Sự im lặng của bầy cừu - Thomas Harris (Truyện trinh thám kinh dị số 1 thế giới)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      43


      Bác sĩ Hannibal Lecter đến quầy tiếp tân của Marcus, khách sạn sang nhất của Saint Louis. Ông đội mũ nâu với áo mưa cài nút đến cổ. phần của mặt và mũi được che dưới lớp băng.

      Trong sổ, ông ký tên “Lloyd Wyman”. Ông tập ký tên này trong chiếc xe của Wyman.

      - Thưa ông Wyman, ông thanh toán như thế nào đây? - người nhân viên hỏi.

      - American Express. - Lecter đưa thẻ tín dụng của Wyman.

      Trong phòng khách vang lên tiếng đàn dương cầm. Bác sĩ Lecter thấy có hai người ngồi tại quầy rượu với cái mũi bị băng. cặp người già độ năm mươi tuổi bước đến thang máy, ngân nga bài hát. Người phụ nữ có cái băng che bớt mắt.

      Người nhân viên trả thẻ tín dụng lại cho Lecter.

      - Thưa ông Wyman, ông có thể sử dụng gara của bệnh viện.

      - Thế à, cám ơn . - Bác sĩ Lecter đậu chiếc xe với người chủ nó trong cốp tại bãi đậu xe của bệnh viện.

      Người mang hành lý nhận được tờ giấy năm đôla tiền boa trong ví của Wyman.

      Lecter gọi ly rượu và bánh xăng uých rồi vào thư giãn dưới vòi sen. Ông nhận thấy căn hộ này quá rộng sau thời gian dài giam hãm, nên thích thú ngang dọc trong đó.

      Từ cửa sổ, ông thấy tòa nhà Myron và Sadie Fleischer của bệnh viện thành phố Saint-Louis, trong những trung tâm nổi tiếng thế giới về phẫu thuật sọ và mặt.

      Gương mặt của Bác sĩ Lecter quá nổi tiếng để ông có thể hưởng được các lợi ích của khoa phẫu thuật thẩm mỹ của nơi này, nhưng đây là điểm duy nhất thế giới mà người ta có thể an toàn dạo chơi với cái băng mặt mà gây chú ý,

      Nhiều năm trước ông đến đây rồi, lúc làm các cuộc nghiên cứu tâm lý học trong cái thư viện tuyệt đẹp của Đài Kỷ Niệm Robert J. Brockman.

      ngây ngất khi có được cửa sổ, nhiều cửa sổ. Ông đứng trong bóng tối nhìn đèn pha xe hơi ngang qua cầu Mac Arthur và thưởng thức ly rượu. Ông lái xe suốt năm tiếng đồng hồ và mệt mỏi dễ chịu chiếm lấy người ông.

      Những giây phút trải qua trong cái gara ngầm của phi trường Memphis là những phút sôi nổi nhất của đêm. dễ dàng khi phải chùi rửa bằng bông gòn, cồn và nước cất ở phía trong chiếc xe cứu thương. khi mặc xong đồng phục trắng của bảo vệ, chỉ cần đón người lái xe đơn độc trong lối vắng tanh của bãi đậu xe. Người đàn ông này khum người để lấy cái va li hàng mẫu từ trong cốp xe nên thấy Lecter bước đến từ phía sau.

      Ông tự hỏi biết cảnh sát có ngu đến mức nghĩ ông dịch chuyển bằng phi cơ.

      Khó khăn duy nhất đường là biết cách sử dụng các đèn lưu thông và cần gạt nước của chiếc xe xa lạ này, bởi vì Bác sĩ Lecter quen sử dụng các nút điều khiển bằng tay nằm ở bên vô lăng.

      Ngày mai đây ông mua tất cả những thứ cần thiết, như thuốc nhuộm tóc, dao cạo, đèn làm rám da và nhiều thứ cần thiết khác để biến đổi nhanh chóng dáng vẻ của ông. Sau đó ông lên đường.

      Ông có lý do gì phải vội cả.


      44


      Như thường lệ, Ardelia Mapp vẫn còn nằm giường, tựa lưng gối, tay cầm quyển sách. Đồng thời nghe tin tức radio. tắt nó khi thấy Clarice Starling lê chân bước vào trong phòng. Nhìn thấy khuôn mặt khờ khạo của , hỏi bất cứ điều gì trừ:

      - Mày có muốn uống trà ?

      Trong những giờ học tập, thường uống loại nước pha của nhiều thứ lá khác nhau, của người bà gởi cho , mà gọi là “nước trà thông minh”.

      - Hôm nay mày vắng mặt cũng là điều tốt đấy - Ardelia - Cái tên khốn Kim Won đó thực cho tụi tao ngã quỵ hết. Tao thề với mày đó. Tao nghĩ chắc lực hút của trái đất ở bên Đại Hàn mạnh hơn ở đây. Khi những người đó đến đây, họ trở nên hơn và người ta biến họ thành giáo sư để áp đặt cho chúng ta, có lẽ vì còn gì khác cho họ cả... John Brigham có ghé qua.

      - Khi nào?

      - Hồi tối này, mày hụt có chút xíu thôi. muốn biết mày về chưa. Chúng tao chuyện lúc. là nếu mày cần học gạo trong những giờ tập luyện vì trễ nải ta tới trường bắn vào dịp cuối tuần này để bù lại thời giờ mất. tử tế .

      - Điều đó đúng lắm.

      - Mày có biết muốn mày tham dự cuộc tranh tài bắn súng với đám DEA và Hải Quan ?

      - Tin mới đấy.

      - phải cuộc tranh tài dành cho nữ đâu, nhưng là loại mở rộng đấy. Câu hỏi khác: mày học điều tu chính thứ tư cho ngày thứ sáu chưa?

      - Sơ qua thôi.

      - Vậy vụ án Chimel chống lại Bang California là như thế nào?

      - Mấy vụ khám xét trường học.

      - Còn chính các cuộc khám xét trong các trường sao?

      - Tao biết nữa.

      - Đó là khái niệm “khối u ác tính” đó. Còn Schneckloth là gì?

      - Trời ơi, tao biết nữa.

      - Schneckloth chống lại Bustamonte.

      - Đó là tôn trọng đời tư mà người ta có quyền đòi hỏi, đúng ?

      - Nhục cho mày quá. Đó là nguyên tắc của Katz. Schneckloth là việc khám xét nhà có ưng thuận. Tao thấy mày phải gạo nhiều hơn nữa, bà ơi. Tao cho mày mượn mấy bài ghi chép của tao đây.

      - Tối này .

      - . Nhưng sáng mai, khi tâm trí mày trống rỗng và nhạy bén, chúng ta bắt đầu làm cho nó đầy lại cho ngày thứ sáu. Brigham có đáng lẽ nên vì thế tao có hứa đề cập việc ủy ban rất thuận lợi cho mày. ta chắc trong hai ngày nữa tên khốn Krendler đó còn nhớ đến mày đâu. Điểm của mày rất tốt và mày bị gì đâu. - Ardelia ngắm nhìn khuôn mặt tiều tụy của Clarice. - Mày làm tất cả những gì có thể cho tội nghiệp đó. Mày bị tai tiếng vì ta, mày bị đá đít nhưng mày khám phá ra nhiều thứ, Bây giờ đến lúc mày phải nghĩ đến mày chút. Tại sao mày ngủ ? Tao cố chuyện nữa.

      - Ardelia, cám ơn mày.

      Khi tất cả đèn được tắt.

      - Clarice ơi?

      - Gì?

      - Mày thấy ai đẹp trai hơn, Brigham hay Hot Bobby Lowrance?

      - Rất khó .

      - Brigham có hình xăm vai, tao nhìn thấy nó xuyên qua áo ta. biết đó là hình gì.

      - có ý kiến.

      - Mày cho tao biết khi nào mày nhìn thấy nó nghe.

      - Có thể là bao giờ.

      - Tao có với mày là Hot Bobby có quần sịp màu da báo phải ?

      - Mày nhìn thấy ta từ cửa sổ khi ta tập tạ?

      - Phải Gracie kể lại với mày ? ngày nào đó tao ...

      Clarice ngủ say.


      45


      Khoảng ba giờ sáng, Crawford ngủ gật cạnh bên bà vợ, giật mình thức dậy. Hơi thở của Bella bị gián đoạn trong giây lát và bà cử động giường. Ông chồm người lên và nắm tay bà.

      - Bella ơi!

      Bà thở sâu. Crawford đưa mặt mình lại gần bà, nhưng dường như bà nhìn thấy được.

      - Bella em , em, - ông phòng trường hợp bà có thể nghe được.

      Nỗi sợ lướt qua người ông, rồi bao lấy ông như con dơi bị bẫy trong ngôi nhà. Ông trấn tĩnh lại.

      Ông rất muốn làm cái gì đó, bất cứ điều gì, nhưng ông muốn bỏ tay bà ra.

      Ông áp lỗ tai lên ngực bà. Ông nghe được nhịp đập rất và rồi trái tim ngừng hẳn. Thế là ông còn được nghe gì nữa, ngoài tiếng xào xạc lạnh buốt. Ông biết tiếng xào xạc này đến từ ngực của Bella hay của chính tai ông.

      - Xin Chúa phù hộ cho em và giữ em lại đó... với tất cả người thân của em, - Crawford với niềm hy vọng đó là .

      Tựa người vào gờ của chiếc giường, ông ôm bà vào lòng trong khi não của bà chết dần. Cằm ông vén cái khăn choàng che những gì còn lại của tóc bà. Ông khóc được vì ông làm như thế quá nhiều rồi.

      Crawford mặc cho bà cái áo choàng ưa thích và đứng lúc cạnh chiếc giường với bàn tay của Bella áp vào mặt ông. Đây là bàn tay rắn chắc, khéo léo, mang dấu ấn của cả đời làm vườn, và ngay lúc này cũng mang dấu ấn của các mũi chích qua tĩnh mạch.

      Khi bà từ ngoài vườn trở vào, hai tay bà thơm mùi bạch lý hương.

      - Mày hãy xem nó như lòng trắng trứng gà dính mấy ngón tay - đó là điều mà mấy bạn học của Bella với khi đề cập đến quan hệ tình dục. Rất nhiều năm sau, hai người vẫn cười khi cả hai nằm giường; việc đó xảy ra lâu lắm rồi, từ hồi năm ngoái lận.

      Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, hãy nghĩ đến chuyện gì tinh khiết . Nhưng nó rất tinh khiết kia mà. Trong phòng ngủ, bà luôn chọc ghẹo ông mang đủ thứ lỉnh kỉnh trong túi như đứa con nít vậy.

      Crawford thể nào bước qua phòng kế bên được, ông có thể xoay mặt qua bất cứ lúc nào để nhìn bà qua khe cửa, với ánh hào quang sáng chói phát ra từ chiếc đèn ở đầu giường. Ông chờ đợi cho đến khi thân thể của Bella trở thành vật nghi thức, tách xa ông, khác lạ với con người mà ông từng ôm trong lòng; khác xa người bạn đời mà giờ ông giữ hình ảnh trong tâm trí. Phải gọi điện cho người ta đến đem bà .

      Ông đứng trước cửa sổ, hai tay bỏ xuôi xuống, hai bàn tay mở ra, nhìn về hướng mặt trời lên, nhưng chưa thấy dạng. Ông chờ lúc rạng đông chỉ đơn giản căn phòng này ngó về hướng đông.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      46



      - Mày xong chưa Quý Báu?


      Jame Gumb tựa lưng thoải mái vào thành giường, con chó xù cuốn tròn bụng ta.


      vừa gội đầu xong nên quấn khăn tắm quanh đầu. lục lạo dưới chiếc nệm, tìm thấy cái điều khiển từ xa của đầu mày video và bật cho máy chạy.


      tạo băng hình từ hai đoạn phim chép ra từ nhiều nguồn khác nhau. Mỗi ngày đều mở máy lên xem trước khi thực các công việc quan trọng, và luôn trước mỗi lần lột da.


      Đầu đoạn phim trầy xước, lấy từ đoạn thời trắng đen của Movietone năm 1948. Đó là vòng bán kết của cuộc thi Hoa hậu Scramento, đoạn đường dài dẫn đến việc tuyển chọn Hoa Hậu Hoa Kỳ tại Atlantic City.


      Đây là lúc trình diễn áo tắm, và các từng người bước lên sân khấu, tay cầm bó hoa. Khi nghe đến nhạc, con chó nhìn sang chủ nó, biết rằng siết nó cho đến nghẹt thở. Nó trải qua thời đoạn này biết là bao nhiêu lần rồi.


      Các thí sinh đều thuộc vào thời điểm của Thế Chiến Thứ Hai. Có vài khuôn mặt đẹp, vài người khác đôi chân tuyệt hảo, nhưng da thịt đều thiếu săn cứng còn đầu gối hơi run.


      Gumb ôm con chó trong đôi tay.


      - Quý Báu ơi, bà đó, bà đứng đó.


      Quả nhiên bà đứng tại chân cầu thang, trong bộ áo tắm trắng tinh, nở nụ cười tươi với người đàn ông trẻ giúp bà bước lên các bậc thang, bước đôi giày cao gót, ống kính quay cặp giò của bà. Mẹ đấy. Đó chính là mẹ.


      Gumb cần điều chỉnh máy, làm đủ mọi thứ cần thiết khi sang băng. Bà mẹ ngang sân khấu và ngược lại, bước xuống cầu thang, cười lại với người đàn ông trẻ, lên cầu thang lại và mọi thứ bắt đầu lại, đến phía trước rồi lui trở lại.


      Khi ta cười với người đàn ông trẻ, Gumb cũng cười theo.


      Sau đó người ta thấy trong nhóm người, nhưng hình ảnh vẫn mờ và đứng im tại chỗ. Tốt hơn hết nên cho nó qua nhanh để chỉ nhìn thấy thoáng qua thôi. Mẹ và những khác chúc mừng người trúng tuyển.


      Đoạn sau là vụ sao chép lậu của đài truyền hình cáp trong khách sạn dọc đường tại Chicago. phải hối hả mua đầu máy và ở lại thêm đêm nữa. Đây là đoạn phim kết thúc của đài phát bằng cáp tồi, phát hình rất khuya, làm ảnh nền cho các quảng cáo khiêu dâm. Đậy là thứ hàng rẻ tiền, những loại phim “mát mắt” có hại thuộc các thập niên bốn mươi cho đến năm mươi, cộng thêm trận bóng chuyền trong trại khỏa thân, và các cảnh ít nhiều nét của các phim khiêu dâm của những năm ba mươi, lúc mà các người đóng phim còn mang mũi giả và vớ. Cuốn băng này gồm đủ thứ linh tinh.


      Gumb thể làm gì với các quảng cáo và các hàng chữ chạy màn hình. đành phải chấp nhận thôi.


      Và đây là hồ bơi ngoài trời, tại California, nếu căn cứ theo thảm thực vật. Nhiều đồ đạc trong vườn tuyệt đẹp, thuộc kiểu các năm năm mươi. Nhiều trần truồng bơi lội, vài rất duyên dáng. Vài đúng ra phải thuộc sêri B mới phải. Tròn trĩnh và linh lợi, họ bước ra khỏi hồ bơi và chạy mau hơn nhạc rất nhiều, leo lên cầu thang của rãnh trượt. Họ lướt trong tiếng cười, hai vú đưa thẳng ra, hai chân khép lại!


      Là mẹ đấy. Bà nhô ra khỏi mặt nước phía sau tóc quăn. Mặt bà phần nào bị che khuất bởi phần quảng cáo của Sinderella, tiệm bán đồ khiêu dâm, nhưng từ xa ngườita vẫn có thể nhìn thấy bà leo lên cầu thang, mình bóng lưỡng vì nước, mềm mại, da thịt rắn chắc, với vết thẹo vì phải mổ khi sinh, bà ta lướt rãnh trượt. Rất đẹp và dù cho thấy mặt, từ trong đáy lòng mình, Gumb biết đây là mẹ của được quay phim sau khi gặp bà lần cuối cùng. Dĩ nhiên là trong trí tưởng tượng của thôi.


      Con chó xù liếc nhìn khắc trước khi bị siết lại mạnh trong đôi tay của .


      - Này Quý Báu ơi, hãy vào trong vòng tay của mẹ . Mẹ rất đẹp cho mày coi.


      Có rất nhiều việc phải làm, quá nhiều việc phải làm nếu muốn kịp cho ngày mai.


      bao giờ nghe tiếng động từ nhà bếp dù cái vật đó có hét đến cỡ nào nữa. Xin cám ơn Trời, nhưng tại cầu thang của tầng hầm có thể nghe được đấy. chỉ còn biết hy vọng là vật đó ngủ rồi. Con chó xù mà ôm người liền gầm gừ khi nghe những thanh phát ra từ cái giếng.


      - Mày được dạy dỗ tử tế hơn nó nhiều - và úp mặt vào lông của nó.


      Bên trái, ở dưới vài bậc thang, có cánh cửa ngăn cái giếng. buồn nhìn về hướng đó và thèm nghe những tiếng được phát ra từ miệng giếng. Đối với , đó phải là tiếng .


      Gumb bước vào trong xưởng, bỏ con chó xuống đất và bật đèn sáng. Vài con bướm đêm bay phấp phới và cuối cùng đậu các lưới bao quanh các đèn trần.


      Trong xưởng, rất tỉ mỉ. luôn pha các loại thuốc trong vật dụng bằng inox, bao giờ sử dụng loại bằng nhôm.


      học cách pha chế mọi thứ từ trước. Trong lúc làm việc, tự khích lệ. Phải có phương pháp, phải chính xác, mày phải khẩn trương lên bởi vì mày gặp rắc rối to đấy.


      Da người nặng lắm, từ mười sáu cho đến mười tám phần trăm trọng lượng cơ thể và nó tuột trong các ngón tay. Toàn bộ miếng da rất khó thao tác và dễ dàng tuột nếu còn ướt. Thời gian cũng là yếu tố quan trọng: da bắt đầu co lại ngay khi người ta lột nó ra khỏi cơ thể, nhất là đối với những người trung niên vì thớ da rất săn chắc.


      Thêm vào đó, nó hoàn toàn co dãn, kể cả của người trẻ. Nếu kéo nó căng quá, nó bao giờ trở lại hình dáng cũ. Nếu mày may nó và kéo căng nó chút, nó nhăn liền. Dù cho mày có khóc khô hết nước mắt nữa, nó cũng bao giờ thẳng được. Vả lại còn vấn đề bộ ngực và mày nên biết chính xác cặp vú phải nằm chỗ nào. Da người thể được kéo ra mọi phía, nếu các chất collagen và sớ thịt bị rách, kéo đúng hướng, nó rạn ngay.


      thể làm gì với bộ da quá mới. Chắc phải thử nghiệm rất nhiều lần trong hồi hộp, trước khi tìm được cái kỹ thuật đúng nhất.


      Cuối cùng, phải nhìn nhận rằng gì bằng các phương pháp cổ điển. Đây là cách mà tiến hành: trước hết phải ngâm toàn bộ miếng da trong các bồn chứa đầy các loại thảo mộc do các thổ dân Châu Mỹ chế biến, các chất thiên nhiên chứa đựng muối khoáng. Sau đó áp dụng phương pháp cho phép có được miếng da đanh tuyệt hảo của vùng Tân Thế Giới, mềm mại như bơ, phương pháp thuộc da bằng óc người. Người thổ dân tin rằng trong mỗi con vật có bộ não đủ để thuộc bộ da của người đó. Kinh nghiệm dạy cho đièu này đúng, ngay đối với các linh trưởng bậc cao. có nguyên cả tủ đông lạnh óc bò, vì thế bao giờ thiếu nguyên liệu này.


      Thuộc da có trở ngại nào vì thực hành biến thành chuyên gia.


      Còn lại các vấn đề khủng khiếp của việc tạo ra hình thể, nhưng về mặt này, cũng có đủ khả năng để lý giải chúng.


      Xưởng này nhìn ra hành lang dẫn đến phòng tắm được cải tạo, nơi cất cái ròng rọc và hệ thống đồng hồ, từ đó đến nhà xưởng rộng rồi đến mê cung tối đen trải dài xa.


      mở cánh cửa nhà xưởng có đèn sáng trưng, gồm cả đèn chiếu và đèn huỳnh quang “loại ánh sáng ngày”, được gắn các đà ngang. Nhiều hình nhân được đặt bệ bằng gỗ sồi. Chúng có mình vài quần áo, có cái bằng da, vài cái khác bằng mousseline để làm mẫu. Có tất cả tám hình nhân được phản chiếu trong hai tấm gương lớn đẹp gắn tường. bàn trang điểm với đủ loại mỹ phẩm và nhiều bộ tóc giả với vài cái có hình nón. Đây là xưởng làm việc sáng nhất toàn màu trắng và gỗ sồi màu vàng nhạt.


      Các hình nhân mặc toàn những hàng hiệu trong thời kỳ thực , nhất là hiệu Armani rất thịnh hành bằng da dê đen, với nhiều nếp gấp hình ống, các vai độn và mảnh vải ngực.


      bức tường thứ ba có bàn thợ, hai máy may, hai hình nhân của thợ may nữ và của thợ may nam, đặt theo kích thước bộ ngực của Jame Gumb.


      Sát bức thứ tư và nhìn xuống cả gian phòng, có tủ đen bằng sơn mài Trung Quốc, rất xưa, cao khoảng hai thước rưỡi gần đụng trần nhà. Hình trang trí phai mờ ngoại trừ vài cái vảy màu vàng, những gì còn lại của con rồng với con mắt sáng linh lợi và cái lưỡi đỏ chót của con thứ hai mà thân hình còn chút gì. Dù bị rạn nứt, lớp sơn mài vẫn còn rất tốt.


      Cái tủ rộng lớn và sâu này liên quan gì với công việc có thu lợi của . Nó chứa đựng những Thứ Đặc Biệt, được máng các hình dạng và móc áo còn cửa lúc nào cũng được khóa.


      Con chó con uống nước trong cái tô để trong góc nhà và nằm xuống chân các hình nhân, chăm chú nhìn .


      làm áo blouson bằng da. Đúng lý ra phải hoàn tất nó rồi, nhưng trong cơn sốt sắng tạo và cái mẫu bằng mousseline chưa làm cho hài lòng.


      Gumb tiến bộ rất nhiều kể từ khi thực tập tại trại cải tạo ở California, nhưng thứ này mới thách thức. Làm việc da dê đòi hỏi tay nghề vững chắc.


      Tại đây có hai mẫu bằng mousseline, giống như kiểu áo gilê trắng, theo kích cỡ của còn cái kia may theo vóc dáng của Catherine Baker Martin, được đo trong lúc ta bất tỉnh. Khi đặt cái lên cái áo của , các vấn đề liền xuất . ta là thiếu nữ to lớn và khỏe mạnh, rất cân đối, nhưng vai ta rộng và da thịt chắc như của .


      Lý tưởng nhất là áo cánh đường may, nhưng điều này thể. Tuy nhiên vẫn quyết định là thân trước có và nó tuyệt vời. Tất cả mọi sửa đổi đều phải được thực ở phía sau. Vô cùng khó đấy. vứt mẫu rồi. Khi kéo dãn tấm da, có thể giải quyết được vấn đề với hai phần xếp nếp dưới cánh tay, mấy miếng, hình tam giác với đầu hướng xuống dưới. Hai cái khác ở vùng hông ở phía sau lưng, khoảng ngang tầm của lưng. có thói quen chỉ chừa có vài ly cho đường may.


      Ngoài những gì nhìn thấy được, còn phải kể đến xúc giác; có thể người nào đó ôm trong vòng tay của mình người khêu gợi đến thế.


      Gumb rắc ít phấn tan trong lòng bàn tay và ôm lấy cái hình nhân.


      - Hôn em cái - bằng giọng bông lơn và nhìn ngay chỗ mà đúng ra là đầu của . - phải mày đâu, con ngốc - Con chó liền vểnh tai lên.


      Gumb vuốt ve lưng của hình nhân. Sau đó vòng qua để nhìn các dấu tay của . người nào lại thích vuốt ve hình nhân cả. Khi ôm người nào đó, người ta hay choàng hai tay ra ngay giữa lưng, lý luận như thế. khó chịu lắm đâu khi có cái gì đó cân đối, nhưng các đường may vai như thế là thể nào được cả. đường xếp ở ngay giữa là giải pháp, hơi trịt xuống dưới bả vai chút. có thể sử dụng đường may để cố định vải lót. Mấy vạt can bằng lycra dưới các túi ở hai bên, được quên mua vải lycra, và băng dán velcro để đóng nắp túi bên phải. mơ tưởng đến những chiếc áo dạ hội lộng lẫy của Charles James, mà các đường chỉ được may theo chặng để cho có vẻ thẳng thớm.


      Nếp gấp ở sau lưng được giấu dưới bộ tóc của , mà cho đúng, là bộ tóc có sau này.


      Gumb tháo các miếng mẫu ra và bắt tay vào việc.


      Cái máy may này rất cũ nhưng được thiết kế hoàn hảo, là loại dùng bàn đạp được đổi qua sử dụng điện hồi bốn mươi năm về trước. thân máy có hàng chữ được viết bằng tay “Tôi là người đầy tớ biết mệt mỏi”. Gumb dùng bàn đạp để cho máy hoạt động. Đối với sản phẩm tinh xảo như thế này, thích để đôi bàn chân trần để ấn lên bàn đạp, các ngón chân để ngay bìa bàn đạp để tránh các cuộc tăng tốc mong muốn. Trong lúc lâu, người ta nghe ở dưới tầng hầm chỉ có tiếng máy may, tiếng gầm gừ của con chó và tiếng rì rì của các ống nước sưởi ấm.


      Khi gắn xong các gấp nếp vào trong áo mousseline, mặc thử trước cái gương. Trong góc kẹt, con chó ngẩng đầu lên nhìn . Phải cho những chỗ khoét nách rộng hơn nữa, và còn vấn đề vải trang trí và lớp lót. Ngoài các thứ đó ra, cái áo đẹp vô cùng. Mềm mại, gãy, rất linh hoạt. mơ tưởng đến cảnh trèo lên rãnh trượt, nhanh lên, nhanh lên.


      Gumb đùa nghịch với các đèn chiếu và các bộ tóc giả để tạo vài hiệu ứng ngoạn mục, xong mang thử xâu chuỗi tuyệt đẹp bằng vỏ sò. Nó tạo hiệu quả lạ kỳ với cái áo hở cổ hoặc với chiếc áo tiếp viên mà mặc phần ngực mới của .


      thể cưỡng lại việc muốn làm cho hết công việc ngay bây giờ, công việc hết sức nghiêm túc, nhưng mắt của mỏi rồi. Vả lại tay của được run và cũng chưa chuẩn bị tinh thần để đối đầu với huyên náo cái vật đó gây ra. kiên nhẫn, lượt trước các đường may và ghim các miếng vải vào. rập khuôn hoàn hảo mà người ta có thể bắt chước kiểu.


      - Quý Báu ơi, ngày mai mới được - với con chó , và để mấy bộ óc bò ra ngoài để xả đông - Đây là công việc mà chúng ta làm trước hết vào sáng mai. Mẹ đẹp lắm.



      47



      Clarice ngủ như chết suốt năm giờ liền và ngay giữa đêm, giật mình thức giấc vì cơn ác mộng. cắn góc khăn trải giường và ép hai lồng bàn tay đẫm mồ hôi lên chiếc gối. Chưa tin chắc là mình thức dậy rồi và thoát khỏi cơn hoảng sợ. im lặng, có tiếng cừu kêu la. Đến chừng đó tim mới trấn tĩnh lại, nhưng chân thể nào cứ để dưới cái mền nữa. sắp sửa hăng máu lên đây.


      người, khi cảm nhận cơn giận bừng bừng chiếm lấy chỗ của nỗi sợ hãi.


      - điên rồ - thốt lên và bỏ chân ra khỏi giường.


      Trong suốt cả ngày qua, lúc bị Chilton ngăn cản lại; lúc bị bà Thượng nghị sĩ Martin chửi mắng, bị Krendler bỏ rơi và khiển trách, bị Bác sĩ Lecter loại bỏ và nản lòng vì đào thoát đẫm máu của ông ta, và để kết thúc được Crawford khuyên cứ tiếp tục. Mà điều làm tổn thương hơn mọi thứ đời: bị xem là đứa ăn cắp.


      Bà Thượng nghị sĩ Martin là bà mẹ bị áp lực nặng nề và muốn thấy cảnh sát sờ mó vào đồ dùng của con bà. Bà phán đoán Clarice.


      Khi còn , người ta dạy rằng ăn cắp là hành vi bỉ ổi nhất, ngay sau hiếp dâm và giết người vì tiền. Người ta còn cho vài cách giết người nào đó còn đáng ưa hơn.


      Là học sinh nội trú trong các trường học mà những ước muốn lại nhiều hơn cách thỏa mãn chúng, lần hồi học được cách thù ghét việc trộm cắp.


      Nằm trong bóng tối, phải nhìn nhận rằng nếu lời ám chỉ của bà Thượng nghị sĩ làm cho rối loạn đến thế đó là vì lý do khác.


      Clarice biết ông Lecter quỷ quyệt gì và đúng là như thế; sợ bà Thượng nghị sĩ Martin nhận thấy ở cái gì đó tầm thường, hẹp hòi, buộc bà phải nghi ăn cắp.


      Bác sĩ Lecter vui mừng khi nhận thấy mối hận thù giai cấp, phẫn nộ chôn kín được nuôi dưỡng cùng lúc với sữa mẹ cũng phải được lưu ý đến. Clarice hề thua kém gì Ruth Martin về học vấn, trí thông minh, năng động và chắc chắn là về hình thể, nhưng biết vẫn có cái gì đó.


      Clarice thuộc dòng dõi dữ dằn mà với chỉ cái phả hệ thôi cũng là danh sách dài của huy chương quân đội và chính trị gia. Bị trục xuất khỏi xứ Scotland lên, đuổi khỏi Ireland vì đói khát, ít người trong số họ buộc phải làm nhiều nghề nguy hiểm. Rất nhiều thành viên của dòng họ Starling biến thành như thế; người ta xui khiến, thúc đẩy họ đến bước đường cùng, người ta lôi kéo họ đến vinh quang trong tiếng quân nhạc điên cuồng, trong giá lạnh trong khi họ chỉ ước muốn có mỗi điều là được về nhà thôi. Trong những đêm tại câu lạc bộ, nhiều sĩ quan nhắc đến vài người mà nước mắt rưng rưng, như người say rượu nhớ đến csăn giỏi vậy.


      Trong số đó người nào tỏ ra đặc biệt thông minh. Trong chừng mực nào đó Clarice có thể nhớ được, ngoại trừ là chủ tờ báo nổi tiếng cho đến ngày bà chết vì chứng xuất huyết não.


      Nhưng họ tuyệt đối bao giờ biết trộm cắp.


      Tại Hoa Kỳ, điều quan trọng nhất là trường học, có phải , và dòng họ Starling thấu hiểu điều này. người cậu của Clarice còn cho khắc cái bằng cấp đại học duy nhất của mình bia mộ.


      Từ nhiều năm rồi, Clarice hề sống ở đâu khác ngoài các trường học, vũ khí nào khác hơn là tranh đua trong học tập.


      biết có thể thoát ra được. vẫn là người từ ngày hiểu được cơ chế của nó: được công nhận đứng đầu lớp học, được thu nhận, được tuyển chọn chứ phải bị loại trừ.


      Chỉ cần làm việc hết mình và chú ý chút. Điểm của rất tốt. Người giáo viên thể dục hạ được đâu. Tên được khắc tấm bảng vàng lớn trong hành lang vì những thành quả xuất chúng của tại trường bắn.


      Trong bốn tuần nữa, trở thành nhân viên đặc biệt của FBI.


      Có lẽ nào suốt đời mình, luôn phải dè chừng những người như tên khốn Krendler đó?


      Trước mặt bà Thượng nghị sĩ, ông ta hề làm bất cứ điều gì để bênh vực . Mỗi lần Clarice nghĩ đến điều đó làm đau nhói. Ông ta chắc tìm được bằng chứng trong cái bao thư đó. quá đáng. Khi nghĩ đến Krendler, lại nghĩ đến ông thị trưởng, người sếp của cha , đến lấy lại cái thiết bị tại bệnh viện.


      Tệ hơn là tín nhiệm mà dành cho Jack Crawford giảm thiểu rất nhiều. Đành rằng người đàn ông này phải chịu sức ép khủng khiếp, nhưng ông bắt đến điều tra chiếc xe hơi của Raspail mà hỗ trợ nào, chút uy quyền nào. Dĩ nhiên thi hành trong các điều kiện đó: vì đây là cơ hội thể tin được. Nhưng đúng ra Crawford phải tiên đoán gặp rắc rối khi bà Thượng nghị sĩ Martin nhìn thấy tại Memphis, cho dù tìm được những tấm ảnh dâm ô đó.


      Catherine Baker Martin chìm trong bóng tối giống như thứ đè nặng vai . Vì quá lo nghĩ đến chính số phận của mình, phần nào quên mất này.


      Hình ảnh của những ngày sau cùng chê trách khiếm khuyết này, lên trong đầu của Clarice trong các ánh màu rực rỡ, quá sáng chói, những ánh màu ghê tởm như những tia sáng lóe lên từ trong bóng đêm của cơn bão tố bột phát lúc giữa đêm.


      Bây giờ chính Kimberly ám ảnh . Cái xác đẫy đà của Kimberly, từng xỏ lỗ tai để trở nên xinh đẹp hơn và dành dụm tiền để loại bỏ lông chân. Kimberly còn tóc nữa. Kimberly người chị em của . Clarice nghĩ chắc Catherine bỏ ra nhiều thời giờ như Kimberly. khi lột bỏ hết mọi thứ, họ là chị em. Kimberly, nằm dài cái bàn trong nhà tang lễ trước ánh mắt của vô số cảnh sát.


      Clarice thể chịu đựng được những hình ảnh đó. xoay mặt qua bên như người bơi lội cố thở vậy.


      Tất cả các nạn nhân của Buffalo Bill là phụ nữ, nỗi ám ảnh của là phụ nữ, chỉ sống để săn đuổi đàn bà. Và người đàn bà nào lại chịu bỏ công ra truy bắt . điều tra viên nữ nào chịu bỏ thời giờ ra để nghiên cứu trường hợp của .


      Clarice tự hỏi biết Crawford có đủ can đảm cầu trợ giúp của , khi ông buộc phải lo vụ cái xác của Catherine. Bill làm chuyện đó trong ngày mai, ông ta tiên đoán như thế. làm điều đó, làm điều đó.


      - Mẹ kiếp, được làm điều đó - thốt lên và bỏ chân xuống đất.


      - Mày làm biến chất tên ngu xuẩn đáng thương. - Ardelia Mapp . - Mày lén đưa ông ta vào đây trong lúc tao ngủ và bây giờ mày ban chỉ thị, mày tưởng là tao nghe được phải ?


      - Xin lỗi mày nghe, tao muốn...


      - Mày phải minh bạch hơn với bọn họ mới được, Clarice. Cũng giống như các phóng viên vậy, phải với họ cái gì, khi nào, ở đâu và tại sao. Và tao nghĩ mày cần giải thích tại sao khi các kiện khởi .


      - Mày có quần áo giặt ?


      - Tao nghĩ nghe mày hỏi có quần áo giặt .


      - Đúng vậy, bây giờ tao giặt đồ, mày ?


      - Chỉ hai áo thun ở phía sau cánh cửa đó.


      - Được rồi, nhắm mắt lại , tao bật đèn đây.


      Clarice lấy các tờ ghi chép nhét vào trong giỏ quần áo để xuống hầm giặt đồ.


      lấy hồ sơ của Buffalo Bill, chồng những điều kinh hãi và đau khổ dày hơn mười phân trong bìa da nai, được in bằng chữ đỏ như máu, cùng bản sao báo cáo của về con bướm đầu lâu.


      buộc phải giao nộp nó vào sáng mai và nếu muốn cho bản này hoàn chỉnh, phải đính kèm thêm tập báo cáo của vào. khi trong khí ấm áp của hầm giặt đồ, được vững lòng bởi tiếng rì rào của máy, tháo sợi dây thun bọc quanh hồ sơ. trải hết các trang giấy tấm ván xếp quần áo và cố nhét tập báo cáo của vào mà dám nhìn bất cứ tấm hình nào hết, nghĩ đến những cái được bổ sung vào trong đó. Tấm bản đồ nằm ngay ở trang đầu, như thế hay hơn, nhưng đó có được viết cái gì đó.


      Chữ viết thảo của Bác sĩ Lecter nằm ngang vị trí các hồ lớn.




      Này Clarice, có phải rải rác ngẫu nhiên của các nơi xảy ra trọng án làm cho cảm thấy quá đáng hay sao? Có thể nào điều đó thể gì khác hơn là ngẫu nhiên sao? ngẫu nhiên này cuối cùng rồi có dẹp bỏ bất cứ mọi cân nhắc thực tiễn nào ? Điều này làm nghĩ đến những dụng công của tên láo vụng về à?


      Cảm ơn.




      Hannibal Lecter


      T.B. cần lật các trang sau đâu, có gì khác hết




      Tuy nhiên Clarice vẫn lật các trang sau suốt hai mươi phút để cho chắc chắn là đúng như thế. Bằng máy trả tiền trong hành lang, gọi điện thoại trực tiếp và đọc tin nhắn này cho Burroughs. tự hỏi biết có khi nào ông này ngủ nữa.


      - Starling ơi, tôi phải với rằng giờ các thông tin của Lecter còn chút giá trị nào cả. Thế Jack có gọi cho về Bill Rubin chưa?


      - Chưa.


      tựa vào vách, mắt lại nhắm trong khi ông ta cắt nghĩa cho hiểu lời đùa của Bác sĩ Lecter.


      - Tôi biết nữa - Ông kết luận. - Jack họ tiếp tục với các bệnh viện cho các tên chuyển đổi giới tính, nhưng ông ta còn tin nữa ? Nếu kiểm tra lại trong điện toán, nếu phân tích cách mà người ta nạp vào các dữ liệu được thảo nhận thấy tất cả các thông tin do Lecter cung cấp đều có những từ đặc biệt. được để ý đến những gì ông ta với tại Baltimore và cả những gì người ta thu thập được tại Memphis. Đó là điều mà Bộ Tư Pháp mong muốn. Tôi có tại đây báo cáo đề nghị việc con côn trùng được tìm thấy trong cuống họng của Klaus, phải được coi như là “ vật trôi dạt”.


      - Nhưng dù sao ông cũng chuyển cái đó cho Crawford chứ?


      - Đương nhiên, tôi cho nó lên màn hình của ông ta, nhưng chúng tôi chưa gọi cho ông tangay. Cả cũng thế. Bella vừa qua đời.


      - Ồ - Clarice thốt lên.


      - hãy nghe đây, điều chắc chắn là các nhân viên của chúng ta kiểm tra lại phòng giam Lecter. chàng Barney có giúp họ. Họ tìm thấy dấu vết của đồng thau con bù lon của chân giường, và ông ta chế tạo cái chìa khóa còng tại đây. Can đảm lên, em. vượt qua tất cả chuyện này, trong trắng như con cừu mới sinh vậy.


      - Cảm ơn ông Burroughs, chúc ông ngủ ngon.


      Như con cừu...


      Mặt trời vừa mọc lần cuối cùng trong cuộc đời của Catherine Martin.


      biết ông Lecter muốn ám chỉ gì nữa? Người ta biết những gì ông nghĩ trong đầu. Lần đầu tiên đưa hồ sơ cho ông ta, tưởng ông ta thích thú với các tấm ảnh và dùng các báo cáo để làm cơ sở cho những gì ông về Buffalo Bill.


      Có thể ông dối với ngay từ lúc đầu, như đối với bà Thượng nghị sĩ Martin. Có thể ông ta biết chút gì về Buffalo Bill và cũng hiểu được .


      Tuy nhiên ông ta sáng suốt, ông ta soi thấu tim gan mình cách đáng nể. dễ dàng khi phải chấp nhận việc người muốn làm điều tốt với mình lại hiểu mình như thế. Clarice còn trẻ và điều này thường xảy đến với .


      thể nào khác hơn là ngẫu nhiên, Bác sĩ Lecter như thế.


      Clarice, Crawford và vài người nữa xem xét kỹ các điểm bản đồ, đánh dấu những nơi xảy ra các vụ bắt cóc và và những nơi mà người ta tìm thấy mấy cái xác. Dưới mắt của Clarice, nó giống như chòm sao đen mà mỗi ngôi sao có mang ngày tháng; biết tại Khoa nghiên cứu thái độ người ta cũng nghĩ đến việc xếp chồng chúng lên các cung của Hoàng Đạo, nhưng vẫn có kết quả nào.


      Nếu Bác sĩ Lecter đọc sách để tiêu khiển, tại sao ôngbỏ phí thời giờ để xem tấm bản đồ kia chứ? tưởng tượng cảnh ông ta lật từng trang hồ sơ rồi vui đùa với cách hành văn của những người viết được quá chứ.


      Những nơi bắt cóc và những chỗ bỏ xác hình thành cấu trúc gian hoặc có ý nghĩa tạm thời nào đó, bởi vì giữa những chỗ đó hề có mối liên quan thuận tiện nào, có bất kỳ trùng hợp nào với các ngày được quy định của nghề nghiệp, với gia tăng các vụ trộm, vụ đánh cắp quần áo phơi hoặc những tội phạm khác liên quan đến bái vật.


      Máy ly tâm vắt khô quần áo, Clarice cho ngón tay di chuyển bản đồ. Vụ bắt cóc xảy ra tại đây và người ta tìm thấy cái xác tại đây. Vụ bắt cóc thứ nhì ở tại đây và cái xác thứ hai nằm ở đây. Ở đây là chỗ thứ ba và... nhưng các ngày tháng tương ứng hoặc giả... , cái xác thứ nhì được tìm thấy trước tiên.


      kiện này được ghi chú bằng tuồng chữ lem luốc ngay tại vị trí bản đồ. Người ta tìm thấy trước nhất cái xác của nạn nhân thứ nhì, trôi bồng bềnh sông Wabash, ở phía hạ lưu thành phố Lafayette, Indiana, ngay dưới quốc lộ 65.


      Người thiếu nữ đầu tiên bị mất tích tại thành phố Belvedere, bang Ohio, gần Colombus, và xác ta được tìm thấy cách rất xa nơi đó. Xác thứ hai được ném xuống sông Blackwater, Missouri, xa Lone Jack. Người ta đem cân cái xác. Trong khi tất cả các xác khác hề được cân.


      Xác thứ nhất được dằn đá trước khi được ném xuống sông tại vùng hẻo lánh. Buffalo Bill ném cái xác thứ hai ở phía thượng lưu của thành phố và dĩ nhiên người ta mau chóng tìm ra nó.


      Tại sao?


      giấu kỹ cái xác thứ nhất còn cái thứ hai .


      Tại sao?


      Vậy “ thể nào khác hơn là ngẫu nhiên” mang ý nghĩa gì chứ?


      Cái trước tiên, “trước tiên”. Bác sĩ Lecter từ này. Trong bối cảnh nào chứ?


      Clarice đọc lại các ghi chép mà nguệch ngoạc lúc phi cơ đưa về Memphis.


      Bác sĩ Lecter có khá nhiều dấu vết trong hồ sơ để định vị tên giết người. “ dễ hiểu”, ông . Tôi cần “cái đầu tiên”, thế nó ở đâu? Tại đây này... “Các nguyên lý đâu tiên” rất quan trọng. “Các nguyên lý đầu tiên”, khi ông ta những từ này, người ta có thể nghĩ đây chỉ là trong các lời khoác lác vô nghĩa khác nữa mà thôi.


      làm gì Clarice? Điều đầu tiên, điều chủ yếu mà làm? nhu cầu thỏa mãn nào buộc phải giết người? ham muốn. Thế ham muốn được khởi đầu bằng cái gì? Chúng ta bắt đầu ham muốn những gì chúng ta thấy hàng ngày.


      dễ dàng khi nghĩ đến những lời của Bác sĩ Lecter khi cảm nhận cái nhìn của ông da thịt . Quả rất dễ dàng tại đây, trong căn cứ rất an toàn ở Quantico này.


      Nếu chúng ta bắt đầu ham muốn những gì chúng ta thấy hàng ngày, có thể Buffalo Bill nghĩ đến việc giết người, như làm lần đầu? Có thể nào làm việc này với người hàng xóm láng giềng? Có thể nào vì thế mà giấu kỹ cái xác đầu tiên và quá sơ sài cái thứ hai? Có thể bắt cóc người thứ hai cách xa nhà và vứt nó ở nơi mà người ta nhanh chóng tìm thấy nó, bởi vì ngay từ đầu, muốn tạo ấn tượng là các vụ bắt cóc được thực cách ngẫu nhiên?


      Khi Clarice nghĩ đến các nạn nhân, chính Kimberly Emberg luôn là người nghĩ trước nhất, vì thấy xác ta, và trong khía cạnh nào đó, có tham dự vào cái chết này.


      Xem nào, người đầu tiên là Fredrica Bimmel, hai mươi hai tuổi, từ Belvedere, Ohio, và có hai tấm hình của ta. thẻ sinh viên, ta có vẻ là thiếu nữ to con nhan sắc nhưng nước da hồng hào và mái tóc dày. bức thứ hai chụp tại nhà xác Kansas City, còn gì là người cả.


      Clarice gọi điện lại cho Burroughs. Giọng ông ta hơi khàn nhưng ông vẫn lắng nghe.


      - Thế nào Starling, muốn gì với tôi đây?


      - thể sống tại Belvedere, Ohio, nơi cư trú của nạn nhân thứ nhất. Có thể nhìn thấy ta hàng ngày và giết ta mà dự tính. Có thể chỉ muốn mời ta uống... chai Coca và chuyện về Đội hợp xướng. Vì thế mới giấu kỹ cái xác này, còn nạn nhân thứ hai bị bắt cóc cách xa nhà của để cho người ta tìm thấy trước để loại bỏ nghi ngờ về thành phố của . Ông cũng biết người ta thường quan tâm đến lời khai mất tích và người ta chỉ bị lôi cuốn khi tìm thấy cái xác.


      - Này Starling, các kết quả hiệu quả hơn các dấu vết còn mới, các nhân chứng còn nhớ được và...


      - Đó là điều tôi muốn . biết điều đó.


      - Thí dụ ngay lúc này đây, người ta thể nhảy mũi trong thành phố quê hương của Kimberly Emberg mà cảnh sát ập đến ngay. Người ta còn quan tâm đến ta kể từ khi con bé Martin mất tích. Đột nhiên cảnh sát dồn hết lực lượng vào vụ án. Và đương nhiên tôi hề gì với .


      - Thế ông có lại những gì tôi vừa với ông về cái thành phố đầu tiên cho ông Crawford ?


      - Có chứ. Tôi chuyển lại cho tất cả mọi người đường dây ưu tiên. Tôi nghĩ đó là ý tưởng rất hay. Nhưng mà Clarice, thành phố đó được kiểm soát rất kỹ kể từ khi người thiếu nữ, mà ta tên gì nhỉ, hình như là Bimmel phải, đúng rồi, kể từ khi đó được nhận diện. Văn phòng tại Colombus thụ lý nội vụ cùng nhiều cảnh sát địa phương. Trong hồ sơ có đủ mọi chi tiết. Tôi e rằng Belvedere hay bất cứ giả thuyết nào của Lecter cũng còn làm cho người ta quan tâm nữa hết.


      - Tất cả những...


      - Starling, nhân danh Bella, chúng tôi gởi quà tặng cho Unicef. Nếu muốn chúng tôi điền tên vào trong danh sách.


      - Được chứ, cảm ơn ông Burroughs.


      Clarice lấy hết quần áo ra khỏi máy và ôm đống đồ còn nóng vào trong lòng.


      Mẹ với chồng khăn trải giường tay.


      Hôm nay là ngày cuối cùng của Catherine.


      Con quạ khoang đen trắng ăn cắp đồ đạc chiếc xe đẩy. thể nào có mặt cùng lúc trong phòng và ở ngoài để đuổi nó.


      Hôm nay là ngày cuối cùng của Catherine.


      Thay vì sử dụng đèn chớp, cha lại đưa tay ra ngoài khi quẹo ra xa lộ. Mỗi khi chơi ngoài sân, cứ nghĩ với cánh tay to lớn đó, ông chỉ dùng để cho xe quẹo mà thôi.


      Khi Clarice quyết định, vài giọt nước mắt trào ra, chùi mặt đống quần áo nóng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      48



      Crawford bước ra khỏi nhà tang lễ và đưa mắt tìm xe. Và ông nhìn thấy Clarice đứng chờ dưới mái hiên, mặc đồ màu đen, dáng vẻ rất trong ánh sáng ban ngày.


      - Xin ông để tôi tiếp tục - .


      Crawford vừa chọn quan tài cho vợ và xách trong túi giấy đôi giày của Bella mà ông lấy nhầm. Ông phải trấn tĩnh lại mới được.


      - Xin ông thứ lỗi cho việc tôi đến đây vì tôi còn cách nào khác để tiếp xúc được ông. Xin ông cứ để tôi tiếp tục.


      Crawford thọc hai tay vào túi và xoay cổ qua lại cho đến khi nó cao hẳn lên. Đôi mắt ông sáng rực, có vẻ nguy hiểm.


      - Tại sao?


      - Ông phái tôi đến Memphis để tìm hiểu thêm về Catherine Martin, bây giờ tôi xin ông để tôi điều tra thêm về những người kia nữa. Chúng ta phải tìm ra cách săn . Cách tìm ra, cách bắt cóc họ. Tôi cũng thua kém gì những nhân viên khác của ông, có khi còn giỏi hơn. Tất cả nạn nhân đều là phụ nữ và nhân viên nữ nào phụ trách công việc điều tra. Mỗi khi tôi bước vào phòng của phụ nữ, tôi biết nhiều chuyện gấp ba lần người đàn ông về vấn đề đó và ông cũng biết chuyện ấy đúng. Ông cho phép tôi tiếp tục .


      - Và chấp nhận khóa đào tạo khác à?


      - Phải.


      - Nó có nghĩa là mất toi sáu tháng.


      trả lời.


      Crawford dậm chân lên bụi cỏ. Ông ngước mắt nhìn , nhìn cái đồng cỏ xa xăm trong đôi mắt ấy. có nghị lực, như Bella vậy.


      - Vậy muốn bắt đầu từ ai?


      - Người đầu tiên, Fredrica Bimmel, Belvedere Ohio.


      - Chứ phải từ Kimberly Emberg, người mà thấy sao?


      - bắt đầu từ ấy. Nêu Lecter ra à? , ông thấy việc đó màn hình ông ta.


      - Emberg là lựa chọn vì cảm xúc, có phải Starling? Chi phí công tác được hoàn trả cho . có tiền trong người ? Ngân hàng chỉ mở cửa trong giờ nữa.


      - Tôi còn ít trong thẻ Visa của tôi.


      Crawford lục túi của mình, đưa cho ba trăm đôla giấy và ngân phiếu đề tên .


      - Lên đường , Starling. Chỉ người đầu tiên thôi. Hãy báo cáo về cho tôi bằng đường dây ưu tiên. Nhớ gọi cho tôi đấy nhé!


      đưa cánh tay lên, nhưng bắt tay hoặc chạm vào mặt ông ta, ông có vẻ xa vời quá, rồi quay người lại, bỏ chạy về chiếc Pinto của mình.


      Crawford đứng đó nhìn nổ máy xe. Ông đưa hết cho tiền ông có trong người.


      - Em Bella bé bỏng của tôi cần đôi giày mới, nhưng giờ đây em cần nữa. - Ông đứng đó, ngay lề đường, nước mắt chảy ròng, ông, trưởng phòng FBI... khóc như thằng ngốc.


      Khi trở lại xe, Jeff thấy gò má ông bóng lưỡng nên lui vào trong con đường để Crawford thấy ta. đốt điếu thuốc và kéo liên tiếp mấy hơi liền. có thể làm điều này với ông ta, kéo dài thời gian để cho gò má ông khô lại, bực mình vì phải chờ đợi và có lý do để rầy la .



      49



      Trong buổi sáng của ngày thứ tư, Gumb sẵn sàng cho công việc lột da.


      vừa mua những thứ cần thiết còn lại và cố bước xuống tầng hầm cho nhanh. Trong gian phòng làm việc, bỏ hết đồ trong túi giấy ra: dải dày để kẹp vào các đường may, mấy miếng lycra thun để gắn dưới các túi , gói muối hột. quên thứ gì cả.


      Trong xưởng, trải các loại dao khăn sạch để cạnh bồn rửa. Có tất cả bốn cái: con dao cong để lột da, con tinh xảo của thợ săn, áp đúng theo ngón tay cái trong các chỗ khó tới được, dao mổ dành cho công việc tỉ mỉ và dao lê của thời Đệ Nhất Thế Chiến. Cái cạnh tròn của dao lê là phương tiện tốt nhất để lóc tấm da mà sợ làm nó rách.


      Hơn nữa, có thêm cái cưa phẫu thuật Strycker.


      thoa mỡ lên đầu hình nhân, đổ muối hột lên đó và đặt mấy thứ đó giá rá nước sâu. Để đùa nghịch, vặn mũi cái hình nhân và hôn gió cái.


      khó mà cư xử như người trưởng thành có trách nhiệm, muốn nhảy tới nhảy lui như Danny Kaye. cười và đuổi con bướm trước mặt bằng cách thổi vào nó.


      đến lúc cho các máy bơm hoạt động để cho nước vào trong các bồn chứa mà thay hỗn hợp hóa chất. Ồ, có phải cái kén rất đẹp bị chôn dưới đống mùn trong cái lồng ? đưa ngón tay sờ thử. Đúng rồi, có cái đây.


      Bây giờ đến khẩu súng.


      Giết bằng cách này làm băn khoăn suốt nhiều ngày liền. có việc treo ta lên vì các vết nhăn da ở vùng ngực, hơn nữa muốn cái nút thòng lọng làm hư vùng da cổ sau lỗ tai.


      Gumb học được nhiều kinh nghiệm, có khi rất nhức nhối của những lần thử trước. Bằng mọi giá, muốn tránh vài cơn ác mộng mà phải chịu đựng. nguyên tắc chủ đạo: dù cho có kiệt sức bằng cái đói hoặc nỗi sợ hãi, những này luôn giãy giụa mỗi khi họ thấy các dụng cụ.


      Trong quá khứ, rượt đuổi các dưới tầng hầm trong bóng tối bằng cách dùng cặp kính và cây đèn pin hồng ngoại, và lý thú khi thấy họ mò mẫm các vách tường, ngồi chết cứng trong góc. thích như thế, rượt bắt họ với khẩu súng. cũng thích bóp cò lắm. Cuối cùng các cũng mất hết phương hướng, còn biết đến đến cân bằng và đụng đầu vào các chướng ngại vật. đứng im trong bóng tối dày đặc cho đến khi các bỏ tay ra khỏi mặt, và chỉ đến lúc đó mới bắn phát vào đầu họ. Hoặc vào chân trước, ngay dưới đầu gối để cho họ còn có thể bò được.


      Những trò đùa ấu trĩ đó, đúng là lãng phí, vì sau đó còn gì để sử dụng được, nên làm nữa.


      Kế hoạch mà đeo đuổi, có đề nghị với ba người đầu tiên bước lên lầu tắm trước khi xô họ xuống dưới cầu thang với cái nút thòng lọng quanh cổ, có trở ngại nào cả. Nhưng với người thứ tư, đúng là thảm họa. Đúng lý phải sử dụng đến súng trong phòng tắm: mất hết cả giờ đồng hồ để lau chùi. nhớ lại , mình ướt đẫm, nổi da gà với cơn run rẩy khi nghe lên cò súng. rất thích lên cò súng clic-clic, và cái đùng!, chấm dứt các tiếng la.


      rất thích khẩu súng của mình, và có lý vì đây là vật rất đẹp, khẩu Colt Python bằng thép rỉ với cái nòng dài mười lăm phân. lên đạn và bóp cò, chụp con chó lửa lại bằng ngón cái. đặt khẩu Python lên bàn làm việc.


      Gumb muốn đề nghị với này gội đầu để nhìn chải tóc. Điều đó giúp cho rất nhiều sau này. Nhưng ta to con, chắc khỏe mạnh lắm. Đây là mẫu rất hiếm để liều lĩnh làm hư tấm da ta bằng viên đạn đúng chỗ.


      được, phải dùng đến cái tời thôi, đề nghị ta tắm và khi cột ta vào trong các đai rồi, kéo ta lên tầm giữa giếng và bắn vài phát vào bụng dưới ta. Khi nào ta bất tỉnh rồi, dùng đến thuốc mê để thực những công việc còn lại.


      Thế đó. phải lên thay quần áo. Đánh thức Quý Báu dậy để xem phim với nó, sau đó trở xuống để hoàn tất công việc làm dưới tầng hầm được sưởi ấm, trần truồng như ngày mới chào đời.


      cảm thấy hơi choáng váng khi lên cầu thang. cởi hết quần áo cho mau và mặc áo ngủ vào. để cuộn băng vào trong máy.


      - Quý Báu ơi, lại đây nào Quý Báu. Chúng ta có nhiều việc phải làm. Hãy đến đây, trái tim của ta. - phải nhốt nó trong phòng trong suốt thời gian trọng đại dưới đó, vì nó ghét tiếng ồn và làm cho nó bị bệnh. Để cho nó có công việc làm trong khi chợ, khui cho nó hộp thức ăn chó rồi.


      - Quý Báu! - nghe thấy tiếng của nó, bước đến cửa, lên tiếng gọi lần nữa - Quý Báu!, - rồi qua nhà bếp, cuối cùng xuống đến tầng hầm. - Quý Báu. - Khi đứng ngay cửa hầm giam để gọi, mới nghe tiếng trả lời.


      - Nó ở dưới này đây, đồ rác rưởi - Catherine Martin .


      Gumb muốn xỉu vì lo sợ cho con chó quý. Nhưng tức giận làm cho tìm lại sức mạnh, đưa hai tay nắm ép lên thái dương, tựa trán vào thành cửa, cố trấn tĩnh lại. tiếng, nửa rên rỉ nửa buồn nôn, thoát ra từ miệng và con chó trả lời bằng tiếng ẳng ẳng.


      vào trong xưởng để lấy khẩu súng.


      Sợi dây cột vào cái xô bị đứt rồi. thể hiểu ta làm như thế nào. Lần cuối cùng việc này xảy ra làm sao, nghĩ ta ngu ngốc trèo lên đó. Nhiều người khác thử làm như thế, họ làm những điều ngu xuẩn thể tưởng được.


      cúi xuống miệng giếng và bằng giọng được định lượng kỹ:


      - Quý Báu ơi, mày ra sao rồi, hãy trả lời cho tao .


      Catherine nhéo cái mông mập ú của con chó. Nó kêu lên và trả thù bằng cái cắn vào tay .


      - Cách trả lời này có thích hợp với ông ? - Catherine đáp lại.


      Quả là bất thường khi Gumb phải chuyện với ta như thế, nhưng phải cố nén ghê tởm của mình.


      - Tôi thả cái giỏ xuống, rồi bỏ nó vào trong đó.


      - Ông phải thả máy điện thoại xuống đây nếu tôi vặn cổ nó. Tôi muốn làm thế, tôi muốn hại con chó này. Vì thế, ông nên thả điện thoại xuống cho tôi .


      Gumb đưa súng lên. Catherine thấy nòng súng sáng lên trong ánh đèn. ngồi xuống, đưa con chó lên cao và quơ nó qua lại giữa khẩu súng và . nghe tiếng bóp cò.


      - Đồ đần độn! Nếu ông bắn, ông được bắn trật tôi nếu tôi bẻ cổ nó đó, tôi thề đấy.


      ôm con chó dưới cánh tay, bóp chặt cái mõm và kéo mặt nó ngước lên.


      - Đồ chó đẻ, mày có lùi lại - Con chó con kêu tiếng dài và khẩu súng liền biến mất.


      Với bàn tay còn lại, vén mớ tóc khỏi cái trán đẫm mồ hôi của mình.


      - Tôi muốn chửi ông. Đưa cho tôi điện thoại , tôi muốn điện thoại còn sử dụng được. Ông có thể đâu tùy thích, tôi bất cần, tôi hề thấy mặt ông. Tôi chăm sóc Quý Báu.


      - được.


      - Tôi lo cho nó. Hãy nghĩ đến nó chứ đừng chỉ nghĩ đến mình ông thôi. Nếu ông bắn xuống đây, nó điếc mất. Tôi chỉ muốn điện thoại còn sử dụng được. Ông phải kiếm sợi dây nối, kết nối năm sáu sợi lại nếu cần, chúng luôn có hai đầu để kết nối với nhau, và thả nó xuống đây. Tôi gởi con chó bằng đường hàng tới bất cứ đâu ông muốn. Gia đình tôi cũng có nuôi nhiều chó. Mẹ tôi rất thích chó. Ông có thể trốn chạy, tôi cóc cần.


      - có nước uống, giọt nào cả.


      - Nó cũng thế và tôi chia cho nó phần nước còn lại trong cái chai ở dưới này. Tôi rất tiếc phải điều này nhưng hình như nó bị gãy hết chân rồi. - Đây là lời bịa đặt, con chó rớt xuống cùng cái xô lên người Catherine và chính mới bị trầy mặt vì móng chân của con chó. thả nó xuống đất vì thấy ngay nó cà nhắc. - Nó đau nhiều lắm. Chân nó bị quẹo qua bên và nó liếm mặt tôi đây. Tôi rất khổ tâm trước tình cảnh này. - Catherine láo. - Phải mau chóng đưa nó đến thú ý thôi.


      Tiếng rên lo âu và phẫn nộ của Gumb làm cho con chó sủa nữa.


      - là nó đau đớn, nhưng có biết đau đớn là như thế nào ? - Gumb . - mà làm nó đau, tôi tạt nước sôi lên người đấy.


      Khi nghe lên cầu thang bằng bước chân nặng nề, Catherine mới ngồi xuống, tay chân ngừng run rẩy. thể ôm con chó được nữa và cũng thể kiềm được nước tiểu cứ tuôn ra từ trong người .


      Khi con chó trèo lên đùi , vuốt ve nó, vững lòng vì hơi ấm của nó.



      50



      Nhiều lông chim nổi dòng nước lờ đờ màu nâu sẫm, những lông vũ uốn quăn từ chuồng nuôi chim câu bay theo ngọn gió làm gợn sóng mặt sông.


      Các nhân viên địa ốc rêu rao các bảng quảng cáo nhạt màu rằng những ngôi nhà đường Fell, con đường của Fredrica Bimmel, nằm bến cảng. Sở dĩ có điều này bởi vì sân sau của những ngôi nhà đó nhìn ra vùng nước tù đọng thuộc dòng sông Lucking, thành phố Belvedere, Ohio, thành phố ngàn hai trăm dân, ở phía đông Colombus.


      Đây là khu nghèo nàn. Vài ngôi nhà to lớn và cũ kỹ được các đôi vợ chồng trẻ mua với giá rẻ và tân trang bằng trợ giúp của nhiều lớp sơn, mà việc này càng làm cho các ngôi nhà khác trông thảm hại hơn. Nhà của gia đình Bimmel chưa được tân trang.


      Clarice đứng hồi lâu tại sân sau nhà của Fredrica, hai tay thọc trong túi áo mưa, ngắm nhìn các lông vũ mặt nước. Còn lại ít tuyết cũ những cây lau sậy, với ánh xanh dưới bầu trời xám xịt của ngày êm ả mùa đông này.


      Clarice nghe phía sau lưng có tiếng của người cha của Fredrica đóng đinh các tấm ván các chuồng nuôi chim câu, được dựng ngay mép nước, đặt sát ngôi nhà. chưa hề gặp mặt ông Bimmel. Những người láng giềng thờ ơ chỉ là ông ta ở nhà.


      Clarice lo cho chính mình. Đêm qua, khi quyết định bỏ ngang khóa học để truy bắt Buffalo Bill, nhiều tiếng động xa lạ với tình hình đột nhiên im bặt. Bất ngờ, im lặng thuần túy chiếm lấy tâm trí của , yên tĩnh nào đó. Nhưng ở những nơi khác của não bộ, ở vùng ngoại vi, những ánh chớp của ý thức báo rằng đứa ngu xuẩn bỏ lớp học.


      Những phiền lòng nhặt trong ngày hề ảnh hưởng gì đến , ngay cả mùi hôi chiếc phi cơ đưa đến Colombus, kể cả lộn xộn và thiếu năng lực của văn phòng cho thuê xe hơi. gõ muốn sưng các ngón tay để cho các nhân viên làm việc khẩn trương hơn nhưng vẫn đem lại hiệu quả nào hết.


      Clarice phải trả giá rất đắt cái thời giờ bỏ ra tại đây nên muốn dùng nó sao cho có hiệu quả hơn. Vì bất cứ lúc nào, những người khác có thể thắng Crawford và tước tấm thẻ FBI tay , được dùng để chứng minh cuộc điều tra.


      phải khẩn trương lên, nghĩ đến tại sao; lo nghĩ nhiều hơn đến tình huống khốn cùng của Catherine chỉ phá hỏng cái ngày này của . Chỉ nghĩ đến ta trong khoảnh khắc hợp lý, chứ cứ tưởng tượng đến tình trạng giờ ta phải chịu những gì xảy ra với Kimberly Emberg và Fredrica Bimmel, làm rối tung dòng suy nghĩ của .


      Cơn gió thoảng ngừng thổi và mặt nước phẳng lặng như cái chết. Hãy giữ vững niềm tin nghe , Catherine!


      Clarice cắn môi. Nếu sử dụng súng, hy vọng giết ta ngay phát đầu tiên..


      Hãy dạy cho chúng con tình thương và siêu thoát


      Hãy dạy cho chúng con làm sao được bình thản.


      xoay người lại và giữa các hàng lồng chim, con đường được lót ván ngay bùn, về hướng tiếng búa. Có hàng trăm con chim câu với kích cỡ và màu sắc khác nhau; những con to lớn với đôi chân khoèo và nhiều con khác với cái bầu diều tròn trịa. Chúng qua lại trong chuồng, đôi mắt sáng ngời với cái đầu cứ cà giật hoặc dang đôi cánh rộng trước ánh nắng mờ nhạt và gù khi ngang qua.


      Cha của Fredrica Bimmel, ông Gustav Bimmel là người to lớn với đôi hông rộng, đôi mắt xanh biếc đầm đìa nước mắt. Chiếc mũ đan phủ xuống tận lông mày. Ông đóng chuồng chim con ngựa thợ mộc ngay trước căn chòi để đồ nghề. Khi ông cúi đọc tấm thẻ FBI của , Clarice nhận thấy hơi thở ông sặc mùi vodka.


      - Tôi còn gì để nữa. Cảnh sát trở lại đây vào đêm hôm trước. Họ bắt tôi khai lại, đọc lại cho tôi nghe - Điều này đúng , cái kia đúng ? - Tôi có trả lời với họ - Đúng rồi, mẹ kiếp, nếu đúng, lần đầu tôi đâu có khai như thế cho mấy ông đâu.


      - Thưa ông Bimmel, tôi cố gắng hình dung nơi mà... tên bắt cóc có thể nhìn thấy Fredrica, nơi mà có thể chú ý đến ta và quyết định bắt cóc ta.


      - Con tôi làm việc tại cửa hàng ở Colombus bằng xe buýt. Cảnh sát con tôi có gặp ông chủ, nhưng nó bao giờ trở về nhà nữa. ai biết nó có làm gì khác . FBI kiểm tra các biên nhận thẻ tín dụng của nó, nhưng ngày hôm đó có. biết tất cả rồi mà, có đúng ?


      - Về thẻ tín dụng phải, tôi có biết. Thưa ông Bimmel, ông còn giữ đồ đạc của Fredrica và chúng được cất ở đâu vậy?


      - Phòng của nó ở tầng thượng đấy.


      - Tôi có thể xem qua ?


      Ông phải nghĩ lúc để tìm chỗ đặt cái búa xuống đâu, rồi :


      - Được thôi, hãy theo tôi.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      51



      Văn phòng của Crawford trong tổng hành dinh của FBI tại Washington, được sơn màu xám nặng nề nhưng cửa sổ lại lớn.


      Đứng gần đó, ông cố gắng giải mã cái danh sách vừa mới ra khỏi cái máy in chết tiệt mà đúng lý ra người ta phải vứt vào thùng rác từ lâu rồi.


      Ông trở về thẳng từ nhà tang lễ và làm việc suốt cả buổi sáng, quấy nhiễu mấy người Na Uy để thúc họ gởi sơ đồ răng của người thủy thủ mất tích tên Klaus, hối thúc văn phòng San Diego hỏi cung tất cả những người tại nhạc viện từng quen biết Benjamin Raspail và giục giã ngành Hải Quan kiểm tra lại các danh sách nhập khẩu côn trùng sống bất hợp pháp.


      Năm phút sau khi ông đến, John Golby, vị phụ tá giám đốc FBI, người chỉ huy mới của toán công tác đặc biệt liên ngành, ló đầu qua cánh cửa.


      - Tất cả bọn tôi đều nghĩ đến đấy, Jack. Cảm ơn đến. Ngày tang lễ được ấn định chưa?


      - Việc gác xác khởi vào đêm mai. Tang lễ cử hành vào chủ nhật lúc mười giờ.


      Golby gật đầu.


      - Chúng tôi có làm cuộc quyên góp cho Unicef. có muốn chúng tôi điền tên Phyllis hay là Bella?


      - Bella, John, hãy ghi tên Bella .


      - Tôi có thể làm gì cho , Jack?


      Crawford lắc đầu.


      - Tôi làm việc thôi. Bây giờ tôi chỉ còn biết đến công việc mà thôi.


      - Tốt - Golby đáp lại và theo đúng ý nghĩ ông ta để trôi vài giây.


      - Frederic Chilton cầu được hưởng bảo vệ của cảnh sát liên bang.


      - phi thường, John à, thế có người nào gặp Everett Yow, vị luật sư của Raspail chưa? Tôi có chuyện này rồi mà. Có thể ông ta biết điều gì đó về các người bạn của Raspail cũng nên.


      - Có rồi, họ làm công việc này hồi sáng nay. Tôi cũng vừa mới gởi tin nhắn về việc này cho Burroughs. Ông giám đốc đưa tên Lecter vào danh sách bị truy nã đặc biệt. Này, Jack, nếu cần đến bất cứ điều gì... - Golby nhướng mày và đưa hai tay lên rồi biến mất.


      Nếu cần đến bất cứ điều gì.


      Crawford xoay mặt qua cửa sổ. Ông có cảnh quang đẹp tòa nhà cũ của Bộ Bưu Điện, nơi ông trải qua thời gian thực tập, bên trái là tổng hành dinh cũ của FBI; vào ngay trao bằng tốt nghiệp, ông cùng những người khác diễu hành qua phòng làm việc của J. Edgar Hoover, đứng cái thùng để bắt tay từng người . Đó là lần duy nhất ông gặp mặt vị chỉ huy tối cao này, vì qua ngày hôm sau ông kết hôn với Bella.


      Hai người quen biết nhau tại Livoume, bên Ý. Ông thi hành quân dịch, làm việc cho NATO và vào thời đó mang tên Phyllis. hôm, trong lúc họ dạo chơi bến cảng, có thủy thủ la to “Bella”, và kể từ ngày ấy, đối với ông, luôn là “Bella”. Ông chỉ gọi bằng tên Phyllis khi nào hai người bất hòa.


      Bella chết rồi. Điều đó đúng ra phải làm thay đổi cảnh quang trước cửa sổ. phải chút nào khi nó vẫn y như thế. Khốn nạn , tại sao bà lại chết trước tôi như thế chứ! Chúa ơi, con biết điều này xảy ra, nhưng nó vẫn nhức nhối quá.


      Thế người ta gì về việc nghĩ hưu bắt buộc vào tuổi năm mươi lăm? Người ta quá si tình với Cơ quan, nhưng nó bao giờ biết thương người đâu. Ông là chứng nhân.


      Cảm ơn Chúa. Bella giúp ông tránh được việc đó. Ông hy vọng là bà ở đâu đó và cảm thấy yên ổn. Ông hy vọng bà có thể đọc được những gì trong tim ông.


      - Thưa ông Crawford, có ông bác sĩ Danielson nào đó...


      - Cám ơn - Ông chờ nối máy. - Jack Crawford nghe dây.


      - Đường dây này an toàn ông Crawford?


      - An toàn chứ, ít ra từ phía tôi.


      - Ông cho thu băng cuộc chuyện này chứ ông Crawford?


      - đâu bác sĩ Danielson, ông cứ ngại gì cả.


      - Tôi muốn xác định việc này liên quan đến bất cứ bệnh nhân nào của John Hopkins hết.


      - Hiểu rồi.


      - Nếu các ông rút ra được điều gì đó, tôi cầu các ông phải cho công chúng biết hề là tên chuyển đổi giới tính và cũng có mối liên quan nào với viện của chúng tôi.


      - Tôi xin hứa. Ông có lời hứa danh dự của tôi đây. Tôi khẳng định điều này - Mày có , thằng bị táo bón kia. Crawford có thể hứa cho ông ta cả cái mặt trăng cũng được.


      - đánh gục Bác sĩ Purvis.


      - Ai mới được?


      - cầu được phẫu thuật cách đây ba năm dưới cái tên John Grant, ở Harrisbourg, Pennsylvania.


      - Hình dáng?


      - Đàn ông da trắng, ba mươi mốt tuổi. thước tám mươi, tám mươi sáu ký. đến trình diện để làm trắc nghiệm. Kết quả rất tốt về mặt Weschler-Bellevue, chủ thể xuất sắc, nhưng về các trắc nghiệm tâm lý và các cuộc chuyện là việc hoàn toàn khác. cho đúng trắc nghiệm người-cây-nhà và cái TAT của phù hợp với những gì trong tờ giấy mà ông đưa cho chúng tôi. Ông làm cho tôi nghĩ rằng đây là giả thuyết của Alan Bloom, nhưng đúng ra là của Hannibal Lecter có phải ?


      - Ông cứ tiếp tục về tên Grant đó , bác sĩ.


      - Dù sao ủy ban cũng loại bỏ , nhưng khi chúng tôi họp để thảo luận về vấn đề này, việc được quyết định vì quá khứ của .


      - Quá khứ như thế nào?


      - Chúng tôi luôn hỏi cảnh sát của thành phố mà người ứng viên sống. Thành phố Harrisbourg truy nã về hai tội tấn công người đồng tính. Tên thứ hai sém chết. Địa chỉ của chỉ là nhà trọ gia đình mà thỉnh thoảng mới đến ở đó. Cảnh sát tìm thấy dấu tay của hóa đơn đổ xăng với số đăng ký xe hơi. hề mang tên John Grant. tuần sau, chờ Bác sĩ Purvis ra về và đánh gục ông ta vì tức giận.


      - Thế tên là gì?


      - Tốt hơn để tôi đánh vần cho ông: J-A-M-E G-U-M-B.



      52



      Ngôi nhà hai tầng mang đầy vẻ tang tóc, với mái bằng la ti được phết nhựa có vết rỉ sét ở máng xối tại những nơi mà nước mưa tràn ra. Các cây phong tự động mọc trong các máng xối, dường như chịu đựng nổi mùa đông khắc nghiệt. Các cửa sổ nhìn về hướng bắc, được che bằng mấy miếng nhựa.


      Tại phòng khách được sưởi ấm bằng lò điện, có người phụ nữ độ bốn mươi tuổi ngồi dưới thảm chơi với đứa con nít.


      - Đây là vợ tôi, - Bimmel trong khi họ ngang qua căn phòng. - Chúng tôi lấy nhau hồi Noel.


      - Xin chào bà, - Clarice . Người phụ nữ thờ ơ mỉm cười với .


      Lại trong cái hành lang lạnh giá: ở bất cứ đâu cũng có nhiều thùng gỗ được chất chồng đều ngang đầu người, giữa đó người ta có chừa lối và chất đầy cả các phòng. Trong các thùng đó chứa toàn những vật dụng lỉnh kỉnh như chụp đèn, nắp lọ, giỏ mây, những số cũ của các tạp chí Reader’s Digest và National Geographic, những vợt tennis đứt dây, khăn trải giường, bao nệm xe được phủ trong cái mền của những năm năm mươi hôi mùi nước đái chuột.


      - Chúng tôi chuẩn bị dọn nhà, - Bimmel cho biết.


      Gần cửa sổ, các thùng bạc màu vì ánh nắng mặt trời, còn các lối , các tấm thảm được trải ngẫu nhiên, sờn đến chỉ.


      Ánh nắng mặt trời chiếu lốm đốm các bậc thang mà Clarice bước theo sau người cha của Fredrica trong bộ quần áo bốc mùi hôi trong cái khí mát mẻ. Các thùng để bậc nghỉ được phủ tấm nhựa.


      Căn phòng mang xác của Fredrica hẹp.


      - còn cần đến tôi nữa ?


      - chốc nữa tôi muốn được chuyện với ông. Còn mẹ của Fredrica đâu? Trong hồ sơ có ghi “ chết” nhưng khi nào.


      - Mẹ của Fredrica à? Bà ta chết khi con bé được mười hai tuổi.


      - Ra thế.


      - nghĩ mẹ nó ở dưới đó à? Trong khi tôi vừa với là chúng tôi mới lấy nhau hồi Noel. nghĩ như thế có phải ? Tôi nghĩ cảnh sát hay có thói quen gặp toàn những người kỳ lạ. Bà ta hề biết mặt Fredrica.


      - Căn phòng vẫn được giữ nguyên như cũ phải , ông Bimmel?


      Có lẽ ông tức giận lắm nhưng để lộ ra.


      - Đúng vậy - Ông trả lời . - ai sờ mó gì cả. Rất ít người mặc vừa quần áo của con tôi. Nếu thấy cần, cứ bật lò sưởi lên, nhưng đừng quên tắt nó khi trở xuống.


      Ông muốn bước vào căn phòng này và bỏ xuống.


      Clarice đứng đó lúc, bàn tay nắm lấy cái núm cửa bằng sứ lạnh ngắt. cần sắp xếp lại các ý nghĩ của mình trước khi ghi nhận các đồ đạc của Fredrica.


      Tốt lắm, theo nguyên tắc, Buffalo Bill bắt đầu bằng Fredrica. dằn cái xác và bỏ nó xuống con sông gần nhà . giấu cái này kỹ hơn mấy cái khác, chỉ dằn đá cho mỗi cái này, bởi vì muốn người ta tìm thấy mấy cái xác kia trước. muốn áp đặt cái ý nghĩ là chọn các nạn nhân cách ngẫu nhiên, trong các thành phố xa cách nhau trước khi người ta tìm được Fredrica, ở Belvedere. muốn đánh lạc hướng chú ý đến thành phố Belvedere. Bởi vì sống tại đó hoặc tại Colombus.


      bắt đầu bằng Fredrica. Người ta thể bắt đầu ham muốn những thứ tưởng tượng. ham muốn là tội tầm thường, người ta ham muốn những thứ sờ mó được, những thứ mà người ta thấy hàng ngày. thấy Fredrica hàng ngày.


      Vậy cuộc sống hàng ngày của Fredrica là như thế nào? Nào hãy bắt đầu .


      Clarice mở cửa ra. Căn phòng lặng thinh có mùi ẩm mốc. bức tường, tờ lịch năm ngoái vẫn còn để ở tháng Tư. Fredrica chết được mười tháng rồi.


      Trong góc, có đĩa thức ăn mèo, khô cứng và đen thui.


      Clarice, nhà trang trí nội thất lão luyện, rất thành thạo về đồ lạc son, đứng ngay giữa căn phòng, từ từ nhìn quanh . Fredrica xoay xở khá hay với những gì sẵn có. Các màn cửa sổ bằng vải bông, và đánh giá theo các đường viền, ta dùng các vải phủ bàn ghế cũ.


      áp phích hình Madonna trình diễn sân khấu, cái khác của Deborah Harry và Blondie. bàn làm việc, Clarice thấy có nhiều miếng băng dính với màu sặc sỡ mà Fredrica dùng để dán lên tường. phải là tay chuyên nghiệp nhưng nó vẫn đẹp hơn những lần thử nghiệm đầu tiên của chính .


      Trong bối cảnh khác, căn phòng của Fredrica đẹp mắt hơn. Nhưng trong cái nhà ảm đạm này, cái vẻ tươi đẹp đó lạc điệu, đượm chút gì đó tuyệt vọng.


      có hình của Fredrica trong phòng.


      Clarice tìm thấy tấm trong cuốn niên giám của trường, kệ tủ sách .


      Trong tập album hình của Fredrica, có nhiều lời đề tặng. “Cho người bạn thân nhất của tôi” và “Cho tuyệt vời”, “Để nhớ các giờ hóa học” và “Mày có nhớ đến các buổi bán bánh của chúng ta ?!!”


      biết Fredrica có đưa bạn về đây ? biết người bạn khá thân nào để bước lên cái cầu thang này, dưới cái mái nhà bị dột . Có cái dù dựng cạnh cái cửa.


      tấm hình này, người ta thấy Fredrica đứng ở hàng đầu của ban nhạc. ta to con với đôi vai rộng, nhưng mặc đồng phục trông đẹp hơn mấy người khác; có nước da đẹp. Những nét đều đặn phối hợp nhau để tạo khuôn mặt dễ thương, nếu căn cứ theo các tiêu chuẩn thông thường.


      Và Kimberly Emberg cũng thế, ta phải thuộc loại mà người ta có thể gọi là quyến rũ, dành cho bọn săn , và cả hai hay ba nạn nhân khác cũng thế.


      Trái lại, Catherine Martin là thiếu nữ to con và đẹp, và phải chú ý đến trọng lượng của mình khi đến độ tuổi ba mươi.


      Mày nên nhớ cách đánh giá giống như những tên đàn ông khác. hề quan tâm đến sắc đẹp. Điều cần nhất là họ phải trẻ và to lớn.


      Clarice tự hỏi biết đối với phụ nữ có phải chỉ là những “miếng da” thôi, cũng giống như đối với mấy thằng đần, họ chỉ là “mấy con lỗ” thôi.


      Trong lúc ngắm nhìn các tấm hình, ý thức đến thân hình của chính mình, đến khoảng mà nó che lấp, đến hình dáng và khuôn mặt, đến hiệu quả mà chúng tạo ra, đến quyền lực của chúng, của cặp vú, của cái bụng săn cứng, của cặp giò dài. Có thể nào cái kinh nghiệm của riêng giúp hiểu được Fredrica ?


      Clarice tự ngắm mình trong tấm gương lớn dựng đứng sát bức tường ở cuối phòng. Nhưng biết khác biệt này tác động như cái khuôn so với cách nghĩ của . Nhưng điều này có ngăn cản việc hiểu gì về Fredrica ?


      Thế Fredrica muốn tạo cho mình hình dáng nào đây? Những thèm muốn của ta là gì và cách thỏa mãn chúng? muốn thay đổi cái gì cho chính bản thân vậy?


      Có hai hay ba chương trình ăn uống, cách chữa bệnh bằng nước trái cây, bằng cơm và lý thuyết điên rồ mà theo đó người ta được vừa ăn và uống trong cùng bữa ăn.


      Vài câu lạc bộ ăn kiêng... mà Buffalo Bill canh chừng các thành viên để chọn những to con? Rất khó kiểm chứng. Clarice biết trong hồ sơ có ghi hai nạn nhân là thành viên các loại câu lạc bộ đó và người ta cũng kiểm tra danh sách thành viên. nhân viên FBI của văn phòng Kansas City, cái văn phòng truyền thông của dân Bự Con của FBI và vài cảnh sát viên lực lưỡng trà trộn vào các câu lạc bộ ăn kiêng của các thành phố mà các nạn nhân sống. biết Catherine có tên trong loại hình hoạt động đó . Chắc Fredrica có khả năng để cho phép mình thuộc loại xa xỉ này.


      Cũng có nhiều số của Người Thiếu nữ Đẹp Bự Con, tờ tạp chí của những người phụ nữ vạm vỡ. Khuyên người ta “hãy đến New York để bạn có thể gặp những người từ nhiều nơi khác mà tình trạng to con của bạn lại là ưu thế rất được ưa chuộng”. Tốt rồi. khả năng khác “Làm chuyến du lịch đến Ý hoặc nước Đức, những nơi mà bạn bao giờ chịu cảnh lẻ loi trong hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ”. Ba láp. Chỉ còn thiếu điều Fredrica gặp Buffalo Bill nữa thôi, mà với tình trạng to con của ta là “ ưu thế rất được ưa chuộng”.


      Fredrica cố thoát thân bằng cách nào đây? ta có trang điểm, có rất nhiều loại kem và thuốc dưỡng da. Điều này tốt đây, mày nên dùng ưu điểm này. Clarice cảm thấy giật mình khi nhận ra mình cổ vũ cho Fredrica, làm như thể hoàn cảnh chưa quá muộn vậy.


      Các nữ trang của ta thuộc loại rẻ tiền, đựng trong hộp thuốc lá. ghim cài mạ vàng, chắc của mẹ ta. ta thử cắt mấy găng tay bằng ren để bắt chước Madonna, nhưng chúng bị tưa hết, vì đây là loại ren được dệt bằng máy.


      máy hát dĩa hiệu Decca của những năm năm mươi với con dao nhíp được cột vào tay hát để tăng sức nặng, nhiều đĩa cũ các bài hát tình tứ của Zamfir, ông thầy của loại sáo hàng mà ống đều nhau.


      Khi giật sợi dây để bật đèn trong tủ quần áo, Clarice giật mình trước mớ quần áo của Fredrica. ta có ít y phục thôi nhưng khá lịch thiệp và thời trang. Khi nhìn kỹ hơn, Clarice mới hiểu vì sao. Chính Fredrica may những thứ đó và rất khéo tay, các đường viền được giấu dưới lớp vải dày và các ve áo được nối sít sao. Các ni được chồng trong góc tủ. Phần lớn chúng đều thuộc loại “dễ thực ”, nhưng cũng có hai hoặc ba cái hiệu Vogue thuộc loại cao cấp.


      Chắc ta mặc những thứ đẹp nhất cho cuộc phỏng vấn xin việc. biết mặc gì đây? Clarice lật hồ sơ ra. Đây rồi. “Lần cuối cùng người ta nhìn thấy ta trong bộ y phục xanh lá cây.” Coi nào ông nhân viên cảnh sát, “ bộ y phục xanh lá cây” có nghĩa gì thế?


      Điểm yếu trong tủ quần áo của Fredrica là các đôi giày, ta chỉ có vài đôi, và với sức nặng của mình, chúng mau chóng bị biến dạng. Đôi giày mọi trở thành hình thuẩn. ta có sử dụng miếng lót khử mùi trong các đôi giày vải. Các lỗ xỏ dây của đôi giày thể thao méo hết.


      Có thể Fredrica có tập thể dục đôi chút, bởi vì ta có mấy bộ quần áo chạy bộ rất lớn hiệu Juno, nữ thần của những phụ nữ có gia đình.


      Catherine Martin cũng có vài cái quần hiệu Juno.


      Clarice ngồi lên mép giường, hai tay khoanh lại và nhìn chăm chăm vào cái tủ quần áo được bật đèn sáng.


      Juno là nhãn hiệu rất phổ biến, được bán trong nhiều cửa hàng đặc biệt dành cho phụ nữ to con. Bất cứ thành phố trung bình nào ít lắm cũng có tiệm thời trang dành cho những người phụ nữ vạm vỡ.


      Có thể nào Buffalo Bill canh chừng và chọn người để sau đó theo dõi ta ?


      Có thể nào cải trang để đến đây? Tất cả các tiệm dành cho phụ nữ lớn con ít khi được mấy tên cải trang lui tới và cả mấy tên đồng tính thích mặc quần áo phụ nữ.


      Cái ý nghĩ Buffalo Bill muốn thay đổi giới tính chỉ mới được khai thác sau này thôi, từ khi Bác sĩ Lecter cho Clarice biết giả thiết của ông ta. Thế ăn mặc như thế nào?


      Tất cả các nạn nhân của đều phải mua quần áo trong các cửa hàng dành cho phụ nữ to con, Catherine Martin mặc cỡ bốn mươi bốn, nhưng những người khác và chắc Catherine cũng phải mua mấy cái áo tròng cổ số lớn hiệu Junon trong loại cửa hàng như thế.


      Catherine Martin có thể mặc đồ cỡ bốn mươi bốn nhưng lại là nạn nhân mảnh mai nhất, Fredrica, người đầu tiên to lớn hơn nhiều. làm gì với Catherine Martin đây? Catherine có bộ ngực đồ sộ, nhưng ta cũng mập đến như thế. Có thể nào Buffalo Bill sụt cân ? chừng hồi sau này, ghi tên vào câu lạc bộ ăn kiêng cũng nên? Có thể xem Kimberly Emberg gần như ở giữa hai người kia, cũng to con vậy nhưng thân hình tương đối mảnh khảnh hơn.


      Clarice cố tình muốn nghĩ đến Kimberly Emberg, nhưng hình ảnh của ta thoáng trong đầu của trong giây phút. thấy lại cảnh ta nằm bàn giải phẫu tại Potter. Buffalo Bill hề quan tâm đếp đôi chân thon thon lông lá tí nào và các ngón tay được sơn cẩn thận; chỉ nhìn vào cái ngực lép là chán ngấy, nên lấy súng bắn phát ngay đó.


      Cửa phòng từ từ hé mở. Clarice thấy tim mình đập mau hơn. con mèo bước vào, con mèo to có bộ lông màu đồi mồi với con mắt màu vàng còn mắt kia xanh lơ. Nó nhảy lên giường cạ mình vào . Nó nhớ Fredrica.


      đơn. Những to con độc thân thường gắng thỏa mãn các sở thích của ai đó.


      Ngay từ lúc đầu, cảnh sát loại bỏ các câu lạc bộ hẹn hò. Buffalo Bill tìm được chăng cách nào khác để lợi dụng đơn? gì có thể làm cho con người yếu mềm hơn độc, ngoại trừ tính tham lam.


      Có thể độc giúp cho Buffalo Bill tiếp cận được Fredrica, nhưng thể với Catherine. Catherine hề độc.


      Kimberly độc. Thôi mày đừng bắt đầu lại chứ. Kimberly, phục tùng và nhu nhược, xác chết cứng đờ ở bên kia thế giới, được lật úp bàn giải phẫu để có thể lấy dấu tay. Hãy thôi . thể nào ngừng lại được. Kimberly, độc, muốn được ưa thích, có đồng ý cho người ta lật người lại để có thể nghe được nhịp tim của ai đó ở sau lưng ta ? Clarice tự hỏi biết Kimberly có cảm nhận được râu cạ vào bả vai ta ?


      Trước ánh đèn sáng của tủ quần áo, Clarice nhớ lại cái lưng tròn trịa của Kimberly và các mảng da hình tam giác mất.


      Clarice nhìn các hình tam giác được vẽ bằng các đường vạch xanh vai của Kimberly, như ni của bộ cánh. nghĩ nghĩ lại ý tưởng này cho đến khi phát ra lý do với niềm vui dữ dội: LÀ ĐỂ LÀM MẤY MIẾNG XẾP NẾP. LẤY MẤY HÌNH TAM GIÁC ĐÓ ĐỂ NỚI RỘNG PHẦN DA Ở VÙNG HÔNG. THẰNG KHỐN NẠN NÀY BIẾT MAY: BUFFALO BILL CÓ HỌC MAY. CHỈ CẦN ĐẾN NHỮNG THỨ MAY SẴN.


      Lecter gì rồi nhỉ? “ làm bộ quần áo nữ bằng những ”. Ông ta hỏi gì mình? “ có biết may Clarice?” Còn phải hỏi tôi có biết .


      Clarice ngả đầu ra sau lúc và nhắm mắt lại. Lý giải vấn đề cũng như săn vậy, là thú vui man rợ mà mỗi người chúng ta đều có trong huyết quản.


      thấy có điện thoại trong phòng khách. xuống tầng dưới giọng êm dịu của bà Bimmel gọi : có điện thoại.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      53



      Bà Bimmel đưa ống nghe cho Clarice và ôm đứa bé khóc lên.


      - Clarice Starling nghe đây.


      - Jerry Burroughs đây, tôi…


      - Nghe đây ông Burroughs, tôi nghĩ tên Buffalo Bill biết may. cắt mấy hình tam giác... khoan , tôi xin ông chờ cho chút. Bà Bimmel, tôi nhờ bà đem đứa bé vào trong nhà bếp giùm. Tôi thể nào nghe được với tiếng khóc của nó... Cám ơn... Jerry à, biết may. cắt...


      - Starling...


      - cắt mấy miếng da hình tam giác đó để làm các xếp nếp, mấy miếng xếp nếp của bộ cánh, ông có hiểu tôi muốn ? giỏi lắm, có nghề. Các ban nhận dạng phải truy tìm trong đám thợ may phạm tội, thợ may buồm, mấy cửa hàng bán mốt mới, thợ làm thảm... những người thợ làm cho các cửa hiệu có tiếng.


      - Được rồi, tôi làm. Bây giờ đến lượt phải nghe tôi vì tôi có thể phải gác máy bất cứ lúc nào. Jack bảo tôi thông tin cho biết. Chúng tôi có cái tên và địa chỉ có vẻ hứa hẹn lắm. Biệt đội chống khủng bố bay từ Andrews rồi. Jack chuyển thông tin cho họ bằng đường dây mã hóa.


      - Họ đến đâu?


      - Calumet City, gần Chicago. tên là Jame, có s; họ là Gumb, tên giả là John Grant, da trắng, ba mươi bốn tuổi, tám mươi lăm ký, tóc màu hạt dẻ, mắt xanh lơ. Jack nhận được tin từ Viện John Hopkins. Cái ý của , hình dáng biểu khác biệt với các tên chuyển đổi giới tính, đánh động John Hopkins. Tên này xin đổi giới tính cách đây ba năm. đánh đập vị bác bởi vì người ta từ chối cuộc giải phẫu. Bệnh viện chỉ có cái tên giả đó thôi và địa chỉ tạm ở Harrisburg, Pennsylvania. Cảnh sát tìm thấy ở đó hóa đơn đổ xăng với số đăng ký xe và chúng tôi lần thêm từ đó. lý lịch tư pháp đáng sợ, hồi mười hai tuổi, giết chết ông bà của và ở sáu năm trong bệnh viên tâm thần. Người ta thả ra cách đây mười sáu năm khi bệnh viện phải đóng cửa. làm cho người ta chú ý đến trong thời gian dài. thích hành hung các tên đồng tính. làm chuyện này hai ba lần tại Harrisburg, sau đó mất tích thêm lần nữa.


      - Ông là Chicago à. Làm sao ông biết được điều này?


      - Nhờ Hải quan. Họ có hồ sơ về John Grant. Cách đây hai ba năm gì đó, có đến lãnh vali tại phi trường Los Angeles, được gởi từ Surinam, chứa toàn là kén còn sống. Người nhận mang tên John Grant, có cửa tiệm tại Calumet City, hãy nghe cho kỹ nhé, tên là “Ông Da”. Mặt hàng bằng da. Có thể cái ý thợ may của là đúng đấy; tôi chuyển nó đến Chicago và Calumet. Chúng tôi chưa có địa chỉ cụ thể của tên Grant hoặc Gumb, tiệm đó dẹp rồi và chúng tôi bám sát theo đây.


      - có hình à?


      - Chỉ là những tấm hình khi bắt tại Scramento. Những cái này giúp ích gì cả, lúc đó mới có mười hai tuổi. giống đứa bé ngoan. Hình này được fax gần khắp nơi.


      - Tôi có thể đến đó ?


      - . Chúng tôi có cảnh sát nữ tại Chicago và nữ y tá để lo cho Martin trong trường hợp tìm được ta. Starling à, đến kịp đâu.


      - Và nếu như cố thủ sao? Việc đó có thể...


      - có việc điều đình đâu. Người tìm thấy và tóm cổ thôi. Crawford có phép tấn công vào nhà rồi. Tên này là trường hợp đặc biệt. từng chống cự lại cảnh sát khi còn . Sau khi giết chết người ông rồi, bắt người bà làm con tin và kết thúc cách thảm hại, tôi có thể bảo đảm với như thế. bắt người bà làm lá chắn, đối mặt với cảnh sát trong khi ông mục sư chuyện với . Vì là đứa trẻ nên ai nổ súng. đứng đằng sau người bà và đâm lút con dao vào trong lưng bà ta. Bác sĩ cứu được bà ta nữa. thử nghĩ xem, dám làm chuyện đó khi mới có mười hai tuổi. Vì thế lần này có việc điều đình hoặc phát súng thị uy. Có thể Martin chết rồi, nhưng cũng chắc. Có thể chưa chuẩn bị xong. Nếu thấy chúng tôi đến, giết ta ngay trước mặt chúng tôi, chỉ vì ác tâm mà thôi. Vì thế khi chúng tôi tìm thấy , chúng tôi xông vào liền.


      Gian phòng này nóng quá và hôi mùi nước tiểu con nít nữa.


      Burroughs tiếp.


      - Chúng tôi truy tìm hai cái tên này trong danh sách những người mua dài hạn tạp chí côn trùng học, ở nghiệp đoàn bán dao, với những tên tái phạm... ai rảnh tay cho đến khi nào vụ này kết thúc. điều tra về những người quen biết với Fredrica Bimmel có phải ?


      - Đúng vậy.


      - Bộ Tư Pháp đây là vụ gian khó, nếu chúng ta bắt quả tang được . Chúng ta phải bắt được cùng Martin hoặc với những gì có thể nhận dạng được như là răng hay các ngón tay. cần phải là nếu thủ tiêu cái xác của này rồi chúng ta phải tìm cho ra các nhân chứng thấy cùng các nạn nhân... Cuộc điều tra của về Fredrica Bimmel cũng rất hữu ích cho chúng tôi đấy Starling. Thế Quantico sa thẠcô rồi, phải ?


      - Tôi cho là thế. Họ dành chỗ của tôi cho ứng viên khác chờ được đào tạo lại, họ với tôi như thế.


      - Nếu chúng tôi tóm được tại Chicago, phần là nhờ đấy. Quantico nghiêm khắc lắm, mà cũng là chuyện bình thường thôi, nhưng dù gì họ cũng phải chú ý đến vụ này nữa chứ. Đừng gác máy nhé!


      Clarice nghe Burroughs nạt nộ ai đó rồi lại tiếp.


      - có gì đâu, họ đến Calumet City trong bốn mươi hoặc bốn mươi lăm phút nữa, tùy theo tốc độ của gió. Biệt đội SWAT tấn công nếu họ tìm thấy trước chúng tôi. Cơ quan cho biết có khả năng có được bốn địa chỉ. Clarice, cứ việc tiếp tục tìm kiếm manh mối nào đó để giúp chúng tôi có thể thu hẹp bớt phạm vi điều tra. Nếu tìm được cái gì đó có liên quan đến Chicago hoặc Calumet nhớ báo cho tôi ngay nhé!


      - Đồng ý.


      - Bây giờ hãy nghe cho kỹ đây, vì sau đó tôi gác máy. Nếu chúng ta kết thúc được, nếu chúng ta tóm cổ được tại Calumet City, về trình diện Quantico chậm trễ vào lúc tám giờ sáng. Jack bảo vệ cho trước ủy ban, và cả Brigham. cứ thử có mất gì đâu mà sợ.


      - Này Jerry, còn việc nữa: Fredrica Bimmel có quần áo thể thao hiệu Juno, đây là nhãn hiệu cho phụ nữ to con. Catherine Martin cũng thế. Biết đâu được, có thể la cà các tiệm này để chọn các nạn nhân của mình. Thử điều tra tại Memphis, Akron hay các thành phố khác xem sao.


      - Hiểu rồi. Cứ vui lên nhé!


      Clarice bước ra ngoài sân chứa đồ tạp nham: ở Belvedere, Ohio, cách Chicago sáu trăm cây số, nơi xảy ra cuộc chiến. Làn gió lạnh thổi vào mặt khiến cảm thấy sảng khoái. đưa nắm tay lên trời, làm dấu hiệu khuyến khích biệt đội chống khủng bố. Cũng ngay lúc đó, cảm nhận gò má và cằm cứ run giật giật. Chuyện gì nữa vậy? làm gì nếu tìm được điều gì đó? báo cho FBI ở Cleveland và Đội SWAT ở Colombus, cùng với cảnh sát Belvedere nữa chứ.


      Cứu lấy người thiếu nữ, cứu lấy con của con mụ Thượng nghị sĩ Martin khốn nạn kia, và tất cả các khác sau đó là điều quan tâm nhất. Nếu họ thành công, mọi việc ổn thỏa.


      Nếu họ đến kịp lúc, nếu như họ khám, phá được cái gì đó khủng khiếp , ít ra họ cũng phải bắt cho được Buffa... Jame Gumb, hay Ông Da, hoặc bất cứ cái tên nào mà người ta muốn đặt cho con quái vật đó.


      Tuy nhiên, đến gần mục tiêu như thế, gần như chạm tay vào đó rồi, có được ý hay nhưng trễ mất ngày và nhận ra mình cách quá xa nơi bắt bớ, bị đuổi ra khỏi trường, quả đây là thất bại cay đắng. Với cảm thức tội lỗi, Clarice nghĩ dòng họ Starling hề gặp may trong suốt hai thế kỷ... rằng dòng họ Starling lang thang, bị đuổi khắp nơi, lạc mất trong màn sương của thời gian. Nhưng đây là tư tưởng của những kẻ chiến bại và xua đuổi nó quyết liệt.


      Nếu người ta tìm thấy nhờ vào hình dạng mà cưỡng đoạt từ Bác sĩ Lecter điều này cũng đáng để Bộ Tư Pháp phải quan tâm. đến lúc phải nghĩ đến nghiệp của mình mà các niềm hy vọng cứ bị co rút như bộ phận vô hình.


      Dù chuyện gì có xảy ra nữa cái linh cảm xuất thần về cái ni của bộ cánh cũng đem lại cho niềm vui lớn nhất trong đời rồi. Đó là điều mà suốt đời bao giờ quên được. rút cho mình được chừng ấy can đảm trong kỷ niệm về mẹ cũng như của cha . chiến thắng và giữ vững niềm tin về ông Crawford. Và đó là những thứ mà cất kỹ trong hộp đựng thuốc lá của mình.


      Nhiệm vụ, bổn phận của , là phải nghĩ về Fredrica và tìm ra cách mà Gumb lôi cuốn ta. Nếu Buffalo Bill phải bị xét xử, bên công tố cần đến những kiện này.


      nghĩ về Fredrica, bị mắc bẫy ở đây trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Thế ta tìm cho mình lối thoát nào chưa? Những ước muốn của ta có phù hợp với Buffalo Bill ? Có phải chính điều này kéo hai người lại gần với nhau ? khủng khiếp khi phải nghĩ bắt đầu hiểu được ta từ kinh nghiệm của chính bản thân , giống như hòa hợp về cảm xúc và dù sao cũng dùng đến da ta.


      Tại bất cứ nơi nào, giờ trong ngày mà góc nhìn và cường độ ánh sáng có ưu thế hơn. Khi người ta bị bí lối tại điểm nào đó, người ta nghĩ đến thời cơ đặc quyền đó và chờ đợi. Có thể đúng cho trường hợp này, trong cái thời điểm giữa buổi chiều tại con sông Licking, ở phía sau Đường Fall. Có phải đó là thời điểm Fredrica mơ mộng ? Ánh nắng mờ nhạt tạo ít sương mù bãi nước kia, đủ để thi vị hóa các tủ lạnh cũ và các lò bếp bị vứt bừa bãi trong các bụi cây, ở bên kia của khúc sông chết.


      khúc ống bằng nhựa trắng chạy từ căn chòi của ông Bimmel ra đến mép sông. Ông loay, hoay cái gì đó và lằn nước đỏ lòm phọt ra, vấy bẩn các phế tích còn lại của tuyết. Ông Bimmel bước ra nắng. Phần trước, của quần ông có dính mấy đốm máu và ông mang túi nylon chứa đựng vài vật tròn màu xám hồng.


      - Chim câu non ấy mà - Ông khi thấy Clarice nhìn ông - có bao giờ ăn chưa?


      - Chưa - trả lời và xoay lại nhìn mặt nước. - Tôi chỉ có ăn chim lớn mà thôi.


      - Với mấy con này mình sợ phải cắn nhầm lưỡi câu.


      - Này ông Bimmel, ông có biết Fredrica có quen biết ai ở Calumet City hay vùng Chicago gì đó ?


      Ông lắc đầu phủ nhận.


      - Theo ông ta chưa bao giờ đến Chicago à?


      - “Theo tôi” là có nghĩa gì vậy? nghĩ rằng con tôi Chicago mà tôi hề hay biết sao? Ngay cả việc Colombus, nó cũng phải cho tôi biết đấy.


      - Thế ta có quen biết người thợ may đàn ông, hay thợ may buồm ?


      - Nó may quần áo cho hàng tá người. Nó may cũng giỏi như mẹ nó vậy. Nó may cho các tiệm may quần áo phụ nữ mà tôi thể nào nhớ hết tên được.


      - Người bạn thân nhất của ta là ai vậy ông Bimmel? ta xả hơi với ai vậy? xả hơi; mình quên phứt chuyện này. Nếu với việc này mà ông ta cũng chịu , ông ta dạn dày.


      - Nó xả hơi như mất con mấy nết kia đâu. Nó lúc nào cũng có công việc để làm. Trời ban cho nó sắc đẹp, nhưng nó rất siêng năng.


      - Theo ý ông, người bạn thân nhất của ta là ai.


      - Tôi nghĩ chắc là Stacy Hubka, kể từ khi chúng còn bé. Mẹ của Fredrica luôn rằng Stacy quan hệ với Fredrica chỉ để có ai đó làm bạn thôi. Tôi cũng biết nữa.


      - Tôi có thể gặp ta ở đâu?


      - Stacy làm cho công ty bảo hiểm, tôi nghĩ chắc ta vẫn còn làm ở đấy. Công ty Franklin.


      Hai tay thọc trong túi, Clarice băng ngang cái sân đầy vết bánh xe hằn sâu.



      54



      Càng xa về hướng tây, người ta càng phản ứng nhanh hơn trước tấm thẻ FBI. Cái của Clarice chỉ có được cái nhướng mày chán chường của nhân viên ở Washington. Tại Belvedere, Ohio, ông chủ công ty bảo hiểm Franklin đích thân tiếp . Chính ông thế chỗ của Stacy tại quầy tiếp tân và trả lời điên thoại và đề nghị Clarice vào ngồi trong cái ngăn được ông ta dùng làm phòng làm việc.


      Stacy Hubka có khuôn mặt tròn được phủ lớp lông tơ mịn, cao thước sáu mươi với giày cao gót. Thỉnh thoảng ta kéo mấy lọn tóc bóng mượt với cử chỉ kiểu cách và ngắm Clarice từ đầu đến chân khi nhìn mình.


      - Stacy... tôi có thể gọi là Stacy chứ?


      - Dĩ nhiên rồi.


      - Tôi muốn nghe tại sao chuyện như thế có thể xảy ra với Fredrica Bimmel và làm sao tên đó có thể chú ý đến ta?


      - Chuyện này hoàn toàn điên rồ. Để bị lột da như thế, quả là cuộc dạo chơi hay lắm, có phải ? có thấy ta ? Hình như ta như miếng giẻ phải, giống như thể người ta...


      - Này Stacy, có khi nào Fredrica với về người nào đó ở Chicago hay Calumet City ?


      Calumet City. Đôi mắt của Clarice cứ liếc nhìn cái đồng hồ, ở đầu của Stacy Hubka. Nếu Đội Chống khủng bố đến nơi trong bốn mươi phút họ đáp xuống phi trường trong mười phút nữa. biết cái địa chỉ của họ có chính xác . Mày nên lo chuyện mày làm !


      - Chicago à? , chúng tôi chỉ lần đến Chicago vào dịp Lễ Tạ ơn.


      - Vào lúc nào?


      - Lúc chúng tôi học lớp tám, như vậy là... cách đây chín năm. Ban nhạc chỉ đến đó và về ngay bằng xe ca.


      - nghĩ gì khi Fredrica bị mất tích hồi mùa xuân vừa rồi?


      - Tôi chưa hay tin.


      - Thế ở đâu khi hay tin đó? Và nghĩ gì?


      - Buổi tối đó, Skip và tôi xem phim, sau đó đến tiệm Toad để uống rượu, đến lúc đó Pam Malavesi và những người khác, đến cho biết Fredrica mất tích. Skip có : chính Houdin cũng thể nào làm cho Fredrica biến mất được. Và sau đó ta mới cắt nghĩa cho mọi người biết Houdin là ai và bô bô phô trương những hiểu biết của ta. Tôi nghĩ chắc ta chán ở nhà với người cha. có thấy nhà của ta ? Quá chán có phải ? Ý tôi muốn là dù bây giờ ta có ở đâu nữa, tôi biết ta cũng bực mình vì thấy ngôi nhà rồi. Nó làm cho muốn cút ra khỏi đó, đúng ?


      - bao giờ nghĩ rằng ta có thể bỏ trốn với người nào đó à, cho dù việc đó có sai nữa?


      - Skip đùa là chắc ta tìm được người thích thịt dồi. Nhưng , ta hề quen biết ai như thế. Ý chị muốn . là vì chuyện đó à? Vì cái trò trẻ con của thời học sinh đó à? - Stacy đỏ mặt. - đâu, tụi tôi đâu có ác ý với ta. ta ... mọi người đều rất tốt với ta khi chàng đó chết.


      - có làm việc chung với Fredrica ?


      - Vào mùa hè, ta và tôi cùng Pam Malavesi và Jaronda Askew, chúng tôi làm việc tại Trung tâm thương mại khi còn học ở trường. Sau đó tôi và Pam đến tiệm Richard để xem người ta có mướn chúng tôi , đó là tiệm bán quần áo thời trang và họ nhận tôi, sau đó đến Pam. Pam có với Fredrica là họ cần thêm nữa, và thế là ta đến trình diện nhưng bà quản lý Bourdine có bảo “ hiểu cho Fredrica, chúng tôi cần bán hàng mà các người khách có thể đồng hóa với chính mình, họ bước vào và tôi muốn mua cái gì đó giống như thứ mặc đây và chỉ dẫn cho họ thấy hiệu quả của quần áo người họ. Nhưng nếu muốn có việc này và giảm bớt cân, hãy đến gặp tôi. Ngay lúc này đây, nếu biết chỉnh sửa quần áo, tôi có thể nhận vào làm thử. Tôi trình lại cho bà Lippman. - Bà Bourdine nhưng rạ mụ ta rất độc ác, mà - lúc đầu tôi biết.


      - Như thế Fredrica chỉnh sửa quần áo cho Richard, tiệm mà làm việc phải ?


      - Khi nghe như thế, ta buồn lắm, nhưng vẫn chấp nhận. Bà Lippman vẫn làm công việc chỉnh sửa, bà là chủ và công việc nhiều hơn sức bà có thể làm, và như thế Fredrica làm cho bà. Bà Lippman may quần áo cho rất nhiều người, bà tạo mẫu váy nữa. Khi đến tuổi về hưu, con của bà ta muốn bà tiếp tục công việc đó và chính Fredrica tiếp nhận hết các khách hàng. ta chỉ làm công việc đó thôi và ta vẫn tiếp tục gặp tôi và Pam nữa. Chúng tôi đến nhà Pam ăn trưa, xem tivi, và chị thử nghĩ xem, ta mang theo việc để làm, biết ngừng tay là gì.


      - Thế ta có dịp làm tại cửa hàng để đo cho khách phải ? ta gặp rất nhiều khách hàng, kể cả những người mua sỉ?


      - Có vài lần, nhưng thường xuyên. phải ngày nào tôi cũng làm hết.


      - Còn bà Bourdine, bà ta làm mỗi ngày, bà ta có biết gì ?


      - Có thể lắm.


      - Fredrica bao giờ với ta làm việc cho cửa hàng ở Chicago hay Calumet City tên là “Ông Da”, làm công việc lót các quần áo da chẳng hạn?


      - Tôi biết nữa, chính bà Lippman nhận các đơn đặt hàng.


      - chưa bao giờ thấy quần áo với nhãn hiệu đó à? Tại tiệm Richard hoặc ở nơi khác?


      - .


      - biết địa chỉ của bà Lippman ? Tôi muốn chuyện với bà ta.


      - Bà ta chết rồi. Bà ta lui về cư tại Florida và chết tại đó, chính Fredrica cho tôi biết. Tôi quen biết bà ta. Skip và tôi chỉ đến đón bạn của chúng tôi thôi khi ta có quá nhiều quần áo phải mang về. có thể hỏi gia đình của bà ta. Tôi ghi địa chỉ cho đây.


      Chết ! Tất cả những gì Clarice muốn là các tin tức về Calumet City. Bốn mươi phút đó trôi qua. Đội chống khủng bố đến nơi. đổi qua chỗ khác để nhìn thấy cái đồng hồ và tiếp tục.


      - Này Stacy, khi Fredrica mua quần chạy bộ hay áo len đan dài tay, ta lựa hiệu Juno ở đâu vậy?


      - ta may lấy tất cả quần áo của mình. Còn về áo len đan dài tay, tôi nghĩ ta mua tại cửa hàng Richard khi đến thời điểm người ta thích mặc loại áo rộng, xuống đến giữa đùi. Người ta có thể tìm mua ở bất cứ đâu. Vì ta may cho tiệm Richard nên được bớt tiền.


      - ta bao giờ mua quần áo tại các cửa hàng dành cho phụ nữ to con sao?


      - Chúng tôi đủ mọi loại cửa hàng để xem, biết tại sao mà. ta đến những nơi đó để tìm ý tưởng mới, những kiểu thích hợp cho người to con.


      - Và trong các tiệm đó, có tên nào đến chọc ghẹo các người à? Fredrica bao giờ có cảm tưởng rằng có ai đó chăm chú theo dõi ta hay sao?


      Stacy ngước mắt lên trần rồi lắc đầu phủ nhận.


      - . hôm Skip và tôi có thấy trong quán bar tại Colombus.


      - Fredrica có chung với các người ?


      - Dĩ nhiên là . Chúng tôi đến đó... trong dịp cuối tuần.


      - có thể ghi cho tôi tất cả địa chỉ của các cửa hàng dành cho người to con mà cùng Fredrica được ? có thể nào nhớ hết ?


      - Chỉ ở đây thôi hay luôn cả ở Colombus nữa?


      - Ở đây và Colombus. Và luôn cả địa chỉ tiệm Richard nữa, tôi muốn chuyện với bà Bourdine.


      - Tốt thôi. Thế làm nhân viên FBI có thích ?


      - Theo cá nhân tôi, rất thích.


      - Chắc nhiều nơi lắm đúng ? Ý tôi muốn là những nơi hấp dẫn hơn ở đây?


      - Có đôi khi.


      - Chắc ngày nào cũng phải ăn mặc chỉnh tề, đúng ?


      - Ừ, phải vậy. Phải ra vẻ đứng đắn mới được.


      - Làm thế nào để trở thành nhân viên FBI?


      - Trước hết là phải tốt nghiệp đại học, Stacy à.


      - Chắc phải tốn tiền nhiều lắm.


      - Đúng vậy. Nhưng người ta cũng có thể cố gắng đạt được học bổng. có muốn tôi gửi các tài liệu cho ?


      - Có đấy. Tôi nghĩ đến việc này: Fredrica rất sung sướng khi tôi có được công việc này. ta mừng đến phát điên lên được, ta hề có được công việc làm văn phòng, ta nghĩ đó là cái gì ghê gớm lắm. Những tập hồ sơ này và Barry Manilow loa suốt cả ngày, ta cho đó là phi phàm. biết ta nhận thức được nó ra sao, con khờ đó! - Mắt của Stacy ửng lệ. mở mắt to và ngước đầu ra sau để trang điểm lại.


      - Còn danh sách của tôi?


      - Tôi phải vào bàn làm việc của tôi mới được chứ. Tôi cần đến máy đánh chữ và cuốn niên giám điện thoại. - bước ra ngoài, đầu vẫn ngửa lên, mắt nhìn lên trần nhà.


      Khi Stacy vừa bước ra ngoài, Clarice liền chụp điện thoại, gọi Washington để hỏi tin tức.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :