưng vẫn phải cứ thử, được chậm trễ nữa.


      cởi hết quần áo ra và mặc áo choàng vào, vì luôn trần truồng trong lúc làm công việc lột da,ên mình mẩy dính đầy máu như đứa con nít mới chào đời.


      Trong cái tủ đựng thuốc to lớn, lấy ra chai thuốc dùng để chữa trị cho Quý Báu, trong cái ngày nó bị con mèo cào. lấy thêm mấy miếng băng dính và cái vòng khớp mõm bằng nhựa mà vị bác sĩ thú y cho để ngăn nó cắn vào vết thương. Ở dưới tầng hầm có những miếng đè lưỡi mà có thể dùng để cố định cái chân bị gãy và bình xịt thuốc giảm đau để phòng trường hợp cái vật ngu xuẩn kia làm cho nó đau trước khi chết.


      viên đạn bắn ngay đầu chỉ làm hư bộ tóc mà thôi. Quý Báu đáng hưởng được việc đó. Mái tóc là vật hiến sinh để cứu sống nó.


      thầm bước xuống nhà bếp, nơi bỏ đôi dép trước khi xuống cầu thang, dọc theo sát bức tường để gây tiếng động.


      bật đèn. khi xuống đến dưới, vào trong xưởng, mò mẫm trong bóng tối quen thuộc, cảm nhận được khác biệt của nền đất dưới đôi chân của .


      Tay áo đụng phải cái lồng và nghe tiếng rít giận dữ của con bướm đêm. Cái kệ đây rồi. lấy cây đèn hồng ngoại và đeo cặp kính hồng ngoại vào. Thế giới trước mắt đổi qua màu lục. đứng im lúc trong tiếng rì rào yên lòng của các bồn chứa, trong tiếng rít của các ống sưởi. Chủ nhân của tối tăm, chúa tể của bóng đêm.


      Các con bướm được thả tự do, để lại nhiều vệt phấn quang trước mắt ; các cánh mượt như nhung, khi vỗ trong đêm tối, chạm vào mặt của như hơi thở .


      kiểm tra khẩu Python lại, nạp đạn cỡ 38 vào. Các viên đạn bay thẳng vào trong đầu giết chết ta ngay tức khắc. Nếu cái vật đó vẫn còn đứng, nhắm ngay vào đỉnh đầu, viên đạn, giống như viên Magnum, có ít cơ may xé toạc hàm dưới và như thế làm hư da ở vùng ngực.


      tiếng động, hai đầu gối quỳ xuống, các móng tay và chân bám vào các lati cũ, tiến lại gần cái giếng; Bước thầm nền đất, nhưng quá chậm vì muốn để cho mùi của có thời giờ bay xuống đến con chó trong đáy giếng.


      Miệng giếng tỏa ánh sáng màu lục. phân biệt các viên đá và ngay cả vân của nắp gỗ. đưa cây đèn lên và cúi xuống. Họ đây rồi. Cái vật đó nằm nghiêng bên như con tép khổng lồ. Có thể ngủ gà ngủ gật. Quý Báu cuốn người tròn sát vào nó, chắc cũng ngủ. Trời ơi, cầu xin cho nó chết.


      Cái đầu để trần. Bắn vào cổ... hấp dẫn quá... cứu lấy bộ tóc. , nguy hiểm quá.


      Gumb khum người xuống nữa để nhìn cho đáy giếng. Cái nòng tuyệt đẹp của khẩu Python cho phép ngắm chính xác. Chỉ cần giữ cái vật đó trong tia đèn hồng ngoại. nhắm vào thái dương, nơi mà tóc dính lại vì mồ hôi.


      bao giờ biết được con chó được báo động vì tiếng động hay mùi nào đó, nhưng Quý Báu nhảy chồm lên sủa inh ỏi, Catherine Baker Martin liền ôm nó lại và chụp lấy tấm thảm phủ lên mình họ. Chỉ còn là những khối u cựa quậy dưới tấm thảm, làm cho thể nào phân biệt đâu là con chó đâu là vật kia. tài nào xác định Catherine là khối u nào nữa.


      Nhưng thấy Quý Báu nhảy lên. thấy cái cẳng nó bị sao hết và hiểu được điều: Catherine Baker Martin thể nào làm hại con chó con. nhõm tuyệt vời! Bởi vì ta dám chia sẻ các cảm xúc của nên phải bắn vào đôi chân của ta thôi, sau đó kết liễu bằng viên đạn vào đầu. cần phải cẩn trọng nữa.


      bật đèn lên, tất cả đèn dưới tầng hầm và lấy thêm cái đèn chiếu phòng hờ. Bây giờ hoàn toàn tự chủ và lý luận hết sức sáng suốt... khi băng ngang qua xưởng, cho nước chảy chút ít trong bồn rửa để cho máu vì lý do gì có thể làm nghẽn hệ thống ống được.


      Ngay lúc bước đến các bậc và mang theo đèn chiếu, sẵn sàng hành động, có tiếng nhấn chuông ở cửa.


      Tiếng chuông rít lên và phải đứng lại để suy nghĩ, tìm hiểu xem chuyện gì thế. nghe nó từ nhiều năm rồi, cũng biết là nó vẫn còn hoạt động. Cái nắp chuông bằng kim loại đen đầy bụi, được gắn trong lồng cầu thang để cho nó được nghe thấy trong cả ngôi nhà, reo lên. Trong khi nhìn nó, người tanhấn chuông nữa, lần này lâu như muốn ngừng. biết có ai đó đứng ngoài cửa và nhấn vào cái nút có ghi chữ VĂN PHÒNG.


      Họ bỏ thôi.


      Gumb bật sáng cái đèn chiếu.


      Họ bỏ .


      Có tiếng vang lên từ trong giếng mà thèm nghe. Tiếng chuông vẫn cứ reo.


      Tốt hơn hết nên lên đó xem coi có chuyện gì. Khẩu súng Python quá dài cho cái túi của áo choàng nên để cái bàn làm việc.


      nửa đường tiếng chuông im bặt. đứng lại chờ, cử động. Im lặng. quyết định cứ xem. Ngay khi vừa bước vào nhà bếp, tiếng dộng mạnh vào cánh cửa sau, làm cho giật mình. Tại gian bếp phụ có khẩu súng săn mà biết là nạp đạn.


      Cánh cửa căn hầm được đóng chặt nên ai có thể nghe được tiếng la muốn điếc tai ở bên dưới.


      Người ta lại gõ cửa. hé mở cánh cửa, được giữ bằng dây xích an toàn.


      - Tôi có nhấn chuông ở phía trước nhưng thấy ai trả lời, - Clarice Starling . - Tôi tìm gia đình của bà Lippman, ông có thể giúp tôi ?


      - Họ còn ở đây nữa - Gumb trả lời và đóng cửa lại - vừa xoay lưng bỏ có tiếng gõ cửa nữa, lần này mạnh hơn.


      lại hé cửa.


      Người thiếu nữ trình cho tấm thẻ qua khe hở. đọc được Cơ Quan Điều Tra Liên Bang.


      - Xin ông thứ lỗi, chúng tôi tìm cách liên lạc với gia đình Lippman. Tôi biết trước đây bà ta ở tại ngôi nhà này. Tôi xin ông hãy giúp chúng tôi.


      - Bà Lippman chết từ lâu rồi. Theo tôi được biết, bà ta hề có thân nhân gì hết.


      - Vậy chưởng khế hoặc kế toán? người nào đó có tiếp cận với các sổ sách của bà ta? Thế ông có biết bà Lippman ?


      - Biết sơ thôi, nhưng muốn gì ở bà ta?


      - Tôi điều tra về cái chết của Fredrica Bimmel. Nhưng xin ông cho biết ông là ai?


      - Jack Gordon.


      - Ông có quen biết Fredrica Bimmel khi này còn làm việc cho bà Lippman ?


      - , có phải hơi to ? Có thể tôi có gặp ta nhưng chắc lắm. Tôi muốn tỏ ra vô lễ... nhưng tôi ngủ... Bà Lippman có viên chưởng khế, tôi có tấm danh thiếp của ông ta ở đâu đây, để tôi xem coi có tìm được . có muốn vào ? Trời lạnh quá và con mèo tôi đến chường mặt trong giây lát. Nó chuồn mất trước khi tôi kịp bắt được nó.


      bước về cái bàn ở cuối bếp, kéo bức rèm qua và lục trong vài ngăn tủ. Clarice bước vào trong phòng và lấy cuốn sổ tay ra.


      - Câu chuyện khủng khiếp đó. Tôi vẫn run mỗi khi nghĩ đến nó. Tôi hy vọng là người ta mau chóng bắt được tên hung thủ đó chứ.


      - Chúng tôi nỗ lực đây. Thế ông mua lại ngôi nhà này sau khi bà Lippman chết phải ?


      - Đúng vậy. - Gumb xoay lưng lại với Clarice và thò tay vào trong ngăn tủ và quơ lung tung trong đó.


      - Vậy ở đây còn giấy tờ gì ? Sổ sách gì đó?


      - , còn gì cả. Thế FBI có đầu mối nào chưa? Người ta đám cảnh sát ở đây biết gì cả. Thế các người có mô tả nào , các dấu tay chẳng hạn?


      Con nhân sư đầu lâu từ từ bò ra khỏi chiếc áo ngủ của . Nó dừng lại ngay giữa lưng, gần vị trí của trái tim, sẵn sàng cất cánh bay .


      Clarice bỏ cuốn sổ tay vào trong túi xách.


      Gumb, cám ơn Trời, áo vét mình có cài nút. lý do nào đó để ra ngoài, tìm điện thoại. được, biết mình là dân FBI, nếu mình bỏ ngay lúc này, giết chết ta ngay. Phải tóm cổ mới được. Điện thoại của . Mình thấy đâu cả, phải hỏi thôi. Phải thiết lập liên kết và tóm cổ thôi. Phải làm cho té, ấn mặt xuống đất trong khi chờ đợi cảnh sát. Đúng vậy, cứ làm . xoay lại kìa.


      - Đây số điện thoại của ông ta đây. - chìa tấm danh thiếp ra.


      Có lấy ?


      - Hay lắm, cám ơn ông, ông Gordon. Ông vui lòng cho tôi gọi điện thoại được ?


      Ngay lúc để tấm danh thiếp xuống bàn, con bướm bay . Nó bay ngang qua đầu của và đậu cái kệ cạnh bồn rửa.


      nhìn thấy con bướm. Khi thấy Clarice nhìn con bướm mà mắt ta nhìn chăm chăm, hiểu ngay. Ánh mắt của họ cắt ngang nhau.


      Gumb nghiêng đầu qua bên và mỉm cười.


      - Tôi có máy điện thoại dây trong nhà bếp. Để tôi lấy cho .


      được! Hãy ra tay ngay . Trong nháy mắt, rút súng ra bằng cử chỉ nhanh như chớp mà tập dượt biết đến mấy ngàn lần và chỉa ngay ngực .


      - được cử động.


      tr`môi.


      - Bây giờ hãy đưa tay lên, và từ từ thôi.


      Phải đưa ra ngoài và dùng cái bàn để ngăn giữa hai người. khi ra đến đường lộ, bắt nằm dài xuống đất và hãy kêu cầu cứu.


      - Gumb... Ông bị bắt. Ông hãy bước từ từ ra cửa .


      Thay vì tuân theo, bước ra khỏi căn phòng. Nếu giả bộ thọc tay vào trong túi hay lấy cái gì đó ở sau lưng , nếu Clarice thấy khẩu súng chẳng hạn, có thể bắn rồi. Nhưng chỉ bình thản bước ra khỏi căn phòng mà thôi.


      nghe chạy xuống cầu thang, vòng qua cái bàn để phóng theo sau. Ngay đầu cầu thang, thấy ai hết, cầu thang được bật đèn sáng trưng. cái bẫy đây. Trong cầu thang, cái bia lý tưởng.


      Từ trong giếng vang lên tiếng la yếu như thể tờ giấy bị xé đôi.


      thích cầu thang, thích chút nào hết, Clarice Starling mày hãy khẩn trương , hoặc là mày hoặc là , đơn giản thế thôi.


      Catherine Martin hét nữa, giết ta đó và Clarice bước xuống, tay thành cầu thang, khẩu súng chỉa thẳng về phía dưới: khẩu súng dịch chuyển theo đầu trong khi cố nhìn về hướng hai cánh cửa đối mặt nhau ngay dưới dó.


      Đèn sáng rực ở phía dưới này, thể nào vào cánh cửa mà xoay lưng lại với cái kia. Mày cứ , mau lên, về bên trái, nơi có tiếng la. Tại tầng hầm, tránh xa ngay khung cửa, hai mắt mở to hơn bao giờ hết. Chỗ núp duy nhất là thành giếng: men theo bức tường, hai tay đưa thẳng ra phía trước cầm chắc khẩu súng, ngón ghì cò, vòng qua thành giếng, có ai hết.


      tiếng la vang lên từ miệng giếng, và cả... tiếng chó sủa. bước lại gần, mắt rời cánh cửa, liền liếc nhanh xuống cái lỗ. nhìn thấy , ngước mắt lên trở lại, rồi nhìn xuống lần nữa và những gì học được để làm yên lòng con tin.


      - FBI đây, được cứu rồi.


      - Cứu à! MẸ KIẾP! có súng trường đấy. Hãy đưa tôi ra khỏi đây. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.


      - Catherine ơi, mọi việc đều ổn rồi. im . có biết ở đâu ?


      - HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY. TÔI CẦN BIẾT Ở ĐÂU. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.


      - Tôi đưa ra khỏi đó. im . Hãy giúp tôi. im để tôi có thể nghe được. cũng nên làm cho con chó im .


      ngồi xổm đằng sau thành giếng, nhìn về cánh cửa, tim đập như trống canh. thể bỏ mình Catherine Martin ở lại mình để tìm tiếp cứu trong khi biết tên Gumb ở đâu. bước trở lại cánh cửa, núp phía sau khung. thấy chân cầu thang và xa hơn chút phần của cái xưởng.


      Hoặc phải tìm tên Gumb, hoặc phải chắc là trốn rồi, hoặc đưa Catherine Martin ra khỏi đó, còn lựa chọn nào khác.


      xoay đầu lại, nhìn quanh nơi này.


      - Catherine, Catherine, ở đây có cái thang nào ?


      - Tôi biết nữa. Tôi thức dậy thấy ở dưới này rồi. thả cái xô xuống đây bằng sợi dây.


      cái tời được gắn cây đà, nhưng đó có dây.


      - Catherine, tôi phải tìm cái gì để đưa ra khỏi đó. bước được ?


      - Được, nhưng đừng bỏ tôi mình.


      - Tôi phải ra khỏi căn phòng này, chỉ phút thôi.


      - Đồ khốn, được bỏ tôi mình dưới cái lỗ này, nếu mẹ tôi làm thịt đó và...


      - Im Catherine. Tôi cần im lặng. phải im vì lợi ích của đấy, hiểu ? - lát sau Clarice lớn hơn - Mấy người khác đến đây trong chốc lát thôi, vì thế phải im . Người ta đưa ra khỏi đó.


      Phải có sợi dây, nhưng ở đâu mới được? Phải tìm thôi.


      Bằng cái phóng người, đến được khung cửa của cái xưởng, các cánh cửa là điều tệ hại nhất, và ngừng di chuyển dọc theo vách tường cho đến khi nhìn thấy toàn bộ căn phòng; nhiều thứ quen thuộc lắc lư trong các bể chứa nhưng có thời giờ để tỏ ra ngạc nhiên. hối hả băng ngang cái xưởng, lướt qua các bể chứa, bồn rửa và cái lồng: vài con bướm bay trong đó. phớt lờ chúng.


      Xa hơn có hành lang tràn đầy ánh sáng. Cái tủ lạnh đột nhiên khởi động ở sau lưng , xoay người lại, hơi khum người, mắt quan sát khắp nơi, khẩu súng vẫn lăm lăm tay. Hành lang. Người ta chưa dạy cách liếc nhìn vào trong hành lang. Đầu và súng cùng lúc, nhưng thấp xuống chút. Hành lang trống . Ở đầu kia, căn phòng sáng trưng. Phải chạy mau để vượt qua cái hành lang này, ngang qua cánh cửa đóng để tới cánh cửa mở sáng trưng của căn phòng. Tường sơn trắng, sàn bằng gỗ sồi màu vàng. Nhất là được đứng ngay khung cửa. Phải kiểm tra cho chính xác, đúng là các hình nhân, rằng mỗi hình nhân chỉ là hình nhân thôi. Rằng mọi cử động trong tấm gương là của chính mày đấy.


      Cánh cửa tủ lớn mở và trong đó có gì cả. Ở đầu kia, cánh cửa nhìn ra khung tối đen, vẫn còn ở dưới tầng hầm. có dây, có thang ở bất cứ đâu. Bên kia chỉ là bóng tối dày đặc. đóng cánh cửa đó lại, lấy cái ghế chẹn ngay tay nắm và đẩy bàn máy may sát vào. lên tìm kiếm cái điện thoại nếu có thể biết chắc là còn diện ở trong phần của tầng hầm này.


      trở ra hành lang, đứng lại ngay trước cánh cửa bị đóng chặt. Phải đứng đối diện với các bản lề. Phải mở nó ra chỉ bằng cái đạp thôi. Cánh cửa đập vào trong tường, có ai ở phía sau. buồng tắm cũ. Tại đó sợi dây, mấy cái móc và cua roa. Phải kéo Catherine lên hay tìm điện thoại, ở dưới đáy giếng ta sợ bị lạc đạn. Nhưng nếu Clarice chết Catherine cũng chết theo. Chỉ còn cách là đem Catherine theo để tìm điện thoại thôi.


      Clarice muốn ở trong cái buồng tắm này. có thể xuất bất ngờ và tạt ướt hết người . bước ra nhìn hai bên hành lang và trở vào để lấy sợi dây. Có bồn tắm lớn, chứa gần đầy thứ thạch cao đỏ và khô cứng. bàn tay và cổ tay ló ra ngoài, bàn tay khô queo và đen, các móng được sơn đỏ. Ở cổ tay là cái đồng hồ dễ thương. Clarice nhìn thấy tất cả mọi thứ chỉ với cái liếc mắt, sợi dây, bồn tắm, bàn tay, cái đồng hồ.


      cử động khó nhận biết của con côn trùng kim gió là hình ảnh cuối cùng mà thấy được trước khi đèn bị tắt hết.


      Tim đập mạnh đến mức làm cho đau cả vùng ngực và hai cánh tay. Bóng tối, choáng váng, cần phải sờ vào cái gì đó, bờ của bồn tắm. Cái buồng tắm. Phải ra khỏi đây chậm trễ. Nếu tìm được cánh cửa, có thể tưới căn phòng này mà có chỗ nào để núp cả. Trời ơi, phải ra khỏi đây. Cúi người xuống và ra bậc nghỉ. ánh sáng nào hết. hề có ánh sáng. Chắc gỡ cầu chì ra rồi; thế công tơ đặt ở đâu? Nó nằm ở đâu mới được? Gần cầu thang. Lúc nào cũng được đặt gần cầu thang. Như thế đến từ đó và ở giữa Catherine và mình.


      Catherine Martin bắt đầu rên rỉ lại.


      Chờ ở đây à? Cho đến bao giờ? Có thể mất rồi? biết là tiếp cứu nào cả. Đúng, biết điều đó. Nhưng rồi đây, người ta nhận thấy mất tích của mình. Đêm nay, các cầu thang đều ở hướng kia, hướng của những tiếng la. thôi.


      bước , gây tiếng động, vai chỉ phớt vách tường, quá để gây tiếng động, bàn tay đưa ra trước còn khẩu súng ở ngang tầm thắt lưng, tiến bước trong cái hành lang tối đen. Ngừng lại coi, nghe . Lại là cái xưởng. cảm thấy gian cứ lớn dần. căn phòng rộng. Ngồi xổm xuống, hai tay đưa thẳng ra trước, nắm chặt khẩu súng. Mày biết khẩu súng hướng về đâu rồi, cao đến ngang tầm của mắt, xuống chút nữa. Ngừng lại , lắng tai nghe xem. Đầu, thân hình và các tay xoay quanh cùng lúc như cái tháp. Ngừng lại, nghe xem.


      Trong bóng tối dày đặc, tiếng rít của các ống nước sưởi ấm, nước từng giọt .


      mùi dê đực nồng nặc bay vào mũi .


      Catherine vẫn cứ rên rỉ.


      Gumb với cặp mắt kính hồng ngoại, đứng sát vào tường. có cơ may nào để vập phải , cái bàn lớn nằm giữa hai người. rọi khắp người Clarice với cây đèn pin hồng ngoại. Người quá để có thể dùng được bất cứ thứ gì. Lúc trong nhà bếp, nhớ lại bộ tóc của , mớ tóc tuyệt đẹp và điều này chỉ mất có phút mà thôi. có thể lấy nó ngay nếu muốn. Để nó lên ngay cái đầu của . cúi người xuống cái giếng và “Cúc cu, tôi đây mà!”


      buồn cười khi thấy ta di chuyển mà cố gây tiếng động. Cái hông phớt vào bồn rửa, bước tới chậm, hướng về những tiếng la, khẩu súng chỉa thẳng ra trước. vui khi đuổi bắt ta trong thời gian dài... chưa bao giờ làm việc này với vật có vũ khí. vô cùng thích thú, nhưng tiếc thay, bây giờ phải lúc. Tiếc !


      phát ngay mặt. Rất dễ khi chỉ cách chưa đầy ba thước. Ngay tức .


      lên cò khẩu Python, cạch-cạch và cái hình bóng đó mờ dần để trở nên mỗi lúc lớn hơn và xanh lè trước mắt . Khẩu súng rớt khỏi tay của , lưng đập mạnh xuống đất, và mạnh bạo, cây đèn pin văng nhìn thấy cái trần. Clarice nằm dài dưới đất, gần như thấy được gì cả, điếc tai vì hai phát súng, lỗ tai vẫn còn lùng bùng, làm việc khẩn trương trong bóng tối trong khi chưa thể nghe được . bật văng hai viên đạn ra, đưa ngón tay sờ xem coi chúng văng ra hết chưa và đưa tay xuống thắt lưng để lấy kẹp đạn dự phòng, thay nó mà cần đụng vào đó, xoay khẩu súng lại và đóng cơ bẩm lại. vừa bắn bốn phát. Hai lần hai phát. chỉ bắn được có lần thôi. mò thấy các vỏ đạn mà bắn. Để chúng ở đâu bây giờ? Trong cái túi đựng đạn dự phòng. đứng im. Phải di chuyển trước khi có thể nghe được.


      Tiếng lên cò khẩu súng hề giống với bất cứ loại tiếng nào khác hết. bắn ngay khi nghe thanh đó, cần nhìn thấy gì khác hơn là các tia chớp phát ra từ các nòng súng. hy vọng bây giờ bắn trật hướng vì tia chớp giúp cho có thể nhắm được. Giờ bắt đầu nghe được rồi dù các lỗ tai vẫn bị ù.


      Nhưng tiếng gì đó? Giống tiếng rít quá vậy? Có phải ấm nước sôi , nhưng liên tục. Mà cái gì thế nhỉ? Giống như hơi thở quá. Có phải là mình ? Đúng là hơi thở rồi. Đây là tiếng của vết thương ở ngực. Mình bắn trúng ngay ngực rồi. học cách bít vết thương ngực lại, để cái gì lên đó để cho khí lọt qua được, tấm vải dầu hoặc túi nylon, rồi buộc chặt. Tiếp đến thở lại cho đầy buồng phổi. Như thế đấy, bắn trúng ngực . Bây giờ làm cái gì đây? Chờ đợi sao?


      Phải để cho mất máu và ngất mới được.


      Gò má rát quá, Clarice dám sờ tay vào. Nếu bị thương, được mó tay vào đó.


      Tiếng rên rỉ lại phát ra từ trong giếng. Catherine khóc, và lảm nhảm cái gì đó. Clarice phải chờ thôi. dám lên tiếng trả lời cho ta. thể cử động và chuyện được.


      Ánh sáng vô hình của Gumb chiếu sáng trần nhà. cố gắng dịch chuyển, nhưng được và cũng thể cử động được cái đầu của mình. con Actias luna lớn của Mã Lai bay gần đụng trần, thấy ánh đèn hồng ngoại, liền bay vòng vòng trở xuống theo chùm tia sáng. Chỉ mình Gumb thấy nó đập cánh.


      Và còn tiếng hút vào. Clarice nghe giọng ghê sợ của Gumb, tiếng thở hắt trong đêm tối.


      - cảm thấy... thế nào… khi... biết mình... đẹp như thế?


      Và thêm thanh khác nữa. Tiếng òng ọc, hơi thở hắt và tiếng rít ngưng lại.


      Clarice cũng biết thanh đó. hôm, nghe thanh này trong bệnh viện, lúc cha chết.


      lấy tay mò cạnh bàn và đứng lên. Mò mẫm, bước theo tiếng động của Catherine, tìm thấy các bậc thang và bước lên trong bóng tối.


      cây đèn cầy trong ngăn tủ trong nhà bếp. Đốt nó lên, tìm được công tơ điện ở gần cầu thang và vẫn giật mình khi bật đèn sáng trở lại. Để tắt được công tơ, phải rời khỏi tầng hầm bằng ngã khác và trở xuống ở phía sau lưng .


      Clarice phải kiểm tra lại cho chắc là chết rồi. nhắm mắt lại cho quen với ánh sáng trước khi trở xuống cái xưởng. nhìn thấy đôi chân trần lòi ra dưới cái bàn thợ. rời mắt khỏi bàn tay để gần khẩu Python trước khi đá nó văng ra xa. mở mắt trao tráo - nằm vũng máu dày đặc, chết vì viên đạn bắn xuyên thủng ngực bên phải. Clarice nhìn qua chỗ khác. chắc thế nào cũng mặc vài thứ có trong tủ quần áo.


      bước lại bồn rửa, để khẩu Magnum xuống cái giá để ráo nước, rửa hai bàn tay của mình với nước lạnh, rồi lau đến cái mặt với bàn tay ướt. có máu. phải vòng qua cái xác để lấy khẩu Python.


      Đến ngay miệng giếng, :


      - Catherine, chết rồi. thể nào hại được nữa. Tôi lên gọi điện thoại đây...


      - ! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY!


      - nghe đây, chết rồi. Súng của đây này. có nhớ ? Bây giờ tôi gọi cảnh sát và lính cứu hỏa. Tôi sợ thể đưa ra khỏi đây mà làm cho té xuống lại.


      Đám phóng viên đến ngay sau lính cứu hỏa và trước cả cảnh sát Belvedere. Viên đại úy, quá phẫn nộ vì các đèn chiếu, đuổi hết đám phóng viên lên và ra khỏi căn hầm mà ông cho đặt giàn giáo để đưa Martin lên khỏi giếng, vì ông tin tưởng vào cái tời được gắn dầm nhà của Gumb. người lính cứu hỏa xuống dưới giếng và đeo đai nịt cứu hộ cho Catherine. trồi lên, con chó ôm trong tay và muốn giữ nó ngay khi được đưa vào xe cứu thương.


      Tại bệnh viện, người ta cho con chó vào. người lính cứu hỏa được lệnh đưa nó đến Cơ quan bảo vệ súc vật, nhưng ta lại thích đem nó về nhà mình

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      57



      Tại phi trường Washington, ngay giữa đêm khuya, có khoảng năm mươi người chờ đợi chuyến bay từ Colombus đến. Phần lớn họ đến đón thân nhân của mình và đều tỏ vẻ mệt mỏi và quạu quọ, vạt áo bỏ ra ngoài quần hết phân nửa.


      Ardelia Mapp bỏ thời giờ ngắm cho kỹ Clarice khi bước xuống phi cơ. Vẻ mặt uể oải với hai quầng thâm dưới mắt. Vài điểm thuốc súng còn dính lại gò má. Clarice nhìn thấy bạn mình và chạy đến ôm chầm lấy.


      - Thế nào bạn già, - Ardelia hỏi, - mày có hành lý .


      Clarice lắc đầu phủ nhận.


      - Thôi chúng ta chứ, Jeff chờ đấy.


      Và cả Jack Crawford cũng chờ, chiếc xe của ông đậu phía sau chiếc xe tải con. Đêm vừa qua ông ở nhà của gia đình Bella.


      - Tôi... có tưởng tượng được những gì làm ? kỳ tích đấy bé. - Ông sờ vào gò má Clarice. - Cái gì thế này?


      - Thuốc súng ấy mà. Bác sĩ tự động biến mất trong hai ba ngày nữa... tốt hơn hết nên cố chùi sạch nó.


      Crawford ôm vào trong vòng tay của mình, chỉ khắc thôi, rồi đẩy ra và hôn lên trán .


      - có tưởng tượng được chứ? - ông lặp lại. - hãy về trường , ngủ giấc cho . Về ngủ , ngày mai chúng ta chuyện sau.


      Chiếc xe tải con mới này tiện nghi, được thiết kế để thực những cuộc canh chừng lâu dài. Clarice và Ardelia lên ngồi ở phía sau thùng xe.


      có Jack Crawford xe, nên Jeff lái nhanh. ta về đến Quantico trong thời gian kỷ lục.


      Clarice nhắm mắt lại. Sau ba cây số, Ardelia khều vào đầu gối : vừa khui hai chai Coca , đưa cho Clarice chai và lấy chai rượu Jack Daniels nửa lít từ trong túi xách.


      Họ uống hơi dài Coca rồi đổ rượu Whisky thế vào chỗ đó. Họ dùng ngón cái để bít miệng chai lại rồi lắc mạnh.


      - Aaaà - Clarice thốt lên sau khi uống ngụm nước pha này.


      - Mấy đừng làm đổ trong xe cho tôi nhờ. - Jeff .


      - phải lo - Ardelia đáp lại. Rồi cho mình Clarice nghe. - Tao muốn mày thấy cái mặt của chàng Jeff này trong lúc chờ tao trước cửa hàng bán rượu. Tao bảo đảm với mày là ta lúng túng vô cùng.


      Rượu Whisky bắt đầu tác động vào Ardelia thư giãn phần nào, hỏi:


      - Chuyện mày đến đâu rồi Clarice?


      - Tao cũng biết nữa, Ardelia.


      - Mày có phải trở lại đó ?


      - Có thể ngày nào đó trong tuần tới nhưng tao hy vọng là . Viên công tố ở Colombus có chuyện với cảnh sát ở Belvedere. Tao phải khai đủ mọi thứ.


      - Tao có vài tin mừng cho mày đây. Hồi tối này bà Thượng nghị sĩ Martin có gọi điện từ Bệnh viện Bethesda, mày có biết là người ta đưa Catherine về New York ? Về mặt thể chất, ta ổn rồi. động gì đến ta hết. Còn về mặt tinh thần, họ chưa biết như thế nào: ta vẫn được theo dõi. Mày có gì phải lo về phía trường học. Crawford và Brigham có gọi điện cho tao. Krendler vừa xin rút hồ sơ của ông ta lại. Cơ chế vận hành của những người đó hết ý, hoàn hảo thay vào chỗ trái tim, mày biết mà. Clarice à, mày đừng nghĩ rằng mày có thể ngủ yên chiến ắng nghe . Chỉ đơn giản là thay vì ngày vào lúc tám giờ sáng mai mày phải thi về các thủ tục khám xét nhà, mày được dời nó lại vào sáng thứ ba với môn thể dục. Như thế mình có nguyên cuối tuần để ôn lại bài.


      Về gần đến Quantico, chai rượu nửa lít cạn, họ bỏ cái vỏ chai vào trong thùng rác tại bãi đậu xe.


      - Có cái chàng Pilcher, Tiến sĩ Pilcher của Viện Smithsonian có gọi điện ba lần. ta bắt tao hứa là phải báo cáo lại cho mày biết.


      - ta phải là tiến sĩ.


      - Mày nghĩ là có chút kết quả nào ?


      - Có thể lắm, tao cũng chưa biết nữa.


      - ta có vẻ vui tính. Tao quyết định tính khôi hài là đức tính cần thiết của người đàn ông, ý tao muốn kể đến tiền bạc và vốn kiên nhẫn của chính mày.


      - Đúng và cả phép xã giao nữa. Mày được quên điều này Ardelia.


      - sai, và mấy thằng con hoang đó phải hiểu thế nào là trung thực.


      *


      Clarice như người chết rồi từ vòi sen lên giường ngủ.


      Ardelia đọc sách trong lúc chờ cho hơi thở của người bạn mình trở nên đều hơn để tắt đèn. Clarice giật mình trong giấc ngủ và cơ mặt giật mạnh cái, khiến mở mắt thức dậy.


      Cái cảm tưởng về căn phòng trống trơn đánh thức Ardelia vào lúc hừng sáng. bật đèn lên: Clarice có trong giường. Hai túi quần áo dơ cũng biến mất, biết phải tìm Clarice ở đâu.


      Trong hầm giặt ấm áp, Clarice ngủ gật, tựa người vào cái máy giặt rung rung, trong mùi thuốc tẩy và thuốc làm mềm quần áo. Clarice thích môn tâm lý học hơn trong khi Ardelia nghiêng về môn luật và chính này mứ hiểu rằng cái máy này mới giống trái tim khổng lồ đập và tiếng rì rào của nước gợi nhắc lại thanh mà bào thai có thể nghe được, và đó cũng là kỷ niệm cuối cùng của hòa bình.



      58



      Jack Crawford thức dậy rất sớm chiếc văng của phòng làm việc của mình và nghe tiếng ngáy của những thành viên gia đình bên vợ ông. Trước khi sức nặng của những công việc thường nhật đè nặng lên vai mình, trong cái khoảnh khắc tự do nhoi này, ông nhớ lại, phải về cái chết của Bella, mà những lời cuối cùng của bà với ánh mắt trong suốt và bình thản “Chuyên gì xảy ra ngoài sân vậy?”


      Ông cầm cái muỗng dùng múc hạt của Bella, và trong chiếc áo ngủ, ông bước ra cho chim ăn, đúng với những gì ông hứa với bà. Để lại mẩu tin nhắn cho gia đình bên vợ, ông thầm rời khỏi ngôi nhà trước khi mặt trời mọc. Từ trước đến giờ, ít nhiều gì ông cũng tỏ ra hòa thuận với cha mẹ của Bella, và diện của họ khử trừ được im lặng của ngôi nhà này, nhưng ông lại cảm thấy vui khi được náu tại Quantico.


      Ông lướt đọc các bản tin đến trong lúc đêm qua và chờ số báo đầu tiên của buổi sáng Clarice đến tì mũi vào cửa kính văn phòng ông. Ông dẹp bớt ít hồ sơ để làm chỗ cho ngồi và cả hai ngồi im lặng theo dõi tin tivi. À đây rồi!


      Quang cảnh bên ngoài ngôi nhà của tên Gumb với cái cửa hàng trống và các cửa sổ được sơn trắng tinh, có song sắt che chắn. Clarice khó lòng mà nhận ra được.


      Cái tháp của nỗi kinh hoàng, người phát thanh viên gọi như thế.


      Những hình ảnh quá tương phản, rung rung, của cái giếng và tầng hầm đổi qua các máy ghi hình của dân truyền hình và những người lính cứu hỏa tức giận xua đuổi những người quay phim. Các con bướm đêm, tức giận vì các đèn chiếu, sà xuống họ, con bướm đêm rớt xuống đất, nằm ngửa, hai cánh đập mạnh trong cái co giật cuối cùng.


      Catherine Martin từ chối nằm lên cáng và bước ra xe cứu thương, người được trùm lên áo vét cảnh sát, cái mõm con chó lòi ra khỏi ve áo.


      cảnh nhìn ngang của Clarice, đầu cúi xuống, tay thọc trong túi quần, phóng nhanh đến chiếc xe.


      Phim này được cắt nối lại để loại bỏ những hình ảnh của những dụng cụ chết chóc. Tại nơi sâu thẳm nhất của tầng hầm, các máy quay phim chỉ cho thấy các tầng nấc khác nhau, được rắc vôi trắng xóa, những căn phòng mà Gumb thực các tác phẩm của . Cho đến lúc này, người ta tìm được sáu cái xác.


      Crawford nghe Clarice khịt mũi đến hai lần. Bản tin bị quảng cáo làm gián đoạn.


      - Chào Starling.


      - Xin chào ông.


      - Ông chưởng lý ở Colombus có gởi bản fax lời khai của hồi đêm qua. phải ký vào hai bản để gửi trả về cho ông ta… Như vậy, có đến nhà của Fredrica Bimmel để gặp Stacy Hubka, và từ đó hỏi cung bà Bourdine tại cửa hàng mà Bimmel làm việc, tiệm Thời Trang Richard, và bà Bourdine cung cấp cho địa chỉ nhà cũ của bà Lippman.


      Clarice gật đầu.


      - Stacy Hubka có đến đó đôi ba lần để tìm Fredrica nhưng chính người bạn trai ta lái xe và những chỉ dẫn của ta quá mơ hồ. Bà Bourdine có địa chỉ chính xác.


      - Bà Bourdine với là có người đàn ông trong nhà bà Lippman sao?


      - .


      Bản tin lại tiếp tục. Bệnh viện Hải quân Bethesda. Khuôn mặt của bà Thượng nghị sĩ Martin, được quay qua khung cửa kính xe limuzin.


      - Đêm qua Catherine rất tỉnh táo. Nó ngủ rất sâu vì được uống thuốc an thần. Chúng tôi rất mừng là mọi việc kết thúc. , như tôi , nó chỉ bị choáng mà thôi nhưng rất sáng suốt. Nó chỉ bị bầm vài nơi và có ngón tay bị gãy. Nó cũng bị mất nước. Cám ơn.


      Bà ta vỗ vai người tài xế.


      - Cám ơn, , đêm qua nó có với tôi về con chó, nhưng tôi cũng chưa biết phải làm gì, vì chúng tôi có hai con rồi.


      Phim được kết thúc bằng lời khai đáng quan tâm của chuyên gia về stress, khám Catherine sau đó.


      Crawford tắt máy.


      - thấy chương trình này như thế nào, Clarice?


      - Tôi cảm thấy như bàng hoàng, ông à?


      Crawford gật đầu và tiếp ngay:


      - Bà Thượng nghị sĩ Martin có gọi tôi hồi đêm qua. Bà ta muốn gặp . Và Catherine cũng thế, ngay khi ta có thể được.


      - Tôi vẫn ở đây mà.


      - Và cả Krendler nữa, ông ta muốn đến đây. Ông ta xin rút lại hồ sơ rồi.


      - Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi có mặt ở đây.


      - lời khuyên nhé, Clarice. Hãy tiếp bà Thượng nghị sĩ . Hãy để cho bà ta bày tỏ lòng biết ơn của bà ta , hãy để cho bà ta ghi điểm với . Lòng biết ơn có mạng sống ngắn ngủi lắm. ngày nào đó có thể cần đến bà ta, theo cách hành động như bây giờ.


      - Ardelia cũng thế với tôi.


      - Mapp, bạn chung phòng với đó phải ? Ông giám đốc có với tôi là quyết định cho thi vào sáng thứ ba. Có vẻ như ta chỉ thua có điểm rưỡi người đối thủ tầm cỡ Stringfellow của ta phải.


      - Để trở thành thủ khoa của khóa học à?


      - Nhưng chàng Stringfellow đó ghê gớm lắm đấy. ta ta đứng đầu mãi lớp học được đâu.


      - Như thế ta phải đấu tranh thôi.


      Trong rối ren bàn làm việc của Crawford, có hình con gà mái bằng giấy mà Lecter làm. Crawford ấn lên cái đuôi và con gà bắt đầu mổ.


      - Chính Lecter mới là người chiến thắng, ông ta đứng đầu danh sách của những người bị truy nã gắt gao nhất cả nước. Nhưng người ta bắt được ông ta đâu, trong thời gian dài. nên đề phòng mới được.


      Clarice gật đầu.


      - giờ ông ta có rất nhiều việc phải làm. Đến khi ông ta rảnh rỗi đôi chút, ông ta bắt đầu vui đùa đây. Phải điều này: phải biết là ông ta đối xử với giống như tất cả những người khác.


      - Tôi cho rằng ông ta bao giờ giăng bẫy với tôi, đó là điều khốn nạn, vả lại tôi còn phải trả lời các câu hỏi của ông ta nữa. Nhưng, nếu trước mắt ông, tôi còn lợi ích nào nữa ông ta làm rồi.


      - ráng giữ các thói quen tốt của mình, đó là những gì tôi muốn với . Mỗi khi phải ra ngoài, nhớ trình thẻ cho quầy tiếp tân, mọi thông tin liên quan đến những dịch chuyển của được thông báo cho bất cứ người nào được xác minh. Tôi đặt máy điện thoại của vào hệ thống nghe lén, nếu điều này làm cho bực mình. Điều này được bảo mật.


      - Tôi làm gì để ông ta đến tìm tôi.


      - Nhưng có nghe những gì tôi vừa ?


      - Thưa có, tôi nghe rồi.


      - hãy cầm các lời khai và đọc lại cho kỹ . có thể thêm bớt gì tùy thích. Khi nào xong, chúng tôi chứng thực chữ ký của . Tôi rất hãnh diện về đấy, Clarice. Cả Brigham và luôn cả ông giám đốc.


      Crawford tiễn ra đến cửa. để ông lại mình ở phía sau để bước trong cái hành lang trống vắng. Ông cố theo:


      - Clarice ơi, cha ngắm nhìn đấy.



      59



      Các phương tiện truyền thông đại chúng quan tâm đến Jame Gumb suốt nhiều tuần liền. Các phóng viên báo chí tái lập lại cuộc đời của , bằng cách truy lục vào kho lưu trữ của quận Scramento:


      Mẹ của mang thai được tháng khi bà thất bại trong việc tranh Hoa hậu Scramento vào năm 1948. Cái tên “Jame” trong giấy khai sinh của có vẻ như là nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch mà người nào chịu chỉnh sửa lại.


      Biết mình thể nào trở thành tài tử điện ảnh được, mẹ ta chìm trong rượu:


      Hai tuổi, được giao cho gia đình làm con nuôi.


      Hai tạp chí tâm lý học kết luận rằng tuổi ấu thơ đó cắt nghĩa cho hành động giết chết phụ nữ trong căn hầm của , để lột da họ. Các từ điên và độc ác hề xuất trong các bài báo đó.


      Cuốn phim thi hoa hậu mà Jame Gumb thường xem cho thấy bà mẹ của , nhưng người phụ nữ trong cảnh tại hồ bơi lại là người xa lạ, như việc kiểm chứng bằng số đó cho thấy.


      Gumb được mười tuổi khi ông bà ngoại kéo ra khỏi gia đình cha mẹ nuôi, và giết chết hai người này hai năm sau đó.


      Trong thời gian ở trong dưỡng tí viện, học được nghề may mà năng khiếu nhất định.


      Cuộc đời nghề nghiệp của có nhiều chỗ khuyết. Các phóng viên khám phá được ít nhất hai nhà hàng mà làm công việc kế toán, và tiếp đến làm đây đó cho công nghiệp may mặc. Bất chấp những gì Benjamin Raspail , người ta thể chứng minh là vào thời đó bắt đầu giết người.


      làm nhân viên bán hàng trong cửa hàng làm các món trang sức bằng bươm bướm, khi làm quen với Raspail và sống thời gian với người nhạc sĩ này. Đến lúc đó bắt đầu đam mê loài bướm ngày và đêm, và cả thời gian biến hóa của chúng nữa.


      Khi Raspail chia tay với , giết chết người tình mới của Raspail, cắt đầu và lột phần da.


      thời gian lâu sau đó, gặp lại Raspail ở vùng ven biển Đông. Raspail giới thiệu với Bác sĩ Lecter.


      Việc này được chứng minh trong tuần lễ sau cái chết của Gumb, khi FBI tịch thu được từ gia đình Raspail những cuộn băng cát sét những buổi chữa trị của Bác sĩ Lecter.


      Nhiều năm trước, khi người ta bắt đầu giam giữ Bác sĩ Lecter, tòa án giao trả lại các cuộn băng những buổi chữa trị cho các nạn nhân, và họ tiêu hủy chúng. Ngoại trừ gia đình cà khịa của Raspail giữ chúng lại với hy vọng có thể sử dụng được chúng để thưa kiện về cái di chúc. Vì những cuốn băng đầu tiên chỉ chứa đựng toàn những kỷ niệm mơ hồ của thời học sinh, nên họ quan tâm nữa. Sau những bài phóng về Jame Gumb, họ nghe phần còn lại và gọi điện cho Everett Yow để hăm dọa ông này là họ dùng những cuộn băng này để xin hủy bỏ tờ di chúc. Viên luật sư này gọi điện cho Clarice Starling.


      Trong tất cả những cuốn băng này, có cái của lần chữa trị cuối cùng mà trong thời điểm đó Lecter giết chết Raspail. cũng biết được Raspail kể khá nhiều về Jame Gumb.


      Bác sĩ Lecter khám phá được việc Gumb rất si mê loài bướm đêm, và trước kia lột da người, giết chết Klaus, có làm việc cho cửa hàng bán đồ bằng da tại Calumet City có tên là “Ông Da”, và làm tiền phụ nữ già ở Belvedere chuyên may phần lót của hiệu may này. ngày nào đó đoạt hết tiền của bà này thôi, Raspail tiên đoán như thế.


      - Khi Lecter biết được nạn nhân thứ nhất là dân của thành phố Belvedere và ta bị lột da, ông hiểu ngay chính là thủ phạm, - Crawford với Clarice trong khi họ nghe lại các cuốn băng cát sét. - Nếu Chilton chõ mũi vào ông ta giao Gumb cho chúng ta rồi và làm ra vẻ mình là thiên tài.


      - Ông ta gợi ý cho tôi biết, bằng mảnh giấy được kẹp trong hồ sơ, rằng việc lựa chọn các nơi phạm tội là do ngẫu hứng. Và tại Memphis, ông ta có hỏi tôi có biết may . Thế ông ta làm vậy với mục đích gì?


      - Ông ta chỉ muốn đùa thôi. Bác sĩ Lecter thích đùa giỡn từ rất lâu rồi.


      Người ta bao giờ tìm lại được các cuốn băng của Jame Gumb và các hoạt động của trong những năm tiếp theo sau cái chết của Raspail được tái lại, từng đoạn , từ những lá thư kinh doanh, hóa đơn đổ xăng và những thông tin được dân buôn bán cung cấp.


      Khi bà Lippman qua đời trong chuyến đến Florida với Gumb, thừa hưởng tất cả: cả ngôi nhà cũ kỹ với cái cửa hàng trống trơn, và nhất là tầng hầm mênh mông, cộng thêm số tiền kha khá. nghỉ làm tại cửa hàng “Ông Da” nhưng vẫn giữ trong thời gian khá lâu căn hộ tại Calumet City và dùng cái địa chỉ thương mại để nhận lãnh các kiện hàng dưới cái tên John Grant. giữ liên lạc với các khách hàng ưa thích và tiếp tục thăm viếng các cửa hàng trong vùng như lúc còn làm việc cho cửa hiệu “Ông Da”, lấy số đo cho những bộ quần áo mà may tại Belvedere. Chính trong những chuyến như thế mà lựa chọn được các nạn nhân của và vứt bỏ xác của họ, chiếc xe tải con chạy liên tục hàng nhiều giờ xa lộ và quần áo bằng da treo lủng lẳng ở thùng sau xe, trong cái túi bằng cao su chứa đựng cái xác.


      Tầng hầm tạo cho tự do tuyệt vời. Nhiều gian phòng để đùa giỡn và nhiều phòng để làm việc. Trước tiên, là để chơi thôi, truy đuổi những người phụ nữ trần truồng trong cái mê cung tối đen, tạo những tác phẩm vui nhộn trong những hầm sâu nhất mà đóng kín lại, chỉ mở cửa để rắc thêm ít vôi sống mà thôi.


      Fredrica Bimmel khởi giúp đỡ cho bà Lippman khoảng năm trước khi bà này chết. Cũng vì đến đây để xin việc làm mà ta làm quen với Jame Gumb, Fredrica phải là nạn nhân đầu tiên của , nhưng là người đầu tiên mà giết để lột da.


      Người ta tìm thấy các lá thư của Fredrica Bimmel gửi cho Gumb trong ngôi nhà của tên này.


      Clarice khó nhọc lắm mới đọc hết các bức thư đó được, vì chúng chứa đựng quá nhiều hy vọng và khao khát tình ghê rợn; và cũng vì các dấu hiệu cảm xúc của Gumb mà người ta có thể suy đoán từ những câu trả lời “Người bạn thân bí mật ơi, tôi . Tôi nghĩ trong ngày nào đó tôi có thể lời này, nhưng điều êm dịu hơn là được nghe nó rót vào tai tôi”.


      Thế khi nào để lộ bộ mặt của ? ta có tìm thấy được tầng hầm ? Bộ mặt của Fredrica như thế nào khi thấy thay đổi và giữ ta sống trong bao lâu nữa?


      Điều tệ hại hơn là Fredrica và Gumb cho đến phút cuối vẫn là bạn của nhau vì ta vẫn còn viết thư cho khi bị nhốt ở dưới đáy giếng.


      Các phóng viên báo giật gân đặt cho Gumb cái tên “Ông Da”, họ tức giận vì nghĩ ra được ngay từ lúc đầu nên khởi lại câu chuyện ngay từ lúc bắt đầu.


      Clarice được bảo vệ khỏi đám báo chí ngay tại trung tâm Quantico nhưng mấy tờ lá cải đó khai thác nguồn thông tin mà cung cấp cho họ.


      Tờ National Tatler mua lại của Bác sĩ Frederick Chilton cuốn băng ghi cuộc chuyện giữa Clarice và Bác sĩ Hannibal Lecter. Ông ta bình luận cuộc chuyện này trong loạt bài dưới nhan đề “Vị Hôn Thê của Dracula” và gợi ý rằng Clarice tiết lộ nhiều điều về mặt tính dục cho Lecter để đổi lấy những thông tin của ông ta, và điều này khiến cho Clarice nhận được lời đề nghị của Lời êm dịu, tạp chí của điện thoại hồng.


      Tờ tuần báo People đăng bài ngắn và có thiện cảm với Clarice, với những bức ảnh được chụp tại trường đại học Virginie và Tổ Ấm dòng Luther ở Bozeman. Tấm hình đẹp nhất của của con ngựa cái Hannah, kéo chiếc xe chở mấy đứa trẻ con trong những ngày cuối đời của nó.


      Clarice cắt tấm hình của Hannah để bỏ vào trong bóp của mình, ngoài ra giữ gì khác.


      đường bình phục.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      .

      60



      Ardelia Mapp là gia sư dạy kèm tuyệt vời, trong bài giảng, nhận biết ngay điều được ra trong đề thi còn mau hơn là con báo rượt theo con mồi của nó, nhưng có điều thể chạy nhanh như con báo được. với người bạn mình là vì sức năng của hiểu biết của .


      đường chạy bộ, bị Clarice bỏ xa ở phía sau, chỉ đuổi kịp ngay tại chỗ đậu của chiếc phi cơ DC6 cũ được dùng trong việc mô phỏng các vụ cướp máy bay. Là ngày sáng chủ nhật, hai ngày rồi, hai dúi đầu vào trong sách vở và cái mặt trời mờ nhạt của ngày hôm nay có vẻ rất tốt cho họ.


      - Thế nào, Pilcher đó gì với mày điện, thoại? - Ardelia hỏi.


      - Hai chị em ta có ngôi nhà tại Vịnh Chesapeake.


      - Thế à, rồi sao nữa?


      - Họ chỉ chiếm có phần thôi, đây là ngôi nhà cũ rộng lớn ngay bờ biển mà họ thừa hưởng được của người bà.


      - Mày cho ngắn gọn .


      - Pilcher là chủ phân nửa kia. ta muốn mời chúng ta đến đó vào dịp cuối tuần tới đây. ta có phòng lắm. “Nhiều đến mức mà người ta có thể ước muốn”, tao nghĩ đó gần như là những từ ta dùng. Bà chị ta điện để mời tao đến đó.


      - Mày đùa à, tao nghĩ những chuyện như thế vẫn còn xảy ra.


      - ta tả cho tao cái viễn cảnh đó, thư giãn hoàn toàn, người ta mặc đồ ấm, dạo bãi biển, có ngọn lửa trong lò và mấy con chó nhảy lên người mình, với những bàn chân to lớn đầy cát biển của chúng.


      - mơ mộng, những bàn chân đầy cát, tiếp .


      - Tao thấy cũng hay lắm chứ, vả lại từ trước đến giờ chưa có ai mời chúng ta đâu hết. ta cho rằng ngủ chung với hai hoặc ba con chó là rất tuyệt khi trời quá lạnh. ta là có đủ chỗ cho mọi người.


      - Cái chàng Pilcher này vẽ cho mày cái hình ảnh con chó sưởi ấm xưa đó mà mày cũng chịu sao?


      - ta còn ta làm bếp hay lắm. Bà chị ta cũng xác nhận điều này.


      - À, thế là bà chị gọi điện cho mày rồi à?


      - Đúng vậy.


      - Bà ta ra sao?


      - Được lắm. Có vẻ đúng như những gì ta .


      - Mày trả lời như thế nào?


      - Tao “Đồng ý, cám ơn chị nhiều lắm”. Chỉ thế thôi.


      - Đồng ý. tuyệt vời. Chúng ta ăn cua. Mày hãy nắm chặt ta và cứ đùa cho thỏa thích biết !



      61



      chàng phục vụ trẻ tuổi đẩy chiếc xe dọc theo hành lang của khách sạn Marcus. ta ngừng trước căn phòng số 91 và gõ cửa với bàn tay có mang găng trắng. ta lắng tai nghe và gõ lần nữa nhưng mạnh hơn để bên trong có thể nghe được mặc cho nhạc phát ra từ trong đó. Nhạc của Bach, Khúc phóng tác cho bè hai và ba, với Glen Gould chơi dương cầm.


      - Vào .


      Người đàn ông lịch thiệp với cái mũi được băng trong chiếc áo mặc trong nhà, ngồi viết tại bàn làm việc.


      - hãy để cạnh cửa sổ . Tôi có thể xem chai rượu ?


      Người phục vụ đem chai rượu tới. Người đàn ông này đưa chai rượu lên trước ánh sáng của ngọn đèn và áp miệng chai vào gò má trong khoảnh khắc.


      - cứ mở nó ra nhưng được để trong xô đá nhé, - ông , và ghi số tiền boa hậu hĩnh vào trong hóa đơn. - Chốc nữa tôi mới uống.


      Ông muốn cho người phục vụ đụng vào cái ly vì mùi của sợi dây đồng hồ của ta hôi quá.


      Bác sĩ Lecter cảm thấy rất sảng khoái. Cả tuần lễ gần trôi qua rồi. Đúng là thành công và khi phai màu của lớp da biến mất. Ông có thể tháo băng ra và chụp hình cho thẻ chứng minh mới.


      Ông tự tay làm công việc này, vài mũi Silicon vào ngay mũi. Loại thuốc Silicon nước này được bán cần toa bác sĩ nhưng thuốc Novocaine và các ống chích có. Ông giải quyết trở ngại bằng cách ăn cắp toa bác sĩ quầy của cửa hàng được quá đông khách gần bệnh viện. Ông liền xóa những gì được viết đó và chụp sao y toa thuốc trắng tinh. Tiếp đến ông viết lại những gì được viết đó và trả nó lại chỗ cũ, như thế có rắc rối nào hết.


      Cái vẻ mặt tiều tụy mà ông tạo cho khuôn mặt của mình đẹp cho lắm và ông biết chất Silicon có thể dịch chuyển, vì thế ông phải cẩn thận mới được, nhưng việc này chỉ cần cho đến khi ông đến Rio mà thôi.


      Khi dành hết thời gian cho những thú vui riêng của mình, lâu lắm rồi kể từ lần bị bắt đầu tiên, Bác sĩ Lecter chuẩn bị trước cho cái ngày mà ông trốn thoát được. Trong vách tường của ngôi nhà bờ sông Susquehanna, ông có giấu tiền và thẻ tín dụng, hộ chiếu và túi dụng cụ hóa trang mà ông sử dụng cho việc chụp các hình hộ chiếu. Cái này sắp hết hạn nhưng việc gia hạn dễ dàng thôi.


      Thích qua mặt hải quan giữa đám người với cái băng mũi, ông ghi tên cho chuyến du lịch ghê tởm theo đoàn có tên “Vẻ huy hoàng của vùng Nam Mỹ” để đến Rio.


      Ông là phải thanh toán tiền khách sạn bằng chi phiếu của ông Lloyd Wyman quá cố và như thế ông có được kỳ hạn năm ngày cho việc chấp nhận của ngân hàng, thay vì sử dụng thẻ tín dụng của American Express mà việc thanh toán được thực ngay bằng điện toán.


      Tối nay ông viết vài lá thư mà công ty chuyển tiếp thực việc đó cho ông.


      Trước hết ông gởi tặng cho Barney số tiền hậu hĩnh và lời cảm ơn về thái độ nhã nhặn của ta. Tiếp đến là vài chữ cho Bác sĩ Frederick Chilton, là ông đến thăm ông ta trong ngày xa. Sau cuộc viếng thăm đó, ông chỉ cho bệnh viện cách xăm lên trán ông ta các chỉ thị liên quan đến việc nuôi ông, như thế đỡ tốn tiền giấy mực.


      Để kết thúc, sau khi tự thưởng cho mình ly của loại rượu tuyệt ngon này, ông viết lá thư cho Clarice Starling.


      *


      Thế nào Clarice, những con cừu còn kêu la nữa ?


      nợ tôi câu trả lời đấy và biết là nó làm cho tôi rất vui thích.


      lời nhắn tin ngắn tờ Times và International Herald Tribune số đầu tiên của bất kỳ tháng nào cũng được. cũng có thể cho đăng luôn tờ China Mail.


      Tôi ngạc nhiên chút nào nếu câu trả lời là có và . giờ, các con cừu im thôi. Nhưng mà, Clarice, phán đoán với tâm trí của phán quan của thời Trung Cổ, nhưng thường xuyên đáng được hưởng im lặng đó. Bởi vì những tình huống tuyệt vọng thúc đẩy hành động và luôn có những hoàn cảnh vô vọng.


      Tôi hề có ý định viếng thăm đâu, Clarice, vì nếu , cái thế giới này mất phần, hấp dẫn của nó.


      Tôi tin chắc, với người nhã nhặn như , cũng điều này với tôi.


      Bác sĩ Lecter đưa cây bút lên miệng. Ông nhìn bầu trời đầy sao và mỉm cười.


      Tôi có nhiều cửa sổ lắm.


      Chòm sao Orion vừa mới xuất , rất gần Jupiter, sáng hơn bất cứ lúc nào. (Tôi có ý định cho biết lúc này là mấy giờ và độ cao của nó bầu trời). Nhưng tôi chắc là cũng thấy nó. Chúng ta có vài ngôi sao chung phải Clarice.


      Hannibal Lecter.


      *


      Rất xa về phía Đông, vịnh Chesapeake, chòm sao Orion sáng chói bầu trời trong xanh, ngôi nhà cũ rất rộng và căn phòng mà ngọn lửa cháy ỉ trong đêm, và gió từ ống khói làm cho nó nhảy múa nhè . chiếc giường lớn, hết lớp mền lông vịt này chồng lớp mền kia, và nằm dưới đó là vài ba con chó. Trong những khối u đó, có cái có thể thuộc về Noble Pilcher, vì người ta thể nào nhìn thấy trong cái ánh sáng xung quanh. Nhưng cái gối, cái khuôn mặt đỏ hồng vì lửa kia chắc chắn là của Clarice Starling, ngủ say, yên bình, trong im lặng của bầy cừu.




      Võ Liên Phương biên dịch từ


      Le silence des agneaux của Thomas Harris.


      Chú thích



      1. Trước hết, được làm hại.



      2. Quân cụ thặng dư của Do Thái, giá gần bốn trăm đôla


      Hết.

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :