Sự im lặng của bầy cừu - Thomas Harris (Truyện trinh thám kinh dị số 1 thế giới)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      5



      Năm nay Jack Crawford năm mươi ba tuổi, ông ngồi chiếc ghế bành thấp phòng ngủ. Ông ngồi đối diện hai chiếc giường lớn, cao bằng giường bệnh viện. cái của ông; cái kia của bà vợ Bella. Crawford nghe bà thở bằng miệng. hai ngày rồi bà chuyện và cử động.


      Tiếng hơi thở ngừng lại. Crawford ngước lên nhìn qua đôi kính nửa tròng của ông. Ông đặt quyển sách xuống, vừa lúc Bella thở lại, lúc đầu hơi chậm nhưng sau đó sâu hơn. Ông rời chiếc ghế bành để đến lấy mạch và đo huyết áp cho bà. Trong những tháng sau cùng, ông rất rành việc đo huyết áp.


      muốn rời bà lúc đêm tối, ông mới đặt thêm cái giường cạnh giường bà, và ngang bằng cái kia. Khi ông đưa tay ra để chạm vào bà trong đêm tối, như thế họ ở ngang tầm nhau.


      kể đến chiều cao và những dụng cụ tối thiểu cần thiết, Crawford cố gắng làm sao cho căn phòng giống phòng bệnh. Có hoa nữa, nhưng nhiều. loại thuốc nào ở trước mặt - ông dọn sạch tủ quần áo ở ngay cửa ra vào, và cất vào đó tất cả những thứ thuốc cùng các dụng cụ trước khi bà trở về từ bệnh viện. Đây là lần thứ hai ông phải bồng bà để bước qua ngưỡng cửa nhà và chỉ ý nghĩ đó thôi cũng làm cho ông nản chí.


      luồng hơi ấm nóng đến từ phương nam. khí của Virginie vừa dịu vừa mát mẻ, lùa vào trong căn phòng qua các cánh cửa sổ mở toang. Nhiều tiếng ếch vang êm dịu trong đêm tối.


      Căn phòng tì vết, nhưng thảm bắt đầu sờn. Crawford thể dùng máy hút bụi, vì quá ồn, nên phải dùng cây chổi điện, nên kém hiệu quả hơn. Ông bước đến tủ quần áo và bật đèn lên. Hai tấm bảng được treo ở đằng sau cánh cửa. bảng ông ghi tất cả những lần ông đo mạch và huyết áp của bà Bella. Những con số của ông và của người nữ y tá ngày ngày nối tiếp nhau nhiều trang giấy vàng úa. bảng kia, y tá ghi cách chữa trị cho bà Bella trước khi ra về.


      Crawford có thể cho bà uống bất cứ thứ thuốc nào bà cần trong đêm tối. Và theo lời khuyên của y tá, trước khi đưa bà về nhà, ông học chích trái chanh, sau đó ngay đùi mình.


      Ông đứng ngay đầu giường bà trong ba phút, ngắm nhìn khuôn mặt của bà. khăn choàng đẹp bằng lụa có vân được cột tóc của bà như thể khăn quấn đầu. Bà cầu người ta làm như thế, khi mà việc đó còn có thể làm được. Bây giờ chính ông muốn điều đó. Ông thoa glyxerin lên môi bà và bằng ngón tay út ông lấy vật ở ngay khóe mắt bà. Bà phản ứng. Và cũng chưa đến lúc để xoay trở người bà.


      Crawford nhìn vào kính để biết chắc rằng mình bị bệnh, và cần phải chôn ông cùng lúc với bà. Tự nhiên ông cảm thấy hổ thẹn khi ý thức được những ý nghĩ này.


      Trở lại ngồi chiếc ghế bành, ông còn nhớ mình đọc những gì nữa. Ông sờ soạng những quyển sách để gần đó và cầm lên cuốn còn hơi ấm.



      6



      Vào sáng thứ hai, Clarice thấy mẩu tin nhắn này trong hộp thư của mình.




      CS: cứ tiếp tục lo việc chiếc xe của Raspail với thời gian rảnh của . Văn phòng tôi cung cấp cho thẻ tín dụng để cho các cuộc gọi đường dài. Hãy báo cho tôi trước khi gặp vị luật sư kia hay trước khi đâu đó. Báo cáo lúc mười sáu giờ chiều thứ tư.


      Ông giám đốc đọc bản báo cáo về Lecter mang chữ ký của . làm việc tốt lắm.


      JC


      SAIC / Ban 8




      Mảnh giấy này khiến Clarice hài lòng. biết Crawford trao cho vụ dễ nuốt để gặp nhiều rắc rối. Nhưng ông muốn phải luyện tập tay nghề, hy vọng thành công. thích điều này hơn là lễ phép.


      Raspail chết cách đây tám năm. Chứng cớ nào có thể tồn tại lâu đến thế trong chiếc xe hơi?


      Kinh nghiệm dạy cho là xe hơi mất giá rất mau, và các tòa thượng thẩm để cho những người thừa kế bán chiếc xe trước khi chúc thư được phê chuẩn: số tiền đó được gởi vào quỹ ủy thác. khó có thể xảy ra trường hợp người ta giữ chiếc xe lâu như thế ngay trong vụ thừa kế rối rắm như của vụ Raspail.


      Ngoài ra còn vấn đề thời gian. Tính luôn thời giờ nghỉ ăn trưa, mỗi ngày Clarice có giờ và mười lăm phút để dùng điện thoại văn phòng. phải nộp bản báo cáo cho Crawford vào chiều thứ tư. Như thế chỉ có tổng cộng ba giờ bốn mươi lăm phút, được chia đều cho ba ngày để tìm lại chiếc xe bằng cách lấy các giờ học và học khuya để bù cho chậm trễ.


      Về thủ tục điều tra, điểm của đều tốt, và có thể đặt các loại câu hỏi tổng quát cho các giáo viên của mình.


      Vào ngày thứ hai, trong giờ ăn trưa, nhân viên tòa án Baltimore quên bẵng đến ba lần. Trong các giờ học, lại gặp may khi có người khá tử tế để lấy ra hồ sơ của Raspail.


      nhân viên xác nhận người ta chấp thuận cho việc bán chiếc xe. Họ cho Clarice biết hiệu xe và số thứ tự xuất xưởng cũng như tên của người chủ sau cùng, căn cứ giấy tờ chuyển nhượng.


      Trong ngày thứ ba, bỏ ra hơn phân nửa thời gian ăn trưa để chạy theo cái tên này. mất luôn phần thời giờ còn lại để biết Cơ quan quản lý xe hơi của bang Maryland được trang bị để truy tìm chiếc xe từ số thứ tự xuất xưởng, nhưng chỉ với số đăng ký mà thôi.


      Buổi trưa thứ ba, trận mưa rào đuổi hết các nhân viên thực tập ra khỏi trường bắn. Trong phòng họp đầy mùi quần áo ướt và mồ hôi, John Bringham, cựu huấn luyện viên tác xạ của Thủy Quân Lục Chiến, quyết định thử sức mạnh bóp cò của đôi tay Clarice trước mặt lớp học, bằng cách đếm số lần phải bóp cò khẩu Smith & Wesson trong phút.


      thành công trong việc đó với sáu mươi ba lần với bàn tay trái, và làm lại với bàn tay phải trong khi người khác đếm. đứng đúng tư thế, cơ bắp căng lên, nhìn hình ảnh ngay trước mặt trong khi hình ảnh ở phía xa và mục tiêu lu mờ, đúng như cách phải làm. Trong lúc nghỉ, thả hồn lang thang để quên nỗi đau.


      Mục tiêu tường giờ rất , trong khi bạn học đếm các tiếng cạch của khẩu súng, hỏi John Bringham:


      - Làm thế nào để tìm lại số đăng ký…


      - … sáu mươi lăm sáu mươi sáu sáu mươi bảy sáu mươi tám sáu…


      - … của chiếc xe hơi mà chúng ta chỉ có số thứ tự xuất xưởng…


      - … bảy mươi tám bảy mươi chín tám mươi tám mươi mốt…


      - … và hiệu xe khi người ta biết bảng số?


      - … tám mươi chín chín mươi. Tốp.


      - Hay lắm. Nghe đây, tôi muốn quý vị ghi nhận điều này. Sức mạnh của bàn tay là yếu tố chủ yếu của việc bắn liên tục. Vài người trong số quý ông rất sợ tôi thử họ. Và họ có lý, Starling đây nằm cao hơn mức trung bình nhiều cho cả hai tay. Bởi vì tập luyện. Với những dụng cụ bóp tay mà chúng tôi cung cấp cho quý vị. Phần nhiều, quý vị chỉ bóp - và lúc nào cũng cảnh giác về từ ngữ quân đội, ông tìm từ tương đương thích hợp hơn - “các điểm đen của họ mà thôi” - cuối cùng, ông . - Xin đừng có cười, Starling, chưa giỏi lắm đâu. Tôi muốn bàn tay trái phải đạt được chín mươi trước khi nhận được mảnh bằng của . Quý vị hãy cặp đôi và tự tập với nhau . Starling hãy lại đây. Thế có thông tin gì khác về chiếc xe đó?


      - Chỉ có số thứ tự, hiệu xe, và tên của người chủ, nhưng điều này có từ năm năm trước.


      - Tốt rồi. Bây giờ hãy nghe đây. Phần nhiều người ta mắc sai lầm khi muốn tìm lại chiếc xe từ số đăng ký. Vì mỗi khi người ta qua tiểu bang khác mọi thứ đều lộn tùng phèo hết. Ngay cả cảnh sát đôi khi cũng hành động như thế. Còn về số đăng ký, đó là điều duy nhất mà máy điện toán ghi nhận. Người ta thường dùng phương cách này chứ phải số thứ tự xe.


      Tiếng lách cách của các khẩu súng nổ vang trong căn phòng nên ông ta gần như phải hét vào tai .


      - Có cách rất dễ, R.L.Polk & Co, chuyên xuất bản niên giám, cũng có in danh sách số đăng ký xe căn cứ niên hiệu và số thứ tự. Đó là những thứ duy nhất. Những người bán xe cũng dùng đến nó cho các mục rao vặt của họ. Thế điều gì khiến lại hỏi tôi?


      - Bởi vì ông làm cho Sở Thương Mại liên tiểu bang, nên tôi nghĩ chắc ông cũng tìm kiếm rất nhiều xe rồi. Xin cám ơn ông.


      - Có qua có lại, hãy tập bàn tay trái của mình nhiều nữa để làm nhục bọn vô tích kia.


      Trở về buồng điện thoại, hai bàn tay vẫn còn run đến mức các ghi chép của gần như thể đọc được. Chiếc xe của Raspail là chiếc Ford. xa trường đại học Virginie có đại lý xe Ford mà trong suốt năm trời, hết mình làm những gì có thể được cho chiếc Pinto của . Và cũng bằng kiên nhẫn ấy, người nhân viên kiểm tra các danh sách của Polk trở lại điện thoại với tên và địa chỉ cho đăng ký chiếc xe của Benjamin Raspail.


      Clarice, mày là số đấy. Đừng có nản chí. Đừng có cà chớn nữa và hãy gọi điện cho người đó . Coi nào, Number Nine Ditch ở Arkansas. Jack Crawford bao giờ đồng ý cho mày đến đó đâu, nhưng ít ra mày cũng có thể chứng minh là mình làm việc mà.


      có người trả lời. Lần nữa cũng thế. Tiếng chuông có vẻ kỳ lạ và dường như có tiếng vang, giống như hai người cùng sử dụng chung số vậy. Vào lúc tối, thử lần nữa nhưng vẫn có kết quả.


      Sáng thứ tư, vào giờ ăn trưa, cuối cùng cũng có người trả lời.


      - Đây là đài phát thanh Luyến Tiếc.


      - Xin chào ông, tôi gọi để…


      - Tôi cần màn sáo bằng nhôm và cũng muốn nghỉ hè trong khu cắm trại tại Florida. Thế có đề nghị gì khác ?


      Clarice nhận ra giọng của dân Arkansas. có thể bắt chước cách dễ dàng nên thực hành ngay.


      - Nếu ông có thể giúp tôi, thưa ông, tôi luôn luôn nhớ đến ơn ông. Tôi cố liên lạc với ông Lomax Bardwell và tên tôi là Clarice Starling.


      - Có Clarice nào đó, - Ông ta hét lên ra phía sau - Thế muốn gì ở ông Bardwell?


      - Đây là văn phòng khu vực của hãng Ford cho vùng Trung Nam. Ông Bardwell được quyền hưởng vài dịch vụ miễn phí cho chiếc xe của ông ta.


      - Tôi là Bardwell đây. Tôi cứ nghĩ muốn bán thứ gì đó vào giờ rẻ nhất cho các cuộc gọi đường dài chứ. Các người đến quá chậm rồi, điều giờ tôi cần là nguyên cả chiếc xe. Vợ chồng tôi ở tại Little Rock, vừa ra khỏi trung tâm thương mại, theo kịp ?


      - Tôi hiểu rồi, thưa ông.


      - Cây thanh truyền chết tiệt làm bể cái cạcte và nhớt chảy lung tung rồi chiếc xe tải hiệu Orkin đụng vào ngay xe tôi vì trượt bánh.


      - Chúa ơi!


      - Nó đụng tiếp phòng chụp hình Photomaton, làm bể nát hết cửa kính. Người trong đó bước loạng choạng ra ngoài, gần bất tỉnh.


      - Tôi hề nghi ngờ gì điều đó hết. Thế chuyện gì xảy ra sau đó?


      - Cho cái gì?


      - Cho chiếc xe.


      - Tôi có với Buddy Sipper thuộc toán sửa chữa rằng ông ta có thể lấy chiếc xe với giá năm mươi đô la nếu ông ta đến kéo nó về. Tôi nghĩ chắc ông ta cướp nó rồi.


      - Ông có thể cho tôi số điện thoại của ông ta được ?


      - Nhưng muốn gì ở Sipper? Nếu có ai đó có được chút ít gì từ chiếc xe, tôi mới là người được hưởng lợi đấy.


      - Tôi biết điều đó mà. Tôi chỉ làm những gì người ta bảo tôi làm và đến năm giờ chiều tôitìm cho được chiếc xe đó. Thưa ông, ông có số điện thoại đó ?


      - Tôi biết tôi để cuốn sổ điện thoại của tôi ở đâu nữa. Nó biến mất khá lâu rồi đây. biết đấy, với mấy đứa trẻ là như thế nào rồi. Đài chỉ dẫn có thể cung cấp thông tin cho mà, đó là Dịch vụ sửa chữa Sipper.


      - Cám ơn ông nhiều, ông Bardwell.


      Tiệm sửa chữa xác nhận người ta lấy hết những gì có thể thu hồi được và cho chiếc xe vào máy ép để tái chế. Người đốc công tìm trong quyển sổ cái, số thứ tự của chiếc xe.


      Khốn nạn chưa, Clarice nghĩ. Vào ngõ cụt. Ngày Lễ Tình Nhân vui


      tựa đầu vào thành của buồng điện thoại, Ardelia Mapp với chồng sách ôm ngang hông, gõ cửa và đưa cho chai Oragina.


      - Cám ơn Ardelia. Tao còn phải gọi lần nữa. Nếu xong việc đúng lúc chúng mình gặp lại tại quán cà phê được ?


      - Tao luôn hy vọng mày bỏ cách ăn khủng khiếp đó. Có sẵn sách để giúp mày mà. Tao bao giờ dùng cái thổ ngữ độc đáo của quê tao. Bà già tao chuyện kiểu đó và người ta bảo rằng mày chỉ quan hệ với bọn ngu mà thôi - xong Ardelia đóng cửa buồng điện thoại lại.


      Clarice cho rằng mình phải ráng moi thêm tin tức từ Lecter. Bởi vì ông ta đồng ý chuyện với rồi, có thể Crawford đồng ý cho trở lại đó. quay số của bác sĩ Chilton, nhưng người thư ký của ông ta chặn đường lại.


      - Bác sĩ Chilton họp cùng ông bác sĩ pháp y và ông phụ tá biện lý. Ông ta trao đổi với sếp của còn gì để với hết. Xin chào .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      7



      - Miggs của chết rồi. - Crawford . - giấu tôi điều gì chứ, Starling? Nét mặt mệt mỏi của ông sếp cũng nhạy cảm với các tín hiệu như cái vòng cổ dựng đứng của con chim cú, và cũng tàn nhẫn kém.


      - Bằng cách nào? - phải chống chọi cơn tê cóng chiếm lấy người .


      - cắn đứt lưỡi của , ít lâu trước khi trời sáng. Chilton cho rằng chính Lecter ám thị . Nhân viên gác đêm có nghe ông bác sĩ tâm lý thầm với . Lecter biết về Miggs. Tiếng thầm kéo dài khá lâu, nhưng người gác hiểu ông ta những gì. Miggs khóc lúc rồi sau đó nín thinh. Nhưng hết cho tôi chứ Starling?


      - Đúng vậy, thưa ông. Giữa bản báo cáo và các ghi chép của tôi, gần như đúng từng chữ .


      - Chilton cố gọi tôi để than phiền về … - Crawford chờ lúc và tỏ ra hài lòng là hỏi ông câu nào. - Tôi có với ông ta rằng tôi rất ưng ý về thái độ của . Chilton chuẩn bị cho cuộc điều tra về Các Quyền Lợi Công Dân.


      - có sao?


      - Đúng vậy, nếu gia đình của Miggs làm đơn khiếu nại. Bộ phận về Quyền Lợi Công Dân có đến tám ngàn vụ trong năm nay. Họ rất vui sướng mà ghi thêm vụ của Miggs vào trong danh sách của họ. - Crawford chăm chú nhìn . - có khỏe ?


      - Tôi biết phải nghĩ như thế nào bây giờ.


      - cần phải nghĩ gì cả. Lecter làm việc đó cho vui thôi. Ông ta biết chúng ta thể làm gì ông ta được, vậy tại sao đùa tý chứ? Chilton lấy hết sách vở của ông ta và cả cái bàn cầu trong thời gian, có thể cúp luôn món tráng miệng nữa. - Crawford đan hai tay trước bụng và so sánh hai ngón cái của mình. - Thế Lecter có hỏi bất cứ điều gì về tôi ?


      - Ông ta hỏi có phải ông rất bận . Tôi đáp là có.


      - Thế thôi sao? bỏ bớt cái gì đó, vì tôi rất cá nhân mà muốn tôi đọc được được trong bản báo cáo, phải ?


      - Thưa . Ông ta ông rất “kiên cường”, như tôi có ghi trong báo cáo.


      - Đúng vậy. Nhưng còn gì khác sao?


      - Thưa , tôi hề giữ điều gì cho cá nhân tôi. Dù sao chắc ông cũng nghĩ là tôi lại kể những điều đồn đại và cũng chính vì thế mà ông ta chấp nhận chuyện với tôi chứ?


      - .


      - Tôi hề biết bất cứ điều gì về cá nhân ông, và dù tôi có biết nữa, tôi cũng dại gì cho ông ta nghe. Nếu tin tôi ông cứ thẳng ra .


      - Tôi tin mà. Thôi chúng ta qua chuyện khác .


      - Ông nghĩ đến điều gì đó hay…


      - Thôi, thay đổi đề tài , Starling.


      - Việc Lecter ám chỉ chiếc xe của Raspail đưa tôi vào ngõ cụt. Nó bị ép lại cách đây bốn tháng tại Number Nine Ditch, bang Arkansas thành sắt phế thải để tái chế. Nếu tôi trở lại chuyện với ông ta, có thể ông ta cho biết thêm tin tức khác.


      - khai thác triệt để hướng điều tra đó chứ?


      - Đúng vậy.


      - Ai với là Raspail chỉ có mỗi chiếc xe mà sử dụng thôi?


      - Chỉ có mỗi chiếc được đăng ký dưới tên , và vì còn độc thân, nên tôi nghĩ rằng…


      - A hà! Hãy chờ chút! - Ngón trỏ của Crawford chỉ vào cái gì đó vô hình trong khí giữa hai người. - nghĩ rằng, phải , Starling? - Crawford viết chữ cho rằng vào trong sổ tay của ông. Rất nhiều huấn luyện viên trong trường ăn cắp cái mánh này của Crawford để dùng nhưng Clarice tiết lộ là người ta làm trò này với rồi.


      Crawford vẽ vòng quanh chữ này.


      - Khi nào tôi giao cho nhiệm vụ, nghĩ, và tạo hình ảnh xấu cho Cơ quan. - Ông ta thả người ta lưng ghế. - Thế biết là Raspail sưu tầm xe hơi sao?


      - Thưa . Thế chúng vẫn còn nằm trong tài sản thừa kế à?


      - Tôi biết. có thể kiểm tra lại được ?


      - Được chứ.


      - Vậy bắt đầu từ đâu?


      - Từ người thi hành chúc thư.


      - luật sư tại Baltimore, người Hoa, nếu tôi nhớ lầm.


      - Everett Yow. Số điện thoại của ông ta có trong niên giám đấy.


      - có bao giờ nghĩ rằng phải cần đến trát tòa để có thể lục soát chiếc xe của Raspail ?


      Starling im lặng, hay đúng hơn dám trả lời. Cuối cùng lên tiếng:


      - Bởi vì Raspail chết mà chút nghi vấn nào và nếu người thi hành chúc thư đồng ý cho chúng ta lục soát chiếc xe, đó là cuộc lục soát hợp pháp, và kết quả của những tìm kiếm là bằng chứng được luật pháp công nhận. - đọc hơi.


      - Đúng hoàn toàn. Tốt rồi, tôi báo cho văn phòng trung ương ở Baltimore rằng đến đó, ngày thứ bảy, trong thời gian rảnh của , nghe Starling. Hãy thưởng thức quả đó nếu hái được.


      Khi Clarice bước ra ngoài, từ trong sọt rác, ông dùng hai ngón tay để lấy lên mảnh giấy viết thư được vo tròn. Ông để nó lên bàn và vuốt thẳng ra. Đây là miếng giấy về vợ ông, được viết bằng tuồng chữ đẹp.




      Hỡi các bác sĩ tốn công vô ích


      Ngọn lửa nào thiêu đốt cái thế giới này đây


      Thế các người thể hiểu được


      Rằng cơn sốt của bà ta có thể làm được hay sao?


      Jack, tôi thành rất tiếc cho Bella.


      Hannibal Lecter.



      8



      Everett Yow lái chiếc Buik đen với nhãn của trường đại học De Paul dán ở kính sau. Sức nặng của ông hơi làm nghiêng chiếc xe qua bên trái, Clarice nhận thấy điều này khi lái dưới cơn mưa theo sau ông ta từ khi rời khỏi Baltimore. Trời về đêm, vậy là ngày điều tra của gần kết thúc và còn thời giờ nào khác cho việc đó. Vì dòng lưu thông quá chậm QL 301, nên thả hồn cho bồn chồn của mình bằng cách gõ gõ các ngón tay vô lăng cho cùng nhịp với cần gạt nước.


      Yow rất mập, ông bị chứng khí thũng nhưng thông minh. Clarice đoán ông ta khoảng sáu mươi tuổi. Cho đến lúc này ông ta tỏ ra dễ dãi. phải do lỗi ông ta nếu mất hết gần nửa buổi: mới vừa trở về hồi lúc chiều sau chuyến làm ăn gần tuần tại Chicago, từ phi trường ông ta trở về ngay văn phòng để tiếp .


      Chiếc xe Packard sang trọng của Raspail nằm trong kho hàng thời gian rất lâu trước khi ta chết, Yow cắt nghĩa cho như thế. Nó chưa được đăng ký và cũng chưa hề lăn bánh lần nào. Vị luật sư này chỉ thấy nó có lần để ghi vào bảng kê khai ít lâu sau khi thân chủ ông ta bị sát hại. Nếu nhân viên điều tra Starling đồng ý cho phép ông ta quan sát ngay tại chỗ tất cả những gì khám được có thể gây thiệt hại cho thân chủ của ông, ông chấp nhận cho xem qua chiếc xe đó. trát khám xét của tòa án với tất cả những hậu quả sau đó có ích lợi gì cả, ông như thế.


      Cho công việc ban ngày, Clarice sử dụng chiếc Plymouth trong bãi xe của FBI có gắn điện thoại, và thẻ hành khác do Crawford cấp với hàng chữ: ĐIỀU TRA VIÊN LIÊN BANG, và Clarice nhận thấy nó hết hạn trong tuần nữa.


      Hai chiếc xe chạy hướng về dãy kho hàng Split City, cách thành phố khoảng sáu cây số. Dòng lưu thông chậm như rùa, nên Clarice dùng điện thoại để biết thêm càng nhiều thông tin càng tốt về những kho này. Khi thấy tấm bảng màu cam đề chữ KHO HÀNG SPLIT CITY - NHỚ MANG CHÌA KHÓA THEO, có thêm vài thông tin mới.


      Split City cấp cho tên Bernard Gary nào đó giấy phép dịch vụ chuyển hàng của Hội đồng Thương mại Liên Tiểu bang. Tên này suýt nữa bị tòa án liên bang kết án về tội chuyển hàng ăn cắp từ tiểu bang này qua tiểu bang khác ba năm trước đây và người ta xem xét lại giấy phép của .


      Yow quẹo bên dưới tấm bảng và chìa xâu chìa khóa cho thanh niên mặt mụn, mặc đồng phục ở ngay cổng ra vào. Người này ghi các số xe vào trong sổ, mở cổng ra và hối họ qua mau như thể còn có nhiều công việc chờ ta vậy.


      Đây là nơi khá buồn tẻ. Giống như chuyến bay trong ngày chủ nhật giữa La Guardia và Juarez cho những người ly hôn, những kho hàng được dùng cho dịch vụ của hoạt động kia; nhiệm vụ chính của chúng là giữ các tài sản phân tán của những người ly hôn. Các kho hàng chứa đầy vật dụng của phòng ăn, nhà bếp, nệm đầy vết dơ, đồ chơi và hình ảnh của những cặp vợ chồng bất hạnh. Cảnh sát bang Baltimore có nhiều lý do hợp lý để tin rằng những kho hàng này cũng chứa những vật dụng có giá trị được đánh cắp khỏi các tòa án thương mại.


      Nơi này giống các căn cứ quân : mười hai mẫu đất có nhiều dãy nhà dài, được ngăn ra bằng những vách chống lửa thành những phòng lớn bằng nhà xe được trang bị cánh cửa cuốn. Giá cả cũng phải chăng nên nhiều món hàng được cất ở đây suốt nhiều năm trời. An ninh được bảo đảm. Hai hàng vách tường rào chắc chắn bao quanh toàn bộ khu này và những toán tuần tiểu có chó kèm hai mươi bốn hai mươi bốn.


      đống giấy báo ướt và ly uống nước cùng đủ mọi thứ rác khác nằm ở ngay góc cánh cửa cuốn mang số 31, nơi để chiếc xe của Raspail. Ở ngay khóa móc bên trái có băng niêm phong. Yow cúi người xuống cách khó nhọc để xem xét chúng trong khi Clarice với cây dù che và đèn pin để rọi ánh sáng cho ông.


      - Có vẻ như cánh cửa được mở từ lần cuối cùng tôi đến cách đây năm năm - Ông . - thấy , dấu niêm phong của chưởng khế vẫn còn nguyên. Lúc đó tôi nghĩ gia đình này rất khó chịu và kéo dài vụ án trong nhiều năm trời.


      xong, ông ta mới cầm cây dù và cây đèn pin để Clarice chụp hình ổ khóa và các băng niêm phong.


      - Ông Raspail có căn phòng trong thành phố mà tôi trả để giảm bớt chi phí cho các người thừa kế - Ông tiếp. - Tôi cho chở hết đồ đạc đến đây để cất chung với chiếc xe cùng với những thứ có sẵn. Tôi nghĩ hình như có cây dương cầm đứng, nhiều sách vở và cái giường.


      Yow thử cái chìa khóa.


      - Có thể ổ khóa bị kẹt rồi, nhưng sao nó cứng lắm.


      Ông ta thở cách khó nhọc trong khi cúi người như thế. Khi ông định ngồi xổm, hai đầu gối kêu rắc rắc.


      Clarice mừng thầm khi thấy mấy ổ khóa thuộc loại thép xi bình thường. Chúng có vẻ chắc chắn, nhưng dễ dàng làm bung các thanh sắt bằng cây vặn vít hoặc cái xà beng, bởi vì lúc còn chỉ cho cách mà mấy tên trộm hành động. Vấn đề là tìm được các dụng cụ cần thiết đó , có ngay cả hộp phụ tùng sửa xe trong chiếc Pinto của mình nữa.


      Lục trong túi xách, tìm thấy ống rã đông mà dùng cho ổ khóa của cánh cửa xe.


      - Ông có muốn vào trong xe ngồi nghỉ chút , ông Yow? - hỏi - Ông cứ ngồi nghỉ trong hơi ấm trong khi tôi mở thử xem sao. Ông cứ giữ cái dù vì bây giờ chỉ mưa bụi thôi.


      Clarice cho chiếc Plymouth lại gần cánh cửa để cho các đèn pha chiếu sáng hơn. rút cây đo nhớt và bôi ít nhớt vào ổ khóa, sau đó dùng ống rã đông xịt vào ngay đó. Từ trong chiếc xe, ông Yow mỉm cười tán thưởng. Clarice cũng mừng khi được làm việc với người thông minh cho thực hiên công việc của mình cách yên ổn.


      Trời tối đen. Trong ánh sáng của các ngọn đèn pha, cảm thấy mình quá yếu đuối; tiếng cánh quạt nước kêu rít trong khi máy xe nổ đều trong chế độ quá chậm. khóa cánh cửa chiếc Plymouth và ông Yow có vẻ vô hại, nhưng thích gặp nguy cơ bị xe tông vào cánh cửa sắt.


      Ổ khóa được mở ra trong bàn tay và nó rất nặng, dính đầy nhớt. Cái kia có nhiều thời gian để thấm hơn, cũng dễ dàng bung ra.


      Cánh cửa cuốn vẫn trơ lì. Clarice cố hết sức mình để kéo nó lên cho đến mức mắt nổ đom đóm. Yow xuống giúp tay nhưng do ông này bị thoái vị nên cũng giúp được gì nhiều.


      - Chúng ta có thể trở lại vào tuần sau, với thằng con tôi và vài người thợ nữa - Ông đề nghị. - Bởi vì tôi thích về nhà quá muộn đâu.


      Clarice tin mình có thể trở lại đây; bởi vì quá dễ để Crawford gọi cú điện thoại và vụ này qua tay nhân viên của ông ta tại Baltimore ngay.


      - Tôi cố lần nữa xem sao. Ông có con đội nào ?


      Để con đội ngay dưới tay cầm, Clarice ấn mạnh xuống tay quay. Với tiếng rít chói tai, cánh cửa nhích lên được phân. Tiếp đến đẩy lên thêm được hai phân nữa, và hai phân nữa; đến lúc này mới lấy chiếc bánh dự phòng để chặn ngay giữa và dùng con đội của và cái của ông Yow để chặn ở hai đầu rãnh trượt của cánh cửa.


      Thao tác luân phiên hai con đội, cuối cùng cũng đẩy được cánh cửa lên hơn năm mươi phân, nhưng sau đó cánh cửa kẹt cứng và gì có thể lay chuyển được nữa.


      Ông Yow nhìn qua khoảng trống đó, nhưng ông thể cúi người lâu hơn vài giây được.


      - Trong đó hôi mùi chuột quá - Ông nhận xét - Người ta bảo đảm với tôi là đặt thuốc chuột kia mà. Tôi nhớ điều này được ghi trong hợp đồng. có bọn gặm nhấm, nhưng tôi nghe tiếng chuột, có nghe thấy ?


      - Có chứ. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin, nhìn thấy nhiều thùng các tông và cái bánh xe với thân được sơn trắng lòi ra dưới tấm bạt.


      cho chiếc xe Plymouth lui lại cho đến khi ánh đèn pha rọi ngay dưới cánh cửa rồi lấy tấm thảm lót chân bằng cao su ra.


      - vào trong đó sao?


      - Tôi phải vào nhìn xem qua mới được.


      Ông rút khăn tay ra.


      - Tôi có thể nào đề nghị nên cột các ống quần ở ngay mắt cá của lại được ? Để chuột thể chui vào ấy mà.


      - Xin cám ơn ông, đúng là ý kiến tuyệt vời. Nếu cánh cửa sập xuống hoặc có bất cứ chuyên gì khác xảy ra xin ông gọi giùm số này - vừa vừa cười - Đó là số của văn phòng chúng tôi tại Baltimore. Họ biết tôi ở đây cùng ông và nếu lâu sau họ nhận được tin tức gì của tôi, họ lo đấy. Ông hiểu ?


      - Đương nhiên là hiểu rồi. - Ông ta đưa cho chùm chìa khóa của chiếc Packard.


      Clarice trải tấm thảm xuống nền đất ướt trước cánh cửa, và buộc chắc hai ống quần bằng cái khăn tay của cùng cái của ông Yow đưa, nằm xuống đó và bao kín các ống kính của cái máy chụp hình tang vật. Mùi chuột và ẩm mốc xông nồng nặc lên mũi . phi lý, nhưng ngay lúc này lại nghĩ đến châm ngôn Latinh.


      Đó là phương châm của các bác sĩ thời La Mã, được ông thầy pháp y viết bảng trong ngày đầu tiên của khóa học: Primum non nocere(1).


      Họ thế trong cái ga ra đầy những chuột chết tiệt này.


      Và đột nhiên nghe lại lời của cha với “Nếu con thể chơi mà cằn nhằn, tốt hơn con nên vô nhà ”.


      Clarice cài kỹ tất cả các nút áo lại, thụt cổ xuống và bắt đầu trườn dưới cánh cửa. đến ngay phía sau chiếc Packard. Chiếc xe đậu ở bên trái gần sát tường. Bên phải, nhiều chồng thùng các tông được chất kín những khoảng còn trống. Clarice phải trườn tiếp cho đến khi đầu ra được chỗ trống giữa chiếc xe các thùng giấy. dùng đèn pin để rọi khắp nơi và thấy có đầy mạng nhện.


      Tốt rồi. Con nguy hiểm nhất là nàng góa phụ đen và nó ở ngoài trời như thế này đâu. Mũi chích của mấy con này để lại dấu vết gì đâu mà phải sợ.


      Có vẻ còn chỗ trống ở chỗ thanh chống sốc sau. mới lách người để có thể đứng thẳng người lên và mặt ở ngang tầm với cái bánh xe được sơn trắng bên hông. Có thể đọc được hiệu GOODYEAR HAI CHIM ƯNG. cẩn trọng, dùng tay quơ mấy mạng nhện . Có phải người ta có cảm giác như thế này khi phải mang khăn voan đầu ?


      - ổn chứ Starling? - Yow lên tiếng hỏi.


      - Tốt rồi - Tiếng của làm cho đám chuột chạy lung tung vàcon chui vào trong cây đàn dương cầm, chạy các dây nốt cao. Ánh đèn pha xe hơi chiếu sáng từ chân cho đến mắt cá của .


      - Hình như tìm được cây dương cầm rồi phải? - Ông Yow la lên.


      - phải tôi.


      - À!


      Chiếc xe vừa cao vừa dài. chiếc limouzin đời 1938, căn cứ theo bảng kiểm kê của Yow. tấm thảm bao phủ nó, mặt có lông nằm ở dưới. chiếu đèn pin dọc đó.


      - Có phải ông phủ tấm thảm lên đó ?


      - Tôi thấy nó như thế và hề đụng đến thứ gì cả - Ông Yow đáp lại từ đằng sau cánh cửa sắt - Tôi đâu dại gì di chuyển tấm thảm đầy bụi. Chính Raspail làm việc đó. Tôi chỉ ghi nhận là chiếc xe ở đó. Mấy người dọn nhà đẩy cây dương cầm vào sát tường, phủ tấm bạt lên đó, chất thêm vài thùng các tông rồi bỏ . Tôi trả tiền họ theo giờ. Mấy thùng các tông đó đầy cả sách và bản nhạc.


      Tấm thảm dày và rất nặng; khi kéo nó xuống, bụi bay mịt mù trong ánh đèn pin. nhảy mũi hai lần. Nhón đầu bàn chân, hất nó lên mui xe. Rèm cửa kính được kéo lại. phải chồm người qua mấy cái thùng để chạm vào nắm tay cầm đầy bụi của cánh cửa. thử mở nó ra. được. Cửa sau có khóa. Phải di chuyển khá nhiều thùng giấy để mở được cánh cửa nhưng đủ chỗ để dịch chuyển nó nữa. Tấm rèm ở cửa sau vẫn còn hở.


      Clarice phải chồm người các thùng để có thể rọi đèn và nhìn vào bên trong. chỉ thấy được ánh phản chiếu của chính cho đến khi chụp bàn tay kia quanh cây đèn pin. làn ánh sáng , chiếu xuyên qua cửa kính, di chuyển cái băng sau. cuốn album mở ra nằm đó. thấy tấm bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân với những màu xỉn vì ánh sáng tối quá, dán trang album. Đây là loại bưu thiếp xưa có ren bằng giấy.


      - Cám ơn ông nhiều, bác sĩ Lecter - Khi thốt lên câu này, hơi thở làm cho bụi bay lên và dính cửa kính. Khi dịch chuyển, ánh sáng cho thấy cái mền được cuốn tròn, nằm dưới sàn xe, và đó là đôi giày dạ hội. Cao hơn chút là đôi tất ngắn bằng lụa đen, và chút nữa là cái quần ximôkinh với đôi chân trong đó.


      ai đến đây từ năm năm nay. Hãy bình tĩnh, bình tĩnh Clarice.


      - Ông Yow ơi, ông còn ở ngoài đó ?


      - Cái gì thế?


      - Hình như có ai đó ngồi trong chiếc xe.


      - Ồ, Chúa ơi! Thôi hãy trở ra ngoài Starling.


      - Chưa được đâu ông Yow. Nhưng tôi xin ông đừng bỏ tôi nghe.


      đến lúc phải suy nghĩ cho nghiêm túc rồi đấy. Nó quan trọng gấp mấy lần những câu chuyện tào lao mà mày có thể kể cho cái gối mày nghe cho đến hết cuộc đời đấy. Cố mà hiểu cho mau và đừng có làm gì sai, biết , Clarice. Mình hề muốn tiêu hủy các chứng cứ. Mình cần trợ giúp. Nhưng mình muốn la làng. Mặt mình ra sao nếu mình gọi cảnh sát Baltimore vì chuyện đâu chứ. Mình thấy cái gì đó giống đôi chân. Ông Yow bao giờ đưa mình đến đây nếu ông ta biết có cái xác trong chiếc xe. cố mỉm cười để tự trấn an - “ cái xác!” đúng là thách thức. có ai đến đây từ lần cuối cùng ông Yow có mặt ở đây. Tốt rồi. Nó có nghĩa là khi người ta để mấy cái thùng vào đây, nó có mặt trong chiếc xe rồi. Vậy mình có thể dịch chuyển chúng mà sợ làm mất chứng cứ quan trọng.


      - Mọi thứ đều êm xuôi rồi, ông Yow.


      - Hay lắm. Thế chúng ta có cần gọi cảnh sát , hay có thể tự xoay xở lấy, Starling?


      - Tôi biết trong giây phút thôi. Nhưng tôi cầu xin ông đừng rời khỏi nơi đây.


      Vấn đề các thùng các tông cũng bể óc như khối Rubick vậy. cố gắng làm việc với cây đèn pin kẹp trong nách, cuối cùng phải đặt nó mui xe. chồng mấy cái thùng lớn ở phía sau lưng , còn mấy thùng chứa đầy sách, nhét chúng dưới gầm xe. Ngón tay cái bị đau, có thể là vết đứt hay cái dằm gì đó.


      Bây giờ có thể thấy chỗ người tài xế qua cửa kính trước đầy bụi. con nhện giăng tơ cái tay lái to lớn và cần số. Cái cửa kính ngăn đôi phía trước và sau xe được khép kín.


      Đáng lý mình phải cho chút nhớt cái chìa khóa xe này trước khi chui vào trong đây, Clarice tự nhủ. Nhưng khi tra cái chìa khóa vào nó hoạt động ngon lành.


      đủ chỗ để mở hết cánh cửa ra, nó đụng chồng thùng, làm cho đám chuột kêu rối rít và vài nốt nhạc lại vang lên. mùi thối rữa lẫn với hóa chất phát ra, điều đó gợi cho Clarice kỷ niệm nào đó mà tài nào nhớ được.


      chồm người vào bên trong để mở cánh cửa kính ngăn ngay giữa và chiếu đèn ra phía sau. Trước tiên ánh đèn chiếu vào hàng nút của chiếc áo dạ hội, sau đó từ từ di chuyển lên đến mặt - nhưng có mặt - liền rọi trở xuống, chiếu sáng các hạt nút và các ve áo bằng xa tanh, rồi xuống đến lưng quần, trở lên lại đến chỗ nơ bướm và cái cổ trắng đầu của hình nhân. Nhưng ở đó có cái gì khác làm phản chiếu ánh đèn. miếng vải, cái trùm đầu đen lớn, ngay tại chỗ mà đúng lý phải là cái đầu: có vẻ như nó phủ cái lồng chim. Bằng nhung, Clarice tự nhủ. Vật đó được đặt miếng ván và để ngay cái cổ của hình nhân và cái thành kính sau.


      chụp nhiều kiểu ảnh, nhắm mắt lại lúc đèn chớp. Rồi đứng lên. Người đẫm mồ hôi vì dính đầy mạng nhện, đứng trong bóng tối suy nghĩ những gì phải làm tiếp theo đó.


      Điều được làm là gọi người nhân viên ở Baltimore lại để nhìn thấy hình nhân với cái cửa quần được mở ra và tập album đầy bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân.


      Khi quyết định chui vào trong xe để lấy cái trùm đầu , hành động ngay mà cần suy nghĩ gì nhiều. choàng cánh tay ra sau để mở khóa trong của cánh cửa sau, rồi dịch chuyến vài thùng các tông để có thể mở được cánh cửa sau. cẩn thận cầm ngay cuốn album ở các góc rồi bỏ nó vào trong túi nylon trước khi đặt nó lên mui xe. Sau đó để túi nylon đựng tang vật khác cái nệm.


      Khi ngồi cái băng, mấy cái lò xo kêu lên cót két và cái hình nhân nghiêng qua phía . Bàn tay phải trong chiếc găng trắng muốt từ đùi xuống nệm. Clarice sờ nắn cái găng. Bàn tay bên trong cứng, cẩn thận tháo cái nút găng ra, bàn tay được làm bằng chất tổng hợp trắng.


      Tiếng chuột chạy nghe ở dưới nệm. nhàng, như thể cái vuốt ve, sờ nắn tấm vải trùm đầu. Mảnh vải đó di chuyển dễ dàng vật gì đó tròn và trơn. Khi chạm đến cái khối u ở phía . biết ngay đây là cái lọ rộng miệng của phòng thí nghiệm và cũng biết trong đó chứa đựng gì. Trong nỗi sợ hãi, nhưng chút nghi ngờ, kéo mạnh tấm vải.


      Cái đầu được chứa trong cái lọ bị chặt tiện ngay dưới hàm. Nó xoay về phía Clarice với đôi mắt bạc màu từ lâu vì cồn. Miệng há hốc ra còn cái lưỡi màu xám hơi thò ra ngoài chút. Với thời gian, cồn bốc hơi và cái đầu nằm ở dưới đáy lọ. Còn phần của hộp sọ nằm ở mực cồn, tạo thành mũ tròn thịt thối rữa. Xoay theo gốc độ thể với thân hình ở bên dưới, nó nhìn Clarice cách ngờ nghệch với cái miệng há hốc ra. Cho dù có chĩa ánh sáng đó, nó vẫn lặng thinh và chết cứng.


      Clarice xem xét các phản ứng của mình. cảm thấy hài lòng. Ngây ngất là đằng khác. tự hỏi biết đó có phải là những cảm tưởng đáng khen . Ngồi trong chiếc xe cũ kỹ này với cái đầu và vài con chuột, có thể suy nghĩ cách sáng suốt và cảm thấy hãnh diện.


      - Thế nào Toto, còn ở Arkansas nữa à? - luôn mơ được hành động như thế trong những lúc khó khăn, nhưng câu này có vẻ lạc điệu, mừng thầm là ai khác nghe được. Thôi bắt tay vào việc .


      cẩn thận tựa lưng vào băng nệm và nhìn quanh. Cái khung cảnh được chọn lựa này được ai đó tạo dựng, quá xa lạ với dòng lưu thông tiến tới chậm như sên quốc lộ 301.


      thanh gác tay của băng nệm có gắn các bình hoa bằng pha lê mà hoa khô héo gục đầu xuống hết. cái kệ khăn trải bàn, đó, bình nước bằng thủy tinh vẫn sáng bóng mặc dầu bụi bặm. con nhện giăng tơ giữa bình nước và cái chân đèn ở kế bên.


      cố tưởng tượng đến Lecter, hay người nào đó. Ngồi đây với người đồng hành tại, nhâm nhi ly rượu hoặc lật tập album xem bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân. Và cái gì khác nữa? cẩn trọng, để làm xê dịch bất cứ thứ gì, bắt đầu lục túi của hình nộm. có giấy tờ gì cả. Trong túi áo vét, tìm thấy được hai mảnh vải còn sót lại sau khi người ta chỉnh lại chiều dài cái quần, có thể cái quần dạ hội này mới toanh khi người ta tròng nó vào hình nộm.


      Sau đó, cẩn thận, xoay cái bình rộng miệng, quan sát ở hai bên và phía sau ót để tìm những vết thương khác có thể. có gì. Tên của nhà sản xuất được đúc thủy tinh.


      nghĩ mình học được cái gì đó đáng nhớ. Quan sát cái đầu với cái lưỡi bạc màu này ngay tại nơi chạm tay vào bình thủy tinh, cũng đến nỗi khủng khiếp bằng việc nằm mơ thấy Miggs nuốt cái lưỡi của ta. nghĩ bây giờ mình có thể nhìn bất cứ thứ gì với điều kiện là phải có việc làm cụ thể nào đó. Quả Clarice quá ngây thơ.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      *


      thời gian ngắn ngay sau khi toán lưu động của đài truyền hình WPIK ngừng lại, Jonetta Johnson gắn cặp bông tai vào, trang điểm lại chút ít và xem xét tình hình. cùng toán của mình, luôn theo dõi đài của cảnh sát, đến trước tiên tại các kho hàng ở Split City.


      Những gì họ thấy được là Clarice Starling đứng ở ngay trước cửa ga ra, tóc ướt mèm vì mưa, chĩa cây đèn pin và tấm thẻ hành có bọc nhựa.


      Jonetta Johnson nhận ra ngay đây là tân binh. bước xuống xe cùng những người quay phim và tiến lại gần Clarice. Các đèn chiếu được bật sáng. Ông Yow ngồi tuột xuống cái nệm xe Buick, chỉ để ló cái mũ ra thôi.


      - Jonetta Johnson thuộc ban tin tức dài WPIK, hình như có báo vụ án mạng?


      Clarice giống nhân viên công lực chút nào hết và cũng biết điều này.


      - Tôi là nhân viên liên bang và đây là án mạng. Tôi phải bảo vệ trường cho đến khi cảnh sát Baltimore...


      phụ tá của người quay phim chụp lấy tay cầm của cánh cửa sắt và cố kéo nó lên.


      - Hãy dừng tay lại - Clarice thốt lên. - Tôi với đấy. Dừng tay lại. Xin đừng nài nỉ. Tôi đùa đâu. Tôi cầu quý vị hợp tác với tôi. - Ngay lúc này ước gì có được huy hiệu, bộ đồng phục hay cái gì đó.


      - Thôi được rồi Harry - phóng viên , rồi xoay về phía Clarice. - Chúng tôi đồng ý và giấu gì , toán của chúng tôi rất tốn kém nên tôi phải biết coi có đáng cho chúng tôi ở lại đáy cho đến lúc cảnh sát đến hay . Hãy cho tôi biết , có phải trong đó có xác chết ? Đương nhiên việc này chỉ giữa hai chúng ta mà thôi. Hãy cho chúng tôi biết và chúng tôi đợi, tôi xin hứa với . Thế nào?


      - Nếu tôi là chị, tôi chờ - Clarice đáp lại.


      - Cám ơn, chị hối tiếc việc này, Jonetta . - Chị hãy nghe đây, tôi biết nhiều thông tin về các kho hàng này có thể rất hữu ích cho chị. Chị làm ơn rọi đèn vào quyển ghi chép của tôi được ? Xem thử tôi có thể tìm được chúng .


      - Này Joney, toán lưu động của WEYE vừa đến cổng đấy - người tên Harry .


      - Coi nào. Đó là vụ bê bối xảy ra khoảng hai năm trước, khi người ta muốn chứng minh các kho hàng này chứa... có phải là pháo hoa ? - Jonetta nhìn vai của Clarice.


      Clarice quay đầu lại và thấy người quay phim chui vào trong gara trong khi người phụ tá quì kế bên sẵn sàng chuyền cho ta cái máy quay phim mini dưới cánh cửa.


      - Này kia! - Clarice la lên. quỳ xuống mặt đất ướt và kéo áo của người quay phim - có quyền vào trong đó. Này tôi bảo được làm chuyện đó mà.


      Trong khi , đám đàn ông đáp lại :


      - Chúng tôi đụng đến bất cứ thứ gì hết, chúng tôi là dân chuyên nghiệp mà. phải sợ gì hết. Bằng mọi cách, đám cảnh sát cũng để cho chúng tôi mà. Người đẹp ơi, mọi việc đều ổn cả thôi.


      Lời ba hoa này làm cho nổi điên lên. tiến lại con đội ở dầu cánh cửa và quay tay quay. Cánh cửa hạ xuống năm phân kêu tiếng rít. Clarice tiếp tục cho đến khi cánh cửa nằm ngay ngực của người quay phim. Thấy ta chưa chịu chui ra, rút tay quay ra và bước lại gần người quay phim nằm đó. Ngay lúc này nhiều đèn chiếu khác được bật sáng và trong ánh sáng chói chang này, dùng cái tay quay gỗ mạnh vào cánh cửa sắt làm cho bụi và rỉ sắt bay tung lên.


      - hãy để tâm với những gì tôi với chứ. có nghe tôi bảo? Tôi bắt ngay về tội cản trở nhân viên công lực thi hành nhiệm vụ đấy.


      - hãy bình tĩnh - người phụ tá và đặt bàn tay ta lên cánh tay . xoay mặt về phía người này và nhìn thấy nhiều ánh đèn sáng khác và những tiếng lao xao.


      - Thôi đủ rồi bạn, đừng có cố nữa làm gì. - để bàn chân lên ngay mắt cá của người quay phim, tay cầm tay quay nhìn người phụ tá. giơ nó lên. Càng tốt cho . gây ấn tượng tốt màn truyền hình rồi.



      9



      Trong bóng mờ bao phủ khu tội phạm, các mùi có vẻ như nặng nề hơn. máy truyền hình được mở nhưng có tiếng, chiếu hình bóng của Clarice lên các song sắt của phòng giam bác sĩ Lecter.


      nhìn thấy được ông ta trong vùng tối của phòng giam, nhưng cầu người bảo vệ bật đèn lên. Đèn chiếu sáng cả hành lang và biết là cảnh sát Baltimore hét trong ánh đèn sáng trưng suốt nhiều giờ liền mà Lecter vẫn thèm trả lời. Ông thản nhiên ngồi đó xếp hình con gà mái bằng giấy và nó mổ xuống mỗi khi người ta ấn lên đuôi của nó. Viên thanh tra giận dữ, vò nát con gà trong cái gạt tàn thuốc để tại hành lang và ra hiệu cho Clarice bước vào.


      - Thưa Bác sĩ Lecter? - nghe hơi thở của mình và của những người khác nhưng thanh nào được phát ra từ phòng giam của Miggs. Clarice cảm nhận sư im lặng này như luồng gió thoảng.


      biết là Lecter đứng nhìn trong bóng tối. Hai phút trôi qua. đau ở đôi chân và cổ, quần áo của vẫn còn ẩm. ngồi bẹp xuống đất ở khoảng cách vừa phải với song sắt, hai chân rút dưới mình , và kéo đầu tóc ướt rối nùi ra.


      - Thưa bác sĩ Lecter, chắc ông biết giờ tình hình như thế nào rồi. Họ nghĩ ông chuyện với tôi.


      Im lặng. Ở đâu đó người huýt sáo bản “Over the Sea to the Sky”.


      Sau năm phút, mới lên tiếng:


      - kỳ lạ khi phải vào trong đó. Tôi rất muốn chuyện với ông.


      giật mình khi cái mâm đựng thức ăn được đẩy ra ngoài. Trong đó có cái khăn sạch được xếp gọn gàng. nghe Lecter chuyển động.


      ngắm cái khăn lúc với cảm tưởng thua cuộc, rồi cũng cầm nó lên để lau khô tóc.


      - Cám ơn ông.


      - Tại sao hỏi tôi về Buffalo Bill? - Giọng của ông có vẻ gần và ngang tầm với . Chắc ông cũng ngồi dưới đất giống như vậy.


      - Chắc ông biết điều gì đó về ta phải ?


      - Có thể lắm nếu tôi đọc qua được hồ sơ của .


      - Tôi có mang theo đây.


      - Cả cái này cũng thế, cũng có được khi họ còn cần đến nữa.


      - Tôi biết.


      - có thể có vài thứ trong hồ sơ của Buffalo Bill. Các báo cáo và hình ảnh đấy. Tôi rất muốn xem chúng.


      Tôi nghi ngờ điều đó đâu.


      - Thưa bác sĩ Lecter, chính ông khởi động tất cả vụ này. Tôi xin ông, ông hãy cho tôi biết về con người trong chiếc xe Packard .


      - tìm được người nguyên vẹn sao? kỳ lạ. Tôi chỉ thấy có mỗi cái đầu. Theo , những thứ còn lại đến từ đâu vậy?


      - Cái đầu đó là của ai vậy?


      - Thế biết được gì?


      - Người ta chỉ có vài tin tức sơ khởi thôi. người đàn ông da trắng, khoảng hai mươi bảy tuổi, được chữa răng ở Mỹ hoặc châu Âu. Là ai vậy?


      - Người tình của Raspail. Tên nhạc sĩ với cây sáo nhầy nhụa.


      - Thế... chết bằng cách nào thế?


      - Người ta do dự phải Starling?


      - . Tôi hỏi đến điều đó sau.


      - Tôi làm cho đỡ mất thời giờ nhé. Tôi hề giết , nhưng có thể là Raspail. Tên này rất thích đám thuỷ thủ. Người đó là người Thụy Điển tên Klaus. Raspail hề cho tôi biết tên của .


      Giọng của Lecter dường như được phát từ điểm thấp hơn. Có vẻ như ông ta nằm xuống ất rồi cũng nên, thầm nghĩ.


      - Klaus xuống từ con tàu Thụy Điển tại San Diego. Lúc mùa hè, Raspail có dạy vài lớp tại Học viện nhạc thành phố. ta chết mê chết mệt người thanh niên này. Klaus nhận thấy lợi ích của việc này nên ở lại đất liền. Họ mua loại xe cắm trại và sống trong rừng, trần truồng như những thiên tinh. Raspail có với tôi là tên thuỷ thủ phản bội bóp cổ gã rồi.


      - Raspail với ông như thế à?


      - Đúng vậy, theo tính chất bất khả xâm phạm của bí mật nghề nghiệp, tôi nghĩ ông ta dối. Raspail luôn thêu dệt các kiện. ta muốn làm ra vẻ hung tợn và lãng mạn. Có thể Klaus chết do chứng ngạt thở bình thường trong màn ái ân nào đó. Raspail là con người quá yếu đuối và nhu nhược để có thể bóp cổ ta. có nhận thấy cái đầu bị cắt đứt ngay dưới hàm ? Có lẽ để che giấu các dấu vết của vụ treo cổ.


      - Ra thế.


      - Giấc mơ hạnh phúc của Raspail tiêu tan. bỏ cái đầu của Klaus trong cái túi đựng banh bowling rồi trở về miền Đông.


      - Ông ta làm gì với cái thân?


      - ta chôn nó đồi.


      - Ông ta cho ông xem cái đầu trong chiếc xe phải ?


      - Đúng vậy; trong buổi chữa trị, ta nghĩ có thể kể hết cho tôi nghe. Có nhiều lúc ta lên ngồi gần Klaus và đưa các bưu thiếp của ngày Lễ Tình Nhân cho ta xem.


      - Và Raspail cũng ... chết rồi. Tại sao vậy?


      - tình, tôi thể chịu đựng được những lời than vãn của ông ta. Vả lại như thế tốt hơn cho ông ta. Cách chữa trị mang lại hiệu quả nào hết. Tôi cho rằng phần đông các bác sĩ chuyên khoa tâm thần có hay hai bệnh nhân mà họ rất muốn đưa qua cho tôi. Đây là lần đầu tiên tôi về việc này và nó bắt đầu làm cho tôi bực mình.


      - Thế còn bữa tiệc tối để đãi những người chịu trách nhiệm về ban nhạc?


      - Này Clarice, chưa bao giờ gặp trường hợp có thời giờ để chợ trong khi có khách mời đến ăn hay sao? phải xoay xở với những gì có trong tủ lạnh phải . cho phép tôi gọi là Clarice chứ?


      - Được ạ. Tôi có thể gọi ông là... ?


      - Bác sĩ Lecter, điều này phù hợp với tuổi tác và công việc của .


      - Hay lắm.


      - Thế cảm thấy gì khi vào trong gara?


      - Lo sợ.


      - Tại sao?


      - Vì chuột và nhện.


      - Vậy có dùng mẹo gì đó để có can đảm ?


      - Theo tôi biết hình như có thứ gì hiệu nghiệm cả, ngoại trừ việc mình muốn thực công việc mình phải làm.


      - Thế có kỷ niệm nào đến với mặc dù muốn ?


      - Có thể lắm nhưng tôi bao giờ nghĩ đến.


      - Những chuyện của thời thơ ấu đấy.


      - Tôi chú ý hơn nữa.


      - cảm thấy gì khi hay tin chuyện xảy ra với người láng giềng Miggs trước đây của tôi? bao giờ hỏi tôi về điều này.


      - Tôi định hỏi ông đây.


      - vui khi hay tin ta chết hay sao?


      - .


      - Điều đó có làm buồn ?


      - . Chính ông xúi ta làm việc đó phải ?


      Lecter cười khẽ.


      - muốn hỏi có phải tôi kích động Miggs tự sát, có nghĩa là phạm tội phải ? Đừng nên ngốc đến thế. Nhưng thấy có cân xứng khá lý thú nào đó, trong việc ta nuốt cái lưỡi chỉ toàn chuyện bậy bạ à?


      - .


      - láo, Starling. Đây là lần đầu tiên dối với tôi. lý do buồn, theo cách của Truman.


      - Của Tổng thống Truman phải ?


      - thành vấn đề. Tại sao nghĩ là tôi giúp ?


      - Tôi biết.


      - Jack Crawford thích lắm phải ?


      - Tôi nữa.


      - Có thể là sai. có vui khi biết ông ta thích ? Hãy cho tôi xem, có cần làm cho ông ta thích và điều này làm cho bực mình ? có sợ cái ý muốn làm cho ông ta thích ?


      - Tất cả mọi người đều muốn làm vừa lòng người khác, thưa bác sĩ Lecter.


      - phải mọi người. có tin là Jack Crawford ham muốn về mặt tình dục ? Tôi biết ông ta bị ức chế nhiều lắm... có nghĩ ông ta tưởng tượng… những màn kịch, những cuộc dàn cảnh... mà ông ta làm tình với ?


      - Tôi hoàn toàn quan tâm đến điều đó, bác sĩ Lecter; hơn nữa đó là điều Miggs rất muốn.


      - còn thích chuyện đó nữa.


      - Có phải ông khuyên nuốt cái lưỡi của ?


      - Cái lối ra điều kiện, cộng thêm sắc của bốc mùi nhà quê đấy. Quá là Crawford rất thích và cho rằng có khả năng. Chắc cũng để ý đến trùng hợp ngẫu nhiên của các tình huống chứ. Này Clarice có được trợ giúp của Crawford và của tôi nữa Nhưng cứ giả vờ như biết tại sao Crawford giúp trong khi tôi biết rất , có biết tại sao ?


      - , ông cho tôi biết .


      - có tin là vì tôi rất thích ngắm nhìn và tôi tưởng tượng đến mùi vị nếu như tôi ăn được thịt ?


      - Vì điều đó sao?


      - . Tôi muốn cái gì đó mà Crawford có thể cho tôi và hy vọng có thể đề nghị với ông ta cuộc trao đổi. Nhưng ông ta được đến đây gặp tôi. Ông ta được cầu tôi giúp ông ta tìm bắt Buffalo Bill, dù cho việc đó có thể cứu sống nhiều thiếu nữ.


      - Tôi khó có thể tin được ông, bác sĩ Lecter.


      - Điều tôi muốn rất đơn giản và ông ta có thể cung cấp cho tôi được điều đó. - Lecter từ từ vặn bóng đèn. Sách vở và tranh vẽ biến mất kể cả bàn cầu. Chilton lấy hết những thứ đó để phạt ông ta về cái chết của Miggs.


      - Tôi ở trong cái phòng này tám năm rồi, Clarice. Tôi biết người ta bao giờ để cho tôi ra ngoài. Điều tôi muốn là cánh cửa sổ để có thể nhìn được cái cây hoặc ngay cả nước.


      - Thế vị luật sư của ông đệ đơn...?


      - Chilton để trước phòng giam này cái ti vi được mở sẵn đài tôn giáo. Khi vừa khỏi, người bảo vệ bật thanh lớn lên và ông luật sư của tôi thể làm gì để ngăn cản điều này, xét về mặt tình cảm mà tòa án dành cho tôi. Tôi muốn được thuyên chuyển qua nhà tù liên bang, tôi muốn người ta trả sách lại cho tôi và tôi muốn phòng tôi có cái cửa sổ. Có thể tôi có cái gì đó để trao đổi với thế giới bên ngoài. Crawford có thể làm được việc này. hãy với hỏi ông ta .


      - Tôi báo cáo lại cho ông ta những gì ông với tôi.


      - Ông ta thèm quan tâm gì hết. Và Buffalo Bill tiếp tục giết người. Ngày mà lột da đầu người nữa, để xem người ta có thích việc đó ... Huùmm... Tôi cho điều về Buffalo Bill, dù tôi hề đọc được hồ sơ của ; và trong vài năm nữa, sau khi người ta bắt được rồi, thấy rằng tôi có lý và tôi có thể giúp quý vị và tôi có thể cứu được nhiều mạng sống nữa. Này, Clarice?


      - Vâng?


      - Buffalo Bill ở trong căn nhà chớ phải căn hộ. - xong Lecter tắt đèn.


      Và ông ta thêm gì nữa.



      10



      Clarice Starling tựa người cái bàn đánh bạc của FBI, cố theo dõi buổi thuyết trình về cách rửa tiền trong giới cờ bạc. Ba mươi sáu giờ trôi qua từ khi cảnh sát Baltimore ghi nhận lời khai của , sau đó cho ra về với lời nhắc nhở án mạng phải là tội liên bang.


      Trong buổi tin chiều tối chủ nhật, người ta có thể thấy Clarice phải đối phó với những người quay phim của đài truyền hình, và bây giờ chắc chắn gặp rắc rối. lời nào về Crawford hoặc đến văn phòng Baltimore. Có vẻ như báo cáo của rơi xuống vực thẳm.


      Cái sòng bạc chứng kiến hoạt động được thời gian trước khi bị FBI bắt và biến thành dụng cụ dạy học rồi. Căn phòng dài này chứa nhiều cảnh sát đến từ khắp nơi; Clarice nhã nhặn từ chối những chiếc ghế của hai cảnh sát kỵ binh Canada và của thám tử Scotland Yard.


      Các bạn đồng nghiệp của ở trong hành lang của trường, tìm kiếm tóc tấm thảm thực thụ của “căn phòng án mạng tính dục” và các vân tay trong “Ngân Hàng American Standard”. Clarice bỏ ra rất nhiều giờ cho loại thực tập đó, và với tư cách là sinh viên ngành pháp y, người ta nghĩ tốt hơn hết nên gởi đến dự buổi thuyết trình dành cho nhân viên cảnh sát vãng lai.


      tự hỏi biết người ta tách ra khỏi các bạn đồng nghiệp của lý do nào khác : có thể người ta chừng muốn tống khứ mất.


      Tựa chỏ bàn xúc xắc, Clarice cố chú ý đến cách rửa tiền trong giới cờ bạc. Nhưng ngừng tự nhủ là ngoài các cuộc họp báo, FBI rất ghét thấy nhân viên của họ tivi.


      Bác sĩ Hannibal Lecter là đề tài ưa thích của đám truyền thông đại chúng nên cảnh sát Baltimore ngần ngại ném tên ông ta cho cánh phóng viên. Clarice ngờ được thấy mình xuất nhiều lần tivi trong chương trình tin tức tối chủ nhật... “Starling của FBI”, dùng tay quay con đội và chơi đánh vào cánh cửa gara trong khi người quay phim cố chui qua đó. Và sau đó “nhân viên Liên bang Starling” với tay quay tay hăm dọa những người có mặt.


      Jonetta Johnson của đài WPIK, tiết lộ từ dầu đến cuối là Clarice làm được cuộc khám phá khủng khiếp kia nhờ vào “các mối liên hệ bí với người đàn ông mà cảnh sát gọi là... quái vật!” Hiển nhiên có ai đó trong bệnh viện thông tin cho ta biết mà.


      VỊ HÔN THÊ CỦA FRANKENSTEIN! Hàng tít chạy dài tờ National Tattler các sạp báo siu thị.


      FBI chưa có thông báo chính thức nào cả nhưng trong nội bộ cơ quan, các lời gièm pha tha hồ truyền tai nhau, Clarice biết chắc điều này.


      Trong lúc ăn sáng, trong những người bạn của Clarice, thanh niên trẻ sặc mùi dầu thơm, gọi bằng tên “Melvin Pelvis”, lối chơi chữ với cái tên Melvin Purvis - nhân viên số 1 của FBI dưới thời ông Edgar Hoover trong khoảng thời gian những năm 30. Ardelia Mapp có cái gì đó làm cho ta xanh mặt và bỏ luôn bữa điểm tâm còn nguyên vẹn.


      Clarice sống trong tâm trạng kỳ lạ mà người ta sẵn sàng vất bỏ tất cả mọi thứ. Suốt hai bốn tiếng đồng hồ, chờ việc sắp đến, nhưng nhất quyết tranh đấu đến cùng trong chừng mực nào đó có thể có được.


      Vừa vừa cho hòn bi lăn, nhưng người thuyết trình hề làm rớt nó. Trong lúc nhìn ta, Clarice tự nhủ chắc trong suốt cuộc đời ta bao giờ biết ném trái banh. Ngay lúc này ta gọi “Clarice Starling!”


      - Vâng - đáp lại.


      Người thuyết trình hất cằm ra cánh cửa ở phía sau . Đây rồi. Tương lai của làm cho đôi chân nặng trĩu khi quay mặt lại. Đó là Brigham chỉ vào trong đám đông. Ông ra hiệu cho theo ông.


      Trong khắc, nghĩ người ta sa thải , nhưng điều này thuộc chức năng của Brigham mà.


      - Lên đường, Starling! Thế dụng cụ cho trường của đâu rồi?


      - Trong phòng của tôi, dãy C.


      phải bước nhanh để có thể ngang hàng ta. ta mang túi lớn đựng dụng cụ lấy dấu tay, thứ dành cho công việc chứ phải loại để thực tập, và túi khác bằng vải bố.


      - cùng Jack Crawford. Hãy lấy đồ đạc cho đêm. Có thể tối nay trở về nhưng cũng chắc lắm.


      - Thế chúng ta đâu đây?


      - Đến bang Virginie. Hồi lúc rạng đông, những người săn vịt thấy xác chết trôi sông Elk. nạn nhân khác của Buffalo Bill. Cảnh sát địa phương trục ta lên bờ. Mấy tay cảnh sát đó đúng là tay mơ và Jack thể mong đợi ở họ để có thêm chi tiết. - Brigham đứng lại ở dãy C. - Ông ta muốn có người nào đó biết lấy dấu tay của người chết trôi. làm thực tập viên trong phòng thí nghiệm rồi phải , có thể làm được việc đó chứ?


      - Được, nhưng hãy để cho tôi kiểm tra lại dụng cụ trước .


      Brigham giữ hai miệng túi rộng mở trong khi Clarice lấy mấy cái mâm ra. Các cây kim chích và các lọ có đầy dủ, nhưng chưa có máy chụp hình.


      - Tôi cần máy Polaroid chụp chi tiết, máy CU-5, thêm phim và pin.


      - Tôi lấy cho những thứ đó.


      ta đưa cho cái túi bằng vải bố, với cả trọng lượng của nó, mới hiểu tại sao chính ta lại đón .


      - chưa được trang bị súng phải ?


      - Chưa.


      - Như thế phải cần đến nguyên bộ đấy. Đó là tất cả những thứ mà phải mang đến trường bắn. Khẩu súng ngắn là của tôi. khẩu Smith, giống như khẩu dùng để tập bắn, nhưng được chỉnh sửa lại hoàn toàn. Tôi nay hãy tập bắn đạn trong phòng ngủ. Trong mười phút nữa tôi tới bằng xe với máy chụp hình, ở phía sau dãy C. Nghe đây, có phòng vệ sinh chiếc Xuồng Xanh đâu, tôi khuyên nên tranh thủ trước. Nào khẩn trương , Starling!


      định hỏi thêm câu gì đó nhưng ta mất rồi.


      Nếu Crawford thân hành đích thực là Buffalo Bill rồi. Nhưng Xuồng Xanh là cái quái gì mới được? Thôi, tốt nhất ta nên bắt tay vào việc nhanh chóng, thầm nghĩ.


      - dễ dàng chút nào...


      - Thôi được rồi - Brigham ngắt ngang khi bước lên xe. Nếu có ai đó muốn biết có mang vũ khí thấy cái u dưới áo vét của . mang khẩu súng ngắn trong cái bao dẹp, được giắt sát hông, cộng thêm kẹp, đạn ở bên kia thắt lưng.


      Brigham phóng xe với tốc độ cho phép đến đường băng của Quantico.


      ta tằng hắng.


      - Có điều nên nhớ là người ta quan tâm đến chính trị trong khi bắn súng.


      - sao?


      - làm đúng khi muốn bảo vệ cái gara kia ở Baltimore. lo về chuyện thấy mình tivi có phải ?


      - Tôi có lý do để lo ?


      - Những gì tôi là những bí mật của hai chúng ta, đồng ý ?


      - Đồng ý.


      Brigham chào trả theo kiểu quân đội người nhân viên điều hành lưu thông.


      - Khi bảo theo ngày hôm nay, Jack muốn chứng tỏ với mọi người là ông tin tưởng nơi - . - Trong trường hợp ông trưởng phòng hành chánh có hồ sơ trước mặt, ông ta sôi ruột gan lên, hiểu tôi muốn gì chứ?


      - Mmmmm.


      - Crawford là người hề sợ biểu lộ quan điểm của mình. Ông cho giới chức có thẩm quyền biết là làm đúng khi bảo vệ trường. Ông thả trần truồng... ý tôi muốn có quyền hạn hữu hình, và ông cũng lên điều này. Hơn nữa, cảnh sát Baltimore mất khá nhiều thời gian để đến đấy. Crawford cần trợ giúp ngay tức và ông ta phải chờ hơn tiếng đồng hồ để Jimmy Price tìm cho ông nhân viên phòng giảo nghiệm. có mặt đúng lúc lắm, Starling. phụ nữ chết trôi cũng phải là cuộc giải trí. Nếu ai đó muốn nghĩ đây là hình phạt tùy ý họ... biết , Crawford là người rất tế nhị, nhưng ông muốn mất thời giờ để giải thích, vì thế mà tôi kể cho nghe hết những điều này. Nếu làm việc với Crawford phải biết hành xử ra sao, hiểu ?


      - Chưa lắm.


      - Ông còn có nhiều mối lo âu khác hơn là Buffalo Bill. Vợ ông ta đau rất nặng... Có thể hấp hối... Họ sống với nhau hạnh phúc lâu dài.


      - Cám ơn cho tôi biết những điều này.


      Brigham tiếp khi họ đến ngay đường băng.


      - Khi kết thúc khóa học về vũ khí, tôi hai hay ba điều quan trọng, cố gắng có mặt nhé, Starling!


      - Tôi có mặt.


      - Hãy nghe đây, những điều tôi muốn chỉ bảo có thể cần đến. Tôi hy vọng thế. Nhưng rất có khiếu, Starling. Nếu buộc phải bóp cò, có đủ khả năng làm được. Hãy tập cho giỏi .


      - Đồng ý.


      - Đừng bao giờ bỏ nó vào trong túi xách.


      - rồi.


      chiếc Breechcraft hai động cơ già cỗi chờ đường băng, đèn vị trí bật sáng và cửa được mở sẵn. cánh quạt quay làm ngã rạp đám cỏ gần đó.


      - Có phải đây là cái Xuồng Xanh ?


      - Phải.


      - Nó vừa cũ và nữa.


      - Nó cũ lắm đấy - Brigham vui vẻ - Biệt đội chống ma túy bắt nó ở Florida cách đây nhiều năm rồi, khi nó rơi trong vùng Everglades. Tôi hy vọng Gramm và Rudman biết là chúng ta sử dụng nó, bởi vì đúng lý chúng ta phải bằng xe ca. - đậu ngay cửa máy bay và lấy hành lý của Clarice ở băng sau xuống. giao hết cho và bắt tay .


      Và làm ra vẻ cố ý, Brigham :


      - Xin Chúa phù hộ cho , Starling - Lời có vẻ kỳ quặc từ miệng của Thủy quân Lục chiến. Dường như ta buột miệng nên đỏ mặt.


      - Cám ơn... cám ơn nhiều, Brigham.


      Crawford mặc áo tay ngắn và đeo kính râm, ngồi ghế người phi công phụ. Ông xoay mặt về phía Clarice khi nghe tiếng cánh cửa đóng lại.


      thấy được mắt ông sau đôi kính màu khói và bất ngờ nhận ra hề biết gì về người này. Mặt Crawford xanh và lầm lầm, giống như rễ cây mà chiếc xe ủi đất vừa bật gốc lên.


      - hãy ngồi xuống và đọc cái này - Ông thay lời chào hỏi.


      tập hồ sơ dày được đặt chiếc ghế cạnh ông. bìa có chữ BUFFALO BILL. Clarice ôm nó vào người trong khi chiếc Xuồng Xanh nổ liên hồi, rung rung và bắt đầu lăn bánh.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      11



      Các mép đường băng mờ dần và biến mất. Ở hướng Đông, ánh nắng ban mai ném mũi tên ánh sáng xuống Vịnh Chesapeake trong khi chiếc phi cơ phóng lên trời xanh.


      Clarice Starling nhìn thấy trường Quantico và căn cứ quân Quantico. con đường tập quân , hình bóng bé của các Thủy quân lục chiến chạy mau.


      ra hình ảnh nhìn từ cao là thế!


      liên tưởng đến buổi chiều, sau giờ tập tác xạ, bước với những suy nghĩ miên man trong hành lang Hogan tối tăm và vắng tanh, nghe phi cơ bay ngang qua trong tiếng gầm rú; và khi im lặng được vãn hồi, nghe tiếng la hét bầu trời đen. Đó là toán nhảy dù thực tập nhảy dù đêm, gọi nhau ơi ới trong khi từ từ hạ xuống trong bóng tối. tự hỏi biết cảm giác như thế nào khi chờ lệnh nhảy để lao mình trong đêm tối và tiếng rít của gió.


      Chắc nó cũng hơi giống như thế này.


      mở tập hồ sơ ra.


      Với những gì người ta biết được, Buffalo Bill thực năm vụ án mạng. Trong mười tháng sau này, ít nhất bắt cóc, giết và lột da phụ nữ. (Clarice đọc các báo cáo giảo nghiệm và đọc chậm lại ở những đoạn về lượng histamin tự do xác nhận giết họ trước khi làm những việc khác).


      Sau khi hành động, ném xác xuống sông. Nhưng bao giờ trong cùng dòng sông, ở hạ lưu của ngã tư xa lộ và mỗi lần như thế lại xảy ra tại tiểu bang khác nhau. Mọi người đều biết Buffalo Bill dịch chuyển nhiều lắm. Và chỉ thế thôi, trừ việc có thể khẩu súng ngắn, với sáu đường khương tuyến và sáu hộc đạn, có thể là khẩu Colt... hoặc bản sao của Colt. Những dấu vết được tìm thấy các viên đạn cho thấy thích bắn loại đạn cỡ 38 đặc biệt với nòng dài hơn của khẩu 357.


      Dòng nước chảy xóa hết các dấu vân tay, để lại bất cứ dấu tích nào của tóc hoặc những mảnh vải có thể được dùng làm tang chứng.


      Có thể là người da trắng; vì thông thường các tên sát nhân hàng loạt thích giết người trong nhóm bộ tộc của và tất cả các nạn nhân cũng là da trắng; và là đàn ông bởi vì cho đến giờ chưa có tên sát nhân hàng loạt nào là phụ nữ.


      Hai người chuyên trách chuyện vặt ở New York cho chạy tít bài thơ của E.C.Cummings “Buffalo Bill”: ... vậy Thần Chết, bà ta như thế nào, thằng con trai với đôi mắt xanh đó của bà?


      Có thể chính Crawford dán lời trích dẫn vào mặt trong của tập hồ sơ.


      liên quan hợp lý nào giữa nơi Buffalo Bill bắt cóc các nạn nhân với nơi mà vứt xác họ cả.


      Có khi người ta tìm được cái xác khá sớm để có thể xác định chính xác ngày giờ chết; điều đó giúp cho cảnh sát biết thêm thông tin về tên giết người: Bill chỉ giết từ bảy đến mười ngày sau khi bắt cóc họ. Như vậy phải có nơi để giam giữ họ, nơi mà có thể hoạt động trong bí mật. phải là tên vô gia cư. Mà đúng hơn là con czéténidé, loài nhện ở trong hang; chỗ trốn ở đâu đó.


      Điều làm cho dân chúng hoảng sợ hơn là giam các nạn nhân của trong vòng tuần hay hơn trong khi biết chắc giết họ.


      Hai người bị treo cổ, ba bị giết bằng súng. Theo khám nghiệm, ngược đãi hoặc hãm hiếp họ và các báo cáo giảo nghiệm bao giờ đề cập đến bất cứ thay đổi đặc trưng của bộ phận sinh dục, nhưng các chuyên gia pháp y nhấn mạnh là họ gần như thể quả quyết việc đó với những thi hài bị hư hỏng quá nhiều.


      Tất cả các nạn nhận được tìm thấy đều trần truồng. Trong hai trường hợp, quần áo của nạn nhân được cắt đôi ở sau lưng và quăng vệ đường, xa nơi cư ngụ của họ.


      Clarice nhìn vào các hình ảnh mà hề bối rối. Những người chết trôi là những xác khó đương đầu. Nhất là trường hợp của những nạn nhân bị giết trung. Những lăng nhục mà họ phải gánh chịu cộng thêm việc phơi bày cho thiên hạ và trước những cái nhìn dửng dưng, làm bạn phẫn nộ, nếu bạn có thể cảm nghĩ như thế.


      Nhưng ở đây, ai muốn như thế. Các nạn nhân còn cả da người, khi người ta tìm thấy họ ở các bờ đầy rác của con sông, giữa các bình xăng và túi nylon. Mặt của những nạn nhân trong lúc giá lạnh gần như nguyên vẹn. Clarice phải cố nhớ lại phải đau đớn làm hếch môi lên; chính rùa và các loài cá, trong lúcỉa cái xác, tạo hình dáng đó. Bill chỉ lột da ngực và bao giờ đụng đến các chi.


      dễ chịu hơn khi trong phi cơ nóng đến thế, Clarice tự nhủ, và chiếc phi cơ chết tiệt này lắc lư và ánh mặt trời chói chang làm cho nhức nhối như cơn đau đầu.


      Người ta bắt thôi. Clarice bám vào ý nghĩ này để có thể chịu được cái khí càng lúc càng ngạt thở trong chiếc phi cơ và những tin tức khủng khiếp được chất đống đôi chân . giúp họ kết thúc vụ này. Đến lúc đó người ta có thể cất cái hồ sơ vào trong hộc tủ và còn nghĩ gì tới nữa.


      ngắm nhìn cái ót của Crawford. là thành viên của toán giỏi, rất cần để chống lại Buffalo Bill. Crawford thành công trong việc bắt được ba tên giết người hàng loạt. Tại trường, người ta đánh giá Will Graham, viên thám tử xuất sắc nhất trong toán của Crawford, là hùng; và cũng là hùng nghiện rượu tại bang Florida, với khuôn mặt bị biến dạng kinh khủng.


      Có thể Crawford cảm nhận được cái nhìn của Clarice vào ngay ót của mình. Ông bước ra khỏi chiếc ghế. Khi ông cất cặp kính râm và mang cái mắt kính hai tròng, mới tìm thấy lại người đàn ông từng quen biết.


      Mắt ông lướt từ Clarice qua tập hồ sơ rồi ngược lại. cái gì đó thoáng qua mặt ông.


      - Tôi nóng quá, có thế ? - Ông hỏi - Bobby ơi, người ta chết thiêu ở trong này đây - Ông hét với người phi công. Người này bấm cái nút và khí lạnh ùa vào. Vài bông tuyết được hình thành trong cái khí ẩm thấp, bay rớt tóc của Clarice.


      Bây giờ mới đúng là người thợ săn Crawford trong ngày đẹp trời của mùa đông. Ông mở bản đồ của các khu vực vùng trung tâm và miền đông của Hoa Kỳ. Các điểm rải rác chỉ định nơi người ta tìm thấy các xác chết, giống hình chòm sao lặng thinh và ngoằn ngoèo khác gì chòm sao Orion.


      Crawford rút cây bút máy ra và đánh dấu vào vị trí cuối cùng, điểm đến của họ.


      - Sông Elk khoảng mười cây số về nam quốc lộ 79 - Ông cho biết - Lần này chúng ta gặp may đấy. Cái xác bị kẹt vào dây câu đáy của mấy người câu đặt. Cảnh sát địa phương nghĩ cái xác ở dưới nước quá lâu. Họ đem cái xác đến Potter, thủ phủ của quận. Chúng ta phải mau chóng xác định cho được lý lịch nạn nhân để tìm các nhân chứng của cuộc bắt cóc. Ngay khi có được vân tay, chúng ta chuyển chúng bằng fax - Crawford nghiêng đầu để nhìn Clarice qua cặp kính.


      - Jimmy Price biết lấy dấu vân tay của người chết đuối.


      - Tôi chưa hề làm trực tiếp người chết trôi bao giờ. Tôi có lấy dấu các bàn tay mà ông ta nhận được mỗi ngày trong thư tín. Nhưng số lớn là của những người chết trôi.


      Những người chưa bao giờ làm việc trực tiếp dưới chỉ huy của Jimmy Price cho ông ta là người hay cau có. đúng ra ông ta là ông già hung tợn. Trong các tiết học về pháp y, Clarice hết sức đau khổ dưới quyền chỉ huy của ông trưởng ban dấu tay phòng thí nghiệm tại Washington.


      - Ông già Jimmy nhân hậu - Crawford cách trìu mến - Nhưng người ta gọi cái công việc đó là như thế nào, nhỉ?


      - “ ghê tởm”, dù có nhiều người thích gọi bằng “Igor” hơn, vì từ mà người ta viết tạp dề bằng cao su phát cho mỗi người.


      - Bây giờ tôi nhớ ra rồi.


      - Người ta thường : bạn chỉ cần tưởng tượng mình phẫu thuật con ếch .


      - Ra thế.


      - Sau đó người ta mang tới cái gói. Các học viên kia nhìn bạn, có vài người mau chóng rời khỏi máy bán nước ngọt, với hy vọng bạn tha hồ nôn mửa. Nhưng tôi hoàn toàn có thể lấy dấu vân tay của người chết đuối. Mà cho đúng...


      - Tốt rồi, bây giờ hãy nhìn đây. Nạn nhân đầu tiên của ông ta được tìm thấy tại sông Blackwater, bang Missouri, gần Lone Jack hồi tháng sáu vừa qua. Bimmel nào đó, mất tích được báo hai tháng trước tại Belvedere, Ohio, vào ngày 15 tháng tư. Người ta thể gì nhiều hơn được, vì phải mất gần ba tháng cho mỗi công việc nhận dạng ta. Người kế tiếp bị bắt cóc tại Chicago, trong tuần thứ ba của tháng tư. Người ta tìm được nạn nhân trong con sông Wabash, Indiana, mười ngày sau, còn nguyên vẹn đến mức người ta có thể chính xác những gì xảy ra với ta. Sau đó, chúng ta có người da trắng khoảng hai mươi tuổi. Bị ném xuống Rolling Fork gần quốc lộ 75, cách khoảng sáu mươi cây số về hướng nam Louisville, Kentucky. Người này thể nhận dạng được. Kế tiếp là Varmer nào đó, bị bắt cóc tại Evansville, Indiana, được tìm thấy trong con sông Embarras, ngay cạnh quốc lộ 70, về hướng đông bang Illinois.


      - Sau đó, xuống sâu về miền nam và bỏ cái xác thứ năm trong con sông Conasauga, gần Damascus, Géorgie, xa quốc lộ 75. Đây là hình ảnh của ta trong ngày nhận bằng cấp. này tên Kittridge, sống tại Pittsburg. Tuy nhiên có điều khó khăn là ai nhìn thấy mặt của . Ngoại trừ việc người ta tìm thấy các xác chết cạnh quốc lộ, chúng ta dấu vết nào cả.


      - Nếu ông ngược các quốc lộ từ các nơi vứt xác các nạn nhân những con đường đó có hội tụ được ?


      - .


      - Và nếu người ta đặt giả thuyết rằng vứt cái xác này để bắt ngay khác cùng trong chuyến đó? bắt đầu vứt cái xác này xuống nước để phòng trường hợp có thể gặp rắc rối với lần bắt cóc sau. Nếu người ta bắt về tội bạo hành, có thể được tại ngoại sau khi đóng tiền bảo lãnh, với điều kiện là có cái xác trong xe. Hoặc nếu người ta vẽ đường thẳng giữa chỗ tìm thấy xác với nơi bắt cóc kế tiếp xem sao? Đáng lý ông phải thử phương cách này.


      - Đây là ý kiến rất hay, nhưng cũng như thế. Nếu làm đúng hai công việc đó trong chuyến , di chuyển theo hình chữ chi. Chúng tôi thực các mô phỏng máy điện toán: trước tiên làm như thể theo xa lộ về hướng tây, sau đó về hướng đông, rồi với những phối hợp khác với các ngày hợp lý nhất mà chúng tôi đoán là có thể vứt cái xác và thực vụ bắt cóc khác. Nếu chúng ta đưa hết những kiện này vào trong máy điện toán, chúng ta chẳng được gì cả. sống tại miền đông, đó là lời giải đáp của máy. theo chu kỳ của mặt trăng. Những ngày xảy ra các vụ bắt cóc khớp với các ngày hội họp các đảng tại những thành phố liên quan, Starling, dự trù mọi thứ.


      - Ông có nghĩ quá tinh ranh để có thể nghĩ đến việc tự sát .


      Crawford gật đầu ưng thuận.


      - Quá khôn ngoan. tìm ra phương cách để thỏa mãn các nhu cầu của mình và nhất định khai thác đến cùng. Tôi đặt cược vào vụ tự sát đâu.


      Crawford rót ly nước từ trong bình thủy và đưa cho viên phi công. Ông đưa ly khác cho Clarice và bỏ thêm viên Alka-Seltzer trong ly của mình.


      Clarice cảm thấy lộn ruột gan khi chiếc phi cơ bắt đầu hạ cánh.


      - hay hai nhận xét đây, Starling. Tôi mong chờ ở giám định hoàn hảo, nhưng chưa phải hết đâu. thích nhiều và tôi cũng thế. Điều này rất hay. Tuy nhiên, đừng bao giờ chờ có kiện mới rồi mới báo cho tôi biết những gì nghĩ. hề có câu hỏi ngu xuẩn. thấy những gì tôi bỏ qua và tôi muốn điều đó với tôi. Có thể có năng khiếu cho việc này. Đây là cơ hội để học hỏi đấy.


      Tim muốn lộn ra ngoài, nhưng vẻ mặt chăm chú, Clarice tự hỏi biết từ bao giờ Crawford muốn giao công việc này cho , hay ông ta muốn thử thách . Quả ông là vị chỉ huy chứa đựng nhiều điều khó hiểu nhất.


      - Phải quan sát xem đâu, người ta bắt đầu có mối liên hệ nào đó với - Crawford tiếp - khó tin nhưng phải lúc nào người ta cũng ghét . Vì thế, nếu có chút may mắn nào, nên chú ý đến điều gì đó. Nếu việc này xảy ra, phải báo cho tôi biết ngay, nghe Starling?


      - Thêm việc nữa. án mạng việc khá hoang mang rồi nên việc điều tra nên làm cho rắc rối hơn thêm. đừng để cho vài ba cảnh sát viên gây ấn tượng. hãy sống bằng cái đầu của mình. Hãy suy nghĩ cho kỹ. Hãy tách biệt vụ án mạng với những gì xảy ra quanh . nên gán cho bất cứ hình mẫu nào, hoặc cho là hợp lý bất cứ mọi hành vi nào của . Hãy giữ cho tinh thần rộng mở và tự nhiên đến với .


      - Lời nhận xét cuối cùng: vụ điều tra như vụ này đúng là việc làm nát óc. Nó đan chéo các quyền xét xử mà có khi chúng lại được chỉ đạo bởi những kẻ thua cuộc. Trước hết phải biết hòa thuận với họ, để họ giấu chúng ta bất cứ điều gì. Chúng ta đến Potter ở miền Tây của bang Virginie. Tôi hề biết những người chờ đón chúng ta. Có thể họ rất tốt, nhưng cũng có thể họ xem chúng ta như là nhân viên thuế vụ vậy.


      Viên phi công nhấc nón bay lên và nhưng xoay người lại:


      - Chúng ta đến rồi Jack, vẫn ngồi sau đó phải ?


      - Đúng vậy. Hết giờ học rồi Starling.



      12



      Nhà tang lễ Potter là ngôi nhà lớn nhất vùng với khung sườn bằng gỗ được sơn trắng đường Potter, tại Potter, Virginie, nó cũng được dùng làm nhà xác cho cảnh sát của quận Rankin. Viên pháp y là bác sĩ đa khoa của thành phố, bác sĩ Akin. Nếu nghi ngờ cái chết của ai đó ông gởi xác đến Trung tâm Y Khoa tại Claxton, ở quận kế cận, để cho viên pháp y khác có kinh nghiệm giảo nghiệm hơn phân xét.


      Trong chiếc xe cảnh sát đến đón họ tại phi trường, trong suốt cuộc hành trình Clarice phải ngồi chúi người về phía cái lưới sắt ngăn đôi chiếc xe để có thể theo dõi được người tài xế, là phụ tá cảnh sát trưởng, để báo cáo các kiện lại cho Crawford.


      Tang lễ bắt đầu cử hành. các bậc thềm nhà và lề đường được trang hoàng cây hoàng dương trơ trụi, thân nhân và bạn bè của người quá cố đứng chờ trong bộ cánh trang nghiêm nhất của họ. Cầu thang và ngôi nhà vừa mới được sơn lại, hơi nghiêng về phía khác nhau.


      Trong bãi đậu xe ở phía sau, nơi đậu các xe tang, hai người bạn trẻ và người già hơn, đứng chờ dưới cây du trụi lá cùng hai nhân viên cảnh sát. Thời tiết chưa đủ lạnh để cho hơi thở của họ bốc thành hơi.


      Clarice biết nhiều về cuộc đời của họ và nhận ra ngay với cái nhìn đầu tiên. Họ đến từ những ngôi nhà mà người ta có nùi giẻ thay cho tủ quần áo. Cha mẹ của những người đàn ông này treo quần áo trong những túi ở phía sau xe rờ moóc của họ. biết thời ấu thơ của người già nhất trong đám này, bơm nước nằm ngay trước cửa ra vào và vào mùa xuân, ông ta phải lội trong bùn cho đến đường cái để đón xe buýt chở học sinh với đôi giày được cột đính lại và treo tòn teng cổ, giống như người cha của ông ta làm trước ông ta vậy. Họ mang thức ăn trong các túi giấy dính đầy mỡ vì sử dụng quá nhiều lần rồi, và sau khi ăn xong họ lại xếp lại và nhét sau túi quần jeans.


      tự hỏi biết Crawford có biết điều này .


      Trong xe có tay mở cửa ở phía sau, Clarice khám phá ra điều này khi thấy người tài xế cùng Crawford xuống xe và tiến về phía sau ngôi nhà. phải đập vào cửa kính cho đến khi viên phụ tá khác đứng dưới cái cây nhìn thấy và người tài xế phải trở lại, mặt đỏ gay vì ngượng.


      Đám đàn ông nhìn ngang qua và người “Chào bà...” đáp trả bằng cái gật đầu và nụ cười miễn cưỡng, để tiến lại nơi Crawford đứng ngay dưới cổng.


      Khi khá xa, trong đám người này gãi cằm và :


      - Chắc ta tưởng mình bảnh lắm đây.


      - Nếu tưởng mình ngon lắm tôi cũng đồng ý với ta - người khác đáp lại - Tôi sẵn sàng cùng ta ngay.


      - Tao thích trái dưa hấu mát lạnh hơn, - người khác kết luận.


      Crawford bắt đầu chuyện với viên phụ tá thứ nhất của ông cảnh sát trưởng, người thó gân guốc với cặp kính có khung sắt và đôi ủng kiểu “Romeo”.


      Họ vào trong hành lang mờ tối có tiếng rì của máy bán nước uống; nhiều vật dụng linh tinh được kê sát tường, máy may bàn đạp, xe đạp ba bánh, cuộn ống ước, màn sáo bằng vải được cuốn lại. tường có treo bức họa thuốc nước màu được thể nữ thánh Cécile đánh đàn đại phong cầm.


      - Cám ơn báo cho chúng tôi nhanh như thế - Crawford .


      - Có ai đó tại văn phòng công tố báo cho các vị. Tôi biết chắc phải ông cảnh sát trưởng - Ông Perkin du lịch đến Hawaii với bà Perkin rồi. Tôi vừa chuyện với ông ấy điện thoại hồi tám giờ sáng nay, mà bên đó là ba giờ sáng. Ông ấy gọi lại cho tôi sau nhưng còn dặn tôi: điều chủ yếu là phải xem coi có phải là thiếu nữ trong vùng . Cũng có thể là do các phần tử xấu đem đến vứt ở đây. Đó là mục tiêu trước mắt của chúng tôi. Chúng tôi nhận được nhiều xác rồi từ Phenix City, bang Alabama.


      - Chính về điều này mà chúng tôi có thể giúp mấy đây. Nếu...


      - Tôi vừa tiếp ông chỉ huy Charleston điện thoại. Ông ta gởi toán điều tra án mạng đến chúng tôi, Toán SEC. Ông ta hỗ trợ cho chúng tôi tất cả trợ giúp mà chúng tôi cần. Chúng tôi tiếp các vị khi nào chúng tôi rảnh, và chúng ta hợp tác với nhau trong chừng mực có thể được, nhưng giờ ...


      - Này ông Cảnh sát trưởng, loại án mạng tính dục này có nhiều khía cạnh mà tôi muốn trao đổi giữa chúng ta đàn ông với nhau thôi, ông hiểu ý tôi chứ? - Crawford và hất cằm về phía Clarice. Ông đẩy Clarice vào trong căn phòng bề bộn và đóng cửa lại. Clarice cố che giấu nỗi ác cảm của mình trước mặt đám cảnh sát viên này. Cắn răng lại, chăm chú nhìn bức tranh Thánh Cécile, nhưng vẫn dò xét những gì được trao đổi đằng sau cánh cửa. nghe họ lớn tiếng hơn và lõm bõm nhận ra cuộc trò chuyện qua điện thoại. Họ trở ra ngoài hành lang chưa đầy bốn phút sau đó.


      Viên phụ tá thứ nhất mím môi lại.


      - Oscar, hãy tìm bác sĩ Akin cho tôi. Ông ấy gần như bị buộc phải tham dự lễ tang. với ông ấy là tôi chuyện với Claxton điện thoại rồi.


      Viên pháp y bước vào phòng làm việc , chân để ghế, gõ gõ cây quạt vào hàm răng, ông có cuộc chuyện ngắn với viên pháp y của Claxton. Sau đó, tất cả họ đều đồng ý.


      Trong căn phòng ướp xác bốn tường được dán giấy hình bông hồng lớn, trần nhà được trang trí bằng đường chỉ theo loại nhà có khung sườn gỗ mà biết rất . Tại đây Clarice Starling tìm được bằng chứng xác thực của hữu của Buffalo Bill.


      Cái túi nhựa có dây kéo đựng cái xác là vật đại duy nhất trong căn phòng này. Nó được đặt cái bàn ướp xác cũ kỹ bằng sứ mà hình bóng của nó được phản chiếu nhiều lần các cửa tủ kính đựng vài dụng cụ y khoa và chai lọ đựng hóa chất.


      Crawford lấy máy truyền dấu tay trong chiếc xe trong khi Clarice lấy đồ nghề ra đặt cái bệ của chậu rửa lớn được gắn sát tường.


      Có quá nhiều người trong căn phòng này. Viên phụ tá thứ nhất và đám cảnh sát kia vào hết trong này, dường như họ muốn ở lại đây. Tại sao Crawford vào để bảo họ ra vậy?


      Giấy dán tường bắt đầu dợn sóng khi ông bác sĩ mở quạt trần đầy bụi.


      Clarice Starling đứng ngay cạnh bồn rửa, phải can đảm hơn lính thủy quân lục chiến nhảy dù mới có thể đứng đây được. Hình ảnh này trong đầu có thể giúp đôi chút, nhưng lại làm đau nhói.


      Mẹ , cũng đứng trước bồn rửa, rửa máu dính nón của cha , và trong lúc cho nước chảy đó, bà : “Con đừng quá lo Clarice à, mọi việc đều ổn thỏa. với mấy và chị con rửa tay để ăn trưa. Hai mẹ con mình chuyện với nhau lúc rồi ăn sau.”


      lấy khăn choàng ra để cột quanh đầu khác bà nữ hộ sinh tỉnh lẻ. lấy trong túi ra cặp găng tay phẫu thuật. Khi mở miệng để câu đầu tiên từ khi đến Potter, giọng của mang sắc giọng mũi khác thường và hơi lớn tiếng đến mức Crawford phải bước lại gần cửa để nghe.


      - Này các ông! Xin hãy nghe tôi đây. Bây giờ tôi muốn các ông để tôi ở mình trong này với cái xác - đưa hai tay về phía trước trong lúc mang bao tay vào. - Tôi có công việc phải hoàn tất vì lợi ích của nạn nhân. Các vị đưa ta đến đây và tôi biết chắc cha mẹ ta cảm ơn quý vị nếu họ có mặt ở đây. Bây giờ xin quý vị hãy ra hết để tôi lo cho nạn nhân.


      Crawford thấy họ bỗng nhiên trở nên im lặng và lễ phép, ông nghe họ thầm “Thôi nào Jess, chúng ta hãy ra ngoài sân ”. Crawford nhận thấy khí cũng thay đổi trước diện của cái xác: dù nạn nhân là ai nữa, dù ta đến từ đâu nữa, con sông đưa ta đến cái xó xỉnh này; và giờ đây ta nằm đó, bất lực trong cái nhà tang lễ miền quê này và chỉ có Clarice mới có được mối quan hệ đặc quyền với ta. Tại nơi này, là người thừa hưởng của những người phụ nữ đầy khôn ngoan, những tổ tiên chữa lành được bệnh chỉ với những bà nông dân chất phác trông nom các bệnh nhân và sau đó tắm rửa, mặc quần áo cho những người chết mà thôi.


      Bây giờ chỉ còn Crawford, Clarice và vị bác sĩ ở lại với nạn nhân. Bác sĩ Akin và Clarice nhìn nhau như thể họ nhận ra nhau vậy. kỳ lạ, cả hai vừa có vẻ thỏa mãn và vừa ngượng ngùng.


      Crawford lấy trong túi ra hũ dầu VapoRub và đưa cho họ. Thấy vị bác sĩ và ông sếp của mình thoa nó lên ngay trước mũi, cũng bắt chước làm theo.


      Xoay lưng lại, lấy máy chụp hình ra và để nó lên bồn rửa. nghe ở sau lưng tiếng dây kéo người ta kéo xuống.


      Clarice nháy mắt để nhìn chăm chăm vào các bông hồng tường, hít hơi dài rồi thở ra, xong mới dám quay đầu lại để nhìn vào cái xác.


      - Đáng lẽ người ta phải bọc hai bàn tay ta bằng bao giấy mới đúng - - Đó là điều tôi làm khi tôi xong việc. - cẩn , theo đúng cách học để tách đôi hình ảnh, bắt đầu chụp hình.


      Nạn nhân là thiếu nữ có đôi hông rộng, cao thước sáu mươi. Tại nơi có da, nước sông làm thịt bạc màu, nhưng nước rất lạnh và hiển nhiên cái xác bị ngâm trong đó chỉ vài ngày thôi. Từ đường thẳng, ngay dưới hai vú cho đến đầu gối, còn mảng da nào hết; nó tương ứng với phần còn lại của thân thể được cái quần và sợi nịt lớn che kín.


      Giữa hai cái vú , ngay xương ức, là nguyên nhân ràng gây ra cái chết, vết thương bị rách thịt hình ngôi sao, lớn bằng bàn tay.


      Cái đầu tròn bị lột da.


      - Bác sĩ Lecter có báo trước rằng bắt đầu lột da đầu các nạn nhân - Clarice cho biết.


      Crawford, hai tay khoanh lại, đứng nhìn chụp hình.


      - Hãy chụp các lỗ tai bằng máy Polaroid đấy.


      Ông quanh cái xác và trề môi. Clarice tháo bao tay ra để có thể lòn ngón tay dưới bắp chân ta. đoạn dây câu có ba lưỡi, đan nhau rối nùi, quấn quanh phần dưới cái chân, giữ cái xác trong dòng nước.


      - thấy gì, Starling?


      - ta phải là dân ở đây - lỗ tai ta được bấm ba lỗ và móng tay có sơn. Lông chân ta, ông có thấy là chúng quá mịn ? Tôi nghĩ ta nhổ lông chân và lần cuối cùng cách đây hai tuần lễ. Cả nách cũng thế. Hãy nhìn đây, ta làm bạc màu lông măng ở môi . Đây là thiếu nữ hay chăm sóc hình thể của mình, nhưng thời gian sau này làm được điều đó.


      - Thế còn vết thương?


      - Chưa biết nữa. Tôi có thể đó là lỗ ra của viên đạn nếu có vòng ăn mòn và dấu của nòng súng ở phía kia.


      - Hay lắm, Starling. Đó là lỗ vào của viên đạn, được bắn rất gần xương ức. Sức mạnh của viên đạn, khi xuyên qua xương và da, làm thịt nổ banh thành hình ngôi sao quanh cái lỗ.


      Nhạc cây đại phong cầm trỗi lên ở bên kia bức tường, lễ tang bắt đầu.


      - cái chết khủng khiếp - bác sĩ Akin nhận xét với cái gật đầu - Tôi phải dự tang lễ này chút. Gia đình nạn nhân muốn tôi tiễn đưa thi hài cho đến nơi. Lamar đến giúp quý vị sau khi ta đánh xong bản nhạc. Xin các vị hãy giữ nguyên các tang chứng cho tôi để gởi đến ông pháp y ở Claxton, được ông Crawford?


      Khi vị bác sĩ rồi, Clarice mới :


      - ta có hai móng tay bị gãy đến chảy máu ở bàn tay trái, hình như có đất và nhiều hạt gì đó cứng, dưới mấy móng kia. Tôi có thể lấy vài mẩu chứ?


      - Hãy lấy vài hạt cát và ít sơn móng tay. Chúng ta lại chuyện này khi chúng ta có được kết quả.


      Lamar, nhân viên của nhà tang lễ, với sắc mặt hồng hào, có lẽ nhờ rượu whisky, bước vào trong khi lấy mẫu.


      - Chắc trước đây làm móng phải - ta .


      Họ hài lòng khi nhận thấy có dấu của móng trong lòng bàn tay, dấu hiệu là giống như những người khác, ta chết trước khi mọi việc khác xảy ra.


      - Để lấy dấu vân tay, có muốn lật úp ta lại ? - Crawford lên tiếng hỏi.


      - Như thế dễ hơn nhiều.


      - Hãy bắt đầu bằng hai hàm răng , sau đó Lamar giúp lật úp xác nạn nhân xuống.


      - Chỉ chụp vài tấm ảnh hay biểu đồ của răng? - Clarice gắn các thiết bị đặc biệt vào ống kính máy chụp vân tay, và mừng thầm là các dụng cụ cần thiết đều có trong túi xách.


      - Chỉ vài tấm hình thôi. có phim X quang biểu đồ răng có thể dẫn đến nhầm lẫn đấy. Các tấm hình giúp cho chúng ta loại bớt hai hoặc ba người mất tích.


      Tuân theo các chỉ dẫn của Clarice, Lamar với đôi bàn tay nhạc sĩ, từ từ cạy miệng của nạn nhân ra và kéo môi lên trong khi đặt máy Polaroid sát vào mặt để chụp cận cảnh các răng phía trước. Với các răng hàm, phải cần đến tấm kính phản chiếu vòm miệng, và canh ánh đèn qua hai cái má, để biết chắc đèn flash chiếu sáng bên trong miệng. Trong lúc học, chỉ thấy vị giáo sư pháp y biểu diễn mà thôi.


      Clarice chờ cho tấm hình đầu tiên của răng hàm in ra rồi, mới chỉnh lại ánh sáng để chụp tiếp. Cái thứ hai hơn và đến cái thứ ba hoàn hảo.


      - ta có cái gì đó trong cuống họng - Clarice .


      Crawford nhìn tấm ảnh. Nó cho thấy vật sẫm màu, hình tròn, ngay đằng sau màn hầu.


      - Đưa cho tôi cây đèn.


      - Mỗi lần người ta kéo cái xác ra khỏi nước, có nhiều khi người ta tìm thấy lá hoặc nhiều thứ khác trong miệng - Lamar trong khi chiếu đèn cho Crawford nhìn vào trong miệng.


      Clarice lấy cái kẹp lớn trong túi xách ra và nhìn Crawford qua cái xác. Ông gật đầu. chỉ mất có giây để lấy cái đó ra.


      - Cái gì thế, loại vỏ đậu phải ? - Crawford hỏi.


      - Thưa ông , đây là cái kén của côn trùng. - Lamar rất đúng. Clarice bỏ nó vào trong cái lọ.


      - Phải để cho ông kỹ sư canh nông xem qua cái này mới được - Lamar góp ý.


      khi lật úp cái xác xuống, lấy dấu vân tay trở thành trò chơi trẻ con. Clarice nghĩ chắc gặp nhiều rắc rối lắm, nhưng rốt cuộc cần phải dùng đến các phương pháp bơm chích tỉ mỉ và phiền toái, cũng cần đến ngay cả bao ngón tay. sử dụng mấy tấm thẻ mỏng được gắn dụng cụ hình cái xỏ giày. Như thế thu được loạt hình dấu vân chân để phòng hờ trường hợp để đối chứng, người ta muốn so với những dấu chân được lấy khi đứa bé mới ra đời.


      Ở xương vai mất hết hai mảnh da hình tam giác. Clarice tiếp tục chụp hình.


      - hãy đo luôn , Clarice - Crawford ra lệnh - làm bị thương ở Akron khi cắt quần áo ta; nó còn lớn hơn vết sướt chút, nhưng nó cũng tương xứng với các vết cắt áo cánh được tìm thấy vệ đ. Cái này mới đấy, tôi chưa hề thấy bao giờ.


      - Có vẻ như vết phỏng ở bắp chân - Clarice nhận xét.


      - Mấy người già cũng thường bị như thế - Lamar xen vào.


      - Cái gì? - Crawford thốt lên.


      - TÔI LÀ MẤY NGƯỜI GIÀ CŨNG THƯỜNG BỊ NHƯ THẾ. - Lamar lớn.


      - Tôi nghe mà, tôi muốn cắt nghĩa hơn. Chuyện gì với mấy người già vậy?


      - Nhiều khi mấy người già chết vì cái gối hơ nóng bụng, và cái này làm cho họ bị phỏng dù nó nóng lắm. Nhưng khi người ta chết, cái gối nóng cũng làm phỏng được vậy. Bởi vì ở chỗ đó còn tuần hoàn nữa.


      - Chúng ta cầu ông pháp y ở Claxton kiểm tra xem có phải xảy ra sau khi chết - Crawford với Clarice.


      - Có thể là ống xả hơi - Lamar lại tiếp.


      - ỐNG XẢ... ống xả hơi. Lần Billie Pétrie bị bắn chết, người ta thẩy vào trong thùng xe của . Để tìm , người vợ lái xe khắp nơi suốt hai, ba ngày như thế. Khi người ta mang về đây, dưới thùng xe, cái ống xả nóng quá mức, làm hông bị phỏng. Tôi bao giờ để thức ăn trong thùng xe, bởi vì nó làm chảy nước đá.


      - Đúng là ý nghĩ tuyệt vời, Lamar; tôi muốn làm việc với tôi. Vậy có biết những người vớt ta lên ?


      - Là hai em Jabbo Franklin và Bubba.


      - Họ làm những gì?


      - Chúng kiếm chuyện đánh lộn với Moose; chúng thường gây gổ với những người làm gì chúng. Mỗi khi bước vào trong quán của Moose để uống rượu, thường hay bắt tôi phải đàn bản Filipino Baby cho nghe. lãnh tiền trợ cấp cựu chiến binh và mỗi năm đều phải cai nghiện vào lúc Giáng sinh. từ mười lăm năm rồi, tôi chờ cái ngày thấy nằm cái bàn này đây.


      - Chúng ta cần tiêm lượng sérotonine tại những nơi mà lưỡi câu móc vào thịt - Crawford . - Tôi viết ít chữ cho vị pháp y mới được.


      - Các lưỡi câu nằm sát nhau quá - Lamar nhận xét.


      - muốn gì vậy?


      - Các em Franklin dùng dây câu đáy với các lưỡi câu nằm quá sát nhau, là điều bất hợp pháp. Cũng chính vì vậy bọn chúng chờ cho đến sáng hôm nay để gọi điện báo.


      - Ông cảnh sát trưởng chúng săn vịt kia mà.


      - Tôi ngạc nhiên khi chúng kể như thế. Bọn chúng với ông là chúng cũng có đâu lần với Duke Keomoka tại Honolulu, và thuộc nhóm của Satellite Monroe. Ông cũng có thể tin điều này nếu ông thích. Ông cứ dạo với cái túi dệt và bọn chúng dẫn ông săn chim mỏ nhát nếu đó là loại chim ưa thích của ông. Hơn nữa chúng còn tặng ông thêm ly rượu nặng rất tồi.


      - Thế theo , điều gì xảy ra?


      - Đám em Franklin dùng dây câu đáy, và sợi này là của bọn chúng với các lưỡi câu bất hợp pháp. Chúng định kéo lên xem có câu được cá đấy.


      - Điều gì khiến tin như thế?


      - em này chưa tới giờ nổi lên.


      - Đúng vậy.


      - Nếu chúng kéo dây câu lên, người ta thể tìm thấy xác này. Bọn chúng về nhà, sợ đến chết người luôn, và cuối cùng họ cũng phải báo cho cảnh sát. Tôi nghĩ chắc ông phải báo cho nhân viên tuần kiểm ư nghiệp chứ?


      - Tôi nghĩ thế.


      - Chúng thường lang thang với cái máy điện thoại quay tay giấu dưới băng chiếc xe Ramcharger của chúng; ở đây nếu ông sử dụng thứ đó bị phạt nặng lắm đấy, nếu phải tù.


      Crawford chau mày.


      - Để điện thoại cho cá - Clarice cắt nghĩa - Cá bị giật chết nếu người ta thả hai sợi dây xuống dòng nước chảy và quay tay quay. Chúng nổi lên mặt nước và chỉ còn việc vớt chúng nữa thôi.


      - Đúng phóc - Lamar - thế ở vùng này sao?


      - Nhiều nơi sử dụng cách đó mà - Clarice đáp lại.


      rất muốn điều gì đó trước khi họ kéo kín cái túi nhựa lại, làm cử chỉ hoặc cho thấy rằng dửng dưng. Nhưng chỉ lắc đầu và lo dọn dụng cụ vào trong túi xách.


      Khi cái xác và những rắc rối thành vấn đề nữa, mới ý thức được công việc mình vừa làm xong. Clarice tháo găng ra và đưa hai tay vào vòi nước. Nước được mát lắm. Lamar đứng nhìn , rồi bỏ ra ngoài hành lang. Sau đó ta trở vào với lon nước ngọt ướp lạnh và đưa cho .


      - , cám ơn - .


      - phải để uống đâu, mà hãy để vào sau ót đấy. Cái lạnh làm cho dễ chịu. Với tôi, lúc nào cũng được cả.


      Chỉ với thời gian Clarice cần để gắn dính miếng băng keo vào mảnh giấy gởi cho ông pháp y, máy truyền dấu tay để bàn bắt đầu kêu lách cách.


      Tìm được nạn nhân quá nhanh như thế, đúng là dịp may hiếm thấy. Crawford muốn nhận diện ta ngay để có thể bắt đầu tìm kiếm các nhân chứng của các vụ bắt cóc khác. Phương pháp của ông ta buộc ít người phải hợp tác, nhưng nó rất hiệu quả.


      Crawford có máy truyền dấu tay hiệu Litton Policefax. Trái với các máy fax kia của FBI, máy Policefax có thể kết nối với hầu hết các sở cảnh sát tại các thành phố lớn. Các phiếu dấu tay mà Clarice lắp ráp lại chỉ mới vừa khô thôi.


      - Nạp vào máy , Starling. rất khéo tay trong vụ này mà.


      Nhớ đừng làm bẩn chúng, đó là nghĩa của câu và Clarice tuân theo. khó để quấn tấm thẻ được kết nối bằng nhiều miếng , quanh cái trục trong khi sáu máy điện báo chờ.


      Crawford liên lạc với tổng đài của FBI và máy điện báo tại Washington.


      - Dorothy, mọi người xong chưa? Tốt rồi quý vị, chúng tôi mở máy vào đúng giờ hai mươi, giờ hai mươi. Các người có đồng ý ? Atlanta, các thế nào rồi? Tốt, bắt đầu truyền hình ảnh !


      Cái máy quay chậm để cho hình ảnh nét, vừa gởi dấu tay người chết đến máy điện báo của FBI và cho cả sở cảnh sát vùng phía đông. Nếu Chicago, Detroit, Atlanta hoặc trong các thành phố khác có được thông tin này, cuộc điều tra bắt đầu chỉ vài phút sau đó.


      Sau đó Crawford gởi hình răng và hình khuôn mặt của nạn nhân với cái đầu được quấn trong khăn bông để đề phòng trường hợp đám báo chí vớ được những tài liệu này.


      Ba thanh tra cảnh sát hình của Virginie đến Charleston ngay lúc họ lên đường. Crawford bắt tay họ và phân phối các bản đồ có ghi số bí mật của Trung Tâm Thông Tin Tội Phạm Quốc Gia. Clarice quan sát cách thích thú hiệu quả mà Crawford có được nhờ biết cách khai thác tình bạn hữu của nam giới. Họ gọi cho ông ngay khi họ có tin tức gì mới và ông có thể tin tưởng họ được. Tốt rồi, cám ơn ngàn lần. Nhưng đó chưa chắc là tình bạn hữu của nam giới đâu, tự nhủ, vì cũng có thể làm được việc đó.


      Lamar đứng tại cổng, vẫy tay chào tạm biệt trong khi Crawford và Clarice rời xa với viên phụ tá cảnh sát trưởng để đến sông Elk. Lon nước ngọt còn lạnh nên Lamar cầm nó vào trong văn phòng để rót cho mình ly nước giải khát.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      13



      - Jeff, cho tôi xuống phòng thí nghiệm nhé! - Crawford lệnh cho người tài xế - Sau đó chờ nhân viên Starling trước cửa Smithsonian. ta về Quantico.


      - Dạ , thưa ông thanh tra.


      Họ đến phi trường và băng qua sông Potomac ngược chiều với dòng lưu thông của chiều tối.


      Người tài xế trẻ dường như sợ Crawford lắm, nên lái xe với cẩn thận quá đáng. Crawford biết điều này; mọi người đều biết, tại trường, người nhân viên cuối cùng dưới quyền của Crawford, làm vài chuyện ngu ngốc, giờ điều tra các vụ trộm vặt tại các căn cứ ra đa ở vùng Địa Cực.


      Tâm trạng của Crawford được vui. Chín giờ đồng hồ trôi qua kể từ lúc chuyển các dấu tay và hình ảnh, nhưng nạn nhân vẫn chưa được nhận diện. Clarice và ông vô vọng khám xét cây cầu và cả các bờ của con sông với cảnh sát của Virginie cho đến khi trời tối.


      Tại phi trường, ông có gọi điện để cầu nữ y tá đêm đến nhà ông.


      Chiếc limuzin của FBI êm cách tuyệt vời so với chiếc Xuồng Xanh; giờ đây người ta có thể chuyện mà cần phải hò hét gì hết.


      - Khi đem các dấu tay dấn ban nhận dạng, tôi đưa qua máy điện báo trực tiếp và máy Latent Descriptor Index - Crawford báo - chuẩn bị cho tôi bản đính kèm vào hồ sơ. bản đính kèm chớ phải 302 nghe ! biết làm cái đó chứ?


      - Dạ biết.


      - Thí dụ tôi là Danh Mục, có gì mới để báo cáo cho tôi?


      ta cần ít thời gian để thu gom các dữ liệu. Cũng may lúc đó Crawford có vẻ chú tâm đến Đài Kỷ niệm Jefferson họ ngang qua.


      Máy Latent Descriptor Index của hệ thống điện toán nhận dạng so sánh các đặc tính của vụ án mạng chưa được giải quyết với những thói quen kỳ quặc được biết của các tên giết người được lưu trữ trong bộ nhớ. Nếu nó tìm thấy những điểm tương đồng, nó đề nghị những tên khả nghi và cho ra các dấu tay của chúng. Đến lúc đó, người ta mới so sánh với những cái được thấy tại trường. Cảnh sát giờ chưa có dấu tay của Buffalo Bill, nhưng Crawford muốn đứng trước bất ngờ.


      Hệ thống này cần các chi tiết ngắn gọn và chính xác. Clarice cố làm hết sức mình.


      - Phụ nữ da trắng, từ hai mươi tám đến ba mươi hai tuổi, bị giết bằng súng, bụng và đùi bị lột da...


      - Starling, Danh Mục biết chỉ giết các thiếu nữ da trắng và lột da họ - phải là “lột da”. Nó cũng biết là ném họ xuống sông, nhưng chưa biết có chi tiết mới trong vụ sau cùng. Điều mới là gì vậy, Starling?


      - Đây là nạn nhân thứ sáu, và là người đầu tiên bị lột da đầu, người đầu tiên thiếu mất mấy miếng da hình tam giác ở xương bả vai, người đầu tiên có vết đạn ở ngay ngực, người đầu tiên có cái kén trong cuống họng.


      - quên mất các móng tay bị gãy.


      - Thưa sếp , người thứ hai bị gãy móng tay.


      - đúng. Nghe đây, trong bản báo cáo phải ghi chú rằng cái kén là chi tiết mật. Chúng ta sử dụng nó để loại bỏ những lời thú tội đúng.


      - Tôi tự hỏi biết làm chuyện này chưa, bỏ cái kén hoặc con côn trùng. Người ta dễ dàng thấy điều này trong lúc giảo nghiệm, nhất là đối với người chết trôi. Ông biết mà, vị bác sĩ thực cuộc giải phẫu nhận thấy nguyên nhân cái chết, muốn kết thúc cho mau... chúng ta có thể nào kiểm tra chi tiết này ?


      - Nếu thấy cần thiết. Các bác sĩ pháp y chắc chắn là họ bỏ qua bất cứ điều gì. Jane Doe, ở Cincinnati, vẫn còn trong tủ lạnh của nhà xác. Tôi cầu họ kiểm tra lại lần nữa, nhưng bốn người trước được chôn cất rồi. lệnh quật mồ làm xôn xao dư luận. Chúng ta buộc phải nhờ đến bốn bệnh nhân chết của bác sĩ Lecter, để biết chắc vì sao mà chết . Tôi bảo đảm với chỉ riêng các gia đình nạn nhân thôi cũng gây cho chúng ta ít rắc rối rồi. Nếu cần tôi làm như thường, nhưng trước đó, hãy chờ xem chúng ta có được gì với Viện Smithsonian hay .


      - tên giết người lột da đầu của nạn nhân, hẳn rất hiếm thấy, có phải ?


      - Đúng vậy, rất hiếm.


      - Nhưng bác sĩ Lecter là Buffalo Bill làm việc đó. Làm sao ông ta có thể biết được chứ?


      - Ông ta biết gì cả.


      - Dù sao cũng chính ông ta ra điều đó mà.


      - Việc này có gì đặc biệt cả, Starling. Về phần tôi, tôi hề ngạc nhiên chút nào. Tôi có thể là hiếm thấy cho đến khi vụ Mengel xảy ra. có nhớ ? lột da người đàn bà đó. Hai hoặc ba tên sát nhân khác liền bắt chước ngay. Báo chí đưa ra lời nhận xét trong các bài về Buffalo Bill, rằng tên giết người này hề lột da đầu các nạn nhân của , nên lạ gì điều này gợi ý cho . Ông ta khi nào việc đó xảy ra, vì thế ông ta có ít cơ may để sai. Nếu chúng ta bắt được Buffalo Bill trước khi bất cứ nạn nhân nào của bị lột da đầu, ông ta là chúng ta bắt được trước khi thực việc dó.


      - Bác sĩ cũng có Buffalo Bill ở trong ngôi nhà chứ phải căn hộ. Về điểm này, chúng ta có bất cứ manh mối nào hết. Tại sao ông ta lại thế?


      - Hai điều này giống nhau chút nào. Có thể ông ta có lý và ông ta cho chúng ta biết tại sao, nhưng ông ta chỉ lòe thôi. Đó là điểm yếu duy nhất của ông ta mà tôi biết được.


      - Ông ta có tôi phải đặt câu hỏi mỗi khi tôi hiểu... vậy xin ông cắt nghĩa cho tôi .


      - Đồng ý. Có phải hai nạn nhân bị treo cổ ? Dấu dây buộc quanh cổ mà. Xương cổ trật khớp... đó là tất cả các dấu hiệu của vụ treo cổ. Vì lẽ đó nên mọi người đều biết và kể cả ông ta. Đối với Lecter, rất khó cho người nào đó làm trái ý nghĩ của ông ta. Có hàng tá người tự treo cổ tại các nắm cửa. Có khi họ tự thắt cổ trong lúc ngồi nữa kìa. Nhưng rất khó để treo cổ người khác... dù cho nạn nhân có bị trói nữa, vì người đó có thể tựa chân vào cái gì đó. Với cái thang việc này thể được rồi. Người đó thể nào tự leo lên các bậc thang với đôi mắt bịt kín và bao giờ bước lên đó nếu thấy nút thòng lọng. Cách duy nhất là dùng cầu thang. Nó làm cho người ta sợ. Người ta có thể cho là người đó vệ sinh chẳng hạn, hoặc đưa người đó lên lầu với cái khăn trùm kín đầu; rồi tròng thòng lọng được cột tay vịn cầu thang vào cổ người đó và đẩy người đó té xuống khi bước đến bậc cuối cùng. Người ta chỉ có thể làm việc đó trong ngôi nhà mà thôi. tên ở California làm cho màn kịch này trở nên phổ biến đấy. Nếu Bill có cầu thang, giết họ bằng cách khác rồi. Bây giờ hãy cho tôi biết tên của người phụ tá thứ nhất và vị chỉ huy cao nhất của cảnh sát bang .


      Clarice tìm thấy các tên này trong cuốn sổ tay bằng cách cắn cây đèn trong miệng.


      - Tốt lắm. Khi nào thảo tờ báo thị tầm nã, đừng quên gọi các nhân viên cảnh sát bằng tên của họ. Khi họ nghe tên của họ, điều đó giúp họ nhớ đến và khi họ biết được điều gì mới họ báo cho ngay. nghĩ gì về vết phỏng ở bắp chân?


      - Mọi thứ đều tùy thuộc nếu nó xảy ra sau cái chết.


      - Và nếu đúng như trường hợp đó sao?


      - Như thế nghĩa là xe tải , xe chở hàng hoặc xe tải mui.


      - Tại sao?


      - Bởi vì vết phỏng nằm ngay bắp chân.


      Họ vừa đến bộ chỉ huy mới của FBI mà người nào gọi là Tòa nhà J. Edgar Hoover.


      - Ngừng ở đây Jeff - Crawford - cần vô đó. hãy ở ngoài xe, chỉ cần mở thùng xe thôi. Nào Starling, hãy chỉ cho tôi coi.


      bước xuống trong khi Crawford lấy cặp hồ sơ và máy fax.


      - Buffalo Bill chở cái xác trong chiếc xe khá lớn để có thể cho nạn nhân nằm dài - - Đó là phương cách duy nhất để cho đôi chân của nạn nhân nằm sàn xe, ngay ống xả khói. Trong cái thùng như thế này, cái xác phải được co mình qua bên, và...


      - Đúng vậy, tôi cũng nghĩ việc phải xảy ra như vậy.


      Đến lúc này Clarice mới hiểu Crawford cho xuống xe để có thể chuyện chỉ hai người thôi.


      - Khi tôi với người phụ tá thứ nhất là tôi muốn trao đổi các chi tiết trước mặt phụ nữ, điều đó có làm cho bực mình ?


      - Đương nhiên là có rồi.


      - Đó chỉ là cái cớ thôi. Tôi chỉ muốn chuyện riêng với ta.


      - Tôi biết.


      - Tốt - Crawford đậy nắp thùng xe lại rồi bỏ .


      - Thưa ông Crawford, nghiêm trọng đây.


      Ông xoay người lại và chăm chú nghe .


      - Đám cảnh sát biết mặt ông - tiếp - Họ quan sát mọi hành động và cử chỉ của ông - xong, nhún vai và đưa hai bàn tay ra trước. Điều này đúng và ông thể chối cãi được.


      Crawford xem xét vấn đề cách lạnh lùng và khách quan.


      - Tôi cố ghi nhận điều này, Starling. Bây giờ hãy lo cho con vật chết tiệt của .


      - Thưa ông, vâng.


      đứng nhìn ông xa, người trung niên, mang nhiều vật dụng, quần áo nhàu nát vì cuộc hành trình, với các lai quần dính đầy bùn của con sông, trở về nhà để đương đầu với những gì đón chờ ông ta.


      Ngay lúc này đây, Clarice có thể làm bất cứ điều gì cho ông. Đó là phần thiên tư của Crawford.



      14



      Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian của Washington, đóng cửa từ nhiều giờ rồi, nhưng người bảo vệ vẫn đứng chờ Clarice ở ngay cửa vì Crawford điện báo trước.


      Tòa nhà được chiếu sáng mờ ảo và bất động cách kỳ lạ. gian chỉ có hình bóng to lớn của bức tượng, đứng đối diện với cửa ra vào.


      Người hướng dẫn Clarice, người da đen cao lớn, mặc đồng phục bảo vệ trắng tinh của Smithsonian. Khi ta ngước mặt lên ánh đèn thang máy, Clarice nhận thấy mặt ta rất giống với bức tượng. Ý nghĩ phù phiếm này khiến thư giãn đôi chút, giống như xoa bóp cơn chuột rút vậy.


      Tầng thứ hai, ngay con voi to lớn trắng được nhồi bông, bị hạn chế với công chúng, là văn phòng của nhân chủng học và côn trùng học. Các chuyên gia nhân chủng học gọi đây là tầng ba, còn đối với những người bên côn trùng học đây chỉ là tầng hai. Vài bác học thuộc ban nông nghiệp họ có bằng chứng đây là tầng năm. Mỗi bộ phận sử dụng phần của tòa nhà cũ kỹ cùng các phần phụ thuộc và phần được chia.


      Clarice bước theo người hướng dẫn trong mê cung hành lang được sáng cho lắm, giữa các thùng gỗ đầy những mẫu vật thuộc nhân chủng học. các nhãn có ghi những thứ được chứa đựng trong đó.


      - Có hàng ngàn người trong các thùng đó - người bảo vệ cho biết - Bốn mươi ngàn mẫu vật.


      Trong lúc bước tới, ta dùng cây đèn pin để rọi các số phòng làm việc và cho ánh đèn chạy dài các nhãn.


      Các dụng cụ mang trẻ con và sọ của người Dayak nhường chỗ cho loài rệp và rời khỏi địa phận Con Người để bước qua thế giới xưa và có trật tự hơn của loài Côn Trùng. Bây giờ tường treo đầy những hộp kim loại lớn được sơn màu xanh lá lợt.


      - Ba mươi triệu côn trùng, cộng thêm các loài nhện. Nhưng được gom chúng với nhau - người bảo vệ dặn - Các chuyên gia về nhện bao giờ tha thứ cho đâu. Đây rồi, ngay tại văn phòng có đèn đấy. Nhưng đừng có ý định ra về mình nghe . Nếu họ đưa về, hãy gọi số này đây, đó là phòng bảo vệ, tôi đến rước . - xong ta chìa tấm danh thiếp và bỏ .


      ở ngay trung tâm của bộ phận côn trùng học, trong hành lang hình tròn, nằm rất cao con voi được nhồi bông. Chỉ có văn phòng đèn sáng mới mở cửa.


      - Đến phiên mày, Pilch! - Giọng người đàn ông bị kích thích la lên. - Đến lượt mày đấy.


      Clarice đứng ngay thềm cửa. Hai người đàn ông ngồi tại bàn thí nghiệm đánh cờ vua. Khoảng ba mươi, người gầy tóc nâu, người kia tròn trịa với mớ tóc hung dày. Họ chú tâm vào bàn cờ và hình như nhận thấy diện của Clarice. Kể cả của con bọ hung có sừng to , bò giữa các con cờ.


      Khi con vật bò đến bờ của bàn cờ, người gầy thốt lên:


      - Đến lượt mày đó Roden!


      Người tròn trịa cho con tượng tiến tới và xoay đầu con bọ hung lại để cho nó bò về hướng kia.


      - Nếu con vật bò đến ngay góc có như thế ?


      - Đương nhiên rồi - người tóc hung thốt lên mà thèm nhìn . - Thế chơi theo cách nào vậy? cho nó bò qua hết bàn cờ à? Thế đối thủ của là ai vậy, tên lười biếng có phải ?


      - Tôi mang mẫu côn trùng đến như ông thanh tra Crawford gọi điện trước đây.


      - Tôi hiểu tại sao chúng tôi nghe tiếng còi hụ - người tròn trịa đáp lại - Người ta bắt chúng tôi chờ suốt cả đêm để nhận dạng con côn trùng cho FBI. Côn trùng là lãnh địa của chúng tôi. có ai đến mẫu của ông thanh tra Crawford cả. Ông ta nên đưa cái mẫu của ông ta cho bác sĩ của ông ta. Đến phiên mày Pilch!


      - Lần khác có thể tôi thích xem hai đánh cờ đấy - Clarice - nhưng đây là vụ cấp bách.


      - Đến lượt Pilch!


      Người tóc nâu xoay đầu qua nhìn, thấy đứng tựa vào thành cửa, tay cầm cặp đựng hồ sơ. liền bỏ con bọ hung vào trong cái hộp có đựng gỗ mục và phủ lên mình nó lá cải.


      Khi ta đứng lên mới thấy ta rất cao.


      - Tôi tên Noble Pilcher - ta - Còn thằng này là Albert Roden. cần nhận diện con côn trùng phải ? Sẵn sàng phục vụ - Khuôn mặt của ta thân thiện, nhưng có chút gì đó đáng ngại trong đôi mắt đen tuyền và quá sát gần nhau, có thể con hơi lé, phản chiếu ánh sáng hơi khác lạ. ta đưa tay ra bắt. - là...?


      - Clarice Starling.


      - Bây giờ hãy xem coi đem đến cho chúng tôi cái gì đây.


      Roden tiến lại gần để nhìn.


      - tìm thấy nó ở đâu vậy? giết nó bằng khẩu súng của rồi phải ? có thấy mẹ của nó ?


      Clarice tự nhủ tên Roden này đáng nhận quả đấm vào ngay hàm mới được.


      - Thôi - Pilcher xen vào - cho chúng tôi biết tìm thấy nó ở đâu. Nó được đính vào cái gì, nhánh cây hoặc cái lá, hay nó nằm ngay dưới đất?


      - ra chưa ai báo gì cho các sao?


      - Ông giám đốc có cầu chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa để nhận dạng con côn trùng cho FBI.


      - Có bảo chúng tôi, cầu - Roden chỉnh lại - Ông ta bảo chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa.


      - Điều này thường xảy ra với chúng tôi - Pilcher tiếp - Cho Hải quan hoặc Bộ Nông nghiệp.


      - Nhưng chưa bao giờ đến lúc nửa đêm như thế này - Roden nhấn mạnh.


      - Tôi phải tiết lộ cho các vài điều về vụ án mạng. Tôi chỉ có thể cho các biết với điều kiện các được tiết lộ gì hết trước khi nó được giải quyết. Rất quan trọng đây. Có liên quan đến rất nhiều mạng người. Thế thưa bác sĩ Roden, có thể hứa với tôi rằng giữ im lặng ?


      - Tôi phải là bác sĩ. Tôi có phải ký văn ?


      - cần. Lời hứa của cũng đủ rồi. chỉ cần ký cho tôi biên nhận nếu muốn giữ mẫu vật này.


      - Dĩ nhiên tôi giúp . Tôi cần biết.


      - Còn bác sĩ Pilcher?


      - Đúng vậy. ta cần biết.


      - Tôi có thể tin nơi chứ?


      - Tôi gì cả.


      - Pilcher và tôi phải là bác sĩ. về bằng cấp, chúng tôi ngang nhau. Nhưng nhận thấy là ta để cho gọi ta là bác sĩ - Roden chống ngón cái vào cằm như muốn nhấn mạnh nét nghiêm túc của mình - hãy cho chúng tôi tất cả các chi tiết. Cái nghĩ quan trọng có thể là trọng yếu đối với chuyên gia.


      - Con vật này được tìm thấy trong cuống họng của phụ nữ bị sát hại... Tôi biết tại sao. Người ta tìm thấy thi hài ở con sông Elk, Virginie; ta chết cách đây vài ngày.


      - Chính là Buffalo Bill, tôi có nghe đài - Roden .


      - Người ta có đến con côn trùng ?


      - , nhưng người ta tại con sông Elk. đến từ đó, nên đến trễ phải ?


      - Đúng.


      - Chắc mệt lắm rồi. có muốn tách cà phê ? - Roden đề nghị.


      - , cám ơn.


      - ly nước vậy?


      - mà.


      - Hay lon Coca?


      - gì hết, cám ơn. Chúng tôi muốn biết người phụ nữ đó bị nhốt ở đâu và bị giết chết tại đâu. Chúng tôi hy vọng con côn trùng này có kiểu cư trú đặc trưng, hoặc hạn chế về mặt địa lý, các hiểu , chúng tôi muốn biết nó đến từ đâu. Tôi xin các giữ mật, bởi vì nếu tên sát nhân cố ý đặt con côn trùng tại nơi chúng tôi tìm thấy, chỉ mình biết kiện này và chúng tôi dùng nó để loại bỏ những lời thú tội sai trái của ta làm cho chúng tôi mất thời giờ. giết chết ít nhất là sáu phụ nữ, nên chúng tôi phải đua với thời gian.


      - có nghĩ giờ giữ người phụ nữ khác trong khi chúng ta xem xét con côn trùng này ? - Roden hỏi. - Mắt ta trợn trừng và cái miệng há hốc, đến mức có thể nhìn thấy bên trong, gợi cho kỷ niệm mới đây.


      - Tôi biết nữa - Giọng hơi chói tai - Tôi biết nữa, - lặp lại câu ít cảm xúc hơn. - bắt đầu lại khi có thể.


      - Nếu vậy, chúng ta phải bắt tay cho mau mới được - Pilcher tuyên bố - đừng lo, chúng tôi biết công việc mình phải làm mà. ở trong tay những người đáng tin cậy đấy.


      xong ta dùng cây kẹp dài để lấy cái vật màu nâu ra khỏi cái lọ và để nó xuống tờ giấy trắng dưới ánh đèn. ta kéo cái kính lúp lớn được gắn tay di động.


      Con côn trùng với thân hình dài giống xác ướp. vỏ bọc gần trong suốt mà các đường viền làm cho người ta nghĩ đến quan tài. Các phần phụ còn đính với thân, có vẻ như được khắc vậy. Cái mặt xíu của nó đượm chút gì đó khôn ngoan.


      - Trước hết, đây phải là con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong xác chết, và nó thuộc loại sống trong nước - Pilcher - Tôi biết có hiểu chút ít gì về côn trùng , và nếu muốn, chúng tôi cho biết tất cả các chi tiết.


      - Các cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả .


      - Đồng ý. Đây là con nhộng loại sâu bọ hai cánh, con vật chưa thành thục trong cái kén của nó - cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành con vật trưởng thành - Pilcher giải thích.


      - cái kén bằng kitin phải Pilch? - Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.


      - Tôi nghĩ đúng vậy. có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục ? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.


      - Quyển sách hay kính lúp Pilcher?


      - Kính lúp. - Pilcher đặt mẫu vật mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông tay. - Chúng ta bắt đầu: có cơ quan hô hấp rệt vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.


      - Coi naaàooo - Roden thầm trong khi lật các trang của quyển sách - Có hàm chuyên dùng ?


      - .


      - Có hai mảnh ngoài hàm, vùng trước bụng ?


      - Có, có.


      - Râu nằm ở đâu?


      - Giáp với bờ của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu và nhọn, chắc là loại của họ bộ cánh phấn.


      - Đó là những gì quyển CHU cho biết - Roden xác nhận.


      - Đây là họ bươm bướm - Pilcher cắt nghĩa - Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.


      - dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc thể ngăn quý vị về tôi trong lúc tôi có mặt.


      - Tôi cũng nghĩ như thế - Pilcher đáp lại - Roden là con người được lắm - với Clarice, ngay khi người bạn ta bước ra khỏi phòng.


      - Tôi nghi ngờ điều dó.


      - đấy. - Pilcher có vẻ vui thích - Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được việc mà ta phải ở dưới mỏ than để canh chừng phân rã prôton. Chỉ có điều ta ở trong tối quá lâu. Nhưng ta khỏe lắm. Với điều kiện là ai đề cập đến prôton cả.


      - Tôi cố tránh đề tài đó.


      Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.


      - Họ bộ cánh phấn là họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá , buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.


      - Đồng ý. Nhưng có thể lấy ra mà làm hư ?


      - Tôi nghĩ là được. hãy nhìn , nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có vết rách đều cái kén, đây này. Chắc phải mất ít thời gian.


      Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. có hình vẽ gì rệt cả.


      Roden trở lại với mấy quyển sách tay.


      - Sẵn sàng chưa? - Pilcher hỏi - Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.


      - Còn lông sao?


      - có lông. làm ơn tắt ngọn đèn đó được , Starling?


      đứng cạnh cái công tắc tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng bé.


      - con bướm đêm - Roden lên tiếng.


      - Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, Starling, con bướm đêm - Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?


      - Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.


      - Thường chúng lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem biết làm gì đây, bạn già của tôi!


      Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.


      - Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.


      Clarice có cảm tưởng khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.


      Roden phản ứng lại bằng cuộc tranh luận hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay . Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến diện của lông bụng.


      - Con Erebus odora - cuối cùng Roden kết luận.


      - Chúng ta hãy kiểm tra xem - Pilcher .


      Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước cái hộp cao khoảng mét rưỡi.


      - Chúng ta phải cẩn thận với những thứ này - ta trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất - Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.


      ta cho ngón tay trỏ chạy các ngăn tủ, rồi chọn cái và kéo nó ra.


      Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé cái kén trong ống đựng đầy cồn và con côn trùng trưởng thành làm mẫu. con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.


      - Con Erebus odora đây rồi - Pilcher - Con phù thủy đen.


      Roden lật vài trang.


      - loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, ngược lên tận Canada - ta đọc.


      Ấu trùng sống cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.


      Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.


      - điên rồ - lớn tiếng - Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!


      - Đợi chút coi... đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.


      - Khi nào?


      - Vào tháng năm và tháng tám.


      - Coi nào... cái mẫu của phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.


      - Nuôi bằng cách nào?


      - Trong cái lồng trong khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. khó chút nào.


      - Đó là cách tiêu khiển phổ biến ? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế ?


      - , chỉ duy nhất các nhà côn trùng học cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng phải là loại này.


      - Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!


      - Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.


      - Tôi soạn cho mớ - Roden - Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.


      - Tôi cho người đến lấy, xin cám ơn, Roden.


      Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cùng con vật.


      - Tôi đưa xuống dưới.


      Họ đứng chờ thang máy.


      - Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm - cho biết. Nhưng những con này lại... lý thú hơn, đáng chú ý hơn.


      - Và cũng tàn phá hơn.


      - Chỉ vài loại, có thể là nhiều hơn, nhưng chúng có nhiều cách sống khác nhau. Như chúng ta vậy. - Im lặng suốt tầng lầu - Có loài - đúng ra là hơn - chỉ sống nhờ nước mắt mà thôi. Chúng chỉ ăn và uống nước mắt, gì khác hết.


      - Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?


      - Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy - Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại... Đây là công việc chính của sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?


      - Tôi cố hết sức mình.


      Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.


      - có khi nào ra ngoài để ăn cái bánh mì kẹp pho mát và uống chai bia, hoặc ly rượu vang ngon ?


      - Những lúc sau này .


      - nghĩ sao nếu tôi mời uống ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có quán nước xa đây.


      - được, nhưng chính tôi mời khi công việc này kết thúc... đương nhiên là cả Roden nữa.


      - Điều này có vẻ gì là tự nhiên cả - Pilcher đáp lại - Và khi đến thềm nhà, tiếp - Tôi hy vọng sớm kết thúc vụ này, Starling.


      hối hả bước đến chiếc xe chờ .


      Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla giường mình. Ardelia Mapp ngủ rồi.


      đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora đường về Quantico, và ngay lúc này thảo nhanh bản báo cáo của mình.


      Sau đó ăn phần sôcôla và viết tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.


      Còn việc quan trọng thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.


      trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và ngủ trong khi vẫn nghe thầm các giọng của suốt ngày nay và hơi thở nhàng của Ardelia. Trong lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, thấy cái khuôn mặt khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.


      Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu xuất cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới tại chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm vật gì đó sống bằng nước mắt.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :