Donald thức dậy khi ánh sáng ban ngày chiếu bên ngoài cửa sổ. Trong lúc, nhớ ra mình ở đâu, và rồi việc quay về: điểm cuối của những dấu chân. Thời gian nghỉ ngơi sau chuyến như là trong địa ngục. Mỗi cen-ti-mét của cơ thể nhức nhối như thể bị dần cho trận nên thân. Trời đất!... có phải đêm qua thực ngất - lịm tắt như ngọn đèn trước gió? Người phụ nữ ấy chăm sóc chân ... nhấc cái chân ra khỏi tấm chăn và thấy nó được băng lại mới, thế ấy là người chứ phải trong giấc mộng. có cởi quần áo ? nhớ gì nhưng cảm thấy xấu hổ. Chắc chắn là bị lột hết quần áo. Vết thương của được bôi thuốc mỡ và băng lại. lần mò quanh giường cho đến khi tìm được cặp kính. Khi mang kính, cảm thấy bình tĩnh lại, có thể kiểm soát việc khá hơn. Bên trong: căn phòng , nhiều đồ nội thất, tương tự như nhà khách của Pháo đài Edgar. Bên ngoài: hoang vắng, tuyết rơi, nhưng chẳng bao lâu rơi lại. cố ngồi dậy, nhặt lấy bộ quần áo được xếp ngay ngắn chiếc ghế. tròng quần áo vào, cử động xơ cứng như ông già. Quả là kỳ lạ (và cũng là may mắn) sau khi đến đây, bây giờ lại cảm thấy tồi tệ hơn. lê bước ra hành lang, dò dẫm qua hai khoảnh sân mà vẫn chưa thấy bóng người. Đây là thương điếm Công ty kỳ lạ nhất; có cảnh rộn ràng như quen ở Pháo đài Edgar. tự hỏi Stewart ở đâu, thứ kỷ luật nào ông duy trì. Chiếc đồng hồ đeo tay của ngưng chạy, nên biết bây giờ là mấy giờ, sáng sớm hay gần trưa. Cuối cùng, cánh cửa mở ra ở cuối hành lang, và Nesbit xuất , đóng sầm cánh cửa sau lưng. ta cạo râu, đôi mắt sâu, nhưng ăn mặc đàng hoàng. “À, Moody! Tôi mong nghỉ khỏe. cảm thấy, à... chân thế nào?” “Khá hơn nhiều. ... Elizabeth băng bó cho tôi, rất tử tế. Tôi e mình vì quá mệt nên chưa cám ơn ấy.” “ ăn sáng. Bây giờ họ hẳn đốt lửa và làm món gì đó. Có Trời mới biết được khó khăn lắm mới sai bảo được tụi nó làm việc trong mùa đông. có những vấn đề này ở chỗ ?” “Pháo đài Edgar hả?” “Vâng. Ở đâu vậy?” Donald ngạc nhiên vì ta biết: “Bên Vịnh Georgian.” “ là văn minh. Tôi mơ được điều chỗ nào đó gần… à, nơi người ta sinh sống. Nếu so ra hẳn thấy chúng tôi rất nghèo.” Nesbit dẫn Donald đến căn phòng họ mới đến hôm qua, nhưng bây giờ lò sưởi được đốt, bàn ghế được mang đến từ đâu đó; Donald có thể thấy vết kéo lê trong lớp bụi sàn nhà. Việc chăm sóc nhà cửa ở đây phải là ưu tiên. chắc việc gì là ưu tiên. “Bà Ross và Ông Parker ở đâu đây chứ?” Khi Nesbit bước đến cánh cửa, Bà Ross bước vào. Bà làm được gì đó đối với bộ trang phục để trông đàng hoàng hơn; mái tóc vén khéo. Dường như vẻ e dè mà nhận ra sau cơn bão tuyết còn. “ Moody.” “Tuyệt vời! Bà ở đây... Còn Ông Parker?” “Tôi .” Bà nhìn xuống; và Nesbit ra ngoài, gọi người phụ nữ Da Đỏ. Bà Ross nhanh nhẹn bước đến Donald, nét mặt căng thẳng: “Ta cần bàn bạc trước khi Nesbit quay lại. Tối qua, tôi bảo ấy rằng ta tìm con trai tôi bỏ nhà ra , phải tìm kẻ sát nhân. Ta nên đánh động họ.” Donald há hốc vì kinh ngạc: “Bà thân , tôi ước gì bà bàn với tôi trước khi đặt điều sai ...” “ có thời giờ. Đừng gì khác kẻo ấy nghi ngờ. Tốt nhất cho ta nếu họ nghi gì, đồng ý ?” Đôi môi bà mím chặt, đôi mắt đanh lại như đá. “Ngộ nhỡ...?” dừng lại tiếng thầm khi Nesbit bước vào, theo sau là Norah với chiếc khay. Hai người mỉm cười với Nesbit, và Donald cảm thấy hiển nhiên là hai người thầm lén lút với nhau. Nếu may mắn, Nesbit đoán rằng bí mật của họ là vì chuyện lãng mạn... đỏ bừng vì ý nghĩ này. Có lẽ bị sốt. Khi ngồi xuống, tự nhắc nhở mình về Susannah, với ít cố gắng có ý thức. Điều lạ lùng là thời gian gần đây nghĩ đến . Parker đến, và khi mọi người đều ăn bít tết nướng và bánh bắp - Donald ăn như thể bị bỏ đói nhiều ngày - Nesbit giải thích rằng Stewart săn với nhân viên, và xin lỗi vì tiếp đãi thiếu sót. Tuy nhiên ông rất hãnh diện vì thứ: ông cách gay gắt với Norah về loại cà phê mang đến, mang cà phê rồi trở lại với cái bình chứa thứ hoàn toàn khác hẳn. Mùi hương lan tỏa vào phòng trước khi bước vào - mùi hương của hạt cà phê , giống loại nào họ ngửi trong nhiều tuần qua. Khi Donald nếm thử, nhận ra có lẽ trước đây mình chưa bao giờ dùng loại cà phê này. Nesbit ngả người dựa lưng vào thành ghế và cười: “Hạt cà phê từ Nam Mỹ. Tôi mua ở New York khi ngang qua đó. Tôi chỉ xay để pha cho những dịp đặc biệt.” Bà Ross hỏi: “ Nesbit à, ở đây được bao lâu rồi?” “Năm năm sáu tháng. Bà quê ở Edinburgh đúng ?” “Lúc đầu.” Bà cụt ngủn, nghe như lời khiển trách. “Và bà đến từ Perth[46] nếu tôi đoán lầm?” Donald mỉm cười với , mong muốn dàn hòa. Rồi trừng mắt nhìn bà, ý : Nếu muốn gây nghi ngờ bà nên tỏ ra hòa nhã. “Kincardine[47].” khoảnh khắc im lặng. Bà Ross nhìn lại Donald cách lạnh lùng. “Tôi tiếc chúng tôi thể giúp các vị về việc đứa con trai lang thang của Bà Ross. Đấy hẳn là chuyện đáng lo.” “À, vâng.” Donald gật đầu, lúng túng; giỏi giả vờ. Và còn tức bực với bà vì bà giành phần chủ động từ , trong khi lẽ ra phải là người chủ trì trong việc liên quan đến Công ty. cảm thấy hoang mang, biết phải hành xử thế nào. “Thế , nghĩ...” Donald bắt đầu, nhưng ngay lúc ấy có tiếng thình thịch ngoài hành lang, và tiếng la thét bên ngoài. Nesbit thình lình bị đánh động, như con thú, căng thẳng, rồi đứng bật dậy. quay nhìn họ khẽ mỉm cười, dù có vẻ giống như nhăn nhó: “Thưa quý vị, tôi nghĩ có lẽ là Ông Stewart về.” gần như chạy ra khỏi phòng. Donald và những người khác nhìn nhau. Donald cảm thấy bị khinh thường - tại sao Nesbit mời họ, hoặc ít nhất mời , cùng ra ngoài? nhận ra có chuyện gì đó ổn, khiến cho hoang mang. Sau khoảnh khắc im lặng, Donald khẽ lời tạ lỗi, rồi ngập ngừng theo Nesbit ra ngoài sân. Bốn hoặc năm người đàn ông lẫn phụ nữ vây quanh người với xe trượt tuyết và đàn chó vướng víu nhau. Có thêm nhiều người xuất từ nhiều hướng khác nhau; vài người đứng gần các tòa nhà, vài người thẳng đến người mới đến. Donald có thời giờ mà thắc mắc họ từ đâu mà đến; phần lớn bọn họ chưa từng gặp bao giờ, tuy nhận ra người phụ nữ có vóc người cao rửa vết thương chân tối qua. Người mới đến, trông cứng cáp trong bộ áo lông thú, khuôn mặt giấu dưới chiếc mũ trùm đầu bằng lông thú, chuyện với nhóm người, và rồi im lặng bao trùm. Chỉ có Donald còn tiếp tục bước đến phía họ; vài gương mặt quay nhìn trân trối như thể là con người kỳ quặc. dừng lại, hoang mang, và rồi người phụ nữ có vóc người cao, vẫn luôn đứng trong nhóm đầu tiên, thốt lên tiếng rền rĩ dài, thánh thót. đổ gục xuống nền tuyết, tạo ra thanh cao vút nhưng như là thuộc thế giới bên kia, phải là tiếng thét mà cũng phải là tiếng nức nở. ai tỏ thái độ an ủi . người đàn ông xuất mở lời quở trách Stewart, nhưng Stewart nhún vai tỏ ý khinh thường rồi bước về phía các tòa nhà. Nesbit cách gắt gỏng với người đàn ông kia rồi theo sếp của mình. Khi trông thấy Donald, trân trối nhìn rồi trấn tĩnh và ra dấu cho Donald quay vào bên trong. Gương mặt đổi màu giống như nền tuyết bẩn. Khi họ khỏi tầm nghe của nhóm người ngoài sân, Donald thầm: “Chuyện gì xảy ra vậy?” Nesbit mím chặt môi, rồi : “Thực là may. Nepapanees bị tai nạn. Tử vong. Vợ ta ở ngoài kia.” Giọng của nghe giận dữ, như thể suy nghĩ: Bây giờ ra sao? “Ý người đàn bà gục đất... Elizabeth? Chồng ấy chết rồi sao?” Nesbit gật đầu, lẩm bẩm như để cho mình nghe: “Đôi lúc tôi nghĩ chúng tôi bị nguyền rủa.” Rồi thình lình Nesbit quay ngoắt người, chắn lối của Donald dọc hành lang. Tuy nhiên, cố nở nụ cười: “Đây là chuyện may nhất, nhưng... xin quay lại với những người kia nhé? Chúc dùng bữa sáng ngon miệng... Bây giờ tôi cần chuyện với Ông Stewart, trong hoàn cảnh này. Chúng tôi đến với quý vị sau.” Donald thấy mình có cách gì khác hơn là gật đầu, và nhìn Nesbit khuất khỏi góc tòa nhà. còn lẩn quẩn ở hành lang, khó hiểu và hoang mang. Có vẻ gì đó bẩn thỉu trong thái độ của Nesbit và Stewart khi phớt lờ nỗi đau của người khác, như tuồng muốn dính dáng tới chuyện ấy. Thay vì quay vào phòng ăn sáng, trở ra sân, nơi tuyết bắt đầu rơi trong gian thầm sánh đặc, như thể muốn rằng bây giờ là mùa đông, đây phải là chuyện đùa. Những bông tuyết li ti và rơi nhanh, dường như từ mọi hướng bay đến , làm mờ tầm nhìn ở khoảng cách chỉ ít mét. Chỉ có người khóc chồng còn ở nguyên chỗ cũ, thân người lúc lắc tới lui. Những người khác thấy đâu. Donald tức giận với họ vì bỏ mặc cho người phụ nữ ngồi mình. Thậm chí mặc áo lạnh mà chỉ là trang phục trong nhà, để hai cánh tay trần. bước đến . Bây giờ im lặng, mắt mở trừng trừng nhưng nhìn đến đâu cả, bứt tóc bứt tai. nhìn đến . kinh hãi thấy chân lộ trần phía đôi giày da đanh lấm tấm nền tuyết. “Xin lỗi... Bà Bird.” thấy ngượng ngập, nhưng biết gọi theo cách nào khác. “Bà bị lạnh cóng ngoài này. Cho phép tôi giúp bà.” giơ bàn tay ra, hy vọng nắm lấy, nhưng . Những bông tuyết bám vào lông mi và tóc , tan chảy hai cánh tay. màng phủi cho sạch. Khi nhìn , Donald có ấn tượng với khuôn mặt thanh tú, ngoại hình thanh tú, gần giống người . Nhưng mà người có hai dòng máu là thế, giống người da trắng hơn là Da Đỏ. “Xin vui lòng...” đặt bàn tay lên cánh tay , và thình lình tiếng than khóc lại nổi lên. kinh hãi thụt lùi lại; tiếng than khóc kỳ lạ đó nghe như ma quỷ, như thú rừng. mất can đảm. Dù sao chăng nữa, biết gì về hoặc người chồng quá cố của ? có thể gì cho nguôi ngoai nỗi đau? Donald nhìn quanh quất để tìm hỗ trợ hoặc người chứng. thấy bóng người qua lại trong màn tuyết chóng mặt, cho dù qua khung cửa sổ đối diện thấy bóng người lờ mờ, có vẻ như ngắm nhìn. đứng dậy - ngồi xổm - và quyết định tìm người nào khác. Có lẽ người bạn có thể thuyết phục vào bên trong. phủi tuyết khỏi quần mình và xa khỏi khung cửa sổ kia, tuy vẫn quay ngoái lại nhìn người phụ nữ ở đó. Chỉ là hình bóng màu đen bị tuyết che phủ phần, giống như hình người loạn trí trong bức vẽ Nhật Bản. có ý tưởng vui: mang cho loại cà phê đó - đây là việc tối thiểu mà Nesbit có thể làm được. tin chắc uống, nhưng có lẽ vui khi làm thế. *** Line nằm thao thức, vẫn còn mặc nguyên bộ trang phục, nhìn qua khung cửa sổ có màn. Torbin và Anna ngủ say bên cạnh. gì với chúng, vì tin tưởng chúng giữ kín bí mật như thế. Chẳng bao lâu đánh thức chúng rồi ăn mặc cho chúng, làm ra vẻ như đó là cuộc phiêu lưu. Hai đứa trẻ biết gì về kế hoạch của . Chỉ sau khi xa khỏi Himmelvanger, mới cho chúng biết. ước gì mình đến điểm hẹn sớm hơn - mọi người ngủ hơn tiếng đồng hồ rồi. tiếng đồng hồ đường bị uổng phí. cảm thấy nóng cách khó chịu, vì mặc những lớp áo lót dưới hai lớp váy cùng tất cả những chiếc áo sơ mi mặc chồng lên nhau, cho tới lúc hai cánh tay trông như hai thỏi xúc xích được nén chặt. Espen cũng làm thế. Thuận lợi trong mùa đông. liếc qua chiếc đồng hồ lần nữa, quay hai cây kim theo ý mình; chờ đợi được nữa. nghiêng người qua đánh thức hai đứa trẻ: “Nghe này, chúng ta chơi. Nhưng quan trọng là phải giữ im lặng, im lặng. Được chứ?” Anna sật sừ chớp mắt: “Con muốn ngủ.” “Con có thể ngủ sau. Bây giờ chúng ta có cuộc phiêu lưu. Này này, mặc cái này vào, nhanh lên.” “Chúng ta đâu?” Torbin có vẻ phấn khích hơn. “Bên ngoài trời còn tối.” “Gần sáng rồi, xem này - năm giờ. Các con ngủ nhiều tiếng đồng hồ rồi. Chúng ta phải sớm để hôm nay đến đó.” kéo chiếc áo của Anna qua đầu bé. “Con muốn ở lại.” “ được, Anna.” Chỉ mới lên năm tuổi; do đâu mà bé cứng đầu đến thế? “Mặc cái áo này chồng lên cái kia. Trời lạnh. Mặc theo cách này phải mang nhiều.” “Chúng ta đâu?” “Miền Nam. Ở đó ấm hơn.” “Elke được ?” Elke là bạn thân nhất của Torbin và là con của Britta. “Có lẽ sau. Có lẽ vài người khác cũng .” “Con đói bụng.” Anna vui và muốn mọi người biết điều này. Line cho mỗi đứa trẻ chiếc bánh quy do ăn cắp cho dịp này, để mua im lặng của chúng. bắt chúng hứa giữ im lặng, nghe ngóng ở hành lang trong phút rồi kéo chúng theo. đóng lại cánh cửa của căn phòng mà họ cư ngụ trong ba năm qua. Tất cả đều vắng lặng. Chiếc túi nặng nề chứa thực phẩm và ít món vật dụng cá nhân - mà đành bỏ lại - va đập vào lưng . Họ ngang qua khoảnh sân đến chuồng gia súc. Khung cảnh tối đen vì có ánh trăng; vấp ngã và lầu bầu chửi rủa. Torbin há hốc miệng vì ngôn từ dùng, nhưng có thời giờ để lo lắng chuyện này. Line có cảm giác hàng nghìn đôi mắt nhìn sau lưng mình, nỗi sợ hãi khiến nắm chặt lấy tay hai đứa trẻ, cho đến lúc Anna rên rỉ. “Mẹ xin lỗi con . Ta tới rồi, xem kìa.” mở cánh cửa chuồng gia súc. Càng tối hơn nhưng ấm hơn, với thanh của các con ngựa dậm móng xuống cỏ khô. dừng lại, nghe ngóng tiếng . “Espen?” chưa đến, vì họ đến sớm vài phút. mong đừng chính xác giờ giấc quá. Đáng lẽ họ có thể ra từ tiếng đồng hồ trước, mỗi bước càng rời xa khỏi Himmelvanger hơn. để cho hai đứa trẻ ngồi xuống trong chuồng trống. Chỉ vài phút nữa thôi, rồi Espen đến. có đồng hồ, nhưng có thể ước tính thời gian trôi qua với việc các ngón tay và ngón chân bị tê cóng, và các ngón tay có cảm giác như nước đá. Hai đứa trẻ cựa quậy lúc, nhưng bây giờ Anna co mình lại mà thiếp ngủ, còn Torbin ngồi dựa vào mà chập chờn. Ít nhất tiếng đồng hồ trôi qua từ khi họ đến đây, và ai đến. Rồi bắt đầu nghĩ, có lẽ nghĩ đó là hai giờ, có lẽ nhầm. Rồi , với thời khắc trôi qua và vẫn có ai đến, tưởng tượng rằng Merete ngủ được, và rằng đứa bé hoặc cơn bệnh hoặc nguyên do gì đó khiến cho ra được. Có lẽ nằm trằn trọc, chửi rủa và lo lắng cho . Và rồi, có lẽ chẳng bao giờ muốn đến. tính toán điều khả dĩ ảm đạm này. . thể làm cho thất vọng như vậy được. lay cho hai đứa trẻ thức dậy, cách mạnh bạo hơn cần thiết. “Nghe này. Có chậm trễ. Hóa ra chúng ta thể tối nay được. Chúng ta tối mai. Mẹ xin lỗi...” chặn ngang những lời than phiền: “Mẹ xin lỗi, nhưng hoàn cảnh là vậy.” nhớ lại mình câu này khi bảo hai đứa trẻ là cha chúng bao giờ trở về và chúng phải sống ở nơi xa xôi. “ ích gì mà than van. Hoàn cảnh là vậy.” bắt hai đứa trẻ thề thốt phải giữ bí mật - nếu với bất cứ ai về việc này chúng được chơi đâu hết, và vẽ vời hình ảnh ở miền Nam ấm áp khiến cho cả hai mê thích. Hy vọng rằng ngày nào đó ngay cả chúng có thể tới đó. Khi đứng dậy và bắt đầu dẫn hai đứa trẻ quay lại phòng ngủ - ít nhất trời vẫn còn tối - có chuyển động gần cánh cửa. điếng người, và hai đứa trẻ cũng thế, vì bị ảnh hưởng lây từ nỗi sợ hãi của . Rồi có giọng : “Có ai ở đây ?” Trong thoáng - chỉ phần tích tắc tin đó là Espen, và tim nhảy dựng lên. Rồi nhận ra đó phải là giọng của . Họ bị phát . Người đàn ông bước đến ba mẹ con. bất động vì bị sốc. Liệu có thể gì? Trong tích tắc kế tiếp, nhận ra là ta tiếng , phải tiếng Na Uy. Đấy là cái Jacob có hai dòng máu. bị phát , chưa bị. đốt đèn lên, và giơ nó lên cao giữa và . “À, Bà...” Rồi nhận ra là mình biết - hoặc thể phát - tên . “Chào Torbin. Chào Anna.” Line cách xơ cứng: “Tôi xin lỗi nếu quấy rầy . làm gì ở đây? có ngủ trong chuồng gia súc ?” “, sao.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon.” mỉm cười rồi bước qua , và khi hai đứa trẻ phía trước qua khoảnh sân, quay lại: “Xin vui lòng, nhất thiết đừng gì về chuyện này với bất cứ ai. Ai cũng vậy. Tôi van ... nếu đời tôi đáng sống, tôi thể nào hơn nữa. Tôi tin được ?” Jacob tắt chiếc đèn bão, như thế nhận thức được cần thiết phải giữ bí mật. chỉ đơn giản: “Được.” Thậm chí tỏ vẻ hiếu kỳ: “ tin tôi được.” Line giúp hai đứa trẻ thay trang phục và nhìn chúng thiếp ngủ. quá dao động nên ngủ được. đẩy cái túi phía sau chiếc ghế. còn lòng dạ nào mà dỡ túi ra, làm như thế là công nhận thất bại. Đến sáng ném quần áo chung quanh để che giấu cái túi; hy vọng việc này đánh lừa bất cứ ai muốn nhòm ngó. Ôi chao, cần phải đến nơi mà có nhà riêng cho mình. ghét khi có riêng tư; nó chà xát như là sợi dây cương. Lúc ăn sáng, tỏ ra cảnh giác, tạo bộ mặt tỉnh táo và vui vẻ đối với cộng đồng. Thậm chí đến giữa bữa mới nhìn qua Espen, nhưng cúi đầu. nhìn về phía . cố dò xét liệu hoặc Merete có vẻ gì mệt mỏi hay , nhưng khó mà được. Đứa bé của họ khóc; có lẽ nó bị cơn đau bụng quặn. phải chờ cơ hội. Vào buổi chiều, có dịp. đến khi cho đàn gà ăn. Chỉ phút ở đây, cho dù thấy đến. chờ cho lên tiếng. “Line, tiếc. rất tiếc. biết gì với em... Trong nhiều tiếng đồng hồ Merete ngủ được và biết phải làm gì.” bồn chồn, áy náy, mắt nhìn đâu đâu nhưng nhìn đến . Line thở dài: “Được rồi. Em kiếm chuyện giải thích cho hai đứa trẻ. Chúng ta tối nay. giờ.” im lặng. “ đổi ý phải ?” thở dài. thấy mình run rẩy: “Bởi vì nếu đổi ý, em mà có . Em ở lại, rồi em với mọi người là em mang trong bụng đứa con của . Em làm cho xấu hổ trước mặt mọi người. Trước mặt vợ và con cái . Nếu Per đuổi em, em màng. Bọn em lạnh cóng mà chết. Con chết và em chết. Và chịu trách nhiệm. chuẩn bị tinh thần chưa?” Mặt Espen tái xanh: “Line, đừng mấy chuyện đó! là kinh khủng... có ý . Chỉ là khó khăn, vậy thôi. Những gì phải bỏ lại... em phải bỏ lại gì cả.” “ nó ?” “Ai? Merete hả? Em biết mà. em.” “Thế tối nay lúc giờ. Nếu Merete ngủ được, phải tìm cách viện lý do.” lộ vẻ cam chịu. ổn thôi. Chỉ có điều là người đàn ông cần được dẫn dắt, giống như nhiều người khác. Tuy thế, Line biết làm thế nào để thời giờ còn lại qua nhanh. thể ngồi yên. Thấy bồn chồn trong khi hai người may chăn bông, Britta : “Có việc gì vậy, em ? Kiến cắn trong quần hả?” Line chỉ biết cười trừ. Nhưng cuối cùng, dĩ nhiên, cuối cùng cũng tới giờ, và ba mẹ con lại đến chuồng gia súc. Ngay khi đẩy cánh cửa, có thể cảm nhận Espen ở đấy. thào tên trong bóng tối. đáp: “Bọn em đây.” thắp đèn và mỉm cười với hai đứa trẻ. Chúng nhìn với vẻ bẽn lẽn, hồ nghi. “Hai cháu có mong chơi ?” “Tại sao chúng ta vào giữa khuya? Chúng ta trốn hả?” Đó là giọng của Torbin với nhận thức sắc sảo. “ phải. Ta cần khởi hành sớm để được xa trước khi trời lại tối. Đó là cách người ta trong mùa đông.” Line lo lắng, giọng nghe sắc lẻm: “Nhanh lên, được tầm phào nữa. Hai con thấy khi tới nơi.” Espen cột các túi phía sau hai chiếc yên ngựa - chuẩn bị sẵn sàng cho hai con ngựa. Line cảm thấy trào dâng lòng thương đối với hai con vật chắc khỏe, di chuyển từ tốn; chúng làm bất kỳ việc gì được đòi hỏi, quấy rầy hoặc cãi cọ, ngay cả lúc giờ khuya. Họ dắt hai con ngựa ra ngoài, vì có nhiều bùn nên móng ngựa gây ra tiếng động. Cả vùng Himmelvanger có ánh sáng, nhưng họ vẫn dẫn hai con ngựa đến trảng cây cáng lò , tránh xa tầm mắt của các cửa sổ, rồi Espen đỡ hai đứa trẻ và Line lên lưng ngựa và nhảy lên yên phía sau Torbin. Line nắm trong tay chiếc địa bàn ăn cắp được: “Ta bắt đầu về hướng đông-nam.” nhìn lên bầu trời: “Nhìn xem, có những ngôi sao. giúp cho ta. Ta về hướng ngôi sao đó, thấy ?” “Bác định cầu nguyện Thượng đế ban phúc cho chuyến của chúng ta hay sao?” Torbin cựa quậy qua lại để nhìn đến mẹ. Nhiều lúc nó có thể là đứa trẻ mô phạm, luôn muốn tỏ ra đúng đắn, và nó sống ở Himmelvanger qua ba năm, nơi mà người ta ít khi di chuyển mà thiếu cầu nguyện. “Dĩ nhiên rồi. Bác sắp cầu nguyện đây.” Espen kìm dây cương, và cúi đầu xuống. thầm nhanh, như thể đôi tai mộ đạo của Per cách vài dặm có thể nghe được lời cầu nguyện: “Cầu xin Thượng đế, Vua của muôn loài thượng giới và trần gian, nhìn thấy và che chở tất cả, trông nom cho cuộc hành trình của chúng con, dìu dắt chúng con tránh các mối nguy hiểm, và giữ cho chúng con đúng đường. Amen.” Line thúc gót chân vào hông con ngựa. Cái khối đen của Himmelvanger dần phía sau lưng họ. Trời quang đãng nên lạnh hơn. Lạnh hơn nhiều so với đêm hôm trước. Họ ra vừa kịp lúc. *** Từ lúc cha trở về nhà sau đêm bị giam giữ, ông xem dường là con người khác, ông ngồi mình trong phòng đọc sách, đọc sách hoặc viết thư hoặc làm việc gì khác để giúp mình bận bịu, mà bất động nhìn qua khung cửa sổ trong hồi lâu. Maria nhận biết tình trạng này bởi vì nhìn lén qua lỗ khóa, sau khi ông ra lệnh được làm phiền. Bản chất của ông phải là tự mình tách ra khỏi , nên lo lắng. Susannah cũng lo lắng, nhưng vì những lý do khác. Dĩ nhiên là quan ngại cho người cha và hành vi kỳ lạ của ông, nhưng ông vẫn ngồi dùng bữa cùng với gia đình, và cũng tỏ ra vui tươi. Như với chị, hẳn vào lúc này ông thể thi hành các nhiệm vụ của quan tòa, thế ông làm được việc gì khác? , Susannah chỉ tỏ lòng quan ngại đối với Donald. và Jacob ra được ba tuần, lâu lắm, dù cho họ dự định trở về sớm hơn. Maria và Susannah ức đoán về lý do. Câu trả lời hiển nhiên nhất là họ vẫn chưa tìm ra Francis Ross. Nếu con trai kia chết, họ hẳn trở về. Nếu họ tìm thấy gần đâu đó cũng thế. Với đôi mắt mở tròn, gần bật khóc, Susannah hỏi: “Nhưng nếu họ tìm ra Francis và giết họ để trốn lánh công lý sao?” Maria tỏ vẻ khinh thường: “Em thực nghĩ Francis Ross có thể giết Moody và Jacob, khi cả hai người đều được vũ trang hay sao? Hơn nữa, ta hẳn đủ sức. ta cao hơn em. Thực đó là chuyện vô lý nhất mà chị từng nghe.” Bà mẹ trách móc khi ngồi ghế lo việc may vá: “Maria...” Susannah bực bội nhún vai: “Em chỉ nghĩ đến giờ này họ phải gửi tin tức về.” “Họ gửi được nếu có người mang tin.” “Ôi chao, phải như họ ở giữa... Ngoại Mông.” Maria chẳng đặng đừng nhận xét: “Thực ra, Mông Cổ còn có mật độ dân cao hơn Canada nhiều.” “Nếu chị muốn trấn an em ... đừng vậy!” Susannah đứng dậy bước ra khỏi phòng, đóng sầm cửa lại. Bà Knox nhàng: “Đáng lẽ con phải tỏ ra tử tế hơn. Nó lo lắng.” Maria cố kiềm chế cãi lại. Có lẽ cũng lo lắng, nhưng như từ trước đến giờ, mọi người đều quan ngại cho trạng thái tinh thần của Susannah hơn là của . “Thực là có gì phải lo lắng. Ta có thể nhận tin tức bất cứ lúc nào. Con lấy làm ngạc nhiên Công ty cử người tìm họ.” khí trong gia đình ngột ngạt vì người cha ngồi như phỗng đá trong phòng đọc sách, Susannah rơi nước mắt, còn người mẹ im lìm cách kỳ lạ. Maria quyết định phải thoát ra khỏi tất cả. là bứt rứt phần nào vì phản ứng của mình khi bàn về Moody. cũng thắc mắc chuyện gì xảy ra đối với họ, và cầu mong được bình an; tương tự như người ta quan ngại về bất kỳ người bạn nào họ nghe tin tức trong thời gian. Điều này chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng nghĩ đến gương mặt của : tàn nhang đôi gò má, đôi gọng kính xệ thấp sống mũi, và nụ cười khôi hài mỗi khi được hỏi, như thể nghi ngờ khả năng mình trả lời, nhưng vẫn sẵn lòng trả lời. đến cửa hàng với đôi giày ủng và chiếc váy lấm bùn. Bà Scott đứng sau quầy, và chỉ ngẩng đầu trong tích tắc. Khi chào bà, thoáng thấy vết sưng ngả màu vàng gò má trái, hủy hoại nét cân đối của khuôn mặt. Bà Scott - có thời là Rachel Spence - đóng vai trò Đức mẹ Đồng trinh trong ảnh Chúa giáng trần ở trường học. Cư dân lớn tuổi vẫn nhắc cho bà nhớ điều này, nhưng đó là ngày xưa, còn bây giờ họ hay hỏi đến những cố xảy ra mà bà thường xuyên chịu đựng. Ông Sturrock ở trong phòng. Maria ngồi chờ gần bếp lò ở tầng dưới, chắc ông chịu gặp mình, nhưng chỉ phút sau ông xuống. “ Knox. Cơ may nào giúp cho tôi gặp ?” “Ông Sturrock à, tôi e là do nỗi buồn chán.” Ông nhún vai cách tao nhã, hiểu ý nghĩa câu của theo cách khác: “Tôi lấy làm vui, nếu chuyện đó mang tới đây.” Có nét gì đó trong diễn cảm của ông làm cho e dè. Nếu ông là người trẻ tuổi hơn hẳn nghi ông có tình ý với mình. Có lẽ là vậy. nghĩ nếu chỉ có người lớn tuổi hơn cha để ý đến đó là chuyện bình thường. Sturrock gọi cà phê rồi : “ đừng nghĩ tôi thiếu phép tắc nếu tôi mời lên phòng nhé? Chỉ là cái mà tôi muốn cho xem.” “, tôi cho đó là thiếu phép tắc.” Điều kỳ lạ là nghĩ thế, tuy có phần nghi ngại. Phòng ông có mùi mốc, nhưng sạch . Ông thu dọn chồng giấy chiếc bàn gần cửa sổ, và kéo hai chiếc ghế. Maria ngồi xuống, cảm thấy thích chăm sóc của ông. Lúc còn trẻ hẳn ông khá đẹp trai, và ra bây giờ vẫn thế, với mái tóc bạc dầy và đôi mắt xanh lam trong trẻo. cười thầm với chính mình về ý nghĩ ngốc nghếch. Quang cảnh nhìn từ cửa sổ là mặt tiền con đường; vị trí tốt cho người muốn nhìn cảnh qua lại. Chẳng chóng chầy, mọi người sống ở Caulfield đều đến cửa hàng. Ngay cả ngôi nhà của cũng được nhìn thấy thấp thoáng đằng xa, và xa hơn nữa là mặt nước xám lặng lờ dưới trần mây thấp. “ bằng lâu đài, nhưng tôi thấy nó được việc.” “Ông làm việc ở đây hở?” “Theo cách là vậy.” Ông ngồi xuống, trao cho tờ giấy: “ nghĩ gì về cái này?” Maria cầm tờ giấy, trông cũ kỹ, được xé ra từ quyển sổ. Có những đường vẽ bút chì, nhưng thoạt tiên nhìn ra phương hướng dưới ra sao. Có những dấu hiệu có góc cạnh - chủ yếu là những đường theo các cấu hình khác nhau: đa giác, đường song song, đại loại như thế. Chung quanh các dấu này là nét vẽ phác của số hoa văn hình gậy, nhưng có khuôn mẫu ràng. xem xét cách cẩn thận. “Tôi rất tiếc phải làm cho ông thất vọng, nhưng tôi nhìn ra cái gì hết. Đây là bản chép hoàn chỉnh chứ?” “Vâng - theo những gì tôi biết. Nó được chép lại từ mảnh nguyên vẹn, nhưng dĩ nhiên còn có những hình khác.” “Chép lại từ cái gì? Đây phải thuộc về Babylon[48], đúng , mặc dù trông khá giống chữ viết hình nêm[49].” “Đó cũng là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Nhưng thuộc về Babylon, hoặc chữ viết tượng hình[50], hoặc chữ Hy Lạp. Nó cũng phải Sanskrit[51], hoặc Do Thái, hoặc Aramaic[52], hoặc Ả Rập.” Maria mỉm cười; ông về việc đánh đố, và thích việc đánh đố. “Nó phải chữ Hán hoặc chữ Nhật. Tôi biết, tôi nhận ra - các hình thể này... Nó có phải là loại chữ viết ở châu Phi ?” Ông lắc đầu: “Nếu nhận ra tôi rất khâm phục. Đây là cái gì đó mà tôi mang đến các viện bảo tàng và trường đại học để cho các chuyên viên ngôn ngữ xem, nhưng họ đều nhận ra nó là cái gì.” “Và cái gì đó khiến cho ông nghĩ rằng... nó còn hơn là khuôn mẫu trừu tượng, đúng ? Ý tôi là, mấy hình thể này trông như trò trẻ con.” “Đó là bởi vì tôi có kỹ năng sao chép lại cho chính xác. Nguyên bản có khuôn mẫu nhất định. Như , đây chỉ là phần. Nhưng đúng, tôi vẫn nghĩ nó còn hơn là vài nét nguệch ngoạc.” “Ông nét nguệch ngoạc là sao?” “Nguyên bản được cắt thành mảnh xương, và được nhuộm với loại phẩm màu đen nào đó, có lẽ là hỗn hợp bồ hóng. Công việc này rất công phu. Đây là những hình thể xếp đầy chung quanh, theo chuỗi. Tôi nghĩ các dấu hiệu là thứ ngôn ngữ và ghi lại kiện nào đó, và các hình thể minh họa kiện đó.” “ vậy sao? Ông diễn dịch tất cả điều này hở? Nguyên bản ở đâu?” “Ước gì tôi biết được. Người làm chủ nó hứa trao nó cho tôi, nhưng...” Ông nhún vai. Maria nhìn ông chăm chú: “Người đó... có phải là Jammet ?” “ đoán giỏi lắm!” cảm thấy kích xúc với niềm tự mãn: “Thế là nó nằm trong số tài sản của ấy phải ?” “Nó mất rồi.” “Mất rồi? Ý ông là bị đánh cắp chứ gì?” “Tôi biết. Hoặc nó bị đánh cắp, hoặc ấy bán nó hay cho ai đó. Nhưng tôi nghĩ hai việc sau là đúng; ấy giữ nó cho tôi.” “Vì thế... ông chờ Moody mang nó về phải ?” “Có thể là hão huyền, nhưng đúng vậy.” Maria lại nhìn vào tờ giấy: “Ông biết , nó gợi cho tôi nhớ đến cái gì đó... hoặc đúng hơn là các hình thể gợi cho tôi. Nhưng tôi chắc đó là cái gì. Tôi nhớ.” “Nếu cố nhớ ra tôi rất cám ơn.” “Ông Sturrock à, xin đừng bắt tôi phải khổ sở. Nó là cái gì vậy?” “Tôi rất tiếc. Tôi biết.” “Nhưng ông có ý tưởng.” “Đúng. Điều này nghe ra tưởng, nhưng tôi... có - à, tôi nghĩ hy vọng là cách đúng nhất. Tôi hy vọng đây là thứ chữ viết của người Da Đỏ.” “Ý ông ... người Da Đỏ Bắc Mỹ? Nhưng họ có chữ viết - ai cũng biết điều này.” “Có thể xưa kia họ có chữ viết.” Maria suy nghĩ về lời ông . Ông có vẻ hoàn toàn nghiêm túc. “Nguyên bản cũ là như thế nào?” “À - tôi cần phải tìm hiểu.” “Ông biết nó từ đâu ra ?” “, và bây giờ khó mà tìm hiểu.” “Thế ...” tìm cách chọn ngôn từ cho đúng, muốn làm ông phật lòng: “Dĩ nhiên là ông nghĩ nó có thể là vật giả mạo.” “Tôi nghĩ tới điều này. Nhưng thường người ta chỉ làm ra vật giả mạo để kiếm chác. Khi có thị trường cho những vật như thế. Tại sao ai đó lại cất công làm ra vật mà có giá trị?” “Nhưng đó chính là lý do khiến cho ông đến đây, Caulfield, phải ? Thế ông hẳn tin nó phải là vật giả mạo.” Ông mỉm cười, tự chế nhạo mình: “Tôi phải giàu có. Nhưng luôn vẫn có thể - tuy rằng chắc - đó là vật thực.” Maria lại mỉm cười, chắc chắn mình nghĩ gì. Tính hay nghi ngại là rào cản giúp bảo vệ chống lại giễu cợt, và đó là cách thể thái độ kịch liệt phản đối. Nhưng e rằng ông theo con đường sai lầm. “Các hình thể đó... gợi cho tôi nhớ lại những hình vẽ của người Da Đỏ mà tôi từng thấy. Như là lịch, đại loại như vậy, ông biết chứ.” “ thấy thuyết phục.” “Tôi biết. Có lẽ nếu tôi xem qua nguyên bản...” “Dĩ nhiên rồi, cần xem qua. đúng, chính vì thế mà tôi đến đây. Đó là mối quan tâm của tôi: các vụ và lịch sử của người Da Đỏ. Tôi thường viết các bài nghiên cứu. Tôi được tiếng nhờ đó, tuy chỉ là nhoi thôi. Tôi thực lòng tin...” ông ngập ngừng, nhìn ra khung cửa sổ, “… tôi thực lòng tin rằng nếu người Da Đỏ có nền văn hóa chữ viết, người ta đối xử với họ khác .” “Ông có thể đúng.” “Tôi có người bạn, người bạn Da Đỏ, thường đến điều khả dĩ này. thấy , điều này phải là hoàn toàn chưa ai tới.” Nếu Sturrock cảm thấy thất vọng vì phản ứng của ông vẫn để lộ ra. Cảm thấy mình quá khắt khe, đưa tay nắm lấy tờ giấy: “Tôi chép lại được ? Nếu ông cho phép - Tôi có thể mang mà... thử làm việc gì đó.” “Làm việc gì?” “Chữ viết là thứ mã, phải . Và bất kỳ thứ mã nào cũng có cách giải mã.” nhún vai, cho thấy mình có kinh nghiệm trong việc này. Sturrock mỉm cười và đẩy tờ giấy về phía : “Được rồi, cứ tự nhiên. Tôi thử, nhưng thành công.” Maria hề tin rằng mình có thể giúp, nhưng ít ra việc này cũng giúp tâm trí thoát khỏi mấy chuyện chán nản và lo lắng vây phủ mọi bề. ***
Ông ở độ tuổi trung niên, người tầm thước, với đôi mắt xanh lam tinh gương mặt phong sương, và mái tóc muối tiêu cắt ngắn. Ngoài đôi mắt, bộ dạng ông có gì nổi bật, nhưng tạo ấn tượng của con người khiêm tốn, có sức thu hút, đáng tin cậy. Tôi có thể hình dung ông là luật sư hoặc bác sĩ miền quê, mẫu người công chức vốn đem trí thông minh làm việc tốt - ngoại trừ có lẽ đôi mắt ấy: như soi mói, nhìn sâu rộng, sáng sủa như mơ mộng. Đôi mắt của nhà tiên tri. Tôi thấy ngạc nhiên, thậm chí bị thu hút. hiểu sao tôi nghĩ mình gặp quái vật. Stewart bắt tay tôi và khẽ cúi đầu chào: “Bà Ross. Rất hân hạnh được gặp bà.” Tôi gật đầu. “Còn hẳn là Moody. Hân hạnh được quen biết với . Frank với tôi làm việc ở Vịnh Georgian. vùng đẹp đẽ của phần đất này.” Moody mỉm cười và bắt tay với Stewart: “Vâng, đúng vậy. Tôi cũng hân hạnh được gặp ông. Tôi nghe nhiều về ông.” Stewart lắc đầu với nụ cười, có vẻ như ngượng ngập: “À, thế... Ông Parker. Tôi nghĩ cần cảm ơn ông dẫn đường cho hai vị này trong cuộc hành trình khó khăn như vậy.” Parker lưỡng lự giây đồng hồ rồi đưa tay bắt. Theo tôi nhận xét, khuôn mặt Stewart tỏ vẻ gì là ghi công Parker cả. “Ông Stewart, tôi rất vui được gặp lại ông.” Stewart lộ vẻ như vừa muốn tạ lỗi vừa lúng túng: “Gặp lại? Xin lỗi, tôi nhớ...” “William Parker. Gần Hồ Clear. Mười lăm năm về trước.” Mặt ông tỏ vẻ tươi tắn dễ chịu: “Hồ Clear à? Ông Parker, xin ông thứ lỗi, trí nhớ tôi bây giờ kém.” Parker cười: “Có lẽ nếu ông vén tay áo bên trái, ông nhớ.” Nét mặt Stewart thay đổi, và trong giây khắc tôi hiểu nổi. Rồi ông cười phá lên, đập tay lên vai Parker: “Trời đất! Làm thế nào tôi quên được? William! Đúng rồi, đương nhiên. Mà này, lâu lắm rồi, như ông .” Rồi ông nghiêm sắc mặt lại: “Rất tiếc tôi đến gặp ông sớm hơn khi mới trở về. Có tai nạn thương tâm, như quý vị nghe.” Chúng tôi gật đầu, như bọn học trò gật đầu với thầy hiệu trưởng. “Nepapanees là trong số những nhân viên giỏi nhất của tôi. Chúng tôi săn thú dọc con sông cách đây xa.” Ông lại, và tôi nghĩ tuy chắc, tôi thấy long lanh giọt lệ trong đôi mắt ông: “Chúng tôi theo dấu vết nào đó và... tôi vẫn tin chuyện gì xảy ra. Nepapanees là người có kinh nghiệm theo dõi dấu vết; người săn thú giỏi. Trong vùng lùm bụi ai biết rành như ấy. Nhưng trong khi theo dấu vết dẫn ra dọc bờ sông, ấy bước lên lớp băng mỏng rồi chìm nghỉm.” Ông ngưng lại, đôi mắt chú mục vào cái gì đấy diện trong phòng. Tôi nhận thấy gương mặt ông, vốn thoạt tiên toát vẻ tự tin, bây giờ hằn vẻ mệt mỏi. Có thể ông ở tuổi bốn mươi. Có thể ông già hơn mười lăm tuổi. Tôi biết chắc. “Chỉ phút ấy ở đó, phút kế tiếp biến mất. chìm xuống, cho dù tôi bò ra xa đến mức có thể được nhưng vẫn thấy ấy. Tôi còn gục mặt xuống để tìm, nhưng vô ích. Tôi vẫn tự hỏi - có lẽ mình làm được hơn thế nữa?” Ông lắc đầu: “Bạn có thể làm việc cả ngàn lần mà nghĩ ngợi gì. Giống như mặt nước đóng băng. Bạn biết lớp băng dày bao nhiêu, biết dòng nước bên dưới chảy mạnh hay yếu. Và rồi sau những lần như thế bạn biết là an toàn, lần kế tiếp bạn đặt chân lên bạn phạm phải sai lầm, và mặt băng đỡ được sức nặng của bạn.” Moody gật đầu với vẻ cảm thông. Parker nhìn ông với chút ít chú ý, săm soi ông với cùng dáng vẻ mà tôi thấy gương mặt ông khi xem xét mặt đất, cố tìm ra dấu vết. Tôi ông thấy khó hiểu chỗ nào, vì Stewart chỉ lộ vẻ hối tiếc và buồn rầu. Tôi hỏi: “Người ngoài kia là vợ ấy phải ?” “Elizabeth tội nghiệp. Đúng. Họ có bốn đứa con; bốn đứa trẻ cha. hoàn cảnh kinh khủng. Tôi thấy ra gặp ấy.” Ông với Moody: “Có lẽ nghĩ chúng tôi vô cảm khi để ấy mình, nhưng đó là cung cách của họ. Họ tin rằng ai có thể gì vào thời khắc như thế này. Phải để họ than khóc theo cách của họ.” “Nhưng hẳn là, họ có thể cho ấy biết là phải đơn độc. Và trong thời tiết này...” “Nhưng trong nỗi đau của riêng ấy, đơn độc, phải ? ấy chỉ có vợ, và ấy chỉ có chồng.” Đôi mắt xanh của ông nhìn qua tôi, và tôi phải nhìn nhận là ông đúng. “ ấy đặc biệt đau khổ vì tôi mang thi hài ấy về được. Quý vị biết , theo người Da Đỏ chết đuối là vô phúc. Họ tin rằng linh hồn thể siêu thoát. Ít nhất ấy được rửa tội, nên có lẽ tìm thấy ít an ủi. Và các đứa trẻ cũng thế. Đó là phúc lành.” Dù ở trong khí gây sốc, Stewart vẫn nhất quyết muốn dẫn chúng tôi xem chung quanh. Chuyến tham quan là cử chỉ lịch đối với tất cả khách viếng thăm, nhưng có tính cách khập khiễng và hão huyền, như thể chúng tôi đóng vai trò của các vị khách thầm lời khen tặng. Đầu tiên, ông dẫn cho chúng tôi xem tòa nhà chính; ba mặt là quảng trường. Tòa nhà tầng bằng gỗ với hành lang chính giữa như là cột sống, và các phòng nằm dọc theo hai bên. Trong khi chúng tôi xem, khác biệt giữa quá khứ và tại của Hanover càng lúc càng nét. Toàn thể chái của tòa nhà là dành cho khách; ít nhất có chục phòng. Các phòng dành cho chúng tôi hướng ra phía ngoài, nhìn ra con sông và khu đồng bằng. Bây giờ quang cảnh toàn nền trắng cùng những đường chân trời màu xám lờ mờ hòa trộn nhau, có dốc đá màu nâu cắt ngang. Nhưng vào mùa hè cảnh này hẳn là đẹp. Rồi có phòng ăn, nhưng khi có bàn ăn dài xem trống vắng và đơn. Stewart cho chúng tôi biết rằng xưa kia, khi Hanover còn là trung tâm của vùng có nhiều lông thú, nơi đây chứa trăm nhân viên và gia đình của họ, và lợi nhuận cao tạo ra những buổi tiệc tùng kéo dài thâu đêm. Nhưng đó là nhiều năm về trước, trước khi Stewart đến nhận công tác. Trong khoảng hai mươi năm qua, thương điếm này hoạt động với đội ngũ nhân viên ít ỏi, cố duy trì quyền kiểm soát chông chênh của Công ty trong vùng hoang dã, nhằm giữ thể diện của quá khứ hơn là vì lý do tài chính hợp lý. Chái trung tâm dài của tòa nhà phần lớn là trống vắng; lúc trước là nơi cư ngụ của nhân viên điều hành, bây giờ là hang ổ của nhện và chuột. Thay vì có hàng chục nhân viên điều hành, bây giờ chỉ còn Stewart và Nesbit. nhân viên duy nhất cư ngụ ở đây là thông dịch viên chính, Olivier, trai trẻ lớn tuổi hơn Francis. Stewart kêu này đến gặp chúng tôi, và có lẽ vui nhưng vẫn lộ ra ngoài mặt. có đầu óc nhanh lẹ, sẵn sàng làm vui lòng người, và với vẻ tự hào Stewart với chúng tôi rằng giỏi bốn thứ tiếng vì có lợi thế ở cha mẹ : người tiếng Pháp và người tiếng , có gốc gác ở hai sắc tộc bản địa khác nhau. Stewart : “Olivier tiến xa trong Công ty,” và Olivier mặt sáng lên với vẻ vui mừng lẫn ngượng ngập. Tôi tự hỏi có đúng thế : làm thế nào trai trẻ da ngăm đen tiến thân trong công ty của người nước ngoài? Nhưng rồi, có lẽ tiến khá. có công ăn việc làm và có tài năng, lại có người nâng đỡ là Stewart. Từ chái thứ ba của tòa nhà, gồm các văn phòng, Stewart dẫn chúng tôi đến kho chứa hàng, ông giải thích là trong mùa hè họ chở phần lớn lượng lông thú, nên bây giờ hàng tồn kho còn ít. Người đặt bẫy làm việc trong mùa đông để kiếm lông thú, và đến mùa xuân họ mang sản phẩm đến bán cho thương điếm. Donald dọ hỏi về các loại hàng hóa và sản lượng, và Stewart chú tâm trả lời khiến cho Donald cảm thấy tự mãn. Tôi liếc qua Parker để thăm dò phản ứng của ông, nhưng ông ngó lơ. Tôi cảm thấy bị hắt hủi. Những người khác phớt lờ, nhưng có cái gì đấy đập vào mắt tôi. Tôi cúi xuống và nhặt lên mẩu giấy hình vuông. Viết đó là số chữ cái và chữ số: 66HBPH, tiếp theo là tên các con thú. Tôi nhớ lại rằng mình vẫn còn giữ mẩu giấy mà Jammet cẩn thận giấu - có lẽ vậy - trong ngôi nhà gỗ của . Tôi trao mảnh giấy cho Stewart: “Cái gì thế?” “Đó là giấy đóng gói. Khi chúng tôi đóng gói lông thú...” ông với mình tôi, là người duy nhất biết đến cách làm việc của Công ty, “… danh sách các món hàng được để cùng để chúng tôi biết mình mất món nào. Mã số cùng chỉ ra loại hàng hóa - đây là tháng Năm năm rồi, tên Công ty, dĩ nhiên là vậy, tên hạt, tức là Missinaibi, được chỉ danh bằng chữ P, và thương điếm - Hanover, H. Vì vậy mà mỗi gói hàng được xác định xuất xứ và thời điểm.” Tôi gật đầu. Tôi nhớ các chữ cái mảnh giấy của Jammet, chỉ biết rằng đấy là vài năm trước, có lẽ là vào lần cuối làm việc ở đấy. Vẫn còn cần được giải thích thêm. quá các nhà kho là khu chuồng gia súc, trống trơn ngoại trừ các con chó và vài con ngựa. Và quá nữa, là bảy hoặc tám ngôi nhà gỗ nơi các nhân viên tải hàng sống với gia đình của họ, và nhà nguyện. “Bình thường tôi dẫn quý vị gặp mọi người, nhưng hôm nay... Đây là cộng đồng gần gũi, đặc biệt bây giờ chúng tôi có nhiều người. Có nhiều chuyện buồn.” Rồi ông quay đầu lại, hình như với riêng tôi lần nữa: “Xin tự nhiên đến nhà nguyện bất kỳ lúc nào. Luôn mở cửa.” “Ông Stewart, tôi biết lúc này đầu óc ông bận rộn nhiều việc, nhưng ông biết là chúng tôi có lý do để đến đây ?” Tôi màng liệu bây giờ có phải là lúc thuận tiện để nêu ra việc này hay , tôi muốn Moody là người đầu tiên ra. “Vâng, tôi biết chứ. Frank với tôi về chuyện nào đó... Quý vị tìm ai đó, phải ?” “Con trai tôi. Chúng tôi theo dấu nó. Dấu vết dẫn chúng tôi đến đây... hoặc ít nhất là gần đâu đây. Lúc gần đây ông có thấy người lạ mặt nào ? Nó là đứa trẻ mười bảy tuổi, tóc đen...” “, tôi rất tiếc. Trước khi quý vị đến đây, chúng tôi thấy ai cả. Tôi e mình bỏ sót, với mọi chuyện như thế này... Tôi hỏi mấy người khác. Nhưng theo tôi được biết có ai khác ở đây.” Vậy là trước mắt chỉ có thế. Moody có vẻ hài lòng với tôi chút nào, nhưng đó là vấn nạn nhặt nhất của tôi. Stewart kiếu chúng tôi để lo vài công việc của Công ty và tôi nhìn qua Parker và Moody. Chúng tôi ngồi trong phòng khách của Stewart, với lò sưởi tạo cảm giác khá thoải mái, và bức tranh sơn dầu phía lò sưởi, vẽ các thiên thần. “Tối qua, ngay sau khi chúng ta đến đây, tôi nghe Nesbit đe dọa phụ nữ. ta bảo ấy biết tay ta nếu giữ mồm giữ miệng ‘về ông ấy’. ta thế - ‘về ông ấy’. ấy tranh cãi; tôi nghĩ muốn làm theo. Và rồi ta chuyện gì đó xảy ra khi ‘ông ấy’ trở về. Đấy hẳn là Stewart.” Moody hỏi: “ ấy là ai vậy??’ “Tôi biết. Tôi thấy mặt này, và khẽ hơn ta.” Tôi lưỡng lự, biết có nên kể cho Moody nghe về Nesbit và Norah hay . Có cái gì đấy khiến cho tôi nghĩ người ấy là Norah; xem dường là mẫu người thích tranh cãi. Nhưng cánh cửa bật mở và thông dịch trẻ Olivier bước vào. Dường như được sai phái đến để làm bạn với chúng tôi. Nhưng tôi có cảm tưởng như người nào đấy muốn theo dõi chúng tôi. *** Có lần nghe chuyện phụ nữ lâm vào cảnh rối rắm vì người chồng đe dọa giết này. đến thương điếm gần nhất của Công ty và đứng chờ bên ngoài, với tư trang của chất đống trước mặt. Đầu tiên, đốt tư trang của mình. Rồi châm que diêm đốt chiếc túi treo quanh cổ. Chiếc túi chứa đầy thuốc súng và nổ tung, khiến cho mù mắt, mặt và ngực bị bỏng. Sống sót vì lý do khó hiểu, lại lấy sợi dây thừng treo cổ mình nhánh cây. Nhưng vẫn sống, rồi lấy cây kim dài đâm vào lỗ tai phải. Cho dù cây kim đâm lút sâu vào đầu, vẫn chết. chưa tới số, và linh hồn muốn rời xa . Thế là từ bỏ ý định, đến nơi nào đó để bắt đầu cuộc sống mới, rồi khấm khá lên. Tên là Chim-bay-trong-ánh-nắng. Điều lạ lùng là còn nhớ những chi tiết như thế trong câu chuyện. Tên người phụ nữ; lỗ tai bên phải. Có lẽ nhớ cái tên vì nó có phần giống tên : Bird - tức Chim. biết gì khác về người phụ nữ kia, ngoại trừ biết muốn chết là như thế nào. Nếu vì các con nghĩ mình cũng muốn treo cổ. Alec ổn: mười ba tuổi, lanh lợi, có việc làm, học việc với Olivier làm thông dịch. Josiah và William tuổi hơn nhưng có nhiều trí tưởng tượng khiến cho chúng sợ hãi và hoang mang. Nhưng Amy còn , và trong cuộc sống này con cần được hỗ trợ nhiều hơn, nên bé phải chịu đựng trong thời gian dài hơn. Nhưng khi có chồng bên cạnh lúc nào cũng như là trong mùa đông. cần phải chú tâm nhìn qua cửa sổ, vẫn thấy các vị khách đến và đứng cách ngôi nhà dăm bảy bước, nhìn về phía . có thể nhận ra họ về mình; ông ta về chồng , kể câu chuyện chồng chết như thế nào. còn tin nơi ông ta nữa; khi chuyện với , ông ta luôn giữ kín các bí mật. Ông ta bắt chồng phải giữ kín các bí mật tuy chồng thích, dù nhún vai mà phó mặc; sau các chuyến săn trở về bỏ lại các bí mật bên ngoài ngôi nhà. Sáng hôm ấy - mong chờ trở về ngay khi thức giấc, Amy hỏi hôm nay pa-pa trở về phải , và phải - bước ra cánh cổng phía tây, nghe tiếng các con chó sủa từ đằng xa, rồi mỉm cười với chính mình. nghe đến nỗi tin chắc mình nghe được tiếng của những người chạy nền tuyết. vẫn còn mỉm cười khi trở về sau chuyến săn, dù cho họ cưới nhau thời gian lâu như thế. nghe tiếng các con chó và bước đến mô đất nơi người ta có thể nhìn qua hàng rào. Và thấy chỉ có người với chiếc xe trượt tuyết. đứng đấy mà nhìn cho đến khi ông ta đến vách đá, rồi xuống khoảnh sân để nghe ông ta gì, dù biết. Những người khác - William và George và Kenowas và Mary - thấy ông trở về mình và ra để tìm hiểu, nhưng ông trực tiếp với , chiếu đôi mắt xanh đến như là loại thần chú màu xanh, đến nỗi thể thốt nên lời. nhớ những gì khác cho đến khi khách - cái lính mới tò te đó với vết thương do dao đâm và chân bị đau - ra và cố gắng ngỏ lời với , nhưng tiếng của nghe như tiếng ong kêu vo ve và hiểu gì. Rồi lúc sau mang ra cốc cà phê, đặt bên cạnh . nhớ mình cầu cà phê, nhưng có lẽ cầu; cà phê thơm ngon, ngon hơn là bất kỳ loại nào từng dùng, và nhìn những bông tuyết li ti rơi xuống đất rồi biến mất nền đen trơn như dầu. Rơi xuống rồi tan chảy, thế là mất hút hẳn. Và rồi tất cả những gì có thể nghĩ tới là khuôn mặt của người chồng cố chuyện với , nhưng thể nghe vì bị kẹt dưới phiến băng dầy mặt sông, và chết đuối. cầm lấy cốc cà phê, rót xuống làn da ở mặt dưới cánh tay. Cà phê nóng, nhưng nóng đủ. Làn da ửng hồng, tất cả chỉ có thế, và cánh tay bốc khói như thịt trong gió lạnh. Họ dẫn vào nhà, và Mary ngồi bên , cho thêm củi vào lò sưởi, mang thức ăn đến cho các đứa trẻ. Mary vẫn ở đấy, như thể lo sợ Elizabeth nhảy vào lửa nếu ở mình. Alec đến và vòng tay ôm lấy , bảo đừng khóc, dù khóc lúc này. Đôi mắt khô khốc như khúc củi. Amy cũng khóc, nhưng đấy chỉ vì bé còn quá nên hiểu. Ba đứa con trai khóc cho đến khi thiếp ngủ vì mệt mỏi. Mary ngồi kế bên mà năng gì, vì hiểu biết . lần, George đến và cầu nguyện cho linh hồn của : George là tín đồ Cơ đốc và rất mộ đạo. Mary đẩy ra ngoài; và Elizabeth là tín đồ Cơ đốc nhưng Nepapanees là người ngoại đạo. thuộc sắc tộc Chippewa, có giọt máu da trắng nào trong huyết quản. Đôi lần nhà thờ nghe giảng đạo, nhưng đó phải cho mình. Elizabeth gật đầu với George; biết có ý giúp. Và có lẽ giúp được; ai rằng Cha Trời thể can thiệp trong số phận của chồng ? Có lẽ có thỏa thuận hỗ tương. Với giọng the thé như tiếng chìa khóa trong ổ khóa gỉ sét, Elizabeth : “Mary, hãy với tôi tuyết rơi.” Mary ngước lên. đặt Amy lòng mình, và trong khoảnh khắc Elizabeth mơ tưởng như Mary là người mẹ và Amy là đứa trẻ mà hề quen biết. “, tuyết ngưng rơi giờ rồi. Nhưng bây giờ trời trở tối. Tuyết rơi ngày mai.” Elizabeth gật đầu. Tuyết ngưng rơi chỉ vì lý do, và biết mình làm gì vào buổi sáng. Đáng lẽ phải làm sớm hơn nếu có tuyết, khiến cho lúc này họ phải dừng lại và suy nghĩ. Hầu họ làm chu toàn hơn. Vào buổi sáng họ trở lại con sông để tìm và mang về. Amy thức giấc, nhìn qua mẹ. Dù sao mẹ là của bé, với đôi mắt nâu-xám và làn da xanh xao. Họ muốn có thêm đứa con . Nepapanees trêu rằng muốn có đứa con giống , thay vì giống . Bây giờ có thêm đứa con nào cả. Linh hồn của đứa con này, nếu Nepapanees tin đó là thực, phải chờ được sinh ra nơi khác, vào lúc khác. Vấn đề là còn tin vào bất kỳ việc gì nữa. *** Donald quay về phòng mình để viết thư cho Susannah. Tuyết rơi thêm trong khi họ dùng bữa; nếu Stewart đúng cơn bão tuyết này kéo dài nhiều ngày, và có cơ hội đâu trước khi nó chấm dứt. Nhưng có hơn lý do mà cảm ơn cho điều này. cảm thấy mệt mỏi cách đáng ngại. Hai bàn chân nhức dữ dội mặc dù mang giày da đanh, còn vết thương bụng nổi đỏ và nhỉ nước. ngồi chờ trong phòng ăn lúc rồi kéo Stewart qua bên, rằng mình cần chăm sóc y tế. Stewart gật đầu và hứa kêu người nào đó với ít chuyên môn đến giúp . Rồi, khá bất ngờ, ông nheo mắt với . Dù gì chăng nữa, bây giờ cảm thấy đau lắm, ngồi ở chiếc bàn ọp ẹp mà cầu, với tập giấy và ít mực rã đông. Trước khi bắt đầu, cố định hình khuôn mặt hình trái xoan của Susannah trong tâm trí mình, nhưng lần nữa thấy khó mà nhận ra. lần nữa, khuôn mặt của Maria ra sắc nét tuyệt đối, và nhớ ra rằng hẳn là lý thú mà viết cho Maria để thảo luận tình trạng phức tạp của họ, mà tin chắc làm buồn em. Chưa kể đến vụ việc rối ren của người góa phụ. muốn biết Maria gì về mấy chuyện này. Ngày mai hoặc ngày mốt, có gì phải vội vã, dọ hỏi. Nhưng bây giờ, có thể gạt những nhiệm vụ ra khỏi đầu óc của mình. viết với đủ tự tin: “Susannah thân mến”. Nhưng tiếp theo đó, lưỡng lự. Tại sao viết thư cho cả hai chị em? Dù sao chăng nữa, quen biết với cả hai. chấm cây viết lên mặt bàn đôi ba lần, rồi lấy tờ giấy mới mà viết: “Maria thân mến”. Khoảng tiếng đồng hồ sau, có tiếng gõ cửa. đáp mà vẫn tiếp tục viết: “Mời vào.” Cánh cửa mở, Da Đỏ trẻ vào, tiếng động. được chỉ cho thấy ; tên là Nancy Eagles, vợ của nhân viên tải hàng trẻ. quá hai mươi tuổi, có gương mặt dễ thương lôi cuốn, và giọng đến mức phải cố lắng nghe mới hiểu ra. cảm thấy ngạc nhiên và vui vui: “À, Nancy, phải đó ? Cám ơn...” Giọng và thiếu sinh khí, như thể với chính mình: “Ông Stewart bị đau.” cầm tô nước và vài mảnh vải - hiển nhiên là đến để chăm sóc . gì thêm, ra dấu cho hiểu phải cởi áo ra, và đặt tô nước xuống sàn nhà. Donald lấy giấy thấm đặt lên tờ thư rồi mở các nút áo, thình lình nhận biết về thân người trắng trẻo mảnh khảnh của mình. “ có gì nặng, nhưng... đây này, xem, tôi bị vết thương hai... ba tháng trước, mà chưa lành hẳn.” tháo bông băng ra, màu hồng và ướt vì chất dịch nhỉ ra. Nancy đưa bàn tay đẩy ngực , cho ngồi xuống giường: “Đó là con dao.” chăm chăm nhìn vết thương, hỏi trực tiếp. “Đúng. Nhưng đó là tai nạn...” Donald cười, bắt đầu dông dài kể cho nghe câu chuyện về trận đấu bóng bầu dục. Nancy quỳ gối trước mặt , quan tâm đến nguồn gốc của vết thương. Khi dùng bông chấm vết thương, hít hơi mạnh và ngưng , chưa kịp giải thích về động tác ngã người truy cản. Nancy nghiêng người tới trước ngửi vết thương. Donald cảm thấy nóng bừng mặt, ngừng thở, nhận thấy đầu gần tựa vào lòng mình. Tóc đen tuyền, mượt mà như lụa, thô ráp như nghĩ. Làn da cũng mượt mà, mềm mại, trông vô tội. thắc mắc có biết mình đẹp hay . mường tượng người chồng Peter của - nhân viên tải hàng có vóc người cao, vạm vỡ - lúc này bước vào, và mặt tái nhợt vì ý nghĩ này. Có vẻ như Nancy bận tâm. lấy bông băng sạch đắp thứ bột dược thảo rồi ra dấu giơ hai tay lên, rồi băng chặt đến nỗi Donald lo sợ mình chết ngạt trong đêm. “Cám ơn . Tử tế quá…” tự hỏi mình có cái gì đó để tặng , và đầu óc lục lọi trong số ít vật dụng mang theo người. tìm ra được món gì thích hợp. Nancy thoáng mỉm cười, lần đầu tiên đôi mắt huyền của nhìn vào mắt . nhận thấy đôi lông mày có nét cong thanh tú của đôi cánh chim mòng biển, và rồi, trong nỗi kinh ngạc cùng cực của , cầm lấy bàn tay ép vào ngực mình. Trước khi có thể thốt lên tiếng hoặc rụt tay lại, ép môi mình lên môi , còn bàn tay kia của nắm lấy cơ quan phải là vô cảm giữa hai đùi . thốt lên tiếng nào đó - chắc là tiếng gì - và sau khoảnh khắc những cảm giác dâng trào khiến cho biết chuyện gì tiếp diễn, rồi cương quyết đẩy xa ra. (Moody, hãy trung thực - khoảnh khắc đó kéo dài bao lâu? Đủ lâu.) “? Tôi… tôi xin lỗi. Chuyện đó . .” Tim đập thình thịch, thanh của nhịp đập vang vang như tiếng sóng đập vào màng nhĩ. Nancy nhìn , đôi môi dày màu hạt dẻ hé mở. Trước đây chưa từng nghĩ phụ nữ bản địa có thể đẹp như phụ nữ da trắng, nhưng bây giờ thể hình dung ra bất kỳ ai đẹp hơn trước mặt mình. Donald nhắm mắt lại để thoát khỏi hình ảnh của . Các ngón tay của vẫn còn đặt cánh tay nơi giữ cho cách xa mình, như thể họ là cặp khiêu vũ đông cứng giữa bước nhảy. “Tôi thể... xinh đẹp, nhưng... , được.” nhìn xuống quần , trông như nó đồng ý với lời . “Chồng ...” nhún vai: “ sao.” “Đối với tôi được. Tôi xin lỗi.” cố gắng quay người , có phần thầm mong tấn công lần nữa. Nhưng có chuyện gì xảy ra. Khi liếc nhìn lại, thu nhặt cái tô nước bẩn, quần áo và bông băng cũ. “Cám ơn, Nancy. Xin đừng... cảm thấy xúc phạm.” Nancy nhìn nhanh đến nhưng gì. Donald thở dài, và ra tiếng động như khi bước vào. nhìn cánh cửa khép, thầm rủa. Rủa mình, rủa và rủa cả nơi chốn đổ nát hoang vu. Bức thư đặt bàn trách móc . Những ngôn từ tươi sáng, khúc chiết; ngoài tính hóm hỉnh... tại sao lại viết thư cho Maria? cầm lấy tờ thư vò thành nhúm tròn, và lập tức hối tiếc. Rồi nhặt lấy chiếc áo sơ mi dự phòng và ném xuống sàn nhà, chỉ là kiếm chuyện để ném cái gì đó (nhưng cái gì đó vỡ được). Sàn nhà bẩn thỉu. Tại sao giận dữ như thế khi làm việc phải? (Có lẽ hối tiếc? Bởi vì là người hèn nhát, đủ can đảm để đón nhận khi được dâng hiến tuy vẫn khao khát?) Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. ***
Sau khi Moody xin kiếu để rời bàn ăn, Parker cũng đứng dậy xin nghỉ. Sau khi ông , tôi thắc mắc hai người tính toán việc gì hay , cho dù Donald có vẻ rất mệt mỏi đến nỗi có lẽ muốn ngủ. Về phần Parker tôi chắc. Tôi mong ông tìm cách suy luận theo phép mầu nào đó, và tôi chưa đoán ra. Stewart đề nghị Nesbit dẫn tôi đến phòng khách để uống gì đó. Ông mình đến sau ít phút - theo cách mà tôi lập tức tự hỏi ông định làm gì. Cũng là điều hay mà có đầu óc luôn nghi ngại, nhưng tôi vẫn thể cho đến giờ mình tìm thấy những gì. Nesbit rót hai ly whisky mạch nha và trao cho tôi ly. Chúng tôi cùng chạm ly. Tối nay căng thẳng và cáu kỉnh; đôi mắt sôi sục, hai bàn tay vặn xoắn liên tục hoặc gõ mặt bàn. hầu như ăn gì. Thế rồi, trước khi uống cà phê, xin kiếu để ra ngoài. Stewart đáp lời theo cách phù hợp, nhưng đôi mắt tỏ ra gượng gạo. Tôi nghĩ ông biết. Norah giúp phục vụ chúng tôi suốt bữa ăn, và dù nhìn chăm chú tôi vẫn phát nét căng thẳng nào mặt . Bây giờ khi Stewart ở đây, trở nên dễ bảo hơn, tỏ lộ nét u sầu nào như tối qua. Khi Nesbit trở lại mười hoặc mười lăm phút sau, tư thái thay đổi; những cử động của uể oải, đôi mắt trông ngái ngủ. Parker và Moody tỏ vẻ nhận ra điều gì khác lạ. Tôi đến cửa sổ, vén bức màn nhìn ra. Tuyết còn rơi, nhưng đóng mặt đất dày dăm ba phân. “ Nesbit, nghĩ có tuyết rơi thêm hay ?” “Tôi tự phụ là người hiểu biết về thời tiết ở đây, nhưng có vẻ là vậy. Bà nghĩ sao?” “Tôi chỉ băn khoăn biết lúc nào chúng tôi có thể ra . Nếu chúng tôi phải tiếp tục cuộc tìm kiếm...” “À, dĩ nhiên rồi. Đây phải là mùa thuận lợi trong năm.” Có vẻ như quan tâm đến số phận của đứa con trai mười bảy tuổi của tôi mình ở ngoài vùng hoang dã. Hoặc có lẽ sâu sắc hơn là tôi tưởng. “Nơi chốn dễ sợ, như ở đây. Vô cùng thuận lợi cho các can phạm. Tôi luôn nghĩ, đáng lẽ nên mang họ đến Tasmania[53] là nơi chốn xa xôi nhất mà tôi nghĩ ra, vui hơn. Khá giống Hạt Lake.” “Nhưng ở đây cách biệt lắm. Hoặc xa khu dân cư.” “Cảm thấy khá cách biệt. Bà biết , mấy năm trước có đám nhân viên - tôi nghĩ họ là người nước ngoài - cố trốn chạy khỏi Thương điếm Nai Sừng tấm. Trong tháng Giêng! Dĩ nhiên là ai trông thấy họ nữa. Lạnh cóng đến chết giữa vùng hoang vu, tội nghiệp bọn khốn kiếp.” cười , cay đắng: “Bà Ross, thứ lỗi cho tôi ăn bỗ bã. lâu rồi trò chuyện với quý bà nên tôi quên cách ăn .” Tôi muốn chấp nhận; có điều gì đấy trong câu mà tôi nghe còn tệ hơn. nhìn tôi với vẻ suy đoán mà tôi thích. Tối nay say, nhưng đôi đồng tử rất , ngay cả trong ánh sáng lờ mờ. Bây giờ đôi bàn tay bất động và thư giãn; được làm dịu. Tôi hiểu được , tôi nghĩ thế. Tôi biết cảm giác là như thế nào. “ họ mất tích hay sao?” “Đúng. Nhưng bà đừng sợ hãi - như tôi , họ là người nước ngoài. Người Đức hay đại loại như vậy.” “ thích người nước ngoài sao?” “ hẳn thích. Ngày nào họ cũng la rầy tôi. Cho tôi người Scotland hay hơn.” “Giống như Ông Stewart?” “Chính xác. Giống như Ông Stewart.” Tôi nốc cạn ly rượu. hùng rơm, nhưng còn hơn là chẳng hùng gì cả. Khi Stewart bước vào, mặt tôi nóng vì whisky nhưng đầu óc tôi vẫn còn tỉnh táo. Nesbit rót ly cho ông và chúng tôi thoải mái trò chuyện trong ít phút. Rồi Stewart quay sang nhìn tôi: “Tôi suy nghĩ về Ông Parker. Bà biết , ban đầu tôi nhớ ra ngay tên ông ấy vì lâu rồi. Cho tôi biết, bà gặp ông ấy như thế nào?” “Chúng tôi mới gặp nhau lúc gần đây. Ông ấy đến Caulfield và khi tôi cần người hướng đạo có người giới thiệu ông ấy.” “Thế bà biết ông ấy lắm, phải ?” “ lắm. Tại sao?” Stewart mỉm nụ cười, ra vẻ như có tin tức thú vị loan báo: “À... Ông ấy, hoặc ít nhất là lúc trước, có cá tính khá thú vị. Có vài cố ở Hồ Clear... số nhân viên tải hàng khá ngông cuồng, và ông ấy nằm trong số đó.” Làm ra vẻ như buôn chuyện tầm phào, tôi mỉm cười : “Quả là kỳ lạ! Xin ông kể tiếp.” “Đúng ra kỳ lạ lắm. Chỉ là vài cố xấu xa. Khi còn trẻ, William hay dùng vũ lực. Chúng tôi cùng chuyến tải hàng - đó là hơn mười lăm năm về trước, bà hiểu chứ - chuyến trong mùa đông. Cũng có mấy người khác cùng, nhưng... đó là chuyến vất vả, và diễn ra cãi cọ. Về việc tiếp tục hay quay về, đại loại như vậy. Thực phẩm cạn dần. Dù sao chăng nữa, xảy ra chuyện chúng tôi xô xát với nhau.” “Xô xát! Trời đất!” Tôi ngồi nghiêng người về phía trước, mỉm cười để khuyến khích ông kể tiếp. “Có lẽ bà còn nhớ ông ấy gì, và đúng vậy, ông ấy cho tôi cái gì đó để nhớ tới ông,” Stewart vén cánh tay áo bên trái. Chạy dọc theo cẳng tay là vết sẹo trắng dài, rộng vài ba li. Tôi cảm thấy sốc mà che giấu được. “Đôi lúc mấy con lai này, nếu cho họ nửa chai rượu là họ biến thành quỷ dữ. Chúng tôi cãi vã nhau và ta cầm dao đâm tôi. Mà giữa vùng hoang vu; đó phải là chuyện đùa, tôi có thể với bà như vậy.” Ông lại kéo cánh tay áo xuống. Lúc này tôi thể nghĩ ra phải gì. “Tôi xin lỗi, có lẽ tôi nên cho bà xem. số quý bà hãi hùng khi trông thấy vết sẹo.” Tôi lắc đầu: “ đâu...” Nesbit rót thêm rượu cho tôi. phải là vết sẹo làm cho tôi khó chịu, nhưng chính vì hình ảnh cuối cùng của Jammet luôn ám ảnh tâm trí tôi. Và hình ảnh đầu tiên của Parker: người nhân tạo lùng sục ngôi nhà gỗ: con người hoang dại, kỳ dị, trông mà phát khiếp. Nesbit vui vẻ : “ phải vì trông thấy vết sẹo của mình, mà vì ý nghĩ người hướng đạo của bà luôn thủ con dao kề cận bên bà.” “Trong ba tuần qua, tôi thấy ông ấy có vẻ gì như thế. Ông ấy là người hướng đạo mẫu mực. Có lẽ như , tính bạo lực của ông ấy là do rượu rum. Bây giờ ông ấy uống rượu.” Tôi nghĩ thầm Stewart có thể dối. Tôi nhìn vào đôi mắt ông, cố đọc tâm hồn ông. Nhưng ông chỉ có vẻ tử tế, chân ; có phần kỳ vọng, khi nghĩ về ngày xưa. “Kể cũng tốt mà nghe có người rút tỉa được bài học từ lỗi lầm của họ, phải ?” Tôi : “Đúng như vậy. Nếu thêm nhiều người trong chúng ta làm thế.” Sau đó, trong phòng mình, tôi vẫn mặc nguyên bộ trang phục và ngồi ghế để tránh ngủ gục. Tôi thích gì hơn là nằm xuống và thả lỏng để quên hết. Nhưng tôi làm được, và tôi chắc mình quên hết được; tôi phiền muộn, công tâm mà thế. Tôi muốn hỏi Parker về Stewart, về quá khứ của hai người, nhưng tôi ngại đến đánh thức ông lần nữa. Ngại, hoặc sợ. Hình ảnh lúc trước trở về khiến tôi bị sốc. Tôi quên làm thế nào hình ảnh Parker khiến tôi lạnh cả sống lưng; làm thế nào ông trông tàn bạo và kỳ dị. Dĩ nhiên là tôi quên vẻ bề ngoài của ông, nhưng tôi quên ảnh hưởng của vẻ bề ngoài ấy đối với mình lần đầu tiên. Quả là kỳ lạ như thế, khi bạn hiểu biết thêm về người nào đấy. Nhưng tôi thấu hiểu Donald. Trong thái độ tự bảo vệ, muốn giấu diếm việc lúc trước hai người bọn họ gặp nhau, nhưng có lẽ chỉ trước bước mà làm việc tránh khỏi; màn tháu cáy nhân đôi. Đôi mắt tôi quen với bóng tối, và lớp tuyết phản chiếu ánh sáng lờ mờ, vô định hướng, đủ cho tôi mò mẫm khi bước ra hành lang. Tôi gõ cửa phòng , rồi tự vào, đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Tôi nghĩ mình cố rón rén, nhưng ngồi bật dậy giường. Giọng nghe hoảng hốt và giận dữ: “Trời ơi... ! ra!” “ Moody, tôi đây, Bà Ross.” “Cái gì? Cái quái gì vậy?” lần mò tìm diêm quẹt và đốt cây đèn cầy kế bên giường ngủ. Khi khuôn mặt ra từ bóng tối, mang vào đôi kính, và đôi tròng mắt gần như lọt ra khỏi hố mắt. “Xin lỗi, tôi muốn làm sợ.” “Làm cái quái gì mà bà vào đây giữa đêm khuya vậy?” Tôi nghĩ gặp phản ứng ngạc nhiên và khó chịu chứ phải giận dữ: “Tôi phải trao đổi với ai đó. Xin vui lòng... mất nhiều thời giờ đâu.” “Tôi nghĩ bà trao đổi với ông Parker.” Trong giọng có điều gì đấy, nhưng tôi biết chắc là gì. Tôi ngồi chiếc ghế duy nhất, sau khi dẹp quần áo qua bên: “Tôi biết nghĩ thế nào, và ta cần bàn với nhau.” “Để chờ tới sáng mai được sao?” “Họ muốn chúng ta mình với nhau. có thấy như thế ?” “.” “À... tôi cho hay những gì tôi nghe lỏm Nesbit , rồi Olivier vào và chúng ta thể trao đổi thêm.” “Thế sao?” Giọng của vẫn nhanh nhẩu do tức giận, nhưng bớt sợ so với khi tôi mới bước vào. Như thể sợ tôi là người nào khác. “Phải chăng việc này cho thấy có những chuyện gì đó mà họ muốn cho chúng ta biết? Và vì chúng ta lần theo dấu vết kẻ sát nhân, những chuyện gì đó có thể có liên quan.” nhìn tôi, bực dọc. Nhưng tống cổ tôi ra: “Stewart gần đây có chuyện gì lạ xảy ra ở đây.” “Có thể có người lạ.” “Ý bà cho rằng đó là người sống ở đây hả?” lộ vẻ bị sốc vì tôi đặt nghi vấn cho nhân viên của Công ty. “Có thể lắm. người nào đấy mà Nesbit quen biết. Có lẽ Stewart biết gì về chuyện này.” Moody nhìn chăm chăm vào góc phòng phía sau vành tai trái của tôi: “Tôi nghĩ tốt hơn là ta nên xử lý toàn bộ vụ việc cách thẳng thắn. Nếu ta với tại sao ta đến đây, chứ phải câu chuyện phi lý của bà.” “Nhưng có người nghi ngờ chúng ta. Tôi nghĩ chỉ cần đề cập đến việc chúng ta theo dõi dấu vết là đủ cho họ cảnh giác đề phòng. Nesbit đe dọa phụ nữ - tôi nghĩ đó là Norah - để đừng về người nào đấy. Tại sao ấy phải làm thế?” “Có thể có nhiều lý do. Tôi nghĩ bà biết người phụ nữ đó là ai.” “Đúng là tôi thấy mặt ấy, nhưng Norah... Norah và Nesbit có... quan hệ.” “Cái gì? phục vụ hả?” Moody lộ vẻ kinh ngạc. Nhưng kinh ngạc ở chỗ Norah là người phục phịch, xấu xí chứ phải Nesbit có hành động thiếu phép tắc. Mấy chuyện như thế vẫn luôn xảy ra. cắn môi; có lẽ nghĩ đến việc viết báo cáo. “Làm thế nào bà biết được?” “Tôi thấy hai người.” Tôi muốn mình thấy họ khi lẩn lút vòng quanh trong đêm, và may mắn là Moody hỏi. “À... ấy là góa phụ.” “ vậy sao?” “ nhân viên tải hàng ở đây. Chuyện buồn.” “Trước đây tôi biết.” Tôi luận ra rằng làm người phục vụ trong Công ty là nghề nguy hiểm. “Điều tôi muốn là, chúng ta phải hỏi han người ở đây... mà cho họ biết.” Ngay cả khi thế, tôi thắc mắc làm thế nào chúng tôi thực việc này. Moody trông được thuyết phục với ý kiến này. Tôi phải nhìn nhận đấy phải là ý kiến hay, nhưng tôi chỉ nghĩ ra có thế. ném ánh mắt có ý nghĩa đến cánh cửa: “À, nếu có việc gì khác...” Tôi nghĩ đến cánh tay của Stewart và định kể cho Moody nghe, nhưng này tin tưởng nơi Parker và có thể bắt đầu dọ hỏi nguyên do nào khiến cho Parker đến Sông Dove. Những câu hỏi mà lúc này tôi muốn trả lời. “Tôi cần ngủ. Nếu bà phiền.” Tôi đứng dậy: “Được. Cảm ơn .” trông nhắn hơn khi co người dưới tấm chăn. Trẻ hơn và yếu đuối hơn. “Trông mệt mỏi. Có ai chăm sóc cho các vết phồng rộp của ? Tôi tin có người có kiến thức y khoa ở đây...” Moody nắm lấy tấm chăn kéo lên tận cằm, như thể tôi cầm chiếc rìu xông đến. “Có. Xin bà cứ . Tôi chỉ cần giấc ngủ...” Các kế hoạch hỏi han nhân viên vào ngày kế phải bị hoãn lại, bởi vì lúc chúng tôi thức dậy, phần lớn bọn họ ra . George Cummings, Peter Eagles, William Blackfeather và Kenowas - cách khác là tất cả đàn ông bản địa sống và làm việc ở Nhà Hanover - tìm thi hài của Nepapanees, chỉ ngoại trừ Olivier. Họ khởi hành trước bình minh, tiếng động, bộ. Ngay cả người chúng tôi gặp vào buổi trưa đầu tiên, cái Amaud say xỉn kinh niên (sau này tôi biết đó là gác dan) cũng tỉnh táo trở lại vì tiếc thương và gia nhập nhóm tìm kiếm. Người phụ nữ góa bụa và đứa con trai mười ba tuổi cùng họ. *** tuần lễ sau khi Francis từ chối lời mời của Susannah, đến ngôi nhà gỗ của Laurent nhân khi cha sai làm công chuyện vặt. vẫn nghĩ về Susannah Knox, nhưng bây giờ trường nghỉ hè và ngày chơi bãi biển chỉ còn là kỷ niệm mờ ảo, lung linh. tham dự buổi picnic và cũng gửi lời nhắn. biết phải gì. tự hỏi hoặc tự trách mình về việc hắt hủi cơ hội mà từ lâu mơ tưởng. Đó giống như là, sau khi xem như là mẫu người lý tưởng mà mình thể với tới được, thể hình dung ra là cái gì khác. Hôm ấy, buổi chiều tà, Laurent pha trà ở trong nhà Francis huýt sáo phía ngoài cửa trước. “Salut, François[54],” gọi ra, và Francis đẩy cánh cửa bước vào. “ dùng chút nhé?” Francis gật đầu. thích ngôi nhà gỗ của chàng người Pháp, lộn xộn và khác hẳn với ngôi nhà của cha mẹ . Các đồ vật được giữ lại với nhau bằng dây và đinh; chiếc ấm trà có nắp nhưng được giữ lại vì nó vẫn làm nhiệm vụ chứa nước trà; giữ quần áo của mình trong ngăn tủ đựng trà. Khi Francis hỏi tại sao đóng ngăn tủ đựng quần áo, vì hoàn toàn có khả năng làm việc này, đáp rằng ngăn tủ này cũng tốt như là ngăn tủ kia, có phải vậy ? Họ ngồi hai chiếc ghế bên ngoài cánh cửa mà Laurent chêm để mở ra, và Francis ngửi thấy mùi rượu -nhắc trong hơi thở của Laurent. Đôi lúc uống rượu vào ban ngày, dù Francis chưa bao giờ thấy quá chén. Ngôi nhà gỗ trông về hướng tây và ánh mặt trời thấp chiếu vào gương mặt hai người, khiến cho Francis phải nhắm mắt lại và nghiêng đầu. Khi ngước nhìn Laurent, thấy người đàn ông lớn tuổi hơn mình nhìn mình, ánh nắng vàng trong đôi mắt sâu thẳm. “Quel visage[55],” Laurent thầm, như là với chính mình. Francis hỏi câu ấy có nghĩa là gì, vì nghĩ nó đến mình. Bầu khí tĩnh lặng tuyệt vời; thanh lớn nhất là tiếng dế kêu. Laurent mang ra chai -nhắc và, hỏi han gì, rót ít vào tách trà của Francis. Francis uống và cảm thấy táo bạo cách dễ chịu; cha mẹ hẳn la mắng nếu phát , và ra điều này. “Chúng ta thể làm cha mẹ vui lòng suốt đời được.” “Tôi nghĩ mình làm họ vui lòng lúc nào cả.” “ lớn. Chẳng bao lâu sống tự lập, phải ? Cưới vợ, kiếm chỗ cho riêng mình, tất cả mọi chuyện còn lại.” “Tôi biết.” Chuyện này xem chừng chắc xảy ra, quá xa vời cách chóng mặt so với tiếng dế kêu và -nhắc và mặt trời xuống thấp. “ có người ? da ngăm bé đó - có phải là người của ?” “À... Ida hả? , ấy chỉ là bạn - đôi lúc chúng tôi với nhau về nhà.” Chúa ơi! Mọi người ở vùng này đều nghĩ Ida là người của hay sao? “, tôi...” hiểu vì sao, thấy mình muốn thổ lộ với Laurent về chuyện này: “Có tôi thích. Thực ra ai cũng thích ấy, đẹp, và cũng hiền nữa... Vào cuối học kỳ mời tôi dự picnic. Trước đó chưa bao giờ thực trò chuyện với tôi... và tôi cảm thấy tự mãn. Nhưng tôi .” Có khoảnh khắc im lặng dài. Francis cảm thấy mất tự nhiên và ước gì mình ra. “ hiểu việc gì xảy ra với tôi nữa!” cố cười cợt cho qua chuyện, nhưng xong. Laurent vỗ về chân : “ có việc gì hết, mon ami[56]. Chúa tôi, chẳng có gì cả.” Francis nhìn đến Laurent. Khuôn mặt người Pháp trông nghiêm túc, gần như buồn buồn. Đúng là đấy ? có làm cho người ta buồn ? Có lẽ là vậy. Mấy lúc sau này có vẻ như Ida buồn vì . Còn về cha mẹ , đúng là... họ rất buồn. Francis cố mỉm cười để làm cho vui. Và rồi việc thay đổi. Họ xuống quá thấp - hoặc tiến quá nhanh? nhận ra bàn tay của Laurent vẫn còn đặt chân mình, nhưng vỗ về nữa, mà bây giờ xoa nắn đùi với những cử động nhịp nhàng. thể ngừng nhìn vào đôi mắt nâu-vàng. Có mùi -nhắc và thuốc lá và mồ hôi, và như thể bị dán dính vào chiếc ghế, chân tay nặng nề và cứng nhắc như thể bị lấp đầy thứ nước ấm và nhớt. Hơn nữa, bị kéo về phía Laurent, và sức mạnh nào đời có thể ngăn được. Rồi có lúc Laurent đứng dậy, bước đến cánh cửa vẫn còn mở để định đóng lại, rồi quay sang Francis: “ biết đó, nếu muốn có thể ra về.” Francis chăm chăm nhìn , ngừng thở và thình lình kinh hãi. nghĩ mình thể thốt nên lời, nên lắc đầu, chỉ lần, và Laurent đưa chân đóng sập cánh cửa. Sau đó, Francis nhận ra mình phải quay về nhà. vẫn còn nhớ món đồ nghề mình cần mượn, dù có vẻ như việc này trải qua khoảng thời gian dài tưởng tượng được. sợ phải trở về trong trường hợp việc trở lại bình thường. Ngộ nhỡ lần sau gặp Laurent, này có thái độ như là có chuyện gì xảy ra? Bây giờ Laurent có vẻ hoàn toàn thư giãn, mặc vào chiếc áo sơ mi, và những làn khói thuốc lượn lờ quanh đầu, như thể đó là chuyện bình thường, hàng ngày, như thể trái đất chuyển động quanh trục của nó. Francis sợ phải trở về nhà, sợ phải nhìn cha mẹ với đôi mắt từ lúc này dò hỏi, như thể họ biết chuyện. đứng lối với món đồ nghề, phải từ giã ra sao. Laurent bước đến bên , nở nụ cười tinh quái. “T... thế...” Francis lắp bắp. chưa hề lắp bắp trong đời. “Ngày mai... tôi đến nhé?” Laurent đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt của Francis. Vừa khô ráp vừa dịu dàng, hai ngón tay cái lần mò xương gò má. Đôi mắt hai người ở tầm cao ngang nhau. Laurent hôn , và đôi môi có cảm giác như là trung tâm của cuộc sống. “Nếu muốn.” Francis theo con đường dẫn về nhà, vừa sướng thỏa vừa kinh hoàng. là lố bịch: con đường, cây cối, các con dế, bầu trời nhạt nắng, vầng trăng lên, mọi thứ đều giống y như trước. Như thể chúng biết gì, như thể chúng màng. Và nghĩ: “Chúa ơi, tôi là thế sao?” Trong nỗi sướng thỏa và trong cơn kinh hoàng: “Tôi là thế sao?” Susannah bị quên lãng. Nhà trường và mối quan tâm về các nam học sinh mờ dần vào quá khứ xa xăm. Mùa hè năm ấy, trong vài tuần, cảm thấy hạnh phúc. qua khu rừng; là người đàn ông khỏe mạnh, có thế lực, người với những bí mật. tháp tùng Laurent trong những chuyến săn và câu cá, mặc dù bản thân săn hoặc câu. Khi họ gặp người nào đó trong rừng, gật đầu chào họ, ậm ừ cộc lốc, mắt dán vào sợi dây câu hoặc thăm dò cây rừng, và Laurent ngầm cho thấy trở thành tay súng săn cừ khôi, mắt như chim ó, tàn bạo. Nhưng thời gian tuyệt diệu nhất là khi hai người bên nhau, trong khu rừng hoặc ngôi nhà gỗ, và Laurent trở nên nghiêm túc. Laurent cũng thường say xỉn, và đôi tay nâng lấy khuôn mặt của , nhìn và nhìn như thể bao giờ chán. Suy nghĩ lại, có nhiều lúc như thế - Laurent kiên quyết nên lưu lại ngôi nhà gỗ quá lâu, kẻo thiên hạ nghi ngờ. cũng phải dành thời gian đúng mức ở nhà cùng với cha mẹ. thấy việc này là khó khăn - từ buổi chiều hôm ấy, khi bước vào nhà và thấy hai người ngồi dùng bữa. giơ lên món đồ nghề: “Phải chờ cho ấy trở về.” Cha gật đầu. Mẹ quay lại: “Con lâu quá. Cha con muốn làm xong việc ấy trước khi dùng bữa. Con làm gì?” “ với cha mẹ rồi. Con phải chờ.” đặt món đồ nghề lên mặt bàn rồi lên lầu, phớt lờ tiếng kêu mệt mỏi của bà mẹ về bữa ăn tối. run rẩy với niềm vui. Vì lẽ mối quan hệ với cha mẹ chỉ là hời hợt ngay cả vào những thời gian tốt đẹp nhất, họ để ý đến khác biệt khi im lìm hoặc lơ đãng. Giữa các chuyến đến nhà Laurent, chia thời gian cho việc dạo, nằm giường, làm việc nhà với thái độ bồn chồn và lơ là. Chờ đợi. Và rồi đêm khác ở ngôi nhà gỗ, hoặc chuyến câu cá ở hồ, khi thực là chính mình. Những khoảnh khắc được nắm bắt lấy, nồng nàn và buốt nhói, khi thời gian có thể lặng lờ trôi như buổi chiều Chủ nhật, hoặc cuồn cuộn như dòng thác. Nếu đếm số đêm mình trải qua ở ngôi nhà gỗ của Laurent, là bao nhiêu? Có lẽ hai mươi. Hai mươi lăm. Quá ít. Francis giật bắn khỏi quá khứ của mình khi Jacob vào phòng . lấy làm vui vì gián đoạn. Jacob có vẻ kích động hơn là bình thường từng thấy. Francis lấy tay xoa mặt như thể thiếp ngủ, hy vọng Jacob nhìn ra những giọt nước mắt. Jacob mở miệng nhưng ra tiếng nào. “Chuyện gì thế?” “ chuyện lạ lùng. Người phụ nữ tên Line và hai đứa con, cùng thợ mộc - họ ra trong đêm. Vợ thợ mộc dọa tự tử.” Francis há hốc miệng. thợ mộc, mà chưa từng gặp, bị y tá của dẫn dụ ra . (Thế tại sao ấy lại hôn ?) Jacob qua lại: “Tuyết rơi. phải là lúc thuận lợi để di chuyển, nhất là đối với trẻ con. Và tôi gặp ấy, đêm hôm kia, trong chuồng gia súc. ấy cầu tôi đừng gì. Nên tôi .” Francis hít hơi dài: “Họ là người lớn. Họ có thể làm việc gì họ thích.” “Nhưng nếu họ rành địa hình... họ biết làm thế nào di chuyển trong mùa đông...” “Còn bao lâu nữa tuyết rơi?” “Cái gì?” “Còn bao lâu nữa tuyết rơi? ngày? tuần?” “ hoặc hai ngày. lâu. Tại sao?” “Tôi biết họ đâu. ấy trao đổi với tôi; hỏi về Caulfield.” Jacob hiểu ra ý nghĩ của : “Họ có thể tới nơi. Nếu họ được may mắn.” *** tiếng đồng hồ trước, họ gặp những cây đầu tiên, đúng là và lơ thơ nhưng vẫn là cây, và Line cảm nhận niềm vui dâng trào. Họ xa. Đây là rừng cây, và vùng rừng cây kéo dài đến tận bờ hồ. Gần như là họ sắp đến nơi đó. Tờ giấy chỉ dẫn theo hướng đông-nam cho đến khi gặp con sông , rồi theo sông này về phía hạ nguồn. Torbin ngồi yên phía trước , và kể cho nó nghe câu chuyện về con chó của thời còn ở Na Uy. kể cho nó nghe giống như con chó trong truyện thần thoại cùng với những người lính, với đôi mắt to như chiếc đĩa. “Con cũng có thể có con chó, khi chúng ta tìm nơi nào đó để sống. Con thích thế ?” hớ mà kịp dừng. “Nơi nào đó để sống?” Torbin lặp lại. “Mẹ chúng ta chơi. phải chơi hả?” Line thở dài: “Đúng. Chúng ta để sống ở nơi khác, nơi nào đó tốt hơn, ấm hơn.” Torbin cựa quậy quanh yên ngựa để nhìn lên mắt , tia nhìn trông nguy hiểm khuôn mặt nó, cởi mở, mà săm soi: “Tại sao mẹ dối?” “Đó thực phải là dối, con ạ. Chuyện phức tạp nên thể giải thích tất cả cho con, giải thích được ở Himmelvanger. Điều quan trọng là ai ở đó được biết, nếu họ cho chúng ta .” “Mẹ dối với chúng con.” Đôi mắt của Torbin trông nghiêm khắc và hoang mang. Per và ngôi nhà thờ có mái ngói đỏ biến nó thành đứa mô phạm. “ dối là tội lỗi.” “Trong trường hợp này đó phải là tội lỗi. Torbin à, đừng tranh luận. Có nhiều chuyện mà con hiểu được, con còn quá . Mẹ tiếc phải làm theo cách này, nhưng đâu vào đấy rồi.” Đôi má đỏ hồng vì lạnh và phấn khích, Torbin tức giận : “Con còn quá .” Cậu bé ngoe nguẩy. “Ngồi im, trai trẻ, nếu tôi đánh đòn. Tin tôi , bây giờ là phải lúc để tranh cãi.” Nhưng trong khi ngoe nguẩy, Torbin thúc cùi tay vào bụng mẹ, khiến cho há hốc miệng và cảm thấy cơn tức giận dâng trào. “Đủ rồi!” buông tay khỏi dây cương rồi đánh vào chân thằng bé. “Mẹ dối! dối! Đáng lẽ con !” Cậu bé thét lên, quẫy đạp giữa hai cánh tay rồi luồn xuống mặt đất. Hai chân nó khuỵu xuống, rồi nó đứng dậy chạy ngược về hướng họ qua. “Torbin! Torbin! Espen!” Line kêu thét lên chát chúa, kéo giật sợi dây cương để quay đầu ngựa, nhưng có vẻ như con ngựa hiểu chuyện gì. Con vật dừng lại rồi cử động, như con tàu dừng ở sân ga. Espen phi phía trước cùng với Anna, kéo con ngựa chạy vòng lại, và thấy Torbin chạy len lỏi giữa những thân cây. “Torbin!” nhảy xuống, ẵm Anna trao cho Line lúc này xuống ngựa. “Đứng đây, bắt nó! Đừng !” chạy theo Torbin, vòng quanh các thân cây và ngã bổ qua cành cây rơi đất. Trong khoảnh khắc kinh hoàng, hai người mất hút. Anna nhìn qua Line với đôi mắt màu lam u uẩn, và bắt đầu khóc. “ sao đâu, con , con chỉ ngu xuẩn chút. Họ trở lại ngay.” Theo thôi thúc, cúi xuống vòng hai cánh tay qua đứa con , nhắm mắt lại mái tóc lạnh lẽo trơn nhờn của bé. Có lẽ hơn vài phút sau, bóng hai người xuất trở lại giữa rừng cây. Gương mặt Espen trông nghiêm nghị, và lấy tay lôi Torbin lúc này biết sợ. Nhưng vào lúc ấy, Line nhận ra chuyện nào đó tệ hại hơn xảy ra. và Anna tìm kiếm, lúc đầu nghĩ rằng chúng ta tìm thấy ngay; vật hình tròn, cứng, bằng thép trông giống như chiếc la bàn đáng lẽ bình thường phải ở đây, nó lộ ra ràng. Line biến đổi thành trò chơi cho Anna, hứa hẹn phần thưởng cho người nào tìm ra. Chẳng bao lâu, trò chơi trở nên chán ngắt: địa hình ở đây quá phức tạp; những mô đất, hố sâu làm trẹo cổ chân, hang thỏ được che giấu và rễ cây quấn quít, khúc gỗ mục ngang dọc. nhớ được có phải mình đánh rơi khi Torbin thúc cùi tay vào bụng mình, hoặc sau đó, hoặc khi cố ghìm cương ngựa. Địa hình rối rắm lưu lại dấu vết nơi nào họ qua. bảo Espen mình tìm ra, và Torbin nhận ra vẻ sợ hãi khuôn mặt mẹ mình nên nín thinh. Cậu bé biết đó là do lỗi của mình. Tất cả bốn người bắt đầu tìm kiếm, thành vòng tròn quanh hai con ngựa, kéo qua bên những cây địa y và lá cây mục, đưa bàn tay chọc xuống những hốc tối tăm, ướt lạnh. Mọi hướng đều trông giống nhau như giễu cợt họ: những bụi rậm cây thông lớn lên rồi chết tại chỗ, ngã xuống và dựa vào vòng tay nhau, đan kết quanh họ thành cái bẫy dầy đặc. Anna là người đầu tiên nhận ra: “Ma-ma, tuyết rơi.” Line đứng thẳng dậy, lưng mỏi nhừ. Tuyết. Im lìm, những bông tuyết khô bay chung quanh . Espen nhận ra dáng vẻ khuôn mặt . : “Ta tiếp tục tìm kiếm trong nửa giờ nửa, rồi phải tiếp tục . Dù sao ta vẫn có thể nhắm hướng tốt. Quan trọng là cần phải biết hướng đến rừng cây. Đây là chặng dễ .” lần, Torbin reo lên và nhảy nhót, nhưng đó chỉ là viên đá hình tròn màu xám. Line thầm cảm thấy nhõm khi Espen kêu dừng lại. vì cách nắm quyền chỉ đạo, tập họp tất cả lại để dặn dò, rồi chọn hướng mà tiếp. chỉ ra rằng địa y mọc quanh thân cây ở hướng bắc, nên họ phải để ý quan sát xem hướng nào địa y mọc dầy hơn. Đối với Line, có vẻ như địa y mọc đồng đều mọi hướng, nhưng gạt ý nghĩ này . Espen nhận biết; là người bảo hộ cho họ. chỉ là phụ nữ. Espen dẫn Torbin đến con ngựa của , rồi họ im lìm chạy . Tiếng tuyết rơi khỏa lấp mọi thanh, kể cả tiếng kẽo kẹt của dây cương. ***
Tôi đến chuồng gia súc mà có lý do chính đáng, ngoài việc tôi nghĩ làm thế nào hỏi han các phụ nữ, nhưng , tôi sợ họ. Họ trông mạnh mẽ, xa lạ và khinh khỉnh, chỉ hiền dịu đôi chút do nỗi tiếc thương. Tôi là người chưa bao giờ bận tâm với lòng từ thiện và tử tế, hoặc thậm chí hiếu kỳ về người thân cận của mình, thế tôi là ai mà hỏi han họ? Ít nhất các con chó tỏ ra vui mừng khi trông thấy tôi, điên cuồng vì chán ngán khi bị nhốt trong chuồng. Con Lucie chạy đến, vẫy đuôi, hai hàm mở rộng trong kiểu nụ cười hạnh phúc của loài chó. Tôi cảm thấy kỳ quặc vì tình thương mến đối với nó, cảm nhận cái đầu thô ráp của nó dưới bàn tay tôi, lưỡi thè ra như cát nóng bỏng. Rồi Parker diện ở đây. Tôi tự hỏi ông nhìn thấy tôi từ xa hay . Đây là lần đầu tiên ông đến tìm tôi. Đây là lần đầu tiên kể từ khi ông gõ cửa nhà tôi lúc nửa đêm và chúng tôi đạt thỏa thuận giúp nhau. Hôm qua tôi hẳn vui; hôm nay tôi chắc. Giọng của tôi nghe the thé như tôi muốn: “Ông nhận được tin tức như mong muốn hay chưa?” “Ý bà gì?” “Lý do ông đến đây. Nó liên quan đến Francis hoặc Jammet. Ông muốn gặp lại Stewart. Vì chuyện gì đó xảy ra mười lăm năm trước. Vì vụ xô xát ngu xuẩn.” Parker cách cẩn trọng mà nhìn đến tôi: “ phải thế. Jammet là bạn tôi. Và con trai bà... à, ấy mến Jammet. Tôi nghĩ họ mến nhau, phải ?” “À ra thế!” Tôi thốt ra tiếng cười ứ nghẹn. “Quả là cách diễn đạt kỳ lạ. Ông nghe như là...” Parker gì. Con Lucie vẫn liếm bàn tay tôi và tôi quên rụt tay lại. “ ra, tôi...” Hình như Parker đặt bàn tay ông lên cánh tay tôi, và dù phần trong tôi muốn giật tay ra, tôi vẫn làm gì. “ ra, tôi ...” Tôi tin được mình biết. Tiếng của tôi vỡ vụn như lá khô: “Ông gì?” “Jammet ... À, ấy kết hôn, nhưng đôi lúc cũng có... bạn. Đàn ông trẻ, đẹp trai, như con trai bà.” Bằng cách nào đó ông dẫn tôi bước xa khỏi cánh cửa, đến góc tối chất những bành cỏ khô, rồi tôi ngồi trong những bành này. “Lần cuối cùng tôi gặp ấy - đó là vào mùa xuân - bà biết , đến người nào đó sống gần . ấy biết tôi phê phán ; mà cũng màng.” Khuôn mặt ông thoáng nụ cười, ông bắt đầu châm lửa dọc tẩu, vội vã: “ quan tâm sâu sắc đến kia.” Tôi đưa tay vuốt tóc mình. Có vài lọn tóc vuột ra khỏi chiếc nơ, và qua ánh sáng ở lối tôi có thể thấy dăm ba sợi tóc bạc. Tôi phải đối diện với thực. Tôi già , và đầu óc đầy những ý nghĩ mà tôi chịu đựng được. Tôi chịu đựng được ý nghĩ là mình nhận ra những diễn tiến. Tôi chịu đựng được ý nghĩ là Angus ghét Francis vì chuyện này, vì bây giờ tôi nhận ra rằng biết. Tôi chịu đựng được ý nghĩ về nỗi đau buồn của Francis, hẳn là - đúng là - cực độ, bí , đơn chịu nổi. Và tôi chịu đựng được ý nghĩ là khi gặp nó, tôi an ủi nó được nhiều. “Trời ơi! Đáng lẽ tôi phải ở bên nó.” “Bà là phụ nữ can đảm.” Tôi hầu như bật cười: “Tôi là phụ nữ ngu dốt.” “Bà đến tận đây vì con trai bà. Ghét như thế này. ấy biết điều đó.” “Mà làm gì ra trò. Chúng ta vẫn chưa tìm ra người để lại dấu vết.” Parker chen ngang mà phủ nhận, ông im lặng hút thuốc trong phút rồi : “Stewart cho bà xem vết sẹo phải ?” Tôi gật đầu: “Ông ấy ông gây ra khi xô xát trong chuyến .” “ phải trong chuyến . Sau đó. Để tôi cho bà nghe đôi điều mà có lẽ ông ấy , rồi bà tự suy nghĩ. Stewart có tương lai hứa hẹn. Ai cũng ông ta tiến xa. Ông là mẫu người thích hợp. Vào mùa đông ở Hồ Clear, ông bắt nhóm chúng tôi đến thương điếm khác. Gần năm trăm kilômét. Tuyết phủ dày gần mét mặt đất. Thời tiết kinh khủng. Người ta di chuyển giữa mùa đông trừ khi bị bắt buộc. Ông ta làm thế để chứng tỏ mình làm được.” “Có phải đó là chuyến nổi tiếng mà Moody đến ?” “Đó là chuyến nổi tiếng, nhưng phải vì những lý do ấy nêu ra. Khởi đầu, bọn tôi có năm người. Stewart, nhân viên Công ty khác tên Rae, cháu trai của Rae, mới mười bảy tuổi. con trai làm việc cho Công ty; thăm viếng vùng này. Rồi còn có tôi và người hướng đạo, Laurent Jammet.” “Như tôi , thời tiết xấu; tuyết phủ dày. Rồi thời tiết càng tệ hại hơn. Có cơn bão tuyết, và may mắn mà chúng tôi tìm được ngôi nhà gỗ, cách xa mọi nơi chốn hàng trăm kilômét. Cơn bão tuyết tiếp tục và tiếp tục. Chúng tôi chờ cho bão dứt, nhưng đó là trong những cơn bão tháng Giêng kéo dài hàng tuần. Thực phẩm của chúng tôi cạn dần. Chỉ có thứ còn nhiều là rượu. Jammet và tôi quyết định tìm người giúp đỡ. Dường như đó là cơ hội duy nhất. Chúng tôi với hai người kia là trở về càng sớm càng tốt, để lại cho họ tất cả thực phẩm, rồi lên đường. Chúng tôi gặp may. Sau hai ngày, chúng tôi tìm ra ngôi làng người Da Đỏ, rồi thời tiết lại tồi tệ thêm, và thêm ba ngày chúng tôi quay về được.” “Khi cuối cùng chúng tôi quay về, có chuyện xảy ra. Chúng tôi thấy Stewart và Rae trong tình trạng say khướt. con trai chết, nằm mặt đất, chết ngộp trong thức ăn nôn mửa. Họ bao giờ giải thích cặn kẽ, nhưng tôi nghĩ chuyện xảy ra là như thế này: Stewart đến cái mà ông ta gọi là ‘ra trong huy hoàng’. Ông cười đùa về việc này. Tôi nghĩ khi chúng tôi chưa về kịp ông bỏ cuộc. Ông quyết định họ phải uống rượu cho đến chết. Rae và ông ta được như ý, nhưng con trai chết.” “Làm thế nào ông biết đó là ý tưởng của ông ấy?” Tôi rùng mình trong người vì ý nghĩ này. con trai khi ấy bằng tuổi Francis bây giờ. Giọng ông nghe lạnh tanh vì khinh bỉ: “Đó là cách nghĩ của ông ta.” “Và rồi sau đó sao? Họ có sa thải ông ấy ?” “Làm thế nào họ chứng minh được? Đó chỉ là thảm kịch. Chỉ do thiếu suy xét. Thế là tồi tệ rồi. Rae trở về Scotland, Stewart tiếp tục làm việc, còn con trai nằm trong lòng đất. Tôi rời khỏi Công ty. Từ lúc đó đến giờ tôi gặp lại ông ta.” “Còn vết sẹo sao?” “Tôi nghe ông ta chỉ trích con trai. ấy yếu đuối và sợ hãi, và muốn tìm lấy cái chết. Thế rồi tôi uống rượu.” Ông nhún vai, tỏ vẻ tiếc nuối. thời gian dài trôi qua trong im lặng. Dù sao, tôi biết ông chưa hết. “Còn chuyện kia?” “Ừ. Năm hay sáu năm trước, Công ty thiếu nhân lực nên họ mang người từ Na Uy. Phạm nhân, Stewart làm quản đốc ở Thương điếm Nai Sừng tấm, và họ nhận nhóm người này. Những người Na Uy ở Canada cũng gia nhập bọn họ. Người quả phụ ở Himmelvanger, người chăm sóc con trai bà - chồng ấy ở trong nhóm này.” Tôi nghĩ đến người quả phụ - trẻ, đẹp, với vẻ bồn chồn và khao khát. Có lẽ tố chất này giải thích vụ việc. “Tôi ở đó, nên đây chỉ là lời đồn đoán. Vài người Na Uy nổi loạn và bỏ trốn. hiểu bằng cách nào mà họ mang theo được nhiều lông thú cao giá. Lúc đó Stewart lâm vào tình cảnh bi đát, vừa vì vụ nổi loạn vừa vì mất số hàng cao giá. người nào đó làm việc ở nhà kho hẳn phải là tay trong.” “Stewart phải ?” “Tôi biết. Dĩ nhiên là người ta phóng đại, các bộ lông thú là cả khối tiền cho người nào tìm được bọn họ. Hàng chục bộ chồn bạc và chồn đen.” “Nghe như có giá trị nhiều để phải tốn công.” “Bà biết tấm da chồn bạc giá bao nhiêu ?” Tôi lắc đầu. “Ở London, giá cao như vàng.” Tôi cảm thấy sốc. Và thấy thương cho các con thú. Tôi có thể giỏi giang gì, nhưng ít nhất khi sống có giá trị hơn khi chết. “Stewart được điều đến đây. Bây giờ ở đây còn lông thú. Chỉ còn có thỏ. Chẳng có giá trị gì cả. Tôi hiểu tại sao họ còn cất công duy trì Hanover. Đối với người đầy tham vọng đó là xúc phạm. Người ta được thăng chức từ nơi chốn như thế này. Đó là hình phạt đối với những gì ông làm.” Tôi nóng lòng muốn biết đoạn kết: “Chuyện này liên quan gì đến Jammet?” “Ờ. Năm rồi...” Ông dừng lại, vân vê thuốc lá trong dọc tẩu - cách cố ý, tôi thấy dường như thế. “Mùa đông năm rồi... tôi tìm thấy các bộ lông thú.” “Chồn bạc và chồn đen hở?” “Đúng.” Giọng ông pha vẻ thích thú, hoặc có lẽ để chống chế. “Có đáng là khối tiền ?” Tôi cảm thấy - tôi xin lỗi Francis về việc này - nỗi phấn khích. Khối tiền có nhiều hình thức dù cho kinh khiếp, và luôn khiến cho quả tim nông cạn như tim tôi đập nhanh hơn. Parker hơi nhăn mặt: “ nhiều như người ta , nhưng... vừa đủ.” “Còn… mấy người Na Uy sao?” “Tôi tìm thấy họ. Nhưng bất kỳ dấu vết nào cũng mất từ lâu. Họ ở vùng trống .” Tôi thể ngưng hỏi tiếp: “Ý ông là chó sói phải ?” “Có lẽ.” “Nhưng ông chó sói... để lại nhiều bộ phận.” “Qua nhiều năm, nhiều loài sinh vật đến tiêu thụ: chim ăn thịt, chồn... Có lẽ họ xa. Điều tôi muốn là tôi thấy gì hết. Các bộ lông thú được cất giấu như thể họ định quay lại. Nhưng họ hề quay lại.” “Thế là tôi kể cho Laurent nghe. ấy tìm người mua ở Mỹ. Nhưng có tật rượu vào lời ra. mang câu chuyện ra khoe khoang. Tin tức hẳn lan truyền, lan tới Stewart ở đây. Chính vì thế mà ấy bị giết.” “Điều gì khiến cho nghĩ đấy là Stewart?” “Stewart muốn chiếm các bộ lông thú hơn ai hết. Bởi vì ông ta làm mất. Nếu kiếm lại được, ông ta là hùng. Công ty thu nhận lại ông.” “Hoặc là ông ta giàu to.” Parker lắc đầu: “Tôi nghĩ tiền bạc quan trọng. Đối với ông ta là niềm kiêu hãnh.” “Có thể là do người khác - bất kỳ người nào đó - nghe Jammet và muốn chiếm lấy khối tiền.” Ông quay sang nhìn tôi: “Nhưng dấu vết người đó dẫn đến đây.” Tôi suy nghĩ về điều này chốc. Đúng thế. Đúng nhưng chưa đủ. “Dấu vết dẫn đến đây nhưng bây giờ mất. Nếu ta tìm được hung thủ...” Thình lình tôi nhớ ra thứ, và nóng bừng vì phấn khích: “Này, tôi tìm ra ở nhà Jammet...” Tôi rút ra mảnh giấy từ túi mình và trao cho Parker. Ông xem xét, cầm nghiêng về phía cánh cửa tuy vẫn đủ sáng. “Sáu mươi mốt, đó là loại hàng hóa, phải ?” “Phải. Phải rồi. Bà tìm ra cái này phải ?” “Trong hũ bột của ấy.” Parker mỉm cười. Tôi cảm nhận niềm hãnh diện - chỉ trong tích tắc, rồi mờ dần. Cái này chẳng chứng minh được gì cả, ngoài việc Jammet quan tâm đến các bộ lông thú theo cách nào đó. Chẳng giúp ích được gì. “Tôi trao nó cho ấy, với tấm da chồn bạc. Việc này làm cười to, nên giữ lấy. Dĩ nhiên là mang tấm da bán.” Tôi : “Ông giữ nó . Có lẽ ông nghĩ đến cách sử dụng nó như thế nào.” Thậm chí tôi tự hỏi tôi có ý gì. Parker cũng hỏi, nhưng mẩu giấy biến khỏi tầm mắt tôi. Tôi vẫn biết phải làm gì. Dĩ nhiên Moody là người cần được thuyết phục. “Ông kể cho Moody tất cả chuyện này chứ? Có lẽ lúc bấy giờ ấy nhận ra.” “Đó phải là bằng chứng, như bà . Moody mến Stewart; Stewart luôn có tài khiến cho những người như Moody mến mình. Hơn nữa, Stewart đến Sông Dove. Có người nào khác.” “Tại sao lại có người gây án hộ cho người khác?” “Có nhiều lý do. Tiền bạc. Sợ hãi. Khi ta biết người đó là ai ta biết tại sao.” “Đó có thể là trong những người ở đây. Có lẽ đó là Nepapanees, và khi ấy... đe dọa khai ra, Stewart giết .” “Tôi nghĩ, tôi tự hỏi họ có thể tìm ra thi hài ấy hay .” “Có nghĩa là sao?” “Có nghĩa, họ theo hướng Stewart chỉ cho họ . Tuyết bao phủ dấu vết. Họ chỉ nghe ông ta chuyện gì xảy ra.” Bầu khí im lặng dày đặc đến nỗi ngay cả tiếng các con chó ăng ẳng thể xuyên qua. *** Họ đến địa điểm mà Stewart cho họ biết đêm trước. Ánh sáng chiếu rọi qua bầu trời, và mọi thứ đều có màu xám: mây xám óng ánh như ngọc trai, tuyết xám nhàn nhạt. Lớp tuyết mịn mặt băng của con sông làm cho hình ảnh lộ ra: con đường rộng chạy vòng qua khu bình nguyên, khoảng hai mét dưới mặt đất. Con sông xói mòn sâu hơn trong lớp vỏ trái đất kể từ lúc nó bắt đầu chảy. Có những dấu hiệu - được lớp tuyết mỏng bao phủ - cho thấy gần đây người nào đó diện. khu vực xù xì, có nhiều dấu giẫm đạp nơi mặt đất dốc xuống thành bãi sông. Nhìn từ bên , mặt băng con sông phẳng phiu màu trắng đồng nhất, ngoại trừ điểm ở xa xa có màu sậm hơn, trông như bóng tối, có nghĩa là mặt băng bị vỡ và nước đông lại thành lớp băng mới mỏng hơn, chỉ có ít tuyết bao phủ. Đó hẳn là địa điểm. Alec bên cạnh mẹ, đôi lúc nắm lấy tay . Hành trình khó nhọc cho cậu bé; Elizabeth phân vân liệu có nên dẫn cậu theo , nhưng ánh mắt của cậu gợi cho nhớ đến Nepapanees. Cậu bé trông cả quyết và nghiêm túc. Chỉ mới hôm qua cậu còn là đứa con trai với người cha làm khuôn mẫu thử thách cho cậu. Bây giờ, cậu phải trở thành người lớn. Nhóm người để lại chiếc xe trượt tuyết bên bờ sông rồi xuống gần dòng nước. Elizabeth nắm lấy tay Alec. Nhóm đàn ông bước thận trọng, dùng cây gậy dài chọc xuống lớp băng để thử độ dày. Nơi nào lớp băng vỡ, gần bóng tối, nước phía dưới trông như có màu đen. người kêu lên - nước cạn hơn là họ nghĩ. Họ xem xét dòng chảy, bàn với nhau phải làm gì. Elizabeth nhìn về hướng hạ nguồn, nơi con đường lượn vòng quanh. Ở đâu đó đằng kia, Nepapanees chờ đợi. “Con ở đây,” bảo Alec, biết rằng cậu bé vâng lời. bước về hướng hạ nguồn mà ngoảnh mặt lại. Nhóm đàn ông lo lắng nhìn theo. Những gì thấy: khoảnh đứt quãng giữa bề mặt láng mịn trắng của con sông; điểm thô nhám nơi các cành cây gãy xuống bờ nước, tạo thành con đê . Bất kỳ thứ gì trôi xuống theo dòng nước từ thượng nguồn vướng vào nơi đây cho đến khi các cơn lũ mùa xuân cuốn tất cả. Elizabeth lướt đến dọc bờ nước phía con đê. phần đầu óc thắc mắc tại sao Stewart tìm kiếm nơi đây, vì thấy lớp tuyết còn nguyên. Lớp băng dày dưới chân . quỳ xuống, dùng bao tay gạt tuyết sang bên, để lộ ra lớp băng bên dưới. Băng trong suốt như thủy tinh. Bóng tối của dòng nước bên dưới mở ra dưới tầm mắt , màu nâu-đen, đầy những cây cỏ mục. dùng tay cào lớp băng, phá vỡ các mảng nơi các cành cây xuyên qua, tiếp tục cào bới, cho đến khi... Là đây... sâu dưới kia, vướng trong lớp bùn lầy, thấy cái gì đó, cái gì đó vừa có màu sáng lẫn tối, cái gì đó to lớn và bất thường, bị mắc kẹt trong bóng tối của dòng nước. Có những tiếng kêu, và vài người đàn ông vội đến phía sau , nhưng nhận biết diện của họ, và nhận biết hơi thở mình gấp gáp giữa hai hàm răng, cũng nhận biết đôi bàn tay trần trụi của mình chảy máu và xanh tím vì lạnh, vẫn còn bới tung các rìa băng sắc nhọn. Rồi đám đàn ông cầm gậy và rìu đến bên , đập vỡ lớp băng thành từng mảng sủi bọt. Những bàn tay kéo tránh xa khỏi lỗ hổng nhưng làm họ kinh ngạc khi nhào xuống, đầu chúi xuống trước, đưa tay nắm lấy thi hài chồng kéo lên. Trong cơn sốc thình lình của cái lạnh chết người, dù mở to hai mắt chỉ nhìn thấy màn đen sâu thẳm và ánh sáng xám-xanh phía ; cho đến lúc có cái gì đó thoát ra tự do và trôi đến đôi cánh tay giăng ra giống như người tình trong cơn ác mộng. Xác của con nai bơi về phía , đôi mắt thối rữa mở rộng và sâu hoắm, đôi môi đen sì bị rút rỉa đến tận hai hàm răng toe toét, xương sọ trắng hếu qua lớp lông lù xù. Lớp da nổi lều bều chung quanh như là tấm voan tả tơi. Khi kéo lên khỏi mặt nước, trong lúc họ nghĩ chết. Đôi mắt nhắm lại, nước chảy ra khỏi miệng . Peter Eagles ép ngực rồi ho, nôn ra nước sông. mở mắt. Họ mang lên bờ, tháo lớp áo sũng nước, chà xát da thịt . người đốt đống lửa. Người khác mang đến tấm chăn. Alec khóc. Cậu bé sẵn sàng chịu mất thêm mẹ. Elizabeth nhận ra vị nước sông trong miệng, vị vương lại giữa hai hàm răng, vị lạnh lẽo và chết chóc. Khi hai hàm răng thôi đánh lập cập, : “ ấy có ở đó.” George Cummings dùng góc tấm chăn chà xát hai bàn tay . “Có cả khoảng dài để tìm kiếm; tụi tôi đập vỡ hết các tảng băng cho đến khi nào tìm được ấy.” lắc đầu, vẫn còn hình dung ra vẻ mặt của con nai chết mỉm cười trong vẻ chiến thắng với : “ ấy có ở đó.” Sau đó, họ ngồi quanh đống lửa, ăn món thịt ruốc và uống trà. Bình thường họ vẫn câu cá, nhưng ai muốn câu cá ở đoạn sông này; thậm chí ai nêu ý kiến. Alec ngồi dựa vào Elizabeth, và cảm nhận hơi ấm từ người cậu bé. Họ dựng lều trú bãi sông khác, cách xa tầm mắt nơi họ làm vỡ mặt băng, được các dải bờ sông cao che chắn gió lạnh. Nhưng khí yên ắng đến ngạc nhiên; làn khói từ đống lửa tỏa vươn lên cao. William Blackfeather khẽ cất tiếng, đến riêng người nào: “Ngày mai, khi trời vừa sáng, ta tìm kiếm, đoạn và đoạn dưới. Bọn ta bao trùm vùng rộng.” Gật đầu. Rồi Peter: “Nước cạn đến mức kỳ lạ. Mình nghĩ khó mà bị nước cuốn trôi được. Dòng chảy mạnh.” George gật đầu về phía EIizabeth, ra hiệu cảnh báo. Nhưng có vẻ như lắng nghe. Kenowas hạ thấp giọng: “Lớp băng bị đập vỡ còn mới. Lớp băng trước dày, chỉ dày bằng phân nửa so với lớp mới.” Tất cả đều im lặng, chìm sâu vào ý nghĩ của riêng mình. Rồi Kenowas lớn tiếng: “Tôi lớp băng đó, cho dù đuổi theo con gì nữa.” “ gì?” Amaud có tính thô lỗ và hiếu chiến, ngay cả khi say rượu. Kenowas nhìn qua . Giữa hai người từ lâu có mối hiềm khích. “Tôi cũng nghĩ Nepapanees ra đó. Ngay cả thằng dốt như cũng phải suy xét cho kỹ.” ai cười, cho dù đó là câu có ý giễu cợt. Có trong lời của , vì Nepapanees là người đặt bẫy sắc sảo nhất, người có kinh nghiệm nhất trong bọn họ. Điều mà nhiều người nghĩ, tuy ra, là linh hồn của Nepapanees dẫn dắt họ qua xác con nai. được rửa tội, nên có linh hồn con nai phù hộ thay vì có thiên thần . linh hồn mạnh mẽ, nhanh nhẹn, quả cảm, biết các khu rừng và bình nguyên. Còn giỏi hơn là thiên thần bé . Làm thế nào mà đứa bé, sinh ra từ ngày xưa trong xứ sở nóng bức, giữa sa mạc, lại biết cách sinh tồn giữa vùng hoang dã lạnh giá được? Nó có thể dạy cho những gì? Rồi Elizabeth - là người được rửa tội với vị thánh đặc biệt để phù hộ và có phần dòng máu da trắng trong huyết quản - lắc đầu và tặc lưỡi khi tức giận, hoặc chế giễu và kéo tóc khi vui vẻ. Khi cải đạo ở tuổi trưởng thành, thích suy nghĩ của Thánh Francis[57], với lòng từ tâm và cách truyền thông với chim chóc cùng những con vật khác. Vị Thánh gần giống Nepapanees về điểm này và vì thế Người được mến ở đây - bốn đứa trẻ và hai người lớn chọn Người làm thánh bổn mạng cho họ. Bây giờ có vẻ như Thánh Francis ở quá xa và can hệ gì đến thực tại, Người hiểu được cái chết này, hiểu được nỗi đau giá lạnh của . Elizabeth thể gạt ra khỏi đầu óc hình ảnh cái đầu của con nai. tin chắc chồng mình ở trong dòng sông, ở nơi nào gần đó, nhưng có lẽ lầm. Có lẽ đức tin của chồng luôn là đức tin đúng, và nhìn thấy linh hồn của , trở về để trêu ghẹo nhận đức tin theo . cảm thấy xa lạ, lạnh cóng hơn là cái lạnh, bị tách rời khỏi nhóm đàn ông và thực phẩm và đống lửa. Thậm chí tách rời khỏi tuyết và khí tĩnh lặng và bầu trời rỗng đáy. Chỉ có thân hình mềm mại của đứa con trai là còn kết nối với trần thế này; thân thể mỏng manh có hơi ấm con người, dễ tan vỡ. *** Nhiệt độ tiếp tục hạ. Trong cái lạnh này, có cảm giác như khí đặc lại thành cái kẹp sắt. Nó lấy hơi thở con người, hút hơi ẩm từ lớp da, cháy bỏng như lửa. Có im lặng sâu lắng, hầu như có ý thức khoảnh sân, đó các bàn chân dẫm lên lớp tuyết với tiếng động đến kinh ngạc. Đó là tiếng động đánh thức Donald: tiếng lớp tuyết bị ép chặt và kêu cọt kẹt dưới chân người. Viện cớ cơn sốt , nằm giường cả ngày và ngủ cho đến chiều, chiếc ghế chặn dưới nắm cánh cửa, mơ màng cách dễ chịu khi ánh sáng tắt dần. có gì bất thường về các bước chân - vẫn còn có người lại - chỉ có điều các dấu chân tạo nên hình mẫu kỳ lạ, đồng đều, khiến tỉnh khỏi cơn mụ mẫm thoải mái. Tuy chú tâm, vẫn lắng nghe người ta bước , dừng lại, rồi bước tiếp đoạn ngắn. Rồi lại dừng. chờ đợi - mẹ kiếp! - nghe họ bước tiếp. Cuối cùng, chống hai cùi tay gượng ngồi dậy, nhìn ra khoảnh sân tối dần. Vài khung ánh sáng hình vuông chiếu ra, có lẽ là từ những văn phòng. Thoạt đầu nhìn ra người ấy, nhưng đấy chỉ vì người này ở trong bóng tối; có lẽ ta đoán phòng của Donald trống vắng vì có ánh sáng. Rồi Donald nhìn ra người kia: người đàn ông mặc áo lông thú, với mái tóc dài sẫm màu. thắc mắc toán tìm kiếm trở về chưa. nhận ra người này, và sau lúc thấy là người này ở trong toán tìm kiếm. ta có bộ dạng lấp lấp ló ló, nhìn chung quanh mình với cử chỉ cẩn thận tột độ, di chuyển nhanh nhẹn như diễn viên kịch câm. ta say bét nhè. Donald nhìn mà thấy buồn cười khi ta loạng choạng qua cái gì đó trong bóng tối, và càu nhàu. Rồi, khi có tiếng nào đáp lại, bước đến các nhà kho và mất hút. người quá say nên giúp gì được trong cuộc tìm kiếm. Donald lại nằm xuống, kéo tấm chăn lên tận cằm. Có những người ở Pháo đài Edgar say sưa nhiều tháng, cả mùa đông làm được tích gì. Quả là buồn khi thấy họ lâm vào tình trạng đó, có nghĩa là đời sống của họ ngắn ngủi. Tật say xỉn là căn bệnh ngày càng trầm trọng, và thoạt đầu Donald bị sốc khi thấy nhân viên lớn tuổi của Công ty làm gì để ngăn chặn, mà lại còn cho phép nhân viên tải hàng được tự do uống loại rượu kém chất lượng. Khi thử trao đổi với Jacob này tránh né; chỉ vì rượu mà Jacob lụi con dao vào bụng Moody. Theo như Donald biết, từ lúc ấy Jacob động đến giọt rượu nào. Chỉ có lần Donald đem vấn đề ra bàn với Mackinley, để chỉ thấy Mackinley tròn đôi mắt nhợt nhạt nhìn mình với vẻ ngạc nhiên nếu là khinh miệt. Mackinley chỉ chốt lại vấn đề bằng câu: “Cả thế gian làm việc theo cách đó.” Các thương nhân dùng rượu để dẫn dụ người đặt bẫy và nhân viên; nếu Công ty cung cấp rượu bị mất lợi thế về tay những nhóm cạnh tranh với họ vốn có tính đắn đo mà cũng màng đến an sinh của người làm việc cho mình. Hành động theo cách khác là ngây thơ. Donald cảm thấy có điều gì đó ổn trong cách biện luận này, nhưng dám ra. Sau lúc, nghĩ về những gì Bà Ross cho nghe tối qua. Nesbit là người trẻ như , chỉ mới từ Scotland đến đây. Người có học thức và gốc gác khá. thư ký cấp thấp, nhưng có trí thông minh để thăng tiến trong Công ty. Các mối tương đồng khiến cho bị đánh động; hoặc đúng hơn, khi xét qua các mối tương đồng khác biệt bắt đầu đánh động . Tật giật mình vì hay lo lắng và tiếng cười cay đắng của Nesbit, cùng nỗi căm ghét cuộc sống của bản thân. ta sống ở xứ sở này lâu hơn Donald gấp hai lần, và dù chịu nhiều khổ sở vẫn nghĩ rằng mình bao giờ rời . Donald thoáng rùng mình khi suy ngẫm tương lai của Norah, với khuôn mặt bầu bĩnh tỏ vẻ hồ nghi, cách ăn xấc xược, và vòng tay tạo thoải mái cho Nesbit. Trong quá khứ, nghe qua những mối quan hệ dị chủng - ngay ở Pháo đài Edgar cũng là thông thường - nhưng Donald vẫn nghĩ việc này chẳng bao giờ dính dáng đến mình. nghĩ đời mình có chủ đích kết hôn (nhưng vì lý do nào đó, chi tiết vẫn chưa ràng) với tiếng - như Susannah, mà thực ra chưa hề dám mơ đến người nào đẹp đến vậy. Trong mười tám tháng đầu sống ở Pháo đài Edgar, có vẻ như chủ đích ấy ngày càng xa vời. Nhưng khi nhìn đến các bản địa diện nhiều ở Pháo đài thối lui, dù cho cánh đàn ông giễu cợt về này kia vốn hay cười khúc khích trước mặt . Nhưng chưa hề gặp người phụ nữ bản địa nào đẹp như Nancy Eagles. vẫn còn cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ thân người mềm mại của , bàn tay táo bạo và gây xúc cảm - tức là, nếu tự cho phép mình nghĩ đến. Nhưng nghĩ đến. Khó mà tưởng tượng bằng cách nào Norah có cùng ảnh hưởng tạo kích động đối với Nesbit. Bức thư viết cho Maria nằm mặt bàn. Đêm hôm qua, sau khi cơn tức giận qua , nhặt lên nhúm giấy bị vò nát, vuốt lại cho phẳng phiu rồi cố ép lại giữa những tờ giấy khác, đặt đôi giày ủng nén lên , nhưng e như thế vẫn chưa đủ. Có lẽ dù sao nữa cũng nên viết thư cho . Có lẽ vò nát nó thành nhúm là điều may mắn. Chính Susannah là người phải nghĩ đến, và nghĩ đến, cố nắm bắt hình ảnh của , để nghe trong đầu giọng nhàng thanh thoát như ánh bạc. Khi ánh nắng chiều tắt hẳn, Donald ăn mặc tử tế. đói bụng, mà nghĩ đó là dấu hiệu của sinh lực, và ra hành lang bóng người. tìm thấy Nesbit trong văn phòng - chính là ánh sáng thấy từ bên kia khoảnh sân. thấy bóng của Stewart, Bà Ross hoặc của ai khác. Nesbit ngồi ngã ra khỏi bàn với vẻ mặt nhăn nhó, tấm lưng gù gù vươn thẳng. ngoác miệng ngáp, lộ ra những chiếc răng hàm đen đúa: “Sổ sách kế toán chết tiệt. Tai ương trong đời tôi. trong những tai ương. Có lúc kế toán viên làm việc ở đây - Archie Murray. Cái trai trẻ trông tức cười - như con chuột. Nhưng từ khi ta , tôi phải tự làm lấy, và đây phải là điểm mạnh của tôi, ngại gì mà cho biết. Chẳng phải là điểm mạnh gì cả.” Donald thoáng có ý nghĩ muốn ngỏ lời giúp ta, nhưng cảm thấy mình tha thiết lắm. “ phải là chúng tôi có thu nhập dồi dào để xử lý. Nhiều chi tiêu hơn là thu nhập, nếu hiểu tôi muốn gì. Ở chỗ làm xoay xở như thế nào?” “Khá tốt, tôi nghĩ vậy. Nhưng rồi tụi tôi là thương điếm chứ phải điểm xuất xứ của sản phẩm. Tôi đoán có lúc - nhiều năm trước, trước khi có nhiều người - cả xứ sở này có đầy lông thú.” Nesbit lộ vẻ u sầu: “Tôi thấy khi nào vùng quanh đây có nhiều thứ gì cả. biết người bản địa gọi vùng này là gì ? Xứ Chết đói. Ngay cả mấy con chồn chết tiệt cũng tìm ra thứ gì để ăn - và dĩ nhiên chúng đều là của nợ. Đến lúc làm chầu.” Từ nơi ngồi, Nesbit lượn qua Donald rồi rút ra chai whisky mạch nha phía sau vài cuốn sổ kế toán: “ nào.” Donald theo Nesbit vào phòng khách của này - căn phòng , trơ trụi kế bên phòng làm việc, chỉ có đôi ghế bành nhồi quá dầy và vài bức chạm nổi loại gì. “Chiều nay ông Stewart ở đâu?” Donald hỏi khi nhận ly rượu đầy. May mắn là nó ngon hơn loại rượu rum ở Pháo đài Edgar. Donald vẩn vơ tự hỏi tại sao thế - nơi vùng hoang vu, có thức ăn đàng hoàng và công việc quản gia lôi thôi - cư dân của Nhà Hanover lại uống rượu như vua chúa. Nesbit mơ hồ: “À, đây đó... Đây đó. biết mà...” nghiêng người tới trước ghế bành, chăm chăm nhìn Donald làm luống cuống: “Con người đó... Con người đó là vị thánh. vị thánh tuyệt đối.” Donald thận trọng : “À...” “Điều hành nơi này là nhiệm vụ chẳng ai khen thưởng, tin tôi , nhưng ông ấy bao giờ than van. Người ta bao giờ nghe ông ấy phàn nàn gì về việc này, thực hề giống công việc của . Và ông ấy là người có thể làm được bất kỳ việc gì; năng lực cao nhất, ở mức cao nhất.” Donald có phần cứng nhắc: “Vâng, có vẻ như ông ấy có năng lực.” Nesbit nhìn với vẻ tính toán: “Tôi dám hẳn nghĩ người nào bị điều ra tận cùng địa ngục này phải là nhân viên hạng hai, và có thể đúng trong trường hợp của tôi, nhưng đúng trong trường hợp ông ấy.” Donald cúi đầu - và rồi lắc đầu - cách lịch , hy vọng mỗi cử chỉ tán đồng và phủ nhận được gán ghép đúng cách vào mỗi ý nghĩa. “Người bản địa mến ông ấy. Họ thực đánh giá nhiều về chúng ta, và đó là ý nghĩ hai chiều nên cũng đúng lý, nhưng ông ấy... họ xem ông như là thứ thần linh . Bây giờ ông ấy ra ngoài, chuyện với họ. Trong lúc, khi ông ấy trở về với tin tức của Nepapanees, tôi nghĩ tình hình có thể trở nên xấu , nhưng ông ra ngoài đó mà ban phát ân huệ cho họ.” “À. Hừm. Đáng ngưỡng mộ,” Donald thầm, tự hỏi Jacob có khi nào được ai ban phát ân huệ hay . cũng nhớ lại cách sống động người quả phụ bị bỏ mặc nền tuyết trong khi Stewart và Nesbit vào. Nhưng lạ kỳ, cho dù Donald lấy làm tự hào có đầu óc độc lập khi nghe lời tán dương nhưng cả tin, lại quá dễ mà tin rằng người ta sùng bái Stewart. thấy mình bị Stewart cuốn hút gần như ngang bằng việc kinh tởm Nesbit. Nhìn vào chất rượu màu hổ phách trong ly mình, Nesbit : “Tôi biết mình là hạng hai. Có thể tôi biết nhiều lắm, nhưng điều này tôi biết.” Donald thắc mắc có phải Nesbit đánh mất chính mình hay ; trong lúc có ý nghi ngờ kinh khủng là Nesbit sắp bật khóc. Nhưng rồi Nesbit mỉm cười, với dáng vẻ cay đắng yếm thế mà quen thuộc: “Moody, còn thế nào, hòa nhập ra sao trong việc?” “Tôi muốn gì.” “Ý tôi , có phải là hạng hai ? Hoặc là hạng nhất?” Donald gượng cười. “Hoặc có lẽ chưa biết.” “Tôi à... Tôi đồng ý đó là cách phân biệt hữu ích.” “Tôi nó hữu ích. Nhưng nó hiển nhiên. Tức là, nếu có can đảm mà nhìn ra.” “Tôi nghĩ vậy. có thể cho rằng chấp nhận đánh giá chính mình là can đảm, nhưng tôi thấy làm như thế là rũ bỏ trách nhiệm trong cuộc sống. Tư tưởng yếm thế như vậy khiến cho nghĩ mình có quyền từ bỏ mà bản thân cần nỗ lực. Tất cả thất bại đều được biện minh trước.” Nesbit mỉm cười cách khó chịu. Donald thích cách trao đổi nửa nghiêm túc như thế này, mà lúc trước tham gia - thường là cuối buổi tối mùa đông dài - nhưng vết thương bắt đầu hành hạ trở lại. “ nghĩ tôi thất bại hả?” Thình lình ra trong đầu Donald hình ảnh của Nesbit bị kẹp trong vòng tay màu gỗ xà cừ của Norah, và cảm thấy có lỗi vì biết con người ta. Hầu như cùng lúc, trong đầu , gương mặt của Susannah kết tinh ràng và sắc nét tuyệt vời; sau cả thời gian dài dò dẫm trong sương mù, mỗi mảng tụ lại đúng chỗ và kết hợp lại với nhau, thế là ra: toàn vẹn, chuẩn xác, kiều. Cùng lúc, nhận ra với cú sốc rằng tình cảm của đối với có giới hạn, chủ yếu chỉ có lòng ngưỡng mộ và kính sợ. bị thôi thúc phải chạy về phòng mình và viết nốt bức thư cho Maria. Con người Maria tinh tế, khó đoán. lạ kỳ. lạ kỳ nhưng cũng thong dong, niềm cảm nhận như thế. tuyệt diệu! kiềm hãm nụ cười về ý nghĩ này. “ có nghĩ vậy ?” Donald phải căng óc để cố nhớ xem câu hỏi là gì. “, phải. Nhưng tôi có thể tưởng tượng nỗi chán ngán ở nơi chốn như thế này. Tôi tin mình cũng cảm thấy thế nếu rơi vào tình cảnh này. Người đàn ông cần có bạn bè, và cuộc sống đa dạng. Tôi biết mùa đông dài như thế nào, mà đó là tôi chỉ mới kinh qua mùa đông đầu tiên. người bạn đủ, dù cho người này là hạng nhất.” “Hoan hô! Này, có nghe gì ?” Nesbit nốc cạn ly rượu và chuẩn bị rót thêm vào ly dừng lại, nghiêng đầu nghe ngóng. Donald lắng nghe, đoán đó là bước chân trong hành lang, nhưng có ai. Nesbit lắc đầu rồi rót thêm whisky vào ly của Donald, cho dù này chưa uống xong ly đầu. “Moody à, là người bạn tuyệt diệu. Tôi ước gì làm việc ở đây. có thể gỡ rối cho các tài khoản mà tôi xới tung lên trong vòng hai năm nay.” Nesbit cười thoải mái, vẻ cay đắng biến mất. Donald mà ăn nhập gì với vấn đề trao đổi: “Hồi nãy tôi thấy nhân viên của ngoài kia. ấy cùng nhóm tìm kiếm, nhưng lại say khướt nên tôi dám chỉ làm vướng víu người khác chứ chẳng giúp ích gì.” Nesbit lại có tia nhìn xa xăm: “À... Đúng. Đó là vấn nạn mà chúng tôi vấp phải trong mùa đông, như tôi tin biết .” “ ấy là nhân viên tải hàng phải ?” Donald muốn hỏi ngay người này là ai, nhưng e như thế là quá đường đột. “Tôi tới ai. Theo tôi biết, tất cả đàn ông ngoại trừ Olivier tìm kiếm ở con sông. Có lẽ thấy này.” “, , chắc chắn đó là người lớn tuổi hơn. Thân người nặng hơn, biết . Và có bộ tóc dài.” “Ánh sáng yếu đó có thể đánh lừa thị giác của . Này, có lần tôi nhìn qua cửa sổ - đó là mùa đông năm rồi và tôi ngồi ở bàn giấy phòng bên - và suýt đứng tim. Có con nai sừng tấm đứng sát bên ngoài, cao hơn hai mét - trừng trừng nhìn tôi. Tôi thét lên tiếng kinh hoàng rồi chạy ra khỏi cửa nhưng khi ra ngoài sân thấy nó đâu. Cũng có dấu chân. Dĩ nhiên là nó có cách nào vượt qua vách đá, nhưng tôi có thể thề chồng Kinh Thánh là nó ở đó. Thử tưởng tượng mà xem!” Donald chua cay nghĩ có lẽ ta say rồi. Donald biết chắc người đàn ông ngoài sân phải là Olivier, và nhận ra - thực , như thể đầu óc ngủ trong mấy ngày qua - rằng người chưa được xác định có thể là chuyện đáng cho họ quan tâm. Đáng quan tâm đến nỗi lúc sau, khi thuận tiện xin kiếu để lẻn ra ngoài, xem xét lớp tuyết bên ngoài khung cửa sổ phòng . Chính lúc ấy, thấy rằng hiểu vì lý do nào, tiêu chuẩn quét dọn được nâng cao: tuyết mặt sân được quét sạch. ***
Sault St Marie hoàn toàn khác biệt so với Caulfield. Đó là nơi diện nhiều giao nhau - hai hồ nước hợp lưu với nhau, hồ đổ nước vào hồ kia giữa những ghềnh đá bướng bỉnh; hai con đường đến từ miền tây-bắc và miền đông cắt nhau; và đường biên giới của hai quốc gia. Tàu thuyền tụ hội ở đây từ phương bắc, từ phương đông và từ dưới nước Mỹ, từ Chicago và Milwaukee, những nơi xa lạ hơn và suy đồi hơn so với thương điếm hoang dã nhất. Nhưng lý do bề ngoài để đến đây là Nhà hát Grand Western, mà gia đình Knox đến tối hôm qua để xem vở Hôn lễ của Figaro được nhiều người đến. Yếu tố lôi cuốn chính là Delilah Hammer thủ vai nhân vật Cherubino, và ý tưởng cho phụ nữ sắc tộc Mohawk hát nhạc Mozart được các nhà báo bàn tán trong nhiều tháng. Xem hát là đủ mãn nguyện. Thế nên Bà Knox mua vé tàu hơi nước, và gia đình bất chấp mùa đông mà . Đối với Maria - người có khiếu thưởng thức nhạc - ca sĩ trông thu hút và có phần cợt nhả, đặc biệt trong trang phục con trai, với mái tóc cột lên dưới chiếc nón mềm. có nét mặt như trai trẻ với đôi mắt đen to càng nổi bật thêm nhờ hóa trang, và miệng rộng với hàm răng trắng. trông khá ấn tượng so với các nữ ca sĩ khác vốn trông béo tròn; Maria tự hỏi liệu Hammer thích thủ trong những vai ấy hay . Khán giả - pha trộn của những người nhạc kịch chưng diện cho buổi diễn và những người chỉ muốn thay đổi khí - rộ lên tiếng tán thưởng mà trong khung cảnh như thế này có lẽ khó gì mà đạt được. Cha càu nhàu ca sĩ thích hợp với vai diễn (ông có ý đến giọng ca chứ phải sắc tộc của ), rồi ông và mẹ tranh cãi với nhau về việc chỉ huy dàn nhạc. Trong lúc, có vẻ như ông trở về với con người của mình. Bà Knox lo lắng về ông chồng, ông bị ghét bỏ - hoặc bị cho về hưu; ai - là tệ hại, nhưng còn tệ hại hơn nữa là ông ngồi trong phòng đọc sách từ giờ này đến giờ khác mà làm gì; đầu óc tinh tế của ông suy nghĩ, và bà tin chắc tinh thần của ông bị nghẽn, thể chất bị hoại dưỡng. Khi hai người tranh luận, bà cảm thấy sôi nổi chùng xuống. chung, chuyến xem dường đáng công. Tuy nhiên, đến sáng hôm sau, ông lại rơi vào tình trạng thờ ơ trong giao tiếp. Và Maria thấy đầu óc mình lại vương vấn với bộ mã kia. Sau chuyến đến thăm Sturrock, Maria giam mình trong phòng với bản chép các dấu hiệu, cố quên tình trạng gia đình trong khi vẫn hoang mang với nội dung. Thoạt đầu thử chia các đường thành từng nhóm theo cách các đường này được sắp xếp với nhau - dù cho việc này giả định là Sturrock chép lại chính xác. Qua bài báo trong tạp chí Edinburgh Review và qua cảm quan của mình, nhận ra mỗi dấu hoặc nhóm của dấu thể đại diện cho chữ cái theo ngữ hệ La Mã, nhưng có thể biểu từ hoặc thanh. Sau khi sắp xếp và sắp xếp lại các nhóm và thế vào các thanh và từ, tất cả đều tạo ra mớ lộn xộn những thanh vô nghĩa (da-ya-no-ji-te! ba-lo-re-ya-no?), đành dẹp qua bên và cảm thấy càng vô vọng thêm so với lúc bắt đầu. có cơ sở nào để mong Maria Knox giải được điều bí ; dân dã ít học với vài tựa báo được đặt mua và chỉ với bài báo lại muốn giải mã Bản đá Rosetta[58] như là bước khởi đầu. Nhưng các dấu có góc cạnh nhảy múa trong đầu , xâm chiếm những giấc mơ của , trêu tức với ý nghĩa đong đưa ngoài tầm với của . có ước muốn nguy hiểm là được thấy tấm thẻ nguyên thủy, rồi đầu óc chuyển về miền bắc, nơi có lẽ Francis và Moody nắm giữ manh mối. đẩy phần thức ăn sáng còn lại vòng quanh chiếc đĩa. Những mẩu trứng và nước sốt bít tết đặc thể trừu tượng của mẫu hình thướt tha. đẩy chiếc ghế để đứng dậy: “Nếu mẹ phiền... con muốn dạo lát.” Bà Knox nhíu mày nhìn con lớn: “Được rồi. Cẩn thận nhé?” “Vâng, Mẹ ạ.” Maria bước nửa đường đến cánh cửa. Quả là nực cười khi mẹ nghĩ bất kỳ nơi nào bên ngoài Caulfield đều là hang ổ tội lỗi, nhung nhúc người da trắng buôn nô lệ. Bà phải làm quen với thực tế nếu Maria Toronto, và nhất quyết vào mùa hè tới. Bên ngoài khách sạn, Maria rẽ sang phải, hướng về khu bờ sông. Dọc dài theo bờ hồ là hàng loạt những cầu tàu và nhà kho, thu thập hàng hóa cả miền bắc. Đây là cuộc sống náo động, xô bồ của thương mại, của kinh doanh; bẩn thỉu và ồn ào và thực, khác hẳn với Caulfield và cửa hàng John Scott. được cảnh báo phải tránh xa khu vực này, là phần của những thứ hấp dẫn trong thị trấn. Những người đàn ông vượt qua cho kịp với những cái hẹn gấp với các chuyến tàu đến, giá cổ phiếu, buổi họp nghiệp đoàn. Đối với quê được che chở đấy như là quả tim của mọi việc. Cũng có những khách sạn và nhà nghỉ ở khu vực cuối thị trấn này; đàng hoàng bằng Victoria và Albert, cách xa khỏi nhà hát. thấy phụ nữ và đàn ông cùng bước ra và lơ đãng nhìn họ cho đến khi rùng mình bị sốc khi nhận ra người đàn ông là Angus Ross, nông dân ở Sông Dove. Cha của Francis. Khi ông quay đầu, thấy gương mặt ông; khuôn mặt trông nghiêng thô thiển, mái tóc màu cát. bị sốc bởi vì người phụ nữ cùng ông phải là Bà Ross. Trong nhiều tuần, người ta gặp Bà Ross. Maria cảm thấy nóng bừng với nỗi nhục nhã phải của . Có điều gì đó ổn lắm, cho dù Ông Ross và người phụ nữ chỉ băng qua con đường. Ông trông thấy , và theo bản năng thối lui và quay đầu xem xét qua khung kính của cửa hàng gần nhất. Chẳng có hàng hóa gì, mà chỉ là danh mục của các món, giải thích cho vẻ hoang mang của . chờ cho đến khi hai người kia khuất khỏi tầm mắt. Trước đây chưa từng thấy hành động thiếu khuôn phép, nhưng tin đấy là thiếu khuôn phép. Xét cho cùng, Bà Ross ở đâu? Họ chỉ nghe ông là vợ ông tìm đứa con trai. Vì đọc qua mấy quyển truyện ghê gớm ngoài những truyện chín chắn, thình lình Maria nghĩ ra rằng có lẽ Ông Ross từ bỏ vợ mình. Còn Francis sao? Moody và người bạn vọt tìm ta, nhưng có lẽ chẳng bao giờ tìm được. Có lẽ vì vậy mà họ vẫn chưa trở về. Có lẽ Ông Ross giết Jammet cũng nên... Đến đây, Maria kiềm chế lại, tự nhủ nên làm mồi cho mấy chuyện hão huyền. Nhưng vẫn cảm thấy run rẩy. Có lẽ nên dùng bữa sáng cho xong. Có lẽ - nhìn quanh, xem có ai nhìn mình hay - có lẽ, do tình huống khác thường, nên tìm thứ gì đó để uống. Phấn chấn vì táo bạo, Maria chọn quán bar trông yên tĩnh cách xa bờ sông và bước vào. hít hơi thở sâu, nhưng có ai ở đây ngoại trừ người quản lý và người đàn ông ngồi ăn, lưng quay ra cánh cửa. gọi ly vang nâu và miếng bánh nướng mâm xôi hồng, ngồi ở bàn trong cùng, phòng trường hợp có người quen biết ngang qua. Như là Bà Ross. Tim đập nhanh khi nghĩ đến điều này. bao giờ có lý do để thích hoặc thích Bà Ross - người phụ nữ này khá xa cách - nhưng bây giờ cảm thấy xót thương cho bà. Trong số tất cả những người, và Bà Ross có lẽ giống nhau về nhiều mặt. Phần rượu và bánh gọi được mang đến. Để đôi mắt có việc bận rộn, rút ra các mảnh giấy mà thử giải mã lần nữa. nhận biết người khách hàng kia để ý đến mình, và lo sợ ông ta có thể đến ngồi cùng . thấy chi tiết mà lúc trước mình để ý: ông ta là người Da Đỏ có bộ mặt trông khá bất hảo, và nhất quyết nhìn về phía ông ta nữa. Chẳng bao lâu, rút ra cây viết chì và bắt đầu ghi chú kết quả công việc của mình, là hàng dài những từ và tiết vô nghĩa. chăm chú vào công việc cho đến nỗi để ý người quản lý đứng bên cạnh, cho đến khi ta đằng hắng: “Xin lỗi . muốn dùng thêm ?” cầm chai vang nâu tay. “À. Cảm ơn, vâng. Bánh nướng rất ngon.” lấy làm lạ vì bánh quả là ngon. “Cảm ơn. giải câu đố hở?” “Gần như vậy.” có đôi mắt đẹp, và bộ râu quai nón màu nâu rất dài. có đầu óc thông minh ngờ. “Tôi cố tìm hiểu bộ mã. Nhưng tôi nghĩ vô vọng, vì biết nó được viết theo ngữ văn nào.” “Ý là giống như Pháp, hoặc Ý?” “Vâng... tuy tôi nghĩ đây là ngữ văn của người Da Đỏ, và có nhiều thứ.” “À. Thế cần giúp đỡ.” “Đúng vậy. giúp đỡ từ ai đó thông thạo tất cả các thứ này.” nhún vai và mỉm cười, vì chắc xảy ra việc này. “Này , tôi có đề nghị được ? thấy người ngồi đằng kia ? Ông ấy biết nhiều thứ tiếng của người Da Đỏ. Nếu muốn, tôi có thể giới thiệu cho .” thấy liếc nhìn với vẻ hồ nghi về phía bờ vai gù và mái tóc nhờn cuộn quanh cổ áo. “Ông ấy hoàn toàn... dễ chịu.” mỉm cười như thể tìm ra ngôn từ chính xác, nhưng thấy cũng ổn. Maria cảm thấy ngượng ngùng vì đe dọa. Đó là hậu quả của việc vào nơi chốn bất hảo; bị ghim thanh gươm của tính liều lĩnh của mình. nhìn các mảnh giấy và cảm thấy mình như là đứa học trò ngốc nghếch. “Dĩ nhiên là muốn. Hãy quên tôi gì. Tôi xấc xược.” Maria ngồi thẳng dậy. Nếu muốn trở thành học giả, nhà tư tưởng, nên né tránh con đường tri thức chỉ vì cổ áo nhờn. “ phải, rất... tử tế. Cảm ơn. Tức là, nếu ông ấy phiền hà.” Người quản lý bước đến bàn kia và cất tiếng với ông khách. Maria thoáng nhìn thấy đôi mắt có những tia đỏ và nghĩ nghĩ lại về quyết định của mình. Nhưng ông đứng dậy và về phía bàn ngồi, cầm theo ly của ông. cười với ông, hy vọng đó là cách cười của nhà chuyên nghiệp: “Xin chào. Tôi là Knox. Ông là Ông...?” Ông ngồi xuống: “Joe.” “À, vâng, cảm ơn ông ...” “Fredo cần người hiểu biết các ngôn ngữ Da Đỏ.” “Vâng. Tôi có phần bộ mã, và, hừm, người bạn của tôi nghĩ nó có thể là ngữ văn của người Da Đỏ. Tôi cố giải đoán, nhưng vì tôi biết đó là ngữ văn nào...” cười quá nhiều, rồi khẽ nhún vai, khi đối diện với ông càng lo sợ hơn. Ông già hơn là nghĩ lúc đầu, với những vệt trắng mái tóc. Làn da dưới đôi mắt nhăn nhúm, hai gò má chảy xệ. Có những vệt đỏ trong tròng trắng hai con mắt. Ông thở ra mùi rượu rum. Nhưng khuôn mặt vẫn còn sắc sảo, hoặc xưa kia là sắc sảo: “Người bản địa có chữ viết, thế tại sao bạn lại nghĩ vậy?” “Tôi biết, nhưng, à... ông ấy nghiên cứu. Và những hình thù này - ông xem, đây chỉ là bản chép lại, nhưng có những nét vẽ của người Da Đỏ mà tôi từng thấy.” Tuy ông trông ghê tởm nhưng hiểu sao đẩy mảnh giấy về phía ông. muốn ông ít nhất xem là nghiêm túc. Ông xem xét mảnh giấy hồi lâu nhưng gì. Maria ước gì mình trở lại khách sạn. “Đây là bản chép lại của cái gì?” “ tấm thẻ bằng xương.” Ông cầm lên những mảnh giấy khác của , những mảnh giấy viết các kết quả: “Mấy cái tên này là gì?” “À, đó phải là tên; chỉ là kết quả tôi tìm ra khi thử các từ và tiết, ông biết chứ, thay thế cho các dấu ở đây...” Ông xem xét các tờ giấy, giơ lên ánh sáng để nhìn cho hơn. Ngón tay ông chỉ vào tờ giấy: “Deganawida. Ochinaway. Có nghĩ nó phát như vậy hả?” Thái độ của ông trở nên hùng hổ hơn. Maria ngẩng mặt lên với vẻ thách thức. Phương pháp của có gì là sai. học phương pháp này từ tạp chí Edinburgh Review. “À, tôi chỉ phỏng đoán, ông phải đặt ra vài giả thuyết về tiết mà các dấu có thể tạo ra, rồi thử kết hợp. Tôi thử nhiều cách. Đây là kết quả của ... kết hợp của...” Người đàn ông ngả người lại và mỉm cười với ; khuôn mặt ông nhăn nhó vẻ giễu cợt và thù địch: “Này , có phải đây là hình thức đùa nghịch ? Ai với tôi ở đây?” “, dĩ nhiên là phải. Tôi ... tôi biết ông là ai!” nhìn quanh, lo lắng tìm Fredo, nhưng này bận phục vụ vài khách mới vào. “Ai vậy? Có phải là tên McGee mập khốn kiếp đó ? Hả? Hay là Andy Jensen? Có phải Andy ?” “Tôi biết ông gì. Tôi biết ông ngụ ý gì, đây là chuyện đúng chỗ.” Bây giờ Fredo nghe giọng của ; liếc nhìn qua ... cuối cùng về phía . Joe vẫn khăng khăng: “Bạn tên gì?” “Thưa , tôi xin lỗi. Joe, .” “Tôi chỉ muốn biết tên đó.” “Có vẻ như ông... Joe nghĩ tôi chơi khăm ông ấy.” “Joe, xin lỗi ấy . Nhanh lên.” Joe nhắm đôi mắt và cúi đầu; thái độ cao nhã cách kỳ quặc mang lại cho gương mặt xấu xí của ông vẻ tinh tế vốn mờ với thời gian và rượu. “Tôi xin lỗi. Tôi chỉ muốn biết tên người bạn của có cái... bất kỳ cái gì gọi.” Maria lấy lại lòng can đảm khi có Fredo đứng bên cạnh. Và có vẻ gì đó gương mặt ông khi ông nhắm đôi mắt, vẻ gì đó cho thấy nỗi khổ đau lâu ngày dứt, thậm chí u buồn, khiến cho muốn trả lời: “À, đó là Ông Sturrock, vì ông hỏi đến. Và đây phải là chơi khăm. Tôi chơi khăm.” “Sturrock?” Joe lộ vẻ nghiêm túc. Cả tư thái của ông sắc sảo thêm, như thể những mối dây liên lạc được kết nối, làm cho ông biến đổi: “Tom Sturrock. Người Tìm kiếm phải ?” “Đúng... là ông ấy. Ông biết ông ấy à?” “Có lúc tôi biết. Tôi chúc được may mắn, và với bạn Kahon’wes gửi lời hỏi thăm.” Maria nhíu mày, vật lộn với cái tên: “Ga-hoo ways?” Người đàn ông, cho dù tên là gì, đứng dậy ra khỏi quán bar. Maria nhìn Fredo để mong có lời giải thích. Nhưng cũng ngạc nhiên như : “Tôi xin lỗi, thưa , tôi biết ông ấy như vậy. Bình thường ông thầm lặng, chỉ đến uống rượu, nhưng hoàn toàn dễ chịu. Để tôi mang cho ly vang nâu nữa, hoặc miếng...” “, cảm ơn . Tôi phải . Cha tôi mong. Bao nhiêu...?” “, , tôi thể để cho trả tiền.” Sau ít phút hai bên kiên quyết, Maria chịu thuyết phục, cảm thấy đây là tiền lệ tốt để mang ơn người lạ. ra về với tập giấy và những lời cảm ơn, nhìn thẳng về phía trước trong khi vội vã rời khu bờ sông. Buổi sáng hóa ra là cuộc phiêu lưu mà định trước; con đường tri thức đầy chông gai và hoang mang. Nhưng ít nhất có chuyện để kể cho ông Sturrock nghe, và có lẽ chuyện nào đó để vực dậy cha từ trạng thái thờ ơ. Với cảm giác nhõm khi bỏ lại đằng sau bến tàu, Maria bước chậm lại để tạo bố cục cho câu chuyện, và trong khi sắp đặt lại cuộc phiêu lưu trong lời kể đầy hồi hộp với nữ hùng dũng cảm, gần như tự thuyết phục rằng mình sợ hãi chút nào. *** Ánh sáng lờ mờ dưới tán cây và trời tối sớm, nên họ dừng lại, bởi vì hai đứa trẻ mè nheo. Espen cố giấu nỗi sợ hãi, nhưng xây chỗ náu bằng tuyết như thế nào, và cũng biết cách đốt lửa khi lớp tuyết dày như thế này. quét khoảnh nền đất, mất hồi lâu mới đốt được đống lửa với những cành cây ẩm ướt, nhưng trước khi nước sôi, khối tuyết được đắp chung quanh tan chảy và dập tắt ngọn lửa. Hai đứa trẻ nhìn qua màn lệ vì thất vọng và lạnh. Line luôn cất tiếng trấn an, cổ họng khô khốc vì khát, đôi môi nứt nẻ vì lạnh. chưa bao giờ cất tiếng nhiều đến thế trong đời; nhất quyết đầu hàng, tỏ ra sợ hãi, khóc. Cuối cùng, khi Torbin và Anna thiếp trong giấc ngủ mệt nhọc, : “Ngày mai ta đến con sông. Tuyết làm ta chậm lại, nhưng ta đến đó.” Trong lúc, Espen trả lời. chưa từng thấy buồn rầu như thế. “Em thấy nó hả?” “Thấy cái gì? gì?” Trong trí tưởng tượng của , rừng đầy rẫy những gấu, người Da Đỏ tay vung cây rìu, chó sói mắt sáng như ngọn đèn. “Dấu vết của chúng ta. Sáng nay chúng ta chính dấu vết của chúng ta. thấy nó, rồi quay lại. Ta theo những vòng tròn.” Line nhìn lại , trong khoảnh khắc tự hỏi việc này có nghĩa là gì. “Line, ta theo những vòng tròn. biết ta theo phương hướng nào. Thiếu la bàn hoặc nhìn thấy mặt trời biết gì hết.” cần dẫn dắt , trấn an , cho biết vẫn nắm quyền chỉ đạo: “Khoan . Ta lạc lối. Thế ta lạc lối lần. Có lẽ đó phải là vòng tròn lớn. Ta phải theo những vòng tròn. Cây cối thay đổi, cao hơn, vì vậy ta hẳn xa hơn về hướng nam. Em để ý điều này, rất ràng. Ta chỉ cần tiếp tục . Em tin chắc ngày mai ta đến con sông.” tỏ vẻ như tin . nhìn xuống, giống như đứa trẻ ngỗ nghịch muốn đầu hàng nhưng biết đâu. ôm lấy khuôn mặt trong hai bàn tay vẫn còn mang găng - trời quá lạnh nên thể thân mật hơn: “Espen... . Đừng thối chí bây giờ. Chúng ta tiến gần đến đích. Khi đến Caulfield và khi có nơi ăn chốn ở, ta ngồi trước lò sưởi và cười đùa về chuyện này. Quả là cuộc phiêu lưu để bắt đầu cuộc sống bên nhau!” “Nếu ta tới Caulfield sao? Con ngựa của bị bệnh. Chúng ăn đủ no. Ngày mai ta có thể tới hồ! Rồi em cảm thấy ngu xuẩn.” hôn , làm cho cười. “Em là ma nữ[59]. Khó mà tin được. Thảo nào em luôn muốn gì được nấy.” “Hứ!” Line mỉm cười, nhưng nghĩ vừa thiếu công tâm, và cũng sai lầm. có muốn Janni mất tích trong vùng hoang dã ? có muốn đến sống ở Himmelvanger? Tuy thế, ít nhất vui tính hơn, và đó là điều cốt yếu. Nếu có thể giữ cho tiếp tục , giữ cho tất cả tiếp tục , tất cả ổn. Khi hai người nằm bên nhau trong chỗ trú tội nghiệp, ôm lấy hai đứa trẻ ở giữa, Line nghe những thanh qua giác quan mệt mỏi: tiếng nổ như súng lục của nhựa cây đóng băng, băng tuyết rơi từ những nhánh cây. Và có lần, từ nơi rất xa xôi, nghe tiếng chó sói tru vang vọng vào màn đêm trống vắng, và toát mồ hôi cho dù trời lạnh. Sáng hôm sau, con ngựa của Espen từ chối di chuyển. Nó ăn vỏ cây rồi tướt, phân lỏng giọt ở vùng hông và nhuộm bẩn nền tuyết. Nó đứng với bộ dạng tội nghiệp. Espen cố ép nó ăn bột yến mạch trộn trong nước ấm, nhưng nó quay đầu . Cuối cùng, khi họ tiếp tục lên đường, Espen phải bộ dắt con ngựa của mình, còn hai đứa trẻ ngồi trước Line lưng ngựa của . Dắt - hoặc kéo hơn - con ngựa còn khó khăn hơn là bộ mình, và sau tiếng đồng hồ Espen gọi Line đến bàn bạc. “Việc này là điên rồ. Nếu để nó lại ta nhanh hơn. Nhưng việc này là quá tàn nhẫn. Nếu ta đến gần con sông sao?” “Hãy thêm chút nữa. Có thể nó khỏe hơn. Tuyết ngưng rơi và trời ấm hơn.” Đúng thế: tuyết hầu như ngưng rơi hẳn và ít nhất ở vài chỗ lớp tuyết mặt đất có vẻ như mỏng hơn. “Càng thêm càng khó khăn hơn. Nó chỉ muốn đứng yên chỗ. nghĩ chẳng bao lâu nó quỵ xuống. Nó làm quá mệt.” “ muốn em dắt nó đoạn ? có thể ngồi lên với Torbin và Anna cho đến khi khỏe lại.” “Đừng có ngốc. Em làm được. ... em làm được đâu.” Con ngựa - tên là Bengi, dù Line tự dặn lòng nghĩ đến nó qua cái tên - dỏng tai về phía hai người. Lưng nó trông trũng hơn hôm qua, đôi mắt lờ đờ. “Nếu ta để nó ở lại sao? Lúc nào ta cũng có thể quay lại tìm nó sau này.” “Em nghĩ vậy.” Line thở dài. tưởng tượng ra nhiều chuyện, nhưng tưởng tượng được con ngựa bệnh tật làm cản trở bước đường của mình. Cách vài mét, hai đứa trẻ xuống ngựa, và được nghe phải vận động để sưởi ấm nên chơi trò chơi khá chán nản. Line vỗ về cổ con vật: “Tội nghiệp Bengi già!” Nó nhướng mắt nhìn với vẻ cảnh báo. đến quyết định: “Ta bỏ nó ở lại. Nếu nó theo kịp ta phải bỏ nó ở lại. Ta với hai đứa trẻ ta quay lại tìm nó, hoặc đại loại chuyện như vậy.” Espen nặng nề gật đầu. Ở nơi khác, con người Line khác hẳn nức nở cho con ngựa bị bỏ bê mặc cho số phận của nó. Nhưng phải trong trường hợp này. Hai người về phía bọn trẻ. Ngay lúc ấy, khi Line chưa kịp mở miệng để giải thích, tiếng nổ lớn vang dội giữa đám rừng cây. Tiếng nổ lớn đến nỗi Anna giật nẩy người và suýt ngã xuống. Họ cùng nhìn nhau. Espen kích động thốt lên: “ người săn!” Line hỏi: “ có chắc đó phải là nhựa cây đóng băng chứ?” “Tiếng nổ quá lớn, và nghe khác. Đó là súng trường. Có người săn quanh đây.” có vẻ chắc chắn. Hai đứa trẻ reo lên vì vui mừng và nhõm đến nỗi Line cũng vui lây. Có người diện gần đây. Bỗng dưng cuộc sống văn minh ở gần tầm với. Espen vội thêm: “Để xem mình tìm ra họ được ... Chỉ để hỏi mình đúng đường hay .” Line gay gắt hỏi: “Làm thế nào quay lại được?” “Em đốt lửa . lâu đâu. Người này chắc ở gần đây thôi.” Espen bắt đầu la lên bằng tiếng : “Này! Ai đó? Này!” cần chờ tiếng đáp trả, quay lại: “ nghĩ họ ở đằng kia. lâu. Nếu tìm ra họ cũng quay lại. hứa.” Espen nở nụ cười tự tin, rồi vào giữa đám cây rừng. Những bước chân biến mất trong bầu gian tĩnh lặng. Con ngựa kia, Jutta, kêu lên tiếng than vãn dài của loài ngựa. *** Quả là lý thú khi theo dõi thăng trầm của người làm việc tại thương điếm. Cách thức họ được phân chia ra hoặc nhập chung với nhau. Từ quan sát của riêng mình, tôi thấy rằng Olivier được những nhân viên khác mến lắm. làm việc bên cạnh Stewart, chạy việc vặt cho ông, thậm chí còn rập khuôn theo kiểu cách của ông. Về phần những người khác, người da trắng và người bản địa cách biệt nhau, và Olivier bị xem là kẻ bỏ hàng ngũ vì về hùa với phe kia. Ban đầu tôi nghĩ họ kính trọng Stewart hoặc thậm chí mến ông. Bây giờ tôi chắc. Có kính trọng nhưng theo cách thận trọng cảnh giác, với thái độ mà người ta đối phó với con thú có thể trở nên nguy hiểm. Norah ghét ông, và trong khi có thái độ chăm sóc Nesbit, đều bất lịch với cả hai người. đối xử với Stewart qua cung cách xấc xược đến nỗi tôi tự hỏi có phải nắm trong tay thứ quyền lực nào đấy hay - nếu tôi hiểu được làm thế nào bị kỷ luật. Và đôi lần tôi trông thấy người phụ nữ đẹp ấy - Nancy - trong hành lang ở đây. Vì có vẻ như có nhiệm vụ quét dọn hoặc hầu hạ, nên tôi có nhiệm vụ gì. Có lẽ là nấu ăn. Tôi trông chờ chuyện nào đấy xảy ra. Toán người tìm kiếm trở về được hai tiếng đồng hồ. Tôi lượn lờ giữa phòng mình, nhà bếp và phòng ăn - tôi cố tìm ra việc này việc kia để làm như tìm mồi nhúm lửa (vì tôi ném nó ra ngoài), hoặc lau chùi chỗ cà phê đổ tháo. Vì thế mà Norah hề thích tôi, nhưng sau sáu giờ chiều tôi đạt mục đích khi nghe tiếng cãi cọ trong văn phòng của Stewart. Nesbit cuồng loạn cất cao giọng: “Vì Chúa, tôi vẫn với ông tôi biết! Nhưng chuyện qua rồi, còn nghi ngờ gì nữa.” Tiếng thầm của Stewart. “Chúa ơi, tôi màng, ông hứa mà! Ông phải giúp tôi.” Thêm tiếng thầm - chuyện gì đấy về “sơ suất”. Tôi ở trong hành lang, rón rén đến gần hơn, cầu trời đừng tạo tiếng động mặt sàn. “Đúng là người trong bọn họ. Ai khác làm chuyện này? Và còn chuyện nữa... Nửa Người[60] - ông nên kiểm soát nó kỹ hơn.” Tiếng thầm hơn. hiểu sao, chuyện này khiến cho tôi lạnh người còn hơn là bất kỳ chuyện gì khác. Tôi dám bước đến gần hơn. Nesbit gọi “Nửa Người” là có ý gì? Có phải sỉ nhục Stewart ? Hoặc sỉ nhục người nào khác? Những bước chân người nặng nề tiến đến cánh cửa. Tôi hấp tấp qua, đến phòng ăn kịp lúc trước khi có người ra. Moody ngồi chiếc ghế gần lò sưởi, ngước nhìn khi tôi bước vào: “Bà Ross. Tôi có chuyện muốn bàn với bà.” “Chờ chốc...” Tôi đặt bình cà phê xuống. Bên ngoài, có vẻ như tất cả đều yên ắng. “Xin lỗi Moody, có lẽ tôi quên cái gì đó. Chờ tôi chút.” xịu mặt khi tôi đóng cánh cửa. Tôi ngược trở lại dọc hành lang. Cánh cửa phòng Stewart đóng chặt. Tôi đưa tay lên gõ. “Chuyện gì vậy?” Giọng của Nesbit. Rất cáu bẳn. “À, tôi đây, Bà Ross. Tôi vào được ?” “Ngay lúc này tôi khá bận.” Tôi vẫn mở cánh cửa. Nesbit ngồi ở bàn viết nhìn lên - tôi có cảm tưởng nằm ườn đó và mới ngồi bật dậy. Mặt đẫm mồ hôi và nhợt nhạt, tóc bù xù hơn bao giờ. Trong tôi nổi lên nỗi thông cảm. Tôi nhớ lại tâm trạng này là như thế nào. “Tôi ...” “Tôi biết. Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi vừa làm vỡ bình sữa, tôi rất tiếc.” Nesbit nhíu mày nhìn tôi, tỏ vẻ vừa khó hiểu vừa bực bội: “Trời đất, sao hết. Xin bà làm ơn...” Tôi bước thêm bước vào căn phòng và đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Nesbit nao núng. Đôi mắt toát vẻ dữ tợn như muốn giết người; con thú bị dồn đến chân tường. “ bị mất món gì ? Tôi biết chuyện này làm bực mình như thế nào. Có lẽ tôi giúp được ?” “Bà? Bà chuyện gì vậy?” Nhưng ngay khi tôi vừa đóng cánh cửa, có ý tưởng. Bây giờ tôi được chú ý lắng nghe. “Do đâu bà đoán tôi mất món gì?” “Ông ấy giữ dùm , phải ? Ông ấy bắt phải van xin.” Đấy giống như là tôi lột chiếc mặt nạ; mặt tái , gần như đổi màu xanh. nắm tay lại; muốn đấm tôi nhưng dám. “Nó ở đâu? Bà làm gì với nó? Đưa cho tôi.” “Tôi đưa cho , nếu cho tôi nghe chuyện.” nhíu mày, nhưng lộ vẻ hy vọng. đứng dậy, bước bước đến tôi, nhưng đến gần hơn. “ cho tôi biết ai phải được kiểm soát. Ai được đến?” “Cái gì?” “Đêm đầu tiên, tôi nghe bảo phụ nữ được đến người đó. đến ai? Mới lúc nãy, bảo Stewart nên kiểm soát kỹ hơn người nào đó. bảo đó là Nửa Người. Ai thế? cho tôi biết là ai, rồi tôi trả nó lại cho .” xịu xuống. quay mặt qua bên này bên kia. khẽ mỉm cười. Có cái gì đấy trong được nhõm. “À. Chúng tôi muốn Moody biết được. Nếu chuyện này lan đến Công ty... nhân viên chúng tôi nổi điên. Đó là Nepapanees. Stewart cố bảo vệ ấy, bởi vì gia đình ấy...” “Nepapanees? Ý ấy chưa chết hay sao?” Nesbit lắc đầu: “ ấy tự kiếm sống, như là người hoang dã. Chỉ vài tuần trước ấy còn ổn, nhưng bây giờ nổi cơn điên. Có thể nguy hiểm. Chuyện này khiến cho gia đình rất xấu hổ. Stewart nghĩ nếu họ tin chết tốt hơn.” lại lắc đầu: “Chỉ có thế. Hà... Ý tôi , quả là kinh khủng.” “Và lúc gần đây ấy vắng, phải ?” “ ấy về về.” “Ba tuần trước...” “Tôi ấy đâu. Khoảng mười ngày trước, trở về.” Tôi biết gì thêm. Hoặc hỏi gì thêm. nhìn tôi cách lẩn lút: “Bà trả nó lại cho tôi nhé?” Trong khoảnh khắc tôi định ném cái chai xuống sàn nhà, bởi vì có chuyện gì đấy ổn nhưng tôi biết là gì. Tôi rút từ trong túi cái chai và giơ ra: cái chai tôi lấy ra dưới tấm nệm của ngày hôm qua trong khi trò chuyện với Moody. giật lấy cái chai, kiểm tra xem tôi có lấy phần nào - hành động nhất thời theo phản xạ - rồi quay mặt mà đưa cái chai lên miệng tu hơi. chút phẩm giá còn sót lại vẫn muốn giữ chút ít riêng tư. Phải mất lúc để đạt điều này, nhưng có lẽ còn cách nào khác. vẫn đứng như thế, nhìn đến tấm màn cửa. “Bây giờ ấy ở đâu?” “Tôi biết. Tôi hy vọng là xa khỏi nơi đây.” “Đúng như thế ?” “Đúng.” Tôi chỉ có thể nhìn cái chai trong tay . Chuyện gì xảy ra nếu tôi giật cái chai đó mà uống cạn? nhìn đến tôi nữa. Giọng , lấy lại bình tĩnh, giúp cho tôi trở lại với chính mình. Tôi để mặc đứng gần bàn viết, quay lưng về phía mình, nhưng với đôi vai vuông và thách thức. Tôi quay trở lại phòng ăn. Nepapanees người điên. Nepapanees kẻ điên dại giết Jammet? Dường như đấy là điều mà tôi muốn tìm. Nhưng tôi cảm nhận chiến thắng. thỏa mãn. Tôi biết nghĩ gì, nhưng thể gạt khỏi đầu óc hình ảnh của Elizabeth Bird ngồi nền tuyết, cố tình làm bỏng thịt da mình vì tiếc thương. *** Stewart đến nhà khi họ trở về. Trông ông lo lắng, giống như người cha có đứa con lêu lổng; sẵn lòng chiều chuộng nhưng đến chừng mực nào đó thôi. “Elizabeth, tôi xin chia buồn.” gật đầu. Còn dễ hơn là nên lời. “Tôi cố nghĩ chuyện gì xảy ra. tìm ra địa điểm chứ?” lại gật đầu. “Tôi tin chắc hương hồn ấy tiêu diêu, cho dù ở đâu.” Bây giờ gật đầu. Người bị sát hại được tiêu diêu. “Nếu lo lắng... Dĩ nhiên là có thể ở đây. phải lo về tương lai. Lúc nào cũng có nơi cư ngụ ở đây nếu muốn.” cần nhìn thẳng đến ông, vẫn nhận ra đôi mắt xanh lam kinh khiếp của ông, như ruồi xanh lấp lóe bu xác chết. Ông chăm chăm nhìn , cố làm cho sức lực mòn mỏi, cố dập tắt ý chí của theo ý ông. Được thôi, nhìn ông, để cho ông được dễ dàng hành động. nghiêng đầu qua bên, hy vọng ông bỏ . “Tôi để cho nghỉ. Nếu cần bất cứ thứ gì, cứ đến hỏi tôi.” gật đầu lần thứ ba. nghĩ: hỏi nơi Địa ngục. Bên ngoài, nghe Stewart với lính mới tò te bằng tiếng : “Nếu là tôi để cho ấy nghỉ ngơi. vẫn còn bị sốc.” Tiếng xa dần. Elizabeth nhảy dựng lên, ngược với bản chất mình, và ra: “ Moody... Xin mời vào, nếu muốn.” Hai người đàn ông quay người, kinh ngạc, vẻ mặt Moody đầy thắc mắc. tại sao mình hành động như thế, Elizabeth cảm thấy ngốc nghếch. Moody nhất quyết ngồi sàn nhà như , tuy rằng cử động của có phần cứng nhắc. nhìn qua hông , nơi băng bó vết thương cho bốn ngày trước: “ ổn chứ? Có thấy khá hơn ?” Tưởng chừng như lâu lắm, khi còn là người vợ. “Vết thương khá nặng. Có ai đó muốn giết hả?” cười: “. À, đó chỉ là khoảnh khắc sôi nổi, rồi hối tiếc sâu sắc. câu chuyện dài. Tôi đến đây để thăm xem ra sao. Nếu tôi giúp gì được...” “Cám ơn . Ngày nọ tử tế.” “...” Elizabeth rót nước trà vào hai chiếc cốc bằng sứ. lại nếm nước con sông kia, vị chát đắng vì lừa dối. Có lẽ con nai là dấu hiệu: tôi bị giết. Và em phải tìm tôi. ước gì có thể cầu nguyện để được dẫn dắt, nhưng thể đến ngôi nhà nguyện xây bằng gỗ. Đó là nhà nguyện của Stewart, và có ác cảm với nơi này. Trước đây, bao giờ suy nghĩ nhiều về đức tin của mình. cho rằng nó diện dưới bề mặt, vẫn tiếp tục diện mà cần nỗ lực có ý thức, như cách lá phổi thở. Có lẽ bỏ bê đức tin của mình. Bây giờ, khi cần đến đức tin dường như nó tàn tạ . “ có cầu nguyện ?” Moody ngạc nhiên nhìn . cân nhắc câu trả lời. muốn chỉ điều mình nghĩ nên , mà muốn ra ý tưởng tự nhiên. thích thế, cùng với cách vội để lấp đầy tất cả khoảnh khắc im lặng. “Có, tôi có cầu nguyện. thường xuyên như đòi hỏi. Ít khi thôi.” Ngay lúc ấy, đứa con của loạng choạng qua cửa trước. bé mới tập . “Amy, vào với Mary. Mẹ chuyện.” bé chăm chăm nhìn Moody trước khi chập chững vào trong. “Chúng tôi chỉ...” Giọng dần: “Ý tôi là chúng tôi chỉ cầu đến Thượng đế khi gặp khổ sở hoặc cần phù hộ, và tôi chưa bao giờ lâm vào cảnh này. Chưa gặp, cám ơn Thượng đế.” mỉm cười. Bây giờ có vẻ khổ sở, lúng túng. Ngôn từ chậm lại, như thể khó mà sắp xếp ý tưởng. Có chuyện gì đó xảy ra. “Tôi làm được.” nhìn , dò hỏi: “Việc cầu nguyện? sinh ra là người Cơ đốc phải ?” mỉm cười: “Khi lên hai mươi, tôi được các nhà truyền giáo rửa tội.” “Vậy là biết... những thượng đế khác. có cầu nguyện với họ ?” “Tôi biết. Trước đây tôi bao giờ cầu nguyện. đúng. Tôi chưa bao giờ cần phù hộ.” Moody đặt cốc trà của xuống, bắt chéo hai bàn tay phía trước đầu gối: “Khi còn là đứa trẻ, tôi lạc các ngọn đồi gần nhà. Tôi lạc mất ngày đêm. Tôi khiếp sợ mình lang thang các ngọn đồi cho đến lúc chết đói. Lúc đó tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện rằng Thượng đế chỉ cho tôi đường về nhà.” “Rồi sao?” “Cha tôi tìm được tôi.” “Thế là lời cầu nguyện của được đáp ứng.” “Đúng. Tôi đoán có số lời cầu nguyện thể được đáp ứng.” “Tôi muốn cầu nguyện cho chồng tôi được hồi sinh. Tôi chỉ muốn cầu nguyện cho công lý.” “Công lý?” tròn mắt nhìn , như thể có vết nhọ nồi mặt. Trong hồi lâu cả hai gì, chỉ nhìn vào ngọn lửa với thanh xì xào và lách tách. “Amy. Đó là cái tên đẹp.” “Con bé hiểu tại sao cha nó có ở đây.” Moody thở dài, rồi mỉm cười: “Tôi xin lỗi. hẳn nghĩ tôi phải phép. Tôi vừa có ý nghĩ rất lạ lùng. Nếu tôi sai làm ơn cho tôi biết, nhưng tôi phải ra.” lúng túng cười, mắt vẫn nhìn : “Tôi biết bây giờ là phải lúc. Nhưng tôi vẫn nghĩ... Tên của con . Và tên của ... Tôi biết thế nào... Lúc trước, có phải thuộc gia đình Seton ?” Elizabeth đăm đăm nhìn ngọn lửa; tiếng hát vang trong tai che lấp câu kế tiếp của . Có cái gì đó như tiếng cười ha hả nổi lên khiến cho gần nghẹn họng. Đôi môi mấp máy; nghĩ xin lỗi mình. Những việc nghĩ mình quên từ lâu bỗng về trong suốt như pha lê. Cha. Chị. Mẹ. , phải chị . bao giờ có chị. Chầm chậm, lại nghe tiếng : “Có phải là Amy Seton ?” Moody nghiêng người tới trước, mặt đỏ hồng vì kích xúc, thêm nỗi sướng thỏa vì sắp có phát quan trọng: “Tôi cho ai biết, nếu muốn. Tôi hứa danh dự giữ bí mật chuyện này. có cuộc sống ở đây, các con ... Tôi chỉ muốn biết thôi.” muốn cho mãn nguyện. Chuyện này phải là của mà cho . phải là của rơi ngoài đường cho ai nhặt cũng được. “ Moody, tôi hiểu gì. Tên tôi là Elizabeth Bird. Chồng tôi bị cố sát. Tôi phải làm gì? định làm gì?” “Cố sát? Chuyện gì làm vậy?” thấy trông như lảo đảo từ phấn khích này sang phấn khích khác. Nó giống bản chất của ; chịu đựng được. Có vẻ như nhìn từ khoảng cách xa trong khi há hốc miệng, tay ôm chặt lấy bụng, mặt nhíu lại vì khổ não. Mặt đỏ bừng. Đáng lẽ nên hỏi chuyện riêng tư như thế. lúc sau, định thần trở lại, thở gấp gáp như con chó: “ gì? là... Stewart giết chồng hay sao?” “Vâng.” “Tại sao ông ấy làm vậy?” “Tôi biết tại sao.” nhìn . Hẳn biết chuyện nào đó; có thể thấy tính toán sau đôi mắt. Rồi cất tiếng: “Xin lỗi tôi phải hỏi... Chồng có bị bệnh tâm thần ?” Elizabeth chăm chăm nhìn, rồi cảm nhận mình nhoi và yếu đuối. suy sụp, tan rã: “Ông ấy như vậy hả?” Nước mắt tuôn chảy đôi gò má, biết do tức giận hay đau buồn, nhưng thình lình mặt ướt đẫm: “ ấy bị điên. Đó là dối. Hỏi mọi người ở đây . Nửa Người là người điên duy nhất.” “Nửa Người? Ai là Nửa Người?” “Người mà ông ấy muốn chúng tôi tới!” Elizabeth đứng dậy. Trong lúc có quá nhiều chuyện. bước vòng quanh ngọn lửa: “Nếu thông minh đến thế, nếu có thể nhìn ra nhiều việc đến thế, tại sao chịu mở mắt ra?” *** “Nếu thời tiết cho phép, ngày mai tôi ra về.” Tôi há hốc miệng nhìn Parker. Có sức nặng đè lên ngực tôi, như lúc bạn bị bệnh bạch hầu thanh quản; cơn co thắt khó chịu đến mức tôi thở được. Nhịp thở của tôi nhanh lên từ lúc ông gõ cửa phòng tôi và tôi để cho ông bước vào, tự hỏi ông muốn gì. “Ông về được! Công việc chưa xong.” Ông nhìn lại tôi lúc, có thái độ thách thức nhưng phải là ngạc nhiên. Bây giờ ông hẳn hiểu tôi. “Tôi nghĩ đó là cách duy nhất để xong công việc.” Lúc tôi , tôi biết mình có ý gì, nhưng bây giờ tôi biết: “Làm thế nào ông xong công việc được?” Tất cả chúng tôi trông cậy nơi Parker để dẫn đường, từ lúc tôi gặp ông lần đầu tiên ở Sông Dove cho đến bây giờ. Moody cũng trông cậy nơi ông, tuy thích. Parker ngập ngừng. Bây giờ khuôn mặt ông trông khác : dịu dàng hơn, kém bình thản, hoặc có lẽ đấy chỉ là do ánh sáng mờ của ngọn đèn. “Sáng mai, bằng cách nào đó tôi cho Stewart xem các dấu hiệu bà cho tôi. Rồi nếu chưa biết ông ta biết rằng tôi thân cận với Jammet. Tôi với ông ta rằng tôi sắp ra về, và nếu tôi nghĩ đúng...” Đến đây ông ngưng lại. “Và nếu ông ta là con người mà tôi đoán, ông thể cưỡng lại ý muốn theo tôi, hy vọng tôi dẫn ông ta đến chỗ cất giấu lông thú.” “Nhưng nếu ông ta giết Jammet... ông ta cũng có thể giết ông.” “Tôi sẵn sàng.” “Việc này quá nguy hiểm. Ông thể mình. ông ta mình - ông ta có… Nửa Người cùng.” Parker nhún vai: “Bà nghĩ tôi nên dẫn theo Moody hay sao?” Ông mỉm cười khi nghĩ đến điều thể này: “ ấy cần ở lại. cần phải thấy Stewart theo tôi. Rồi ấy biết.” “Nhưng, ông ...” Tôi cố sắp đặt lại thứ tự các kiện. Bằng chứng... có bằng chứng nào, trừ khi Stewart chịu thú nhận? “Ông thể mình. Tôi với ông. Tôi có thể là đôi mắt thứ hai cho ông. Tôi có thể... ông cần nhân chứng. nhân chứng có thể xác nhận những gì ông . Ông nên mình!” Đôi má tôi nóng bỏng. Parker lại mỉm cười, nhưng hiền hòa. Bàn tay ông đưa ra gần chạm đến mặt tôi, nhưng dừng lại. Tôi có thể nhận ra lệ đầy trong khóe mắt mình, đe dọa rửa trôi điềm tĩnh của tôi, phẩm giá của tôi; mọi thứ. “Bà nên ở đây. Moody cần bà. ấy bị hoang mang.” Tôi nghĩ: Còn tôi sao? Câu nghe như lớn tiếng nên tôi chắc mình có ra hay , nhưng có gì cho thấy Parker nghe được. Tôi cố giữ giọng mình được lưu loát: “Tôi biết ông nghĩ Stewart cho bằng chứng gì, ngoài việc giết ông. Có lẽ đấy là bằng chứng kết thúc. Và... và nếu ông ta sai người giết ông - làm sao ta kết nối chuyện đó với ông ta? Nếu ông mình mà trở về, tôi nghĩ Moody hài lòng. Việc này chứng tỏ được gì cả.” Parker nhìn xuống, giọng có vẻ thiếu kiên nhẫn: “À... sáng ngày mai chúng ta thấy. Có lẽ Stewart cho chúng ta biết tất cả. Chúc ngủ ngon, Bà Ross.” Tôi cắn lưỡi, đau đớn và tức giận. Có lẽ Parker nhận ra điều này: có hai người trong phòng chịu bỏ cuộc cho đến khi kết thúc. “Chúc ngủ ngon, ông Parker.” Ông ra, nhàng khép cánh cửa lại sau lưng. Trong vài phút tôi đứng chôn chân tại chỗ, thắc mắc - trong số những việc tôi có thể hoặc phải thắc mắc - là ông biết tên riêng của tôi hay .