Đêm ấy, tôi nằm mơ. Tôi mơ thấy Angus, theo cách thức lãng đãng nhưng bấn loạn. Tôi lắc đầu qua lại, muốn tránh mặt chồng mình. trách móc tôi. thể trách móc được. Tôi thức dậy giữa đêm khuya, trong bầu gian tĩnh lặng nặng nề đến mức tôi cảm thấy mình thể bước ra khỏi giường dù có muốn. Có những giọt lệ khô mặt tôi, lạnh lẽo, khiến cho làn da tôi ngứa ngáy. Từ lâu tôi thắc mắc tại sao xa cách với mình. Tôi đoán đấy là do việc gì đó mình làm. Và rồi, khi Parker kể cho tôi nghe về Jammet, tôi nghĩ đấy là do Francis, bởi vì biết và ghét chuyện ấy. ra, việc bắt đầu thời gian lâu trước đó. Tôi vùi mặt trong chiếc gối tỏa mùi ẩm. Lớp áo gối lạnh như đá cẩm thạch. Chỉ nơi đây, mình và trong bóng tối, tôi mới cho phép những ý nghĩ ấy ngự trị trong đầu. Ý nghĩ đến từ đâu cả, mà từ những giấc mơ, giữ tôi trong vòng kiềm tỏa điên cuồng. Tôi mong ngủ trở lại, bởi vì chỉ trong giấc mơ tôi mới có thể lẩn tránh những mối ràng buộc có thể xảy ra và đúng đắn. Nhưng, như tôi vẫn thường thấy trong đời, cái gì mà bạn ao ước lại xa rời tầm tay của bạn. *** Donald ấn bàn tay lên tấm kính cửa sổ. Hơi ấm làm tan chảy lớp sương giá đọng bên trong, để lại hình ảnh ràng: trời càng lạnh thêm. Mùa đông đến ; họ phải ra về nhanh, nếu bị tuyết giam hãm ở Nhà Hanover. Ngày hôm qua, viết xong lá thư cho Maria. Sáng hôm nay, đọc lại; nghĩ nội dung theo đúng hướng, có gì quá say đắm, nhưng sau khi giãi bày cảm nghĩ của mình - quả là nhõm khi ra được điều mình nghĩ - nồng nàn cho biết ý muốn gặp lại và nối lại cuộc trò chuyện lý thú. gấp tờ thư vào phong bì, nhưng để trắng phong bì. có nỗi kinh hãi về việc người khác đọc thư mình. tin chắc Bà Ross, lúc đến thăm với cử chỉ tọc mạch và quấy rầy, để ý đến lá thư lúc trước viết cho Susannah. Susannah. À... vì trước đây chưa từng lâm vào hoàn cảnh này, Donald biết phải xoay xở thế nào. nghĩ bị thất tình - tự nhủ dù gì nữa tỏ tình gì cả, là thế. có gì gọi là hứa hẹn. cảm thấy bứt rứt bởi vì theo bề ngoài đấy phải là hành vi đáng khen, và Donald rất muốn được khen. Nhưng bây giờ ở cách xa Caulfield, thấy hơn rằng Susannah là con người cứng cỏi. Ngay cả khi biết điều này, vẫn tự dằn vặt mình vì lấy nó làm niềm an ủi. Có lẽ cho phép gửi các lá thư viết cho . Có lẽ nên viết lại các lá thư này, để gột rửa mong ước bị trùng lặp. Đến ngả rẽ này, trong khi Donald vẫn còn ngồi ở bàn, chung quanh là những thư từ gửi cho hai chị em nhà Knox, có tiếng gõ cửa. Đó là Parker. Stewart ngồi trong văn phòng, bình cà phê đặt bàn, lửa cháy trong lò sưởi, nhưng vẫn chống đỡ lại cái lạnh buốt xương len lỏi vào qua cửa sổ, cửa cái và thậm chí các bức tường. Donald cảm thấy đây là nơi nắm quyền chủ động, nên bàn trước với Parker và Bà Ross, và bây giờ đằng hắng nghe khá hùng hồn: “Ông Stewart, xin lỗi cho giờ giấc sớm sủa. Chúng tôi cần trao đổi với ông.” Stewart nghe giọng điệu nghiêm túc trong câu của , nhưng vẫn mỉm cười và mời ba người vào. Ông kêu mang thêm cốc - lần này là Nancy đáp lại tiếng chuông và lo phục vụ. Donald nhìn xuống sàn nhà trong khi diện trong phòng, hy vọng ai thấy má nóng bừng. Dù sao chăng nữa ai nhìn đến cả. Donald bắt đầu: “Tôi nghĩ ông hẳn biết lý do thực chúng tôi đến đây.” phớt lờ ánh mắt của Bà Ross. nhìn ra thái độ của Parker, vì ông này ngồi bên cạnh Stewart trước cửa sổ, nên bị khuất trong bóng tối. “Chúng tôi theo dõi dấu vết. Nó từ Sông Dove lên hướng bắc, và chúng tôi có đủ lý do mà tin rằng nó dẫn đến đây.” “Ý đó phải là con trai Bà Ross hả?” “Đúng vậy. Ít nhất xa đến đây. Và ở đây có những người mà chúng tôi được gặp.” Stewart gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng, đôi mắt nhìn xuống: “Tôi tin rằng có người gì đó khiến cho quý vị hiểu sai. Tôi xin lỗi về việc này. Để tôi cho quý vị những gì tôi biết; có lẽ lúc đó quý vị có thể bổ sung vào các khoảng trống. Điều tôi là - Nepapanees là trong những nhân viên giỏi nhất của tôi. nhân viên tốt, tài công có kỹ năng, người theo dấu vết xuất sắc. Nhưng hơn năm trước, có chuyện gì đó xảy đến cho ấy. Thường đó là rượu, như tôi tin chắc quý vị thấy...” Ông liếc qua Donald, tuy có vẻ như muốn bao gồm mọi người: “Nhưng phải trong trường hợp này. Ít nhất, ban đầu là vậy. Tôi biết đó là gì, nhưng ấy trở nên loạn trí. nhận ra vợ mình. nhận ra các con mình. Mùa xuân năm nay, ra khỏi pháo đài và dường như sống trong hoang dã. Đôi lúc ấy trở về, nhưng nếu ở cách xa tốt hơn. Vài tuần trước, xa nhiều ngày. Tôi có linh cảm đó mạnh hơn khi quý vị đến. Nhưng đến lúc này...” Ông nhún vai, để cho hai bờ vai sụp xuống: “Tôi muốn mang thêm nỗi tủi nhục cho vợ ấy cùng gia đình. Tôi muốn tránh cho họ hoàn cảnh đó. Nesbit và tôi đồng ý với nhau là... giấu diếm chuyện này. Để giả vờ là ấy chết. Đây là chuyện điên rồ, tôi biết chứ.” Đôi mắt ông nhìn lên, trông như lóng lánh với nước mắt: “Theo cách nghĩ, tôi ước gì ấy ở đây. là con người tội nghiệp, làm cho những người mến phải khổ sở nhiều.” “Nhưng làm thế nào ông bảo vợ ấy rằng ấy chết? Làm thế nào ông khiến cho ấy khổ sở đến thế?” Bà Ross nghiêng người tới trước, mắt bà nhìn sâu vào mắt Stewart, khuôn mặt bà nhợt nhạt và căng thẳng, ít cảm xúc - có lẽ tức giận - toát ra từ bà như là lực từ tính. “Bà Ross à, tin tôi , tôi suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tôi quyết định rằng cái chết bớt đau đớn cho ấy và các đứa trẻ so với việc còn sống.” “Nhưng làm thế nào ông nghĩ có thể giấu diếm diện của ấy? Hai ngày trước, người ta trông thấy ấy ở đây.” Stewart ngồi bất động lúc, rồi ngẩng đầu lên, lộ vẻ lúng túng: “Đó là điên rồ. Tôi cho phép mình... Đôi lúc, trong mấy năm gần đây đặc biệt là vào mùa đông, tôi cảm thấy mình mất năng lực phán xét. Nhưng nếu bà nhìn thấy ấy với con cái... nhìn chúng chạy đến ấy, thét lên lời lẽ lăng mạ bẩn thỉu nhất, đầy hậm hực và sợ hãi... Chỉ có Trời biết ấy nghĩ bọn chúng là quỷ sứ ra sao. Quả là kinh khiếp khi trông thấy gương mặt của bọn chúng.” Đôi mắt Stewart như là bị quỷ ám, như thể ông vẫn trông thấy bọn chúng. Donald cảm thấy dâng trào niềm cảm thông. Có Trời biết, có thể tưởng tượng ra căng thẳng của mùa đông bất tận này tiếp nối mùa đông bất tận khác. Bà Ross nhìn qua Parker, rồi nhìn lại Parker. Cứ như là Donald diện ở đây. “Ai là Nửa Người?” Stewart mỉm nụ cười đau khổ: “À. Bà biết đấy...” Ông nhìn lên, lần này nhìn thẳng đến Bà Ross: “Nửa Người là trường hợp vô phúc khác. Người luôn uống rượu. ấy là chồng của Norah, nên thỉnh thoảng chúng tôi cung cấp thực phẩm cho ấy. làm nghề đặt bẫy, nhưng giúp ích được nhiều.” Có vẻ trần trụi gương mặt ông khiến cho Donald cảm thấy bất an. Họ có quyền gì mà bắt buộc người đàn ông này phải ra mấy chuyện rắc rối của ông? “Tôi phải xin lỗi lần nữa vì lừa dối quý vị. Người ta muốn được nghĩ - nhất là trong công ty như thế này...” Ông lại nhìn qua Donald, khiến cho này cúi mặt trong vẻ bối rối. “Người ta muốn được nghĩ đến như là nhà lãnh đạo tốt, người cha tốt, theo vài cách nhìn, đối với người dưới quyền. Tôi phải là người cha tốt của nhân viên ở đây. là khó, nhưng đó phải là lý do để biện minh.” Bà Ross ngả người chiếc ghế, lộ vẻ hoang mang và cách xa. Vẻ mặt của Parker ràng, trong bóng tối của chính ông. Donald chen vào: “Tình trạng này xảy ra khắp nơi. Có tật say xỉn và có chứng bệnh điên. Nếu có người chệch đường phải là do lãnh đạo của ông.” Stewart cúi đầu: “ tử tế mà vậy, nhưng hẳn vậy. Dù sao chăng nữa, điều liên quan tại là người theo dõi... mà tôi cho là do người này gây ra chuyện gì đó. Chuyện... tội ác phải ?” Donald gật đầu: “Chúng tôi cần phải tìm ra và hỏi han người này, dù cho tình trạng người này có ra sao.” “Tôi ấy ở đâu, tuy chúng tôi có thể tìm ra. Nhưng nếu truy lùng nghi can, tìm ra. ấy nhận thức được mình làm gì.” Trong khi Stewart cất tiếng, Parker rút ra từ túi áo chiếc dọc tẩu và thuốc lá. Cùng lúc, mẩu giấy rơi xuống sàn giữa hai chiếc ghế ông và Stewart ngồi. Parker nhận biết, kéo ra nhúm sợi thuốc lá rồi cho vào dọc tẩu. Stewart nhìn thấy, cúi xuống nhặt mảnh giấy lên. Ông dừng tay lại trong tích tắc rồi trao mảnh giấy cho Parker mà hề nhìn đến mặt ông này. “Tôi điều vài người tìm kiếm ta. Họ biết cách theo dõi dấu vết.” Parker đặt mảnh giấy vào túi áo trong khi vẫn nhồi thuốc lá vào dọc tẩu. Tất cả diễn ra có lẽ chỉ trong vòng ba giây. Hai người đàn ông ngồi kế bên nhau trong suốt cuộc trao đổi mà nhìn nhau. *** Đến gần cuối hành lang, Parker quay sang tôi: “Tôi sắp sẵn sàng.” “Ông sắp hay sao?” Tôi đoán những thắc mắc của ông được giải đáp. Tôi quả là dốt; dĩ nhiên là ông hề tin vào những gì Stewart . “Ông Stewart hề ông ấy phái Nepapanees Sông Dove.” Vẻ chắc chắn của ông làm cho tôi bứt rứt, nên tôi trả lời. Ông nhìn tôi với xúc cảm đờ đẫn kỳ lạ, cho biết chi tiết hoặc ngay cả đại thể ra sao. Nhưng chính vì những nét cố hữu của khuôn mặt ông khiến cho người ta suy đoán về giận dữ và bạo lực giấu bên trong; bây giờ tôi biết phải thế. Hoặc có lẽ tôi ru ngủ mình vào cảm nhận bình an nhưng sai lạc. “Ông vẫn còn giữ chiếc áo ở Chỏm Elbow chứ?” “Dĩ nhiên là còn giữ. Tôi cho vào đáy chiếc túi của tôi, dưới chiếc áo choàng lót lông thú.” “Ông tìm lại .” Giữa khu đất trống phía sau các nhà kho, mặt trời ló dạng qua khe trống tầng mây. cột ánh sáng dày như là cầu thang dội xuống vùng đất phẳng phía sau vách đá, chiếu sáng trảng cây liễu , đan xen với tuyết và lấp lánh với những tinh thể băng. Ánh sáng chiếu rọi sâu rộng; màu trắng làm nhức nhối đôi mắt. Cũng bất chợt như là nụ cười, mặt trời làm cho quang cảnh xinh tươi bật lên giữa vùng bình nguyên u uẩn. Vượt quá tầm khoảng trăm mét, những nét thiếu hoàn hảo đều bị che khuất. Vượt quá vách đá là quang cảnh hoàn hảo giống như bức điêu khắc muối, kết tinh thể và thuần khiết. Cùng lúc, chúng tôi bước qua lớp bùn đất loáng và khuấy đục, lại bị hai con chó giẫm đạp và làm nhơ bẩn thêm. Người quả phụ ở trong ngôi nhà gỗ với trong các con trai, cậu bé trông nghiêm trang khoảng tám tuổi. ngồi luộc thịt bên bếp. Trong mắt tôi, trông gầy và xơ xác hơn lần trước tôi gặp , và có vẻ bản địa hơn cho dù với tất cả đường nét ràng mang hai dòng máu. nhìn lên mà biểu lộ cảm xúc gì khi Parker bước vào gõ cửa, rồi câu gì đó mà tôi nghe . đáp lại bằng thứ tiếng khác. Tôi nổi lên phản ứng bất thần và mãnh liệt do ghen tị, khiến cho tôi ngừng thở. cách ơ thờ: “Ngồi xuống .” Chúng tôi ngồi những tấm chăn trải chung quanh lò sưởi. Cậu con trai luôn chằm chằm nhìn tôi - tấm áo choàng mùa đông khiến cho việc ngồi sàn nhà trông được thanh nhã lắm, nhưng tôi cố xoay xở theo cách tốt nhất. Parker bắt đầu bằng cách chuyện quanh co, hỏi han về các đứa trẻ và ngỏ lời chia buồn, và tôi khẽ đồng thuận theo. Cuối cùng, ông đến chủ đề: “Chồng có gì về lông thú của người Na Uy ?” Elizabeth nhìn ông, rồi nhìn tôi. Có vẻ như nhận biết gì về việc này: “. ấy gì với tôi cả.” “Và lần cuối cùng ấy ra ... với mục đích gì?” “Stewart muốn săn. Ông ấy thường dẫn theo, bởi vì là người theo dõi dấu vết giỏi nhất.” Có vẻ hãnh diện trầm lặng trong giọng của . “ Bird, tôi xin lỗi phải hỏi việc này: chồng có bị đau yếu ?” Mắt nhìn lên sắc lẻm: “Đau yếu? Chồng tôi bao giờ đau yếu. ấy khỏe như ngựa. Ai như vậy? Stewart vậy phải , hả? Có phải vì vậy mà chồng tôi mảng băng mỏng mà bình thường bao giờ , phải ?” muốn cậu bé nghe được, Parker : “Ông ấy chồng đau yếu và nhận ra con cái.” Khuôn mặt Elizabeth nhăn nhó với cảm xúc - ghê tởm hoặc khinh bỉ, hoặc giận dữ, hoặc tất cả những cảm xúc này - và nghiêng người tới trước, khuôn mặt nhuộm màu đỏ-cam sinh động từ ánh lửa: “Đó là lời dối trá độc ác! ấy luôn là người cha tốt nhất.” Có vẻ gì đó kinh sợ từ , cứng cỏi, nhưng tôi thấy dường như là . “ thấy chồng lần cuối khi nào?” “Chín ngày trước, khi ấy với Stewart.” “Còn lần cuối ấy xa là khi nào?” “Mùa hè. Cuộc hành trình cuối cùng là đến Hồ Cedar vào cuối mùa.” “Tháng Mười và đầu tháng Mười ấy ở đây phải ?” “Phải. Suốt thời gian đó. Tại sao ông hỏi tôi?” Tôi nhìn qua Parker. Chỉ còn việc nữa. “ Bird, tôi xin lỗi phải hỏi chuyện này: có chiếc áo sơ mi của ấy ? Chúng tôi muốn xem qua.” trừng trừng nhìn Parker như thể đây là xấc láo chấp nhận được. Tuy thế, đứng phắt dậy và vào bên trong ngôi nhà gỗ, phía sau tấm màn. trở ra với chiếc áo sơ mi gấp lại tay. Parker đón lấy rồi mở ra, trải sàn. Tôi mở ra cuộn áo dơ bẩn được gói trong tấm vải; tôi trải tấm áo ra, thô cứng và lấm lem, những vết sậm màu tỏa ra mùi hôi thối. Cậu con trai trang nghiêm nhìn chúng tôi. Elizabeth khoanh tay đứng nhìn chúng tôi với đôi mắt giận dữ. Ngay lập tức tôi thấy chiếc áo sạch hơn nhiều so với chiếc áo kia. thể nào rằng hai chiếc áo thuộc về cùng người. Parker trao lại cho chiếc áo của người chồng: “Cám ơn, Bird.” vẫn khoanh tay: “ ích gì cho tôi. Bây giờ ai mặc được.” Đôi môi cong lại trông khó chịu: “Ông hỏi cứ giữ.” Parker chưng hửng. Đó là trải nghiệm mới của tôi: lần đầu tiên tôi thấy ông biết xoay xở ra sao. Lần đầu tiên tôi cất tiếng: “Cảm ơn, Bird. Chúng tôi xin lỗi hỏi han , nhưng giúp ích rất nhiều. minh chứng rằng những gì Stewart đều là dối trá.” “Tôi quan tâm làm gì? Tôi cóc cần giúp các người! Việc này có giúp chồng tôi sống lại hay ?” Tôi đứng lên và nhặt lấy chiếc áo bẩn. Parker vẫn còn cầm chiếc áo kia. “Tôi xin lỗi.” Đứng ngang , chỉ cách hai bước, tôi nhìn vào mắt , nâu-xám trong trẻo, dưới lớp mặt nạ điên tiết và thất vọng. Tôi cảm thấy héo hắt: “Tôi tình xin lỗi. Chúng tôi định...” Tôi chờ cho Parker phụ thêm và giải thích chúng tôi định làm gì. Ông cũng đứng dậy, nhưng có vẻ như vui lòng mà để cho tôi tiếp: “Chúng tôi định tìm công lý.” cười to, nghe như tiếng hằm hè: “Công lý! Còn chồng tôi sao? Stewart giết chồng tôi. Còn ấy sao?” “Công lý đối với ấy nữa.” Tôi bước trở ra cánh cửa, nóng lòng muốn rời hơn là lưu lại và tìm hiểu do đâu tin chắc về chuyện kia. Elizabeth Bird nhăn nhó - trông như mỉm cười, nhưng phải. Cử chỉ khiến cho xương sọ dưới làn da nổi lên, tạo vẻ bề ngoài như đầu lâu của người chết, còn cử động nhưng phải còn sống; nhợt nhạt, còn máu, chỉ rực hận thù. Khi bước về tòa nhà chính, Parker trao cho tôi chiếc áo sạch, như thể ông muốn vướng bận thêm với nó. Ông cảm thấy có lỗi vì làm cho tức giận. Tôi : “Chúng ta cho Moody xem các món này. Rồi ấy hiểu.” Parker khẽ lắc đầu: “Như vậy đủ. Chiếc áo đó có thể nằm ở đằng kia vài tháng.” “Ông tin như thế! Và ông cũng tin ấy nữa - về cái chết của chồng , phải ?” Parker thoáng nhìn tôi: “Tôi biết.” “Thế ông .” Parker tán thành mà gì. Tôi cảm nhận sức nặng quen thuộc ấy lại chèn ép lồng ngực mình, hơi thở xem dường nghẽn lại trong cổ họng cho dù chúng tôi chỉ mới vài chục bước. “Nếu ông ấy giết người hướng đạo của mình quả là điên rồ nếu ông mình. Tôi mượn khẩu súng. Nếu ông cho tôi cùng tôi theo dấu vết của ông, chỉ có thế thôi.” Trong lúc Parker gì, rồi lại nhìn tôi với thái độ mà tôi nghĩ có phần mỉa mai: “Nếu người ta thấy chúng ta ra với nhau bà nghĩ họ bàn tán hay ?” Sức nặng trong lồng ngực tôi nhõm hẳn . Thình lình tôi thấy ngay cả quang cảnh khuôn viên cũng xinh tươi, mặt trời phết lên lớp tuyết đọng bên bờ rào màu xanh-trắng óng ánh. Nhất thời tôi tin chắc dù có nguy hiểm ra sao, chúng tôi có thể hành động mà ai ngăn cản được. Cảm nhận ấy vẫn kéo dài cho đến khi tôi bước về phòng mình. *** Laurent thường xa lo công chuyện. Cũng như những người khác, Francis biết rất ít về những lần kia vắng mặt. Vào mùa hè, loài sói biến mất trong vùng rừng cây, nên lúc ấy Laurent lo chuyện buôn bán. Mùa hè năm ấy, đặc biệt bận rộn - hoặc có lẽ đó là lần đầu tiên mà Francis tỏ ra quan tâm có ở đó hay - và đến Toronto hoặc Sault St Marie. Khi Francis dọ hỏi về mấy chuyến này, Laurent tỏ ra xởi lởi hoặc lảng tránh hẳn. đùa cợt về việc nằm say bí tỉ trong quán bar, hoặc tìm mãi dâm. Hoặc có lẽ đấy phải là chuyện đùa. Lần đầu tiên đến nhà thổ, Francis lặng người trân trối nhìn với vẻ kinh hoàng, cảm thấy nỗi đau ngập tràn khủng khiếp trong tim. Laurent nắm lấy đôi vai và cười to, lắc mạnh bạo cho đến lúc Francis nổi nóng và hét lên; những chuyện đau lòng mà sau này Francis nhớ. Họ lời qua tiếng lại bằng ngôn từ lăng mạ, rồi thình lình im bặt, đăm đăm nhìn nhau, như bị thôi miên và choáng váng. Francis cảm thấy đau khổ và bị tổn thương. Laurent có cách tàn nhẫn gây thất vọng, nhưng rồi sau đó xin lỗi, tỏ ra nghiêm túc dịu dàng và cầu khẩn - lần đầu tiên quỳ xuống cho đến lúc Francis phải cười to và nồng nhiệt thứ lỗi. Francis cảm thấy lớn lên - thậm chí như lớn tuổi hơn Laurent. Rồi có những người đàn ông đến gặp Laurent ở nhà. Đôi lúc, khi Francis tìm tới và huýt sáo bên ngoài ngôi nhà gỗ, có tiếng trả lời. Có nghĩa là Laurent bận tiếp người nào đó, và họ thường qua đêm rồi quàng chiếc túi vai ra , các con chó chạy theo. Francis nhận ra trong nỗi ghen tức sâu thẳm và kinh khủng. Hơn lần, quay lại vào buổi sáng, giấu mình trong bụi rậm phía sau ngôi nhà gỗ, chờ cho đến khi những người khác ra về, quan sát vẻ mặt họ nhưng nhận ra dấu hiệu gì. Phần lớn bọn họ là người Pháp hoặc dân bản xứ; những người từ xa đến, có dáng dấp bất hảo vốn thường ngủ dưới bầu trời hơn là dưới mái nhà. Họ mang đến cho Laurent lông thú, thuốc lá và đạn dược, rồi ra về theo con đường họ đến. Đôi lúc dường như họ chẳng mang gì đến hoặc để lại món gì. Có lần, sau hồi cãi vã điên dại, Laurent bảo rằng họ đến tìm mình bởi vì họ thiết lập công ty mậu dịch, và việc này phải xúc tiến cách bí mật bởi vì Công ty Vịnh Hudson nổi giận nếu biết được, thế nên lẩn tránh tốt hơn. Francis vui mừng vì nhõm, và dàn hòa với tinh thần lên cao độ, trong khi Laurent cầm lên cây vĩ cầm chơi đoạn nhạc, rượt đuổi lòng vòng trong ngôi nhà gỗ cho đến khi Francis phóng ra ngoài, ngoác miệng ra cười. Có bóng người con đường mòn, khá xa, và chạy vội vào trong. chỉ nhìn thoáng qua, nhưng nghĩ đó là mẹ mình. Sau đó, qua nhiều ngày sống trong nỗi khiếp sợ và hoang mang, nhưng trong nhà có gì thay đổi. Dù bà mẹ có thấy gì hay bà cũng nghĩ gì về việc này. Mùa thu đến, thêm học kỳ, rồi mùa đông. thể gặp Laurent thường xuyên, nhưng khi cha mẹ ngủ, đến ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Đôi lúc nghe tiếng huýt sáo đáp lại, đôi lúc chẳng nghe gì cả. Với thời gian dần trôi, thấy dường như tiếng huýt sáo trả lời càng ngày càng hiếm hoi hơn. Lúc nào đó vào mùa xuân, sau khi Laurent lại đâu , này bắt đầu bóng gió rằng có chuyện lớn xảy ra. Rằng kiếm được khối tiền. Francis cảm thấy hoang mang và bứt rứt bởi lời lẽ mơ hồ, thường thốt ra trong cơn say. Có phải Laurent rời Sông Dove? Rồi Francis ra sao? Nếu Francis muốn dẫn dụ (mà nghĩ cách khôn ngoan) hé lộ kế hoạch của , Laurent chỉ trêu cợt lại, và cách trêu cợt có thể lỗ mãng và tàn nhẫn. thường đến người vợ và gia đình tương lai của Francis, hoặc việc tìm mãi dâm, hoặc sống ở miền nam đường biên giới. Có lần, lần đầu tiên trong số nhiều lần, hai người uống rượu với nhau. Đó là vào đầu hạ, những buổi tối ấm hơn để có thể ngồi bên ngoài. Những con ong đầu tiên xuất từ bất kỳ nơi nào đó chúng trải qua mùa đông, bay lượn chung quanh mấy chùm hoa táo. Chỉ mới bảy tháng trước. Laurent lại bóng gió đến những khối tiền trong tương lai. “Dĩ nhiên là lúc đó em kết hôn ở trang trại ở đâu đó, với đàn con, rồi em quên hết về tôi.” “Em nghĩ vậy.” Francis học cách hùa theo những kịch bản buồn thảm này. Nếu phản đối chỉ khiến cho Laurent làm tới. “Tôi đoán khi em ra trường em ở đây, phải ? có gì nhiều ở đây cho em, đúng ?” “Ờ... Có lẽ em Toronto. Có lẽ thỉnh thoảng em đến thăm chiếc xe lăn.” Laurent cười khụt khịt và nốc cạn ly rượu. Francis nhận ra là uống nhiều hơn lúc bình thường. Rồi Laurent thở dài: “Tôi nghiêm túc đó, p’tit ami[61]. Em nên ở đây. Nơi này chẳng là gì cả. Em bỏ càng sớm càng tốt. Tôi chỉ là tên già quê mùa.” “ hả? giàu lên, nhớ ? có thể bất cứ đâu muốn. có thể chuyển đến Toronto...” “Im ! Em nên ở đây! Chắc chắn em nên ở đây với tôi. tốt. Tôi tốt.” Francis cố đè nén cơn run rẩy trong giọng : “Ý gì? Đừng có lố lăng. say rồi, chỉ có thế.” Laurent quay sang , từng tiếng: “Tôi là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em là đứa ngu ngốc chết tiệt. Em phải cút xéo để trở về với ma-man và pa-pa của em.” Gương mặt trông hèn hạ, đôi mắt nhíu lại vì rượu. “ ! Em còn chờ gì nữa? Cút xéo ngay!” Francis đứng dậy, trong cơn đau khổ. muốn cho Laurent thấy mình khóc. Nhưng cũng thể cứ bước ra, thể như thế này. Francis cố cách trầm tĩnh: “ có ý như vậy đâu. Em biết mà. cũng có ý gì khi đến nhà thổ và con rơi con rớt khắp nơi, và... tất cả những chuyện kia. Em thấy cách nhìn em...” “Hà, mon Dieu[62]! Ai lại nhìn đến em như thế? Em là cái thứ đẹp nhất mà tôi từng thấy. Nhưng em là đứa ngu ngốc chết tiệt. Tôi chán ngấy em. Và tôi kết hôn.” Francis chết lặng, muốn tin, thể trả lời. Cuối cùng, : “ dối.” Laurent nhìn cách mệt mỏi, cũng nhõm khi ra: “, đó, mon ami.” Francis cảm thấy như lồng ngực mình vỡ toang. tự hỏi tại sao mình ngã xuống hoặc bất tỉnh, vì nỗi đau quả là khủng khiếp. quay đầu rời xa ngôi nhà gỗ, rồi tiếp tục bước qua trong những cánh đồng của cha và vào khu rừng. bắt đầu chạy, hơi thở gấp gáp đến nỗi tiếng nức nở héo hắt bị khuất lấp. Sau lúc, dừng lại, khuỵu xuống hai đầu gối trước cây thông khổng lồ, rồi đập đầu mình vào lớp vỏ cây. biết mình ở đó bao lâu; có lẽ mê mụ, lấy làm vui về cơn đau đớn khỏa lấp nỗi dằn vặt còn kinh khủng hơn. Ngay trước khi trời tối, Laurent tìm thấy Francis. Laurent lần mò theo Francis giống như theo trong những con chó sói bệnh tật của , theo những dấu chân lộn xộn qua các lùm bụi. cúi xuống, vòng tay ôm lấy Francis, các ngón tay khám phá vết thương trán Francis, những giọt lệ lóng lánh má, thầm xin lỗi. Trong thời gian ngắn, Francis nghĩ rằng sau đêm đó mình thắng. Dù cho Laurent kết hôn hoặc có đứa con cũng chẳng hề gì; tất cả chỉ là quá khứ; bây giờ quan trọng đối với hai người nữa. Nhưng Laurent vẫn chống lại nỗ lực của Francis nhằm trói buộc , nhằm đòi hỏi rạch ròi mọi chuyện. là, muốn Francis thay đổi gì về cuộc sống của trai trẻ, chỉ muốn xem Francis như là thú vui nhất thời. Với giọng được thông suốt, khàn khàn, Francis kết án Laurent quan tâm đến mình. Laurent xác nhận cách tàn nhẫn. Cứ thế, và cứ thế. Cùng cách đối thoại lặp lặp lại với những thay đổi nhặt, lạc lõng qua nhiều đêm mùa hè. Francis mình chịu đựng cuộc tra tấn thấm thía này thêm bao lâu nữa, nhưng vẫn muốn từ bỏ. cố gắng tỏ ra bình thản và nhàng trước diện của Laurent, nhưng quen cách hành xử như thế. Tận đáy lòng mình, biết chẳng chóng chày Laurent ruồng rẫy hẳn mình. Nhưng giống như con thiêu thân cứ muốn bay vào ngọn lửa, thể cưỡng lại ý muốn đến ngôi nhà gỗ, dù cho Laurent càng ngày càng vắng nhà. hiểu được làm thế nào tình cảm của Laurent lại thay đổi đến thế, trong khi tình cảm của chính mình lại sâu đậm thêm. Và rồi, bằng cách nào, cha biết được vụ việc. Đấy là kiện đầy tai biến. Nó chỉ giống như cha kết nối các tình tiết để đến kết luận, kiên nhẫn quan sát và thu thập các mảnh ghép cho đến lúc toàn thể hình ảnh ra. Có những lúc Francis trở về nhà sau khi cha mẹ thức dậy, và lí nhí viện lẽ mà thiếu sức thuyết phục rằng mình dạo buổi sáng. Rồi có lúc cha đến ngôi nhà gỗ của Laurent và thấy Francis ở đó, và giả vờ học cách khắc gỗ. Có lẽ đó là lúc mà ông bố hiểu ra tự , dù ông tỏ thái độ gì. Hoặc có lúc khác, Francis giải thích cách ngu xuẩn rằng mình qua đêm ở nhà Ida. Cha khẽ nhíu mày nhưng gì. Rồi Francis hốt hoảng viện ra lý do để chạy qua gia đình nhà Pretty để tìm Ida. chắc mình phải gì với , nhưng bịa ra câu chuyện là say rượu ở Caulfield nên cần trốn lánh cha mẹ mình. Mặt lạnh tanh, và dù gật đầu đồng ý, nhìn với đôi mắt bị thương tổn khiến cho cảm thấy hổ thẹn. Dù cho việc diễn tiến theo chiều hướng nào, cha thể nào khoan dung nữa, nhất là sau thời gian dài ông thấy khó mà chuyện với Francis - hai cha con bao giờ gần gũi nhau. Ông bố bao giờ đề cập trực tiếp đến vấn đề, nhưng muốn nhìn vào mặt đứa con khi chuyện với nó, và chỉ cất tiếng khi bảo nó làm công việc nhà hoặc sửa đổi hành vi. Có vẻ như ông lạnh lùng khinh miệt đứa con trai, như thể ông chịu nổi khi ở chung dưới mái nhà với nó. Đôi lúc, khi ngồi ở bàn ăn trong vùng lạnh lẽo giữa người mẹ và người cha, Francis cảm nhận cơn buồn nôn trỗi dậy trong cổ họng đến mức gần như áp đảo toàn thân . lần, trong khi trò chuyện với bà mẹ về việc nào đó, bắt gặp người cha nhìn mình, và chỉ thấy trong ánh mắt đó vẻ giận dữ lạnh lùng, gì làm nguôi ngoai được. việc khiến cho ngạc nhiên là phải giữ kín đối với mẹ mình. Bà nhận khí lạnh lùng giữa hai cha con và điều này khiến cho bà buồn lòng, nhưng bà vẫn đối xử với khác ; bà vẫn là người phụ nữ thiếu kiên nhẫn, thiếu hạnh phúc cả trong thời gian dài mà còn nhớ được. Đấy là vào cuối tháng Mười. Nhiều lần Francis nhủ lòng đến ngôi nhà gỗ của Laurent nữa, nhưng thấy mình khó làm theo được. Vào buổi tối ấy, thấy Laurent ở nhà. Sau lúc, hai người bắt đầu cuộc cãi cọ chua cay, dai dẳng, lặp lặp lại những gì họ ra lúc trước. Francis cảm thấy giận cho chính mình, nhưng dừng được. Đôi lúc chỉ có mình, mường tượng bước với phẩm giá, ngẩng cao đầu, nhưng khi đứng trong gian bếp của Laurent, đối diện với Laurent - bừa bãi, râu ria cạo, thô lỗ - cơn giận dữ dâng trào tuồng như muốn quỳ dưới chân mà rơi nước mắt van xin; như muốn tự tìm lấy cái chết; bất kỳ việc gì để chấm dứt cơn tra tấn này. Như muốn giết Laurent. Francis khàn khàn hét lên như nhiều lần trước: “Em đến với , nhớ ? Em đòi hỏi chuyện này. Chính làm cho em như thế này... !” “Và tôi ước gì mình bao giờ để mắt tới em. Trời ơi, em làm cho tôi buồn nôn!” Và rồi Laurent : “Dù sao chăng nữa hề gì. Tôi ra . Trong thời gian dài. Tôi biết khi nào trở về.” Francis trân trối nhìn , trong khoảnh khắc tin lời : “Tốt thôi. muốn gì cũng được.” “Tuần tới tôi .” Cơn tức giận lắng xuống gương mặt Laurent, và Francis có cảm giác lạnh người, buồn nôn khi nghĩ ra đó là . Laurent quay người , bận rộn với việc gì khác: “Có lẽ lúc đó em nguôi ngoai chứ? tìm đẹp người đẹp nết.” Francis cảm thấy nước mắt chực tuôn ra. Toàn thân yếu ớt hẳn , như thể bị cơn sốt hành hạ. Laurent sắp bỏ . Chuyện chấm hết. làm thế nào mình có thể tiếp tục sống với nỗi đau này. “Này, chuyện đến nỗi tệ hại. Em thực là đứa trẻ tốt.” Laurent thấy nét mặt đau khổ của Francis, và cố tỏ ra tử tế. Như thế là còn tệ hại hơn bất kỳ lời lẽ thô tục nào hoặc bất kỳ nhận xét chua cay nào. “Xin ...” Francis biết gì thêm. “Xin , bây giờ đừng như vậy. Cứ , nhưng bây giờ đừng ra. Cứ . Lo việc của , cho đến khi...” Có lẽ Laurent cũng mệt mỏi vì gây gổ, nên chỉ nhún vai và mỉm cười. Francis bước đến, vòng tay ôm lấy . Laurent vỗ về lưng Francis, giống như cha đối với con cái hơn là tình cảm gì khác. Francis níu lấy , ước gì mình có thể rời xa; càng ước thêm đó là mùa hè năm trước, rời xa vĩnh viễn. Người của tôi, người chán ngấy tôi đến chết. Đêm ấy Francis ở lại nhưng hề chợp mắt, lắng nghe tiếng thở đều của Laurent bên cạnh mình. cố ngồi dậy và mặc lại quần áo mà làm Laurent thức giấc, tuy trước khi ra về cúi xuống khẽ hôn má Laurent. chàng vẫn tỉnh giấc, hoặc giả vờ mê ngủ. Và rồi, hai tuần sau, đứng trong ngôi nhà gỗ tăm tối, nhìn đến thi hài còn ấm nằm giường. Và xin Thượng đế tha tội cho nếu ý nghĩ thứ hai của là: Ôi, ôi, người của tôi, bây giờ thể rời xa tôi được.
Nỗi chán chường vì suy tư cật lực Nhiều năm về trước, trong khi truy tìm Amy Seton và Eve Seton, Sturrock ngồi trong quán bar rất giống nơi đây, uống cocktail whisky với người đàn ông trẻ mà ông vừa được giới thiệu. Trước đây ông nghe đến Kahon’wes, và cảm thấy tự mãn khi người đàn ông trẻ tha thiết muốn gặp mình. Kahon’wes là người Mohawk có vóc người cao, gây ấn tượng, tạo tên tuổi trong ngành báo chí. Tuy hoạt bát và thông minh, ông bị vướng víu giữa hai thế giới và dường như biết mình phải ở đâu. Điều này qua trang phục của ông, vốn trong dịp này đúng là thời trang cho đàn ông trẻ - áo choàng đuôi tôm, nón cao, giày ủng thắt nút, và đại loại như thế. Thậm chí ông còn trông bảnh bao đúng mốt nữa. Nhưng trong những lần gặp gỡ kế tiếp, ông mặc áo da hoẵng, hoặc pha trộn giữa hai kiểu. Ngữ của ông cũng thay đổi qua lại giữa tiếng lưu loát và có giáo dục - như trong lần gặp gỡ đầu tiên - và cái chất “Da Đỏ”; ngữ chủ yếu tùy thuộc vào người ông đối diện, Sturrock vui khi về ngành báo chí, nhưng ông hy vọng Kahon’wes cũng giúp ích trong cuộc nghiên cứu của mình. Kahon’wes quen biết rộng vì ông luôn đây đó, trò chuyện với nhiều người, nhưng lại bị các nhà chức trách cho là kẻ nhiễu . Vì Sturrock cũng là kẻ nhiễu , nên hai người thân thiết với nhau. Sturrock kể về việc mình tìm hai bị mất tích, ông bỏ phần lớn thời giờ trong năm cho việc ấy, và đến lúc này còn hy vọng bao nhiêu. Cũng như nhiều người ở Canada Thượng, Kahon’wes nghe qua vụ việc. “À… hai con bị người Da Đỏ xấu xa bắt cóc.” “Hoặc bị chó sói ăn thịt, mà tôi bắt đầu tin như vậy. Tuy nhiên, người cha vẫn muốn nỗ lực hết mình để tìm kiếm khắp nơi trong cả Bắc Mỹ.” Sturrock kể cho Kahon’wes nghe mình thăm viếng các bộ tộc ở hai bên đường biên giới, đến gặp những người quen biết và người có quyền lực vốn trước kia giúp đỡ ông. Nhưng ông nhận được tin tức gì có ích. Kahon’wes im lặng nghe, rồi rằng ông hỏi han những người mình quen biết: như Sturrock hẳn phải nhận ra, có những lúc mà câu trả lời (giống như ngữ và trang phục của ông) tùy thuộc vào người tiếp chuyện ông. Vài tháng sau, Sturrock nhận được tin tức của ông nhà báo. Ông ngang qua Hồ Forest và được nghe Kahon’wes ở cách ông chỉ ít dặm. Vào dịp này, Kahon’wes mặc theo kiểu Da Đỏ; cách ăn cũng thay đổi. Ông nản chí vì các bài viết của mình được đăng tải báo chí của người da trắng. Sturrock nhận ra phong thái bốc đồng mà nếu được khuyến khích đúng cách có thể trở thành hoang mang. Ông ngỏ ý đọc giúp số bài báo của Kahon’wes, nhưng bây giờ có vẻ như ông này quan tâm nhận giúp đỡ. Trong dịp này, hai người đến nền văn hóa Da Đỏ cổ đại, còn lớn lao và tiến bộ hơn là nền văn hóa kế tục sau đó. Kahon’wes say sưa mô tả nền văn hóa ấy, và cho dù nhất thời Sturrock tin, dần dà ông bị lừa dối bởi tầm nhìn của Kahon’wes. Sau đó ông chỉ gặp lại Kahon’wes có lần, vài tháng sau, ở Kingston, nơi họ trao đổi với nhau nhiều, và Sturrock có cảm tưởng là Kahon’wes uống rượu quá nhiều. Tuy nhiên, trong cuộc gặp gỡ cuối cùng này ông nhận được tin tức. Kahon’wes trao đổi với tù trưởng bộ tộc Chippewa sống chung quanh Thác Burke’s, người cho biết tin tức về phụ nữ da trắng sống với người Da Đỏ. Chỉ có thế, nhưng tệ hại hơn là những tin tức Sturrock nhận được khi theo đuổi việc tìm kiếm. Vài tuần sau, Seton và Sturrock đến ngôi làng , ở đây sau nhiều mặc cả họ được dẫn đến trại Da Đỏ để gặp . sáu năm trôi qua từ khi hai mất tích, ba năm từ khi Bà Seton qua đời vì chứng bệnh bí , thường được cho là vì quá đau khổ. Sturrock luôn cảm thấy tội nghiệp cho Charles Seton với nỗi buồn triền miên như là vết thương kinh khủng dưới lớp mô sẹo mỏng nhất. Nhưng mong chờ lần này tệ hại, như thể gì tệ hại hơn nữa. Seton hầu như cất lên tiếng nào từ khi lên đường đến ngôi làng, mặt ông trắng như tờ giấy. Ông trông như người ốm yếu bệnh hoạn. Trước đó, ông đó là đứa con nào: bây giờ Eve mười bảy tuổi, Amy mười chín, nhưng ai biết kia bao nhiêu tuổi. ai ra được cái tên, hoặc đúng hơn, giờ mang tên Da Đỏ. Sturrock cố gợi chuyện cho Seton mở miệng, nhắc cho ông nhớ rằng nếu quả thực kia là con ông bây giờ thay đổi nhiều. Seton nhất quyết cho rằng mình nhận ra , cho dù thể ra sao. Nhìn đăm đăm về phía trước, ông : “Cho đến khi chết tôi vẫn thể nào quên được những chi tiết nhặt nhất gương mặt chúng nó.” Sturrock nhàng : “Nhưng ông thấy chúng thay đổi ra sao. Tôi từng thấy cha mẹ nhận ra con mình, dù chỉ sau thời gian ngắn con họ sống với người Da Đỏ. Đó chỉ là vấn đề gương mặt... mà là mọi khía cạnh. Cách chúng ăn , cách chúng đứng, cách hành xử.” Seton : “Dù sao vẫn thế, tôi nhận ra chúng.” Họ xuống ngựa bên ngoài các căn lều hình nón của người Da Đỏ, để cho các con vật gặm cỏ. Người dẫn đường vào căn lều lớn nhất, rồi ông già tóc hoa râm bước ra, lắng nghe khi người dẫn đường với tiếng Chippewa. Người dẫn đường thông dịch câu trả lời: “Ông ấy tự nguyện đến với họ. Bây giờ là người của họ. Ông ấy muốn biết có phải ông đến để mang ?” Sturrock chen vào trước khi Seton có thể cất tiếng: “Chúng tôi thúc ép làm gì mà muốn, nhưng nếu là con ông này, ông muốn chuyện với . Ông tìm kiếm trong nhiều năm.” Ông già gật đầu, rồi dẫn họ đến căn lều khác. Sau lúc, ông ra dấu cho Sturrock và Seton theo mình vào. Thoạt đầu, khi ngồi xuống họ thể nào phân biệt được gì cả. gian bên trong kín mít, tối đen và đầy khói. Chỉ dần dần họ mới nhận ra có hai bóng người ngồi đối diện: đàn ông và phụ nữ, đều là người Chippewa. Charles Seton thốt lên tiếng nghe như mèo kêu, trân trối nhìn người phụ nữ trông như trẻ. có làn da sậm, đôi mắt đen, mái tóc đen dài trông óng ánh. mặc chiếc áo ngoài chùng bằng da thú, quấn thêm tấm chăn có sọc cho dù thời tiết ấm áp, và nhìn xuống đất. Thoạt nhìn, Sturrock chỉ nghĩ là người Chippewa. Ông đoán trai trẻ ngồi bên là chồng , cho dù họ được giới thiệu với nhau. Sau tiếng kêu thảng thốt ấy, Seton gì. Đó như thể ông bị nghẹn họng, miệng mở ra nhưng thốt được nên lời. Sturrock bắt đầu: “Xin cảm ơn đồng ý gặp chúng tôi.” Ông nghĩ trong đời mình chưa từng thấy điều gì tàn nhẫn như là nỗi đau gương mặt Charles Seton lúc ấy. “Xin vui lòng nhìn lên, để ông Seton nhìn mặt , được ?” Ông mỉm nụ cười có ý khuyến khích hai người trẻ ngồi đối diện. trai trẻ nhìn lại ông, tỏ lộ cảm xúc, rồi vỗ lên bàn tay . ngẩng đầu, nhưng đôi mắt vẫn nhìn xuống. Tiếng thở của Seton nghe rộn ràng trong gian eo hẹp. Sturrock hết nhìn Seton đến , chờ người này nhận ra người kia. Có lẽ chỉ là vô vọng. phút chầm chậm trôi qua, rồi thêm phút. Cuối cùng, Seton hít hơi thở sâu: “Tôi biết ấy là ai. Nếu tôi nhìn đôi mắt… tôi có thể nhận ra có phải là con tôi hay ...” Sturrock kinh ngạc. Ông nhìn , vẫn giống như bức tượng tạc, vẫn dùng tên Da Đỏ. Ông nhìn đôi mắt, mà trong ánh sáng lờ mờ ông thấy có vẻ như màu nâu. Seton hít hơi thở đau đớn: “Eve.” giọt lệ thầm chảy xuống má ông. Nhưng đó là lời phát biểu. Sau sáu năm tìm kiếm, ông tìm ra trong hai con thất lạc của mình. nhìn ông lúc, rồi đôi mắt lại nhìn xuống. Đó có thể là cử chỉ gật đầu. “Eve...” Seton muốn nghiêng mình tới trước mà ôm lấy trong vòng tay. Sturrock có thể nhận ra điều này, nhưng vẫn bất động khiến cho Seton dám có động thái gì. Ông chỉ gọi tên lần nữa, hoặc hai lần, rồi cố trấn tĩnh: “Cái gì... Cha biết làm thế nào... Con khỏe ?” Đầu cử động lên xuống. Bây giờ người đàn ông già lại cất tiếng, và người thông dịch : “Đây là chồng ấy. Ông già là bác . Ông nuôi nấng trong gia đình ông từ lúc họ tìm thấy .” “Tìm thấy ? Ở đâu? Lúc nào vậy? Cùng với Amy phải ? Amy đâu? Con bé có ở đây ? Ông biết ?” Người đàn ông già gì đấy mà Sturrock nhận ra là tiếng chửi rủa. Rồi Eve cất tiếng, lúc nào đôi mắt cũng nhìn xuống điểm sàn: “Đó là năm, sáu, bảy năm về trước. Tôi nhớ. Dường như là rất lâu rồi. thời gian khác. Sau khi dạo, chúng tôi lạc đường. Chúng tôi cứ và . Rồi chúng tôi mệt mỏi nên nằm xuống ngủ. Khi tỉnh dậy, tôi chỉ có mình. Tôi biết mình ở đâu, hai người khác ở đâu. Tôi sợ hãi và nghĩ mình chết. Rồi Bác ở đó, dẫn tôi theo ông, rồi ông cho tôi thức ăn và chỗ ở.” “Còn Amy? Chuyện gì xảy ra với nó?” Eve nhìn qua ông: “Tôi biết chuyện gì xảy ra. Tôi nghĩ chị ấy bỏ tôi. Tôi nghĩ chị ấy giận tôi và về nhà mình.” Seton lắc đầu: “. . Cha mẹ biết chuyện gì xảy ra với hai con. Cathy Sloan trở về, nhưng có dấu vết gì của con hoặc của Amy. Cha mẹ tìm kiếm và tìm kiếm. Từ ngày đó cha vẫn bao giờ ngưng tìm kiếm, con phải tin như vậy.” Sturrock qua bầu gian im lặng: “Đúng vậy. Ngoại trừ khi ngủ, cha bỏ ra từng phút, và mọi thứ ông có, để tìm kiếm và chị .” Seton nuốt nước bọt - tiếng nghe vang vọng trong căn lều : “Cha phải cho con biết, cha lấy làm buồn rằng mẹ con qua đời ba năm trước vào tháng Tư. Mẹ con bao giờ phục hồi được sau khi hai con mất tích. Bà ấy chịu nổi.” nhìn lên, và Sturrock nghĩ mình thấy dấu hiệu đầu tiên - và cuối cùng - cảm xúc khuôn mặt . “Ma-man chết.” thấu hiểu điều này, và nhìn qua chồng mình, nhưng Sturrock thể đoán ra như thế có nghĩa là gì. Tuy là chai đá khi ra, đó là điều may - diện của Bà Seton, cho dù ở khoảng cách, hẳn tạo ra khác biệt cho những gì diễn ra kế tiếp. Seton lau giọt lệ khuôn mặt. Có khoảnh khắc khi Sturrock nghĩ mình muốn tỏ lời, để giải thoát tình trạng căng thẳng kinh khủng mà ông vẫn mang nặng, và rồi có cách tới. Ông tự hỏi mình nên để việc diễn tiến trong bao lâu trước khi kết thúc cuộc gặp gỡ, trước khi mọi người trở nên bức xúc. Và rồi, là quá muộn. Giọng của Seton nghe gay gắt và quá lớn tiếng trong căn lều kín mít: “Cha màng việc ra sao, nhưng cha cần biết chuyện gì xảy ra với Amy. Con phải biết! Con vui lòng cho cha nghe.” “Con rồi, con biết. Con bao giờ trông thấy chị con còn sống.” Câu từ nghe có vẻ kỳ lạ, thậm chí đối với Sturrock. Giọng của Seton căng thẳng nhưng kiềm chế: “Ý con ... con thấy chị con chết?” “! Con bao giờ gặp lại chị ấy còn sống. Ý con vậy.” Bây giờ, ủ rũ, rơi vào vị thế chống chế. Sturrock ước gì Seton bỏ ra ngoài vấn đề Amy; chẳng ích gì mà cứ truy vấn mãi về đứa con kia. Đôi mắt Seton nhìn xa xăm, long lanh: “Con nên trở về với cha. Con phải trở về. Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm.” Sturrock nghiêng người qua Seton, đặt bàn tay lên cánh tay ông để làm ông dịu . Ông thấy Seton chẳng nhận biết. Sturrock với mọi người: “Xin vui lòng, tôi nghĩ chúng ta cần... Tôi xin lỗi. Đó là do đầu óc căng thẳng. Quý vị thể tưởng tượng ra trong mấy năm gần đây ông ấy khổ sở đến thế nào. Ông ấy nhận thức được mình gì...” “Trời đất! Ông à, dĩ nhiên là tôi biết mình gì!” Seton giơ bàn tay ra trong cử chỉ mạnh bạo: “Con bé phải trở về. Nó là con tôi. có cách nào khác...” Rồi ông đưa tay về phía ngọn lửa, và né lùi ra sau. Với cử động này, cho thấy điều mà tấm chăn có sọc cho đến giờ vẫn che giấu: mang thai nhiều tháng. trai trẻ đứng dậy, chặn ngang giữa Seton và vợ: “Các ông phải về .” tiếng giỏi, nhưng rồi tiếng bản địa với người thông dịch. Seton vừa thở gấp gáp vừa thổn thức, cảm thấy sốc, nhưng cương quyết: “Eve! cần biết. Cha tha thứ cho con! Chỉ cần về với cha. Hãy trở về với cha! Con quý nhất! Con phải...” Sturrock và người thông dịch lôi kéo Seton ra khỏi căn lều và đến chỗ các con ngựa. Họ cố đưa ông ngồi lên yên. Ký ức của Sturrock phai mờ về vụ việc, nhưng ông nhớ họ thuyết phục được Seton quay về. Ông này ngừng gọi đến . năm sau, Seton qua đời vì cơn đột quỵ, hưởng thọ năm mươi hai tuổi. Trước đó, ông bao giờ gặp lại Eve, và dù tìm kiếm thêm họ vẫn có manh mối nào về Amy. Có nhiều lúc Sturrock nghĩ này chưa từng hữu đời. Ông cảm thấy xấu hổ về vai trò của mình trong vụ việc: ông muốn dừng cuộc tìm kiếm, bởi vì thể đáp ứng với nỗi ám ảnh của Seton; cuộc gặp gỡ với Eve cho ông thấy điều đó. Tuy thế, ông vẫn đành lòng dứt ra: Seton quá đau khổ. Thế là Sturrock bất đắc dĩ phải tiếp tục tìm kiếm, mà hữu ích và cũng giúp nguôi ngoai được. Sau đó, ông nghĩ mình có người khác để làm thay cho ông. Nhưng hiểu sao buổi chiều ở Thác Burke’s gắn kết hai người đàn ông trong mối liên minh thầm lặng, bởi lẽ điều lạ lùng nhất là như thế này: Seton thừa nhận mình gặp Eve; ông cho biết đó là thông tin sai lạc, đó là khác, ông thuyết phục Sturrock cũng giữ kín vụ việc, và Sturrock bất đắc dĩ phải nghe theo. Chỉ có Andrew Knox được biết về bí mật này, và đó là do tình cờ. , hai lần Seton đến việc quay lại Thác Burke’s để cố thuyết phục Eve trở về, nhưng có vẻ ông quyết tâm lắm. Sturrock nghi ông chịu đựng được. tuần sau, Sturrock quay lại để chuyện với mình mà báo cho Seton biết, nhưng thấy họ ở đâu cả. Ông nghĩ nếu có gặp họ lần nữa cũng chẳng ích gì. *** Mọi người bị thu hút theo đường về hướng bắc dọc theo con sông. Có lời đồn đại rằng bây giờ có thêm nhiều người chuẩn bị lên đường. Người tìm kiếm này tiếp nối người tìm kiếm kia. Dĩ nhiên là ở trong số này. Nhưng cũng cảm thấy bị thu hút - chính vì thế mà ở đây. cơn gió sắc lẻm cắt vào mặt Maria khi theo con đường mòn dọc bờ sông. Cây cối thưa thớt; lá rụng đường biến thành sình lầy, lớp tuyết dơ bẩn. nhìn thấy khu đất lõm xuống của Ghềnh Đầu ngựa phía trước, phía dưới dòng nước chảy cuộn. Vào mùa hè, và Susannah thường đến đây bơi lội, nhưng vài năm trước việc này chấm dứt. Maria còn bơi lội nữa kể từ khi nhìn thấy nó trong nước. phải ở trong số người tìm ra nó - đó là nhóm những trai trẻ đến câu cá, nhưng tiếng la thét của họ khiến cho Maria và bạn thân nhất của lúc ấy là David Bell phải chú ý. David là học sinh ở trường đặc biệt chú ý đến ; hai người phải là đôi tình nhân, nhưng là hai người lạc lõng chơi thân với nhau trong thái độ chống đối cả thế gian còn lại. Họ thơ thẩn trong rừng, hút thuốc và bàn luận về chính trị, sách báo và những nhược điểm của giới đồng lứa. Maria thích hút thuốc lắm nhưng chỉ muốn làm việc bị cấm đoán, nên phải cố làm. Khi nghe tiếng kêu khẩn cấp, hai người chạy lên theo bờ sông, và thấy các trai trẻ nhìn xuống dòng nước. Bọn họ cười cợt, trái ngược với tiếng kêu đánh động lúc đầu. quay sang với David: “Tới xem này! Bạn chưa từng thấy cái gì như vậy!” Hai người bước đến bờ sông, nụ cười nở khuôn mặt háo hức, và rồi họ thấy diện trong dòng nước là cái gì. Maria lấy hai bàn tay che mặt trong cơn sốc. Dòng sông chơi khăm họ. Từ làn nước sâu màu nâu, hai bàn tay nhô lên cử động lượn lờ, da trắng nhạt và hơi trương phù. Rồi nhìn ra cái đầu phía dưới, lúc quay mặt về phía họ, lúc quay mặt . Ký ức vẫn còn nhớ gương mặt lúc bấy giờ, nhưng thể diễn tả được: đôi mắt nhắm hay mở, miệng như thế nào cũng . Có vẻ khủng khiếp lạ lùng trong chuyển động lờ đờ của thi hài bị vướng trong dòng nước xoáy; qua ngẫu nhiên kỳ dị mà thi hài quay tròn ở chỗ, đôi tay giơ cao khỏi đầu như trong điệu vũ quay theo truyền thống, và cũng như những người khác thể ngưng nhòm ngó. biết người này chết, nhưng nhận ra đó là ai. Ngay cả sau này, khi được cho biết đó là Bác sĩ Wade, thấy gương mặt chìm trong nước tương đồng với ông già Scotland mà nhớ lúc còn sống. Ngay cả bây giờ, trong cả mấy năm sau này, phải thu can đảm nhìn xuống vực nước sâu thẳm. Để biết chắc là có gì. Khi hai người rời khỏi con sông, David cầm lấy tay đường về nhà. im lặng, là điều bất thường đối với bản chất của , và trước khi hai người ra khỏi khu rừng cây, kéo đến gần thân cây và hôn . Có vẻ vô vọng trong ánh mắt khiến cho sợ hãi; biết ý nghĩa của ánh mắt ấy là gì. Tê cứng người, thể đáp ứng và hiểu sao lại cảm thấy khó chịu, rời xa rồi bước về nhà trước . Sau đó, tình bạn giữa hai người bao giờ thân thiết như trước, và mùa hè năm sau gia đình trở về miền đông. là đứa con trai duy nhất muốn hôn , cho đến lúc sau này là Robert Fisher. Sau gần tiếng đồng hồ, đến ngôi nhà gỗ của Jammet và xuống ngựa. bước qua lớp tuyết thối rữa để vòng đến cửa trước. Mái nhà lạnh lẽo vẫn còn có tuyết bên ; ngôi nhà gỗ trông nhoi, buồn nản. Có lẽ vụ án mạng khiến cho ai muốn mua ngôi nhà, trong khi vụ chết đuối thế. Có nhiều vết chân vòng quanh ngôi nhà gỗ, phần lớn là của trẻ con chơi trò thách thức nhau. Nhưng ngay phía trước cánh cửa, mặt đất trơn tru - gần đây có ai bước vào. Maria cả quyết tiến đến. sợi dây kẽm giữ cánh cửa đóng lại. tháo sợi dây kẽm ra, làm sướt ít da ngón cái. chưa từng vào đây; người ta vẫn nghĩ con gia đình danh giá nên làm bạn với Jammet. thầm lời xin lỗi hương hồn , hoặc đại khái như thế, vì tội xâm nhập. tự nhủ mình chỉ đến kiểm tra để đảm bảo tấm thẻ xương bị bỏ sót trong góc kẹt nào đó. Người ta dễ dàng để ý đến vật như tấm thẻ. cũng thu can đảm để làm việc mà sợ, tuy là chính xác sợ cái gì . Chỉ có ánh sáng yếu ớt chiếu qua khung cửa sổ bằng tấm da hoẵng; cả gian tạo cảm tưởng kỳ quái như là được phủ dưới tấm màn the. Vô cùng yên ắng. có gì bên trong, ngoại trừ tủ chè và chiếc lò trong gian bếp, chờ bàn tay mới để hồi sinh. Và bụi bặm, trông như lớp tuyết mỏng sàn nhà. Hai bàn chân in dấu vết bước đó. Hóa ra là khi bạn nhìn mới thấy ngôi nhà dù xem trống vắng vẫn còn phô bày nhiều thứ: những món vật dụng nhà bếp cũ kỹ, những trang giấy báo, dúm đinh, nùi tóc đen (khiến cho rùng mình), sợi dây cột giày ủng... Tất cả những thứ mà người ta màng mang bởi vì chẳng có giá trị gì cả; bởi vì ai cần đến, ngay cả người ở đây. Chúng ta để lại quá ít. Bây giờ có cách gì biết được con người Laurent Jammet là như thế nào; lại càng biết. xem xét kỹ càng lầu, nơi có vài chiếc hộp bằng gỗ đựng nửa đầy các món. có gì trông giống như tấm thẻ xương, nhưng tìm ra thứ gì khác, cái gì đó được nhét vào cái khe giữa khung cửa và bức tường (điều gì khiến cho tìm kiếm ở đây?). mẩu giấy màu nâu, giống như thứ bạn thấy để gói hàng ở cửa hàng của Scott, mà ai đó phác họa Laurent Jammet bằng viết chì. Maria thẹn đỏ mặt: bức họa, Jammet nằm giường, hẳn là ngủ, khỏa thân. Lúc ấy hẳn là mùa hè, vì tấm chăn mỏng quấn quanh chân , như thể trong đêm đạp nó ra. Nhà họa sĩ giỏi nhưng có hoa tay, và cho cảm tưởng về thân mật giữa người này và Jammet. Khi nhìn thể người đàn ông khỏa thân, Maria cảm thấy những xấu hổ nóng bừng, mà còn ân hận như thể xâm phạm cõi riêng tư, được giấu sâu kín nhất trong tâm tư ai đó. Bởi vì tin chắc rằng người phác thảo bức họa, dù người phụ nữ này là ai, đem lòng Jammet. Rồi nhận ra nét gì đó trông giống chữ ký, viết nguệch ngoạc. Trông giống như Françoise. tin chắc có chữ cái “e”. phải là Francoise.[63] Và rồi lập tức nghĩ đến Francis Ross. đứng đó nắm lấy mẩu giấy, nhận ra là trời gần tối. hoảng hốt nhìn thấy máu của mình bết thành vệt mảnh giấy. Ý tưởng mạch lạc đầu tiên của là nên đốt mảnh giấy này, kẻo người khác tìm thấy và đến cùng kết luận. Rồi với ít xúc động trong con tim, nhận ra rằng nên trao bức họa cho Francis, bởi vì nếu là muốn nhận lại (nếu đôi má còn cháy bỏng). có cảm nhận kỳ lạ, xốn xang cách sâu sắc, rồi cẩn thận gấp mảnh giấy lại, mặt bức họa bên trong, trước khi cho vào túi áo. Rồi lại rút ra, mường tượng em mình thò bàn tay vào túi mà tìm thấy. Thay vào đó, nhét mảnh giấy bên trong áo lót, nơi chỉ có mình chạm đến. Ở đó, kế bên quả tim, mảnh giấy cháy bỏng như than hồng, khiến cảm thấy luồng hơi nóng vì hổ thẹn lan đến cổ họng. Cuối cùng, vội vàng nhét mảnh giấy vào bên chiếc giày ủng, nhưng ngay cả từ nơi đó những tia nóng tỏa lan lên chân khi phi ngựa quay về Caulfield trong bóng tối ập xuống. *** Line bận rộn nhóm đống lửa. Sau tiếng nổ của súng trường, có gì khác xảy ra. Họ chờ đợi, ban đầu trò chuyện, kích xúc, vui vẻ, rồi im bặt, xúm xít ngồi bên nhau gần đống lửa. Ngọn lửa bắt đầu tàn lụi quá nhanh; bóng tối lan đến những hốc rễ và gốc cây mục. Line nấu nước và cho đường vào, rồi bắt hai đứa trẻ uống trong khi nước còn nóng, khiến chúng gần bị bỏng miệng. làm món hầm gồm bột yến mạch, dâu rừng và thịt lợn phơi khô, rồi họ ăn trong im lặng, chờ đợi tiếng những bước chân và thân người ra giữa lùm bụi. Phần ăn của Espen khô cứng lại trong chiếc ấm. Nhưng vẫn chưa quay lại. Line né tránh các câu hỏi của hai đứa trẻ, sai chúng nhặt thêm cúi để duy trì đống lửa cho sáng hầu có thể nhận ra từ xa. Rồi dựng chỗ trú cho chúng ngủ. Lúc đó chúng mới thôi hỏi han. Nhưng, sau khi Anna cuộn mình trong giấc ngủ quanh bên đùi Line, Torbin phía bên kia thầm với . Cậu bé im lìm trong , hai ngày qua, từ lúc họ đánh rơi chiếc la bàn. như bản chất bình thường của nó. Giọng cậu bé run run: “Ma-man, con xin lỗi.” vuốt tóc nó với bàn tay mang găng: “Suỵt. Ngủ .” “Con xin lỗi bỏ chạy, nếu chúng ta mất la bàn, phải ? Và Espen phải như thế này. Và bây giờ bác ấy cũng lạc...” Cậu bé nức nở: “Tất cả là do lỗi của con.” Line mà nhìn đến đứa con trai: “Đừng có ngốc. Hoàn cảnh là vậy. Ngủ .” Nhưng mím môi lại cách nghiêm khắc: là, chính vì lỗi của nó mà họ mất chiếc la bàn. Chính vì lỗi của nó mà họ lạc trong vùng rừng lạnh lẽo; chính vì nó mà, lần nữa, mất người đàn ông của đời mình. Bàn tay vẫn vuốt đầu cậu bé cách máy móc, và để ý là Torbin co cứng người lại; để ý là làm nó đau, nhưng nó dám bảo dừng tay lại. ngủ được, nên ngồi gần cửa lều trú nhìn ra ngọn lửa với hai đứa trẻ cuộn tròn quanh lưng và chân . cố suy nghĩ gì cả. Quả là dễ khi Torbin và Anna còn thức và phải trấn an chúng, nhưng khi mình, chỉ còn lại nỗi sợ hãi khó mà ngăn chặn được. Dù cho lạc đường, lạnh giá, ở sâu trong rừng, chung quanh là tuyết và có Trời mà biết còn những gì khác, nỗi sợ hãi lớn nhất là Espen bỏ rơi . Khi còn ngồi trong chuồng gia súc ở Himmelvanger, biết mình có thể gây áp lực bắt buộc làm theo ý mình, dù cho toàn tâm toàn ý. Bây giờ chợt nghĩ ra rằng lấy tiếng súng trường là cái cớ; rằng bỏ mà định quay về; và lần này biết tìm ở đâu. Gần đó, hai con ngựa đứng nối đuôi nhau, đầu cúi xuống. Có lúc, khi cảm thấy rất lạnh, con tỏ ra hoảng sợ cái gì đó giữa đám cây cối. Nó dỏng tai ra hai bên, đầu lắc lư qua lại như thể nó nhận ra đe dọa nhưng biết đích xác ở đâu. Con ngựa kia - con bị bệnh - hầu như bất động. Sau cơn sốc ban đầu gần đứng tim, Line cố nhìn ra bóng tối, hy vọng nghe tiếng Espen, nhưng biết rằng con Jutta hẳn phản ứng như thế nếu đó là . nghe gì cả. Cuối cùng, thể chờ đợi và cũng thể chống chọi cơn buồn ngủ, nên nằm xuống bên cạnh hai đứa con, lấy tấm khăn choàng phủ lên mặt. Hầu như lập tức, mơ thấy Janni. bị rắc rối và dường như gọi đến . ở nơi đâu đó tối tăm, xa xôi và lạnh lẽo. rất tiếc tỏ ra ngu xuấn, nghĩ có thể kiếm tiền theo cách đó, bằng cách trộm cắp và nổi loạn. Bây giờ trả giá bằng cuộc đời mình. có thể trông thấy qua khoảng cách xa xăm, và có vẻ như nằm nền tuyết, vết sẫm màu xíu nền trắng mênh mông. khát khao muốn đến với , nhưng được. Rồi tất cả đều thay đổi: ở sát bên , gần gũi đến nỗi có thể cảm nhận hơi ấm của , hơi thở ẩm mặt . Trong giấc mộng, nhắm mắt lại và mỉm cười. Hơi của của hôi hôi nhưng ấm ấm, đúng là hơi thở của . hề mơ thấy Espen. thức giấc trước khi trời sáng hẳn. Đống lửa tắt, chỉ còn lại đống tro than lộn xộn; bầu khí ẩm ướt và có mùi đặc biệt khi tuyết tan gây ra. thấy hai con ngựa đâu; hẳn chúng đến phía sau căn lều, tìm nơi gặm cỏ. có dấu hiệu gì của Espen - nhưng rồi, nghĩ có. chống hay khuỷu tay ngồi dậy, đôi mắt quen dần với khung cảnh màu xám. Và rồi nhìn ra khoảnh tuyết bị giẫm đạp và dơ bẩn chỉ cách tới hai mươi mét. Ban đầu, muốn tin vết màu đỏ sậm là máu, rồi đúc kết các chi tiết: đường màu đỏ hình vòng cung mặt tuyết; ở đây là vết màu đỏ, và có những dấu chân ngựa dẫm sâu xuống lớp tuyết dày. dám gây tiếng động. nên để cho hai đứa trẻ thấy, kẻo chúng hoảng loạn... Rồi nhìn xuống. Giữa hai khuỷu tay , ép xuống lớp tuyết bên ngoài căn lều, là dấu vuốt. Chỉ có . Rộng ít nhất mười phân, với những lỗ của móng vuốt phía trước. vết màu đỏ sậm nhuộm hai lỗ bị lún xuống. Giật nẩy người, nhớ lại lời Espen gọi : ma nữ - đó là phụ nữ sống cùng đàn sói. Miệng đắng chát, nhớ lại hơi thở hôi hôi ấm ấm trong giấc mộng, và còn nhớ mình cảm thấy thích hơi thở ấy. Con sói hẳn đứng ngay phía , dựa người vào bên trong, hơi thở phả vào mặt khi ngủ. Line bật đứng dậy. đá cho tuyết sạch che lấp các dấu vết, tung tuyết lên các vệt máu. có thể thấy vệt dấu khi Bengi cố chạy thoát, theo sau là đàn sói - hẳn phải có hơn con. May mắn là vệt dấu dẫn từ hướng họ xuất phát về đến đây; họ phải nhìn những dấu vết ấy dẫn đến đâu hoặc chấm dứt thế nào. thấy vệt dấu khác, và trân trối nhìn: dấu giày ủng in sâu kế thân cây tuyết tùng. Phải mất lúc lâu mới nhận ra rằng đó là dấu giày ủng của Espen, từ hôm qua. về hướng tây, trong khi đường của họ là về hướng nam. Từ lúc , tuyết rơi thêm nữa, có gì che phủ dấu vết . có thể lần theo dấu vết của mình và quay lại với ba mẹ con, nhưng hiểu sao làm thế. Line nhảy dựng lên, tim đập thình thịch, vừa lúc đó con Jutta từ trong khoảnh rừng chạy ra, và Line thở dài nhõm khi con ngựa cọ mũi vào nách . Cả người và ngựa đều cảm giác nhõm như nhau. Line với con vật cách sôi sục: “Ta ổn. Ta ổn. Ta ổn thôi.” nắm lấy bờm con ngựa cho đến khi ngừng run rẩy, rồi vào đánh thức hai đứa trẻ, để bảo chúng phải tiếp tục . *** Donald nhìn dõi theo Parker và Bà Ross rời khỏi thương điếm. Họ bước qua cánh cổng rồi theo hướng tây-bắc mà nhìn ngoái lại. Nesbit và Stewart chúc hai người lên đường bình an, rồi trở vào văn phòng. Nesbit ném ánh mắt khó chịu, có ý nghĩa qua Donald, tỏ vẻ chê bai Bà Ross và Parker, mà cũng chê cả Donald. Tuy cố chịu đựng, Donald vẫn bực tức. nghĩ Parker là người ngu xuẩn khi cố phân bày lý lẽ của ông, và còn tệ hơn khi ông Bà Ross cùng ông, dù đấy cũng là ý muốn của bà. kéo bà qua bên mà cho bà biết ý kiến của . Bà có thấy buồn cười vì , hay đó chỉ là do tưởng tượng? Cả Parker và bà đều cố thuyết phục rằng cần thiết phải theo dõi những động thái của Stewart, và cho dù thấy cần thiết, nghĩ mình làm theo. nhìn dõi theo Stewart đến ngôi làng để hỏi han về Elizabeth. Mặc cho tỏ thái độ thù nghịch u uẩn, Stewart ngừng để ý đến . Phần mình, thể trấn áp nỗi thôi thúc đến thăm lần nữa. càng thêm hiếu kỳ mãnh liệt về từ lúc tin là trong hai con nhà Seton, dù dựa cơ sở mong manh là tên con của . , phải chỉ có thế; còn dựa theo vóc dáng bên ngoài của cho thấy chắc chắn là người da trắng, và thấy có phần giống Bà Knox. Sau khi Stewart quay về văn phòng ông, đứng bên ngoài căn lều , chờ đợi dấu hiệu để bước vào. Ngọn lửa làm mắt cay sè, phải thở qua miệng để thích ứng với làn khói và mùi cơ thể chưa tắm rửa. Elizabeth ngồi xổm gần lò sưởi, lau mặt cho đứa bé khóc. ném nhanh tia nhìn khinh thường về phía Donald, rồi nhấc đứa bé kêu la mà trao cho Donald: “ nhận nó . Nó làm khổ thân tôi.” Elizabeth vào phía sau bức vách ngăn phòng ngủ, để lại Donald với đứa bé vẫn còn giẫy đạp tay . bối rối xóc bé lên xuống, và nó nhìn .” “Amy, đừng khóc. Này, này.” Nếu kể kinh nghiệm của với đàn con của Jacob, đây là lần đầu tiên bế đứa . ôm lấy bé như thể nó là sinh vật khó lường với hàm răng bén nhọn. Tuy nhiên, nhờ phép mầu nào đó mà bé nín khóc. Khi Elizabeth quay lại, Amy tìm ra chiếc cà vạt của Donald, cảm thấy lạ lẫm và đùa nghịch. Elizabeth nhìn họ lúc, rồi thình lình hỏi: “Điều gì khiến cho nghĩ đến nhà Seton? Chỉ là cái tên thôi hà?” Donald nhìn lên, cảm thấy bất ngờ. định hỏi về Stewart. “Tôi nghĩ vậy. Nhưng câu chuyện là trong đầu tôi, xem, bởi vì gần đây có người hiểu câu chuyện này cho tôi nghe.” “À.” Nếu có mối quan tâm, quả thực che giấu giỏi. “Gần đây tôi quen biết gia đình của Andrew Knox. Vợ ông ấy là, à, bà ấy...” chăm chú quan sát , trong khi đứa bé nắm chiếc cà vạt của giật mạnh khiến gần nghẹt cổ, “... bà ấy là em của Bà Seton, mẹ của .” lại : “À.” “Bà là người phụ nữ vui vẻ, hiền hòa. Người ta có thể rằng sau nhiều năm, bà rất đau khổ đối với vụ mất tích.” Bầu gian im lặng bao trùm, chỉ có tiếng lửa lách tách làm ngắt quãng. “Bà ấy gì về chuyện này?” “À, đó là... cha mẹ họ rất buồn. Họ bao giờ nguôi ngoai.” Donald cố nhìn ra cảm xúc gương mặt , nhưng càng tỏ vẻ bực tức thêm. “Họ - hai ông bà Seton - bây giờ qua đời.” gật đầu. Donald ngừng thở, và bây giờ thở ra. Khẽ thở dài, : “Kể cho tôi nghe về Dì Alice.” Donald cảm thấy rộn ràng. cố lộ ra ngoài, hoặc nhìn quá chăm chú. nhìn đến đứa bé, tránh ánh mắt của . “À, họ sống ở Caulfield, bên Vịnh Georgian. Ông Knox là quan tòa ở đó, người có danh giá, và họ có hai con là Susannah và Maria.” Cảm thấy bạo dạn thêm, hỏi: “ còn nhớ hai người này ?” “Dĩ nhiên. Lúc đó tôi mười tuổi, phải là em bé.” Donald cố kiềm hãm nỗi kích xúc thoát ra ngoài cửa miệng, nhưng làm thế lại khiến ôm đứa bé quá chặt. Nó nắm tay lại đẩy vào cặp kính mang để trả đũa. “Susannah... Tôi nhớ là người nào. Lần cuối tôi gặp hai người, người chỉ là em bé . Người kia lớn hơn hai hoặc ba tuổi.” : “Maria lúc đó hai tuổi.” có cảm giác nồng ấm khi nhắc đến tên . Elizabeth nhìn vào những bóng tối, và nghĩ gì. gỡ những ngón tay mạnh mẽ đến đáng ngạc nhiên của đứa trẻ trong miệng mình. “Tất cả họ đều khỏe mạnh, và... họ là gia đình dễ mến. Cả gia đình. Họ rất tử tế với tôi. Ước gì có thể gặp họ. Gia đình rất vui được gặp ... mà tưởng tượng được.” mỉm cười cách lạ kỳ: “Tôi nghĩ kể cho họ về tôi.” “Chỉ khi muốn.” quay đầu , nhưng khi cất tiếng giọng của vẫn thay đổi: “Tôi phải nghĩ đến các con tôi.” “Dĩ nhiên rồi. hãy suy nghĩ. Tôi biết họ thúc ép làm việc mà muốn.” lặp lại: “Tôi phải nghĩ đến các con tôi. Bây giờ, có người cha...” Phải khó khăn lắm Donald mới rút ra chiếc khăn tay từ phía dưới thân người đứa bé. Nhưng khi Elizabeth quay lại, mắt vẫn khô ráo. “Họ có cha tôi tìm ra tôi ?” “Cái gì? Họ bảo bao giờ tìm được !” Nét mặt thoáng vẻ gì đó - đau khổ? hồ nghi? “Ông ấy như vậy hả?” Donald biết trả lời ra sao. “Tôi từ chối trở về với ông ấy. Tôi vừa kết hôn chưa lâu. Ông ấy luôn hỏi về Amy. Có vẻ như ông đổ lỗi cho tôi vì chị ấy có mặt ở đó.” Donald thể giấu vẻ bị sốc. “ hiểu sao? Họ mất hai con , nhưng tôi mất tất cả! Gia đình của tôi, mái ấm của tôi, quá khứ của tôi... Tôi còn phải học lại tiếng ! Tôi thể tách ra khỏi bất cứ thứ gì tôi biết... lần nữa.” “Nhưng...” biết gì. “Mặt ông ấy lộ vẻ kinh hoàng khi ông thấy tôi. Ông ấy bao giờ quay lại sau lần đó. Ông có thể quay lại. Chính Amy là người ông hy vọng tìm được. Lúc nào ông cũng cưng chị ấy hơn.” Donald nhìn qua đứa trẻ vô tư, giúp bị áp đảo vì lòng thương hại. “Ông ấy bị sốc… nên trách ông vì hỏi. Ông ấy cứ tiếp tục tìm kiếm cho đến khi chết.” lắc đầu, mắt nghiêm khắc như muốn : thấy hay sao? “ là…” cố cho thông suốt hơn bí lớn nhất vào thời đó! “ trở nên nổi tiếng, ai cũng biết trường hợp của . Nhiều người ở khắp Bắc Mỹ gửi thư tới, mạo nhận là - hoặc trông thấy . Thậm chí có người ở Tân Tây Lan cũng gửi thư đến.” “À.” “Tôi đoán nhớ chuyện gì xảy ra.” “Bây giờ có quan trọng ?” “Nếu tìm ra lúc nào cũng quan trọng, phải ?” nghĩ đến Laurent Jammet, nghĩ đến việc họ tìm - tất cả những kiện ấy va vào nhau như hàng quân cờ domino - tất cả dẫn qua khu đồng bằng phủ tuyết để đến ngôi nhà này. “Tôi nhớ... Tôi biết nghe kể ra sao, nhưng chúng tôi dạo chơi. hái dâu, tôi nghĩ vậy. Chúng tôi cãi cọ nhau về việc nên dừng lại ở đâu; kia, tên chị là gì, Cathy phải? - chị ấy muốn xa; chị bảo sợ mặt bị rám nắng bởi vì lúc ấy trời nóng. ra, chị sợ lùm bụi.” Đôi mắt Elizabeth nhìn đến điểm quá vai Donald. dám cử động, kẻo làm đứt mạch hồi ức. “Tôi cũng cảm thấy sợ. Sợ người Da Đỏ.” khẽ mỉm cười. “Rồi tôi tranh cãi với Amy. Chị ấy muốn xa hơn, và tôi lo lắng về việc nghe lời cha mẹ. Nhưng tôi cũng bởi vì muốn ở lại mình. Trời tối dần và chúng tôi thể tìm ra con đường mòn. Amy luôn miệng tôi đừng ngu ngốc. Rồi chúng tôi bỏ cuộc và ngủ thiếp . Ít nhất, tôi nghĩ... Và rồi...” im lặng kéo dài, lấp đầy ngôi nhà với những hồn ma. Donald ngừng thở. “… chị ấy còn ở đó nữa.” Đôi mắt định thần trở lại, bắt gặp ánh mắt của . “Tôi nghĩ chị ấy tìm đường về và để tôi ở lại trong rừng vì chị giận tôi. Và ai tìm tôi… cho đến khi bác tôi - bác người Da Đỏ của tôi - tìm thấy tôi. Tôi nghĩ gia đình bỏ mặc cho mình chết.” “Họ là cha mẹ . Họ thương . Họ bao giờ ngưng tìm kiếm.” nhún vai: “Tôi biết. Tôi chờ đợi trong thời gian dài. ai đến. Rồi, khi gặp lại người cha, tôi nghĩ ‘bây giờ cha đến khi con hạnh phúc, khi quá muộn’. Và ông ấy luôn hỏi về Amy.” Giọng như gió thoảng khàn khàn. “Thế là Amy... mất tích trong rừng phải ?” “Tôi nghĩ chị ấy trở về nhà. Tôi nghĩ chị bỏ tôi ở lại.” Elizabeth - dù chuyện gì xảy ra, vẫn nghĩ đến như là Eve - nhìn , giọt lệ lăn dài má: “Tôi biết chuyện gì xảy ra với mình. Tôi kiệt sức. Tôi ngủ thiếp . Tôi nghĩ mình nghe tiếng chó sói, nhưng có thể tôi nằm mơ. Tôi quá sợ nên dám mở mắt. Tôi hẳn nhớ nếu mình la hét hoặc khóc lóc, nhưng có gì. Tôi biết. Tôi biết.” Giọng dần cho đến khi mất hẳn. “Cảm ơn kể cho tôi nghe.” “Tôi cũng mất chị ấy.” cúi mặt xuống cho đến khi khuôn mặt khuất trong bóng tối. Donald cảm thấy xấu hổ với chính mình. Cha mẹ là đối tượng cho nhiều lòng cảm thông; mọi người đều cảm thấy choáng vì mất mát của họ. Nhưng người thất lạc cũng đau buồn. “ ấy có thể còn sống ở đâu đó. Chỉ vì ta biết mà có nghĩa là ấy chết.” Elizabeth trả lời và cũng ngẩng đầu lên. Donald chỉ có người mà chưa bao giờ thương mến; viễn cảnh ấy biến mất hẳn trong rừng quả là hấp dẫn. Donald nhận ra chân phải mình tê dại, và gây đau đớn khi phải cử động. cố lấy giọng vui vẻ: “Và đây là Amy...” Đứa trẻ trong lòng vô tư lự đưa tay kéo lấy đôi bít tất. “Tôi xin lỗi khiến cho ra chuyện ấy.” Elizabeth ôm lấy đứa bé, lắc đầu. tới lui chốc. “Tôi nhờ kể cho họ nghe về tôi.” hôn Amy, ép mặt đứa bé vào cổ mình.
Bên ngoài ngôi nhà, hai người phụ nữ thảo luận sôi nổi. người là Norah. Donald quay sang Elizabeth: “Xin nhờ việc nữa. có thể cho biết, họ chuyện gì vậy?” Elizabeth nở nụ cười mỉa mai: “Norah lo lắng cho Nửa Người. ấy đâu đó cùng với Stewart. Norah bảo ấy từ chối, nhưng chịu.” Donald nhìn về phía tòa nhà chính, tim như chợt nhảy lên cổ họng. Chuyện này xảy ra hay sao? “ ấy có ở đâu, hoặc tại sao ? Đây là chuyện quan trọng.” Elizabeth lắc đầu: “ xa. Có lẽ săn... tuy rằng ấy thường say rượu nên khó bắn cho trúng.” “Stewart ông ấy tìm thi hài chồng .” buồn trả lời. tính toán nhanh chóng: “Tôi theo họ. Tôi phải xem họ đâu. Nếu tôi quay lại, biết rằng lời là .” Elizabeth lộ vẻ ngạc nhiên - lần đầu tiên có thái độ này: “Nguy hiểm lắm. được.” Donald cố phớt lờ vẻ chế giễu trong giọng của : “Tôi phải . Tôi cần chứng cứ. Công ty cần chứng cứ.” Ngay khi đó Alec, đứa con trai đầu lòng của , ra từ nhà láng giềng với đứa trẻ trai khác, và hai người phụ nữ rời xa nhau, Norah quay lại tòa nhà chính. Elizabeth cất tiếng gọi thằng bé, và nó về phía mẹ nó. với nó bằng tiếng bản địa lúc, rồi bảo Donald: “Alec với . Nếu lạc đường.” Donald há hốc miệng. Đầu thằng bé chưa đến vai . “, tôi thể... Tôi tin chắc mình ổn. khó theo dấu vết.” đơn giản, dứt khoát: “Nó với . Nó cũng muốn thế.” “Nhưng tôi thể...” biết thế nào - cảm thấy mình thiếu kỹ năng chăm sóc được ai trong thời tiết này; thậm chí chăm sóc được chính mình, huống hồ đứa trẻ. giọng: “Tôi cũng thể nhận trách nhiệm đối với nó. Nếu có chuyện gì xảy ra sao? Tôi thể cho phép nó cùng.” cảm thấy nóng bừng vì xấu hổ và vô dụng. Elizabeth chỉ đơn giản: “Bây giờ nó là người đàn ông rồi.” Donald nhìn sang đứa trẻ; nó ngước mặt nhìn mà gật đầu. Donald thấy nó giống Elizabeth chút nào: da ngăm đen, mặt dẹt, mắt hình quả hạnh dưới làn mi dày. Nó hẳn phải giống cha nó. Sau đó, khi về phòng mình để chuẩn bị hành trang, Donald nhìn ngoái lại, thấy Elizabeth đứng ở ngạch cửa, nhìn . “Cha chỉ muốn có câu trả lời. biết vậy, phải ? phải là ông ấy thương . Bản chất con người là muốn có câu trả lời.” đăm đăm nhìn , đôi mắt nheo lại trong ánh chiều tà trông như thép nguội. Đăm đăm nhìn nhưng gì cả. *** Có điều kỳ lạ nào đó xảy ra đối với thời tiết. gần đến Giáng sinh, và tuy thế, dù chúng tôi qua lớp tuyết đông cứng, bầu trời vẫn trong sáng như là ngày nắng vào tháng Bảy. Dù có khăn quàng quấn ngang mặt, mắt tôi vẫn cay sè vì ánh nắng chói chang. Hai con chó vui mừng vì lại được lên đường, và tôi hiểu được. Bên ngoài vực đá có bất trắc hay lộn xộn. Chỉ có gian và ánh sáng; qua hàng kilômét rồi vẫn còn hàng kilômét trước mặt. việc xem ra... Nhưng phải đơn giản; chỉ vì bị tê cóng mà tôi nghĩ thế. Khi mặt trời lặn, tôi nhận ra ngu dốt của mình dẫn đến điều gì. Thứ nhất, tôi ngã con chó, và trong khi cố gượng đứng lên tôi làm rách chiếc váy mặc và khiến cho hai con chó sủa lên tràng. Thế rồi, sau khi đặt xuống chén thiếc đựng nước tan chảy từ tuyết, tôi tìm thấy nó đâu. Cố kiềm chế nỗi sợ hãi, tôi gọi Parker, và ông này xem xét mắt tôi. Dù ông , tôi vẫn biết mắt mình đỏ hoe và nước mắt giàn giụa. Những tia đỏ và tím ngang dọc tầm nhìn mù mờ. Có cảm giác đau nhức phía sau hai con mắt. Tôi biết đáng lẽ hôm qua mình phải che mắt trước khi ra , nhưng tôi nghĩ đến việc này; tôi cảm thấy vui được với ông, và quả là thích thú khi ngắm nhìn khu bình nguyên rộng mở sau khi trông thấy khung cảnh bẩn thỉu của Hanover. Parker dùng mảnh vải gói lá trà vào trong, làm mát trong tuyết để có loại thuốc đắp ngoài da, rồi bảo tôi ép lên hai con mắt. Tôi cảm thấy đỡ hơn, tuy hiệu nghiệm bằng vài giọt thuốc giảm đau bán ở cửa hiệu của Perry Davis. Có lẽ cũng tốt khi chúng tôi có loại thuốc nào như thế. Tôi nghĩ đến Nesbit trong văn phòng, tù túng và bực bội; tôi lâm vào tình cảnh như thế. “Từ đây... chúng ta còn bao xa nữa?” Thói quen khiến cho tôi lấy gói lá trà đắp ra; lịch khi với ai mà nhìn họ. Ông : “Đắp nó lên.” Và khi tôi đắp lại gói lá trà mắt, ông tiếp: “Ngày mốt ta tới đó.” “Có gì ở đó?” “ hồ nước, với ngôi nhà gỗ.” “Tên là gì?” “Tôi tên là gì.” “Tại sao phải đến đó?” Parker lưỡng lự trong cả phút dài, nên tôi lén nhìn ông qua gói lá trà mắt. Ông nhìn ra khoảng xa xăm và có vẻ như để ý: “Bởi vì lông thú ở đó.” “Lông thú? Ý ông là lông thú của người Na Uy phải ?” “Đúng.” Bây giờ tôi hạ gói lá trà xuống và sôi nổi nhìn ông: “Tại sao ông muốn dẫn ông ta đến nơi này? Đấy chính là điều ông ta muốn!” “Chính vì vậy mà ta . Phải tiếp tục.” “Có thể nào chúng ta... giả vờ đến nơi khác?” “Tôi nghĩ ông ta biết địa điểm. Nếu ta hướng khác, tôi nghĩ ông ta theo. Trước đây ông ta qua đường này - ông ta và Nepapanees.” Tôi nghĩ về ý nghĩa này: Nepapanees trở về, thế ta còn ở đó. Và nỗi sợ lan tỏa trong tôi, thấm vào tận xương tủy rồi đọng lại ở đó. Quả là dễ khi che giấu phản ứng của tôi phía sau gói lá trà mắt; dễ gì mà giả vờ can trường với việc này. “Lối này, khi ông ta đến, chắc chắn rồi.” Và rồi sao? Tôi thắc mắc, nhưng dám ra. tiếng khác trong đầu tôi - tiếng quấy rầy - bảo: Bà có thể ở lại. Bà làm giường. Bây giờ nằm xuống . Rồi, sau lúc, Parker : “Bà há miệng ra.” “Ông gì?” Liệu ông ấy đọc được ý nghĩ của tôi ? Nỗi xấu hổ dâng lên trong tôi, hầu như khỏa lấp nỗi sợ hãi. Giọng ông nhàng hơn, có vẻ thích thú về điều gì: “Bà há miệng ra.” Tôi há miệng chút, cảm thấy ngu ngơ như trẻ con. Có cái gì đấy có góc cạnh và cứng đè lên môi tôi, bắt buộc tôi phải há miệng rộng thêm, rồi vào miệng tôi miếng gì đấy giống như băng nước hồ - dẹp và tan chảy. Ngón cái hoặc ngón trỏ của ông quét qua môi tôi, thô ráp như giấy nhám. Hoặc có lẽ đấy là găng tay của ông. Tôi ngậm miệng lại quanh vật thể ấy, rồi nó ấm lên và tan chảy, vỡ ra thành vị ngọt ngào thấm đẫm, tạo thành luồng nước cuốn xô trong miệng tôi. Tôi mỉm cười: đường phong. Tôi ông kiếm ra loại đường này ở đâu. “Tốt chứ?” Ông hỏi, và từ giọng tôi cảm nhận ông cũng mỉm cười. Tôi nghiêng đầu qua bên như thể nghĩ ngợi câu trả lời. “Hừm.” Tôi nhàng, vẫn cảm thấy an tâm phía sau túi lá trà. Điều này khiến cho tôi khinh suất: “Cái này làm cho mắt tôi tốt hơn chứ?” “. Nó làm cho hương vị ngon hơn.” Tôi hít hơi thở sâu - lẫn mùi khói và hương vị ngọt ngào của mùa thu, đẩy lùi vị đắng của than củi. “Tôi sợ.” “Tôi biết.” Phía sau tấm mặt nạ của mình, tôi chờ đợi ngôn từ trấn an của Parker. Có vẻ như ông suy nghĩ, muốn lựa chọn ngôn từ cách cẩn thận. Chẳng có ngôn từ gì cả. *** Có năm người tình nguyện trong nhóm tìm kiếm: Mackinley, người bản xứ là Sammy làm hướng đạo; trai trẻ ở địa phương tên Matthew Fox; Ross, người đàn ông có con trai và vợ khỏi nhà; và Thomas Sturrock, trước đây là Người Tìm kiếm. Trong cả nhóm, Sturrock nhận ra mình là người bất đắc dĩ; so với bốn người còn lại ông có vẻ chỉ là ông già, và dù sao ai ông làm gì ở Caulfield. Chỉ nhờ tính giỏi thuyết phục mà ông có chỗ trong nhóm tìm kiếm, sau buổi tối dài ngon ngọt với cái ông Mackinley có gương mặt như cáo và nhắc cho ông này về thành tựu của ông trong quá khứ. Thậm chí ông còn về kỹ năng của mình trong việc dò theo dấu vết, nhưng may mắn là Sammy cần giúp đỡ nào, vì lớp tuyết mới còn tinh nguyên chói lòa Sturrock thể nhận ra họ theo dấu vết hay . Nhưng ông ở đây, mỗi bước giúp ông tiến gần hơn đến Francis Ross và mục tiêu cho chuyến đến Caulfield của ông. Từ khi Maria Knox trở về từ Sault St Marie với câu chuyện khác thường về việc gặp gỡ Kahon’wes, trong ông lại dấy lên nỗi kích xúc mà ông nghĩ lịm tắt hẳn. Ông cứ mãi băn khoăn trong đầu: liệu Kahon’wes biết ông đứng phía sau vụ này ? Liệu những cái tên mà ông ra chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên? thể nào. Ông cho rằng tấm thẻ được viết bằng ngôn ngữ Iroquois và ghi chép Liên minh Năm Dân tộc. Ai biết được, có thể nó được viết ra vào thời ấy. Dù đúng hay , ông vẫn nhận ra những hệ quả lớn lao hơn của phát này: tạo ảnh hưởng đối với chính sách dành cho người Da Đỏ; gây bối rối cho các chính quyền hai bên đường biên giới; tạo thêm trọng lượng cho người bản địa đòi quyền tự quyết. Ai lại muốn làm việc tốt và còn được lợi cho cá nhân khi làm việc này? Đấy là những ý nghĩ của ông trong vài tiếng đồng hồ đầu tiên. Rồi ông bắt đầu nghĩ - do óc thực dụng - có thể Maria đúng, và vật ấy chỉ là thứ giả mạo khôn ngoan. Trong sâu thẳm của đầu óc, ông biết việc đó tạo khác biệt gì cả. Ông thuyết phục Kahon’wes ủng hộ mình; việc này là khó. Nếu ông trình ra tấm thẻ với đủ luận cứ thuyết phục và khôn khéo ( có vấn đề gì ở đây), phản ứng đầu tiên làm cho ông nổi danh; những tranh cãi tiếp theo sau chỉ giúp cho thêm nhiều người biết đến ông. Còn việc biết tấm thẻ ở đâu, ông muốn lo lắng quá. Ông tin chắc rằng Francis Ross nhận được tấm thẻ này, và rằng ngay khi họ tìm ra ông có cách để trao nó cho ông. Ông dượt dượt lại những luận cứ mình sử dụng... Ông vấp qua cái gì đó, giày tuyết của ông vướng vào mảng băng, và ông quỳ xuống. Là người cuối trong nhóm, ông dừng lại, bàn tay mang găng chống lên mặt tuyết, trong khi ông lấy lại hơi thở. Các khớp xương ông đau nhức vì lạnh. nhiều năm đây đó như thế này mà ông quên cơ thể mình bị ảnh hưởng ra sao. Hy vọng đây là chuyến cuối cùng. Người kế bên, Ross, nhận ra ông tụt lại phía sau và đứng lại chờ ông. Cảm ơn Trời là ông này quay trở lại để tìm cách giúp ông; như thế mất mặt quá. Maria kể lại việc trông thấy Ross cùng phụ nữ ở Sault St Marie, và đặt câu hỏi liệu việc bà vợ ông ra có phải là chuyện vô tư như người ta nghĩ hay . Sturrock cảm thấy vui vui, bởi vì có vẻ như Maria phải là người thích nhận xét điều ghê gớm đến thế. Nhưng như Maria vạch ra, nó ghê gớm bằng giả thuyết mà người ta đưa ra khi cho rằng Bà Ross bỏ cùng với tù nhân trốn thoát (mà ông chồng chẳng quan ngại chút nào!). Sturrock thấy ông kia là con người thú vị. Khuôn mặt ông lộ cảm xúc gì; nếu có lo lắng về bà vợ hoặc cậu con trai ông vẫn chẳng lộ vẻ gì cả. Điều này khiến cho những người khác trong nhóm thích Ross. Cho đến giờ, Ross vẫn muốn trò chuyện với ông, nhưng sờn lòng, ông cố theo kịp Ross. Cố kiềm chế nhịp thở gấp gáp, ông : “Ông Ross à, có vẻ như ông thoải mái trong môi trường này. Tôi đánh cược là ông thường như thế này.” Ross khụt khịt: “ hẳn thế.” Và có lẽ vì thấy Sturrock thở hào hển, ông dịu lại: “Tôi chỉ săn và đại loại như thế. giống ông chút nào.” Sturrock cảm thấy chút tự mãn: “À... ông hẳn lo lắng cho gia đình mình.” Ross lê bước im lặng chốc, mắt nhìn xuống đất, rồi : “Dường như có người nghĩ lo lắng như thế vẫn chưa đủ.” “Người ta cần phải tỏ lộ công khai để cảm thấy quan ngại.” “Đúng.” Ross có vẻ mỉa mai, nhưng Sturrock bận đặt giày tuyết vào dấu chân của trai trẻ trước nên nhìn thấy vẻ mặt của ông bạn đồng hành. Sau lúc, Ross : “Ngày nọ tôi Sault St Marie. Tôi đến gặp người bạn của vợ tôi, để hỏi bà có gặp vợ tôi . Trong khi ở đó, tôi trông thấy con lớn của Knox. thấy tôi và tỏ ra giật mình - tôi đoán cả thị trấn đồn đại là tôi có phụ nữ mến.” Sturrock mỉm cười, cảm thấy có lỗi nhưng nhõm. Ông lấy làm vui là Bà Ross có người chăm sóc. Ross khô khan nhìn ông: “Đúng, tôi nghĩ thế.” Vào ngày thứ hai sau khi xuất phát từ Sông Dove, Sammy dừng lại và giơ tay ra dấu cho mọi người trong nhóm im lặng. Cả nhóm dừng lại. Người hướng đạo bàn với Mackinley phía trước, rồi ông này quay nhìn người trong nhóm, ông chưa kịp cất tiếng có tiếng thét từ đám cây cối bên tay trái, và có tiếng cành cây gãy. Cả nhóm hốt hoảng; Mackinley và Sammy cùng giơ khẩu súng trường lên phòng trường hợp đó là con gấu. Sturrock nghe tiếng thét lanh lảnh và nhận ra đó là tiếng người - phụ nữ. Sturrock và Angus Ross, vì ở vị trí gần nhất, bước tới trước, dấn chân vào lớp tuyết dày, bị trở ngại vì lùm bụi và những vật thể khuất dưới lớp tuyết. Bước khó khăn đến nỗi phải hồi lâu họ mới nhìn ra ai kêu đến họ. Nhìn quanh quất giữa đám cây cối: Sturrock nghĩ có hơn bóng người - nhưng phụ nữ? số phụ nữ... ở đây giữa mùa đông? Và rồi ông nhận ra : phụ nữ thân gầy, tóc màu sậm về phía ông, khăn choàng phất phới phía sau người, thét lên tiếng trong kiệt sức và nhõm pha trộn nỗi sợ hãi rằng những người đàn ông này chỉ trong trí tưởng tượng. qua lùm bụi tiến về phía Sturrock, rồi đổ gục xuống chỉ cách ít bước, vừa kịp Ross đón lấy đứa trẻ trong vòng tay. bóng khác từ giữa đám cây cối chạy về phía họ. Sturrock tiến đến và quỳ xuống đầu gối, giống như nhại lại cử chỉ tình tứ[64], đôi giày tuyết của ông gây ngáng trở. Gương mặt lộ vẻ kiệt lực và sợ hãi, đôi mắt thất thần như thể sợ hãi ông. “Này này, ổn thôi. Bây giờ được an toàn. Suỵt...” Ông chắc hiểu. Bây giờ đứa bé trai đến bên , đưa tay lên vai trong thái độ bảo vệ, đôi mắt đen chăm chăm nhìn ông với vẻ nghi ngại. Sturrock bao giờ biết cách chuyện với trẻ con, và đứa trẻ này có vẻ thân thiện, ông : “Chào. Các người từ đâu đến?” Cậu con trai lẩm bẩm vài từ mà ông hiểu, và người phụ nữ trả lời ông cũng với thứ tiếng đó - phải tiếng Pháp mà ông biết, cũng phải tiếng Đức. “ tiếng được ? hiểu tôi gì ?” Những người khác trong nhóm tề tựu chung quanh, kinh ngạc nhìn họ. Ở đây là phụ nữ, đứa bé trai có lẽ bảy hay tám tuổi, và đứa bé còn hơn nữa. Cả ba đều có triệu chứng bị phơi ra thời tiết giá lạnh. người nào ra tiếng gì mà họ hiểu được. Họ quyết định dựng lều trú , cho dù chỉ mới hai giờ chiều. Sammy và Matthew dựng nơi trú phía sau thân cây trốc gốc và tìm củi để đốt đống lửa to, trong khi Angus Ross pha trà và chuẩn bị thức ăn. Mackinley trở lại khoảnh rừng nơi người phụ nữ chỉ đến rồi dẫn về con ngựa bị suy dinh dưỡng, bây giờ được đắp lên tấm chăn và được cho ăn bột yến mạch. Người phụ nữ và hai đứa trẻ ngồi xúm xít gần đống lửa. Sau khi họ thầm với nhau hồi, đứng dậy đến Sturrock. ra dấu muốn chuyện riêng, nên hai người ra xa căn lều tí. mào đầu gì cả, hỏi: “Chúng tôi ở đâu?” Ông nhận thấy tiếng của hầu như có trọng gì cả, mà các tiết đều ngang nhau. “Chúng ta cách Sông Dove ngày rưỡi đường, về hướng nam. từ đâu tới đây?” chăm chăm nhìn ông, đôi mắt đảo nhanh về phía những người kia: “Ông là ai?” “Tên tôi là Thomas Sturrock, ở Toronto. Những người kia ở Sông Dove, ngoại trừ người có mái tóc nâu ngắn - đó là Mackinley, nhân viên của Công ty Vịnh Hudson, và người hướng đạo.” “Các ông làm gì ở đây? Các ông đâu?” nhận ra những câu hỏi của mình được lịch . “Chúng tôi theo dấu vết, về hướng bắc. Vài người bị mất tích.” có cách gì giải thích đơn giản tình huống phức tạp này, nên ông cố giải thích. “Dấu vết đó dẫn đến đâu?” Sturrock mỉm cười: “Chỉ đến khi dấu vết đó dừng lại chúng tôi mới biết.” Rồi người phụ nữ thở ra, có vẻ như trút phần nào nỗi nghi ngại và sợ hãi: “Chúng tôi tìm đường đến Sông Dove. Chúng tôi mất la bàn và con ngựa. Có người khác cùng. ấy rời để...” Gương mặt thay đổi với vẻ hy vọng: “Trong vài ngày qua, có người nào trong nhóm ông bắn súng trường ?” “.” lại chùng xuống: “Chúng tôi chia cách nhau, bây giờ tôi biết ấy ở đâu.” Cuối cùng, vẻ mặt như cho thấy sụp đổ tinh thần: “Có chó sói. Chúng giết con ngựa. Chúng có thể giết chúng tôi. Có lẽ...” thổn thức nhưng im lìm, có nước mắt. Sturrock vỗ vai : “Suỵt. Bây giờ khá ổn rồi. Chuyện hẳn là kinh khủng, nhưng qua rồi. cần phải lo sợ nữa.” ngước mắt nhìn ông, và ông thấy đôi mắt quả là đẹp; màu nâu trong suốt khuôn mặt trái xoan mịn màng. “Cám ơn ông. Tôi biết đáng lẽ phải làm gì... Các ông cứu mạng sống chúng tôi.” Sturrock tự tay chăm sóc cho bàn tay bị cóng lạnh. Mackinley triệu tập cuộc họp rồi quyết định Sammy cùng ông tìm người đàn ông kia - có những dấu vết ràng để theo - trong khi những người khác ở lại lều trú . Nếu đến tối hôm sau vẫn chưa tìm được người kia Matthew và Sturrock hộ tống người phụ nữ và hai đứa trẻ đến Sông Dove. Sturrock lấy làm vui lắm với cách thu xếp này, nhưng ông nhìn ra lý do cho phép hai người mạnh khỏe nhất tiếp tục càng nhanh càng tốt. Hơn nữa, phần trong ông cảm thấy tự mãn vì người phụ nữ đối xử với ông theo cách đặc biệt; chuyện riêng với ai khác, và luôn ở bên ông, thậm chí thỉnh thoảng nở nụ cười hiền dịu với ông. (“Thế , ông ở Toronto...?”) Ông tự nhủ vì mình cao tuổi nên trông có vẻ đe dọa, nhưng cũng biết đó phải là lý do duy nhất. Mackinley và Sammy tiếp khi trời còn sáng, từ người phụ nữ mà họ hiểu được lờ mờ rằng kia có thể bị thương. Hai người bị nuốt chửng trong khoảnh u tối dưới cành cây kẽ lá. Ross cho mỗi người hớp ngụm -nhắc. Người phụ nữ tỏ ra phấn khởi ràng. Khi hai đứa trẻ chìm sâu vào giấc ngủ, hỏi: “Thế các ông dò theo những ai vậy?” Ross thở dài và gì; Matthew liếc từ Ross qua Sturrock, và ông này nhận ra ý. “Chuyện khá kỳ lạ, và dễ ra. Ông Ross à, có lẽ... hở? À, cách đây vài tuần có cố may, biết chứ, và người chết. Cùng lúc, con trai của ông Ross biến mất khỏi Sông Dove - có lẽ ấy dõi theo ai đó. Rồi có hai nhân viên Công ty Vịnh Hudson tìm ấy trong khi thực cuộc điều tra. Hai người khá lâu mà chưa ai nhận được tin tức gì của họ.” “Và...” Matthew sôi nổi nghiêng người tới trước, do thái độ khuyến khích của người phụ nữ, “ chỉ có thế! Có người khác, bị bắt vì là nghi phạm trong vụ án mạng - người hai dòng máu và trông bất hảo - rồi ông ta trốn thoát, à , là có người phóng thích ông ta, rồi ông ta biến mất cùng với mẹ của Francis... từ lúc đó ai thấy họ!” Matthew ngưng bặt và ửng đỏ mặt, nhận ra quá muộn mình lỡ lời, và ném ánh mắt sợ hãi qua Ross. “Ta vẫn biết hai người có với nhau hay , hoặc trong hai người theo hướng này,” Sturrock có ý nhắc nhở Matthew với tia nhìn mệt mỏi về phía Ross trong khi ông này vẫn lộ xúc cảm. “Nhưng tóm tắt, đó là lý do tại sao chúng tôi ở đây - để tìm kiếm bất cứ người nào nếu được, để biết chắc họ... an toàn.” Người phụ nữ nghiêng người gần ngọn lửa, đôi mắt tròn và long lanh; thay đổi nhiều so với trạng thái kinh hãi trong khoảnh rừng chỉ mới vài tiếng đồng hồ trước. thở mạnh và nghiêng đầu: “Các ông rất tử tế với chúng tôi. Mạng sống chúng tôi là do các ông cứu. Thế nên, Ông Ross à, tôi thấy cần cho ông biết rằng tôi gặp con trai ông và vợ ông, cả hai đều khỏe mạnh. Họ khá khỏe mạnh.” Lần đầu tiên Ross mới quay sang , và trân trân nhìn . Nếu tận mắt chứng kiến Sturrock chẳng bao giờ tin được gương mặt như phiến đá hoa cương ấy lại lộ cảm xúc đến thế. *** Lần đầu tiên trong nhiều tuần, Francis thức dậy trong ánh nắng rực rỡ. Bầu gian im ắng lạ thường - có tiếng động thường nhật từ hành lang hoặc khoảnh sân. thay trang phục rồi bước ra. Cánh cửa mở; việc khá thoáng từ khi Moody ra . tự nghĩ chuyện gì diễn ra nếu mình bỏ mình; có lẽ ai đó hốt hoảng mà bắn phát. đúng, bởi vì Giáo dân là người của Thượng đế và có xu hướng mang vũ khí. Dù sao nếu đâu vẫn để lại sau lưng dấu vết nền tuyết. chống nạng bước ra hành lang. thấy ai lại, và ra có rất ít thanh của cuộc sống. Francis suy nghĩ nhanh - hôm nay có phải là Chủ nhật ? , Chủ nhật qua vài ngày trước (khó mà theo dõi ngày tháng ở đây). mơ viển vông rằng mọi người bỏ . theo hành lang kéo dài phía trước mặt. biết các cánh cửa mở ra hướng đâu, bởi vì từ khi được mang đến đây chưa từng ra khỏi phòng mình. thấy bóng dáng cái cai ngục Jacob ở đâu. Cuối cùng, tìm ra cánh cửa mở ra bên ngoài, và qua theo đó. Cái sốc của khí trong lành vừa lạnh lẽo vừa ngọt dịu. Ánh nắng làm hoa cả mắt; cái lạnh khiến cho da mặt buốt rát, nhưng hít mạnh khí như thế vào buồng phổi, nếm trải cảm giác đau nhức. Làm thế nào nằm giam mình trong căn phòng đó lâu như thế? chán ghét chính mình. tập nhanh hơn, khập khiễng tới lui bên ngoài cánh cửa, làm quen dần với cây nạng. Và rồi nghe tiếng la. nhắm chừng phương hướng để vòng góc khu chuồng gia súc, và thấy tốp người khoảng trăm mét phía trước. Dù thôi thúc đầu tiên của là lùi lại để giấu, có vẻ như họ quan tâm đến lắm, nên khập khiễng tới gần thêm. Jacob ở trong tốp người này; ta nhận ra và về phía . “Chuyện gì xảy ra? Tại sao mọi người ở đây?” Jacob nhìn ngoái lại ra sau: “ còn nhớ tôi với về chuyện Line và thợ mộc bỏ ? À... ta trở về.” Francis chậm chạp chống nạng đến đám người Na Uy thích ngồi lê đôi mách: vài phụ nữ khóc, Per an ủi trong giọng điệu nghe như kinh cầu. Giữa bọn họ, thấy người mà Jacob đến - con người tội nghiệp có mắt lõm sâu, râu tóc bù xù, mũi và đôi má đỏ bầm vì cóng lạnh; râu ria phủ sương muối trắng xóa. Thế đây là thợ mộc mà chưa gặp bao giờ, mà Line cuỗm . người dường như cật vấn ta, nhưng ta có vẻ mê mụ. Francis tự trách mình vì hiểu ra việc quá chậm, rồi loạng choạng bước đến ta, cảm thấy cơn giận nổi lên. hét lên mà biết người kia hiểu tiếng hay : “ làm gì với ấy? Line giờ ở đâu? bỏ rơi ấy ngoài kia hả? Còn hai đứa con ấy đâu?” Người thợ mộc quay sang với vẻ ngỡ ngàng - mà cũng dễ hiểu thôi, vì ta chưa từng gặp Francis. Với vẻ vừa dữ dằn vừa sợ hãi, Francis hạch sách: “ ấy ở đâu?” ta lắp bắp: “... tôi biết. đêm… chúng tôi đến ngôi làng, rồi tôi chịu được. Tôi biết mình làm điều sai trái. Tôi muốn quay về. Nên tôi để ấy... ở ngôi làng.” Có phụ nữ với vóc dáng rắn rỏi kế bên ta, bám lấy ta, đẫm nước mắt. Francis đoán là người vợ bị bỏ rơi. “Ngôi làng nào? Cách bao xa?” Mắt ta chớp chớp: “Tôi biết tên. Nó kế bên con sông... con sông .” “Cách mấy ngày đường?” “Ơ... Ba ngày.” “ láo. có làng nào cách đây ba ngày đường, có nếu về hướng nam.” Mặt ta tái nhợt , dù cho bình thường xanh xao: “Chúng tôi đánh mất la bàn.” “ bỏ ấy ở đâu?” thợ mộc bắt đầu khóc. Cuối cùng, giải thích trong pha trộn tiếng Na Uy và tiếng : “Dễ sợ... Chúng tôi lạc đường. Tôi nghe tiếng súng, tôi nghĩ có thể tìm ra người săn và ông ấy chỉ đường cho tôi. Nhưng tôi tìm được... Có chó sói. Khi quay về, tôi thấy vết máu, và họ ... .” nức nở trông thảm thương. Người phụ nữ kia rời xa khỏi , như thể vì kinh tởm. Những người khác há hốc nhìn Francis với vẻ ngạc nhiên - phân nửa trong số họ trông thấy kể từ lúc được mang đến đây trong tình trạng dở sống dở chết. Francis cảm thấy mình chực bật khóc, cổ họng quặn thắt khiến cho gần ngạt thở. Per giơ tay lên ra dấu cho mọi người chú ý, bằng tiếng Na Uy: “Tôi nghĩ tất cả chúng ta nên vào trong. Espen cần được chăm sóc, và ăn uống. Rồi chúng ta tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra và phái người tìm họ.” Dần dần tất cả quay người vào các tòa nhà. Jacob theo Francis. Cho đến khi cả hai vào bên trong, mới cất tiếng: “ nghe này. Tôi , nhưng... Điều kỳ lạ là chó sói tấn công và giết chết ba người. Có lẽ chuyện xảy ra phải như vậy.” Francis vừa nhìn Jacob vừa đưa tay áo lau mũi. Từ cửa phòng mình, Per gọi đến: “Jacob… Francis... hai người cần vào đó. Đến nhà ăn cùng với những người khác.” Ngạc nhiên và cảm động, Francis theo Jacob đến nhà ăn. Họ ăn bánh mỳ và phó mát, uống cà phê. Chỉ có tiếng xầm xì khi họ trao đổi với nhau, cảm thấy kinh sợ vì vụ việc. Francis nghĩ đến lòng tử tế mà Line đối xử với mình, và việc tha thiết muốn ra . Nhưng cũng là người cứng cỏi. Có lẽ thể phải như vậy. muốn nghĩ đến, chưa muốn. ai trong phòng nhìn với vẻ ngờ vực. Nếu muốn, có thể với họ tìm kiếm Line, nhưng đầu gối đau nhức với cử động chưa quen thuộc, và thấy mình yếu đuối như bông. nằm trong căn phòng trống được nhiều tuần, các cơ bắp của nhão ra, làn da nhợt nhạt. nhiều tuần kể từ khi... lấy làm sốc mà nhận ra rằng trong ít nhất tiếng đồng hồ nghĩ đến Laurent, kể từ lúc trông thấy đám người kia; và nếu trung thực, kể từ lúc mở cánh cửa thông ra bên ngoài và nếm trải khí ngọt ngào, lạnh lẽo. nghĩ đến Laurent trong thời gian đó, và cảm thấy như mình chung thủy. thời gian lâu về trước, trong đêm ấy, phía sau ngôi nhà gỗ Francis thấy luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa sổ. bắt đầu dọc bờ sông, phòng trường hợp Laurent có khách. Laurent thường có khách, lúc trước cũng thế, nên Francis đứng chờ bên ngoài phòng trường hợp này xảy ra. muốn miệng lưỡi độc địa ấy la mắng mình. nghe cánh cửa mở ra, rồi thấy người đàn ông với mái tóc đen dài ra sân vườn. Ông ta cầm cái gì đó trong tay, Francis thể nhìn ra đó là cái gì, rồi ông cho vào chiếc túi, nhìn quanh quất, hoặc nghe ngóng đúng hơn, với vẻ bất động nhưng đầy cảnh giác của người chuyên theo dõi dấu vết. Francis đứng im, lặng thinh. nửa đêm, trời khá tối, nhưng biết đó phải là người sống ở Sông Dove - biết cách họ đứng, di chuyển, hít thở. Người này khác biệt, ông ta khạc nhổ xuống đất, quay người nhìn đến cánh cửa mở rộng, và Francis thoáng thấy làn da sậm màu và phản chiếu ánh sáng, mái tóc nhờn uốn quanh hai bờ vai, khuôn mặt như phỗng đá, khép kín. Ông ta còn trẻ. Ông ta quay trở vào ngôi nhà gỗ, khuất hẳn khỏi tầm mắt Francis. Rồi ánh sáng bên trong vụt tắt. Người đàn ông bước ra, lẩm bẩm câu gì đó trong hơi thở, và đến bờ sông. Tiếng chân thầm. Francis thở hơi nhõm - nếu là nhà buôn bán phải lánh mặt luôn. Nhưng người này ở lại. Francis lần mò dọc bờ sông và rón rén vòng đến phía trước ngôi nhà gỗ. nghe động tĩnh gì bên trong. Nơi cánh cửa, dừng lại rồi mở ra. “Laurent?” thầm, cảm thấy xấu hổ với chính mình vì thầm. “Laurent?” Rất có thể Laurent bực tức với - chỉ mới ngày rưỡi trước hai người cãi cọ với nhau. Hoặc là - cảm thấy ớn lạnh đến tận con tim với ý nghĩ - có phải ấy ra trong cuộc hành trình cuối cùng bí để tránh mặt mình hay ? ấy có thể chọn thời điểm ra sớm hơn, để tránh chuyện lôi thôi. Bản chất là thế. Francis đẩy cánh cửa mở rộng. Bên trong im ắng và tối đen, nhưng ấm áp nhờ bếp lò. Francis mò mẫm bước đến nơi thường đặt cây đèn, và tìm được. mở cửa lò, đốt bấc đèn, và chớp mắt trong ánh sáng thình lình lóe ra. có tiếng đáp trả; Laurent , nhưng bao lâu rồi? ấy có thể mà để lại dấu vết. Có thể ấy hẳn, vì chắc chắn thể để bếp lò còn cháy. ấy có thể... Cuộc sống của chỉ còn lại vài giây đồng hồ, và Francis làm mất thời gian quý báu trong khi lần mò với bấc đèn. Khi nhìn quanh, Francis thấy Laurent nằm giường. lập tức thấy vết đỏ trông kỳ lạ đầu; rồi nhanh nhẹn bước đến nơi có thể nhìn gương mặt ấy, cổ ấy, vết thương nặng. thấy rằng đôi mắt ấy còn ướt. cảm nhận ấy vẫn còn ấm. Francis chớp đôi mắt đẫm lệ. Jacob cất tiếng: này mình ra ngoài - thích ngồi lâu chỗ. Jacob đặt tay lên vai Francis - bây giờ mọi người đều tử tế với , mà chịu được - liệu trong lúc này Francis tạm ổn ở đây ? ta còn phải đe dọa Francis đừng bỏ trốn... hứ! Francis tán thành, với vẻ mặt được hiểu là đau khổ về số phận trong tưởng tượng của Line. Sau khi nhìn thấy thi hài của Laurent, sau khi đứng trong cơn sốc có Trời mới biết trong bao lâu, Francis quyết định mình phải dõi theo kẻ sát nhân. thể nghĩ ra phải làm việc gì khác. thể trở về nhà, biết rằng thể ra sao. muốn lưu lại Sông Dove thêm khoảnh khắc nào mà có Laurent. tìm thấy chiếc túi của Laurent rồi cho vào tấm chăn, thực phẩm, con dao săn - to hơn và bén hơn con dao của . nhìn quanh ngôi nhà, tìm kiếm dấu hiệu, lời nhắn cuối cùng của Laurent cho . tìm thấy khẩu súng trường của Laurent ở đâu - có phải người đàn ông kia mang ? cố nhớ lại bộ dạng ông ta; thình lình nhận ra rằng ông ta cho cái gì đó vào chiếc túi ấy cách cẩn thận, và cảm thấy vô cùng tức giận. Tránh ánh mắt nhìn đến chiếc giường, Francis nậy các thanh gỗ sàn nhà và mò mẫm tìm túi tiền của Laurent. có nhiều trong đó, chỉ có cuộn các tờ giấy bạc và tấm thẻ xương nực cười mà Laurent cho là có giá, nên cũng lấy . Suy cho cùng, nhiều tháng trước, khi vui Laurent tỏ ý cho tấm thẻ. Cuối cùng, khoác lên chiếc áo choàng bằng da chó sói, với lớp lông bên trong. cần đến chiếc áo này, vào ban đêm. thầm lời giã biệt. Và ra theo cùng hướng người lạ mặt kia , mà biết mình làm gì nếu bắt kịp ông ta. *** Tôi nhớ lại có lần mình khởi hành chuyến xa, và tôi nghĩ việc này lưu lại trong đầu óc tôi sinh động bởi vì nó mở đầu cho đoạn cuối của thời kỳ trong cuộc đời tôi và bắt đầu thời kỳ mới. Tôi tin chắc nhiều người khi đến Tân Thế giới cũng có cảm nghĩ như thế, nhưng ý tôi đến chuyến vượt Đại Tây Dương, dù chuyện này là tả xiết. Chuyến của tôi là từ cánh cổng của bệnh viện tâm thần ở Edinburgh đến ngôi nhà to đổ nát ở vùng Cao nguyên Tây. Cùng với tôi là người đàn ông mà sau này là chồng tôi, nhưng dĩ nhiên lúc ấy tôi có ý tưởng nào về điều ấy. Và tôi có ý tưởng nào về tầm quan trọng của chuyến , nhưng khi khởi hành cả cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi hẳn. Lúc ấy tôi hề đoán ra, nhưng rồi tôi bao giờ trở lại Edinburgh. Đúng ra, khi cỗ xe rời khỏi bệnh viện để bắt đầu con đường dài, số mối quan hệ bị cắt đứt - cắt đứt khỏi quá khứ của tôi, khỏi cha mẹ tôi, khỏi quãng đời tương đối thoải mái của tôi, thậm chí khỏi lớp học của tôi - mà bao giờ được nối lại. Sau này, tôi thích nghĩ về chuyến ấy, tưởng tượng ra bàn tay của định mệnh, cắt đứt các mối dây sau lưng tôi, trong khi tôi ngồi u mê trong cỗ xe ấy, tự hỏi có phải tôi hóa điên (theo cách như thế) hay mà xa rời bệnh viện tâm thần cùng những tiện nghi ở đó. Rồi tôi tự hỏi, ta có hay nhận ra những mãnh lực cưỡng lại được khi chúng diễn ra? Dĩ nhiên là tôi nhận ra. Và ngược lại, tôi đoán, ta có hay tưởng tượng rằng cái gì đấy là rất quan trọng, nhưng rồi lại tan biến như sương mai, để lại dấu vết nào? Dù cho tôi mơ màng ra sao, cuối cùng chúng tôi đến đích. Đoạn cuối của cuộc hành trình mà tôi cảm thấy rất quan trọng. Nhưng có lẽ tầm quan trọng là do nỗi sợ hãi đối với bạo lực. Quang cảnh ở đây đơn điệu lắm; chỉ có ít chỗ lồi lõm như tấm thảm cần được trải căng ra cho thẳng. Phía trước mặt, qua những tia sáng lấp lóe tôi có thể thấy hồ nước . Mặt nước dài và gấp khúc trông giống ngón tay ra hiệu cho chúng tôi, uốn quanh chỏm đá vươn cao vài chục mét. Có cây cối ven bờ bên kia, nhưng chỉ là trảng thực vật lúp xúp chứ phải là rừng. Phần lớn mặt nước đóng băng, mịn và trắng như sân băng thể thao. Nhưng ở đầu, nơi con sông đổ nước vào qua ghềnh đá, hơi nước tỏa lên trắng xóa từ mặt nước đen, nước chảy cuộn nên đóng băng được. Chúng tôi dạo quanh hồ giá lạnh. Mặt trời rọi ánh sáng lạnh lẽo từ hướng tây; bầu trời là khung nền màu xanh lam, cây cối vẽ nên những nét màu than chì lên mặt tuyết. Tôi cố tưởng tượng chúng tôi ở đây là vì lý do khác - lý do tốt lành - nhưng là có lý do nào cho tôi diện nơi đây cùng Parker. Hai chúng tôi có điểm nào chung ngoại trừ là cái chết ấy trói buộc chúng tôi với nhau: nỗi khao khát cho công lý. Và rồi khi việc này xong xuôi - bất cứ xong xuôi ra sao - còn gì gắn kết hai chúng tôi nữa. Và đó là điều mà tôi chịu nổi khi nghĩ đến. Vì thế mà tại sao tôi cố gắng ngắm nhìn, cho dù đôi mắt tôi rát bỏng. Tôi phải nhìn. Tôi phải ghi nhớ lấy quang cảnh này. Dưới cây cối, lớp tuyết đọng đất mỏng hơn. Ngôi nhà gỗ vô chủ bị thời tiết tàn phá đến nỗi nó trở nên vô hình, chỉ đến khi đến gần người ta mới nhận ra. Cánh cửa chỉ khép hờ, xệ xuống từ bản lề gỉ sét, tuyết bị thổi dạt vào bên trong, tạo thành kiểu rào chắn. Parker leo qua rào chắn này và tôi leo theo ông, kéo chiếc khăn quàng ra khỏi mặt. Chỉ có cửa sổ chớp, may mà đóng kín. Bên trong có gì cho thấy khi xưa có người ở, chỉ có đống những gói và bọc, được tuyết phủ trắng lên . “Đây là nơi nào?” “Nhà của người đặt bẫy. Có thể cũ hàng trăm năm.” Ngôi nhà trũng xuống và đổ nát, các thớt gỗ trở nên bạc màu vì thời tiết, có thể cũ ngang bằng với ngôi nhà. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì ý nghĩ này. Ngôi nhà cổ nhất ở Sông Dove chỉ mới được mười ba tuổi. Tôi vấp phải cái gì đó sàn nhà. Tôi chỉ đến những gói: “Lông thú phải ?” Parker gật đầu, dùng con dao mở ra gói. Ông rút ra tấm da màu sẫm pha xám nhạt: “Trước đây từng thấy cái này chưa?” Tôi đón nhận, và trong tay tôi nó dịu dịu, lành lạnh và mềm mại đến khó tin. Trước đây tôi nhìn thấy loại này - tôi nghĩ ở Toronto - được vắt qua cổ của phụ nữ giàu có. Lông chồn bạc. Người ta bàn tán về nó, làm thế nào nó có giá tới trăm đồng guinea, hoặc khoản tiền lạ thường như thế. Nó óng ánh bạc và nặng, nhưng cũng trơn láng như tơ tằm. Nó có đủ tính chất như thế. Nhưng có đáng giá đến thế sao? Tôi cảm thấy thất vọng vì Parker. Tôi biết mình trông đợi gì, nhưng hiểu sao đến đoạn cuối này, tôi phải nhìn nhận rằng ông trải qua bao gian khổ như Stewart chỉ để tìm ra thứ. Chúng tôi dựng lều trú trong ngôi nhà mà trao đổi nhau lời nào. Parker im lặng làm việc, nhưng là cách im lặng khác hẳn, phải như khi ông mê mải lúc bình thường. Tôi có thể ông bận tâm với điều gì khác. “Ông nghĩ chuyện này mất thời gian bao lâu?” “ lâu.” ai trong chúng tôi ý mình muốn , nhưng cả hai đều biết đấy phải là nhiệm vụ trước mắt. Tôi thường xuyên nhìn qua khung cửa, vốn quay về hướng nam, nên tôi thể thấy con đường chúng tôi đến đây. Ánh sáng bên ngoài trông lóa mắt; mỗi tia nhìn đều khiến cho tôi nhức đến tận xương đầu. Nhưng tôi thể ở bên trong ngôi nhà; tôi cần được mình. Tôi giữ khoảng cách với trảng cây dọc bờ tây, lên phần nước đen bị đóng băng của mặt hồ, bị thu hút vì ghềnh đá ở đầu kia của hồ nước. Khi đến nơi, tôi nhặt vơ vào các cành cây khô để làm củi đốt. Liệu chúng tôi đốt lửa hay , nếu đợi Stewart đến? Có vị chua, tanh mùi kim loại trong miệng tôi mà tôi biết . Vị của tính nhút nhát. Đầu kia của hồ nước chỉ cách đến trăm mét, thế nên bạn hẳn thể nào lạc được. Nhưng tôi lạc. Tôi vẫn giữ khoảng cách gần bờ hồ, nhưng khi trở lại tôi thấy ngôi nhà gỗ ở đâu cả. Thoạt đầu, tôi hốt hoảng. Tôi tìm lại lối của mình về phía ghềnh đá, nơi nước có màu đen, tỏa khói, ven bờ là mặt băng có màu nhạt dần. Tôi cảm thấy thôi thúc - như người vách đá cứ muốn bước ra gần bờ vực - muốn bước lên mặt băng, từ trắng đến xám, để xem nó dầy mỏng ra sao. Để bước càng nhanh càng tốt, rồi bước ít xa thêm. Tôi quay lại, giữ hướng mặt trời lặn và ánh sáng lóe bên tay phải mình, rồi lại bước vào trảng cây. Các thân cây chia ánh nắng thành những làn sóng dao động chập chờn rồi tỏa ra những vệt và những mảng tranh tối tranh sáng, khiến cho tôi chóng mặt. Tôi nhắm mắt lại, nhưng khi mở mắt ra tôi thấy gì cả - khoảng trống nóng bỏng quét qua mọi vật thể, và cơn đau nhức khiến cho tôi kêu lên. Dù cho những gì tôi biết, thình lình tôi có nỗi sợ hãi rằng đôi mắt mình phục hồi được. Triệu chứng mù mắt vì tuyết ít khi trở thành vĩnh viễn, nhưng được biết xảy ra. Và rồi tôi nghĩ, tồi tệ đến thế sao? Điều này có nghĩa khuôn mặt của Parker là khuôn mặt cuối cùng mà tôi thấy. Tôi bò hai bàn tay và hai đầu gối, vấp phải cái gì đó giống như gò tuyết bị khuấy tung lên. Tôi mò mẫm mặt đất với hai bàn tay, có lẽ là hang ổ của thú rừng nào đó. Đất phía dưới lớp tuyết có màu sẫm, rời rạc. Trong tôi bị đánh động: hẳn là con thú lớn mới có thể đào lên nhiều đất đến thế, và chỉ đào gần đầy - đất còn mới, dễ vụn nát trong tay tôi. Tôi bắt đầu đứng dậy, và tay tôi chạm phải cái gì đó dưới lớp đất khiến cho tôi lảo đảo lùi lại và la lên tiếng trước khi tôi kịp dừng lại. Nó mềm và lạnh, ràng giống như vải hoặc là... hoặc là... “Bà Ross?” hiểu bằng cách nào ông ở kế bên tôi mà tôi hay biết. Khoảng trống tan ít và tôi có thể thấy bóng dáng sẫm màu của ông, nhưng đôi mắt tôi đánh lừa tôi; những hình thể vàng và tím hòa lẫn với những cành cây và những mảng tuyết trắng. Parker nắm lấy cánh tay tôi và : “Suỵt... có ai ở đây.” “Ở đằng kia... có cái gì nền đất. Tôi chạm phải nó.” đợt sóng buồn nôn phủ lấy tôi rồi rút . Tôi còn nhìn ra gò đất, nhưng Parker lần mò quanh quất và tìm thấy. Tôi vẫn đứng yên tại chỗ, lau những giọt nước mắt chảy ngừng ( hiểu sao tôi khóc) từ đôi mắt. Nếu tôi lau kịp nước mắt đông lại thành những hạt trân châu má tôi. “ người trong bọn họ phải ? người Na Uy?” Tôi thể gạt bỏ cảm giác bàn tay mình. Parker ngồi xổm, cào đất và tuyết qua bên: “ phải người Na Uy.” Tôi thở ra nhõm. Thế đó là con thú. Tôi bốc nắm tuyết chà xát hai bàn tay để gột rửa cảm giác kinh khiếp ấy. “Đó là Nepapanees.” Tôi bước ít bước đến ông, loạng choạng, vì chắc đôi mắt mình nhận ra . Hình ảnh Parker lung linh và cháy bỏng trước mặt tôi như là người vào ngày 5 tháng Mười . “Đứng xa ra.” Dù sao chăng nữa tôi thấy gì nhiều, còn hai chân tôi vẫn bước đến gần hơn mà tôi chủ định. Rồi Parker đứng dậy và vòng tay giữ lấy tôi, chắn tầm nhìn của tôi đến vật thể ấy mặt đất. “Chuyện gì xảy ra với ấy?” “ ấy bị bắn.” “Cho tôi xem.” Sau lúc lưỡng lự, ông bước qua bên, nhưng vẫn nắm lấy cánh tay tôi khi tôi quỳ xuống bên cạnh nấm mồ cạn. Bằng cách nheo đôi mắt đến mức gần nhắm hẳn, tôi có thể nhận ra. Parker cào bới đất và tuyết qua bên, để lộ ra phần đầu và thân người. Thi hài nằm úp mặt xuống, mái tóc được bím dơ bẩn, nhưng những sợi chỉ đỏ và vàng cột bím tóc vẫn còn có màu tươi sáng. Tôi cần phải xoay người lại. rơi qua mặt băng mà chết đuối. Có vết thương lưng , kích thước bằng nắm tay tôi.
Chỉ đến khi quay lại ngôi nhà gỗ tôi mới nhận ra đần độn của mình. Tôi hẳn đánh rơi đôi găng tay của mình ở đâu đó giữa trảng cây, và các ngón tay tôi trắng bệch và tê dại. Hai lỗi nặng trong vòng hai ngày; tôi đáng bị xử bắn. “Tôi xin lỗi, tôi là ngu dốt...” Lại xin lỗi. Vô ích, ngu dốt, gánh nặng vô dụng. “ tệ lắm.” Mặt trời lặn, bầu trời có màu lam-lục dịu. đống lửa cháy trong ngôi nhà, và Parker mang khối tiền dưới dạng lông thú chất thành chiếc giường. Đây mới là lần thứ hai tôi để cho chuyện này xảy ra với mình; lần thứ nhất là trong mùa đông đầu tiên của tôi ở đây, và lúc ấy tôi lĩnh hội bài học của mình. Trong vài tuần qua, có vẻ như tôi quên nhiều thứ. Trong mọi việc. Parker chà xát hai bàn tay tôi với tuyết. Cảm giác ở các ngón tay len lỏi trở lại, và các ngón tay tôi bắt đầu nóng bỏng. “Thế Stewart ở đây - ông ta biết về các tấm lông thú.” Parker gật đầu. “Tôi lo mình dùng súng được.” Parker làu bàu: “Có lẽ cần thiết.” “Có thể là tốt nhất nếu ông lấy cả hai. Tôi có thể...” Đáng lẽ tôi phải là đôi mắt thứ hai cho ông. Trông chừng cho ông. Bảo vệ ông. Bây giờ tôi làm được ngay cả việc này. “Tôi rất tiếc. Tôi giúp gì được.” Tôi kiềm nén tiếng cười cay đắng. Đấy có vẻ như là phải phép. “Tôi vui vì bà ở đây.” Tôi thể nhìn thấy vẻ mặt của ông - nếu tôi nhìn thẳng đến ông những ánh lóe sáng lấp đầy thị lực của tôi; tôi chỉ có thể nhìn thấy ông qua khóe mắt. Ông vui vì tôi ở đây. “Bà tìm ra Nepapanees.” Tôi rút hai bàn tay lại: “Cảm ơn ông. Bây giờ tôi tự làm được.” “, khoan .” Parker mở hàng cúc của áo ông. Ông nắm lấy bàn tay trái của tôi và đưa vào bên trong, nơi cánh tay phải của ông nối với thân người ông, rồi giữ bàn tay tôi làn da ấm của ông. Tôi đưa bàn tay phải của mình vào bên kia, và thế là chúng tôi khóa nhau như thế, cách nhau cánh tay, mặt đối mặt. Tôi tựa mái đầu mình lên ngực ông, bởi vì tôi muốn ông nhìn vào mặt mình với đôi mắt đỏ ràn rụa. Nhìn vào đôi má nóng bỏng. Nhìn vào nụ cười. Với vành tai ép vào khoảnh da trần, tôi có thể nghe quả tim Parker đập. Nhịp đập nhanh ? Hai bàn tay cháy bỏng, hồi sinh trở lại với làn da ấm áp mà tôi chưa từng thấy. Parker đẩy tấm da chồn bạc dưới đầu tôi; chiếc gối mềm dịu và mát mẻ trị giá trăm đồng guinea. Sức nặng của cánh tay ông đặt lên lưng tôi. lúc sau, khi tôi xê dịch chút, tôi thấy ông nắm sợi tóc rụng ra, vặn xoắn thành sợi thừng trong tay ông. Ông vuốt ve nó, cách lơ đãng, như vuốt ve trong hai con chó của ông. Có thể là vậy. Hoặc đúng. Chúng tôi trò chuyện gì cả. có gì cần phải . có thanh gì ngoại trừ tiếng chúng tôi thở và tiếng lửa lách tách. Và nhịp đập đều của quả tim ông. thực lòng, nếu được ban điều ước, tôi ước rằng đêm nay ngừng trôi. Tôi biết mình ích kỷ. Tôi giả vờ khác . Và có lẽ tôi cũng xấu xa. Có vẻ như tôi màng đến những người mất mạng sống, và cũng màng phải chăng điều đó có nghĩa là cuối cùng tôi nằm ở đây như thế này, với đôi môi áp vào làn da ấm, để ông có thể cảm nhận hơi thở của tôi đến và . Tôi đáng được ban điều ước, nhưng rồi, tôi tự dặn lòng, dù đáng hay cũng thế mà thôi. Ở đâu đó ngoài kia, Stewart đến. *** Tôi được đánh thức bởi cái vỗ lên vai mình. Parker ngồi bên tôi, khẩu súng trường tay. Lập tức tôi biết chỉ có hai chúng tôi. Ông trao cho tôi con dao săn: “Cầm lấy cái này. Tôi lấy cả hai khẩu súng, ở trong này và nghe ngóng.” “Họ ở đây phải ?” Ông cần phải trả lời. có tiếng động từ bên ngoài. có gió. Thời tiết tiếp tục trong trẻo, giá lạnh; các vì sao và trăng suôn chiếu ánh mờ nhạt xuống lớp tuyết. có tiếng chim hót. có tiếng động của thú hoặc người. Nhưng họ ở đây. Parker ngồi bên cánh cửa, nhìn qua các khe nứt. Tôi lê bước đến bức tường phía sau cánh cửa, nắm chặt lấy con dao. Tôi thể nào mường tượng ra mình làm gì với con dao này. “ gần sáng. Họ biết ta ở đây.” Tôi luôn ghét chờ đợi. Tôi có thiên bẩm mà các thợ săn đều có, là để thời gian trôi qua mà lo lắng đến mọi động tĩnh. Tôi cố lắng nghe thanh nhất, và bắt đầu nghĩ có lẽ Parker nhầm, vừa lúc ấy vệt đèn quét qua bên ngoài, có vẻ như ngay bức tường của ngôi nhà. Máu dường như chảy chậm lại trong các tĩnh mạch của tôi, và thình lình tôi có cử động vô thức - tôi thề là mình cố ý - rồi lưỡi dao chạm vào bức tường. Bất kỳ ai đó ở ngoài kia cũng nghe tiếng. Bầu khí im ắng càng nặng nề thêm, rồi thanh khẽ nhất của bước chân tuyết, lùi xa dần. Tôi thích xin lỗi lần nữa, nên tôi gì. Rồi có thêm tiếng bước chân, như thể ai đó màng nỗ lực tránh gây tiếng động. Tôi đến mức hơn hơi thở: “Ông thấy gì?” Parker lắc đầu: có gì. Hoặc có ý bảo tôi câm miệng lại. Dù gì tôi cũng phải đồng ý với ông. Sau khoảnh khắc tưởng chừng bất tận - phút? hai mươi phút? - có tiếng : “William? Tôi biết ở đó.” Dĩ nhiên đó là tiếng của Stewart. Bên ngoài, trước ngôi nhà. Phải lúc sau tôi mới nhận ra ông ta với Parker. “William, tôi biết muốn chiếm lông thú. Nhưng đó là tài sản Công ty, và tôi phải mang trả lại cho chủ nhân hợp pháp. biết điều đó.” Parker thoáng nhìn qua tôi. “Tôi có người ở đây.” Stewart nghe tự tin, lo lắng. Nhàm chán. “Chuyện gì xảy ra với Nepapanees? ấy biết chuyện về Laurent phải ?” Im lặng. Tôi ước gì Parker ra chuyện ấy. Nếu Stewart biết được chúng tôi tìm ra nấm mồ, ông ta để cho chúng tôi sống. Rồi tiếng lại cất lên: “ quá tham lam. muốn chiếm lông thú làm của riêng. định giết tôi.” “ bắn ta từ sau lưng.” Tôi tin chắc mình nghe tiếng thở dài, như thể Stewart còn nhẫn nại được nữa. “Tai nạn vẫn thường xảy ra. biết điều đó, William. phải là... cố ý. Tôi muốn ra.” Bây giờ là khoảng thời gian ngắt quãng dài. Tôi thấy Parker nắm chặt lấy khẩu súng. Đôi mắt tôi vẫn còn rát bỏng nhưng tôi có thể nhìn thấy. Tôi phải nhìn. Khẩu súng kia được đeo chéo ngang lưng ông. Bầu trời sáng hơn. Bình minh sắp đến. William Parker, ông là tình của tôi. Điều này thúc mạnh vào tôi như con ngựa chứng. Lệ tràn đôi mắt tôi với ý nghĩ ông qua cánh cửa ấy. “Chúng ta có thể thỏa thuận. có thể lấy vài tấm lông thú, rồi ra .” Parker : “Tại sao vào mà chuyện?” “ ra. Trong đó tối quá.” “Đừng ra! Ông biết ông ta có bao nhiêu người.” Hai hàm răng tôi cắn chặt nhau. Tôi cầu nguyện với tất cả những gì còn sót lại của đức tin mà Người có thể dành cho tôi. “Xin đừng...!” Ông rất : “ sao.” Ông nhìn tôi. Bây giờ có đủ ánh sáng để tôi nhìn thấy khuôn mặt ông. Và tôi có thể thấy thân thương khó tả đối với mọi chi tiết của khuôn mặt ông, mọi đường cong mà có lúc tôi nghĩ trông hoang dại và dữ dằn, mọi nếp hằn. “ ra khoảng trống trước. Cho tôi thấy có vũ khí.” “Đừng!” Chính tôi thế, nhưng trong hơi thở. Có tiếng động nào đó bên ngoài, và rồi Parker kéo cánh cửa, bước ra trong vùng tranh tối tranh sáng màu xám. Ông khép lại cánh cửa sau lưng mình. Tôi nhắm nghiền đôi mắt, đợi chờ viên đạn. Viên đạn bay đến. Tôi đến ngồi sau cánh cửa hầu có thể nhìn qua các kẽ nứt. Tôi có thể thấy bóng dáng hẳn phải là Stewart, nhưng thấy Parker ở đâu; có thể ông còn sát gần với ngôi nhà. “Tôi muốn bắn giết. Tôi chỉ muốn mang lông thú trả cho chủ nhân.” Tiếng của Parker phát ra từ đâu đó bên tay phải tôi: “ cần phải giết Laurent. Thậm chí ấy biết lông thú ở đâu.” “Đó là nhầm lẫn. Tôi muốn chuyện đó xảy ra.” “Hai nhầm lẫn hả?” Lại là tiếng của Parker, di chuyển ra xa thêm. Tôi thể thấy phản ứng của Stewart, nhưng tôi cảm nhận được cơn giận dữ trong tiếng của ông ta, giống như cái gì đấy cứng rắn và căng thẳng đến tột cùng: “ muốn gì hả William?” Vừa xong, thình lình Stewart di chuyển, khuất khỏi tầm mắt tôi. tiếng súng nổ vang lên, và ánh sáng lóe ra từ đâu đó trong trảng cây phía sau ông ta, rồi cái gì đó đập thịch vào bức tường ngôi nhà ở góc xa, bên tay phải tôi. còn thanh gì khác. Tôi biết Parker ở đâu. Ánh lóe của thuốc súng đâm vào tròng mắt tôi như cây kim nóng đỏ chích vào bộ não tôi. Tôi thở dồn dập mà kiềm chế được. Tôi muốn kêu đến Parker. Tưởng chừng tôi thở được. Bây giờ có ai trong tầm nhìn. Có tiếng gì đó bên tay trái tôi, rồi tôi nghe tiếng chửi rủa. Stewart. Chửi rủa bởi vì Parker trốn thoát? Những bước chân bên ngoài, rất gần. Tôi nắm chặt cán dao như các ngón tay tê dại có thể nắm được; tôi lấy tư thế bên trong, sẵn sàng... Khi ông ta đá cánh cửa vào, chuyện xảy ra rất đơn giản. Cánh cửa đập vào trán tôi, xô tôi ngã ra, và tôi buông rơi con dao. Trong khoảnh khắc, có chuyện gì khác diễn ra; có lẽ bởi vì đôi mắt ông ta cần lúc để làm quen với bóng tối. Rồi ông ta thấy tôi nằm phục sàn gần chân ông. Tôi mò mẫm tìm con dao; nhờ phép mầu nào đó nó rơi dưới người tôi. Tôi nắm lấy lưỡi dao rồi cho vào trong túi trước khi ông ta nắm lấy cánh tay kia của tôi và thô bạo kéo tôi đứng lên. Rồi ông ta đẩy tôi phía trước ông, ra khỏi cửa. *** Khi Donald nghe tiếng súng, bắt đầu chạy. biết có lẽ đấy phải là việc khôn ngoan nhất, nhưng hiểu sao, có lẽ vì là người cao ráo, mệnh lệnh kịp truyền xuống đôi chân. nhận ra Alec thầm lời gì đó phía sau lưng mình, nhưng nghe được cậu bé gì. tiến gần đầu cuối của hồ nước; thanh phát ra từ trảng cây ở bờ bên kia. tiếp tục suy nghĩ: họ đúng. Họ đúng - và bây giờ Nửa Người giết họ. biết mình là hình bóng cực kỳ ngu xuẩn và có thể được nhận thấy ràng băng, nhưng cũng biết Stewart bắn mình. Có thể đạt đến cách giải quyết đơn giản nào đó; họ có thể chuyện với nhau, giống như hai người đàn ông biết lẽ phải, đều là nhân viên của Công ty lớn lao. Stewart là người biết lẽ phải. “Stewart!” vừa chạy vừa kêu lên. “Stewart! Stewart!” biết phải gì khác. nghĩ đến Bà Ross - có lẽ chảy máu cho tới chết. Và cứu được bà. Lúc chạy gần đến trảng cây phía dưới mô đất lớn, có động đậy gì đó phía trước. Dấu hiệu đầu tiên của sống mà thấy. “Xin đừng bắn. Tôi đây, Moody... Đừng bắn...” Tay nắm nòng súng, vẫy qua vẫy lại để cho thấy có ý ôn hòa. Có ánh sáng lóe ra từ dưới tán cây, và cái gì đó với sức mạnh ghê gớm đập vào mạn sườn , đánh ngã bật ra sau. Cành cây, hoặc bất cứ cái gì khác vấp phải, dường như đập mạnh ngay vết sẹo của , càng gây tồi tệ hơn. cố đứng dậy nhưng đứng nổi, nên đành nằm lúc, cố lấy lại hơi thở. Đôi kính của rơi ra, ràng thích hợp cho Canada, luôn đông giá hoặc bốc hơi nước vào thời điểm thích hợp, và bây giờ... lần mò chung quanh trong lớp tuyết, nơi đâu cũng chỉ chạm phải cái lạnh. Chắc hẳn ai đó có thể nghĩ đến cái gì khác tiện lợi hơn. Cuối cùng tìm được khẩu súng trường và nhấc lên. Đến lúc này, vì lẽ báng súng trơn và ấm, nhận ra máu. Cố sức ngẩng đầu lên, thấy máu áo choàng của mình. thấy bực dọc; ra là giận dữ. quá ngu xuẩn mà xông vào chốn rắc rối như thế. Bây giờ Alec cũng bị nguy hiểm, và đó hoàn toàn do lỗi của . nghĩ đến việc kêu cậu bé, nhưng cái gì đó, ý thức hay hơn từ nơi nào đó, ngăn chặn . chú mục vào việc đưa khẩu súng vào đúng vị trí; ít nhất có thể bắn phát, còn hơn là ngã lăn quay mà chết kịp kêu rên. phải hoàn toàn vô dụng; cha như thế nào? Nhưng chỉ toàn im ắng, như thể, lần nữa, là người duy nhất trong vòng vài dặm chung quanh đây. phải chờ đợi cho đến khi nhìn ra được cái gì đó. À, người bắn phát đạn, cho dù đó là ai, hiển nhiên nghĩ đến việc phải bước ra mà kết thúc công việc. Khùng. Thế rồi, đến lúc nào đó, nhìn lên và thấy khuôn mặt phía mình. Đấy là khuôn mặt nhận ra ngay ở Nhà Hanover; khuôn mặt của người say xỉn, cảm xúc và trống rỗng, có phần khép kín, như tảng đá lấp miệng hang. Bây giờ khuôn mặt còn say, nhưng ra vẻ hiếu kỳ hay sợ hãi, thậm chí tỏ ra là người chiến thắng. nhận ra đó là khuôn mặt của kẻ giết Laurent Jammet. Người có dấu chân dẫn tất cả họ đến đây. Đấy là lý do đến đây - để nhận biết , để truy lùng . đạt mục đích. Và quá muộn. Donald nghĩ mình hành động quá chậm chạp, như cha . Và với hơi nóng tràn lên đôi mắt, nghĩ, than ôi, nghe tiếng người cha bây giờ trách móc . Donald bắt đầu nghĩ đưa khẩu súng ngắm bắn khuôn mặt là ý tưởng hay, nhưng khi nghĩ ra khuôn mặt biến mất, và khẩu súng của cũng rời . quá mệt mỏi. Mệt và lạnh. Có lẽ nên đặt mái đầu trở lại nền tuyết mềm; nghỉ ngơi lúc. *** Bên ngoài ngôi nhà gỗ, tôi thấy ai, ngay cả Stewart, người nắm lấy cánh tay trái của tôi vặn xoắn sau lưng tôi chặt đến nỗi tôi chỉ có thể thở vì sợ bả vai mình trật ra khỏi hốc xương. có dấu hiệu, ít nhất, của Parker nằm bị thương, hay tồi tệ hơn, trong lớp tuyết. có dấu hiệu của Nửa Người, nếu đúng là người ấy. Stewart vung vẩy khẩu súng phía trước. Tôi là lá chắn cho ông ta. Có động đậy nào đó, nhưng tất cả đều là phía sau ngôi nhà; thanh - kết luận được, ông đẩy tôi về đầu cuối bức tường, nơi mặt trời bắt đầu đốt chân trời. Dĩ nhiên là tôi có tấm khăn quàng để che đôi mắt. Và hai bàn tay tôi mang găng. Như thể đọc được tâm tư tôi, Stewart : “Bất cẩn. Và đôi mắt của bà nữa. Đáng lẽ ông ta nên dẫn bà tới đây.” Ông nghe có phần thất vọng. Tôi qua đôi hàm răng mím chặt: “Ông ấy dẫn tôi. Khi ông cho người giết Jammet, ông dẫn tôi tới đây.” “ vậy sao? Này, này, tôi nghĩ ra. Tôi nghĩ bà và Parker...” Đau lòng mà ra, nhưng nó cứ tuôn ra khỏi tôi; người tôi tan chảy vì giận dữ: “Ông biết ông làm cho bao nhiêu người đau khổ. chỉ là những người ông giết, mà còn…” Ông cách bình thản: “Câm miệng.” Ông lắng nghe. tiếng rắc cây. Xa hơn về phía tay trái của tôi, tiếng rắc kinh hồn - tiếng súng trường. Tiếng nổ nghe khác với tiếng khi nãy. “Parker!” Tôi kiềm chế được. Chỉ tích tắc sau tôi có thể cắn đứt lưỡi mình; tôi muốn ông nghĩ đó là tiếng kêu cầu cứu mà chạy đến. “Tôi ổn.” Tôi thét lên trong hơi thở kế tiếp. “Xin đừng bắn. Ông ấy thỏa hiệp. Chúng tôi . Xin để cho chúng tôi , làm ơn...” “Câm miệng.” Stewart lấy tay bịt miệng tôi, nén chặt đến nỗi tôi tưởng chừng các ngón tay ông ta bóp vỡ hàm tôi. Chúng tôi di chuyển giống như sinh vật bốn chân vụng về nào đó, tiến về đầu cuối ngôi nhà, nhưng lại có bóng người nào. tiếng súng khác - ở bên tay trái tôi, bây giờ xa khỏi ngôi nhà. Và sau đó, lần này, tiếng động. Tiếng người kêu rên. Tôi há hốc miệng, hơi thở nén lại trong cổ họng như hắc ín. Stewart la thét trong thứ ngôn ngữ kỳ lạ. mệnh lệnh? câu hỏi? Nửa Người lắng nghe hay , nhưng vẫn trả lời. Stewart lại la lên, giọng căng ra, đầu lắc lư tới lui, như chính mình chắc chắn. Tôi tự nhủ mình, bây giờ tôi phải hành động; bây giờ trong khi ông ta chắc chắn, ông ta buông miệng tôi ra để có thể nhắm khẩu súng tay. Tôi nắm lấy con dao trong túi, mò mẫm cho đến khi cán dao nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Tôi bắt đầu từ từ rút con dao ra. Và rồi tiếng phát ra từ đâu đó trong trảng cây, nhưng chắc chắn đó phải là tiếng của Nửa Người. giọng trẻ trung đáp lại, trong cùng ngôn ngữ. Stewart hoang mang; ông ta nhận ra giọng . Đó phải là phần trong kế hoạch của ông ta. Tôi vung con dao ngang người tôi và đâm vào hông ông ta, cố hết sức mạnh. Mặc dù trong phút cuối ông ta nhận biết chuyện gì xảy ra và né người, lưỡi dao gặp sức kháng cự, và ông ta thét lên vì đau đớn. Tôi thoáng nhìn khuôn mặt ông ta, và ánh mắt ông ta bắt lấy ánh mắt tôi - xấu hổ, xanh hơn cả bầu trời; nhưng dường như ông cười nửa miệng, ngay cả khi ông vung khẩu súng về phía tôi. Tôi chạy. tiếng súng khác khiến cho tôi đinh tai nhức óc, ở đâu đó rất gần, nhưng tôi cảm thấy gì hết. *** Alec nhìn Donald chạy qua mặt hồ đóng băng, mặc cho nó la lên rồi chửi rủa. Cậu bé la cho dừng lại, nhưng dừng. Alec cảm thấy nỗi sợ hãi ghê gớm tràn ngập, e rằng mình nôn mửa, nên nó quay mặt . Rồi nó tự nhủ mình phải là trẻ con nữa; nó phải làm như cha nó đáng lẽ phải làm, và nó chạy theo . Alec còn cách đến trăm mét tia sáng lóe ra - sau này nó thề mình chẳng nghe thấy gì cả - và Donald ngã xuống. Alec nhào xuống bụi lau sậy đâm lên qua lớp băng. Nó cầm khẩu súng của George lên đạn chĩa ra phía trước, cắn răng trong cơn giận dữ lẫn sợ hãi. Họ nên bắn Donald. tỏ ra tử tế với mẹ nó. Donald kể cho nó nghe về hai người dì xinh đẹp, thông minh, sống gần hồ nước rộng như biển. Donald làm hại ai. Hơi thở của nó rít qua hai hàm răng; thanh quá to. Mắt nó đảo vòng trảng cây - bọn họ có lợi thế được che chắn - rồi đứng dậy và chạy, gần bật khóc, lom khom; ngã chổng lớp tuyết rồi bò lên gò đất để quan sát. Nó đến gần gốc cây đầu tiên; có lẽ họ chưa thấy nó. Phía trước, thêm tiếng súng trường, rồi im ắng. Nó thấy ánh sáng lóe. Khẩu súng ấy nhắm bắn nó. Nó phóng từ gốc cây này qua gốc cây khác, dừng lại, nhìn sang phải và trái, mọi nơi. Tiếng nó thở như là tiếng nấc; thanh hẳn làm lộ vị trí. Nó nghĩ đến những người khác - người phụ nữ da trắng và người đàn ông cao lớn - để có thêm can đảm. Khẩu súng nặng hơn khẩu nó thường sử dụng, nòng dài hơn. Đó là khẩu súng tốt, nhưng nó ít được tập bắn. Nó biết phải tiến gần hơn mới có cơ hội. Nó rón rén tìm đường đến nơi xuất phát tiếng nổ. Bên tay phải nó là mỏm đá xen kẽ giữa dòng chảy suôn sẻ của hồ nước; phía trước, giữa các gốc cây, nó nhìn thấy ngôi nhà. Tiến đến gần hơn, nó nhìn ra hai bóng người bên trong - người đàn ông giết cha nó giấu mình phía sau người phụ nữ da trắng. “Họ biết mình ở đây,” nó tự nhủ, để tỏ ra can đảm thêm. Tiếng của Stewart, trong ngôn ngữ Cree: “Nửa Người? Chuyện gì vậy?” Im lặng. “Nửa Người? Trả lời tôi - nếu được.” có tiếng trả lời. Alec tiến gần hơn từ gốc cây này qua gốc cây kia, cho đến khi nó chỉ còn cách xa khoảng mười lăm mét, người nó được thân cây vân sam che chắn. Nó nâng khẩu súng lên và ngắm. Nó ước gì tiến đến gần hơn, nhưng dám. Stewart kêu lên, sốt ruột, nhưng Nửa Người trả lời ông ta. Và thế là Alec trả lời, từ chỗ nó nấp, trong ngôn ngữ của cha nó: “Kẻ sát nhân, người của ông chết rồi.” Stewart xoay người, tìm kiếm nó, và rồi chuyện gì khác xảy ra: người phụ nữ lao vào ông ta rồi chạy ; Stewart phát ra tiếng rú như chó sói, và chĩa khẩu súng đến mục tiêu duy nhất mà ông ta thấy được - bà ấy. Alec nín thở; nó chỉ có cơ hội để cứu bà, họ ở khá gần. Nó bóp cò; có tiếng kích và màn khói bao phủ cả nòng súng. phát. Chỉ có phát. Nó bước về phía trước, thận trọng phòng trường hợp Nửa Người núp đâu đó, chờ đợi. Khi làn khói tan , khoảnh đất phía trước ngôi nhà gỗ dường như trống . Nó nạp đạn lại và chờ đợi, rồi phóng đến chỗ núp gần nhất. Stewart nằm khoảnh đất trống, tay chân xoãi ra, với cánh tay vắt ngang đầu như thể muốn với lấy món gì đó. bên mặt ông ta mất . Alec khuỵu xuống và nôn mửa. Đó là nơi mà Parker và người phụ nữ tìm thấy nó. *** Tôi nhõm khi thấy Parker phía sau ngôi nhà gỗ đến nỗi tôi vòng tay ôm lấy ông chốc, mà nghĩ ngợi gì. Có áp lực phải trả lời ngắn gọn nhất và, cho dù vẻ mặt ông thay đổi, tiếng của ông lại thô kệch: “Bà ổn chứ?” Tôi gật đầu. “Stewart...” Tôi liếc nhìn ra phía sau, và ông vòng qua góc nhà, nhìn quanh quất. Rồi ông bước ra; có mối hiểm nguy gì. Tôi theo ông, và thấy thân người giữa khoảnh đất trống. Đó là Stewart - tôi nhận ra chiếc áo choàng nâu; còn gì khác để nhận ra nữa. Cách đó ít bước, đứa bé trai quỳ gối tuyết như pho tượng. Tôi nghĩ mình hoa mắt, và rồi tôi nhận ra đứa con trai đầu lòng của Elizabeth Bird. Nó nhìn lên chúng tôi, chỉ tiếng: “Donald.” Chúng tôi tìm thấy Moody vẫn còn sống, nhưng thoi thóp dần. bị bắn vào bụng, chảy máu quá nhiều. Tôi xé ra mảnh váy để băng vết thương, và tạo chiếc gối kê đầu , nhưng thể làm gì khác với viên đạn còn nằm trong . Tôi quỳ xuống bên và chà xát bàn tay lạnh giá. “ Moody, ổn thôi. Chúng tôi hạ được bọn họ. Chúng tôi biết được , Stewart bắn Nepapanees từ sau lưng và chôn ấy trong rừng.” “Bà Ross...” “Suỵt. Đừng lo. Chúng tôi chăm sóc cho .” “Rất vui bà được... ổn.” mỉm cười cách yếu ớt, ngay cả bây giờ vẫn cố tỏ ra lịch . “Donald... ổn.” Tôi cố mỉm cười, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra là chỉ lớn hơn Francis ít tuổi, và tôi chưa bao giờ tử tế với . “Parker pha trà cho uống, và... chúng tôi mang về thương điếm; chúng tôi chăm sóc . Tôi chăm sóc ...” “Bà thay đổi,” trách móc tôi, mà tôi nghĩ đấy là hiển nhiên, vì tóc tôi rũ ra, mắt tôi rơi lệ, và trán tôi sưng lên. Thình lình nắm lấy bàn tay tôi với sức mạnh đáng ngạc nhiên: “Tôi muốn bà làm cho tôi việc...” “Vâng?” “Tôi phát ... điều khác thường.” Hơi thở ngắn cách khủng khiếp. Đôi mắt , mang kính, xám và xa xăm, mơ màng. Tôi nhận ra cặp kính nền đất gần chân mình, và nhặt lên. “Đây...” Tôi cố mang kính cho , nhưng khẽ nghiêng đầu: “ kính... tốt hơn.” “Được rồi. phát ... điều gì?” “Điều khác thường.” mỉm cười , hạnh phúc. “Gì cơ? Ý Stewart và lông thú?” nhíu mày, ngạc nhiên. Giọng dần, như thể rời xa : “Ý tôi phải thế. Tôi... .” Tôi cúi xuống gần thêm và gần thêm nữa, cho đến khi tai tôi kề sát miệng . *** Các ngôn từ dần. Bà Ross ngồi bên , người đong đưa như cây sậy trong gió. Donald thể ra bà thay đổi như thế nào - khuôn mặt của bà, cho dù bị mái tóc che khuất phân nửa, tỏ ra hiền dịu hơn; và đôi mắt bà long lanh, màu lóe sáng như ánh nước, như thể đôi đồng tử thu hẳn lại. cố kiềm chế lên cái tên “Maria”. nghĩ, có lẽ biết hay hơn. Rằng có nỗi dằn vặt của mất mát, của nỗi tiếc nuối, của điều khả dĩ bị lịm tắt, luôn làm cho tâm tư vướng bận. Nhưng bây giờ, trước mặt của Donald đường hầm mở ra, đường hầm dài vô tận, và đấy giống như nhìn từ đầu kia của kính viễn vọng, qua đó mọi vật thể đều li ti nhưng sắc nét. đường hầm của những năm tháng. nhìn lên với nỗi kinh ngạc: qua đường hầm nhìn ra cuộc đời mình trải qua cùng Maria: đám cưới của hai người, con cái của hai người, những cuộc cãi cọ giữa hai người, những bất đồng vụn vặt giữa hai người. Những tranh cãi về nghiệp của . Việc di chuyển đến thành phố. Cảm nhận về da thịt của . Cách thức dùng ngón tay cái mình để xóa vết nhăn trán . Cách trách móc . Nụ cười của . mỉm cười lại với , nhớ lại cách xé ra tấm khăn choàng để quấn quanh vết thương của trong trận đấu bóng bầu dục, vào ngày hai người gặp nhau lần đầu tiên, nhiều năm trước. Máu vương khăn choàng , gắn kết hai người với nhau. Cuộc sống kêu vù vù trước mặt như cỗ bài được phân ra rồi nhập lại trong hai bàn tay của người chia bài, mỗi hình ảnh sáng rực và hoàn thiện theo từng chi tiết. có thể thấy mình khi già , và Maria, cũng già , vẫn còn đầy năng lực. Tranh cãi, viết lách, đọc giữa các hàng chữ, và chốt lại nội dung. có tiếc nuối. cuộc đời xem ra tồi tệ. Maria Knox bao giờ biết được cuộc sống mà có thể trải qua, nhưng Donald biết. biết, và vui. Bà Ross nhìn xuống , khuôn mặt bà trong màn sương, sáng chói và ẩm ướt, đẹp đẽ. Bà gần mà cũng xa. Dường như bà hỏi điều gì đó, nhưng vì lý do gì thể nghe bà được nữa Nhưng mọi việc đều sáng tỏ. Và thế là Donald ra tên của Maria, hoặc bất kỳ điều gì khác. *** Công việc tồi tệ nhất là dẫn Alec xem thi hài cha nó. Nó nài nỉ chúng tôi mang thi hài về Nhà Hanover, cùng với Donald, và an táng họ ở đây. Còn Stewart, chúng tôi quyết định chôn ông ta vào nấm mồ cạn mà ông ta tự đào lấy. Có vẻ như thế là công bằng. Nửa Người bị thương nặng vì viên đạn của Parker, nhưng khi chúng tôi trở lại ngôi nhà gỗ ta bỏ . Dấu vết của ta dẫn về hướng bắc, và Parker theo đoạn đường, rồi quay lại. ta bị bắn vào cổ và có lẽ sống được lâu. Về hướng bắc của hồ nước chẳng có gì cả ngoại trừ tuyết và băng. “Để chó sói lo cho ta,” là câu của Parker. Chúng tôi quấn Donald và Nepapanees trong các tấm lông thú - Alec tìm tấm da nai cho cha nó, có vẻ như đấy là việc quan trọng đối với nó. Còn Donald, chúng tôi quấn trong các tấm lông chồn và chồn marten; mềm mại và ấm áp. Parker gói các tấm da có giá trị nhất rồi chất lên xe trượt tuyết. Jammet có đứa con trai: các tấm lông thú ấy là cho nó, cùng Elizabeth và gia đình của . Còn những tấm lông kia, tôi đoán Parker quay lại ngày nào đó để mang . Tôi hỏi. Ông . Chúng tôi làm tất cả công việc này trong buổi chiều hôm ấy. Và bây giờ chúng tôi quay lại Nhà Hanover. Hai con chó kéo chiếc xe trượt tuyết với hai thi hài đó. Alec kế bên. Parker lèo lái hai con chó, và tôi bên cạnh ông. Chúng tôi theo dấu chân của chúng tôi trong chặng , và dấu chân của những người theo chúng tôi, in sâu trong lớp tuyết. Tôi thấy rằng mình học được, mà tôi nhận ra, cách xác định dấu vết. Thường khi tôi thấy dấu chân mà tôi biết đó là dấu chân của mình, và tôi bước lên đó, để xóa nó . Xứ sở này được ghi bằng những dấu như thế; những vết mảnh mai trong nỗi khát khao của con người. Nhưng những dấu chân này - giống như con đường mòn cay đắng - mong manh, bị mùa đông bào mòn, và khi tuyết lại rơi hoặc khi tuyết tan vào đầu xuân, tất cả dấu vết chúng tôi qua đều biến mất. Dù thế, ba trong số những dấu vết này tồn tại lâu hơn người tạo ra chúng. Lúc nhớ ra để tìm kiếm tôi mới biết mình đánh mất tấm thẻ xương. Khi tôi rời Nhà Hanover nó vẫn còn trong túi tôi, nhưng bây giờ nó thất lạc. Tôi với Parker về chuyện này, và ông nhún vai. Ông , nếu nó có tầm quan trọng nó được tìm lại. Dù tôi cảm thấy tiếc cho Ông Sturrock tội nghiệp, người có vẻ khát khao có được nó, tôi lấy làm vui mình có món gì mà người khác ham muốn. Hình như những vật như thế chẳng cho điều gì tốt lành cả. Dĩ nhiên là tôi vẫn nghĩ đến Parker, và mơ thấy ông trong giấc ngủ. Và tôi cũng biết điều này: ông nghĩ đến tôi. Nhưng hai chúng tôi là câu đố hóc búa mà có lời giải. Sau khi kinh qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế, chúng tôi thể tiếp tục - nếu thực lòng phải đáng lẽ tôi thể nào làm cuộc hành trình được như thế. Tuy vậy, mỗi khi chúng tôi dừng lại, tôi thể tránh nhìn khuôn mặt ông. Cứ nghĩ đến khi xa ông là tôi thấy như mất thị lực của mình. Tôi nghĩ đến tất cả những gì ông thể với tôi: người xa lạ, người chạy trốn, người dẫn đường. Tình . Đá nam châm. Hướng bắc đích thực của tôi. Tôi quay người đến ông. Ông đưa tôi trở lại Himmelvanger rồi tiếp - quay về bất kỳ nơi nào đó mà ông xuất phát. Tôi ông có kết hôn hay , tôi đoán là có. Tôi bao giờ hỏi, và chẳng bao giờ biết. Tôi hầu như biết gì về ông. Và ông - thậm chí ông biết tên riêng của tôi. Có nhiều chuyện có thể làm cho bạn cười, nếu bạn là người thích cười. lúc sau khi tôi nghĩ đến điều này, Parker quay sang tôi. Alec trước vài bước. “Bà Ross?” Tôi mỉm cười với ông. Như tôi , tôi kiềm chế được. Ông mỉm cười lại theo cách của ông: con dao trong trái tim tôi mà tôi bao giờ lấy ra dù gì chăng nữa. “Bà chưa bao giờ cho tôi biết tên bà.” May là gió quá lạnh, khiến cho nước mắt đóng băng trước khi rơi xuống. Tôi lắc đầu và mỉm cười: “Ông kêu tên này nhiều lần rồi.” Lúc ấy ông nhìn tôi đăm đăm đến nỗi, chỉ trong lần này, tôi là người tránh ánh mắt trước. Rốt cuộc rồi đôi mắt ông có ánh sáng trong đó. Tôi cố nghĩ đến Francis, và Sông Dove. Angus. Những mảng trong cuộc đời mà tôi phải chắp lại với nhau. Tôi cố nghĩ đến Nỗi Chán chường vì Suy tư Cật lực. Và rồi khi Parker trở lại với hai con chó và chiếc xe trượt tuyết, và tiếp tục bước, tôi cũng tiếp tục bước. Bởi vì mỗi chúng tôi có thể làm được việc gì khác?
Giới thiệu tác giả và tác phẩm Tác giả Stef Penney sinh năm 1969 tại Edinburgh, thủ đô nước Scotland, và cũng lớn lên ở thành phố này. Sau khi nhận văn bằng Triết học và Thần học tại Đại học Bristol, miền nam nước , tác giả kinh qua nhiều công việc khác nhau ở quốc và nước ngoài. Tác giả thực ba phim ngắn trước khi theo học ngành Điện ảnh và Truyền hình tại Trường nghệ thuật Boumemouth. Tác giả được mời vào làm việc tại Đài truyền hình Carlton ngay sau khi tốt nghiệp. Tại đây, tác giả viết kịch bản và làm đạo diễn cho hai phim ngắn. Khi viết quyển Hiền Hòa Của Sói, tác giả chưa từng Canada, mà chỉ tìm tòi tư liệu ở thư viện. có ý kiến của chính người Canada cho rằng tác giả trình bày khá trung thực về bối cảnh địa lý cũng như lịch sử-văn hóa. Vì thế, để thưởng thức được trọn vẹn tác phẩm, thiết tưởng cần biết qua bối cảnh địa lý và lịch sử-văn hóa của câu chuyện. Bối cảnh địa lý Câu chuyện xảy ra vào năm 1867, trong vùng sâu vùng xa của miền bắc Canada. Tác giả cho biết đại khái địa điểm chính, Caulfield, nằm bên bờ bắc của Vịnh Georgian. Vịnh này là nhánh lớn nhất của Hồ Huron ( trong năm hồ lớn, còn được gọi là Ngũ Đại Hồ, giữa biên giới Canada và Hoa Kỳ) ở miền đông-nam Tỉnh Ontario, Canada, phía bắc Thành phố Toronto. Các diễn biến của câu chuyện lan đến Sault St Marie, thành phố ở miền nam Tỉnh Ontario của Canada, và thành phố cùng tên ở miền bắc Bang Michigan của Hoa Kỳ. Hai thành phố đối diện nhau qua con sông được quy định là biên giới của hai nước. Con sông này nối Hồ Huron ở phía nam với Hồ Superior ở phía bắc. Có thể ước tính, theo đường chim bay, Caulfield cách Toronto về hướng đông-nam và Sault St Marie về hướng tây cùng khoảng cách dưới 250 kilômét. Nhiều địa danh là do di dân khai phá những vùng đất hoang dã xa xôi theo tên chim thú: Dove River (Sông Bồ câu), Swallow Lake (Hồ Chim sẻ); hoặc ý niệm: Himmelvanger (Cánh đồng của Thiên đường); hoặc hình dạng: Bluff Horsehead (Ghềnh Đầu ngựa), Elbow Ridge (Chỏm Khuỷu tay); hoặc đặc tính: Clear Lake (Hồ Nước trong)... Về địa chất, vùng đất diễn ra câu chuyện nằm Nền đá Canada ( ngữ: Canadian Shield), là vùng rộng có lớp đá kết tinh và cứng, chủ yếu gồm đá hoa cương, nằm dưới lớp đất mỏng có nguồn gốc từ thời cổ đại bị tác động của băng hà. Vùng này có hình móng ngựa chạy vòng quanh Vịnh Hudson, trải rộng ra miền trung tâm và miền đông Canada, chiếm gần phân nửa diện tích cả nước này nay. Nền đá Canada có rất ít đất thích hợp cho nông nghiệp; tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là rừng, khoáng sản và nước mặt. Mùa đông nơi diễn ra câu chuyện kéo dài 6 tháng: từ tháng Mười đến hết tháng Tư, và tuyết thường rơi 4 tháng: từ tháng Mười Hai đến hết tháng Ba. Lúc bầu trời sẫm màu, người ta thường thấy tượng cực quang. Đó là những vầng mây thường tỏa lượn với ánh sáng nhiều màu thay đổi liên tục hai vùng Bắc Cực và Nam Cực. Cực quang hình thành khi vật chất và năng lượng từ Mặt Trời phóng tới, phản ứng với bầu khí quyển Trái Đất, và thường xảy ra ở hai Cực vì các phần tử vật chất tạo nên cực quang do lực từ trường hút vào hai Cực của Trái Đất. Thời tiết khắc nghiệt nên thực vật và động vật phong phú về chủng loài như vùng nhiệt đới. Các loài cây phổ biến là vân sam, cây gỗ lớn thuộc họ cây thông, lá kim, thường xanh, mọc nhiều trong vùng ôn đới ở Bắc bán cầu; và tuyết tùng, cũng thuộc họ cây thông, có lá gồm bốn cạnh, mọc ở vùng quá lạnh. Đặc biệt là có địa y, tức là thể cộng sinh giữa loài nấm và loài tảo, tạo thành những mảng nhìn chung hình tròn hoặc hình lá cây, nhìn kỹ hơn trông như mạng những sợi đan kết nhau. Địa y thường diện mặt tảng đá, mặt đất hoặc vỏ cây. Thời tiết cũng tạo tượng độc đáo, như nhựa cây đóng băng: khi nhiệt độ xuống thấp, nhựa cây bị đóng thành băng, thể tích nở ra ép vào lớp vỏ cây, đến lúc lớp vỏ cây bị bung ra tạo thành tiếng nổ thường có cường độ thanh khá lớn. Trong vùng rừng tĩnh lặng tiếng nổ này có thể nghe vang dội như là tiếng súng. Những người mới đến lập nghiệp trải qua thời gian đầu gian khổ khi khai phá đất hoang, thích ứng với thời tiết khắc nghiệt. Họ phải học cách chống chọi với cái lạnh, như sử dụng đá nóng, tức là đá được nung cho nóng, giữ được nhiệt độ lâu, để đặt dưới giường ngủ, ghế ngồi... cho mục đích sưởi ấm. Họ cũng phải sử dụng nhiều loại sản phẩm địa phương xa lạ đối với cuộc sống trước của họ ở quê quán, chẳng hạn bít tết thịt nai sừng tấm (loài nai có cơ thể lớn nhất trong họ nai, cao đến 2 mét, có bộ sừng rộng và dài, sống ở vùng hàn đới Bắc Mỹ); hoặc đường phong (đường được nấu ra từ nhựa cây phong - còn được gọi là cây tích thụ - ở Canada phổ biến hơn là mía hoặc củ cải đường). Các cộng đồng ở cách xa nhau nên khó hỗ trợ đùm bọc cho nhau. Thay vào đó, mỗi cộng đồng sống như là đơn vị kinh tế và hành chính khá khép kín. Giao thông chủ yếu bằng ngựa và xe trượt tuyết; số cộng đồng được nối kết với các thành phố qua các tuyến tàu hơi nước. Cuộc sống trong các cộng đồng tuy đúng là “vùng sâu vùng xa” nhưng đến nỗi vô vị lắm: cư dân có thể mua sắm hàng hóa nhập khẩu từ châu Âu (Công ty Vịnh Hudson bán nhiều mặt hàng họ mang từ quốc qua); hoặc như Maria có thể đặt mua Edinburgh Review, là tạp chí phê bình văn học và chính trị có tiếng tăm, được xuất bản ở Scotland trong thời gian 1802-1929; hoặc gia đình Sault St Marie để xem Hôn lễ của Figaro, là vở nhạc kịch có tựa đề gốc theo tiếng Ý là Le nozze di Figaro, do nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) soạn ra năm 1786. Bối cảnh lịch sử - văn hóa Câu chuyện xảy ra trong buổi giao thời giữa hai thể chế thuộc địa và tự trị của Canada. Trước 1867, Canada là đất thuộc địa của Đế quốc và được chia thành những khu vực hành chính gọi là “thuộc địa”. Bối cảnh của câu chuyện chủ yếu ở Thuộc địa Canada Thượng ( ngữ: Upper Canada), là vùng nằm dọc phía bắc Ngũ Đại Hồ, dân cư đa số tiếng , là phần phía nam Tỉnh Ontario bây giờ. Cần phân biệt với Thuộc địa Canada Hạ ( ngữ: Lower Canada), nằm về phía đông-bắc của Canada Thượng, dân cư đa số tiếng Pháp, là phần phía đông Tỉnh Québec bây giờ. Năm 1867, vì e ngại bành trướng của người Mỹ, bốn thuộc địa được thống nhất thành Lãnh thổ Tự trị Canada ( ngữ: Dominion of Canada), trong đó có Ontario và Québec liên quan đến địa lý của câu chuyện. Riêng “Đất của Rupert” vẫn do Công ty Vịnh Hudson quản lý (xem dưới đây), tức là vẫn thuộc trực tiếp Đế quốc . Những thay đổi chính trị sâu xa dẫn đến nước Canada độc lập tiên khởi năm 1867 - cũng là năm xảy ra án mạng trong câu chuyện - được số cư dân Caulfield nắm bắt, chẳng hạn ông Knox và con Maria hay bàn cãi về các nhân vật chính trị đương thời của Canada. Trong thời gian này, Canada tiếp nhận nhiều làn sóng di dân. Sau chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775-1783) dẫn đến việc thành lập nước Hoa Kỳ, số lớn cư dân trung thành với quốc chạy sang định cư ở Canada, dẫn đến việc thành lập số thuộc địa mới, như Ontario. Khoảng triệu người Ireland di cư đến Bắc Mỹ để trốn tránh nạn đói khoai tây xảy ra trong giai đoạn 1845-1850, khi Ireland bị mất mùa khoai tây khiến cho gần triệu người chết vì thiếu ăn. số người khác là phạm nhân, được điều Canada để cung ứng nguồn lao động. Nhiều người từ các nước châu Âu khác nhau cũng đổ xô đến. Di dân có nguồn gốc khác nhau mang theo tôn giáo của họ. Như người chủ yếu là tín đồ Cơ đốc, còn nhiều người Bắc Âu là tín đồ Lutheran. Đây là chủ thuyết thần học phát sinh từ Martin Luther (1483-1546), nhà thần học người Đức. Chủ thuyết Lutheran, dần dà phát triển thành giáo hội, đả kích suy đồi của Thiên chúa giáo thời Trung cổ. Ví dụ, Luther cho rằng Thượng đế, chứ phải giáo hội, có thể tha thứ cho tội lỗi của con người. Chủ thuyết Lutheran làm lung lay thống trị của Thiên chúa giáo ở Châu Âu và mở đường cho phát triển của giáo hội Tin Lành. di dân từ châu Âu chung và việc thành lập thuộc địa của và Pháp khỏi gây ra chiến tranh. Trong giai đoạn 1689-1763 có nhiều cuộc chiến tranh ở Bắc Mỹ. Trong thế kỷ mười bảy, người da trắng định cư gây chiến tranh khi xâm lấn vào đất đai của các sắc tộc bản địa. Trong thế kỷ mười tám chiến tranh là giữa các thuộc địa của chống lại các đế quốc Pháp và Tây Ban Nha. Trong giai đoạn 1812-1815 là chiến tranh giữa Hoa Kỳ ( giành độc lập) và Đế quốc . Trong bối cảnh lịch sử ở đây, tác giả nhắc đến Chủ nghĩa Bành trướng. Cụm từ này chỉ cụ thể chủ nghĩa của ai hoặc nước nào, diễn ra trong thời kỳ nào. Riêng người Mỹ tìm cách bành trướng lên Canada trong cuộc chiến với quốc (1812-1815), và sau đó cũng muốn bành trướng xuống Mexico, kết quả là người Mỹ thu được nhiều đất đai giờ là các bang California, Nevada, Utah, Arizona, Texas, và New Mexico. Số dân Canada thời này chỉ khoảng hơn 1,5 triệu, trong đó số dân bản địa khoảng 300.000 người. Dân bản địa gồm có nhiều các sắc tộc sinh sống lâu đời ở Canada và Mỹ trước khi người da trắng từ Châu Âu di cư đến, và họ thường được gọi theo từ ngữ thông dụng là “người Da Đỏ”. Những sắc tộc bản địa được nhắc đến trong sách này gồm có: * Chippewa: thuộc ngữ hệ Algonquin, sống quanh miền đông Ngũ Đại Hồ đến miền nam Canada, trong thời kỳ thuộc địa là trong những sắc tộc đông dân và hùng mạnh nhất Bắc Mỹ, nay số dân chỉ còn đến 200.000 kể cả người mang phần dòng máu da trắng. * Cree: sắc tộc bản địa Bắc Mỹ, thuộc ngữ hệ Algonquin, sống chủ yếu ở Canada, có số dân khoảng 80.000 người. * Huron: thuộc nhóm Iroquois, khởi đầu sống quanh các hồ Huron, Erie, và Ontario thuộc Ngũ Đại Hồ, vào thời cực thịnh trong thế kỷ 17 có số dân lên đến khoảng 30.000 người, sau đó giảm sút nhiều do dịch bệnh, nay chỉ còn lại vài trăm người chủ yếu sống ở hai tỉnh Québec và Ontario của Canada, và bang Oklahoma của Mỹ. * Iroquois: nhóm những sắc tộc bản địa Bắc Mỹ thuộc ngữ hệ Iroquois, vào thế kỷ 16 tạo nên Liên minh Năm Dân tộc được gọi tắt là “Năm Dân tộc” ( ngữ: Five Nations); nay có số dân tổng cộng 100.000 người kể cả người mang phần dòng máu da trắng; sắc tộc Mohawk nằm trong nhóm này. “Iroquois” có nghĩa là rắn chuông; và rắn chuông gồm khoảng 30 loài rắn khá phổ biến ở Mỹ, nọc rất độc, có thân màu nâu nhạt cùng những đốm nâu sậm, đuôi có những khoanh sừng khi bị đe dọa tạo thành tiếng sột soạt ( phải như tiếng chuông) nhằm xua đuổi kẻ thù mà phải uổng phí nọc độc. * Mohawk: sắc tộc bản địa Bắc Mỹ thuộc ngữ hệ Iroquois, về phe với trong cuộc Cách mạng Mỹ (1775-1783), sau khi Mỹ thắng nhiều người bỏ trốn sang Canada, có số dân ở Mỹ và Canada tổng cộng 30.000 người kể cả người mang phần dòng máu da trắng. * Pennacook: thuộc ngữ hệ Algonquin, vào đầu thế kỷ 17 sống ở vùng đông-bắc nước Mỹ. Trong các cuộc chiến giữa quốc và Pháp ở Mỹ, ban đầu họ theo phe rồi sau đó ngã sang Pháp. Sau khi số dân bị suy giảm vì chiến tranh và bệnh đậu mùa, họ di cư đến Canada và miền Viễn Tây nước Mỹ, * Pict: sắc tộc thiểu số sống ở miền trung và nam Scotland và vùng bắc Ireland, có vóc người thấp, nước da ngăm đen. Trong giai đoạn này, hai bên di dân da trắng và cư dân bản địa còn xa lạ nhau, lại thêm khác biệt lớn về tập tục, tư tưởng, ngôn ngữ... Chẳng hạn, quyển sách đến tình tiết thú vị: thói quen của người phương Tây là, sau đêm, hỏi thăm nhau ngủ ngon . Trong cảm nghĩ của người bản địa câu hỏi này xem ra ngớ ngẩn: ngủ ngủ rồi, có đáng gì mà phải thêm? Ngoài nhiều khác biệt, ý thức về bình đẳng chủng tộc chưa cao nên tránh khỏi những mâu thuẫn giữa người da trắng và người bản địa. Có tượng lạ lùng trong thời kỳ này: người bản địa hay bắt cóc con của người da trắng về nuôi, mà lại nuôi nấng tử tế! Trước đó, truyện ngắn của nhà văn O. Henry (1862-1910) cũng đề cập đến tượng này. Nhưng ở đây, quyển sách kể ra khía cạnh mới: em bé da trắng lạc, được người bản địa mang về nuôi nấng, lớn lên, lấy chồng là người bản địa, khi người cha đến tìm từ chối theo cha trở về xã hội người da trắng. Theo mặt tích cực khác, người da trắng học hỏi được nhiều từ người bản địa. Ví dụ nổi bật là giày da đanh ( ngữ: moccasin), tức loại giày làm bằng da thú, cả đế giày và hai thành bên liền lạc nhau bằng miếng da duy nhất, được may nối lại ở phần . Đế giày mềm và dẻo, dễ thích ứng với địa hình miền rừng núi. Khởi thủy đây là loại giày của dân bản địa Bắc Mỹ, về sau nhiều người da trắng làm nghề đặt bẫy, săn bắn, vận chuyển hàng hóa... cũng thích sử dụng. Di dân cũng phải biết làm giày tuyết, gồm những cành cây hoặc sợi vỏ cây bện lại rồi đan nhau thành đế giày rộng trông giống như mặt chiếc vợt để chơi quần vợt, nhằm giúp bàn chân lún xuống lớp tuyết. Hoặc, để chống chọi với cái lạnh, ngay cả Donald đến từ Scotland cũng phải học từ người bản địa cách cứu chữa hai bàn tay bầm tím vì lạnh nghe có vẻ nghịch lý: chà xát hai bàn tay trong thau đựng tuyết. Chi tiết này làm ta nhớ lại rằng khi Vua Karl XII (1682-171 của Thụy Điển dẫn quân đánh Nga, người thuộc sắc tộc địa phương Cossack chỉ cho ông cách chống chọi với cái lạnh của mùa đông nước Nga bằng cách chà tuyết lên mặt. Phụ nữ bản địa đóng vai trò cầu nối quan trọng giữa cư dân bản địa và người nhập cư. Phụ nữ bản địa là công nhân khuân vác đắc lực trong vùng hoang dã, nhất là vào mùa đông. Họ may vá quần áo và chế tạo giày da đanh từ da thú cũng giỏi hơn người da trắng, giúp di dân mới dễ thích ứng với khí hậu địa phương và phải mua quần áo hoặc giày nhập từ châu Âu. Nhờ những đóng góp lao động và kỹ năng như thế, phụ nữ bản địa tạo nhiều thuận lợi và thu nhập cho người da trắng khi khai phá, trao đổi và buôn bán trong vùng đất mới. Khi phụ nữ bản địa kết hôn với đàn ông da trắng, họ giúp giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp giữa hai sắc dân. Công ty Vịnh Hudson Quyển Hiền Hòa Của Sói đề cập nhiều đến Công ty Vịnh Hudson. Đó là Công ty do Charles II (1630-1685), Vua nước , Scotland và Ireland, ra quyết định cho phép thành lập vào năm 1670, trao độc quyền khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên miền đất, còn được gọi là “Đất của Rupert”, theo tên Hoàng tử Rupert (1619-1682), trong những sáng lập viên của Công ty. Miền đất này rộng khoảng 3,9 triệu km2 (hơn phần ba diện tích cả nước Canada bây giờ), là lưu vực của các con sông chảy vào Vịnh Hudson - vịnh lớn ở phía bắc Tỉnh Ontario. Điều này cho thấy vị thế của Công ty rộng lớn đến thế nào về các mặt kinh tế và xã hội. Triều đình thể cử đủ nhân lực để quản lý vùng đất bao la. Vì thế, quốc cũng trao cho Công ty Vịnh Hudson quyền thiết lập và hành xử luật lệ, xây pháo đài, duy trì tàu chiến, thậm chí in giấy bạc riêng và có quyền tuyên chiến hoặc dàn hòa với dân bản địa. Tóm lại, Công ty có nhiều quyền hành cai trị thay mặt cho triều đình . Chính vì thế mà trong truyện này, khi có vụ án mạng xảy ra Công ty cử nhân viên (thậm chí kế toán viên!) đến điều tra, và có lời đồn rằng Công ty cũng có sát thủ để thi hành án, tức là giết kẻ sát nhân, khi cần thiết! Trong lĩnh vực tư pháp, Công ty có quyền bắt giam và thẩm vấn nghi can, thường với hỗ trợ của quan tòa. Đây là những người am hiểu pháp luật, phụ trách những công tác tư pháp ở cấp thấp như cho phép khám xét nhà, ra lệnh tạm giam, chủ trì các phiên điều trần giữa các bên tranh chấp để quyết định có cần đưa lên tòa án cấp cao hơn xét xử hay , ra bản án phạt tiền hoặc tù giam đối với tội , thường có vai trò hòa giải các bên trước khi đến kiện tụng, (cần phân biệt với thẩm phán, là người xét xử các vụ trọng án.) Công ty Vịnh Hudson, Công ty chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực hàng hải, thu mua da và lông thú để xuất châu Âu (mang về doanh thu quan trọng cho Công ty), khai thác quặng mỏ, nhập khẩu các mặt hàng của vào Canada rồi bán lại... Công ty xây dựng các thương điếm, tức chi nhánh mậu dịch, được gọi giản dị là “Nhà” ( ngữ: “House”), như là Nhà Sydney, Nhà Hanover... Thương điếm lớn có cộng đồng dân cư, nhà nghỉ cho khách vãng lai, cầu cảng cho thương thuyền, hàng quán, bến bãi... Thương điếm chỉ gồm pháo đài được bao bọc bởi bức tường thành, bên trong đặt văn phòng, chỗ ở nhân viên, nhà khách... tất cả tập trung vào khu vực. Ngoài ra, Công ty còn thiết lập nhiều trạm tiền tiêu, đặt rải rác trong vùng hoang dã xa xôi để nhân viên Công ty thu mua lông thú, nghỉ chân, chứa hàng hậu cần… Vào thời này, số pháo đài được Công ty xây và trang bị đại bác, để bảo vệ những địa điểm trọng yếu, thường kết hợp với thị trấn chung quanh và thương điếm. nay, pháo đài có vai trò quân như trước, mà thường được bảo tồn làm di tích lịch sử, điểm tham quan... Công ty Vịnh Hudson được điều hành trực tiếp từ quốc, nên những người sinh trưởng hoặc định cư lâu năm ở Canada xem Công ty thể quyền lực của “nước ngoài”, tức là phần nào có ác cảm. Lại thêm tình trạng độc quyền khiến cho số cá nhân hành nghề tự do trong việc đặt bẫy thú rừng và buôn bán lông thú bất mãn, nên họ lập công ty để cạnh tranh. Lẽ tự nhiên là Công ty Vịnh Hudson phản ứng lại: họ muốn chia sẻ lợi nhuận, viện dẫn pháp luật qua việc triều đình quốc trao cho họ độc quyền. Vì nhiều người chống đối Công ty thuộc nhóm tiếng Pháp, vô hình trung cuộc tranh chấp giữa Công ty và người hành nghề tự do biến thành cuộc tranh chấp giữa người tiếng và người tiếng Pháp. Vì thế mà khi người Pháp Laurent Jammet bị giết, có nghi vấn cho rằng Công ty giết . vấn đề khác là Công ty Vịnh Hudson bị phê phán vì mang đạn dược và rượu cung cấp cho người bản địa, cuối cùng người bản địa phải chịu lệ thuộc vào Công ty: phải làm việc hoặc bán sản phẩm theo tiền lương và giá cả do Công ty áp đặt, và khó ra sách khi quyền lợi của họ bị thiệt thòi. Ngược lại, Công ty cho rằng họ làm thế để đảm bảo người bản địa tỏ ra thân thiện mà gây hấn phương hại đến các hoạt động của Công ty, và cũng tạo công ăn việc làm sòng phẳng cho người bản địa chứ áp bức họ. Tóm lại, vị thế quan trọng và bao quát của Công ty Vịnh Hudson cùng những mâu thuẫn giữa Công ty và người ngoài Công ty tạo nên phần bối cảnh cho câu chuyện. Tác phẩm Quyển Hiền Hòa Của Sói nằm trong danh sách đề cử Giải Orange cho tiểu thuyết hay nhất. Đây là trong những giải thưởng văn học danh giá nhất nước , hàng năm được trao tặng cho tiểu thuyết của tác giả nữ của bất kỳ quốc tịch nào, được viết bằng văn và được xuất bản ở quốc. Quyển Hiền Hòa Của Sói đoạt giải Theakston’s Crime Awards 2008 cho thể loại Tiểu thuyết của năm. Đây là giải thưởng của văn học dành cho sách hình . Quan trọng nhất, quyển Hiền Hòa Của Sói đoạt Giải Costa năm 2006 (được công bố năm 2007) cho Tiểu thuyết đầu tay và Sách trong năm. Giải thưởng (trước năm 2006 có tên là Giải Whitbread) được trao tặng cho tác phẩm của những tác giả cư ngụ ở hoặc Ireland, gồm có năm thể loại: Tiểu thuyết đầu tay, Tiểu thuyết, Tiểu sử, Sách cho trẻ em, và Thơ. trong các tác phẩm đoạt 5 giải này được chọn để nhận giải Sách trong năm. Giải thường được trao dựa theo tiêu chí có giá trị văn học cũng như tính hấp dẫn đối với độc giả, nhằm truyền bá thú vui đọc sách đến với quần chúng. Vì thế, Giải Costa có tính gần gũi với công chúng hơn là Giải Booker. Cuốn sách được Ban giám khảo Giải Costa đánh giá là “những trang viết rất chân thực”, dù nhà văn chưa từng đặt chân đến Canada. Giám khảo thể loại Tiểu thuyết đầu tay phát biểu: “Quyển Hiền Hòa Của Sói nổi bật trong số các sách rất hay được đề cử. Chúng tôi bị tràn ngập bởi quang cảnh phủ tuyết và bị cuốn hút với văn phong hoa mỹ và cách kể chuyện tự nhiên chứ cần nỗ lực. Đấy là câu chuyện về tình , hồi hộp và tính chất đẹp đẽ.” Tại lễ trao giải, Trưởng ban giám khảo Armando Iannucci cho biết: “Chỉ trong 50 trang sách đầu tiên, tôi hoàn toàn thích tác phẩm. Đây chỉ là tác phẩm đầu tay xuất sắc mà còn là quyển truyện phi thường.” Người dịch trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc “quyển truyện phi thường” này. Người dịch Mùa mưa 2009 [1] Canis lupus: là tên khoa học của loài chó sói lông xám. [2] Strychnine: chất độc được trích từ cây mã tiền, thường được dùng làm bả chuột, dùng với liều lượng đúng mức trong y khoa là thuốc gây kích thích và thuốc bổ. [3] Doc: tiếng thân mật để gọi bác sĩ, như cách người Việt gọi “đốc tờ”. [4] Coppermine: tên thị trấn miền bắc Canada, bên bờ vịnh chảy ra Bắc Băng Dương. [5] Dân Cao nguyên Scotland: Ở miền bắc Scotland, khác biệt với người miền trung du Scotland qua văn hóa và ngôn ngữ, có đầu óc tự hào. [6] Đứa trẻ thay thế: Trong thần thoại hay truyện cổ tích phương Tây, là đứa trẻ được thay thế cho đứa trẻ khác bị bà tiên mang . [7] Người hướng đạo: người Da Đỏ có năng khiếu đặc biệt định hướng đường trong rừng, theo dấu chân người và thú... nên thường được người da trắng thuê dẫn đường. Câu hỏi ở đây có ý khinh rẻ, vì Knox thấy Jacob là người Da Đỏ nên cho rằng này có tài năng đặc biệt gì khác. [8] Giữ đầu óc rộng mở: ý nên xét qua mọi tình huống, bỏ sót chi tiết nào. [9] Xác chết mềm: thời gian sau khi qua đời các bắp cơ của xác chết trở nên xơ cứng, sau đó mềm trở lại như lúc còn sống. [10] Đảng Cải cách và Đảng Tự do: hai trong số ba đảng lớn ở Canada thời bấy giờ, đảng thứ ba là Đảng Bảo thủ. [11] Tupper: Sir Charles Tupper (1821-1915), thủ tướng thứ sáu của Canada chỉ trong hai tháng năm 1896. [12] George Brown (1818-1880): nhà báo và chính khách người Canada, thành lập và làm tổng biên tập tờ báo nổi tiếng Globe, nghị viên liên bang Canada, thượng nghị sĩ. [13] Niagara: thác hùng vĩ nằm giữa miền tây Bang New York của Mỹ và miền đông-nam tỉnh Ontario của Canada, là phần của biên giới Mỹ-Canada, thu hút nhiều khách du lịch. [14] Heights of Abraham: Đỉnh núi Abraham, thắng cảnh du lịch ở Matlock Bath, Derbyshire, quốc, gồm những hang động và quặng mỏ cho du khách tham quan, có tuyến cáp treo. [15] Rhu: tên thân mật của Bà Ross. [16] Edinburgh: thủ đô của nước Scotland. [17] Guinea: đồng tiền vàng vào thời này, có giá trị hơn 1 bảng chút ít. [18] Chồn marten: tên chỉ chung số loài chồn thuộc chi Martes, có thân thuôn dài, chân ngắn, bộ lông rất được ưa chuộng. [19] Monsieur: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa là “Ông” gọi theo cách trịnh trọng. [20] Kitchener: thị trấn phía tây-nam thành phố Toronto, Canada. [21] Laudanum: loại thuốc giảm đau được chiết xuất từ á phiện, được dùng nhiều trong thế kỷ 19. [22] Shelley: Mary Shelley (1797-1851), nhà văn người , tác giả truyện giả tưởng nổi tiếng Frankenstein, là con người được tạo ra bởi những cơ quan lấy từ xác chết của người, vì có hình thù dị dạng nên bị xem là quái vật, bị kinh tởm và ghét bỏ. Bà Ross gọi là “ Shelley” vì Shelley viết nên truyện này khi mới 20 tuổi. [23] Những từ này khi được dịch ra Việt ngữ có gì khó hiểu, nhưng trong nguyên bản là các từ xa lạ của ngữ: “limpid”, “termagant”, “intimated”. [24] Việt quất: loại cây bụi thường mọc dại nhưng cũng được trồng nhiều nơi, có quả tròn, , vị ngọt màu đen hay xanh lam. [25] Êtes-vous Français?: Pháp văn trong nguyên bản, có nghĩa. “ có phải là người Pháp ?” [26] biết tên : người thuật là Francis, có tên theo tiếng Pháp là “Français” ngỡ người đàn ông đến tên mình. [27] Enk-lish: cách viết trong sách nguyên bản để diễn tả cách phát sai của nhân vật; đúng ra là “English” (người ). [28] Lazarus: tên nhân vật trong Kinh Thánh, sau khi chết được Jesus cứu cho sống lại. Do điển tích này, từ “Lazarus” chỉ việc hồi sinh sau cái chết. [29] Mộng đuôi én: đường ghép giữa hai thanh gỗ, thanh được cắt lõm vào từng đoạn có hình đuôi con chim én, thanh kia được cắt lõm tương tự nhưng có hình dạng nhô ra thụt vào đối nghịch, để khi lắp ghép vào đoạn thụt vào thanh gỗ này ăn khớp với đoạn nhô ra thanh gỗ kia. [30] St. Lawrance: tên theo Pháp văn là Saint-Laurent, sông dài 1.300 kilômét ở miền đông-bắc Canada, từ Hồ Ontario chảy ra Đại Tây Dương. [31] Nhà máy: theo nghĩa thông thường của từ trong nguyên bản là “Factory”, vì thế mà nghe kỳ quặc. ra, từ “factory” ở đây có nghĩa đặc biệt là thương điếm, liên quan đến từ “factor” có nghĩa quản trị viên, tức người đại diện của Công ty Vịnh Hudson để phụ trách việc thu mua lông thú. [32] Donnie: tên gọi thân mật trong gia đình của Donald. [33] Ấn-Âu: bao gồm các nhóm chủng tộc Albany, Armenia, Baltic, Celtic, Đức, Hy Lạp, Iran, Ý, và Slav (Nga, Belarus, Ukraina, Ba Lan, Séc, Slovak, Slovenská, Serb-Croatia, Macedonia, và Bulgaria). [34] số người phương Tây đặt tên con trai giống như tên cha hoặc tên ông nội, cho đó là cách vinh danh người trước, trong khi đối với người Việt là điều cấm kỵ. Để phân biệt, tên người con có tên giống cha thêm chữ “Jr.” (con) theo sau, nếu cháu nội cũng trùng tên thêm chữ “3rd” (thứ ba) theo sau. [35] Vẩy nến: hoặc ecpet mảng tròn ( ngữ: ringworm): theo y khoa phương Tây, bệnh gây ra do nấm, tạo những mảng tròn phồng rộp da. Vùng da nhiễm bệnh thường có màu đỏ, tròn, phẳng, và tróc vẩy. [36] Lọ bẹt: loại lọ , thường làm bằng thiếc, dẹp và hơi cong, có thể cho vào túi áo. [37] Puddenhead Wilson: tựa quyển truyện của nhà văn Mark Twain (1835-1910). [38] Hồ ngâm mình: hồ nước do con suối mở rộng ra, thường có đủ chiều dài hoặc chiều sâu để bơi lội, chỉ thích hợp để ngâm mình. [39] Trường Chủ Nhật: loại hình trường học của giáo dân Cơ đốc và Do Thái giáo để truyền bá giáo lý cho trẻ em, thường mở vào ngày Chủ Nhật, chủ yếu qua những sinh hoạt tập thể, văn nghệ… “Thiên thần Trường Chủ Nhật” ở đây có ý thiên thần do trẻ em Trường Chủ Nhật thủ vai trong các vở kịch truyền bá giáo lý. [40] Hay: họ của Bà Ross khi còn độc thân. [41] Ophelia: nhân vật nữ chính trong vở kịch Hamlet của Shakespeare, bị giằng xé giữa bên là tình , bên là lòng thù hận. [42] Nấm trifle: cách viết thông dụng hơn là “truffle”: nấm hương củ có mùi thơm đặc biệt, mọc hoang trong lòng đất gần cây sồi hay cây dẻ ở châu Âu, nhưng rất hiếm, giá rất cao, thường được sử dụng với lượng ít như là gia vị, để làm tăng hương vị các món thịt hầm, bánh ngọt... [43] Tử thần: sách nguyên bản ghi là banshee, trong thần thoại Ireland là nữ thần làm nhiệm vụ liên lạc từ thế giới bên kia, báo trước cái chết của người trần gian, thường lảng vảng quanh nhà có người sắp chết. [44] Gỗ hồng chèn hàm răng: Bà Ross nhắc đến lúc ở trong bệnh viện tâm thần, khi bệnh nhân lên cơn co giật hoặc run rẩy y tá dùng miếng gỗ nhét vào giữa hai hàm răng, có tác dụng tránh gây thương tích trong miệng, và cũng trấn an tinh thần bệnh nhân. [45] Kingston: thành phố ở miền đông-nam tỉnh Ontario, Canada, bên bờ Hồ Ontario. [46] Perth: thị trấn ở tỉnh Ontario, Canada, cách thủ đô Ottawa 70 km về hướng tây-nam. [47] Kincardine: thị trấn ở tỉnh Ontario, Canada, nằm bên bờ đông của Hồ Hurort. [48] Babylon: thành phố cổ vĩ đại nằm vùng sa mạc ở Iraq nay, cách Baghdad 90 km về phía nam, vào thời cực thịnh thể nền văn minh xuất chúng. [49] Chữ viết hình nêm: loại chữ viết gồm những nét giống cái nêm, thường được người cổ đại vùng Tây Á khắc đất sét, đá, kim loại, sáp… Các bản viết đầu tiên có niên đại khoảng 3000 TCN. [50] Chữ viết tượng hình: loại chữ viết sử dụng những biểu tượng để chỉ vật thể (như người, chim chóc, cây cối, mặt trời, mặt trăng, nhà và cửa) hoặc ý tưởng (như đếm số, chuyển động, thời gian, vui buồn). Ví dụ: chữ viết Ai Cập cổ đại bắt đầu từ khoảng năm 3300 TCN, và chữ Hán còn được dùng đến ngày nay. [51] Sanskrit: ngôn ngữ cổ, được sử dụng trong tôn giáo (như kinh Phật) và thơ văn ở Ấn Độ, nay vẫn được các giới đạo sĩ và học giả Ấn Độ sử dụng. [52] Aramaic: ngôn ngữ liên hệ mật thiết đến tiếng Do Thái, được sử dụng từ trước năm 1000 TCN rồi dần dà trở thành ngôn ngữ thông dụng ở vùng Trung Đông. Jesus giảng đạo bằng Aramaic, và Kinh Cựu ước cũng được viết theo Aramaic. nay số dân ở Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ… vẫn còn sử dụng Aramaic. [53] Tasmania: hòn đảo lớn ở miền nam nước Úc. [54] Salut, François: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa “Chào, François”, François là biến thể theo tiếng Pháp của Francis. [55] Quel visage: tiếng Pháp trong nguyên bản, câu nhận xét chung chung có nghĩa “Quả là khuôn mặt”. [56] Mon ami: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa “bạn thân của tôi”. [57] Thánh Francis: Thánh Francis của Assisi (1182-1226): gốc người Ý, khoảng năm 1208 lập nên Dòng tu Phanxicô, năm 1228 được phong thánh. Ông có lòng thương đối với loài vật, hay gọi các con thú là “ em”. Ông đặc biệt mến chim chóc, và khoảng năm 1220 viết nên “Bài giảng đạo cho chim chóc”. Năm 1980, Giáo hoàng John Paul II phong ông là thánh bổn mạng của các nhà sinh thái học. [58] Bản đá Rosetta: bản đá hoa cương của Ai Cập cổ đại, vào năm 196 TCN được khắc nhiều dòng chữ bí , đến năm 1799 được quân đội Pháp dưới quyền Napoléon Bonapartre tìm ra. Vì bản văn được khắc theo ba ngữ văn khác nhau: Hy Lạp, chữ tượng hình. Ai Cập và chữ thông dụng, các học giả có thể diễn giải ý nghĩa của hai ngữ văn sau bằng cách so sách với ngữ văn Hy Lạp, từ đó mở ra môn Ai Cập học đại. giờ Bản đá Roseyta được lưu giữ tại Viện Bảo tàng , London. [59] Ma nữ: trong nguyên bản là “vargamor”, theo truyền thuyết Bắc Âu là phụ nữ sống cùng đàn chó sói, có ma thuật mê hoặc đàn ông để làm mồi cho chó sói và do đó kiểm soát được đàn sói. [60] Nửa Người: theo nghĩa đen trong nguyên bản: “Half Man”, biệt hiệu chứ phải tên người. [61] P’tit ami: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “ bạn thân ”. [62] Mon Dieu: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa: “Trời ơi!” [63] François - Françoise: trong tiếng Pháp, François là tên của phái nam, còn Françoise là tên của phái nữ. [64] Cử chỉ tình tứ: tác giả so sánh với việc người đàn ông phương Tây khi cầu hôn thường quỳ xuống đầu gối trước mặt người . Hết