Sự im lặng của bầy cừu - Thomas Harris (Truyện trinh thám kinh dị số 1 thế giới)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      15



      Tại Memphis, bang Tennessee, Catherine và bạn trai của ngồi trong nhà của chàng, xem chương trình tivi và hút vài hơi cần sa. Các đoạn quảng cáo càng lúc càng nhiều hơn.


      - Em hơi đói đây, có muốn em lấy bắp rang ? - hỏi.


      - Để cho, đưa chìa khóa đây.


      - ngồi yên đó. Bằng mọi cách em phải kiểm tra xem mẹ có gọi .


      Catherine Baker Martin đứng lên khỏi cái văng. thiếu nữ cao lớn, thể tạng rất tốt, da thịt rắn chắc, với khuôn mặt đẹp và tóc dày. tìm đôi giày dưới cái bàn thấp và ra khỏi nhà.


      Cái đêm tháng Hai này ẩm và lạnh hơn. ít sương mù đến từ sông Mississipi, trôi bồng bềnh ngang tầm người bãi đậu xe rộng lớn. Tại điểm cao nhất đường chân trời, thấy vầng trăng lưỡi liềm bé, nhợt nhạt và cong như lưỡi câu bằng xương. Ngước đầu lên để nhìn như thế làm cho choáng váng. bước ra bãi đậu xe, về cánh cửa nhà cách đó khoảng trăm thước.


      chiếc xe tải màu nâu đậu gần đấy, giữa các xe cắm trại và các rờ moọc tàu. để ý đến nó vì giống các xe giao hàng thường đem các thùng quà biếu của mẹ .


      Lúc ngang qua đó, ánh đèn được bật sáng trong sương mù… mặt đường, có chân đèn có chụp, chiếu sáng ghế bành được bọc bằng vải có in hình bông hoa đỏ lớn, giống như chúng vừa mới nở trong sương mù.


      Catherine nháy mắt nhiều cái và tiếp tục bước . Nó có vẻ siêu thực quá, nghĩ có thể là do cỏ mà ra. Nhưng hình ảnh đó vẫn cứ kéo dài. Chắc người nào đó dọn nhà đến. Hoặc dọn chừng. Có nhiều người làm như thế tại Khu Biệt Thự Stonehinge. Bức rèm nhúc nhích và thấy con mèo của cong lưng, cọ mình vào kính cửa sổ.


      Ngay lúc muốn đút chìa vào trong ổ khóa, xoay đầu lại. người đàn ông bước xuống từ phía sau xe. Trong ánh đèn, thấy cánh tay gã bị băng bột và treo băng chéo. vào trong nhà và đóng cửa lại.


      Catherine vén màn cửa sổ nhìn ra; người đàn ông đó cố kéo chiếc ghế bành lên xe tải. Gã giữ nó bằng cánh tay lành lặn và cố nhấc cái ghế lên bằng cái đầu gối. Cái ghế rớt xuống. Gã đứng lên và chùi ngón tay dính đất vào quần.


      bước trở ra.


      - Để tôi giúp ông tay - bằng giọng ân cần.


      - thế sao? Xin cảm ơn - giọng hết sức căng thẳng. phải giọng của dân địa phương.


      Ánh đèn chiếu sáng phần dưới mặt gã, làm biến dạng các nét, nhưng thấy rất thân hình của gã. Gã mặc quần kaki được ủi thẳng và loại áo da nai được mở rộng trước ngực đầy tàn nhang. Cằm và gò má hoàn toàn trơ trụi, láng như da của đàn bà vậy; hai mắt chỉ là hai điểm long lanh trong vùng tối của gò má.


      Gã nhìn chăm chăm và điều này làm bối rối. Khi bước lại gần họ, nhiều khi cánh đàn ông phải ngạc nhiên vì thân hình của và có người che giấu phản ứng của mình hay hơn người khác.


      - Tốt lắm - Gã .


      Người gã thoát ra mùi vô cùng khó chịu và nhận thấy áo gã dính đầy lông, mà vài sợi vai và ở cánh tay đều quăn.


      Họ dễ dàng khiêng cái ghế lên sàn của chiếc xe tải.


      - Chúng ta hãy đẩy nó về phía trước, nhé! - Gã leo vào bên trong để dịch chuyển vài món đồ, vài cái chậu lớn người ta thường dùng để thay nhớt xe và cái tời quay tay.


      Họ đẩy cái ghế bành đến sát các băng ghế.


      - Quần áo mặc là cỡ bốn mươi bốn phải ? - Gã hỏi.


      - Xin lỗi, ông muốn gì?


      - có thể đưa cho tôi cuộn dây thừng được ? Ngay dưới chân đó.


      Khi vừa khom người xuống, gã đập vào ót bằng cánh tay băng bột. tưởng mình vừa đụng đầu, và cánh tay bó bột đó đập lần nữa. Gã tiếp tục đánh, lần này ngay phía sau lỗ tai, nhưng mạnh lắm, cho đến khi té nhào cái ghế bành, lăn xuống sàn xe và nằm bất tỉnh.


      Người đàn ông đứng canh lúc, sau đó tháo miếng băng bột và cái khăn chéo ra. nhanh chóng thu hồi cái đèn và đóng cánh cửa sau xe lại.


      xoay người Catherine lại và với ngọn đèn pin nhìn số của chiếc áo cánh.


      - Hay lắm, thốt lên.


      cắt đôi cái áo ở phía sau lưng bằng kéo y khoa và lấy cái áo ra, kế đến còng hai tay ra sau lưng. trải bấm bạt xuống sàn xe và quấn nó quanh người .


      mặc áo lót. dùng ngón tay sờ nắn hai vú to lớn của , để đánh giá sức nặng và độ mềm dẻo của chúng.


      - Hay lắm.


      vết mút hồng ở ngay vú trái. liếm ngón tay mình để chà lên đó, giống như cách gã làm với cái ghế bành và gật đầu khi thấy cái vết đó từ từ biến mất. mới lật người lại và xem xét cái sọ bằng cách bới mớ tóc dày của . Miếng băng bột có nhồi bông làm cho bị thương.


      - Hhhaaay lllaắmm - lặp lại. còn phải thực chuyến rất dài để về đến nhà và nghĩ cần phải băng ta lại.


      Tại cửa sổ, con mèo của Catherine Baker Martin nhìn ánh đèn sau của chiếc xe xa dần.


      Điện thoại reo lên phía sau nó. Trong phòng ngủ, máy trả lời ghi nhận cuộc gọi khi ngọn đèn báo đỏ chớp tắt trong bóng tối,


      Mẹ của Catherine vừa gọi và bà là thượng nghị sĩ của bang Tenessee, người trẻ nhất của Hoa Kỳ.



      16



      Trong thập niên tám mươi, thời đại vàng son của bọn khủng bố, tất cả mọi thứ được chuẩn bị để đương đầu với bất cứ cuộc bắt cóc nào liên quan đến thành viên của Quốc hội.


      Vào hai giờ bốn mươi lăm sáng, nhân viên chỉ huy văn phòng FBI tại Memphis, báo về bộ chỉ huy Washington việc con duy nhất của Thượng nghị sĩ Ruth Martin được ghi nhận mất tích.


      Đến ba giờ, hai chiếc xe thùng dấu hiệu đặc biệt chui ra khỏi gara hần Buzzard Point, căn cứ hoạt động tại Washington. chiếc tiến về Quốc hội, nơi các chuyên gia đưa hệ thống điện thoại của thượng nghị sĩ Martin vào chế độ nghe lén, cùng các phòng điện thoại công cộng quanh đó. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đánh thức người nhân viên trẻ nhất của Ban An ninh của Quốc hội để ông ta ký giấy phép cần thiết.


      Chiếc xe được trang bị kính phản chiếu và toàn bộ thiết bị canh chừng, đến đậu Đại lộ Virginia để chặn lối ra vào cổng chính Tòa nhà Watergate, nơi cư ngụ của thượng nghị sĩ Martin. Hai trong số người xe, vào tòa nhà để lắp đặt hệ thống nghe lén các điện thoại cá nhân của bà Thượng nghị sĩ.


      Theo công ty điện thoại Bell Atlantic, thời gian cần thiết để truy ra bất cứ cuộc gọi nào qua trung tâm điện thoại điện tử được ước tính là sáu mươi giây.


      Biệt đội phản ứng nhanh tăng đôi số nhân viên để phòng hờ trường hợp có việc đòi tiền chuộc trong vùng Washington. Tất cả các cuộc trao đổi bằng điện đài đều được mã hóa để tránh diện qua báo chí cho việc giao nộp tiền chuộc khả dĩ. Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn tỏ ra vô trách nhiệm như từng xảy ra.


      Biệt đội chống khủng bố được đặt trong tình trạng báo động thường trực, sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào!


      Mọi người đều hy vọng Catherine Baker Martin bị bọn chuyên nghiệp bắt cóc để đòi tiền chuộc, bởi với giả thuyết này có nhiều cơ may sống sót hơn.


      ai nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra.


      ít lâu sau khi trời sáng, cảnh sát viên tại Memphis, truy tìm kẻ rình mò được các cư dân Đại lộ Winchester bắt gặp, có chặn hỏi ông già lượm rác ở vệ đường. chiếc xe đẩy của ông, có áo cánh phụ nữ hàng nút trước ngực còn được cài nhưng phần sau lưng bị cắt đôi. Nhãn hiệu của tiệm giặt ủi cho phép kết luận đây là áo của Catherine Baker Martin.


      Jack Crawford vừa rời khỏi nhà ông, và đúng sáu giờ ba mươi sáng, điện thoại xe ông reo lần thứ nhì trong vòng hai phút.


      - Chín hai mươi - hai bốn mươi.


      - Bốn mươi, tôi chuyển Alpha 4 cho .


      Crawford nhìn thấy chỗ đậu xe trống và lái vào đó đậu lại để chú tâm vào cuộc gọi. Alpha 4 là ông giám đốc FBI.


      - Jack, biết chuyện gì xảy ra với Catherine Martin ?


      - Tôi vừa được nhân viên trực báo đây.


      - Thế nghĩ gì về chiếc áo cánh?


      - Buzzard Point trong tình trạng sẵn sàng can thiệp, và họ cũng kiểm soát hệ thống điện thoại. Áo cánh có bị cắt đôi , chúng ta cũng chưa chắc đó là Bill. Nếu tên nào đó bắt chước ta, đòi tiền chuộc. Thế ai canh chừng việc nghe lén và lục soát căn hộ, cảnh sát tiểu bang hay là chúng ta?


      - Cảnh sát tiểu bang. Họ rất hữu hiệu. Phil Adler vừa gọi từ Nhà Trắng để cho tôi biết tổng thống “ theo sát” vụ điều tra. Thêm chiến tích khác của chúng ta hại gì đâu, Jack à.


      - Tôi cũng nghĩ đến điều này. Thế bà Thượng nghị sĩ ở đâu?


      - đường đến Memphis. Bà ta vừa gọi đến nhà tôi. Chắc tôi cần phải nhiều với chứ?


      - Tôi cũng nghĩ thế - Crawford gặp Thượng nghị sĩ Martin nhiều lần trong các buổi họp về ngân sách.


      - Bà ta sử dụng đến ảnh hưởng của mình.


      - thể trách bà ta về việc đó được.


      - Đương nhiên rồi. Tôi với bà ta là chúng tôi làm hết mình, như chúng ta làm trước đây. Bà ta... bà ta biết tình trạng nay của và để sẵn chiếc phản lực Lear cho sử dụng. Hãy dùng nó, và trở về nhà vào lúc tối, nếu có thể được.


      - Tốt lắm. Bà Thượng nghị sĩ là người bướng bỉnh. khi bà ta muốn nhúng tay vào có đụng độ đấy.


      - Tôi biết. Nếu thấy cần, cứ việc gọi trực tiếp cho tôi. Thế chúng ta có bao nhiêu thời gian vậy, Jack? Sáu đến bảy ngày phải ?


      - Tôi biết nữa. Nếu hoảng hốt khi biết Catherine là ai, có thể giết chết ta và thả xuống sông.


      - ở đâu vậy?


      - Cách Quantico ba cây số.


      - Thế chiếc Lear có thể đáp xuống Quantico ?


      - Được.


      - Vậy trong hai mươi phút nữa nhé.


      - Thưa ông, vâng.


      Crawford quay số điện thoại rồi cho xe chạy.



      17



      Khó chịu trong người vì ngủ yên giấc. Clarice Starling mặc áo ngủ và mang hài, với cái khăn vai chờ phòng tắm. Tin của vụ bắt cóc làm cho muốn nín thở.


      - Trời ơi - thốt lên. được. Trong đó đủ rồi, nghe ! Phòng tắm bị bao vây. Hãy bước ra ngoài với quần lót cầm tay. Đây phải là cuộc diễn tập! bước vào buồng tắm trước vẻ ngỡ ngàng của người chiếm cứ.


      - Mày cút khỏi đây Gracie và để cục xà phòng lại cho tao.


      Tai lắng nghe chuông điện thoại, chuẩn bị túi du lịch và để túi dụng cụ pháp y gần cánh cửa. báo cho tổng đài biết ở trong phòng mình và ăn sáng. ai gọi hết. Mười phút sau giờ học, hối hả chạy đến Khoa nghiên cứu về thái độ con người.


      - Ông Crawford lên đường Memphis cách đây bốn mươi lăm phút - thư ký với bằng giọng - Burroughs cũng thế. Và cả Stafford của phòng thí nghiệm nữa.


      - Ngày hôm qua tôi có nộp cho ông ta bản báo cáo. Thế ông ta có để lại tin nhắn nào cho tôi ? Tên tôi là Clarice Starling.


      - Vâng, tôi biết là ai mà. Tôi có ba thẻ với số điện thoại của và có nhiều cái khác nữa bàn làm việc ông ta. , ông ta có để gì cho cả - Người phụ nữ nhìn mớ hành lý của Clarice - Nếu ông ta gọi về, tôi có phải gì với ông ta ?


      - Ông ta có số điện thoại nào đó tại Memphis ?


      - . Chính ông ta gọi về. Thế có giờ học trong ngày hôm nay sao? còn là sinh viên có phải ?


      - Đúng. Đúng. Đương nhiên rồi.


      trở lại lớp học muộn màng của Clarice được dễ dàng cho lắm trước diện của Gracie Pitman, người bạn mà tống khứ ra khỏi buồng tắm. Con đường đến chỗ ngồi của mình đối với Clarice dài vô tận. Cái lưỡi của Gracie có đủ thời giờ để xoay hai vòng trong miệng trước khi Clarice có thể hòa lẫn trong lớp học.


      Bụng đói meo, phải ngồi đó hai tiếng đồng hồ để nghe bài giảng về “trát khám xét thiện ý, kể đến quy tắc loại trừ trong trường hợp khám xét có bắt giữ người”, trước khi có thể mua cái gì đó tại máy bán tự động.


      Đến trưa, nhìn vào ngăn thư của mình nhưng có tin nhắn nào cả.


      ngày nào đó, khi người ta thức dậy và cảm thấy hoàn toàn đổi khác. Đối với , hôm nay là ngày như thế. Cái xác trong nhà tang lễ tại Potter gây cho cảm tưởng như trượt đất kiến tạo vậy.


      Clarice có bằng cấp về tâm lý học và tội phạm học. Cuộc đời dạy cho rằng cái thế giới gớm ghiếc này ung dung tiêu hủy vài vật nào đó. Nhưng chưa bao giờ thử nghiệm cả. Giờ biết rồi: đôi khi đôi vợ chồng cho đứa trẻ ra đời với khuôn mặt bình thường, nhưng trí tuệ nó méo mó đến mức thỏa mãn các ham muốn của nó kết thúc bằng những gì thấy được cái bàn bằng sứ tại Potter, Virginie, trong căn phòng được trang trí bằng những bông hồng to như bắp cải. Nhưng cái trí tuệ đó chắc còn tệ hại hơn các báo cáo giảo nghiệm. Chắc nó phải cứng rắn hơn hiểu biết được khắc sâu trong đó, nếu vết thương đó bao giờ lành được.


      Công việc thường ngày của trường giúp gì được cho . có cảm tưởng thường nhật vẫn còn ở đâu đó tại chân trời; nghe được tiếng thầm mênh mông của nó giống như tiếng xì xào của sân vận động xa xôi. tiếng động cũng làm cho giật mình như tiếng của đám sinh viên di chuyển ngoài hành lang, bóng của cụm mây lướt sàn nhà, tiếng của chiếc phi cơ.


      Sau các tiết học, Clarice chạy rất nhiều vòng quanh các đường, sau đó bơi, cho đến khi hình ảnh của những người chết trôi làm cho chịu được nước nữa.


      xem chương trình tin tức lúc bảy giờ tối với Ardelia cùng chục sinh viên khác. Lúc đầu có tin tức gì về vụ con của Thượng nghị sĩ Martin bị bắt cóc, nhưng bản tin đó đến ngay sau tin về hội nghị về giải trừ quân bị tại Genève.


      Nó bắt đầu bằng cảnh Khu Biệt Thự Stonehinge, được quay với đèn chiếu của xe cảnh sát. Giới truyền thông, muốn khai thác tối đa vụ này và vì chưa có gì mới cả, nên cánh phóng viên phỏng vấn lẫn nhau ngay bãi đậu xe. Các giới chức có thẩm quyền của Memphis và quận Shelby, khó chịu trước những hàng micro, cúi đầu trước tấn công tàn bạo và ồn ào của các đèn flash và hiệu ứng Larsen, ra những điều mà họ hề biết. Khi các điều tra viên bước vào hoặc ra khỏi nhà của Catherine Baker Martin, đám phóng viên ảnh núp chui đầu qua khe cửa để sau đó lui bước mau giữa các máy quay phim mini của truyền hình.


      tiếng reo hò ngắn vang lên trong phòng giải lao của trường khi gương mặt của Crawford lên ở khung cửa sổ căn hộ. Clarice chỉ cười mỉm.


      biết Buffalo Bill có xem chương trình này . nghĩ gì khi thấy mặt của Crawford? Chắc biết ông là ai đâu.


      Những người khác đều nghĩ thế nào Buffalo Bill cũng xem chương trình này. Kế đến người ta thấy thượng nghị sĩ Martin được quay trực diện, mình trong căn phòng con bà; tường, lá cờ hiệu của Trường Đại Học Southwestern, các hình trang trí và bản văn về bình đẳng của các quyền lợi.


      Bà là người to lớn với những nét thô kệch, duyên dáng.


      - Tôi xin với người bắt giữ con tôi. - Bà tiến lại gần máy quay phim hơn, gây ra hình ảnh mờ bất ngờ, và như thể bà phải chuyện với tên khủng bố. - Nếu muốn, có thể thả con tôi ra về bình yên vô . Nó tên Catherine. Nó rất dễ thương và tính tình rộng rãi. Tôi van xin , hãy thả con tôi ; tôi van đấy, hãy thả nó ra và đừng có làm hại nó. làm chủ tình hình. Chính là người chỉ huy. Tôi biết có thể biểu lộ tình thương và lòng trắc . có thể che chở nó chống lại bất cứ điều gì có thể làm tổn thương đến nó. có cơ hội tuyệt vời để chứng minh cho thế giới thấy được cũng có thể biểu được lòng nhân từ của cũng đủao thượng để đối xử với những người khác tốt hơn cách mà thế giới đối xử với . Con tôi tên Catherine.


      Bà thượng nghị sĩ quay mặt khỏi máy quay trong khi đài truyền hình chiếu đoạn phim cho thấy chập chững bước , tay nắm vào mớ lông dày của con chó chăn cừu xứ Êcốt.


      - Phim này cho thấy Catherine khi nó còn bé. Hãy thả nó ra - bà thượng nghị sĩ lặp lại - Hãy thả nó ra bình yên vô , bất cứ ở đâu, và tôi xin hứa giúp đỡ và xem như người bạn thân thiết của tôi.


      Tiếp đến là loạt ảnh Catherine Martin lúc tám tuổi, tay lái của chiếc thuyền buồm; chiếc tàu nằm trong ụ và người cha sơn tàu lại. Hai tấm hình mới chụp gần đây, chụp đứng thẳng người còn cái kia chụp gần.


      Khuôn mặt của bà thượng nghị sĩ chiếm lại màn hình.


      - Tôi xin hứa trước toàn quốc tôi giúp đỡ có bất cứ hạn chế nào, mỗi khi cần. Tôi có đủ khả năng để làm việc đó. Tôi là Thượng nghị sĩ nước Hoa Kỳ, và là thành viên của Ủy Ban các lực lượng vũ trang. Tôi tham gia rất tích cực cái mà người ta gọi là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nếu có ai đó xen vào công việc của , tôi chấm dứt việc đó. có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào, cả đêm lẫn ngày. Con tôi tên Catherine. Tôi van đấy, hãy cho thấy sức mạnh của . Hãy thả Catherine ra về bình yên vô .


      - Trời ơi, độc đáo quá - Clarice thốt lên. run như tàu lá. - thể nào tài hoa hơn thế được.


      - Cái gì? Về chuyện “Chiến Tranh Các Vì Sao” hả? - Ardelia hỏi - Nếu người ngoài hành tinh cố kiểm soát những ý nghĩ của Buffalo Bill từ hành tinh xa xôi của chúng, ngài Martin có thể che chở cho ta sao, đó là lời bịp bợm của bà ta sao?


      Clarice gật đầu xác nhận.


      - Những người tâm thần phân liệt kiểu hoang tưởng có loại ảo giác đó: họ nghĩ cái thế giới này bị đám người ngoài hành tinh kiểm soát. Nếu đó là kiểu suy nghĩ của Buffalo Bill, có thể điều này làm cho chui ra khỏi hang. Bà ta phi thường quá phải ? Cho là điều tệ hại nhất nữa, cũng cho Catherine được vài ngày an toàn. Cả luôn cảnh sát. Mà có thể . Crawford nghĩ giữ họ trong thời gian ngày càng ngắn hơn. Nhưng người ta có thể thử điều này và cả nhiều việc khác nữa.


      - “Tôi thử mọi cách, nếu nó liên quan đến con tôi”. Tại sao bà ta cứ lặp lặp lại tên “Catherine” vậy? Tại sao cứ nhắc mãi tên ta?


      - Bà ta cố làm cho thấy Catherine là con người. Người ta nghĩ chắc phải cố làm mất tính cách con người, phải xem các nạn nhân như những đồ vật để có thể mổ xẻ họ. Những tên giết người hàng loạt, ít ra số trong bọn chúng được tra hỏi trong trại giam, như thế. Chúng có cảm tưởng như làm điều đó đối với con búp bê vậy.


      - Thế mày có nghĩ ai là tác giả của bài phát biểu của bà thượng nghị sĩ ?


      - Có thể lắm, chắc là bác sĩ Bloom. - Người ta chiếu màn hình cuộc phỏng vấn bác sĩ Alan Bloom của trường Đại học Chicago, về những tên giết người hàng loạt vài tuần trước đây.


      Ông từ chối so sánh Buffalo Bill với Francis Dolarhyde hoặc với Garrett Hobbs, hoặc với đám tội phạm khác cùng loại. Ông ta dùng từ “Buffalo Bill”. chung, ông ta thêm gì mới, nhưng ông là chuyên gia giỏi nhất về vấn đề đó, và đài truyền hình muốn cho thấy khuôn mặt ông ta.


      Bài phóng kết thúc bằng vài câu sau cùng:


      - Chúng ta thể hăm he với cái gì đó tồi tệ hơn những gì phải đương đầu hàng ngày. Nhưng những gì chúng ta có thể làm được, đó là kêu gọi đến với chúng ta. Bằng tất cả lòng thành , chúng ta có thể hứa với phương pháp chữa trị thoải mái và yên lòng hoàn toàn.


      - Ai trong chúng ta mà cần đến yên lòng chứ? - Ardelia bảo - Tao là người trước tiên. chút thiếu hụt êm dịu của sáng suốt của tao và vài việc tầm phào hời hợt, tao thích thế lắm. Ông ta gì với họ hết, nhưng chắc ông ta cũng làm cho Buffalo Bill phải bực mình.


      - Tao thể nghĩ đến con bé ở Virginie được; trong lúc, cứ cho là trong ba mươi phút , và rồi sau đó cổ tao lại bị nghẹn. Màu sơn móng tay của ta, hãy giúp tao đừng nghiền ngẫm việc đó nữa.


      Trong bữa ăn tối, Ardelia, nổi hứng vô tận bất ngờ của mình, làm cho Clarice quên nỗi sầu muộn của bằng cách làm mê hoặc những lỗ tai tò mò với so sánh các vần chéo của Stevie Wonder và Emilie Dickinson.


      Khi về phòng mình. Clarice thấy tin nhắn trong thùng thư: Hãy gọi điện cho Albert Roden và số điện thoại.


      - Đây là bằng chứng lý thuyết của tao đúng - với Ardelia trong khi họ lên giường ngủ với quyển sách.


      - Lý thuyết gì?


      - Mày làm quen với hai chàng, và phải chàng tốt gọi điện cho mày.


      - Tao biết điều đó.


      Điện thoại reo. ..


      Mapp hất cây bút chì để ngay trước mũi ta.


      - Nếu là Hot Bobby Lowrance, tao ở tại thư viện và tao gọi lại vào sáng mai.


      Là Crawford gọi từ máy bay.


      - Starling, hãy lấy những gì cần thiết cho hai đêm và đến gặp tôi ngay lập tức. À cần đến túi dụng cụ đâu, chỉ cần quần áo thôi.


      - Tôi gặp ông ở đâu?


      - Tại Viện Smithsonian. - Và ông ta tiếp tục chuyên với ai khác trước khi gác máy.


      - Là Jack Crawford - Clarice khi đặt túi du lịch lên giường.


      Mapp đưa đầu lên khỏi quyển Luật tố tụng tội phạm Liên Bang. nhìn Clarice soạn túi xách, trong hai con mắt to của nhắm lại.


      - Tao muốn xía vào chuyện của người khác - .


      - Tao nghi ngờ gì về điều đó - Clarice biết chuyện gì chờ mình.


      Ardelia bảo đảm việc xuất bản tờ Tạp Chí Luật tại trường đại học Maryland bằng cách làm ban đêm. ta đứng nhì trong lớp và ngốn gần hết các sách giáo khoa.


      - Theo lý thuyết, mày có kỳ thi về Luật Hình vào ngày mai và kỳ kiểm tra thể dục trong hai ngày sắp tới. Ông Crawford phải biết mày có nguy cơ ở lại lớp. Nếu ông ta rằng - Làm công việc tốt đấy, sinh viên Starling - mày được trả lời - là vinh hạnh cho tôi - Mày phải nhìn thẳng vào bộ mặt tượng đá Phục Sinh của ông ta mà - Tôi mong rằng, chính ông phải làm sao cho tôi phải bị đào tạo lại vì vắng mặt vài tiết học. Mày có nghe tao ?


      - Tao có thể dự kỳ thi mà - Clarice đáp lại trong khi mở cây kẹp tóc bằng răng.


      - Tốt thôi, nhưng nếu mày thi trượt là vì mày có thời giờ học, thế mày có nghĩ họ cho mày theo khóa đào tạo lại hay sao? Mày xem thường tao quá phải ? Con ngốc kia, bọn chúng quăng mày vào trong phân như con gà chết vậy! biết ơn có mạng sống ngắn lắm, Clarice ơi!


      đường xa lộ bốn làn xe, Clarice lái chiếc Pinto cũ kỹ của mình với tốc độ mà các bánh dẫn còn bám mặt đường. Mùi dầu nóng và ẩm mốc, tiếng lẻng kẻng của sắt vụn, tiếng cọt kẹt của thanh truyền động, làm nhớ lại những kỷ niệm xưa về chiếc pick-up của cha : chen vào sát người ông trong khi các chị mặc sức hò hét.


      Ngay lúc này đây, khi lái xe trong đêm tối và các đường vạch trắng lướt nhanh dưới xe . có dư thời giờ để suy nghĩ. Các nỗi sợ bao lấy cổ của , còn các kỷ niệm mới hơn chen vào cạnh được.


      Clarice lo sợ người ta phát giác ra xác của Catherine Baker Martin. Khi khám phá ra lý lịch của ta, có thể Bill hốt hoảng. Có thể giết chết và nhét con côn trùng trong cuống họng ta.


      Có thể Crawford đem con côn trùng đó về cho người ta nhận dạng. Nếu , tại sao lại hẹn tại Viện Smithsonian? Nhưng bất cứ người nào cũng có thể mang con vật đó đến viện bảo tàng mà, nhân viên đưa thư của FBI chẳng hạn. Và ông ta lại còn bảo chuẩn bị đồ ngủ cho hai đêm.


      hiểu việc Crawford thể đường dây an toàn, nhưng nó vẫn làm cho bực mình.


      bắt làn sóng điện dành cho tin tức và gặp ngay lúc thông báo thời tiết. có thông tin mới. Chỉ là lặp lại nhàm chán của của chương trình truyền hình lúc bảy giờ tối. Con của thượng nghị sị Martin mất tích. Người ta tìm được cái áo cánh của bị cắt đôi phía sau lưng, theo kiểu của Buffalo Bill. có nhân chứng. Nạn nhân tại Virginie vẫn chưa được nhận diện.


      Bang Virginie. Trong những kỷ niệm của về nhà tang lễ ở Potter. Có điều đáng nhớ nhất. cái gì đó bền vững sáng chói giữa các lời tiết lộ mà có thể giữ chặt nó như lá bùa hộ mệnh. Tại nơi bồn rửa kia, có được sức mạnh khi nhớ về kỷ niệm của mẹ . Clarice lớn lên giữa những người và có được kinh nghiệm nhờ các đặc ân đến từ người cha quá cố; rất ngạc nhiên, xúc động vì cái kho tàng mà chính phải tự khám phá ra.


      đậu chiếc Pinto ở sau tòa nhà J. Edgar Hoover. Hai toán nhân viên truyền hình cắm chốt lề; trước ánh sáng của các đèn chiếu, đám phóng viên có vẻ quá chỉnh tề. Họ thực các phóng của họ trước hình nền của Bộ chỉ huy FBI. Clarice tránh vùng sáng đó và bộ trong khoảng cách vài trăm mét ngăn cách Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian.


      Vài cửa sổ còn bật đèn sáng cái tòa nhà cũ kỹ đó. xe tải con của cảnh sát quận Baltimore đậu lối hình vòng cung. Sau , Jeff, người tài xế của Crawford chờ chiếc xe tải con dùng trong việc theo dõi. Khi ta thấy Clarice đến, ta cái gì đó bộ đàm.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      18



      Người bảo vệ đưa Clarice lên tầng hai, ngay con voi trắng được nhồi bông của viện. Cánh cửa của cầu thang máy mở ra trước cái hành lang rộng lớn trong ánh đèn yếu ớt, nơi Crawford đứng chờ mình, hai tay thọc trong túi áo khoác.


      - Chào Starling.


      - Xin chào ông - đáp lại.


      Crawford với người bảo vệ đứng sau .


      - Cám ơn , chúng tôi biết đường rồi.


      Vai kề vai, Crawford và Clarice bước giữa các chồng thùng đựng mẫu nhân chủng học. Vài ngọn đèn hiếm hoi vẫn còn sáng. Với bộ dạng hơi khòm, vẻ suy tư của Crawford, Clarice ý thức rằng Crawford muốn đặt tay lên vai .


      chờ cho ông cái gì đó. Cuối cùng cũng đứng lại, hai tay thọc trong túi, và hai người đối mặt nhau trong im lặng của đống hài cốt.


      Crawford đứng tựa vào chồng thùng và hít hơi sâu.


      - Có thể Catherine Martin vẫn còn sống - Ông .


      Clarice gật đầu nhưng ngước mặt lên. Có thể ông ta gặp ít khó khăn hơn để chuyện với nếu nhìn ông. Ông ta có vẻ cứng rắn đấy, nhưng có cái gì đó làm ông lo lắng. tự hỏi biết vợ ông ta chết chưa. Hay chỉ đơn thuần vì ông ta quá mệt sau ngày ở cạnh bà mẹ đau khổ của Catherine.


      - dấu vết gì tại Memphis cả - Ông - Tôi nghĩ chắc bắt cóc ta tại bãi đậu xe. ai thấy gì hết. ta vào trong nhà rồi, sau đó ta trở ra vì lý do nào đó. ta định ở ngoài lâu, vì ta để cánh cửa hé mở bằng cách kéo chốt để cho cánh cửa đóng lại. Chùm chìa khóa của ta còn để cái tivi. Trong căn hộ, thứ gì bị xáo trộn cả. Tôi nghĩ chắc ta ở trong nhà lâu. ta còn chưa bước đến máy trả lời tự động, vẫn còn nhấp nháy trong phòng ngủ ta cho đến khi người bạn trai gọi cảnh sát. - Crawford thờ ơ đặt bàn tay thùng hài cốt, nhưng sau đó rút lại mau.


      - Như vậy, ta vẫn còn ở trong tay . Đám truyền thông đại chúng đồng ý phát các thông tin này trong giờ tin tức buổi tối, bác sĩ Bloom nghĩ rằng điều đó khiến cho giết ta mau hơn đấy. Nhưng bằng cách nào đó, vài tờ lá cải làm thôi.


      - Trong lần bắt cóc trước, người ta tìm thấy khá sớm y phục bị cắt đôi ở sau lưng để có thể xác định đây là nạn nhân của Buffalo Bill, trong lúc ta vẫn còn sống. Clarice nhớ lại trình tự ngược thời gian được đóng khung đăng trang nhất của các báo lá cải giật gân. Mười tám ngày trôi qua trước khi người ta tìm thấy được cái xác trôi con sông.


      - Catherine Baker ở trong phòng hóa trang của Bill và có thể chúng ta có tuần, Starling. Mức tối đa vì Bloom cho rằng kỳ hạn càng ngày càng bị rút ngắn lại.


      Đối với Crawford, đây quả là bài diễn văn dài. Cái trích dẫn mang vẻ sân khấu của “phòng hóa trang” làm cho Clarice bực mình, chờ ông đề cập đến điểm chính.


      - Nhưng biết , Staring, lần này có thể chúng ta có ít may mắn đây.


      Clarice ngước mắt lên, chăm chú và tràn đầy hy vọng.


      - Chúng ta tìm được con côn trùng khác. Mấy người bạn , Pilcher và... người kia...


      - Roden.


      - ... Phải, họ nhận diện nó.


      - Ở đâu vậy?... tại Cincinnati à? mà chúng ta còn giữ trong tủ lạnh à?


      - . Hãy theo tôi, tôi chỉ cho. Tôi rất muốn biết nghĩ gì.


      - Khoa côn trùng học nằm ở bên kia, ông Crawford.


      - Tôi biết mà.


      Họ đến cửa khoa nhân chủng học. Ánh đèn và tiếng xuyên qua cửa kính. bước vào.


      Ở ngay giữa căn phòng, ba người đàn ông trong áo choàng trắng làm việc quanh cái bàn dưới ánh sáng chói chang. Clarice thấy họ làm gì. Jerry Burroughs của Khoa thái độ, nhìn qua vai của họ và ghi chép. mùi quen quen bao phủ căn phòng.


      trong ba người đó đứng lên để bước đến bồn rửa và mới thấy được cái mâm bằng inox được đặt bục lát, “Klaus”, cái đầu mà tìm được trong kho hàng tại Baltimore.


      - Con côn trùng nằm trong cuống họng của Klaus - Crawford - Chờ chút, Starling. Thế nào Jerry, liên lạc được trung tâm chưa?


      Burroughs đọc các ghi chú của ta trong điện thoại. lấy tay che micro lại.


      - Rồi Jack, họ sấy khô hình của Klaus.


      Crawford chụp lấy điện thoại.


      - Bobby, cần phải chờ Interpol. Hãy chuyển tấm hình bằng điện báo cùng bản báo cáo y khoa, cho các nước Bắc Âu, Bộ chỉ huy RAF và Hà Lan. nhớ Klaus có thể là thủy thủ tàu buôn. cũng nhớ nếu Sở sức khỏe quốc gia có thể có hồ sơ về vụ bể gò má. Hãy gọi cái đó, là sao rồi nhỉ... cung gò má. Chuyển luôn hai lược đồ răng, cho toàn thế giới và cho Hiệp hội răng. Họ định cho nó tuổi, nhưng hãy nhấn mạnh rằng đây chỉ là phỏng đoán, vì người ta thể làm gì hơn được với các đường nối của sọ. - xong, ông đưa điện thoại lại cho Burroughs. - Đồ đạc của đâu rồi, Starling?


      - Trong phòng bảo vệ.


      - Chính Viện John Hopkins tìm ra con côn trùng - Crawford cho biết trong khi họ chờ thang máy - Họ khám nghiệm cái đầu cho cảnh sát Baltimore. Nó nằm trong cuống họng giống y đúc với con côn trùng tại Potter.


      - Giống con côn trùng tại Potter.


      - cười à. Viện John Hopkins tìm thấy trong ngày hôm nay vào lúc mười chín giờ. Ông công tố viên gọi điện cho tôi trong lúc tôi máy bay. Họ gởi hết mọi thứ, Klaus và tất cả những thứ khác để chúng ta có thể xem xét tại chỗ. Họ cũng muốn biết ý kiến của bác sĩ Angel về tuổi của Klaus và biết bị bể gò má vào lúc mấy tuổi. Họ làm giống như ta, họ tham khảo ý kiến của Viện Smithsonian.


      - Hãy chờ xem, tôi phải suy nghĩ mới được. Ông vừa có thể Buffalo Bill giết chết Klaus cách đây nhiều năm rồi phải ?


      - cho là gượng gạo quá có phải ? trùng hợp quá kỳ lạ phải ?


      - Ngay lúc đó đúng thế.


      - Hãy nghiền ngẫm thêm chút nữa coi.


      - Chính nhờ bác sĩ Lecter mà tôi tìm được Klaus.


      - Rồi sao.


      - Lecter người bệnh nhân của ông, Benjamin Raspail, khẳng định chính mình hạ sát . Nhưng Lecter đây chỉ là vụ nghẹt thở tính dục ngẫu nhiên thôi.


      - Đó là điều ông ta .


      - Ông nghĩ rằng bác sĩ Lecter biết vì sao Klaus chết mà phải do Raspail và cũng phải là vụ nghẹt thở do hành vi tính dục, phải ?


      - Klaus có con côn trùng trong cuống họng, ở Potter có con côn trùng trong cuống họng. Đây là lần đầu tôi thấy vụ như thế này. Tôi chưa bao giờ nghe và cũng chưa hề đọc bất cứ ở đâu. Thế nghĩ gì?


      - Tôi nghĩ về việc ông bảo tôi đem quần áo cho hai ngày. Ông muốn tôi hỏi Lecter có phải ?


      - là người duy nhất ông ta chịu chuyện. - Crawford có vẻ buồn khi ông thêm - Tôi cho là đồng ý chứ?


      chỉ gật đầu.


      - Thế , chúng ta tiếp đường .



      19



      - Trước khi chúng tôi bắt Lecter về tội giết người, ông ta hành nghề xuất sắc khoa tâm lý học trong nhiều năm - Crawford , - Ông ta làm nhiều cuộc giám định tâm lý học cho các tòa án của Maryland, Virginie và nhiều tiểu bang khác của miền đông duyên hải. Ông ta gặp rất nhiều kẻ điên phạm tội. Ai có thể biết ông ta có thả tên nào đó, chỉ cho vui thôi. Đó có thể là nguồn thông tin của ông ta. Vả lại ông ta biết Raspail rất , mà có thể tiết lộ cho ông ta nhiều thứ trong những buổi chữa trị. Có thể cho ông ta biết ai giết Klaus.


      Crawford ngồi đối mặt với Clarice ở đằng sau chiếc xe tải chạy hết tốc lực quốc lộ 95 về hướng Baltimore. Chắc Jeff nhận được lệnh phải chạy hết ga.


      - Lecter đề nghị giúp đỡ của ông ta mà cần tôi phải lên tiếng. Ông ta làm việc đó và nó mang lại kết quả gì khả quan cả; lần cuối cùng ông ta “giúp đỡ” Will Graham nhận lấy mấy nhát dao mặt, bởi vì việc đó làm cho ông ta vui.


      - Nhưng với con côn trùng trong họng của Klaus, con côn trùng trong họng của ở Potter, tất nhiên tôi phải quan tâm rồi. Alan Bloom chưa hề nghe đến điều này, cả tôi cũng thế. Vậy có gặp việc gì tương tự như thế , Starling? Mấy lúc sau này, đọc các tạp chí nhiều hơn tôi mà.


      - , chưa bao giờ. Nhét vật gì đó có, chứ con côn trùng .


      - Để bắt đầu, có hai việc. Trước nhất, chúng ta đặt giả thuyết cho rằng bác sĩ Lecter biết cái gì đó cụ thể. Kế đến, chúng ta biết là ông ta chỉ tìm thú vui cho mình thôi. Chúng ta được quên điều này. Phải làm sao cho ông ta muốn cho Buffalo Bill bị bắt trước khi giết chết Catherine Martin. Thú vui và các lợi ích ông ta có thể rút ra được, phải được xem xét theo chiều hướng đó. Chúng ta có cách nào để hăm dọa ông ta được, người ta lấy hết các sách và bàn cầu của ông ta rồi.


      - Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta trình hết việc và đề nghị tặng cho ông ta cái gì đó, phòng giam có cửa sổ chẳng hạn? Đó là thứ ông ta cầu khi đề nghị giúp chúng ta.


      - Giúp chúng ta. phải tố giác người nào đó. Việc tố giác cho phép ông ta biểu hiểu biết của mình. Dường như chưa thuyết phục được ông ta lắm. muốn cho ông ta biết. Hãy nghe đây, Lecter có vội. Ông ta theo dõi vụ này như trận cầu. Nếu chúng ta cầu ông ta tố giác, ông ta chờ đợi. Ông ta làm ngay đâu.


      - Dù để nhận được phần thưởng? cái gì đó mà ông ta có được nếu Catherine Martin chết ?


      - Có thể chúng ta là chúng ta biết ông ta biết tên thủ phạm và muốn ông ta tố giác . Điều làm cho ông ta vui hơn nữa là cố gắng nhớ lại, trong nhiều ngày liền, làm kích thích niềm hy vọng của thượng nghị sĩ Martin và để cho Catherine phải chết. Sau đó ông ta hành hạ bà mẹ của nạn nhân kế tiếp và kế tiếp, làm như thể ông ta sắp nhớ ra vậy, mà điều này còn lý thú hơn cửa sổ. Ông ta sống nhờ những thứ đó, sống bằng thứ đó.


      - Starling biết , tôi nghĩ con người khi già khôn ngoan hơn, nhưng người ta tránh được nhiều thứ. Và điều đó là có thể với chúng ta trong trường hợp này.


      - Như vậy, tôi phải làm cho Lecter nghĩ rằng tôi đến gặp ông ta đơn thuần vì trực giác và các hiểu biết của ông ta.


      - Đúng thế.


      - Tại sao ông ra hết tất cả các lời giải thích đó? Tại sao chỉ đơn giản cho tôi biết những gì tôi phải hỏi ông ta?


      - Tôi rất thành với . Và tôi cũng làm như thế khi có được vị trí quan trọng, về lâu về dài, chỉ có điều đó mới tồn tại thôi.


      - Vậy tôi được việc tìm thấy con côn trùng trong cuống họng của Klaus và cả mối liên hệ giữa Klaus với và Buffalo Bill.


      - . trở lại gặp ông ta bởi kiện ông ta tiên đoán việc Buffalo Bill lột da đầu gây ấn tượng mạnh cho . Tôi muốn nghe đến ông ta nữa, và cả Bloom cũng thế. Nhưng tôi cho toàn quyền quyết định. có quyền cung cấp cho ông ta vài đặc ân nào đó mà chỉ có ngài thượng nghị sĩ Martin mới có thể có được. Ông ta phải hiểu là ông ta phải gấp rút lên vì lời đề nghị đó chấm dứt nếu Catherine chết. Trong trường hợp này bà thượng nghị sĩ còn quan tâm đến ông ta nữa. Nếu ông ta thất bại, chính là vì ông ta đủ khôn lanh và biết đủ nhiều để thực được những gì ông ta hứa, chớ phải vì ông ta sai các điều tiết lộ của chính ông ta để chống lại chúng ta.


      - Thế bà thượng nghị sị còn quan tâm đến ông ta nữa à?


      - Tốt hơn hết, dưới lời tuyên thệ, có thể biết câu trả lời của vấn đề này.


      - Tôi hiểu rồi. Như vậy là bà thượng nghị sĩ chưa biết gì hết. Ông này gan cùng mình. Hiển nhiên ông rất ngại can thiệp, sợ việc bà thượng nghị sĩ phạm sai lầm khi muốn liên hệ trực tiếp với bác sĩ Lecter.


      - tin như thế sao?


      - Đúng vậy. Làm sao ông ta có thể hướng chúng ta khá ràng đến Buffalo Bill mà cho thấy ông ta biết chính xác rất nhiều việc được? Làm sao ông ta có thể làm được điều đó chỉ với trực giác cùng những hiểu biết theo lý thuyết mà thôi?


      - Tôi nữa, Starling. Có thể ông ta có dư thời giờ để suy nghĩ. Thời gian cần thiết để chúng ta tìm thấy nạn nhân thứ sáu của chúng ta.


      Điện thoại có máy gây nhiễu reo lên và nhấp nháy cho loạt cuộc gọi mà Crawford cầu với tổng đài của FBI.


      Trong suốt hai mươi phút sau đó, ông ta chuyện với các thanh tra cảnh sát Hà Lan và Hiến binh Hoàng gia mà ông ta quen, cấp chỉ huy cảnh sát Đan Mạch từng học ở Quantico, làm phụ tá cho ông sếp Ban An ninh Chinh trị của cảnh sát Đan Mạch. Ông làm cho Clarice phải ngạc nhiên khi chuyện bằng tiếng Pháp với ban trực đêm của cảnh sát Bỉ. Với mọi người, ông cắt nghĩa rằng phải nhận dạng Klaus và các đồng bọn càng sớm càng tốt. Mỗi thẩm quyền xét xử nhận được lời cầu máy télex riêng của Interpol, nhưng cộng cuộc gọi trực tiếp, nó nằm tại máy trong nhiều giờ liền.


      Clarice hiểu rằng Crawford sử dụng chiếc xe tải này vì hệ thống điện thoại vô tuyến có trang bị hệ thống gây nhiễu, nhưng ông làm việc hữu hiệu tại văn phòng của mình. Ông phải làm trò ảo thuật với cuốn sổ tay con cái bàn tí xíu trong ánh sáng yếu ớt và cả hai đều tưng lên mỗi khi chiếc xe cán lên dải nhựa đường. Clarice chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng biết, thông thường cấp trưởng của sở bao giờ di chuyển chiếc xe tải cho cuộc chạy đua như thế này. Ông vẫn có thể ra lệnh bằng điện thoại vô tuyến như thường, nhưng rất mừng là ông làm như thế.


      Clarice có cảm tưởng im lặng và yên tĩnh của chiếc xe, thời gian ấn định cho công tác này được thực có phương pháp, và ông phải trả giá rất đắt. Những gì Crawford điện thoại xác nhận điều này.


      Bây giờ ông với ông giám đốc.


      - Thưa ông, . Việc đó có thức tỉnh họ ?... Trong bao lâu? Thưa ông . . có micro. Tommy à, tôi xin nhận lấy trách nhiệm và muốn như thế. Tôi muốn ta có micro người. Và bác sĩ Bloom cũng đồng ý như thế. ấy bị kẹt lại tại phi trường O’Hare vì sương mù. ta trở về ngay khi có thể. Đồng ý.


      Sau đó Crawford có cuộc chuyện bí mật với y tá ở nhà ông ta. Sau khi gác máy, ông nhìn xuyên qua cửa sổ, ra bên ngoài tối đen gần cả phút, tay để đầu gối, cầm cặp kính bằng hai ngón tay: khuôn mặt ông ta, được các chiếc xe chạy ngược chiều chiếu sáng, có vẻ như trần trụi. Kế đến ông đeo kính vào và xoay qua Clarice.


      - Chúng ta có được Lecter trong ba ngày. Nếu chúng ta có được kết quả nào, cảnh sát Baltimore quấy nhiễu ông ta cho đến khi tòa án tống khứ họ.


      - Quấy nhiễu ông ta? Lần này mang lại kết quả gì hơn lần sau cùng đâu.


      - Ông ta cho họ cái gì thế? con gà bằng giấy phải ?


      - Phải, hình xếp origami. - Cái đó vẫn còn nằm trong túi xách của Clarice. kéo thẳng ra để cho nó mổ cái bàn .


      - Tôi chê trách gì cảnh sát Baltimore hết. Ông ta là tù nhân của họ mà. Nếu người ta tìm được Catherine trong con sông, họ có thể cho bà mẹ biết rằng họ làm đủ hết mọi cách rồi.


      - Bà Thượng nghị sĩ Martin ra sao rồi?


      - Bà ta rất can đảm nhưng đau khổ lắm. Bà là phụ nữ thông minh, cương quyết và đầy lý trí. thích bà ta thôi, Starling.


      - Thế Viện John Hopkins và Ban Hình Baltimore có giữ bí mật về con côn trùng được tìm thấy trong cuống họng của Klaus ? Chúng ta có thể ngăn cản đám báo chí đề cập đến việc này ?


      - Ít nhất là trong ba ngày.


      - Chắc dễ chút nào.


      - Chúng ta thể tin tưởng Frederick Chilton hoặc với nhân viên của bệnh viện được. Nếu Chilton biết được cả thế giới cũng biết. Ông ta tất nhiên biết có ở đây, chỉ đơn thuần làm công việc để giúp cho cảnh sát Baltimore, bằng cách lý giải vụ án của Klaus, mà chuyện này hề liên quan gì với Buffalo Bill cả.


      - Cũng vì thế mà tôi phải đến muộn sao?


      - Đó là cách duy nhất tôi có thể ban cho . Sẵn đây, vụ con côn trùng trong họng của ở Potter được các báo đăng vào ngày mai đấy. Cái tin này bị rò rỉ từ văn phòng điều tra những vụ chết bất thường của Cincinnati, vì vậy nó còn là bí mật nữa. có thể cho Lecter biết chi tiết này và nó quan trọng khi ông ta biết là chúng ta tìm thấy con khác trong họng của Klaus.


      - Chúng ta có thể đề nghị gì với ông ta?


      - Tôi nghĩ đây - Crawford trả lời trong khi nhấc điện thoại lên.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      20



      phòng tắm rộng lớn với gạch men trắng tinh, các cửa sổ và trang thiết bị của Ý bóng loáng, nổi bật các bức tường trơ trụi bằng gạch cũ xưa. Trong đó có bàn trang điểm với vô số lọ mỹ phẩm và hai bên có hai chậu cây xanh cùng cái gương đầy hơi nước. Từ dưới vòi sen phát ra giọng ngân nga bài hát Cash for Your Trash của Fats Waller, được trích từ vở ca nhạc kịch Aint misbehavin.


      Dưới vòi sen là Jame Gumb, ba mươi bốn tuổi người da trắng. ta có thân hình bệ vệ, nặng chín mươi ba ký, tóc nâu với đôi mắt xanh, dấu vết đặc biệt. ta đọc tên mình giống như James mà có chữ s. Jame. ta muốn như thế.


      Sau khi tắm xong lần, Gumb thoa lên người loại dầu làm săn da và dùng bông tắm để chà những chỗ người mà ta thích đụng vào. Chân và bàn chân ta đầy lông.


      Gumb chà người cho đến khi nó đỏ lên, sau đó mới thoa thêm loại kem dưỡng da. tấm gương to cho thấy được chân giấu đằng sau màn kéo treo thanh sắt.


      Khi chà vào vùng giữa hai đùi, ta kéo tấm màn và nhìn vào gương trong bộ điệu lả lơi, mặc dù việc đó làm cho cơ quan sinh dục của ta đau khủng khiếp.


      - “Làm cái gì đó cho em . Làm cái gì đó cho em NGAY BÂY GIỜ”. - ta dùng vực cao nhất của cái giọng sâu tự nhiên của mình, và nghĩ như thế hay hơn. ta uống Premarin, loại kích thích tố trong thời gian khá lâu, sau đó là diéthylstilboestrol, nhưng vẫn có tác dụng gì cho giọng của ta cả, tuy nhiên làm rụng bớt lông ngực trước cặp vú trở nên tròn hơn. Phương pháp điều trị điện phân làm rụng hết râu và tạo hình chữ V ngay trước trán, nhưng ta vẫn chưa giống phụ nữ. ta có dáng vẻ đàn ông đánh nhau bằng móng tay của mình hơn là dùng nắm đấm.


      Phải quan hệ với ta thời gian dài mới biết đây là cố gắng nghiêm túc và vụng về để thay đổi giới tính hoặc của hình biếm họa hận thù. Nhưng người nào qua lại với ta lâu.


      Con chó con cào vào cánh cửa khi nghe tiếng ta. Gumb choàng áo tắm vào rồi mở cửa cho nó vào. ta ôm con chó xù lên và hôn lưng nó cái.


      - Đưươợccc rồi. Mày đói rồi, phải Quý Báu? Tao cũng thế.


      ta chuyền con chó qua tay kia để mở cửa. Nó vặn mình để bảo ta bỏ nó xuống.


      - Từ từ nào, con - Với bàn tay , ta lấy khẩu cạc bin M-14 để dưới đất cạnh giường và bỏ nó lên cái gối. - nào. Chúng ta ăn tối nhé! - thả con chó xuống thảm và lấy quần áo mặc vào. Con chó nôn nóng lót tót theo xuống cầu thang đến nhà bếp.


      Gumb lấy ba khay ăn từ trong lò vi ba ra. Hai cho ta và cho con chó xù.


      Con chó ngấu nghiến hết mọi thứ trong đĩa trừ phần rau, còn Gumb chừa lại xương trong hai cái mâm.


      cho con chó ra ngoài bằng cửa sau và đứng nhìn nó hạ mông xuống trong ánh sáng mờ trước thềm nhà.


      - Mày chưa làm công việc đó à, thôi được tao nhìn mày đâu - Nhưng ta lén nhìn qua khe của mấy ngón tay - Ồ, tuyệt quá, mày là tiểu thư rồi đấy. Thôi nào, chúng ta ngủ đây.


      Gumb rất thích ngủ. Mỗi đêm, ngủ đến mấy chặp. cũng thích đứng lên và ngồi trong phòng mà bật đèn, hoặc làm việc ngay giữa đêm khuya khi ta có hứng.


      Vào lúc tắt đèn nhà bếp, đứng lại và trề môi khi nhìn những thứ còn lại của bữa ăn tối. gom ba cái mâm lại và lau bàn.


      công tắc điện ở ngay đầu cầu thang. Bật sáng các ngọn đèn dưới hầm, Jame Gumb xuống dưới với mấy cái mâm tay. Con chó con sủa ở phía sau và ta mở cửa cho nó.


      - Đáng đời mày, Billy ngu ngốc. - ta ôm con chó lên và đưa nó xuống cùng. Con chó ngọ nguậy và chỏ mỏ vào mấy cái mâm. - được, mày ăn nhiều rồi - ta bỏ nó xuống đất và nó chạy theo cho đến tầng hầm nằm nhiều bậc khác nhau.


      Ngay dưới nhà bếp, có cái giếng cạn từ lâu. Bờ miệng giếng bằng đá, cách mặt đất gần sáu mươi phân. Cái nắp bằng gỗ, khá nặng đối với đứa trẻ muốn giở nó lên, vẫn còn nguyên. đó có miệng khá lớn để người ta thòng cái xô xuống đó. Nó mở và Gumb bỏ hết mớ đồ ăn dư xuống dó.


      Xương và mấy miếng rau biến mất dạng trong bóng tối đen của cái giếng. Con chó con ngồi xuống để xin ăn.


      - , , còn gì đâu - Gumb - Mày như thế đủ mập rồi.


      ta bước lên cầu thang và huýt sáo gọi con chó. cử chỉ nào cho thấy ta nghe tiếng gọi được phát ra từ cái lỗ đen kia:


      - TÔI VAAANNNN ÔÔNNNGGG!





      21



      Clarice Starling đến bệnh viện của Baltimore mình khoảng sau hai mươi hai giờ. hy vọng bác sĩ Frederick Chilton còn ở đó, nhưng ông ta chờ trong phòng làm việc của mình.


      Ông mặc áo vét thể thao kiểu với ca rô lớn. Trước bàn làm việc của ông chỉ có chiếc ghế lưng thẳng được vít chặt xuống sàn nhà. Clarice đứng ngay cạnh đó và những tiếng “Xin chào ông” của có tiếng đáp lại. ngửi thấy mùi hăng hắc lạnh tanh của mấy cái tẩu được Chilton xếp cái giá, cạnh máy hút ẩm.


      Sau khi xem xong bộ sưu tập các đầu máy xe lửa Franklin Mint, ông mới quay qua nhìn .


      - có muốn tách cà phê ?


      - Dạ thưa , cám ơn ông. Xin ông thứ lỗi cho tôi vì quấy rầy ông trong giờ khuya khoắt như thế này?


      - vẫn theo dõi vụ cái đầu đó à...?


      - Đúng vậy. Văn phòng công tố ở Baltimore có với tôi là họ thỏa thuận mọi thứ với ông rồi.


      - Ờ, phải rồi. Tôi hợp tác tay trong tay với cảnh sát mà, Starling. Thế làm bài báo hay luận án?


      - Thưa .


      - chưa bao giờ đăng bài báo nào trong tạp chí chuyên khoa sao?


      - , chưa bao giờ. Đây chỉ là công tác bé mà văn phòng điều tra các vụ án mạng bất thường của Biệt đội hình quận Baltimore nhờ tôi. Chúng ta giao vụ án cho họ và chỉ còn giải quyết vài chi tiết lặt vặt thôi. - Clarice nhận ra mình rất ghét tay bác sĩ Chilton này và điều đó giúp láo dễ hơn.


      - có máy ghi nào , Starling?


      - Có, tôi...


      - có giấu micro nào để ghi tất cả những gì bác sĩ Lecter với ?


      - .


      Ông Chilton lấy trong ngăn tủ ra máy Pearlcorder và gắn băng cát xét vào trong đó. - Nếu thế, nên bỏ cái này vào trong túi xách . Tôi cho bản sao chép. Điều này có thể giúp ích cho việc bổ sung các ghi chép của .


      - Thưa , tôi muốn làm thế thưa bác sĩ Chilton.


      - Tại sao chứ? Các cấp thẩm quyền của Baltimore có cầu tôi phân tích tất cả những gì Lecter về vụ án Klaus mà.


      Hãy cố phỉnh phờ Chilton, Crawford dặn như thế. Tôi có thể có bất cứ lúc nào lệnh của tòa án, nhưng Lecter biết ngay. Ông ta biết các ý nghĩ của Chilton như máy quét ảnh vậy.


      - Người ta khuyên tôi thử tiếp cận ông ta cách chính thức. Nếu tôi thâu băng lén và ông ta biết được, điều đó khiến ông ta mất lòng tin ở tôi. Tôi tin chắc ông hiểu điều này.


      - Nhưng làm sao ông ta biết được?


      “Ông ta đọc báo với tất cả những thứ khác mà mày biết được, thằng khốn.” thầm nghĩ.


      trả lời câu hỏi.


      - Nếu ông ta chịu cung khai, ông là người đầu tiên biết được việc đó và tôi cũng tin chắc là người ta gọi ông ra làm chứng với tư cách là chuyên gia. Ngay lúc này, chúng ta chỉ cần ông ta cho đầu mối thôi.


      - Nhưng có biết tại sao ông chỉ muốn chuyện với ?


      - Thưa , bác sĩ.


      Ông lướt nhìn các bằng cấp và giấy chứng nhận được treo các tường trong phòng.


      Rồi từ từ xoay đầu về phía Clarice:


      - Nhưng có biết mình làm gì ?


      - Đương nhiên rồi. - Đôi chân của Clarice bắt đầu run vì chạy bộ quá nhiều. muốn tranh cãi với bác sĩ Chilton và hao phí cái sức lực mà rất cần để đương đầu với Lecter.


      - Này, đến bệnh viện của tôi để tra hỏi bệnh nhân của tôi và từ chối cung cấp cho tôi các thông tin mà thu thập được sao?


      - Tôi chỉ thi hành các lệnh tôi nhận thưa bác sĩ Chilton. Tôi có tại đây số điện thoại riêng của văn phòng điều tra. Nếu ông thấy cần, xin ông cứ gọi điện và chuyện trực tiếp với ở đó, hoặc để cho tôi kết thúc công việc làm của tôi.


      - Tôi phải là tên gác tù, thưa Starling. phải bữa tối, tôi đến đây để đưa rước khách ra vào. Tôi có vé xem Holiday on ice.


      xong, ông mới nhận ra là mình vừa vé. Clarice vừa hiểu thấu được cách sống của ông và ông nhận ra điều đó.


      nhìn thấy cái tủ lạnh trống trơn, các miếng vụn còn sót lại của bữa ăn đơn độc, quần áo được chất chồng trong nhiều ngày trước khi giặt sạch. đoán được cái lối sống khốn nạn và độc núp đằng sau những nụ cười để lộ ra hàm răng vàng của ông ta và tự nhủ là được thương xót, chuyện, hoặc xoay mặt chỗ khác. nhìn thẳng vào mặt ông với cái gật đầu khó nhận thấy, như ngọn giáo xuyên thấu người ông, bằng sắc đẹp và hiểu biết của mình. Và dư biết giờ ông chỉ có ước muốn duy nhất là kết thúc cuộc chuyện này.


      Ông cho gọi thanh niên giúp việc tên Alonzo đưa .

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      22



      Trong lúc băng ngang dưỡng trí viện cùng Alonzo về hướng phòng giam cuối cùng, Clarice nhắm mắt lại để bỏ ngoài tai những tiếng la hét, rồi cánh cửa đóng, dù cảm nhận được khí lướt da . Áp lực càng lúc càng mạnh, giống như thể sâu xuống nước vậy.


      cận kề các bệnh nhân tâm thần, và hình ảnh Catherine Martin hai tay bị trói lại giao nộp cho trong đám này, khiến Clarice có thêm nhiều can đảm. Nhưng có can đảm thôi cũng chưa đủ. Còn cần phải bình tĩnh, phải nhạy bén hơn cả các loại vũ khí. phải chứng tỏ được kiên nhẫn, chống lại cái ý muốn hoàn tất cho mau công việc này. Nếu bác sĩ Lecter biết được câu trả lời, chắc phải ra sức lục lạo trong mớ ý nghĩ được giấu kỹ của ông ta.


      Alonzo nhấn chuông khung cửa nặng nề ở trong cùng.


      - “Hãy dạy cho chúng con tình thương và siêu thoát, hãy dạy cho chúng con biết đến bình thản”.


      - Xin lỗi muốn gì thế? - Alonzo hỏi và Clarice nhận ra là mình vừa lớn tiếng.


      ta giao lại cho người phụ y tá to con mở cửa. nhận thấy lúc Alonzo rời xa chỗ này, ta làm dấu thánh giá.


      - Rất vui được gặp lại - người đàn ông kia trong lúc đóng cánh cửa lại.


      - Chào Barney.


      ta cầm quyển sách, ngón trỏ để ngay trang đọc. Đó là quyển Lý trí và tình cảm của Jane Austen. Clarice ở trong tâm trạng nhận thấy đủ mọi việc.


      - có muốn đèn sáng hơn ? - ta hỏi.


      Đèn trong hành lang được sáng lắm. Ở cuối đầu kia, ánh đèn chói chang của căn phòng chiếu ra đến bên ngoài.


      - Bác sĩ Lecter chưa ngủ sao?


      - Lúc đêm tối bao giờ dù cho đèn có tắt nữa.


      - Nếu vậy cứ giữ nguyên như thế .


      - Tôi muốn tắt cái tivi kia - Lúc này nó được dời đến ngay giữa hành lang. - Vài tù nhân có thể nhìn được khi áp sát mặt vào song sắt.


      - Hay lắm, nhưng vui lòng chỉ tắt thanh thôi, vẫn còn nhiều người muốn xem. Cái ghế để chỗ cũ nếu muốn dùng nó.


      Clarice dọc cái hành lang sáng sủa đó và dám nhìn trái hay phải. Tiếng chân của dường như vang quá lớn. có tiếng động nào khác ngoài tiếng ngáy từ trong căn phòng phát ra, và tiếng cười khẩy ở căn phòng khác.


      Phòng giam của Miggs chủ nhân mới. thấy cặp chân dài nằm sàn còn cái đầu tựa vào song sắt. nhìn vào khi ngang qua đây. người đàn ông ngồi dưới đất đống giấy bị xé vụn. Khuôn mặt ta vô hồn. Hình của tivi phản chiếu trong ánh mắt ta trong khi làn nước dãi chảy dài từ khóe miệng đến vai.


      tránh nhìn vào phòng giam của bác sĩ Lecter cho đến khi nhìn thấy ông. ngang qua đó với tượng nổi gai ở giữa lưng và bước đến tắt thanh của tivi.


      Trong cái phòng giam sáng trưng, bác sĩ Lecter ngồi đó, trong bộ áo ngủ trắng của dưỡng trí viện. Những màu duy nhất là màu của mắt, tóc và cái miệng đỏ khuôn mặt biết đến ánh sáng mặt trời từ rất lâu nên gần như hòa lẫn với cái sắc trắng bao quanh; ngay cổ áo ông ta, nét mặt dường như bị treo lơ lửng trong khí. Ông ngồi tại cái bàn đằng sau tấm lưới nylon giữ ông cách xa song sắt. Ông ta vẽ giấy với bàn tay trái làm mẫu. Trong khi nhìn, ông xoay tấm hình lại và xòe hết bàn tay ra, rồi dùng ngón tay út như cây bút chì đánh bóng mờ, chỉnh sửa lại lằn vẽ bằng than.


      tiến lại gần song sắt hơn và ông ngước đầu lên.


      - Xin chào bác sĩ Lecter.


      Đầu lưỡi ông ta ra, đỏ như như đôi môi vậy. thấy nó đụng ngay giữa môi rồi thụt vào.


      - Clarice.


      nghe tiếng rè của giọng kim và tự hỏi biết bao lâu rồi ông chuyện.


      - thức quá khuya cho ngày học.


      - phải ngày học - đáp lại với niềm hy vọng giọng của mình đủ lớn - Hôm qua tôi đến Virginie...


      - bị thương à?


      - , tôi...


      - bị băng mà.


      nhớ lại.


      - Tôi chỉ bị xước tại cạnh hồ bơi trong ngày hôm nay. - Cái băng nơi cổ chân thể nhìn thấy được. Chắc ông ta cảm nhận đó thôi. - Hôm qua tôi đến Virginie. Ở đó người ta tìm được cái xác, nạn nhân cuối cùng của Buffalo Bill.


      - Chưa là cái cuối cùng đâu, Clarice.


      - Cái áp cuối.


      - Đúng.


      - Nó bị lột da đầu. Đúng như những gì ông với tôi.


      - có phiền là tôi vẫn tiếp tục vẽ trong khi chúng ta trò chuyện ?


      - Ồ sao hết.


      - có xem xét cái xác ?


      - Có.


      - có nhìn thấy những lần thử trước của ?


      - , chỉ thấy hình mà thôi.


      - cảm thấy những gì?


      - Nỗi sợ hãi, nhưng sau đó tôi quá bận...


      - Rồi sau đó?


      - Tôi bị rối trí.


      - Nhưng có thực nhiệm vụ của cách bình thường ?


      - Hoàn toàn.


      - Vì Jack Crawford à? Hoặc giả ông ta chỉ gọi điện cho từ nhà ông ta?


      - Ông ta có mặt ở đó.


      - Này Clarice, làm cho tôi vui lòng nhé. hãy nghiêng cái đầu qua bên như thể vừa ngủ . Thêm chút nữa. Cám ơn, như thế được rồi. Nếu thích, cứ ngồi xuống. có kể lại cho Crawford những gì tôi cho nghe trước khi người ta tìm thấy cái xác đó ?


      - Có, nhưng ông ta quan tâm.


      - Và sau khi ông ta nhìn thấy cái xác?


      - Ông ta trao đổi lâu với chuyên gia của trường đại học...


      - Alan Bloom.


      - Đúng vậy. Bác sĩ Bloom Buffalo Bill nhập vào vai nhân vật mà báo chí tạo ra, hình ảnh của Buffalo Bill lột da đầu được các báo giật gân nhắc đến. Bác sĩ Bloom là bất cứ ai cũng có thể tiên đoán việc đó.


      - Bloom có tiên đoán à?


      - Đó là điều ông ta .


      - Ông ta tiên đoán nhưng với bất cứ ai. Tôi hiểu rồi. Nhưng nghĩ như thế nào, Clarice?


      - Tôi biết phải nghĩ gì nữa.


      - biết vài khái niệm về tâm lý học cũng như về pháp y. câu ngay nơi mà hai khoa đó gặp nhau, có phải ? Thế có bắt được cái gì , Clarice?


      - Đâu có dễ vậy.


      - Hai môn nó dạy cho những gì rồi về con người Buffalo Bill đó?


      - Theo sách vở, tên tàn ác.


      - Cuộc đời thể nào được tìm thấy trong sách vở, Clarice à; giận dữ mang dáng vẻ của dâm dãng; bệnh lupút bị xem như mày đay. - Bác sĩ Lecter vẽ xong bàn tay trái và chuyển qua vẽ bàn tay phải bằng với bàn tay trái cũng đẹp kém. - vừa mới đến cuốn sách của Bloom.


      - Phải.


      - có đọc những gì ông ta viết về tôi ?


      - Có.


      - Thế ông ta mô tả tôi như thế nào?


      - Như người chống đối xã h٩.


      - Theo , bác sĩ Bloom bao giờ sai lầm phải ?


      - Tôi vẫn chờ ông ta đến tính nông cạn của tình trạng xúc động.


      Nụ cười của Bác sĩ Lecter làm lộ mấy cái răng trắng của ông.


      - thiếu chuyên gia, Clarice - Bác sĩ Chilton về Sammie, đứng đằng sau , là tên tâm thần phân liệt biến dạng, thể cứu chữa được. Ông ta bỏ ta vào trong phòng của Miggs bởi vì ông ta cho rằng Sammie vĩnh biệt với cuộc đời rồi. có biết những người tâm thần phân liệt biến dạng kết thúc cuộc đời của họ như thế nào ? đừng có ngại, ta nghe được đâu.


      - Đó là những người khó chữa khỏi nhất. Thông thường điều đó kết thúc bằng khép mình lại và tự hủy nhân cách mà thôi.


      Bác sĩ Lecter rút cái gì đó từ trong chồng giấy của ông ta và bỏ nó vào mâm truyền thức ăn. Clarice kéo sợi dây.


      - Hôm qua Sammie đưa cho tôi cái này cùng với bữa ăn tối.


      Đây là mẩu giấy với vài hàng được viết bằng bút chì nguệch ngoạc và sai chính tả.




      TÔI MƯỚN NHÀN THẤY JEDU


      TÔI MƯỚN CÀNG CHÚA GIÊ XU


      TÔI CÓ THỂ CÀNG JÉDU


      NẾU TÔI NGOAN NGOÃN




      SAMMIE




      Clarice nhìn ngược qua vai phải của mình. Đầu tựa vào song sắt, Sammie nhìn trân trân vào bức tường của phòng giam.


      - có thể đọc lớn tiếng được ? ta nghe được đâu.


      - Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn được cùng Chúa Giêsu. Tôi có thể cùng Jésus nếu tôi ngoan ngoãn.


      - , , được. Lần này được có nhịp như bài xướng nu na của trẻ con ấy. luật thay đổi nhưng cường độ vẫn giữ nguyên - Lecter gõ nhịp . - con gà mái bức tường, mổ bánh mì cứng - thấy , với lòng nhiệt tâm hơn - Tôi muốn được nhìn thấy Jésus. Tôi muốn cùng Chúa Giêsu.


      - Tôi hiểu rồi - Clarice bỏ mảnh giấy vào lại trong cái mâm.


      - , chả hiểu gì cả. - Bác sĩ Lecter phóng người đứng lên, và cái thân hình mềm dẻo của ông bất ngờ trở nên quái đản trong tư thế của người lùn dị hình, bắt đầu nhảy và đánh nhịp, giọng vang như máy phát tín hiệu - Tôi muốn nhìn thấy Jésus...


      Giọng của Sammie phía sau Clarice gào lên thất thanh như của loại khỉ hét Brazil: ta đứng lên và đập mặt vào trong song sắt, gân cổ nổi lên như các sợi dây.




      TÔI MUỐN NHÌN THẤY JÉSUS


      TÔI MUỐN CÙNG CHÚA TRỜI


      TÔI CÓ THỂ CÙNG JÉSUS


      NẾU TÔI NGOAN NGOÃN




      Im lặng. Clarice nhận thấy mình đứng lên, cái ghế ngã và các giấy tờ để đùi rớt xuống đất.


      - Xin mời - Bác sĩ Lecter , ông đứng thẳng như vũ công để mời ngồi xuống lại. Ông thả người xuống cái ghế bành và lấy tay tựa vào cằm. - thấy gì cả, - Ông lặp lại. - Sammie rất sùng đạo. ta thất vọng chỉ vì Jésus trở lại quá chậm đó thôi. Tôi có thể cho Clarice biết tại sao phải ở đây , Sammie?


      Sammie phải dùng hai tay ôm lấy mặt mình để đập đầu vào thanh sắt nữa.


      - Nếu vui lòng? - Bác sĩ Lecter nhấn mạnh.


      - Đưưượợợcccc - Sammie qua khe tay mình.


      - Sammie để cái đầu của mẹ mình trong cái khay quyên tiền trong nhà thờ tại Trune. Họ hát bài “Hãy dâng tặng những gì tốt nhất cho Thầy” và ta có gì tốt hơn cái đó - Lecter quay sang Sammie - Cám ơn Sammie. Mọi thứ đều ổn thỏa. hãy xem truyền hình .


      chàng trẻ to con đó ngã vật xuống sàn, đầu vẫn tựa vào song sắt như trước, với ba lằn tia bạc khuôn mặt hòa lẫn với nước dãi và nước mắt.


      - Tốt rồi. Hay lo giải quyết vấn đề của ta , có thể tôi lý giải vấn đề của . Có qua có lại mà. ta nghe đâu.


      - ta chuyển từ Jésus qua Chúa Giêsu - - Đó là trình tự hợp lý.


      - Đúng, đó là tiến triển. Tôi rất mừng là ta biết được “Jésus” và “Chúa Giêsu” chỉ là người duy nhất. tiến bộ rồi. Cái quan niệm Chúa duy nhất trong ba ngôi rất khó hiểu, nhất là đối với Sammie, người chưa biết trong người mình có đến bao nhiêu nhân cách nữa.


      - ta thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa thái độ và các mục đích của mình, mà điều đó cho thấy đó là suy nghĩ có cấu trúc - Clarice - Cũng như việc tìm kiếm vần thơ. ta hề thờ ơ, ta khóc. Ông có nghĩ ta mắc chứng tâm thần phân liệt ?


      - Có đấy. có ngửi thấy mồ hôi ta ? Cái mùi dê đực đó là do chất acide trans - 3 - méthyl - 2 - exenoid. hãy nhớ lấy, đó là mùi của chứng tâm thần phân liệt đấy.


      - Thế ông có tin người ta có thể chữa khỏi ta ?


      - Nhất là trong lúc này, lúc mà ta ra khỏi trạng thái sững sờ. hãy xem gò má ta bóng đến mức nào.


      - Bác sĩ Lecter, tại sao ông Buffalo Bill phải là tên tàn ác?


      - Bởi vì các báo các nạn nhân đều có dấu trói ở cổ tay chứ phải ở cổ chân. Thế có những dấu đó cái xác được tìm thấy tại Virginie ?


      - .


      - Khi nào trở về Washington, nên đến Phòng Triển Lãm Quốc Gia xem bức tranh Nhục hình của Maryas trước khi nó được trả về Tiệp Khắc. Le Titien có nhận thức độc đáo về chi tiết, hãy quan sát Thần Pan, rất ân cần, đem xô nước tới.


      - Ông hãy nghe đây, bác sĩ Lecter, chúng ta có ở đây nhiều tình huống dị thường và nhiều khả năng đặc biệt.


      - Cho ai?


      - Cho ông, nếu chúng ta cứu được người thiếu nữ đó. Ông có thấy bà Thượng nghị sĩ Martin truyền hình ?


      - Có, tôi có xem chương trình tin tức.


      - Ông nghĩ gì về lời tuyên bố của bà ta?


      - Chưa khôn khéo cho lắm, nhưng đáng kể. Người ta khuyên bà ấy đúng cách.


      - Bà ấy có thể làm được nhiều thứ. Và cũng là người kiên trì với các ý nghĩ của mình.


      - Tôi nghe đây.


      - Tôi nghĩ ông có trực giác phi thường. Bà Thượng nghị sĩ Martin có cho biết là nếu ông chịu giúp bà tìm lại được Catheririe Baker Martin bình yên vô cho ông chuyển qua cơ sở liên bang, và nếu tại đó có phòng với cảnh quan lý thú, ông nhận cái đó. Người ta cũng có thể cầu ông giám sát các cuộc đánh giá về mặt tâm lý học các bệnh nhân mới, cách khác là công việc làm... Nhưng các biện pháp an ninh vẫn như cũ.


      - Clarice ơi, tôi tin đâu.


      - Ông sai rồi.


      - Ồ, tôi tin mà. Nhưng biết gì nhiều về thái độ con người hơn cách để lột da đầu người. Đối với thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, quả là ý nghĩ khôi hài khi sử dụng như sứ giả, thấy thế sao?


      - Chính ông chọn tôi đó, bác sĩ Lecter. Ông đồng ý chuyện với tôi. Hay ông thích người khác hơn? Hay ông nghĩ thể giúp chúng tôi được?


      - Đó là nhận xét vừa sai vừa xấc láo, Clarice à. Tôi tin việc Crawford chấp thuận cho người ta ban cho tôi bất cứ đền bù nào... Tôi có thể nào điều này mà có thể báo cáo lại cho bà thượng nghị sĩ, nhưng phải có có lại mới được. Có thể tôi chỉ cần thông tin của thôi. Đồng ý ?


      - Hãy xem xét vấn đề trước.


      - Có đồng ý hay ? Đúng là Catherine chờ có phải ? Khi nghe tiếng đá mài, ta cầu làm cái gì?


      - Ông hãy đặt câu hỏi của ông .


      - Thế cái kỷ niệm xấu nhất trong tuổi thơ của là gì?


      Clarice hít hơi sâu.


      - Hãy trả lời mau . Tôi quan tâm đến lời bịa đặt tệ nhất của .


      - Cái chết của cha tôi.


      - Hãy kể cho tôi nghe xem.


      - Ông là nhân viên gác đêm của thành phố. đêm, ông bắt gặp hai tên trộm, hai thằng nghiện, vừa bước ra khỏi tiệm thuốc tây. Trong lúc bước xuống xe, ông làm hư cây súng săn của mình và chúng bắn ông.


      - Làm hư?


      - Con trượt của máy ngắm bị lệch ví trí. Đấy là khẩu súng xưa với ổ đạn hình ống, khẩu Remington 870, và viên đạn bị kẹt trong đó. Khi điều này xảy ra, cây súng thể hoạt động được và phải tháo khẩu súng để lấy viên đạn ra. Tôi nghĩ chắc ông đụng con trượt vào cánh cửa khi bước xuống xe.


      - Ông ấy có chết ngay tại chỗ ?


      - , cha tôi nằm viện suốt tháng trời.


      - có đến bệnh viện thăm ông ?


      - Bác sĩ Lecter... có.


      - Hãy kể cho tôi chi tiết những gì thấy tại bệnh viện.


      Clarice nhắm mắt lại.


      - bà hàng xóm có mặt ở đó, bà cụ già lắm, chưa bao giờ lấy chồng, và bà ta đọc cho ông bài kinh của những người chết. Tôi cho đó là điều duy nhất bà ta làm được. Chuyện là như thế đó. Chúng ta hòa rồi nhé.


      - Có qua có lại mà.


      - Ông có nghĩ ở Virginie có thân hình hấp dẫn lúc ta còn sống ?


      - ta rất chải chuốt.


      - Xin ông đừng làm mất thời giờ của tôi.


      - ta hơi bệ vệ.


      - To lớn và vai rộng à?


      - Đúng vậy.


      - bắn ngay ngực ta.


      - Đúng.


      - Tôi đoán chắc ngực ta hơi lớn.


      - Đối với thân hình đúng vậy.


      - Nhưng hông cũng rộng.


      - Quả thế.


      - Cái gì khác nữa?


      - Người ta có nhét con côn trùng trong họng ta và thông tin này còn được giữ kín.


      - Có phải con bướm ?


      Clarice gần như muốn nín thở. hy vọng ông ta chú ý đến.


      - Đó là con bướm đêm. Tôi xin ông, ông làm ơn cho tôi biết làm sao ông đoán ra được chi tiết này.


      - Này Clarice, tôi cho biết tại sao Buffalo Bill bắt cóc Catherine Baker Martin. Đó là lời cuối cùng của tôi trong các điều kiện tại. cho bà thượng nghị sĩ biết những gì muốn làm với Catherine và bà ta có thể cho tôi đề nghị khác hấp dẫn hơn... hoặc chờ cho con bà ta nổi con sông và nhìn nhận là tôi có lý.


      - Thưa bác sĩ Lecter, tại sao bắt cóc Catherine vậy?


      - muốn có áo vét có núm vú.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      23



      Catherine Baker Martin nằm dài dưới giếng, cách sàn hầm năm thước. Hơi thở và nhịp tim vang trong bóng tối. Đôi khi nỗi sợ chụp lấy người như tay thợ săn vồ con chồn. Có khi nhận thức được: bị bắt cóc nhưng biết do ai. biết mình mơ; trong cái màn đêm tối đen này, nghe được tiếng mí mắt của mình khi nhắm mắt lại.


      Bây giờ cảm thấy đỡ hơn lần đầu tiên tỉnh lại. Cơn choáng váng gần như còn nữa, và thở dễ dàng hơn. có thể nhận được , dưới và gần như biết được tư thế của thân thể .


      Vì cứ ép mình sàn xi măng, nên cảm thấy đau ở bả vai, hông và đầu gối. Đây là phần dưới. Còn phần là cái thảm sần sùi mà đó lúc ánh đèn chói chang làm chói mắt. còn nhức đầu nữa, nhưng bị đau ở các ngón của bàn tay trái. Chắc ngón áp út bị gãy rồi cũng nên.


      mặc bộ quần áo liền nhau có lót bông, làm cho cảm thấy kỳ kỳ. Cái y phục này sạch và có mùi thuốc làm mềm vải; nền đất cũng sạch. Ngoài xương và mấy miếng rau mà tên bắt bỏ qua cái lỗ trống, chỉ có tấm thảm và cái xô bằng nhựa có cột sợi dây ở tay cầm. Có vẻ như sợi chỉ coton, giống như thứ người ta dùng để làm bếp và nó biến mất trong bóng tối.


      Catherine Martin cử động rất thoải mái, nhưng có nơi nào để . Cái nền hình thuẩn khoảng hai thước rưỡi ba, với lỗ thoát nước ở ngay giữa. Đây là đáy của cái giếng lớn có nắp. Các thành bằng xi măng hơi uốn cong lên phía .


      Có phải nghe tiếng động, hay tiếng của nhịp tim? Mấy tiếng động phát từ bên , gần như ngay đầu . Ngục tối này là thành phần của hầm nằm ngay dưới nhà bếp. Có tiếng chân sàn gạch và tiếng nước chảy. Tiếng xào xạc của móng chó tấm thảm nhựa. gì khác nữa, và ánh đèn vàng yếu ớt lỗ trống khi người ta bật đèn trong tầng hầm. Bất ngờ ánh đèn sáng trưng rọi xuống giếng và lần này ngồi lên, lấy tấm thảm phủ lên hai chân mình, nhất định nhìn xem là cái gì. cố nhìn qua khe các ngón tay để mắt quen dần với ánh sáng; bóng của nhảy múa vách khi đèn chiếu được thòng xuống giếng ở đầu sợi dây.


      giật mình khi thấy cái xô được kéo dần lên ánh sáng. cố nén nỗi sợ, tuy nhiên vẫn thốt ra lời.


      - Gia đình tôi trả tiền - . - Tiền mặt. Mẹ tôi trả tiền ngay mà hỏi bất cứ thứ gì. Số điện thoại riêng của bà - cái bóng rớt xuống người , đó là cái khăn. - Số điện thoại của bà là 202...


      - hãy lau mình .


      Vẫn cái giọng kỳ lạ đó, cái giọng chuyện với con chó. cái xô khác được thòng xuống, trong đó có nước nóng và xà bông.


      - hãy cởi quần áo ra và lau mình nếu tôi lấy vòi xịt nước đó - Và tiếng đó bắt đầu xa hơn để với con chó - Đúng thế, là vòi nước, có đúng vậy , tình của tim ta, là vòi nước.


      Catherine nghe tiếng chân và móng sàn nhà ngay đầu . còn thấy hai hình nữa giống như lần đầu tiên đèn được bật sáng. Cái giếng cao bao nhiêu thể đoán được? Sợi dây của cái đèn chiếu có chắc ? có thể nào cột nó vào cái y phục này để chụp lấy cái gì đó ? Trời ơi, làm cái gì đó chứ! Các vách quá trơn tru... cái ống trơn tru lên .


      khe nứt xi măng, khiếm khuyết có thể nhìn thấy được, cách đầu khoảng ba mươi phân, quá cao để có thể với tới. cuộn tấm thảm lại càng chặt càng tốt, và lấy cái khăn cột vào đó. bước lên đứng đó, người chao đảo, thọc được các móng tay vào trong khe nứt để té, và nhìn cái đèn. Đây là cây đèn có chao, treo thành giếng, cách cánh tay đưa thẳng của khoảng ba thước. khác gì muốn chạm lấy mặt trăng. Bất chợt tiếng bước chân trở lại đó, tấm thảm lắc lư buộc phải bước xuống. cái gì đó như cái vảy rớt ngay trước mặt .


      - hãy lau mình , toàn bộ cơ thể nghe .


      Trong xô có găng tắm, lọ kem dưỡng da đắt tiền.


      làm theo, nổi da gà ở hai cánh tay và đùi, hai núm vú săn lại vì lạnh và đau nhói, ngồi xuống cạnh cái xô nước nóng gần vách tường.


      - Bây giờ hãy lau mình và thoa kem lên khắp mình . Hãy chà cho mạnh đấy.


      Nước làm cho kem ấm lại. Quần áo dính vào người khi mặc nó vào.


      - hãy lượm mấy thứ dơ và rửa sạch cái nền .


      tuân theo lệnh, thu nhặt xương và mấy miếng rau vụn. bỏ chúng vào trong xô và rửa các vết mỡ sàn xi măng. Gần bức tường có cái gì đó. Cái vảy rớt từ khe nứt là móng tay có sơn bị gãy ra.


      Cái xô được kéo lên.


      - Mẹ tôi trả tiền - Catherine Martin - mà có câu hỏi nào. Bà cho khá nhiều để cho trở thành giàu có. Nếu vì lý tưởng nào đó, Iran hoặc Palestine, hay Phong trào giải phóng Người Da Đen, bà cũng chuyển tiền được. chỉ cần...


      Đèn được tắt. Màu đen hoàn toàn và tuyệt đối.


      giật mình khi cái xô rớt xuống cạnh . ngồi thảm và suy nghĩ mãnh liệt. Bây giờ biết kẻ bắt cóc tên người Mỹ da trắng và chỉ hành động mình. cố làm ra vẻ như biết ta là ai, trắng hay đen, mình hay , như các kỷ niệm tại bãi đậu xe bị xóa sạch mấy cú đánh đầu. cố làm cho tin là có thể thả về mà sợ gì cả. Nhưng tâm trí làm việc, làm việc quá hiệu nghiệm.


      Cái móng tay... người nào khác bị nhốt trong cái giếng này. phụ nữ, thiếu nữ. Bây giờ ấy đâu rồi? làm gì ta?


      Nếu quá bối rối, mất phương hướng, phải mất nhiều thời giờ đến thế để tìm hiểu đâu. Chính chai kem soi sáng cho . Da. biết ai giam giữ . Điều xác tín này dội lên mình như chảo nước sôi và hét lên, té lăn xuống tấm thảm mà vẫn cứ hét, rồi đứng dậy cào lên vách giếng; rồi nằm xuống thẳng người thảm, cong người lên như cây cung, hai tay nắm lấy tóc.



      24



      Đồng tiền xu của Clarice rơi vào trong máy điện thoại trả tiền trong cái phòng khách tồi tàn dành cho các y tá phụ. quay số của chiếc xe tải.


      - Crawford đây.


      - Tôi gọi cho ông từ phòng điện thoại ngoài khu giam an toàn tối đa. Bác sĩ Lecter hỏi tôi có phải con bướm , nhưng ông ta muốn giải thích. Ông ta chỉ Buffalo Bill cần Catherine Martin bởi vì, “ muốn có áo vét có núm vú”. Ông ta đồng ý thương lượng. Ông ta chờ “ đề nghị hấp dẫn hơn” của bà thượng nghị sĩ.


      - Chính ông ta kết thúc cuộc chuyện à?


      - Đúng vậy.


      - Theo trong bao lâu, ông ta đồng ý tiếp chuyện lại?


      - Theo tôi trong vài ngày tới đây thôi, nhưng tôi muốn tấn công lại ngay, nếu tôi có ngay đề nghị khác của bà thượng nghị sĩ.


      - Có ngay, đúng là từ thích hợp đấy. Chúng ta nhận diện được ở Virginie. Danh chỉ của người mất tích, quê quán tại Détroit, cách đây khoảng ba mươi phút vừa soi sáng các cơ quan nhận dạng của chúng ta như cây Noel vậy. Đó là Kimberly Jane Emberg, hai mươi hai tuổi, mất tích tại Détroit từ ngày 9 tháng hai. Chúng tôi cho càn quét khu vực đó để truy tìm nhân chứng. Theo ý kiến của vị bác sĩ pháp y của Charlottesville. ta chết vào ngày 11, mà cũng có thể là ngay vào ngày 10.


      - Như vậy, chỉ giam ta có ba ngày thôi.


      - Thời hạn đó càng ngày càng bị thu hẹp và điều này làm ngạc nhiên bất cứ ai. - Giọng của Crawford vẫn bình thản. - giam giữ Catherine Martin gần được hai mươi sáu giờ rồi. Tôi nghĩ nếu Lecter muốn tiết lộ, ông ta phải làm điều này trong lần thăm viếng tới của . giờ tôi ở tại văn phòng Baltimore, xe tải chuyển cho tôi cuộc gọi của . Nếu cần nhắm mắt lúc, tôi có phòng cho tại Hojo, chỉ cách bệnh viện có vài trăm thước thôi.


      - Ông ta dè chừng đấy ông Crawford. Ông ta nghĩ ông có thể ngăn cản bất cứ cải thiện nào cho tình trạng của ông ta. Điều ông ta về Buffalo Bill, tôi phải đánh đổi với thông tin về cá nhân tôi. Tôi nghĩ có bất cứ mối tương quan đích thực nào giữa các câu hỏi của ông ta với vụ án của chúng ta... Ông có muốn biết ông ta hỏi gì ?


      - .


      - Có lẽ vì thế mà ông muốn có máy ghi phải ? Ông nghĩ là dễ hơn cho tôi, và tôi dễ dàng chấp nhận chuyện với ông ta hơn, thỏa mãn ông ta, nếu như ai khác nghe được tôi?


      - Có thể có lời giải thích khác: nếu tôi hoàn toàn tin vào phán đoán của , Starling? Là khi tôi nghĩ là con chủ bài tốt nhất của tôi và tôi muốn bảo vệ chống lại tá người chỉ có thể hiểu được sau đó. Như thế, tôi có cần mang theo máy ghi ?


      - Thưa ông, . - “Ông biết sử dụng nhân viên, có phải ông Crawford?” - Thế chúng ta có thể đề nghị gì với bác sĩ Lecter?”


      - Hai hoặc ba thứ mà tôi gởi cho . Chúng đến đó trong năm phút nữa, trừ phi muốn nghỉ chút.


      - Tôi giải quyết việc này ngay tức . Bảo họ hỏi Alonzo và với người này là tôi đến gặp ta trong năm phút nữa tại hành lang, ngay cửa ra vào Khu 8.


      Clarice qua lại trong căn phòng khách tồi tàn. là điểm sáng duy nhất trong căn phòng.


      Chúng ta ít khi chuẩn bị trước cho cuộc dạo chơi các cánh đồng hoặc những con đường mòn đầy sỏi đá; chúng ta làm việc đó ngay dưới những nơi cửa sổ, các hành lang bệnh viện, những căn phòng như căn phòng này đây với bộ văng bằng chất tổng hợp nứt nẻ và cái gạt tàn mang nhãn hiệu Cinzano. Trong những nơi như chỗ này đây, với rất ít thời gian, chúng ta chuẩn bị các bộ tịch của chúng ta, học thuộc lòng, để rồi thực mỗi khi chúng ta cảm thấy hoảng sợ, đứng trước Định mệnh. Clarice đủ lớn để hiểu điều này nên để cho khí của căn phòng này ảnh hưởng đến .


      bước qua lại, khua tay múa chân.


      - Tốt rồi, bạn già của tôi, - lớn tiếng. với Catherine Martin trong khi với chính mình. - Chúng ta mạnh hơn căn phòng chết tiệt này, - tiếp tục lớn tiếng. - Chúng ta mạnh hơn cái nơi giam giữ . Tôi thề với đấy. Tôi xin thề với đấy. - Đột nhiên lại nghĩ đến các thân sinh quá cố của mình. tự hỏi biết họ có cảm thấy xấu hổ vì , cần biết câu hỏi này có căn cứ nào , như chúng ta vẫn thường làm. Câu trả lời là , họ cảm thấy hổ thẹn vì .


      rửa mặt và bước ra ngoài hành lang.


      Alonzo đứng đó với cái gói được Crawford gởi đến. Nó chứa đựng thẻ nhân viên FBI và các chỉ thị. đọc nhanh trong ánh sáng hành lang và nhấn vài cái nút để Barney mở cửa cho vào bên trong.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :