Sự im lặng của bầy cừu - Thomas Harris (Truyện trinh thám kinh dị số 1 thế giới)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      33



      Từ hầm này sang hầm khác, từ góc kẹt này qua góc kẹt khác, tầng hầm của Jame Gumb khúc khuỷu như mê cung, ngăn cản người ta tiến lên phía trước. Khi còn nhút nhát, hồi trước thích những nơi hẻo lánh nhất, xa các cầu thang. Ở sâu trong cùng, có rất nhiều phòng mà Gumb chưa bao giờ mở cửa ra. Vài phòng có người ở, nếu người ta có thể như thế, vì im lặng chiếm chỗ của những tiếng hét rồi.


      Mặt nền thay đổi từ phòng này qua phòng khác. Có nhiều ngưỡng cửa phải cúi đầu, các xà ngang phải tránh. quá khó khăn để chuyển gánh nặng và rất khó để kéo lê nó. Với khôn ngoan và tự tin, Gumb cần giải quyết các nhu cầu của mình tại các nơi kín đáo nhất. Bây giờ sử dụng dãy hầm quanh cầu thang, trong các phòng rộng lớn có đầy đủ điện và nước.


      Ngay lúc này, toàn bộ khu hầm đều chìm trong bóng tối.


      Tại cái tầng nền cát trong hầm giam, Catherine nằm im.


      Gumb cũng ở dưới tầng hầm nhưng phải ở mức này.


      Mắt con người thể thấy bất cứ thứ gì trong bóng đen như thế này, nhưng căn hầm đầy những tiếng động . Nước giọt và tiếng máy bơm kêu ro ro. Những tiếng vang làm cho căn phòng có vẻ rộng hơn. khí trong này lạnh và ẩm thấp. tiếng đập cánh phớt qua má , nhiều tiếng lách cách vang lên. tiếng gầm gừ khoái trá, tiếng động của con người.


      luồng ánh sáng nào mà mắt người có thể sử dụng, nhưng Gumb diện ở đây và thấy rất , nhưng chỉ bằng các mức độ của màu lục, đậm lợt tùy lúc. mang cặp mắt kính hồng ngoại(2) và chĩa cây đèn pin cũng là hồng ngoại. ngồi cái ghế lưng thẳng, ngây ngất trước cảnh con côn trùng bò lên thân cây. Con vật mới trưởng thành, vừa chui ra khỏi cái kén của nó, nền đất ẩm ướt của cái chuồng. Con vật này cẩn thận trèo lên cành cây cà độc dược, tìm kiếm chỗ thích hợp để giương đôi cánh còn ướt ra, được xếp ở sau lưng. Nó chọn cành cây ngang.


      Gumb phải nghiêng đầu qua bên để nhìn thấy nó. Lần hồi, cánh nó được bơm đầy máu và khí, nhưng chúng vẫn còn bị xếp dính ở sau lưng con vật.


      Hai giờ trôi qua và Gumb vẫn giữ nguyên tư thế đó. tắt mở cây đèn pin hồng ngoại, để có thể nhìn thấy tiến triển của con vật. Để giết thời giờ, chơi trò bằng ngọn đèn với phần còn lại của căn phòng, những bể nước lớn chứa đầy loại chất thuộc da thảo mộc. các khuôn mẫu và các khung trong các bồn chứa, những vật mới sở hữu giống như các mảnh hình tượng cổ xưa bị xanh vì nước biển. Ánh đèn chiếu đến cái bàn làm việc rộng lớn bằng sắt tráng kẽm với cái gối bằng kim loại và các rãnh, rồi chiếu đến cái tời lủng lẳng ngay đó. Sát vách tường là các bồn rửa công nghiệp dài. Toàn bộ cảnh vật đều mang màu xanh. Những tiếng đập cánh, những vệt dài phản quang bay ngang qua tầm nhìn của , như những đuôi sao chổi được tạo ra bởi những con bướm đêm bay trong căn phòng.


      trở lại cái chuồng đúng lúc. Đôi cánh lớn của con vật giương thẳng ra thân hình nó, và biến đổi các đốm đó. Nó xếp cánh lại và cái hình ảnh đặc biệt xuất . sọ người, được thể tuyệt đẹp bằng vảy mềm mại như lông thú, nhìn . Dưới cái trán vồ của cái sọ, hai lỗ đen của mắt và các gò má nhô ra. Điểm tối ngay cái hàm, tạo vạch ngang mặt như giẻ bịt miệng. Cái sọ nằm vết loe rộng như đỉnh khung chậu.


      sọ người đặt khung chậu, tất cả được vẽ lưng con bướm đêm, vì trớ trêu của tạo hóa. Gumb cảm thấy sảng khoái, tâm hồn thanh thản. cúi mình tới trước và thổi vào con vật. Nó đưa cái vòi lên vì tức giận và phát ra tiếng kêu .


      bước từ từ, cây đèn tay, hướng đến hầm giam. mở to miệng ra thở để gây tiếng động. muốn những tiếng từ cái lỗ làm hỏng cuộc vui của . những cái ống nhô ra, các mặt kính giống như hai con mắt có cuống đỡ của con cua. Gumb biết rằng như thế có gì là hấp dẫn, nhưng nhờ vào chúng mà có được niềm vui bằng những trò chơi lúc đêm tối trong căn hầm tối tăm này.


      cúi người xuống và chiếu ngọn đèn vào trong giếng.


      Cái vật đó nằm bên, co người lại như con tôm. Có vẻ như nó ngủ, cái xô vệ sinh để cạnh bên. Trong giấc ngủ, nó cầm góc thảm trong tay và mút ngón cái.


      Khi chiếu ánh hồng ngoại dọc theo thân hình của Catherine, nghĩ đến các vấn đề chờ .


      dễ dàng thuộc da người đối với người khó tính như . Có nhiều lựa chọn cơ bản, về cấu trúc để làm, và điều cốt lõi là đặt sợi dây kéo ở chỗ nào đây.


      cho ánh đèn chạy dọc theo lưng của Catherine. Thường phải để sợi dây kéo ở đó, nhưng làm sao mặc nó vào mình được chứ? thể nào nhờ trợ giúp của người khác cho loại việc này, dù cho kế hoạch này có hấp dẫn đến đâu nữa. biết nhiều nơi, nhiều môi trường, mà các cố gắng của gây ấn tượng mạnh, nhưng muốn thế phải chờ thêm thời gian nữa. phải có những thứ mà chỉ sử dụng mình. Dây kéo đặt ở phía trước là điều xúc phạm, và loại bỏ khả năng này.


      Gumb thể đánh giá nước da của Catherine, nhưng dường như ta gầy . Có thể ta ăn kiêng khi bị bắt cóc.


      Kinh nghiệm dạy cho phải chờ từ bốn đến bảy ngày trước khi lột da. giảm cân đột ngột khiến nó nhão ra, và việc lột da dễ dàng hơn. Hơn nữa việc cho nhịn đói làm cho các nạn nhân yếu dễ sai bảo họ hơn. Có vài người tỏ ra nản lòng cam chịu. Tuy nhiên vẫn phải cho họ ăn chút ít để đề phòng tuyệt vọng và các cơn phẫn nộ, có thể làm hư hỏng lớp da.


      Nhất định là vật này sụt ký. Người này quả đặc biệt, rất quan trọng cho công việc muốn thực , cho đến mức thể chờ đợi lâu được. Vào lúc trưa mai, ra tay, hoặc tối mai. Trễ lắm là ngày hôm kia. Sắp rồi đây.



      34



      Clarice Starling nhận ra tấm bảng “Khu Biệt Thự Stonehinge” mà thấy ti vi. Toàn bộ khu nhà ở này của vùng Đông Memphis, hỗn hợp tòa nhà cao tầng và nhà biệt lập, tạo thành hình chữ U lớn quanh bãi đậu xe.


      Clarice đậu chiếc xe Chrevolet thuê ngay giữa. Đây là chỗ ở của các công nhân có tay nghề được trả lương cao và các cán bộ trung bình. Các xe lưu động cắm trại cho các kỳ nghỉ cuối tuần và những chiếc môtô trượt tuyết với màu sắc rực rỡ được cất riêng nơi.


      Khu Biệt Thự Stonehinge, cách dùng chữ này làm cho bực mình. Các căn hộ chắc đầy đồ vật bằng mây trắng và lông hồng mượt mà. Với các tấm hình nghiệp dư dưới tấm kính của cái bàn, vài quyển Nấu ăn cho hai người và Bí quyết các món phô mát nấu trong rượu vang trắng. Clarice chỉ có trường FBI là gia đình, nên mấy thân thiện với những thứ đó.


      muốn tìm hiểu xem Catherine Baker Martin là người như thế nào. Quả là nơi khá kỳ lạ cho con của vị thượng nghị sĩ. Clarice có đọc các thông tin tiểu sử ngắn gọn của ta do FBI thu thập được. Catherine Martin phải là sinh viên xuất sắc; sau thất bại tại Farmington, ta học hai năm khá tồi tại Middlebury. Bây giờ theo học tại Trường đại học Southwestern, đồng thời hành nghề dạy học.


      Clarice xem mình như đứa con của những gia đình giàu có, ích kỷ, bao giờ muốn nghe lời bất cứ ai và ăn ngỗ ngược. phải dè chừng các thành kiến và các mối hận thù của chính mình, vì từng theo học nhiều chế độ nội trú mà các điểm luôn tốt hơn quần áo của mình. biết khá nhiều đứa trẻ của những gia đình khá giả nhưng bị chia ly, ở nội trú rất lâu. thèm quan tâm đến số trong đám đó, và học được rằng chú ý, mà người ta thường hay nhầm lẫn với thờ ơ hoặc người ta cho là tâm trí hời hợt, có khi là chiến thuật rất hữu ích để thoat khỏi đau khổ.


      Tốt hơn hết nên nghĩ Catherine như thuyền buồm với cha ta, như thường thấy trong mấy phim được chiếu tivi. tự hỏi biết Catherine phản ứng thế nào khi biết được cha vừa qua đời vì cơn đau tim ở tuổi bốn mươi hai. Có điều chắc chắn là Clarice rất nhớ cha mình, và nỗi đau chung này làm cho xích lại gần người thiếu nữ trẻ kia.


      Phải làm sao cho có thiện cảm với Catheririe mới được, vì điều này giúp thành công. nhận ra ngay căn hộ của Catherine, vì có hai chiếc xe cảnh sát đậu ngay trước đó. Gần đấy, bãi đậu xe được rắc đầy phấn trắng. Văn phòng FBI Tennessee chắc thu lấy dấu vết của dầu máy bằng đá bọt hoặc loại bột vô cơ nào đó.


      Clarice len lỏi giữa các xe lưu động và tàu vui chơi đậu đối diện căn hộ. Buffalo Bill bắt cóc ta ngay tại đây, khá gần nhà để ta có thể mở cửa. cái gì đó khiến ta ra khỏi nhà, chắc chắn là cái bẫy gây chú ý.


      Cảnh sát Memphis hỏi cung những người láng giềng và ai thấy gì cả. Có thể việc xảy ra giữa các xe cắm trại. rình tại đây, ngồi chiếc xe loại này. Nhưng Buffalo Bill biết Catherine có mặt tại nhà. Có thể để ý ta ở đâu đó rồi theo rình cơ hội thuận tiện. Những trẻ có tầm vóc như Catherine, dễ nhìn thấy hàng ngày ngoài đường.


      Tất cả nạn nhân của đều to lớn và khỏe mạnh. Có vài người rất to con, vài người khác có thể tạng rất tốt. “ phải lấy được cái gì đó mà sử dụng được”. Clarice rùng mình khi nhớ lại những gì Bác sĩ Lecter về Người công dân mới này của Memphis.


      Clarice hít hơi sâu, phùng má và thở ra chậm. Catherine là người như thế nào đây.


      nhân viên cảnh sát mở cửa cho ; ta mặc đồng phục cảnh sát bảo vệ công viên quốc gia, Sau khi Clarice trình thẻ ra, ta mời vào.


      - Tôi đến đây để khám nhà. - Câu này có vẻ thích hợp khi người ta với người vẫn còn đội nón trong nhà. ta gật dầu.


      - Nếu điện thoại có reo, cứ để nguyên cho tôi trả lời.


      cái bàn trong nhà bếp, Clarice thấy máy điện thoại được kết nối với máy thâu băng. Kế bên có hai máy khác nhưng có mặt quay, là đường dây nối trực tiếp với các đơn vị dò nơi gọi của vùng Trung Nam.


      - Tôi có thể giúp gì cho ? - Người cảnh sát viên trẻ hỏi.


      - Cảnh sát hoàn tất công việc ở đây chưa?


      - Căn hộ được trả cho gia đình rồi. Tôi có mặt ở đây để canh điện thoại thôi. có thể làm bất cứ điều gì muốn.


      - Tốt lắm, tôi xem qua căn hộ lượt.


      - Đồng ý. - xong ta ngồi xuống cái văng cạnh đó và cầm tờ báo lên đọc tiếp.


      Clarice cần phải tập trung. rất muốn được khám xét căn hộ mình, nhưng cũng may là căn hộ đầy ắp cảnh sát.


      bắt đầu từ nhà bếp. Nó được trang bị cho nghệ thuật nấu ăn. Catherine xuống đây để lấy bắp rang, người bạn trai ta cho biết như thế. Clarice mở tủ đông ra. Có hai bịch bắp rang dành cho lò vi ba. Từ cửa sổ, người ta có thể nhìn thấy bãi đậu xe.


      - từ đâu đến?


      Ngay lúc đó Clarice trả lời câu hỏi.


      - từ đâu đến?


      Viên cảnh sát nhìn qua tờ báo.


      - Từ Washington.


      Dưới bồn rửa, phải, khớp nối bị trầy, chắc họ tháo nó ra để kiểm tra. điểm tốt cho FBI. Dao được mài sơ sài, thùng rác chưa được đổ. Trong tủ lạnh chỉ có phô mai trắng và đĩa xà lách trái cây được bảo quản trong dịch chân . Có lẽ Catherine mua thức ăn tại siêu thị ngay góc đường. Mà ở đó có thể có người bảo vệ đêm, điểm đáng được kiểm tra.


      - làm việc cho Bộ Tư Pháp à?


      - , cho FBI.


      - Ông tổng chưởng lý sắp đến đây, người ta bảo tôi như thế. Thế làm việc cho FBI lâu chưa?


      vật hình cải bắp bằng cao su trong ngăn đựng rau. Clarice mở ra, có gì.


      - ở trong FBI lâu chưa?


      Clarice quay qua người cảnh sát viên trẻ.


      - Nghe đây, có thể tôi cần hỏi vài câu, sau khi tôi khám hết căn hộ này. Có thể giúp được đấy.


      - Tốt thôi, nếu tôi có thể...


      - Đồng ý. Đến lúc đó chúng ta chuyện sau, nhưng bây giờ tôi cần suy nghĩ.


      - thành vấn đề.


      Phòng ngủ sáng sủa. khí ấm áp thích hợp cho giấc ngủ, làm cho Clarice hài lòng. Bàn tủ và các loại vải vóc thuộc loại đắt tiền mà ít người có thể mua được. Có bức bình phong bằng sơn mài của Coromandel, hai bình sứ kệ và bàn làm việc trang nhã bằng gỗ hồ đào có vân tuyệt đẹp. cặp giường đôi. Clarice giở tấm phủ giường lên. Chỉ có giường bên trái được gắn bánh xe. Chắc Catherine kéo nó lại gần cái kia mỗi khi ta muốn. Có thể ta có nhân tình khác mà người bạn trai biết. Hoặc có thể có khi họ sống chung ở đây. Máy trả lời điện thoại có hệ thống báo từ xa. Như vậy ta phải có mặt ở đây mỗi khi mẹ gọi.


      Máy này cùng kiểu với máy của . mở nắp lên, hai cuộn băng bị lấy . Thay vào đó có mảnh giấy ghi: Băng bị FBỊ tịch thu.


      Phòng ngủ được dọn dẹp khá kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận diện của các điều tra viên với những bàn tay thô kệch của họ khi muốn sắp xếp lại mọi thứ y như cũ, nhưng làm tốt việc đó. Clarice nhận ra ngay người ta lục tung căn cho dù có các vết phấn lấy dấu tay còn sót lại các mặt phẳng.


      Chắc chắn là có chuyện gì xảy ra trong phòng này. điểm nữa cho Crawford: Catherine bị bắt ngoài bãi đậu xe. Nhưng Clarice muốn tìm hiều về Catherine và ta ở ngay trong căn hộ này. ta ở đây, Clarice lặp lại.


      Trong ngăn tủ của bàn ngủ, có quyển niên giám, hộp khăn Kleenex, túi vệ sinh cá nhân và đằng sau cái này là máy chụp hình Polaroid với hệ thống chụp tự động được gắn sẵn cùng giá ba chân được rút ngắn lại. Hhhuùummm. Clarice chăm chú quan sát máy ảnh nhưng đụng vào nó.


      chú ý đến tủ quần áo nhiều hơn. Catherine Baker Martin có nhiều quần áo và số thuộc hàng cao cấp. Clarice nhận ra gần hết các hiệu, trong đó có hai hiệu ở Washington. Chắc là quà của bà mẹ đây, tự nhủ. Clarice đoán đây là những bộ quần áo cổ điển tương xứng với hai số đo cho những người to con từ sáu mươi lăm đến bảy mươi lăm ký, vài cái quần và áo len đan dài tay, được mua trong các cửa hàng dành cho những người phụ nữ to con. Có tất cả hai mươi ba đôi giày, bảy của Ferragamo, cỡ bốn mươi, vài đôi Reebok và vài đôi giày mọi mòn gót. túi đeo lưng vợt tennis được để kệ .


      Đồ đạc của đứa con được ưu đãi, vừa là sinh viên vừa dạy học, có nếp sống sung túc hơn phần lớn chúng bạn.


      tá thư từ trong bàn làm việc. Mấy mảnh giấy nhắn tin của đám bạn học cũ ở miền Đông. số tem và nhãn. Giấy gói quà để ở trong ngăn tủ dưới, với màu sắc và hình vẽ khác nhau. nghĩ đến những câu hỏi mà đặt cho những nhân viên siêu thị khi các ngón tay đụng vào miếng giấy cứng và dày hơn. Quá quen với việc phản ứng lại trước bất cứ gì bình thường, rút nó ra được phân nửa rồi nhìn vào. Đây là loại giấy chậm xanh có trang trí hàng chó Pluto được bắt chước cách vụng về. hàng chó con màu vàng với kích cỡ khác nhau.


      - “Catherine ơi, Catherine!” - Clarice thốt lên. lấy cái kẹp trong túi xách và gấp tờ giấy này bỏ vào trong túi nylon trong suốt, và tạm thời để nó xuống giường.


      Hộp nữ trang bàn trang điểm được làm bằng da có đóng hiệu; người ta có thể nhìn thấy những cái giống tương tự trong phòng ngủ nữ sinh. Ngăn bí mật trống rỗng. tự hỏi biết những ngăn bí mật này được làm cho ai, chắc chắn phải cho bọn trộm rồi. luồn tay dưới cái hộp này và các ngón tay đụng phải bao thư được dán dưới ngăn kéo.


      mang đôi bao tay bằng côtông, lật cái hộp lại và kéo ngăn tủ ra. bao thư bằng giấy nâu được dán bằng băng keo dính vào đó. Nắp bao thư dán. đưa cái bao thư sát lại mũi mình. Người ta chưa rắc bột lấy dấu tay lên đó. Clarice dùng nhíp nhổ lông để gắp mảnh giấy bên trong ra. Có tất cả năm tấm hình và lấy xem từng cái . Năm tấm hình này đều chụp người đàn ông và đàn bà làm tình. Người ta thấy mặt và đầu. Hai trong số này do người phụ nữ chụp, hai do người đàn ông, còn cái thứ năm chắc máy được gắn giá ba chân đặt cạnh bàn ngủ.


      khó nhận biết được tỷ lệ xích của tấm ảnh, nhưng với cái vóc dáng dềnh dàng và sáu mươi lăm ký của ta, người phụ nữ này chắc hẳn là Catherine Martin. Hình chụp được lắm để có thể nhận diện người đàn ông. Nhưng người ta có thể biết người này được mổ ruột thừa. Clarice bỏ hết mấy tấm hình vào trong túi nylon khác và để vào trong bao thư nâu của mình. để ngăn tủ kéo lại như cũ.


      - Tôi cất hết những gì có giá trị trong túi xách của tôi rồi - giọng ở sau lưng vang lên. - Tôi nghĩ người ta lấy cái gì đó.


      Clarice nhìn vào trong gương. Bà Thượng nghị sĩ Martin đứng ngay cửa phòng. Bà ta có vẻ kiệt sức. Clarice xoay người lại.


      - Xin chào bà. Bà có muốn nằm nghỉ ? Tôi cũng gần xong rồi.


      Dù cho rã rời, người phụ nữ này vẫn ngoan cường. Clarice nhận ra bà là người chiến sĩ.


      - Nhưng là ai mới được? Tôi nghĩ cảnh sát xong việc rồi.


      - Tôi là Clarice Starling của FBI. Thế bà chuyện với Bác sĩ Lecter chưa?


      - Ông ta có cho tôi cái tên. - Bà thượng nghị sĩ đốt điếu thuốc và khinh bỉ nhìn từ chân đến đầu.


      - Chúng tôi xem xét nó đáng giá như thế nào. tìm được cái gì trong hộp nữ trang vậy? Nó có giá trị nào ?


      - Vài văn kiện mà chúng tôi kiểm tra trong vài phút. - Clarice chỉ biết trả lời có vậy.


      - Trong hộp nữ trang của con tôi à? Nào hãy đưa tôi xem đó là gì.


      Clarice nghe nhiều tiếng trong phòng kế bên, và hy vọng có người đến để cắt ngang tình trạng này.


      - Có phải nhân viên Copley của văn phòng Memphis cùng bà ?


      - và đó phải là câu trả lời. muốn xúc phạm , nhưng tôi muốn được xem những gì lấy từ trong hộp nữ trang của con tôi. - Rồi bà xoay đầu ra sau gọi - Paul, Paul, có thể đến đây ? Nhân viên Starling, tôi xin giới thiệu với , ông Krendler của Bộ Tư Pháp. Paul, đây là mà Jack Crawford phái đến gặp Lecter.


      Chỗ đầu hói của Krendler đổi sang màu nâu và ông ta có vẻ khỏe mạnh đối với người ở độ tuổi bốn mươi.


      - Xin chào ông Krendler, tôi có nghe đến ông - Starling lên tiếng. Người trung gian hòa giải nổi tiếng của Ban Hình , nhân viên liên lạc của Quốc Hội, ít nhất cũng là cánh tay mặt của viên tổng chưởng lý. Ôi Chúa ơi, hãy thương xót cho con.


      - Nhân viên Starling tìm thấy cái gì đó trong hộp nữ trang của con tôi và bỏ nó vào cái bao thư nâu. Tôi nghĩ chúng ta nên xem qua coi đó là cái gì, có phải ?


      - Nhân viên Starling? - Krendler lên tiếng.


      - Tôi có thể chuyện riêng với ông ?


      - Được chứ, nhưng chốc nữa. - Ông đưa bàn tay ra.


      Mặt của Clarice đỏ như gấc. biết bà Thượng nghị sĩ ở trong tâm trạng bình thường, nhưng bao giờ tha thứ cho cái ánh mắt nghi ngờ của ông Krendler. bao giờ.


      - Ông cầm lấy - và đưa bao thư ra.


      Krendler nhìn vào tấm hình đầu tiên, ông định đậy nắp bao thư lại bà Thượng nghị sĩ Martin chụp lấy nó tay ông.


      đau buồn khi nhìn bà coi mấy bức ảnh. Sau đó, bà bỏ lại cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, đôi mắt nhắm lại. Trong ánh sáng trần ban ngày, bà có vẻ già hơn. Khi đốt điếu thuốc, hai tay bà hơi run.


      - Thưa bà Thượng nghị sĩ... - Krendler vừa .


      - Cảnh sát khám xét căn phòng này - bà . - Tôi tin chắc họ tìm thấy những bức ảnh này nhưng họ còn đủ lý trí để bỏ chúng lại tại chỗ cũ và gì hết.


      - , họ chưa tìm được những bức ảnh này. - Người đàn bà này bị tổn thương nhưng mặc kệ. - Thưa bà, chúng tôi cần biết người đàn ông đó là ai, bà cũng dễ dàng hiểu điều đó. Nếu đó là bạn trai ta, tốt thôi. Tôi chỉ cần năm phút để xác định. ai khác nhìn thấy được những tấm ảnh này và ngay cả Catherine cũng cần phải biết.


      - Tôi lo đây. - Bà thượng nghị sĩ Martin bỏ cái bao thư vào túi xách và Krendler gì.


      - Thưa bà Thượng nghị sĩ, có phải chính bà lấy mấy món nữ trang trong cái bắp cải bằng cao su trong tủ lạnh ? - Clarice hỏi.


      Brian Gossage ló đầu qua khe cửa.


      - Xin lỗi bà thượng nghị sĩ, trạm cuối đặt xong. Chúng ta trực tiếp theo dõi trong lúc họ truy tìm tên của William Rubin tại FBI.


      - Thôi bà bà Thượng nghị sĩ, tôi đến đó ngay - Krendler .


      Ruth Martin rời căn phòng mà thèm trả lời câu hỏi của Clarice.


      Clarice có dịp quan sát Krendler trong khi ông đóng cánh cửa phòng lại. Bộ comple của ông là tuyệt tác của ngành may và ông có mang vũ khí. Phần dưới của đôi giày ông bóng láng vì qua nhiều thảm dày.


      Ông đứng lúc tại đó, tay để nắm cửa, đầu hơi nghiêng.


      - làm cuộc khám xét hữu hiệu, - ông khi quay người lại.


      câu hơi quá đáng, Clarice thầm nghĩ. chỉ nhìn trả ông ta.


      - Quantico đào tạo điều tra viên hay.


      - Nhưng được những tên trộm ra trò.


      - Tôi biết.


      - Nhưng phải là điều hiển nhiên đâu.


      - Thôi bỏ qua chuyện này .


      - Phải tìm cho ra đầu mối các tấm ảnh và cái bắp cải bằng cao su, đúng ?


      - Đúng vậy.


      - Thế tên William Rubin là ai vậy, thưa ông Krendler?


      - Lecter đó là tên của Buffalo Bill. Đây là các báo cáo của cơ quan nhận dạng và Danh Mục. đọc . - Ông đưa bản ghi chép cuộc đối thoại giữa Lecter và bà Thượng nghị sĩ Martin, bản sao mờ nhạt của máy in.


      - nghĩ sao? - Ông hỏi sau khi đọc xong.


      - Ông ta có trách nhiệm nào hết. Ông ta đây là người da trắng tên Bill Rubin bị cụm nhọt do ngà voi. Nếu ông ta dối, và dù chuyện gì có xảy ra nữa, các người cũng khó chứng minh được. Cuối cùng, người ta chỉ có thể ông ta nhầm lẫn thôi, là điều tôi hy vọng. Nhưng cũng rất có thể ông ta lừa được bà ta, ông Krendler. Ông ta chắc chắn có thể làm điều này. Ông có... gặp mặt ông ta chưa?


      Krendler lắc đầu với cái khịt mũi.


      - Theo những gì chúng tôi biết, Bác sĩ Lecter giết chết chín người. Cho dù có chuyện gì nữa, ông ta cũng bao giờ ra khỏi nhà tù được. Kể cả việc ông có làm những người chết sống lại, người ta cũng thả ông ta. Vì vậy ông ta chỉ còn cái trò đùa này thôi. Cũng chính vì thế mà chúng tôi lợi dụng ông ta dấy.


      - Tôi biết các người lợi dụng ông ta. Tôi có nghe cuộn băng Chilton thâu. Tôi đây là sai lầm, nhưng tất cả mọi thứ đó đều chấm dứt rồi. Khoa nghiên cứu thái độ con người cứ tiếp tục khai thác những gì thu thập được, cho dù đó là giả thuyết của tên chuyển đổi giới tính, nếu thấy đáng. Nhưng ngày mai tiếp tục theo các lớp học tại Quantico.


      Trời ơi!


      - Nhưng tôi tìm được thứ khác.


      Tờ giấy màu còn để giường nhưng ai để ý. đưa cho ông ta.


      - Cái gì thế?


      - Nó giống tờ giấy chậm Pluto. - buộc phải cung cấp cho ông thêm thông tin về vật này. Ông đưa tay ra hiệu mời .


      - Tôi gần như chắc chắn đây là tờ giấy chậm acid. Của LSD vào thời kỳ thập niên bảy mươi hoặc trước nữa. Nó trở thành vật hiếm. Cũng đáng cho chúng ta tìm hiểu xem ta có nó từ đâu. Phải làm thí nghiệm để biết chính xác.


      - có thể đem nó về Washington để làm thí nghiệm. trong vài phút nữa.


      - Nếu ông có thể chờ chút, chúng ta làm nó tại đây. Tôi tin chắc cảnh sát có túi đặc dụng để xác định chất ma túy, đó là thí nghiệm J, chỉ mất có hai giây thôi. Chúng ta...


      - hãy trở về Washington, trở lại trường - Ông khi mở cửa ra.


      - Ông Crawford có ra lệnh cho tôi...


      - phải làm theo những gì tôi bảo. Ở đây còn dưới quyền của Crawford nữa rồi. chỉ là học viên như bao người khác và chỗ của là tại Quantico, có hiểu ? Có chuyến bay lúc hai giờ mười. hãy đáp chuyến đó.


      - Thưa ông Krendler, ông bác sĩ Lecter chỉ chuyện với tôi trong khi ông ta muốn tiếp xúc với cảnh sát Baltimore. Ông ta có thể vẫn muốn làm việc đó, vì thế ông Crawford nghĩ rằng ...


      Krendler đóng cánh cửa mạnh hơn lần đầu.


      - Nhân viên Starling, tôi cần phải chứng minh bất cứ điều gì cho , nhưng hãy nghe cho đây. Khoa nghiên cứu thái độ con người luôn chỉ đóng vai trò tư vấn mà thôi, và nó vẫn như thế. Bằng bất cứ cách nào, đáng lẽ người ta phải cho Crawford về hưu vì lý do gia cảnh rồi. Tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy ông ta có thể cầm cự cho đến bây giờ. Ông ta quá mạo hiểm khi giấu tất cả chuyện này với bà Thượng nghị sĩ, và ông ta bị đá đít rồi. Nhưng nghĩ đến thành tích và ông ta cũng gần đến tuổi về hưu rồi, ngay cả bà ta cũng thể hại ông ta được. Vì thế vào địa vị , tôi bận tâm giùm ông ta.


      Clarice hơi mất tự chủ.


      - Ông thấy bao nhiêu người bắt được ba thủ phạm giết người hàng loạt chưa? Ông có biết ai đó chỉ bắt được tên thôi? Ông nên để bà ta chỉ huy vụ này, ông Krendler.


      - học viên xuất sắc, nếu Crawford bao giờ chú ý đến , nhưng tôi chỉ lần thôi nhé: hãy ngậm miệng lại nếu muốn thấy mình trở thành thư ký đánh máy. Ngay từ đầu, muốn hiểu lý do duy nhất mà người ta đồng ý để cho tiếp xúc với Lecter, là để ông giám đốc của chứng minh được ngân sách của ông ta mà thôi. Những thông tin đáng kể về những tội ác quan trọng, “ tin tức sốt dẻo để lưu hành nội bộ” về Bác sĩ Lecter ấy à, ông ta có thể lấy như lấy kẹo từ trong túi mình ra để phân phát trong khi cố gắng làm sao cho ngân sách ông ta được phê duyệt. Các thành viên trong Quốc Hội rất thích thú, họ thích những trò đó. Nhân viên Starling, đơn thương độc mã, và liên quan gì với vụ điều tra này. Tôi biết giờ giữ thêm chứng minh thư nữa, hãy đưa nó lại cho tôi.


      - Tôi cần nó để dịch chuyển với khẩu súng, vả lại tôi phải đem nó về Quantico.


      - khẩu súng! Trời đất! phải trả nó lại ngay sau khi trở về.


      Bà Thượng nghị sĩ Martin, Gossage, chuyên viên và nhiều cảnh sát viên bu quanh cái màn hình được kết nối với máy điện thoại bằng cái modem. Đường dây nóng liên lạc trực tiếp với Trung Tâm Thông Tin Quốc Gia về các án mạng phát liên tục tin tức về các cuộc truy tìm căn cứ theo thông tin do Lecter cung cấp và do Washington xử lý. màn hình xuất thông báo của Trung Tâm Bệnh lý học Atlanta: người ta mắc chứng cụm nhọt ngà voi khi nào hít nhầm bụi của ngà voi châu Phi trong khi làm cán dao chẳng hạn. Tại Hoa Kỳ, đó là căn bệnh của những người thợ làm dao.


      Với từ “thợ làm dao”, bà Thượng nghị sĩ nhắm mắt lại. Mắt bà nóng lên, tay nắm chặt miếng Kleenex.


      Người cảnh sát viên trẻ đưa Starling vào căn phòng, đem lại cho bà tách cà phê. ta vẫn đội mũ đầu.


      Clarice thể nào bỏ cách êm thấm được. đứng trước mặt bà thượng nghị sĩ và :


      - Chúc bà may mắn, tôi hy vọng Catherine được bình yên vô .


      Bà Thượng nghị sĩ gật đầu nhưng nhìn . Krendler đẩy Clarice ra khỏi phòng.


      - Tôi biết là được để cho ta vào đây - viên cảnh sát sau khi ra khỏi phòng.


      Krendler ra cùng .


      - Tôi rất nể Jack Crawford - Ông . - làm ơn với ông ta là tôi rất tiếc... về những gì xảy ra cho Bella. Bây giờ hãy trở về trường và làm việc nhé! Đồng ý ?


      - Xin chào ông Krendler.


      lại đơn độc tại bãi đậu xe với cảm giác bàng hoàng.


      Clarice rất muốn được chuyện với Crawford. Điều tệ hại hơn hết là tình trạng lộn xộn và ngu xuẩn, ông như thế. Đó là thời điểm khó khăn nhất. Hãy nhớ lấy vì nó rèn luyện cá tính của . Điều khó nhất là đừng bao giờ để cho phẫn nộ và ức chế ngăn cản suy nghĩ. Được như thế, mới biết được có thể chỉ huy hay .


      cần chỉ huy, cần là “nhân viên đặc biệt” Starling, nếu phải hành động như thế.


      nghĩ đến người chết đáng thương mà thấy nằm dài cái bàn của nhà tang lễ tại Potter. ta sơn móng tay bóng láng như mấy chiếc môtô trượt tuyết của mấy tên nhà quê.


      Nhưng ta tên gì nhỉ? Kimberly.


      Mấy tên khốn đó nhìn thấy mình rơi lệ đâu.


      Trời ơi... sao có nhiều Kimberly đến thế, có bốn Kimberly trong lớp học của . Ba thằng con trai tên Sean. Kimberly cũng là tên của bộ phim nhiều tập tivi, cố gắng làm đẹp bằng cách bấm ba lỗ ở tai để đeo vòng. Mà Buffalo Bill nhìn bộ ngực lép kẹp đó với khẩu súng chỉa ngay đó và bắn thủng ngực, tạo lỗ hình sao biển.


      Kimberly, người thiếu nữ buồn và mập, se lông chân bằng sáp. có gì lạ, sau khi nhìn thấy mặt, tay, chân. chỉ còn có da là vật đáng giá nhất. Kimberly ơi, ở nơi nào đó, có phẫn nộ ? bà Thượng nghị sĩ nào lo cho đâu. phi cơ nào để chở hết mấy thằng điên đó hết. Điên, từ mà đúng lý ra được dùng. Cũng có nhiều việc được hành động. Mấy thằng điên chết tiệt đó.


      Clarice nhìn đồng hồ. Còn giờ ba mươi phút nữa trước khi máy bay cất cánh, còn nhiều thời giờ để làm cái gì đó. muốn nhìn thấy mặt của Lecter khi ông ta ra cái tên “Bill Rubin”. Nếu có thể nhìn đủ lâu đôi mắt nâu kỳ lạ đó, nếu xoáy được đến tận cùng tâm trí, nơi mà bóng tối thu hút các tia sáng, có thể tìm thấy được cái gì đó hữu ích. Có thể là vui mừng của ông ta, thầm nghĩ.


      Cám ơn Trời, mình vẫn còn tấm thẻ hình .


      cho nổ máy xe và phóng nhanh.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      35



      Clarice Starling với hai hàng nước mắt phẫn nộ khô ráo gò má, phóng nhanh trong dòng lưu thông đầy hiểm nguy của Memphis. cảm nhận tự do lạ kỳ và rất năng động. nét bất thường của quan điểm báo cho biết phải đấu tranh, vì thế phải cẩn trọng mới được.


      Đến từ phi trường, ngang qua tòa án cũ để tìm đường dễ dàng hơn.


      Chính quyền bang Tennessee muốn có bất trắc nào với Hannibal Lecter nên mạo hiểm để ông ta trong nhà tù của thành phố.


      Giải pháp duy nhất là nhà giam của tòa án cũ, công trình đồ sộ theo kiểu tân gôtíc bằng đá hoa cương. Được tân trang đôi chút, đó là nơi làm việc của các cơ quan chính quyền của cái thành phố thịnh vượng này và rất hãnh diện về quá khứ của nó.


      Ngày hôm nay nó trông như pháo đài của thời trung cổ bị cảnh sát bao vây.


      Có đủ loại xe cảnh sát tại bãi đậu xe, nào của cảnh sát công lộ, của ông cảnh sát trưởng quận Shelby, của văn phòng FBI Tennessee và cơ quan quản lý nhà giam. Clarice phải cho xe chạy ngang qua lính canh trước khi đậu được chiếc xe của mình.


      vấn đề an ninh khác đến từ bên ngoài. Kể từ bản tin tức lúc mười giờ cho biết diện của , rất nhiều cuộc gọi hăm dọa ụp đến; thân nhân và bạn bè của các nạn nhân ước thấy chết .


      Clarice hy vọng Copley, nhân viên FBI địa phương, có mặt, vì muốn ta gặp rắc rối.


      bãi cỏ trước thềm nhà, nhìn thấy lưng của Chilton, ngay giữa đám phóng viên. Có thêm hai camera của đài truyền hình. Ước gì lúc này có đội mũ. tiến về hướng cái tháp, mặt nhìn về hướng khác.


      cảnh sát viên gác cửa kiểm tra thẻ của , trước khi cho vào hành lang, bây giờ khác gì trại cảnh sát. cảnh sát viên khác đứng ngay cửa thang máy và người khác ở chân cầu thang. Nhiều cảnh sát viên khác ngồi băng ghế, đọc tờ Nhật Báo Thương Mại.


      viên trung sĩ trực tại bàn làm việc đối diện với thang máy. Bảng tên ta có ghi TATE, C.L.


      - Phóng viên được có mặt - ta khi nhìn thấy Clarice.


      - Tôi phải là nhà báo.


      - có thuộc toán của Bộ Tư Pháp ? - hỏi khi xem thẻ của .


      - Tôi làm việc với ông Krendler, vị phụ tá của ông tổng chưởng lý. Tôi vừa chia tay ông ta đây.


      Trung sĩ Tate gật đầu.


      - Toàn bộ cảnh sát của bang Tennessee và những nơi khác đều muốn chuyện với Lecter. Hiếm khi gặp được người như thế. phải có phép của Chilton mới được lên đó.


      - Tôi vừa gặp ông ta đứng ngoài trước cửa. Chúng tôi làm việc chung trong vụ án này tại Baltimore. Tôi phải ký tên vào đây, phải Trung sĩ Tate?


      ta do dự lúc.


      - Đúng, ngay đó. Cảnh sát hay khách đều phải bỏ súng lại đây. Nội quy buộc như thế.


      Starling gật đầu. lấy kẹp đạn ra, trong khi viên trung sĩ thích thú nhìn thao tác khẩu súng. trao súng cho ta, báng ra phía trước để ta bỏ vào trong ngăn tủ.


      - Vernon, cho ta lên , - ta cầm điện thoại lên, quay ba số và tên .


      Thang máy được lắp đặt vào các thập niên hai mươi, lên từ từ trong tiếng kêu kèn kẹt và ngừng trước bậc nghỉ chân, được nối dài với hành lang .


      - cứ việc thẳng - viên cảnh sát .


      cửa kiếng, có ghi hàng chữ ỦY BAN LỊCH SỬ CỦA QUẬN SHELIBY.


      Gần như toàn bộ tầng cùng của tháp là căn phòng rộng lớn hình bát giác được sơn trắng, sàn và vật dụng bằng gỗ sồi, nực mùi sáp ong và keo dán giấy. Căn phòng rất ít đồ đạc, tạo cảm tưởng như ngôi đền. Chắc vào thời trước đây là văn phòng của ông thống đốc, nên có vẻ oai phong hơn nhiều.


      Hai nhân viên ban quản lý nhà giam gác. người con, ngồi tại bàn làm việc, liền đứng lên khi thấy Clarice bước vào. Người to con hơn ngồi cái ghế xếp, đặt trong cùng của căn phòng, đối diện với phòng giam. ta canh chừng cho tên tội phạm tự sát.


      - có được phép chuyện với tên tù nhân , thưa ? - Người cảnh sát viên con hỏi. Bảng tên ghi là PERRY, T. W.; bàn làm việc có điện thoại, hai dùi cui, và sau lưng ta có bình xịt thuốc bất tỉnh, bánh răng cưa lớn được dựng ở góc tường.


      - Có, tôi hỏi cung ông ta rồi.


      - biết thủ tục chứ? được bước qua hàng rào.


      - Tôi biết mà.


      Nét màu mè duy nhất trong căn phòng là cái hàng rào cảnh sát, loại ngựa gỗ có sọc vàng đen với đèn nháy, giờ tắt, được đặt cách cửa phòng giam khoảng thước rưỡi. Quần áo của bác sĩ Lecter được máng cái mắc áo, còn cái mặt nạ và vật nữa mà Clarice chưa bao giờ thấy trước đây, áo trói của bang Kansas. Bằng da dày, có khoen cài ở sau lưng, còn hông có cùm bằng sắt với hai khóa, để giữ cố định các cổ tay; đây có thể là loại áo trói hữu hiệu nhất đời này. nền trắng, cái mặt nạ và áo trói treo mắc áo tạo cảnh tượng ghê rợn.


      Khi bước lại gần xà lim, Clarice thấy bác sĩ Lecter, quay lưng ra cửa, đọc sách tại cái bàn được gắn chết xuống sàn. Trước mặt ông có chồng sách và tập hồ sơ của Buffalo Bill mà trao cho ông tại Baltimore. máy thâu băng được gắn bằng sợi xích vào chân bàn. Quả là cảm giác khác lạ khi gặp ông ngoài dưỡng trí viện.


      Clarice từng nhìn thấy những xà lim như thế này. Người ta chưa làm gì khác hay hơn những chuồng được lắp bằng những cấu kiện thép đúc sẵn của công ty ở Saint-Louis, và chúng có thể biến bất cứ căn phòng nào thành xà lim. Sàn cũng bằng thép nằm đà, vách và trần là những song sắt đúc nguội. Phòng giam rất sạch và sáng trưng. bình phong bằng giấy che khuất chỗ vệ sinh.


      Các song sắt bao quanh trông giống như xương sườn và đầu của bác sĩ Lecter có màu đen sáng.


      cảnh tượng ám ảnh các nghĩa địa. Ông ta sống trong lồng ngực giữa các lá khô của trái tim.


      xua đuổi hình ảnh này bằng cái nháy mắt.


      - Chào , Clarice - Ông ta thốt lên và xoay mặt lại. Ông đọc hết trang đó, lấy đồ chặn lại rồi xoay cái ghế lại để đối mặt , hai tay khoanh lại, cằm tựa lưng ghế.


      - Theo Dumas, nếu người ta cho mấy con quạ ăn nhiều hạt đỗ tung, người ta làm cho mùi vị và màu sắc của nó tăng lên. Khi người ta nấu con chim đó vào mùa thu rất tuyệt. có thích món đó , Clarice?


      - Tôi thiết nghĩ ông thích có các tranh vẽ của ông, những bức trong phòng giam của ông đấy, trước khi có được cửa sổ.


      - dễ thương. Bác sĩ Chilton kìm được niềm vui khi người ta loại ra khỏi vụ điều tra, cả Jack Crawford và . Thế người ta sai đến đây để tán tỉnh tôi lần cuối hay sao vậy?


      Người nhân viên gác trước xà lim bỏ chuyện với Pembry. Clarice hy vọng họ nghe được cuộc trò chuyện này.


      - ai sai tôi đến đây cả. Tôi tự ý đến thôi.


      - Người ta đồn hai chúng ta nhau rồi. Thế thích hỏi tôi về Bill Rubin à?


      - Thưa bác sĩ Lecter, tôi ... hề muốn tranh cãi những gì ông với bà thượng nghị sĩ Martin, nhưng ông có muốn khuyên tôi theo cái dấu vết mà ông...


      - Tranh cãi, tôi thích từ này quá . Tôi khuyên bất cứ điều gì. lừa tôi, Clarice à. có tin là tôi gạt họ ?


      - Tôi nghĩ ông với tôi.


      - đáng tiếc là gạt tôi, có phải ? - Khuôn mặt của Lecter biến mất sau cánh tay ông ta, chỉ còn ló có hai con mắt. - Tôi cũng lấy làm tiếc là Catherine bao giờ thấy lại ánh nắng mặt trời. Mặt trời là cái nệm lửa mà Chúa ta chết đó, Clarice.


      - Cũng đáng tiếc khi ông phải buộc nghe theo những người khác để lau khô được vài giọt nước mắt. đáng tiếc là chúng ta thực được hết thỏa thuận của chúng ta. Quan niệm của ông về con côn trùng trưởng thành, cấu trúc của nó, với nét gì đó… thanh lịch người ta khó nhận thấy được. Bây giờ nó như phế tích, nửa vòm cầu còn đứng nguyên.


      - nửa vòm cầu thể đứng nguyên được. Nhưng mà này, họ vẫn để tiếp tục hay sao, Clarice? Họ chưa tước huy hiệu của à?


      - Chưa.


      - Dưới áo vét có cái gì thế, khăn tay, giống như cái của cha , phải ?


      - , đó là kẹp đạn thay nhanh.


      - vẫn mang vũ khí à?


      - Đúng.


      - Nếu thế, phải may áo cho rộng nữa. có biết may ?


      - Có.


      - Tự tay may bộ cánh này phải ?


      - . Bác sĩ Lecter, ông thấy đủ mọi thứ. Ông thể cho biết nhiều hơn nữa về tên “Bill Rubin” vì biết quá ít về vấn đề này.


      - tin thế sao?


      - Nếu ông gặp , ông biết mọi thứ. Nhưng ông chỉ nhớ được có mỗi chi tiết. mắc chứng cụm nhọt ngà voi. Đáng lẽ ông phải thấy họ nhảy cẫng lên khi Atlanta cho biết đây là căn bệnh của mấy người thợ làm dao. Có thể là họ bổ nhào vào đó, đúng như ông tiên đoán. Riêng chi tiết này thôi, người ta phải cấp cho ông căn hộ rộng tại Peabody mới đúng. Bác sĩ Lecter, nếu ông gặp ông phải biết mọi chuyện của rồi. Tôi cho là ông chưa hề thấy mặt bao giờ và chính Raspail kể lại cho ông nghe. Nhưng các loại tin tức hạng hai như thế, đâu có đáng giá lắm có phải ?


      Clarice liếc nhìn qua vai. trong hai người cảnh sát chỉ cái gì đó trong tờ tạp chí Súng và Đạn dược.


      - Ông chưa hết cho tôi tại Baltimore. Tôi nghĩ thông tin đó chính xác. Hãy cho tôi phần còn lại .


      - Tôi đọc hồ sơ rồi, Clarice. Tất cả những gì muốn tìm hiểu đều nằm trong đó, với điều kiện phải chú ý hơn nữa. Ngay thanh tra tài ba như Crawford cũng tìm được. riêng nhé, có đọc lời tuyên bố sững sờ mà ông ta hồi năm ngoái tại Trường Cảnh sát Quốc gia ? Ông ta cường điệu về Marc Aurele, về nhiệm vụ, danh dự và sức mạnh tinh thần, chúng ta hãy chờ xem ông ta thuộc loại “người cương nghị” nào khi Bella qua đời. Ông ta rút lấy triết lý cho mình trong quyển Từ điển các lời trích dẫn. Nếu ông ta hiểu Marc Aurele, ông ta lý giải được vụ án này rồi.


      - Ông cho tôi biết xem bằng cách nào?


      - Khi người ta có lúc tỏ ra hiểu biết về bối cảnh lịch sử chút, nhưng tôi quên mất điều này, là thế hệ của biết đọc. Vị Hoàng đế khuyên giản dị. Các khái niệm cơ bản. Với việc đặc biệt nào đó, phải tự hỏi: thế trong đó là gì, bản chất của nó là như thế nào? Nguyên nhân của nó là như thế nào?


      - Đối với tôi nó có nghĩa cho lắm.


      - Thế con người mà các người truy tìm, làm gì vậy?


      - giết người.


      - À. - Ông thốt lên và tạm thời nghĩ đến cái đầu nhạy bén này. - Đó là điều thứ yếu. Điều đầu tiên và quan trọng nhất mà làm kìa, tại sao cần phải giết người?


      - Vì giận dữ, mối hận thù xã hội, ức chế tính dục...


      - !


      - Thế vì cái gì?


      - thèm muốn. cho đúng, chỉ thèm muốn có mỗi thứ mà có. Đó là cách mà bản chất hành động. Thế thèm muốn bắt đầu từ cái gì thế Clarice? Nào, chúng ta hãy điểm lại những gì chúng ta thèm muốn xem. Cố gắng trả lời .


      - . Chúng ta chỉ bắt đầu…


      - Chính xác là như thế. Chúng ta bắt đầu ham muốn những gì chúng ta thấy hàng ngày. Thế cảm nhận được ánh mắt của những người qua đường nhìn sao Clarice? Điều trái ngược làm tôi ngạc nhiên đấy. Và cũng để mắt vào cái gì đó hay sao?


      - Đồng ý. Vậy ông hãy cho tôi...


      - Chính phải cho tôi, Clarice à. còn những kỳ nghỉ để tặng cho tôi gần Trung Tâm nghiên cứu bệnh dịch hạch của trâu bò nữa. Kể từ bây giờ, tuyệt đối là phương thức có qua có lại mà thôi. Phải dè chừng với mới được, nào thử xem Clarice.


      - Cái gì?


      - nợ tôi hai chuyện. Thứ nhất là chuyện gì xảy ra với con ngựa của , thứ hai là bằng cách nào kiềm chế được cơn giận dữ của mình.


      - Thưa bác sĩ Lecter, khi nào tôi có thời giờ rảnh...


      - Chúng ta tính thời gian cách giống nhau, Clarice à. Đó là thứ duy nhất mà có được.


      - Để sau này , ông nghe đây, tôi…


      - giờ, tôi nghe đây. Hai năm sau khi cha chết, mẹ gởi đến người bà con tại nông trại ở Montana. Lúc đó mười tuổi. khám phá việc họ vỗ béo ngựa để đưa chúng vào lò sát sinh. bỏ trốn với con ngựa cái gần như mù. Rồi sao nữa?


      - Đó là mùa hè và người ta có thể ngủ ngoài trời. Chúng tôi đến Bozeman bằng đường mòn.


      - Con ngựa của có tên chứ?


      - Có thể lắm... nhưng người ta cần tìm hiểu khi nuôi ngựa để cho vào lò sát sinh. Tôi gọi nó là Hannah, và tôi thấy tên đó hợp với nó lắm.


      - dắt bằng sợi dây hay cưỡi nó?


      - Cả hai. Để cưỡi được nó, tôi phải đưa nó đến gần hàng rào.


      - Lúc cưỡi ngựa, lúc bộ, các người đến Bozeman.


      - Có chuồng ngựa cho thuê, kiểu trường dạy cưỡi ngựa, ngay ngoài thành phố. Tôi định đưa nó vào đấy, nhưng họ đòi hai mươi đôla tuần cho chuồng và bãi nhốt ngựa. Họ thấy ngay n gần như thấy đường. Tôi có : tôi có thể cho mấy đứa con nít dạo lưng nó trong lúc cha mẹ chúng tập cưỡi ngựa, và rửa chuồng ngựa nữa. Người chủ đồng ý, trong khi bà vợ điện thọại cho ông cảnh sát trưởng.


      - Ông cảnh sát trưởng là cảnh sát viên, giống như cha vậy.


      - Lúc đầu, điều đó vẫn làm cho tôi sợ ông ta. Mặt ông ta đỏ lừ. Cuối cùng chính ông ta bỏ ra hai mươi đôla tiền trọ, trong khi chờ đợi “ông ta làm mọi chuyện”. Ông ta cần mướn chuồng cho riêng nó với cái thời tiết nóng bức của lúc đó. Báo chí có đăng tải vụ này, làm khá lớn chuyện. Người chị bà con của mẹ rất muốn để cho tôi . Thế là tôi thấy mình vào ở trong Tổ ấm của dòng Luther tại Bozeman.


      - Đó có phải là nhi viện ?


      - Đúng vậy.


      - Còn Hannah?


      - Nó cũng vào đó. người nông dân dòng Luther cung cấp cỏ khô, và trong nhi viện có chuồng ngựa. Người ta bắt nó xới đất của khu vườn, nhưng phải dắt nó mới được, nếu nó dẫm nát các luống đậu và bất cứ những gì nằm dưới chân nó. Nó còn đưa mấy đứa trẻ dạo chiếc xe có mui nữa.


      - Cuối cùng rồi nó cũng chết.


      - Đương nhiên rồi...


      - Kể nghe xem.


      - Đó là vào năm ngoái, họ viết thư đến trường cho tôi. Người ta nghĩ nó khoảng hai mươi hai tuổi. Ngày hôm trước nó kéo chiếc xe chở đầy trẻ con và đêm đó nó chết trong giấc ngủ.


      Bác sĩ Lecter có vẻ hoang mang.


      - Điều này làm ấm lòng . Thế người cha nuôi của ở Montana có hiếp , Clarice?


      - .


      - Ông ta có cố làm việc đó ?


      - .


      - Thế tại sao lại bỏ trốn?


      - Bởi vì họ định giết Hannah.


      - biết được khi nào, ?


      - Cũng , nhưng tôi cứ nghĩ đến luôn. Vì nó rất mập.


      - Thế điều gì khởi phát mọi thứ? Điều gì xảy ra hôm đó?


      - Tôi biết nữa.


      - Tôi chắc biết mà.


      - Lúc nào tôi cũng sợ.


      - Điều gì khiến cho bỏ vậy, Clarice? Vào lúc mấy giờ?


      - Sớm lắm, trời vẫn còn tối.


      - Như vậy, có cái gì đó làm cho thức giấc. Điều gì làm cho thức vậy? có nằm mơ ? Mơ đến điều gì vậy?


      - Tôi thức giấc và nghe mấy con cừu kêu lên. Tôi mở mắt trong đêm tối và mấy con cừu cứ kêu be be.


      - Họ làm thịt mấy con cừu vào mùa xuân phải ?


      - Đúng.


      - Thế làm gì?


      - Tôi làm được gì cho chúng cả. Tôi chỉ là...


      - Thế làm gì với con ngựa cái?


      - Tôi mặc đồ vào trong bóng tối và ra ngoài. Nó rất sợ, tất cả đàn ngựa trong chuồng đều hoảng sợ và lòng vòng. Tôi hà hơi vào mũi nó và nó nhận ra tôi. Nó áp mõm nó vào lòng bàn tay tôi. Đèn được bật sáng trong kho thóc và trong chuồng cừu. Các bóng đèn trần, nhiều bóng lớn. Chiếc xe đông lạnh chờ, máy vẫn nổ. Tôi dắt nó ra ngoài.


      - có thắng yên cho nó ?


      - , tôi lấy yên của họ, chỉ bộ dây cương thôi.


      - Lúc trong đêm tối, có nghe tiếng của đàn cừu , tại nơi có đèn đó?


      - nhiều, bởi vì chỉ có mười hai con thôi.


      - Điều này vẫn làm cho thức giấc phải ? Thức giấc trong đêm tối và nghe tiếng cừu kêu be be phải ?


      - Đôi khi.


      - có nghĩ mình bắt được Buffalo Bill , chính chứ phải những người khác, và nếu Catherine bình yên vô mấy con cừu còn kêu la nữa, có nghĩ là chúng cũng có thể được cứu sống và còn thức giấc trong đêm để nghe tiếng kêu la của chúng nữa, phải Clarice?


      - Đúng vậy. Tôi chắc, có thể lắm.


      - Cám ơn Clarice. - Bác sĩ Lecter tỏ ra rất yên lòng.


      - Hãy cho tôi biết tên của bác sĩ Lecter?


      - Bác sĩ Chilton - Lecter thốt lên - Tôi nghĩ hai người biết nhau rồi.


      Ngay lúc đó Clarice hiểu rằng Bác sĩ Chilton đứng sau lưng . Và ông chụp lấy cùi chỏ .


      giật tay ra và hai cảnh sát viên liền đứng hai bên Bác sĩ Chilton.


      - Vào thang máy ngay - ông ta với vẻ mặt xám xịt.


      - có biết Bác sĩ Chilton mảnh bằng y khoa nào ? - Lecter - Tôi xin , đừng bao giờ quên điều đó.


      - Nào thôi - Chilton nhấn mạnh.


      - Ông phải là người chỉ huy ở đây - Clarice đáp lại.


      Viên cảnh sát con tiến tới trước.


      - , thưa , là tôi đây. Ông ta gọi cho cấp chỉ huy của và của tôi. Tôi rất tiếc nhưng tôi được lệnh phải buộc . hãy theo tôi.


      - Tạm biệt Clarice. Nếu mấy con cừu còn khóc nữa, cho tôi biết chứ?


      - Được.


      Pembry nắm cánh tay . Đành phải theo hoặc đánh lại ta.


      - Được, tôi báo cho ông.


      - Hứa chắc chứ?


      - Chắc mà.


      - Nếu thế, sao phá nốt nửa cái vòm còn lại . hãy cầm lại hồ sơ này Clarice, tôi còn cần đến nó. - Ông đưa nó qua song sắt. đưa tay ra lấy. Trong khoảnh khắc, đầu ngón trỏ của đụng phải ngón tay của bác sĩ Lecter. Với tiếp xúc này, mắt ông sáng hẳn lên.


      - Cám ơn Clarice.


      - Cám ơn bác sĩ Lecter.


      Và vì thế mà ông luôn tồn tại trong ký ức của Clarice. Kể từ giờ phút đó, ông hề chế giễu Clarice nữa. Đứng trong cái xà lim trắng toát, người uốn cong như vũ công, hai bàn tay chập lại trước mặt, đầu hơi nghiêng qua bên.


      Tại phi trường, Clarice bước quá mau, đến mức đụng đầu vào người khác, vì phải chạy để đáp kịp chuyến bay mà Krendler buộc phải .

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      36



      Pembry và Boyle là hai nhân viên canh gác đầy kinh nghiệm, được phái đặc biệt từ Nhà tù Liên bang Brushy Mountain đến đây canh giữ bác sĩ Lecter. Họ rất bình tĩnh và cảnh giác nên Bác sĩ Chilton cần phải chỉ dạy họ phải làm gì.


      Đến trước Lecter, họ khám xét phòng giam này, bỏ sót bất cứ nơi nào. Khi người ta đưa tên tội phạm đến tòa án cũ này, họ cũng làm như thế với ông ta. y tá làm công việc khám xét toàn bộ thân thể trong khi ông ta vẫn mặc áo trói và người ta cho các đường may vào máy dò kim loại.


      Pembry thầm dịu dàng trong lúc khám xét ông ta.


      - Bác sĩ Lecter, chúng tôi muốn gây khó khăn với ông. Thái độ của chúng tôi tùy thuộc vào thái độ của ông. Ông hãy tỏ ra lịch lãm và mọi việc tốt đẹp. Nhưng chúng tôi hề sợ ông. Ông cứ thử cắn xem, ông thấy có cái răng rụng trong miệng ông đấy. Ở đây, có vẻ mọi thứ đều tốt đẹp cho ông. Ông nên làm rối tung lên, có được ?


      Bác sĩ Lecter nhìn họ rồi thân thiện chớp mắt. Dù ông có muốn trả lời nữa, ông vẫn thể được vì người ta chêm cái chốt bằng gỗ chặn hai hàm răng để kiểm tra trong họng và dùng ngón tay được mang găng cao su, rà soát các lợi của ông.


      Chiếc máy dò kim loại mà người ta đưa gò má ông kêu bíp bíp.


      - Cái gì thế? - người y tá hỏi.


      - Chì trám răng - Pembry trả lời. - Hãy kéo môi lên, thấy .


      - Theo ý tao, ông ta còn gì để than phiền nữa, có phải ? - Boyle thổ lộ với Pembry, sau khi họ nhốt ông vào xà lim. - Ông ta gây rắc rối gì nữa trừ phi hoàn toàn mất trí.


      Cái xà lim này, dù cho có chắc chắn và tuyệt đối an toàn, nhưng nó có hệ thống chuyền thức ăn. Đến giờ ăn trưa, sau cái khí khó chịu của cuộc viếng thăm của Clarice, Bác sĩ Chilton làm cho mọi người phải bực mình khi buộc Boyle và Pembry, trước khi bước vào trong xà lim, phải mặc áo trói vào cho Bác sĩ Lecter.


      Chilton bao giờ chịu gọi Boyle và Pembry bằng tên của họ mặc dù hai người này có mang bảng tên, chỉ gọi bằng cách “Ê, kia”.


      Sau khi biết Chilton phải là bác sĩ, Boyle lời nhận xét của mình với Pembry.


      - Có thể ông ta “chỉ là tên giáo sư bẩn thỉu.”


      Pembry cố giải thích cho Chilton biết việc chấp thuận cho Clarice viếng thăm ông ta là do người nhân viên ở dưới lầu, nhưng điều này cũng làm cho ông nguôi cơn giận.


      Trong giờ ăn tối có mặt Chilton, nên các người canh giữ áp dụng phương pháp của riêng họ, trước sửng sốt tột cùng của Lecter.


      - Bác sĩ Lecter, tối nay ông cần phải mặc áo dạ hội - Pembry tuyên bố. - Tôi chỉ cầu ông ngồi xuống sàn nhà và đưa hai cánh tay ông ra ngoài song sắt, đưa cao ra phía sau. Đúng như vậy đấy. Hãy cứng người thêm nữa, các cùi chỏ thẳng lên nữa. - Pembry còng tay ông lại bên ngoài song sắt, mỗi cánh tay ở khe song sắt, và thanh sắt dẹp chặn ngay giữa hai tay. - Nó hơi đau chút, có phải , nhưng nó chỉ mất có phút thôi và tránh cho chúng tôi nhiều phiền phức, và cả cho ông nữa.


      Với cách này, bác sĩ Lecter thể đứng thẳng người hoặc quỳ gối, hai chân ông chỉ có thể duỗi thẳng ra phía trước và ông thể nào dùng chân để đá được.


      Chỉ khi nào ông bị bất động, Pembry mới bước lại bàn làm việc lấy chìa khóa xà lim, gài cây dùi cui vào trong thắt lưng, nhét bình xịt hơi bất tỉnh vào trong túi rồi bước tới cửa xà lim. mở cửa để cho Boyle bưng cái mâm thức ăn vào. Sau khi khóa cửa lại, đem chìa khóa về bàn làm việc lại, rồi mở còng cho người tù nhân. lúc nào đến gần các song sắt với cái chìa khóa xà lim trong khi ông bác sĩ tự do lại trong đó.


      - Cũng khá hiệu nghiệm đấy chứ, có phải ? - Pembry hỏi.


      - Rất tiện lợi, xin cám ơn các . Các biết , tôi chỉ muốn sao cho thoải mái thôi.


      - Chúng tôi cũng thế bạn.


      Bác sĩ Lecter ăn qua loa trong khi viết và vẽ nguệch ngoạc trong cuốn sổ tay với cây bút phớt. Ông đổi mặt cuốn băng máy. Gleen Gould biểu diễn dương cầm Các Biến tấu của Goldberg. nhạc, mà vẻ đẹp thoát khỏi thời gian và hoàn cảnh, tràn ngập cái chuồng sáng trưng và luôn cả căn phòng mà các người canh giữ diện.


      Đối với Bác sĩ Lecter, thời gian chậm lại và trải dài giống như lúc ông ta hành động. Các nốt nhạc cách xa nhau mà mất nhịp. Ngay những “mở đầu” hùng hồn của Bach cũng chỉ là những nốt êm dịu trong sáng, xóa chất thép quanh ông. Ông đứng lên, vẻ hoàn toàn bị cuốn hút, nhìn cái khăn giấy từ từ rớt xuống đất. Nó bay lâu trong khí, lướt qua chân bàn và lật ngược lại trước khi nằm hẳn nền kim loại. Ông buồn nhặt nó lên, nhưng lấy cuộn giấy vệ sinh và lẩn người sau bức bình phong, ngồi nắp bàn cầu, nơi duy nhất ai nhìn thấy ông được. Ông vẫn chăm chú nghe nhạc, đầu hơi cúi tới trước, cằm chống lên bàn tay, hai mắt nâu kỳ lạ hơi khép lại. Ông chỉ quan tâm đến các cấu trúc của Các Biến tấu mà thôi. Ông dùng đầu để đánh nhịp, lưỡi chạy quanh bờ môi, hết môi rồi đến môi dưới.


      Rồi ông lại làm điều đó với các lợi, đẩy lưỡi vào khoảng trống giữa răng và gò má, chậm rãi như đôi khi người ta vẫn làm như lúc họ nghiền ngẫm vậy. Các lợi tươi mát hơn lưỡi của ông, còn hốc lạnh hơn. Khi lưỡi ông đụng vào ống thép , nó dừng lại.


      Vượt nhạc, ông nghe được tiếng thang máy khởi động và lên từ từ. Sau nhiều nốt nhạc, cánh cửa mở ra và giọng ông chưa nghe bao giờ :


      - Tôi đến lấy mâm đây.


      Ông nghe tiếng người cảnh sát viên con bước lại gần, và liếc nhìn qua khe của bức bình phong. Pembry đứng dựa vào song sắt.


      - Bác sĩ Lecter, ông hãy lại ngồi xuống đây, hai tay thọc ra ngoài song sắt, như chúng ta làm lúc nãy.


      - Mấy chịu khó chờ cho tôi xong . Tôi e cuộc du hành làm hỏng hệ thống tiêu hóa của tôi rồi. - Hai câu này kéo dài cách kỳ lạ trong gian.


      - Đồng ý - và Pembry bỏ . - Chúng tôi gọi khi nào ông ta xong.


      - Tôi có thể nhìn qua ông ta cái được ?


      - Chúng tôi báo cho sau.


      Chiếc thang máy xuống và chỉ còn lại nhạc.


      Bác sĩ Lecter lấy cái ống ra khỏi miệng và lau khô bằng giấy vệ sinh. Tay ông hề run, lòng bàn tay hoàn toàn khô ráo.


      Trong suốt nhiều năm bị giam cầm và với tính tò mò biết chán, giúp cho ông học khá nhiều mánh khóe của mấy tên tù khác. Từ khi ông tấn công người nữ y tá, tại dưỡng trí viện ở Baltimore, các biện pháp an ninh chỉ bị nới lỏng có hai lần vào dịp nghỉ phép của Barney. hôm, bác sĩ tâm lý học có cho ông mượn cây bút bi và quên lấy lại. Trước khi ông ta rời khỏi khoa, ông bẻ nát và bỏ cái vỏ nhựa vào trong bàn cầu. Cái ống mực bằng kim loại, ông lận nó vào trong đường may viền của cái nệm.


      Vật duy nhất sắc bén khác trong xà lim là mép xơ của trong các con bù lon gắn chiếc giường vào trong tường. Như thế quá đủ rồi. Sau khi mài ống kim loại này trong hai tháng liền, bác sĩ Lecter tạo đó hai đường rãnh song song, dài khoảng năm ly. Sau đó ông cắt cái ống thành hai khúc với chiều dài khoảng hai phân rưỡi, sau đó thủ tiêu hết những thứ còn lại cùng đầu bút bi. Barney hề để ý đến các chỗ chai ở đầu các ngón tay do những đêm dài chà miệt mài cái ống đó.


      Sáu tháng sau, nhân viên gác để nguyên cây kim kẹp lớn trong tập hồ sơ mà vị luật sư gởi cho Bác sĩ Lecter. Hai phân rưỡi bằng thép lại chui vào trong cái ống, còn những thứ khác biến mất trong bàn cầu. quá dễ dàng để giấu kín cái ống trơn tru đó trong đường may của bộ y phục, giữa gò má và lợi, trong hậu môn.


      Ngay lúc này, ngồi sau bức bình phong bằng giấy, bác sĩ Lecter gõ cái ống lên móng tay để lấy cái kẹp ra. Đây là dụng cụ, nhưng điều khó khăn nhất vẫn còn còn ở phía trước. Bác sĩ Lecter cho phân nửa cái kẹp vào trong cái ống , và hết sức cẩn thận ông dùng cái ống làm đòn bẩy để uốn thẳng cái kẹp ngay nơi khe hở. Có lần cái mép khe bị cong, nhưng hết sức thận trọng, ông dùng đôi tay khỏe mạnh của mình để nắn cái đầu thép đó cho đến khi nó tạo được góc chín mươi độ với cái ống. Đây rồi, ông chìa khóa còng.


      Bác sĩ Lecter chắp hai tay sau lưng, chuyền cái khoá từ tay này qua tay kia khoảng mười lăm lần, rồi bỏ lại vào trong miệng, rửa hai tay cho sạch. Nhưng ông lại lấy nó ra, giấu kỹ giữa hai ngón của bàn tay phải, biết rằng Pembry chỉ đế ý đến bàn tay sáu ngón kỳ lạ của ông thôi.


      - Tôi xong rồi, nhân viên Pembry. - Ông ngồi xuống sàn, và qua khe của song sắt đưa hai bàn tay ra bên ngoài. Cám ơn các có nhã ý chờ tôi. - có vẻ như bài diễn văn dài nhưng mang đầy sắc của nhạc.


      Pembry ra đứng sau lưng ông. ta sờ vào cả hai cổ tay xem ông có thoa xà bông vào , xong Pembry tra còng vào. lại cái bàn, lấy cái chìa khóa mà người lính canh lấy từ trong ngăn tủ ra.


      Pembry trở lại kiểm tra còng lần nữa. Bác sĩ Lecter cảm nhận được hơi thở của ta phía sau lưng ông. Rồi này mở cửa xà lim và đẩy cửa vào. Đến lúc này Boyle bước vào. Bác sĩ Lecter quay đầu ngang qua; hình ảnh của cái xà lim chuyển động có phần chậm chạp trái lại các chi tiết vô cùng. Boyle đứng trước cái bàn, gom đĩa và những gì còn lại của bữa ăn, gây quá nhiều tiếng động. Máy thu băng với các cuộn băng quay, cái khăn giấy ở dưới sàn cạnh cái chân bàn được gắn bulon. Giữa các song sắt, Bác sĩ Lecter liếc nhìn thấy đầu gối của Pembry chặn cánh cửa mở, với cái dùi cui treo lủng lẳng ở dây nịt.


      Bác sĩ Lecter dùng bàn tay phải để tìm lỗ khóa còng, đút chìa khóa vào và xoay. Ông cảm nhận được cái lò xo giải phóng cổ tay ông. Ông đưa chìa khóa qua bên tay trái để mở nốt cổ tay kia.


      Boyle cúi xuống lượm cái khăn giấy. Nhanh như con rắn tấn công, cái còng khóa ngay cổ tay của Boyle, trố mắt nhìn Lecter, còn phần kia của cái còng được cài vào ngay chân bàn. Rút hai chân lại, ông phóng người tới cánh cửa trong lúc Pembry cố tránh nhưng vai ông hất cánh cửa trúng ngay người ta. Pembry định chụp bình xịt hơi bất tỉnh để trong túi quần nhưng cánh cửa đè nặng lên tay . Lecter chụp cây dùi cui và kéo sát Pembry về phía mình, dùng cùi chỏ đánh vào ngay cổ họng và dùng miệng cắn vào mặt ta. Pembry cố đánh Lecter nhưng kết quả vì bị cắn nát cả mũi và môi . Người tù lắc lia lịa và giật được cây dùi cui ra khỏi thắt lưng của Pembry. Trong xà lim, Boyle ngồi dưới sàn nhà, hét inh ỏi, trong khi bàn tay tìm cách vô vọng cái chìa khóa còng, tìm được rồi nhưng lại để rớt nó, rồi lượm nó lên. Lecter thọc mạnh đầu dùi cui vào ngay bụng của Pembry, rồi đến cổ họng làm ta té khuỵu xuống. Boyle tra được chìa khóa vào trong còng, miệng vẫn hét. Lecter bước lại gần ta và bằng làn hơi bình xịt làm cho ta nín thinh, ho sặc sụa. Ông đánh gãy tay ta bằng hai cú dùi cui. Boyle cố chui xuống gầm bàn, nhưng bị mù vì hơi của bình xịt, nên bò sai hướng, dễ dàng cho Lecter kết liễu với vài cú đánh bồi khác.


      Pembry ngồi xuống được, và cũng hét. Bác sĩ Lecter nhìn với ánh mắt đỏ ngầu. Tôi sẵn sàng rồi nếu cũng thế Pembry.


      Cái dùi cui tạo hình vòng cung trong tiếng rít và giáng mạnh ngay ót của Pembry, làm cho thân hình giựt liền mấy cái trước khi té nhào xuống như con cá bị đập đầu.


      Mạch của bác sĩ Lecter, nhảy vọt lên hơn trăm trong vận động này, mau chóng hạ xuống mức bình thường lại. Ông tắt nhạc để nghe ngóng.


      Ông bước lại gần cầu thang và lắng tai nghe nữa. Ông lấy hết đồ trong túi của Pembry ra, tìm thấy chìa khóa của bàn làm việc và mở hết các ngăn tủ ra. Trong ngăn cuối cùng có súng của hai người này, hai khẩu P 38. Hay hơn nữa, trong túi của Boyle, ông tìm thấy con dao nhíp.



      37



      Trong hành lang cảnh sát phải chen chân nhau. mười tám giờ ba mươi và người ta vừa đổi toán gác bên ngoài, được thay ca mỗi hai giờ đồng hồ. Những cảnh sát viên đến sưởi ấm các lò sưởi điện. Vài người cá độ kết quả trận bóng rổ tại Memphis nên muốn biết tình hình giờ ra sao.


      Trung sĩ Tate muốn nghe tiếng radio trong hành lang, nhưng cảnh sát viên có máy cầm tay. Thỉnh thoảng ta cho biết điểm số, nhưng đủ theo ý muốn của những người cá độ.


      Có tất cả bốn mươi nhân viên cảnh sát có vũ trang, cộng thêm hai nhân viên của nhà tù đến thay phiên cho Boyle và Pembry lúc mười chín giờ. Cả Trung sĩ Tate cũng chờ thay ca.


      Quang cảnh yên lặng. Những tiếng hét cầu cứu chống lại Lecter có kết quả nào.


      Đến mười chín giờ bốn mươi lăm, Tate nghe chiếc thang máy lên. Ông thấy cái mũi tên phản quang quay mặt số và ngừng tại số bốn.


      Ông nhìn quanh.


      - Sweeney lên đó lấy mâm chưa?


      - Chưa trung sĩ, tôi vẫn ở đây. Ông vui lòng gọi điện hỏi xem họ xong chưa? Đến giờ tôi phải về rồi.


      Viên trung sĩ quay ba số và nghe.


      - Máy bận rồi, hãy lên đó xem sao. - Và ông bắt đầu viết báo cáo cho toán sau.


      Sweeney nhấn nút gọi thang máy nhưng nó khởi động.


      - Có món sườn cừu cho bữa ăn tối là điều bình thường rồi. Thế các người đoán xem ông ta đòi ăn món gì cho buổi điểm tâm sáng mai đây, trứng đà điểu chắc? Và ai phục vụ đây, xem? Sweeney chứ còn ai vào đây!


      Mũi tên mặt số đứng im tại số bốn.


      Sweeney chờ thêm phút nữa.


      - Mẹ kiếp, chuyện gì nữa đây? - cằn nhằn.


      kia đột nhiên có phát súng nổ đâu đó, gây tiếng dội trong cầu thang, rồi hai tiếng nổ khác tiếp theo và thêm tiếng thứ tư.


      Trung sĩ Tate, đứng lên khi có phát súng thứ ba, la lên trong micro:


      - Trạm chỉ huy đây, có tiếng súng trong tháp. Các nhân viên trực hãy cảnh giác, chúng tôi lên đó đây.


      Tate nhìn thấy mũi tên thang máy nhúc nhích, nó chỉ qua số ba. Tate phải hét để áp chế tiếng ồn ào tại nơi đây.


      - Im lặng ngay, toán thay gác ra bên ngoài. Toán trực ở lại với tôi. Barry, Howard, canh chừng cái thang máy chết tiệt này, nếu nó xuống... - Mũi tên ngừng lại tại số hai.


      - Toán đầu lên đường. Mỗi khi qua cánh cửa, nhớ phải kiểm tra bên trong. Bobby, lấy khẩu súng trường và các áo chống đạn và đem lên đó cho chúng tôi.


      Tate phóng nhanh lên các bậc thang, tâm trí sôi sục. cẩn trọng của ông ta đấu tranh với ý muốn cứu giúp những cảnh sát viên bị kẹt đó. Mẹ kiếp, cầu mong sao cho trốn thoát. có người nào có áo chống đạn cả. Mấy tên nhà tù chết tiệt kia!


      Theo nguyên tắc, tầng , hai và ba trống và các cửa đều được khóa. Khi ngang qua những tầng đó, người ta có thể từ tháp đến tòa nhà chính, nhưng ở tầng cùng được.


      Tate có theo học khóa tại trường SWAT nổi tiếng, trường đào tạo Biệt đội phản ứng nhanh chống khủng bố, tại bang Tennessee nên biết phải hành động ra sao. Ông lên đến tầng và chỉ đạo sát sao đám nhân viên trẻ. mau chóng nhưng cũng hết sức cẩn thận, họ lên tầng , người này che chắn cho người kia và từ tầng dưới lên tầng .


      - Nếu các người quay lưng vào cánh cửa mà kiểm tra, tôi đá đít các người đấy.


      có đèn ở lầu và cửa đều được khóa kỹ.


      Bây giờ đến tầng hai mà cái hành lang ánh sáng lù mù. khung sáng nơi cửa thang máy. Tate dọc theo vách tường đối diện. Ngón tay cò súng, ông ngó vào bên trong. Buồng thang máy trống .


      Tate hét vào trong đó:


      - Boyle, Pembry! Mẹ kiếp. - Ông cho người đứng canh ở lầu này và tiếp tục lên .


      Tiếng đàn dương cầm, từ tầng , tràn xuống đến tầng này. Cánh cửa phòng làm việc bật tung khi ông đẩy nó ra. Ở cuối hành lang, tia sáng của đèn pin ông chiếu vào cánh cửa lớn được mở toang trước căn phòng tối đen sau đó.


      - Boyle! Pembry!


      Ông để hai nhân viên tại bậc nghỉ chân.


      - Hãy canh chừng cửa này, các áo giáp đến trong giây lát. Đừng xoay mông lại cánh cửa.


      Tate bước lên các bậc thang theo tiếng nhạc. Bậc nghỉ chân của tầng cuối cùng và hành lang cũng sáng lắm. Ánh đèn hất ra phía sau cửa kính mờ mang hàng chữ ỦY BAN LỊCH SỬ CỦA QUẬN SHELBY.


      Tate khum người xuống và qua phần dưới cửa kính, để đứng thẳng lên khi bước đến các bản lề cửa. Ông dùng đầu ra hiệu cho Jacobs còn đứng bên kia, dùng tay nắm lấy nắm cửa và đẩy nó vào trong mạnh đến mức phần kính bể nát. Ông lách người nhanh vào bên trong, áp người vào tường, súng chỉa thẳng ra phía trước.


      Tate thấy quá nhiều thứ... vô số tai nạn, trận ẩu đả, án mạng. Ông từng thấy sáu cảnh sát viên bị bắn chết trong phi vụ. Nhưng những gì nằm dưới chân ông là điều tệ hại nhất có thể xảy đến cho cảnh sát viên. Những gì còn lại ở cổ áo giống thịt hơn là đầu người. Phần và trước chỉ là vũng hồng cầu còn sót lại vài miếng thịt vụng, con mắt nằm dưới lỗ mũi trong khi hai hốc mắt đầy máu.


      Jacobs lướt mình vào trong phòng, trượt té sàn nhà đầy máu. khum người xem Boyle vẫn bị còng tại bàn. Người canh gác này gần như bị mổ bụng, mặt bị rạch nát bấy, tưởng chừng như bị nổ tung vì song sắt và giường đều dính đầy máu bị bắn tung tóe.


      Jacobs bắt mạch cổ ta.


      - Người này chết rồi, - hét lên để át tiếng nhạc. - Trung sĩ?


      Tate, hổ thẹn vì lúc yếu mềm, trấn tĩnh lại và trong máy bộ đàm.


      - Trạm chỉ huy, hai người bị hạ. Tôi nhắc lại, hai người bị hạ sát. Tên tù trốn thoát. Lecter trốn thoát. Hãy canh chừng các cửa sổ. lột sạch khăn trải giường để tạo sợi dây. Hãy nhanh chóng gọi xe cứu thương.


      - Trung sĩ, Pembry chết chưa? - Hỏi xong, Jacobs bước lại tắt nhạc.


      Tate quỳ xuống, định sờ vào mạch cổ của nạn nhân và cái vật khủng khiếp nằm dưới đất, thổi bọt máu.


      - Pembry vẫn còn sống!


      Tate muốn áp miệng mình xuống cái đống thịt bầy nhầy đó, cho dù biết mình phải giúp cho Pembry thở mà cũng thể bảo nhân viên nào khác làm việc đó. Tốt hơn hết nên để cho Pembry chết, tuy nhiên nhiệm vụ của là phải giúp cho ta thở. Nhưng tim người này vẫn đập vì thế ta vẫn còn thở được. Cái miệng rách nát đó kêu ùng ục, nhưng nó vẫn thở. Cơn ác mộng sống này vẫn thở mình.


      Bộ đàm của Tate vang lên. viên trung úy cảnh sát vừa đến nơi, nắm lấy chỉ huy, muốn có thêm thông tin. Tate phải báo cáo.


      - Murray, lại đây, hãy ở lại cạnh Pembry và nắm lấy bàn tay ta, để ta có cảm giác của bàn tay và hãy chuyện với ta.


      - Người này tên gì vậy Trung sĩ?


      - Pembry, mà trời ơi, hãy chuyện với ta chứ!


      Tate báo cáo bằng bộ đàm.


      - Hai người bị hạ sát. Boyle chết còn Pembry bị thương rất nặng. Lecter biến mất và có mang theo súng, đoạt súng của họ. Dây nịt và bao súng vẫn còn để bàn.


      Xuyên qua các bức tường dày, giọng của ông trung úy có vẻ như bị rè.


      - Nhân viên cứu thương dùng thang máy được ?


      - Thưa được, trung úy. Họ nên gọi điện trước khi lên đây. Tôi cắt người ở mỗi tầng rồi.


      - Hiểu rồi trung sĩ. Chốt tám dường như thấy cái gì đó động đậy phía sau cửa sổ ở lầu ba của tòa nhà chính. Tất cả mọi lối thoát đều có người canh giữ, thể nào trốn ra được đâu. Tiếp tục trấn giữ các bậc nghỉ. Các em bên đội SWAT lên đường. Chúng ta để cho họ túm cổ ta. Xác nhận .


      - Nghe . Để cho SWAT hành động.


      - có được gì thế?


      - Hai khẩu súng lục và con dao, trung úy. Jacobs, kiểm tra xem đạn được còn trong dây nịt ?


      - Túi đạn của Pembry còn đầy và của Boyle cũng thế. Tên ngu xuẩn đó có lấy đạn bổ sung.


      - Loại súng nào?


      - P 38 và khẩu JHP.


      Tate lại trong bộ đàm.


      - Thưa Trung úy, hình như có hai khẩu P 38. Chúng tôi có nghe ba phát và các túi đạn dự phòng vẫn còn nguyên, như vậy còn tới chín lần bắn nữa. Ông hãy với bên SWAT là có súng PS và JHP, và tên này thích bắn vào mặt.


      Loại súng PS bắn loại đạn độc đáo lắm, nhưng chúng thể xuyên qua áo giáp của Đội SWAT được. phát vào đầu là chết ngay, nhưng khi bị trúng đạn tàn phế suốt đời.


      - Nhân viên cứu thương đến rồi, Tate.


      Các xe cứu thương chỉ mất có vài phút để đến nơi, nhưng đối với Tate, ông ta có cảm tưởng là rất lâu, khi ông lặng im nhìn cái vật nằm dưới sàn. chàng Murray trẻ tuổi cố giữ chặt cái thân hình giẫy giụa và rên rỉ, cố dám nhìn người bị thương:


      - Mọi việc đều ổn thỏa rồi Pembry, sao đâu. bị thương nặng lắm đâu.


      Khi vừa thấy mấy nhân viên cứu thương tại bậc nghỉ, Tate đẩy vai của Murray sang bên để nhường đường cho họ. Các y tá làm việc mau lẹ; họ nhét các cổ tay đầy máu vào trong dây nịt, làm thông đường hô hấp và trùm cái mặt và đầu be bét máu bằng loại băng nén được. người lấy túi huyết tương và dụng cụ cần thiết cho cuộc truyền máu, nhưng người kia bắt mạch ta, lắc đầu :


      - Thôi, chúng ta đưa ta xuống .


      Lệnh được ban khắp nơi.


      - Tate, hãy giải phóng các phòng làm việc và khóa chặt tất cả. Hãy khóa kỹ tất cả các cửa mở ra tòa nhà chính, và canh chừng các bậc nghỉ. Tôi cho đem lên đó áo giáp và súng trường. Nếu muốn đầu hàng, chúng ta được bắn chết, nhưng các được mạo hiểm mà rộng lượng với . Hiểu ?


      - Thưa trung úy, hiểu rồi.


      - Tôi chỉ muốn thấy người của SWAT trong tòa nhà chính thôi. Hãy lặp lại .


      Tate nhắc lại các lệnh. Ông là trung sĩ giỏi và chứng minh điều này khi cùng Jacobs mặc áo giáp vào để theo hai người y tá xuống dưới. Hai người nữa theo sau với cái xác của Boyle. Những người canh gác ở các bậc nghỉ tỏ vẻ rất phẫn nộ khi thấy mấy cái cáng ngang qua và Tate với họ vài lời trấn an.


      - Các được để phẫn nộ biến các thành bia đỡ đạn của .


      Trong khi chiếc xe cứu thương hú còi, Tate với hỗ trợ của Jacobs, kiểm tra các văn phòng và khóa chặt cái tháp.


      Đến tầng ba, luồng gió lạnh thổi trong hành lang. Trong căn phòng rộng lớn của tòa nhà chính, chuông điện thoại reo vang, trong lúc các phòng làm việc đều tối đen, các bóng đèn nhấp nháy như đom đóm.


      Ở bên ngoài, người ta biết bác sĩ Lecter “ cố thủ” trong dinh thự tòa án cũ, vì thế các phóng viên đài phát thanh và truyền hình gọi điện thoại bằng các thiết bị cầm tay của họ, cố xin cho được mấy cuộc phỏng vấn trực tiếp với tên quái vật. Để tránh việc này, Biệt đội SWAT khóa hết điện thoại của họ, trừ cái dành cho người thương lượng, nhưng tòa nhà này quá rộng lớn, có quá nhiều văn phòng.


      Tate khóa cánh cửa nhìn ra căn phòng mà đèn báo điện thoại nhấp nháy liên tục. Mình đẫm mồ hôi, làm ông ngứa dưới cái áo giáp thẳng cứng.


      - Trạm Chỉ huy, Tate đây. Tháp được khóa chặt rồi. Hết!


      - Nghe , Tate. Đại úy muốn gặp tại Trạm Chỉ huy.


      - Nghe . Hành lang, có nghe tôi ?


      - Nghe , trung sĩ.


      - Tôi xuống bằng thang máy đây.


      - Nghe trung sĩ.


      Jacobs và Tate ở trong thang máy xuống hành lang, giọt máu rớt xuống vai của viên trung sĩ. giọt khác vấy bẩn đôi giày ông ta.


      Ông ngước mặt lên và đưa ngón tay lên môi ra hiệu cho Jacobs giữ im lặng.


      Máu rỉ từ khe hở bao quanh lối thoát hiểm của thang máy. Lần xuống này có vẻ như bất tận. Tate và Jacobs bước lùi, súng chỉa lên trần thang máy và Tate đóng cửa lại.


      - Suỵt! - Tate - Barry, Howard, nóc thang máy. Hãy chỉa súng của các lên đó.


      Tate bước ra ngoài. Chiếc xe thùng đen thui của Đội SWAT đậu ngay bãi. Họ luôn có đủ loại chìa khóa thang máy.


      Hai nhân viên SWAT có đội mũ, mặc quần áo chống đạn, bằng cầu thang lên tầng hai, những người khác ở lại hành lang với Tate, súng tấn công chỉa lên trần thang máy.


      Giống mấy con kiến khổng lồ đánh nhau, Tate thầm nghĩ.


      Vị chỉ huy toán trong micro được gắn trong mũ.


      - Tiến lên Johnny.


      tầng hai, Johnny Peterson mở ổ khóa và kéo cánh cửa thang máy ra. Hầm thang máy tối đen. Nằm xuống đất, rút quả lựu đạn tê liệt ở thắt lưng và để cạnh mình.


      - Cánh cửa được mở rồi, tôi nhìn xem cái.


      lấy tấm kính được gắn đầu cán được kéo dài ra và đưa xuống hầm thang máy trong khi người bạn đồng nghiệp chiếu theo ngọn đèn pin cực mạnh.


      - Tôi thấy rồi. nằm nóc thang máy, kế bên có khẩu súng. cục cựa.


      - thấy hai tay ?


      - Tôi chỉ thấy có thôi, cái kia để dưới mình . quấn mình trong khăn trải giường.


      - Hãy các lời khuyến cáo .


      - ĐỂ HAI TAY LÊN ĐẦU, ĐƯỢC NHÚC NHÍCH - Peterson hét to vào trong hầm thang máy. - Thưa Trung úy, cử động... được.


      - NẾU ĐỂ TAY LÊN ĐẦU, TÔI NÉM TRÁI LỰU ĐẠN TÊ LIỆT. TÔI ĐẾM ĐẾN BA - Peterson hét lên. rút trong túi thiết bị chặn cửa, vật trong bộ đồ nghề của SWAT. - EM Ở BÊN DƯỚI HÃY COI CHỪNG, TÔI NÉM TRÁI LỰU ĐẠN ĐÂY. - liền thả cái thiết bị đó xuống, thấy nó tưng cái thân hình bất động.


      - Thưa trung úy, vẫn nhúc nhích.


      - Tốt rồi Johnny, chúng tôi mở cửa thoát hiểm từ bên ngoài. hãy chỉa súng vào nghe !


      Peterson lăn qua bên, chỉa khẩu súng 10 ly của vào người đàn ông nằm dưới đó.


      - Thưa trung úy, chỉa súng rồi.


      Nhìn xuống thang máy, Peterson thấy khe sáng được nới rộng ra khi những người trong hành lang mở cửa thoát hiểm bằng cây sào. thấy trong hai cánh tay cử động khi các người bạn đồng đội bên dưới kéo cửa thoát hiểm xuống.


      Ngón trỏ của Peterson ghì chặt cò thêm.


      - Cánh tay của cử động, trung úy, nhưng tôi nghĩ là do bên dưới kéo.


      - Hiểu rồi. Nào kéo .


      Bị chói vì ánh sáng hất ngược lên, Peterson nhìn thấy .


      - Hình như tay của có cầm súng, trung úy!


      Giọng bình tĩnh tiếp tục vang trong nón của Peterson.


      - Tốt lắm, Johnny, cứ tiếp tục . Chúng tôi bước vào trong thang máy. Nhớ canh chừng nó với cái kính nghe . Nhưng chính chúng tôi nổ súng, có hiểu ?


      - Nhận .


      Đứng tại hành lang, Tate nhìn những người kia bước vào thang máy. tay thiện xạ chỉa khẩu súng có đạn công phá vào ngay nóc thang máy. người khác trèo lên cái thang di động, tay cầm khẩu súng lớn được gắn kèm đèn pin. ta ló đầu qua khỏi cửa thoát hiểm, rồi đến vai. đưa xuống dưới khẩu P 38.


      - chết rồi - báo cáo.


      Tate tự hỏi biết cái chết của Bác sĩ Lecter có kéo theo cái chết của Catherine Martin , bởi vì tất cả các thông tin đều biến mất khi bộ não của tên quái vật còn hoạt động được nữa.


      Các nhân viên SWAT đưa cái xác xuống, đầu xuống trước, và rất nhiều bàn tay đưa ra để đón nhận nó. Hành lang đông nghẹt người, ai cũng muốn chen lại nhìn mặt . nhân viên nhà tù lách người bước vào, và sau khi nhìn hai cánh tay có xăm hình, tuyên bố:


      - Chính là Pembry.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      38


      Trong chiếc xe cứu thương hụ còi, chàng y tá trẻ phải trân người để chống lại tròng trành, mở máy liên lạc để báo cáo về khoa cấp cứu và phải hét to để áp tiếng còi hụ.

      - ta hôn mê, nhưng các biểu trọng yếu đều tốt. Huyết áp bình thường. Mười ba tám. Đúng vậy, mười ba tám. Mang nhiều vết thương nặng ở mặt, với những mảnh thịt vểnh lên, con mắt bị lòi ra. Tôi có đặt miếng băng nén các vết thương và ống thở. Có thể là phát súng vào đầu, nhưng thể xác định được.

      Sau lưng ta, các bàn tay đầy máu nắm lại, từ từ duỗi ra trong sợi thắt lưng. Tay mặt được rút ra, tìm thấy cái khóa của đai da chẹn ngang ngực.

      - Tôi sợ ép quá mạnh các vết thương, ta bị co giật nhiều lần trước khi người ta cho ta lên cáng. Đúng vậy, ta nằm theo tư thế của Fowler.

      Đằng sau chàng trẻ này, bàn tay chụp lấy miếng băng gạc và chùi hai con mắt.

      Người y tá nghe tiếng rít của ống thở sau lưng mình, xoay mặt lại và nhìn thấy khuôn mặt máu me sát với mặt mình nhưng thấy được khẩu súng giáng xuống đầu ta mạnh, ở phía sau lỗ tai.

      Chiếc xe cứu thương chạy chậm lại và ngừng con đường xa lộ sáu lằn xe; ở phía sau, những người tài xế bóp còi inh ỏi nhưng chưa dám qua mặt. Hai tiếng nổ , lớn hơn tiếng pô xe nổ trong dòng lưu thông, và chiếc xe chạy trở lại, lúc đầu loạng choạng đôi chút rồi chạy thẳng lại và tiến qua lằn xe bên phải.

      bảng báo đường ra phi trường. Chiếc xe cứu thương chạy nhởn nhơ, các đèn cấp cứu cứ chớp tắt, các cần gạt nước hoạt động rồi ngừng, và tiếng còi hụ giảm để hú lớn trở lại rồi tắt luôn, đèn quay nóc cũng tắt. Chiếc xe cứu thương bình thản tiến tới trước, chọn đường ra phi trường quốc tế của Memphis mà tòa nhà tuyệt đẹp sáng chói trong các ánh đèn của buổi tối mùa đông. Nó rẽ qua con đường dẫn xuống bãi đậu xe dưới hầm và ngừng lại trước hàng rào tự động, bàn tay đầy máu đưa ra nhận lấy tấm vé, và chiếc xe biến mất trong đường hầm.


      39


      Trong hoàn cảnh khác, có thể Clarice Starling rất hân hoan đến viếng ngôi nhà của Crawford, tại Arlington, nhưng bản tin về cuộc đào thoát của Bác sĩ Lecter mà vừa nghe đài, làm cho còn hứng thú nữa.

      Đôi môi tê buốt, da đầu ngứa chịu được, lái xe cách máy móc. tự nhủ biết cái phòng có đèn kia, với rèm được kéo kín, có phải là của Bella . Đối với tiếng chuông có vẻ quá to.

      Chính Crawford mở cửa cho . Ông mặc áo len đan dài tay quá rộng và chuyện máy điện thoại dây.

      - Là Copley gọi từ Memphis - Ông và ra hiệu cho theo trong khi ông vẫn càu nhàu trong điện thoại.

      Tại nhà bếp, người nữ y tá lấy lọ ra khỏi tủ lạnh và đưa lên ánh sáng xem. Crawford nhướng mày lên nhìn ta, nhưng lắc đầu, cần giúp đỡ của ông.

      Ông bước xuống bậc tam cấp và đưa Clarice vào trong phòng làm việc của mình, có lẽ là nhà xe hai chỗ được biến đổi. Chỗ này rất rộng, có văng, hai ghế bành và cái bàn ngổn ngang, nằm cạnh máy đẳng cao, có ánh đèn xanh của trạm cuối điện toán. Crawford mời ngồi vào ghế bành.

      Ông bịt ống nghe lại.

      - Clarice à, có vẻ như là việc ngu xuẩn, nhưng Lecter có đưa gì cho tại Memphis sao?

      - .

      - vật gì hết à?

      - gì cả.

      - có đưa cho ông ta mấy bức hình vẽ và những thứ linh tinh khác trong phòng giam của ông ta ?

      - Tôi có đem theo nhưng chưa kịp đưa cho ông ta. Chúng vẫn ở trong túi xách tôi đây. Ông ta trả hồ sơ lại cho tôi. Chỉ xảy ra có bấy nhiêu đó giữa hai chúng tôi.

      Crawford tiếp vào ống nghe.

      - Copley, hoàn toàn là chuyện đâu. Tôi muốn chấn chỉnh tên đó ngay. hãy chuyện với ông sếp đó, với FBI. Đừng quên chuyển phần còn lại đường dây trực tiếp. Burroughs phụ trách việc này. Đúng vậy. Ông tắt máy và nhét nó vào trong túi.

      - Cà phê nhé Clarice? Hay Coca?

      - Chuyện gì với việc đưa đồ cho bác sĩ Lecter vậy?

      - Chilton đưa cho Lecter vật gì đó giúp ông ta mở được khóa còng. Ông ta cố ý nhưng đơn giản có thể vì thiếu hiểu biết thôi. - Có khi đôi mắt của Crawford biểu giận dữ tột độ. Ông quan sát xem phản ứng như thế nào về việc này. - Thế có bao giờ Chilton cố sờ mông chưa?

      - Có thể lắm. sữa nhưng có đường, nếu có thể được. - Clarice đánh trống lảng.

      Trong lúc ông ở trong nhà bếp, hít thở hai hơi dài và nhìn quanh. Khi người ta chỉ biết sống trong phòng nội trú hay trong lán trại, là điều thích thú khi được trở về ngôi nhà thực thụ. Cho dù mọi thứ quanh có sụp đổ nữa, rất vui sướng được nghĩ đến cuộc sống của gia đình Crawford.

      Ông trở lại với hai tách, cẩn trọng bước xuống bậc tam cấp vì các mặt kính hai tròng. Với giày mọi, ông có vẻ con hơn. Khi Clarice đứng lên để đón nhận cái tách, hai đôi mắt của họ gần như ở ngang tầm.

      - Copley báo là họ chưa tìm lại được chiếc xe cứu thương. Gần như toàn miền Nam đầy rẫy cảnh sát.

      - Tôi biết các chi tiết cho đến bản tin đài phát thanh... Lecter giết chết hai cảnh sát viên trong lúc trốn thoát.

      - Hai nhân viên của nhà tù. - Crawford chờ bản tin ra máy vi tính và làm cử chỉ thô bạo. - Họ tên Boyle và Pembry. làm việc với họ chưa?

      gật đầu.

      - Chính họ ... tống khứ tôi ra khỏi tòa án. Pembry, bối rối, cương quyết nhưng lịch thiệp bước theo au Chilton. “Hãy theo tôi, ta ”. ta bị chứng tước ban, các vết nâu bàn tay và trán. Bây giờ ta chết, trắng bệch dưới các đốm đỏ.

      Clarice phải để ngay cái tách xuống bàn. hít hơi sâu, nhìn lên trần nhà.

      - Ông ta làm như thế nào vậy?

      - Copley báo cáo ông ta trốn thoát với chiếc xe cứu thương. Nhưng chúng ta lại chuyện này sau. Kết quả của miếng giấy chậm acid đó như thế nào?

      Clarice bỏ hết cuối buổi chiều và đầu giờ tối lang thang với tờ giấy Pluto trong Cơ quan phân tích khoa học, như Krendler chỉ đạo .

      - có gì cả. Người ta cũng tìm trong hồ sơ của Cơ Quan Phòng Chống Ma Túy, DEA, nhưng nó lâu gần mười năm rồi. Có thể Cơ quan Thông tin thành công với việc in ấn hơn là DEA với chất ma túy.

      - Nhưng đó là tờ giấy chậm acid kia mà!

      - Đúng vậy. Nhưng ông ta làm bằng cách nào, thưa ông Crawford?

      - muốn biết à?

      gật đầu.

      - Vậy tôi cho biết. Họ đem Lecter vào trong xe cứu thương mà cứ nghĩ đó là Pembry bị thương nặng.

      - Ông ta mặc đồng phục của Pembry à? Vóc dáng của hai người cũng gần bằng nhau.

      - Ông ta mặc đồng phục của Pembry và phần của khuôn mặt ta, thêm vào đó ông ta có lấy theo mớ thịt của Boyle nữa. Ông ta cuốn cái xác của Pembry trong miếng vải bọc đệm bằng cao su và khăn trải giường trong xà lim, để máu chảy ra ngoài và bỏ cái xác lên nóc thang máy. Ông ta mặc đồng phục, “hóa trang” rồi nằm dưới sàn, bắn mấy phát súng báo động. Tôi biết ông ta làm gì với khẩu súng, có lẽ giấu nó ở trong đáy quần. Xe cứu thương và cảnh sát có mặt khắp nơi, súng cầm sẵn tay. Các y tá tiến hành việc cần thiết nhất và đưa ống thở, đặt băng nén tại vết thương nghiêm trọng nhất. Chiếc xe cứu thương bao giờ đến được bệnh viện. Cảnh sát vẫn truy tìm nó. Tôi lo ngại cho mạng sống của mấy người y tá. Copley cho biết người ta xem lại các băng hình trong lúc tiếp nhận ông ta. Xe cứu thương được gọi đến ít nhất là hai lần. Người ta cho rằng Lecter gọi điện trước khi bắn mấy phát súng, để phải chờ đợi quá lâu. Bác sĩ Lecter rất thích đùa mà.

      Clarice chưa bao giờ cảm nhận quá nhiều đắng cay như thế trong giọng của Crawford. Và khi nghĩ được đó môt lúc yếu lòng, đâm ra hoảng sợ.

      - Cuộc đào thoát này chứng minh được việc Bác sĩ Lecter dối với tôi - - Dĩ nhiên ông ta có dối với ai đó, hoặc với bà Thượng nghị sĩ Martin hoặc với chúng ta, mà cũng có thể là với cả hai. Ông ta xác định chính là Bill Rubin và ông ta biết gì hơn. Ông ta với tôi có thể tự cho mình là người chuyển đổi giới tính. Điều cuối cùng ông ta là - ... tại sao phá nốt nửa cái vòm còn lại ?

      - Tôi biết rồi, tôi đọc báo cáo của . Chúng ta trong đường cùng, trừ phi các bệnh viện chịu cung cấp tên cho chúng ta. Alan Bloom đích thân đến gặp các trưởng cơ quan. Họ bảo họ kiếm đấy, và tôi buộc phải tin vậy thôi.

      - Thưa ông Crawford, ông gặp rắc rối đúng ?

      - Người ta đề nghị tôi xin nghỉ phép vì lý do gia cảnh. Người ta cũng thành lập toán khác gồm các thành viên của FBI, DEA và của văn phòng công tố, có nghĩa là Krendler.

      - Ai chỉ huy?

      - Chính thức là John Golby, phụ tá giám đốc của FBI. Cứ cho là chúng tôi làm việc chung với nhau. John được lắm, còn gặp rắc rối đấy.

      - Krendler có bảo tôi phải trả huy hiệu và súng lại, sau đó trở lại trường học.

      - Chuyện đó là trước khi đến gặp Lecter. Mới hồi trưa này, ông ta thả quả bom đến FBI. “ cách khách quan” ông ta cầu trường hãy đình chỉ công tác trong khi chờ đợi cuộc tái thẩm định khả năng phục vụ của . Đúng là hành động của tên đê tiện. Vị huấn luyện viên tác xạ, John Brigham, biết được tin này trong cuộc họp giáo sư. Ông ta cho biết ý kiến của mình và sau đó báo ngay cho tôi.

      - Có nghiêm trọng lắm ?

      - có quyền tự bảo vệ mình. Tôi bảo vệ năng lực của . Nhưng nếu vắng mặt nhiều hơn nữa, chắc chắn bị đào tạo lại. Và biết kết quả như thế phải ?

      - Biết, người đó bị gởi đến văn phòng địa phương tuyển mộ người đó. Người đó phụ trách hồ sơ, ngồi đó uống cà phê cho đến khi có chỗ trống trong khóa khác.

      - Tôi có thể hứa cho chỗ khác, nhưng tôi thể ngăn cản việc họ bắt đào tạo lại, nếu về trường kịp lúc.

      - Nếu thế, tôi phải về trường lại và ngưng công việc làm hoặc...

      - Đúng vậy.

      - Nhưng ông muốn tôi phải làm sao đây?

      - Công việc của là Lecter, làm xong. Tôi đòi hỏi phải đối mặt với cuộc đào tạo lại, việc này làm cho mất sáu tháng hoặc hơn thế nữa.

      - Nhưng trong tất cả chuyện này, Catherine Martin sao?

      - bắt cóc ta gần bốn mươi tám tiếng rồi, chính xác đến nửa đêm nay. Nếu chúng ta bắt kịp thời, giết ta trong ngày mai hoặc mốt... nếu nó xảy ra giống như lần trước.

      - Chúng ta chỉ có Lecter.

      - Người ta tìm được sáu tên William Rubin, tất cả đều có nhiều tiền án khác nhau. Dường như người nào tương ứng cả. có tên William Rubin trong danh sách đặt mua tạp chí về côn trùng. Trong nghiệp đoàn thợ làm dao có xảy ra năm trường hợp cụm nhọt ngà voi trong mười năm sau này. Chỉ còn kiểm tra hai trường hợp nữa thôi. Gì khác nữa? Klaus được nhận dạng, đúng hơn là chưa được. Interpol thông báo có tầm nã quốc tế còn đọng lại tại Marseille, liên quan đến thủy thủ Na Uy, mất tích khỏi chiếc tàu buôn, tên “Klaus Bjetland”. Na Uy lục lại hồ sơ ta để gửi đến đây. Nếu chúng ta có được gì từ các bệnh viện và nếu như có thời giờ có thể giúp chúng tôi đây. Này, Starling?

      - Thưa gì cơ, ông Crawford.

      - trở về trường .

      - Nếu ông muốn tôi truy lùng đáng lẽ ông được đưa tôi đến nhà tang lễ, ông Crawford à.

      - Phải, tôi nghĩ đúng ra tôi nên làm thế. Nhưng như thế chúng ta tìm được con côn trùng. nên giữ lại khẩu súng. Ở Quantico, gặp rắc rối nào đâu, tuy nhiên nên mang theo vũ khí mỗi khi ra ngoài, cho đến khi Lecter bị bắt hoặc chết.

      - Còn ông? Ông ta thù ghét ông, ý tôi muốn là ông ta có đủ thời giờ để nghiền ngẫm trả thù ông.

      - Như bao người khác trong nhiều nhà tù thôi, Starling. Có thể ông ta hành động, nhưng giờ, ông ta có nhiều việc khác để lo nghĩ. Được tự do là thoải mái quá rồi và chắc hẳn ông ta muốn phí tự do này.

      Điện thoại trong túi quần của Crawford reo lên. cái khác bàn cũng nhấp nháy. Ông ta nghe lúc rồi “Được rồi” và gác máy.

      - Người ta báo cáo tìm thấy chiếc xe cứu thương trong bãi đậu xe ngầm tại phi trường Memphis. Buồn , cả hai nhân viên y tá đều chết ở phía sau xe.

      - Starling, người nào đó ở Viện Smithsonian có gọi điện cho Burroughs, để gửi tin nhắn cho . tên Pilcher nào đó. Họ sắp nhận dạng được con vật. Tôi muốn viết mẫu báo cáo 302 về việc này có ký tên để cho vào hồ sơ chính thức. Chính điều tra và tìm được con côn trùng đó và tôi muốn điều này phải được ghi trong hồ sơ. làm việc đó chứ?

      Clarice chưa bao giờ kiệt sức đến mức này.

      - Đương nhiên rồi.

      - hãy bỏ xe vào gara . Jeff đưa nó về Quantico sau khi hoàn tất công việc.

      Trêm bậc tam cấp, quay đầu lại nhìn khung cửa sổ có đèn với rèm được kéo kín, nơi mà phía sau đó, nữ y tá canh chừng, rồi xoay lại nhìn Crawford.

      - Tôi luôn nghĩ đến hai người, thưa ông Crawford.

      - Cám ơn, Starling.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      40



      - Thưa , Tiến sĩ Pilcher chờ tại khu côn trùng. Tôi đưa đến đó - người bảo vệ .


      Muốn đến được khu côn trùng bằng cửa hông của viện, nằm Đại lộ Constitution, người ta phải dùng thang máy ở tầng hai, ngay con voi to lớn được nhồi bông và băng qua hết tầng lầu dành cho Con người.


      Nó bắt đầu bằng nhiều dãy sọ người dài để tượng trưng cho bùng nổ dân số từ Công Nguyên.


      Clarice và người bảo vệ ngang qua quang cảnh hoàng hôn mang nhiều hình dáng để minh họa nguồn gốc và phát triển của con người.


      - nhìn thấy Wilhelm von Ellenbogen chưa? - Người bảo vệ hỏi trong khi bật sáng khung kính.


      - Hình như chưa - Clarice trả lời.


      - phải đến nhìn qua cái khi tất cả đèn được bật sáng. Được chôn tại Philadelphie hồi thế kỷ thứ XVIII, ông ta bị biến thành xà bông bởi các nguồn nước ngầm.


      Khu dành cho côn trùng rất rộng, vào giờ này ánh sáng chỉ lù mù, có nhiều tiếng kêu nhói tai và tiếng xào xạc phát ra từ những lồng côn trùng còn sống. Trẻ con rất thích nơi này của viện bào tàng và ở lại gần như suốt cả buổi. Khi bỏ đám côn trùng mình lúc đêm tối, chúng mới bắt đầu hoạt động.


      - Tiến sĩ Pilcher? - Người bảo vệ gọi to trước cánh cửa.


      - Trong này đây. - Pilcher đáp lại và đưa cây bút đèn pin lên làm hiệu.


      - Ông đưa ta về chứ?


      - Đúng vậy, cám ơn .


      Clarice lấy trong túi xách của mình cây đèn pin nhưng hết pin. Nỗi tức giận mà cảm nhận khiến nhớ lại mình rất mệt và phải kiềm chế thôi.


      - Xin chào, Starling.


      - Chào , Tiến sĩ Pilcher.


      - Tại sao là “Giáo sư Pilcher”?


      - là giáo sư à?


      - , và cũng hề là tiến sĩ, nhưng tôi rất vui được gặp lại . quan tâm đến đám con côn trùng của chúng tôi sao?


      - Đương nhiên rồi, nhưng Tiến sĩ Roden đâu?


      - Chính ta suốt hai đêm nay khám phá nhiều thứ bằng việc nghiên cứu cách sắp xếp lông và cuối cùng ta ngủ rồi. có thấy con vật đó trước khi chúng ta bắt đầu xem xét nó ?


      - .


      - cho đúng, nó là thứ khó hiểu.


      - Nhưng cũng làm được, cũng biết nó là gì à.


      - Đúng vậy. Chúng tôi phải mất khá nhiều thời gian đấy. - đứng lại trước cái lồng. - Trước hết để tôi chỉ cho con bướm đêm giống như con mà đem đến cho chúng tôi trong ngày thứ hai. Nó cùng loại đó, nhưng thuộc cùng họ, họ bướm đêm - Ánh đèn pin chiếu ngay con bướm đêm lớn màu lam đậu nhánh cây, hai cánh xếp lại. Pilcher thổi vào nó và ngay tức mặt của con chim cú xuất khi con bướm giang đôi cánh ra, các đốm tròn sáng rực. - Con này có tên là Caligo beltrao, rất phổ biến, nhưng mẫu của Klaus thuộc loại lớn hơn nhiều. hãy đến đây.


      Ở trong cùng căn phòng, có cái lồng trong khảm xây trong tường với lan can phía trước. Nó ở ngoài tầm với của mấy đứa trẻ và được phủ tấm vải. máy tạo khí ẩm hoạt động cạnh đó.


      - Chúng tôi giữ nó đằng sau tấm kính để bảo vệ tay của khách tham quan, vì nó hung hăng lắm. Ngoài ra tấm kính giữ độ ẩm cần thiết cho nó. - Pilcher cẩn thận lấy tấm vải che ra và kéo cái lồng lại gần. mở nắp ra và bật ngọn đèn trần.


      - Đây là con nhân sư đầu lâu mái. Nó đạng đậu cây cà độc dược, và chúng tôi hy vọng nó đẻ trứng.


      Con vật tuyệt đẹp và rất ghê sợ để chiêm ngưỡng với đôi cánh lớn màu nâu sẫm bao trùm nó như áo choàng và lưng đầy lông của nó có hình luôn làm cho con người phải hoảng sợ khi bất chợt nhìn thấy nó trong các khu vườn yên tĩnh. Cái sọ u lên vừa là mặt và sọ với các gò má ở thẳng hàng hoàn hảo ngay đôi mắt đen chăm chú nhìn bạn.


      - Đây là con Archerontia styx - Pilcher - Nó mang tên của hai con sông của Địa phủ. Nếu tôi nhầm con vật của thả các nạn nhân của nó xuống sông?


      - , nhưng con bướm này có hiếm ?


      - Trong phần này của thế giới hiếm đấy. Nó sống trong môi trường tự nhiên.


      - Thế nó đến từ đâu vậy? - Clarice đưa mặt sát vào cái nóc có lưới của cái lồng. Hơi thở của làm bay ngược các lông lưng con vật. lùi bước ngay khi nó phát ra tiếng kêu và vỗ cánh. có thể cảm nhận được luồng gió do động tác đó tạo ra.


      - Từ Malaysia. Cũng có loại nhân sư đầu lâu ở châu Âu nữa, con Archerontia atropos, nhưng con này và cả con trong cuống họng của Klaus, đều xuất xứ từ Malaysia.


      - Nếu như thế phải có người nuôi chúng.


      Pilcher gật đầu.


      - Đúng vậy - khi thấy nhìn mình - Có thể nó được gởi từ Malaysia trong trạng thái trứng hoặc dạng kén. Chưa ai thành công trong việc làm cho vỏ sinh sản trong nuôi dưỡng. Chúng giao phối đấy nhưng đẻ. Điều khó khăn nhất là tìm được con sâu trong rừng. Sau đó việc nuôi dưỡng chúng khó mấy.


      - chúng hung hãn lắm.


      - Vòi của chúng cứng và rất bén, đâm vào ngón tay nếu người ta chọc tức chúng. Đây là loại vũ khí khác thường và nó vẫn nguyên vẹn với các mẫu được ngâm trong cồn. Điều này giúp chúng tôi thu hẹp phạm vi điều tra và nhờ đó mà chúng tôi có thể nhận dạng nó nhanh chóng như thế. - Đột nhiên Pilcher có vẻ bối rối, giống như thể huênh hoang vậy. - Chúng sợ gì cả - tiếp - Chúng xâm nhập vào các tổ ong để cướp mật. Có lần tại Sabah Đảo Bornéo, ánh sáng thu hút chúng ở phía sau lữ quán thanh niên. kỳ lạ khi nghe tiếng của chúng, người ta có…


      - Làm sao có được con này?


      - Do trao đổi với chính phủ Malaysia. Tôi biết với cái gì nữa. kỳ lạ, người ta đứng trong bóng đêm để chờ đợi...


      - Các khai báo như thế nào với hải quan cho con này? còn giữ tài liệu ? Người ta làm cách nào để đưa nó ra khỏi Malaysia? Ai có thể trả lời cho tôi?


      - vội quá . Tôi ghi ra hết trong đây những gì chúng tôi có về nó và những gì cần thiết để đăng lời rao cho việc này. Hãy theo tôi, tôi đưa về.


      gì, họ băng ngang các phòng rộng lớn. Dưới ánh đèn của thang máy, Clarice nhận thấy Pilcher cũng kiệt sức như .


      - thức trắng nhiều đêm vì chúng tôi, - . - Các tốt khi giúp chúng tôi. Lúc nãy, tôi muốn tỏ ra bất nhã, nhưng...


      - Tôi hy vọng người ta bắt được . Tôi hy vọng nhanh chóng kết thúc vụ này. Tôi có ghi hai hoặc ba hóa chất mà cần để chuẩn bị các mẫu được nuôi dưỡng tốt. Này Starling, tôi rất muốn gặp lại .


      - Khi nào tôi rảnh, có thể tôi điện cho .


      - Tôi rất vui nếu làm việc đó.


      Cánh cửa thang máy đóng lại, đưa Catherine và Pilcher xuống. Gian phòng rộng lớn dành cho con người im lặng, các hình tượng xăm mình, các xác ướp và cả các chân bó, gì cử động.


      Đèn của các lối thoát hiểm đỏ rực trong ánh mắt của hàng ngàn côn trùng còn thức trong khu dành riêng cho chúng. Ở cái lồng đặt trong bóng tối, con nhân sư đầu lâu từ từ bước xuống cây cà độc dược. Con mái bò sàn, lê đôi cánh phía sau như tấm áo choàng, và tìm thấy miếng tổ ong trong cái đĩa của nó. Cầm nó lên bằng các chân trước khỏe mạnh, nó dùng cái vòi sắc bén xuyên thủng sáp ong. Nó thầm hút hết mật trong khi ở chung quanh đó, những tiếng kêu xào xạc vang lên cùng với những cử chỉ âu yếm chết chóc.



      41



      Catherine Barker nằm trong cái bóng tối đáng ghét đó. Các điểm đen lúc nhúc trước mắt trước khi chìm trong giấc ngủ, để bóng tối chiếm lấy người . để bàn tay lên miệng, bàn tay kia vào chỗ kín, ép chặt hai mông lại, úp lỗ tai xuống nệm để chịu đựng chiếm đoạt của bóng tối. thanh kèm theo đó, làm cho giật mình dậy. thanh rất quen thuộc, của máy may, mà tốc độ cứ thay đổi liên tục.


      Đèn bật sáng trưng trong tầng hầm, và thấy hào quang tròn màu vàng yếu ớt ngay đầu mình, tại chỗ thường là nắp giếng. Con chó xù sủa đôi ba tiếng, và cái giọng đáng sợ kia với nó.


      bình thường để may vá tại chỗ như thế này. Người ta lén lút làm công việc đó.


      Cái giọng đó lại chuyện với con chó bằng giọng nuông chiều.


      - Bỏ nó ra Quý Báu, coi chừng mày bị kim chích đó, chuyện gì xảy ra hả? Tao gần xong rồi đây. Đúng rồi, trái tim của ta. Mày được cái món Canigou khi nào chúng ta xong, mày được cái đó, tralala.


      Catherine còn biết mình bị bắt giữ được bao lâu nữa. được lau mình hai lần, lần thứ hai trong ánh đèn sáng chói để có thể nhìn thấy thân hình của , thể biết có nhìn hay ở phía sau ánh đèn đó. Catherine Baker Martin trần truồng là quang cảnh đáng chú ý, có tất cả những thứ cần thiết, vài nơi còn dồi dào nữa là đằng khác, và biết điều này. muốn ngắm nhìn . muốn được ra khỏi nơi này. Nếu người ta bắt buộc phải làm tình người ta cũng bắt buộc phải chiến đấu, tự nhủ như thế trong lúc lau mình. được ăn quá ít và cuối cùng yếu . muốn chiến đấu, có thể chiến đấu. Tốt hơn hết có lẽ nên để cho chiếm đoạt trước, bao nhiêu lần tùy thích, để cho kiệt sức . biết nếu kẹp được cổ trong đôi chân, cho chầu diêm vương trong nháy mắt. có làm được điều đó ? Và bằng cách nào? Hai hòn dái và hai con mắt, phải hai hòn dái và hai con mắt. Nhưng khi lau người xong rồi, đó còn tiếng động nữa và mặc chiếc áo liền quần sạch vào. nhận được câu trả lời cho các đề nghị được thốt ra trong khi cái xô nước còn treo tòn teng dưới sợi dây.


      Nhiều giờ sau đó, chờ đợi và lắng nghe tiếng máy may. Rất lâu sau đó, có thể sau ngàn lần hít thở, nghe tiếng lên cầu thang và với con chó như sau - … bữa ăn sáng sau khi tao trở về - để đèn sáng, đôi khi làm như thế.


      Có tiếng chân và của móng chó sàn nhà bếp. Con chó bắt đầu rên rỉ. tự nhủ tên bắt cóc rồi. Có khi vắng mặt rất lâu.


      Nằm trong bóng tối, Catherine lục dưới tấm thảm và tìm thấy khúc xương gà và ngửi nó. khó mà ăn mấy sợi thịt còn dính đó. bỏ vào trong miệng để hơ ấm nó. đứng lên nhưng hơi chao đảo trong cái bóng tối choáng ngợp này. Trong cái giếng chỉ có tấm thảm, bộ quần áo liền nhau mặc, cái xô vệ sinh bằng nhựa và sợi dây mỏng manh trong ánh đèn vàng hiu hắt.


      cố suy nghĩ khi sức lực còn cho phép làm điều này. Catherine duỗi người thẳng đến mức có thể và chụp được sợi dây. Bây giờ phải kéo từ từ hay cái mạnh? nghĩ đến việc này trong hàng ngàn hơi thở. Tốt hơn hết là nên kéo từ từ.


      Sợi dây dài hơn tưởng. nắm chỗ cao nhất và kéo, đung đưa cánh tay với hy vọng sợi dây tơi ra ngay nơi nó chạm vào nắp gỗ. tiếp tục cho đến khi mỏi cả tay. giật mạnh xuống! Tao van mày, hãy đứt ra cho tao nhờ. Đột nhiên sợi dây rớt xuống ngay mặt .


      Catherine ngồi bẹp xuống đất, sợi dây nằm vai và mặt . biết nó dài cỡ nào, được làm cho nó rối. cẩn thận để nó xuống đất và quấn nó quanh cánh tay của mình được mười bốn lần. Sợi dây đứt ngay chỗ miệng giếng.


      cột chặt sợi dây vào miếng xương, ngay tại chỗ nó được cột vào cái xô.


      Bây giờ là điều khó khăn nhất cần phải làm.


      Hãy nhàng thôi. Tâm trạng của bây giờ khác gì người đối mặt với bão tố, mình chiếc tàu .


      cột gút cái đầu dây bị tơi ra và siết chặt bằng răng.


      Cẩn thận làm rối sợi dây, nắm ngay quai xách của cái xô, liệng mạnh lên vầng tròn sáng yếu ớt. Cái xô đụng phải cái nắp và rớt xuống lại. Con chó sủa lớn hơn nữa.


      phải mất nhiều thời giờ để gỡ rối sợi dây. Đến lần thử thứ ba, cái xô rớt trúng ngay ngón tay gãy buộc phải tựa vào thành giếng để thở từ từ cho đến khi cơn đau dịu bớt. Lần thứ tư cái xô rớt trúng người lần nữa, nhưng đến lần thứ năm . Nó rớt ở đâu đó bên ngoài giếng. biết cách xa miệng giếng bao xa? Mày hãy bình tĩnh lại coi! kéo từ từ. xoắn sợi dây để có thể nghe được tiếng ma sát của cái quai dưới mặt đất.


      được để cho cái xô rớt lại xuống giếng, nhưng phải kéo nó lại gần miệng giếng mới được. nhàng, kéo nó lại gần.


      Con chó dạo quanh các tấm kính và các hình nhân, trong căn hầm kế bên. Nó ngửi cuộn chỉ và mấy miếng vải dưới bàn máy may. Nó quay đầu nhìn về nơi phát ra tiếng động ở đầu kia. Nó bỏ chạy lại đó và sủa lúc rồi trở về lại chỗ cũ.


      tiếng kêu yếu ớt phát lên từ cái giếng.


      - Quuúyy BBaaaáuuu ơơii.


      Con chó con vừa sủa vừa nhảy tưng tưng tại chỗ. Cái thân hình tròn vo và mập mạp của nó run lên. Nó nhìn về phía nhà bếp ở phía , nhưng tiếng gọi đến từ đó.


      Tiếp chép miệng như thể có người ăn.


      - Lại đây Quý Báu. Lại đây trái tim của ta.


      Bước chậm, hai tai vểnh lên, con chó tiến tới trước.


      Miam miam.


      - Lại đây nào con , lại đây nào Quý Báu.


      Con chó ngửi thấy mùi thịt gà được cột ở quai xô. Nó cào miệng giếng và rên.


      Miam-miam-miam.


      Cái mùi đó ở ngay giữa cái quai và miệng giếng. Nó sủa lớn về hướng cái xô và rên vì do dự. Cái xương gà nhúc nhích.


      Con chó nằm bẹp xuống, mõm để giữa hai chân trước, đít nhô lên, nó vẫy đuôi lia lịa. Nó sủa hai lần nữa và nhảy bổ vào cái xương gà, ngậm nó trong miệng. Cái xô định hất nó ra khỏi miếng xương. Nó gầm gừ giận dữ và cắn chặt hơn nữa. Bất ngờ cái xô hất con chó té nhưng nó đứng lên lại, chiến đấu với cái xô. chân sau của nó tuột xuống giếng cho đến háng. Móng nó cố cào lên thành để leo lên. Cái xô tưng lên rồi rớt xuống giếng với cục xương trong khi con chó trèo lên được. Phẫn nộ, nó sủa xuống cái giếng lúc. Nó xoay lưng bỏ lên cầu thang, rên rỉ vì sung sướng với tiếng mở cửa ở bên .


      Hai hàng nước mắt nóng bỏng chảy dài gò má của Catherine Baker Martin, giọt xuống cái áo liền quần, làm ướt ngực . Bây giờ biết mình chết chắc.



      42



      Đứng giữa phòng làm việc, hai tay thọc trong túi quần, Crawford chìm trong suy nghĩ. Sau đó ông gửi bảng telex cho Cơ quan quản lý xe hơi của California để truy tìm dấu vết chiếc xe cắm trại mà theo Lecter, Raspail mua tại đó và là nơi ái ân của ông ta và Klaus. Ngoài ra Crawford còn cầu kiểm tra xem chiếc xe đó có bị phạt do người nào khác lái hơn là Benjamin Raspail .


      Tiếp đến ông nằm xuống chiếc văng, với lấy cuốn sổ tay, thảo tin rao vặt viễn thông để được đăng các nhật báo quan trọng: Thân hình đẫy đà, nước da sữa, 21 tuổi, người mẫu, tìm kiếm bạn trai có khả năng đánh giá phẩm chất và khối lượng. Các thấy em các quảng cáo mỹ phẩm còn bây giờ em muốn được gặp mặt các . Hãy gửi hình trong lá thư đầu tiên.


      Ông đọc lại và cúi đầu xuống ngực, ngủ thiếp . Màn hình xanh của máy vi tính vẽ nhiều hình vuông trong mắt kính ông ta. Và bản văn bắt đầu xuất . Trong giấc ngủ, ông lắc đầu, như thể cái hình ảnh đó làm cho ông ta nhột vậy.


      Bản văn như sau:




      TÌM THẤY HAI VẬT SAU ĐÂY SAU KHI KHÁM XỆT PHÒNG GIAM CỦA LECTER TẠI MEMPHIS.


      1) CHÌA KHÓA CÒNG ĐƯỢC CHẾ TẠO BẰNG ỐNG BÚT BI. VẾT CẮT BẰNG CÁCH MÀI. TÌM KIẾM DẤU VẾT NƠI CHẾ TẠO TẠI BỆNH VIỆN BALTIMORE. TÁC GIẢ COPLEY, VĂN PHÒNG TẠI MEMPHIS.


      2) GIẤY NỔI TRONG NƯỚC BỒN CẦU. BẢN CHÍNH GỬI ĐẾN CƠ QUAN TÀI LIỆU/PHÒNG THÍ NGHIỆM. HÀNG CHỮ ĐƯỢC MÔ TẢ LẠI DƯỚI ĐÂY GỬI ĐẾN BENSON BAN MÃ HÓA.




      Rồi hàng chữ ra màn hình, lên từ từ như có người ta ló đầu ngó qua hàng rào vậy:







      Tiếng bíp êm dịu của máy vi tính đánh thức được Crawford, nhưng ba phút sau đó, điện thoại lại hiệu quả hơn. Là Jerry Burroughs của Trung tâm thông tin quốc gia về hình Học.


      - xem máy vi tính chưa Jack?


      - Đợi chút. Đây có nó rồi.


      - Phòng thí nghiệm giải mã được rồi Jack. Hình này được Lecter bỏ lại tại phòng vệ sinh.


      Những con số giữa tên Chilton là hóa sinh học. C33H36N4O6: là công thức của sắc tố của mật có tên là bilirubin. Phòng thí nghiệm cho biết đó là chất nhuộm chính của phân.


      - Chuyện tào lao.


      - có lý Jack. Lecter coi chúng ta ra gì cả. may cho thượng nghị sĩ Martin. Phòng thí nghiệm cho biết màu tóc của Chilton giống y đúc màu bilirubin. Người ta gọi đây là tính hài hước của bệnh viện tâm thần. có thấy Chilton bản tin lúc mười tám giờ ?


      - .


      - Còn Marilyn Sutter có đấy. Chilton gièm pha về “việc truy tìm Bill Rubin”. Sau đó ông ta ăn tối với phóng viên của đài truyền hình. Ông ta ăn nghe tin Lecter ngao du. Thằng ngu nhất thế giới đấy.


      - Lecter có với Starling đừng quên Chilton hề có bằng cấp y khoa.


      - Ừ, tôi có đọc trong báo cáo. Tôi nghĩ Chilton cố gắng chiếm đoạt Starling nhưng này xem thường ông ta. Có thể ông ta là tên ngốc nhưng có mù. bé đó ra sao rồi?


      - Tôi nghĩ là sao hết, bị kiệt sức chút.


      - có nghĩ Lecter cũng xem thường ta


      - Có thể lắm. Tuy nhiên chúng ta cứ tiếp tục như thường. Tôi biết mấy cái bệnh viện đó làm gì nữa. Đúng ra mình nên cầu tòa án can thiệp để chúng ta lấy được mấy hồ sơ đó. Chuyện phải tùy thuộc vào các bác sĩ làm cho tôi muốn bệnh luôn. Nếu đến giữa buổi sáng mai mà chúng ta chưa có gì tôi sử dụng phương thức pháp lý.


      - Mà này Jack... nhân viên bên ngoài của biết mặt Lecter phải ?


      - Đương nhiên rồi.


      - Thế có nghĩ ông ta vui chơi ở đâu đó ?


      - Có thể lắm, nhưng lâu nữa đâu - Crawford kết luận.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :