Sự Hiền Hòa Của Sói - Stef Penney(Trinh thám, Bestseller)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Có lúc nào đó, Francis nhận ra rằng mình bị giam giữ. ai cho biết việc này, nhưng có cái gì đó trong ánh mắt của Per khi nhìn và nhìn Moody, khiến cho đoán thế. Moody tin là người giết Laurent. cảm thấy cáu vì việc này, hơn là sợ hãi hoặc nổi giận. Có lẽ nếu ở vào hoàn cảnh của Moody cũng nghĩ thế.


      Moody đẩy gọng kính lên sống mũi lần thứ trăm, : “Tôi hiểu tại sao cho ai biết thấy gì. Đáng lẽ có thể kể cho cha nghe. Ông ấy là người được trọng vọng trong làng.”


      Francis cắn môi trong câu trả lời hiển nhiên. Đấy xem dường là ý tưởng đúng lý, cho dù do Moody ra. tự hỏi Moody gặp cha mình chưa.


      “Tôi nghĩ người đàn ông kia có thể quá xa. Tôi suy nghĩ cặn kẽ.”


      Đấy là câu làm vấn đề. Donald nghiêng đầu về bên, trông như thể cố tìm hiểu ý niệm về việc suy nghĩ cặn kẽ. trông như thể hiểu.


      Lần này, im lặng ngồi kế bên Moody là người hai dòng máu, được giới thiệu với Francis là Jacob. Francis chưa nghe này lên tiếng, nhưng đoán có mặt ở đây như là nhân chứng của Công ty Vịnh Hudson. nghe - từ Jammet, cũng như những người khác - rằng ở Đất Rupert, Công ty cử nhân viên thực thi công lý sơ đẳng. Nếu vụ án mạng xảy ra, nhân viên Công ty thầm truy lùy rồi hạ sát hung thủ. tự hỏi Jacob có phải là tay sát thủ được Công ty chỉ định hay . Được chỉ định để thi hành án đối với . này chỉ ngồi cúi mặt xuống, nhưng đôi mắt chăm chú theo dõi Francis. Có lẽ họ nghĩ phạm sai sót mà bị lộ diện.


      Moody quay người thầm, rồi Jacob đứng dậy ra khỏi phòng. Moody kéo chiếc ghế đến gần Francis hơn và nở nụ cười với , giống như đứa trẻ cố làm bạn trong ngày đầu tiên đến trường.


      “Tôi muốn cho xem món.”


      Rồi kéo lên vạt áo mình, cho Francis xem vết sẹo - khoảnh da mềm, bóng, màu đỏ so với làn da trắng chung quanh: “Thấy ? Lưỡi dao đâm vào bảy phân. Và người đâm tôi ... ngồi đằng kia.”


      nhìn thẳng vào mắt Francis. Dù cố trấn tĩnh, Francis vẫn mở to đôi mắt vì kinh ngạc.


      “Tuy vậy, tôi nghĩ ai ở xứ sở này quan tâm đến tôi như ấy.”


      Francis bất giác nở nửa nụ cười.


      Donald cười, có ý khuyến khích Francis: “ cười khi tôi cho biết tại sao. Chúng tôi chơi bóng bầu dục, và tôi tóm lấy ấy. Ôm chặt hai chân - đó là cách tranh bóng cổ điển hợp lệ. Và ấy phản ứng theo bản năng. Trước đó ấy chưa từng chơi bóng bầu dục. Thậm chí tôi biết ấy mang dao theo người.”


      Donald cười to, và Francis cảm thấy tia ấm áp lan tỏa trong . Trong khoảnh khắc, xem dường hai người là đôi bạn.


      Donald nhét vạt áo lại vào trong lưng quần.


      “Điều tôi muốn là, cho dù ai đó là bạn mình, vẫn có thể cãi cọ, và trong cơn giận người ta có thể ra tay. Chẳng có ý nghĩa gì cả. Chỉ khoảnh khắc sau đó - mà ta có thể chịu chết nếu ra tay. Có phải chuyện cũng diễn ra giống như vậy ? cãi cọ - có lẽ ấy say rượu... cũng say rượu... ấy khiến cho nổi giận, rồi ra tay mà kịp suy nghĩ...”


      Francis nhìn lên trần nhà, : “Nếu quan tâm đến công lý, tại sao dò theo các dấu chân kia, dấu chân của kẻ giết người? hẳn trông thấy các dấu chân này. Tôi có thể dò theo. Ngay cả nếu tin việc này, hẳn thấy các dấu chân.”


      Có cái gì đó rạo rực trong , và ngôn từ tiếp tục tuôn chảy, càng sôi nổi hơn.


      có thể dò theo các dấu chân để đảm bảo tới nơi nào đó được an toàn.” Donald nghiêng người tới trước, như thể cảm thấy cuối cùng nhận được thông tin nào đó.


      “Nếu muốn chạy trốn, tôi chạy đến đây! Tôi Toronto, hoặc lên chiếc tàu...” Francis đảo mắt nhìn lên những đường nứt nẻ trần nhà. Những dấu hiệu khó hiểu, “Ở đây tôi tiêu tiền vào việc gì? Quả là điên rồ mà nghĩ tôi giết ấy, thấy điều đó sao? Ngay cả nghĩ tới chuyện đó cũng là điên rồ...”


      “Có lẽ vì vậy mà đến đây, bởi vì đó phải là chuyện hiển nhiên... trốn lánh ở đây rồi khi tình hình lắng xuống đến nơi muốn - tôi có thể đó quả là tinh khôn.”


      Francis chăm chăm nhìn Donald - chuyện với cái tên ngu dốt này làm gì, khi kết luận chuyện gì diễn ra? Nếu như thế, mặc. Bây giờ cổ họng thắt nghẹn, buồn nôn. muốn la hét. Nếu họ biết , liệu họ tin ? Nếu kể cho họ biết thực là như thế nào?


      Thay vào đó, mở miệng mắng: “Mẹ kiếp , mẹ kiếp ! Mẹ kiếp tất cả bọn !” Rồi quay mặt vào bức tường.


      Giây phút Francis quay mặt , Donald chợt nghĩ ra chuyện. Cuối cùng, nhớ ra chuyện gì vương vấn trong đầu óc mấy ngày nay - chuyện về Francis gợi cho nhớ lại chàng ở trường mà quen nhưng, cũng giống như những người khác, đều xa lánh. Vậy có lẽ động lực là thế. lấy làm ngạc nhiên lắm.


      ***


      chuyện khác thường nào đó xảy ra. Khi trời tiếp tục yên ắng và lặng gió hoàn toàn, và chúng tôi tiếp tục về hướng bắc, băng qua vùng rừng cây, tôi nhận ra rằng mình hứng thú. Tôi cảm thấy sốc và có lỗi, vì đáng lẽ tôi phải lo lắng về Francis, nhưng tôi thể chối cãi: khi nào nghĩ về nó nằm đau đớn và lạnh cóng, tôi thấy mình hạnh phúc mà trong thời gian dài tôi hề được hạnh phúc như thế.


      Tôi chưa hề nghĩ mình có thể xa trong vùng hoang dã mà sợ hãi. Dù chưa từng thổ lộ với ai, điều mà tôi luôn sợ về rừng hoang là tính đơn điệu. Cây cối rất ít đa dạng, nhất là trong mùa này, khi màn tuyết làm cho tất cả mang lớp áo trắng xóa, biến thành những hình thù ảm đạm, và rừng cây thành nhạt nhòa, tranh sáng tranh tối. Trong mấy năm đầu khi mới đến Sông Dove, tôi thường có ác mộng: tôi ở giữa khu rừng, nhìn quanh quất tìm lại lối xuất phát tôi đến đấy, nhưng tôi thấy mọi hướng đều giống y như nhau. Tôi bấn loạn, mất phương hướng. Tôi biết rằng mình lạc đường, và chẳng bao giờ thoát ra được.


      Có lẽ tình huống của tôi cùng cực nên thể hoặc ích gì mà sợ. Tôi cũng sợ người dẫn đường lầm lì của mình. Vì lẽ ông chưa giết tôi dù có nhiều cơ hội, tôi bắt đầu tin tưởng nơi ông. Có lúc tôi tự hỏi nếu mình từ chối với ông, chuyện gì xảy ra - liệu ông có bức bách tôi phải ? Rồi tôi hết băn khoăn. bộ trong tám tiếng đồng hồ qua lớp tuyết tinh nguyên là cách thức hay để trấn tĩnh nỗi bứt rứt trong tâm trí.




      Khẩu súng trường của Angus được cột chặt vào chiếc xe trượt tuyết và được nạp đạn, nên nếu bị tấn công bất ngờ chúng tôi chẳng được bảo vệ gì cả. Tôi hỏi Parker như thế là khôn ngoan hay , nhưng ông chỉ cười to. Ông trong vùng này có gấu.



      Ông nhìn tôi với vẻ thương hại: “Chó sói tấn công người. Chúng có thể hiếu kỳ, nhưng chúng tấn công bà.”


      Tôi kể cho ông nghe về các con tội nghiệp bị chó sói ăn thịt. Ông lắng nghe mà ngắt lời, rồi : “Tôi nghe qua những chuyện này. có dấu hiệu gì cho thấy các bị chó sói ăn thịt.”


      “Nhưng có chứng cứ cho thấy họ bị bắt cóc, và người ta tìm thấy gì cả.”


      “Chó sói ăn hết cả xác chết. Nếu chó sói tấn công, chúng để lại dấu vết - những mảnh xương - và chừa lại nội tạng.”


      Tôi biết phải gì về chuyện này. Tôi ông nhìn thấy hay sao mà biết được mấy chi tiết rùng rợn ấy.


      Ông tiếp: “Nhưng tôi chưa từng biết chó sói tấn công mà bị khiêu khích. Chúng tôi chưa từng bị tấn công, và chó sói thường rình mò chúng tôi.”


      “Ông Parker, có phải ông thử làm cho tôi sợ phải ?” Tôi với nụ cười vu vơ, dù ông phía trước và thấy vẻ mặt của tôi.


      có lý do để sợ. Các con chó phản ứng nếu có chó sói chung quanh, đặc biệt là vào ban đêm. Và chúng ta vẫn còn bình an.”


      Ông vừa vừa nhìn ngoái lại như là để bất chợt quan sát thời tiết, nhưng tôi hay liếc nhìn phía sau mình để xem có con vật gì theo hay , và tôi càng muốn gần chiếc xe trượt tuyết hơn.


      Khi ánh nắng nhạt dần, tôi cảm nhận những bóng tối di chuyển đến gần chung quanh mình. Tôi ước gì nêu ra chuyện kia. Tôi ngồi gần đống lửa, cơn mệt mỏi thể chất vẫn trấn áp trạng thái thần kinh của tôi bị tác động từ mỗi cành lá xào xạc và cơn gió tuyết. Tôi hốt tuyết gần đống lửa và làm món súp với lơ đãng. Khi Parker khuất bóng để chặt cành cây, tôi dõi mắt nhìn theo, và khi các con chó kích động lên tiếng sủa, tôi gần như nhảy dựng lên.


      Sau đó, khi nằm co mình như thỏi xúc xích trong căn lều, có cái gì đấy khiến cho tôi tỉnh dậy. Tôi có thể nhận ra khoảng màu xám bao phủ quanh lều, vì thế hoặc là trời gần sáng hoặc là có ánh trăng.


      Thế rồi, tiếng của Parker cất lên sát bên tôi khiến cho tôi giật nẩy mình: “Bà Ross, bà thức phải ?”


      “Vâng.” Cuối cùng tôi thầm, quả tim như thể chặn cổ họng, tôi tưởng tượng đến mọi chuyện kinh hoàng bên ngoài các tấm vải bạt.


      “Nếu muốn, bà quay đầu qua khe hở mà nhìn ra ngoài. Đừng hoảng hốt. có gì đáng sợ. Có thể bà muốn biết.”


      Vì lẽ sau buổi tối đầu tiên tôi ngủ với đầu hướng về khe hở nên tôi dễ dàng quay đầu qua nhìn. Tôi thấy Parker tạo lỗ hổng tấm vải ở ngăn bên tôi, nên tôi nhìn ra.


      Chưa phải là bình minh, nhưng có ánh sáng lạnh mát, xám nhạt, có lẽ từ vầng trăng mà tôi nhìn thấy, phản chiếu từ lớp tuyết soi rọi quang cảnh, dù cây cối trông vẫn còn tối và lờ mờ. Trước mặt tôi là đốm đen của đống lửa tắt, và xa hơn, hai con chó đứng, thân hình trông căng thẳng, hướng về cái gì đó giữa đám cây cối. trong hai con chó kêu ư ử; có lẽ tiếng kêu này làm cho tôi tỉnh giấc.


      Thoạt đầu tôi nhìn thấy gì thêm, rồi sau hoặc hai phút tôi thấy những chuyển động trong bóng tối. Tôi giật mình nhận ra có hình thù trông giống như chó, màu xám giữa nền tuyết xám nhạt hơn. Con thứ thứ ba nhìn hai con chó, đôi mắt và mõm hơi đậm hơn bộ lông. Các con vật nhìn nhau chăm chú, tỏ ra hung hăng, nhưng cũng muốn quay đầu hướng khác. tiếng ư ử lại nổi lên, có lẽ từ con sói. Nó trông , hơn con Sisco. Có vẻ như nó chỉ có mình. Tôi thấy nó tiến đến gần vài bước, rồi lại lùi ra xa, giống như đứa trẻ nhút nhát muốn tham gia trò chơi nhưng e được tiếp nhận.


      Trong khoảng mười phút tôi quan sát truyền thông giữa chó nhà và chó sói, và trong khi đó tôi quên cả sợ hãi. Tôi nhận ra ở kế bên tôi Parker cũng quan sát. Dù tôi quay đầu qua ông, ông ở gần đến nỗi tôi nhận ra mùi hương của ông. Chỉ dần dần tôi mới nhận ra; bình thường khí giá lạnh đến nỗi khứu giác tôi bị tắt hẳn. Nhưng trong khi tôi quan sát các con thú, có cái gì đấy tỏa mùi hương của sống - phải mùi của chó hoặc thậm chí của mồ hôi, nhưng cái gì đấy giống như cây lá, như mùi nồng nồng ẩm ướt trong nhà kính. Tôi cảm thấy buốt như chạm phải gai, và đấy là hoài niệm: hoài niệm về nhà kính ở bệnh viện tâm thần nơi chúng tôi thường trồng cà chua, và về mùi hương giống như bác sĩ Watson khi tôi ép mặt mình vào lớp vải áo hoặc làn da của ông. Trước đây tôi chưa từng biết người đàn ông nào có mùi hương như thế, ngoại trừ mùi thuốc lá và nước hoa của cha tôi, hoặc mùi khó chịu do cơ thể hoạt động và trang phục chưa giặt, như của phần lớn người giúp việc.


      Mùi hương duy nhất giống Watson và nhà kính giữa khu rừng giá lạnh này chính là Parker.


      Đến đây, tôi đặng đừng mà quay đầu chút qua ông và hít vào hơi, để lấy lại thêm ít hoài niệm ấy, có phần thu hút chứ phải khó chịu. Tôi cố hành động cách lén lút nhưng cảm thấy ông nhận biết được, và tôi ngước mắt lên để xem có đúng , và thấy ông nhìn tôi từ khoảng cách chỉ dăm bảy phân. Tôi giật mình, và rồi mỉm cười, để che giấu nỗi ngượng nghịu. Tôi lại nhìn các con vật, nhưng con sói biến mất như bóng ma màu xám, và bây giờ tôi biết nó xa hoặc chỉ vừa mới rời vài phút trước.


      Tôi cách hiểu biết: “Đấy là chó sói.”


      “Bà thấy sợ.”


      Tôi lại nhìn để xem ông có ý đùa bỡn hay , nhưng ông thu người về phía phân nửa căn lều của mình.


      “Cảm ơn ông,” tôi , và rồi bực bội với chính mình. Đấy phải như ông dàn xếp cho con sói đến tìm tôi, thế nên ra như thế là việc ngốc nghếch. Tôi lại nhìn hai con chó. Con Sisco vẫn còn nhìn chăm chăm qua khu rừng cây dõi theo kẻ xâm nhập, nhưng con Lucie nhìn tôi với hàm mở rộng và lưỡi thè ra, như thể cười cợt với tôi.


      ***


      Các toán tìm kiếm thấy dấu vết của kẻ đào tẩu, còn ông Ross tỏ ra kiên cường nên giúp lắng dịu nỗi lo về việc vợ ông biến mất. Mọi người đều đoán bà gặp Moody và đứa con trai. Mackinley xuất tham gia vào hai việc này, và giam mình trong phòng hầu như cả ngày. Gần ba ngày sau khi hai người biến mất, Mackinley lui tới nhà ông Knox như là bóng ma muốn trả thù. Ông tỏ ra tức giận với thái độ chua cay của người vốn nắm bắt được con mồi trong tay nhưng lại bị sổng mất.


      Gia đình ông Knox ra tên Mackinley như thể xem ông này diện mà mong cho ông biến . Knox đề nghị ông trở lại Pháo đài Edgar để chờ đợi tin tức của Moody. Mackinley từ chối, ông nhất quyết lưu lại trong khi các liên lạc viên được phái với mô tả nhân dạng của kẻ đào tẩu. Ông bị ám ảnh về nhiệm vụ của mình, hoặc là về việc ông làm; còn Knox biết chắc.


      Sau bữa ăn tối hôm nay, Mackinley lại bắt đầu về cơ may. Ông trở lại với các chủ đề mình thích, các hùng của Công ty, và lại tiêu khiển Knox với câu chuyện mà ai cũng biết về người tên James Stewart thúc giục nhân viên của mình lớp tuyết mùa đông để vận chuyển hàng tiếp liệu cho thương điếm, hoàn tất chuyến gây kinh ngạc trong thời tiết kinh khủng. Mackinley say. Ánh mắt ông long lanh vẻ nham hiểm khiến cho Knox chột dạ. Nếu đúng là con người Mackinley đấy phải là do rượu vang của Knox; ông ta hẳn uống rượu trong phòng mình.


      “Nhưng làm thế nào ông biết được chuyện đó?” Mackinley hỏi Knox, nhưng mắt nhìn ra lớp tuyết mềm mại bên ngoài mà xem dường ông thấy có ác cảm. Giọng ông cũng dịu ; ông cố to tiếng, cố ra vẻ mọn. Điều kỳ lạ là cho dù Knox nhận ra đấy là thái độ màu mè, ông vẫn thấy ớn lạnh.


      “Ông biết họ làm gì đối với ấy - nhân viên giỏi như vậy? Và tất cả chỉ vì thiếu may mắn chút? ấy là trong những người giỏi nhất. nhân viên Công ty xả thân hết mình. Đáng lẽ bây giờ ấy phải được giao quyền quản trị, nhưng họ đẩy ấy đến vùng hoang vu giữa chốn người - có lông thú gì cả, vùng đất trơ trụi. Tất cả chỉ vì thiếu may mắn chút. Như vậy là phải. phải chút nào, đúng ?”


      “Đúng là phải.” Cũng là điều phải khi ông phải gánh lấy Mackinley đến làm khách trong nhà, nhưng ông than phiền với ai được. Chỉ ước gì Mackinley tìm con trai Ross và để Moody lưu lại đây. Susannah cũng vui hơn.


      “Tôi để cho họ gạt mình qua bên. Họ làm như vậy đối với tôi.”


      “Tôi tin chắc chuyện đó xảy ra. Đó phải là lỗi của ông.”


      “Nhưng làm thế nào họ nghĩ về tôi như vậy? Tôi có trách nhiệm về pháp luật và trật tự ở pháo đài và vùng phụ cận. Có lẽ nếu ông viết bức thư... nêu ra những kiện, đại loại như vậy...” Mackinley mở to mắt nhìn Knox như thể ý tưởng này mới chớm trong đầu mình.


      Knox cố nén thở dài vì cảm thấy khó tin. Ông tự hỏi liệu Mackinley cầu như thế hay , nhưng rồi nghĩ việc này là quá trơ tráo. Ông im lặng khoảnh khắc để cân nhắc câu trả lời.


      Ông nhìn Mackinley, cố giữ nét mặt mình được ôn hòa: “Ông Mackinley ạ, nếu phải viết bức thư như vậy, theo lẽ công bằng tôi phải nêu ra mọi kiện mà tôi biết, để tránh gây hoang mang.


      “À dĩ nhiên rồi...” Mackinley ngưng lại, mắt mở to: “Ý ông gì? Adam gì?”


      “Adam gì hết. Chính mắt tôi thấy ý tưởng của ông về công lý được thực ra sao.”


      Mackinley trân trối nhìn ông với vẻ giận dữ, nhưng gì thêm. Knox cảm thấy thỏa dạ làm ông ta câm miệng.




      Khi cuối cùng Knox rời khỏi nhà, tuyết và mây mù kết hợp lại để tạo ra thứ ánh sáng lạ lùng, quang cảnh nhợt nhạt trong bóng tối nhá nhem khiến khí như trở lạnh thêm. Dù cho ngày ngắn, đêm dài và mặt trời di chuyển thấp qua đường chân trời, người ta có cảm giác được bù đắp - có lẽ đấy là dấu hiệu báo trước màn trình diễn của cực quang - giúp cho bước ông được nhàng hơn. Điều lạ lùng là ông cảm thấy thảnh thơi trong khi chuốc lấy nỗi nhục nhã.


      Thomas Sturrock mở cánh cửa và luồng khí ẩm mốc tràn vào hành lang. ràng ông là người tin rằng khí trong lành phải ở bên ngoài.


      “Tôi tin tối nay chúng ta bị chộn rộn. có xung đột nội bộ, và những người chủ nhà của tôi can dự theo cách khác.”


      Knox biết trả lời ra sao. Nhưng ông muốn giáp mặt với John Scott khi ông này uống rượu. Có lẽ trút nỗi bực bội lên bà vợ rồi ra ngoài tạo bộ mặt của công dân tốt tốt hơn. Ông lấy làm xấu hổ vì ý nghĩ này, nên gạt bỏ nó trong đầu.


      “Tôi nhận được tin nhắn của , và nóng lòng muốn biết gì.” Ông tự nhắc nhở mình phải cảnh giác, ngay cả đối với Sturrock.


      “Tôi nghĩ tới Jammet, khi chúng ta tìm kiếm dọc bờ hồ.” Sturrock rót hai ly whisky và khẽ lắc làm cho thứ chất lỏng màu hổ phách sóng sánh. “Và tôi nghĩ tới người quen trước kia, khi tôi làm nghề dò tìm. Tên ấy là Kahon’wes.”


      Knox im lặng chờ nghe tiếp.


      “Tôi chắc có nên nêu chuyện này ra hay ... Tôi tự hỏi, lại sao thương nhân như Jammet lại bị giết - với mục đích gì? Tuy tôi chắc, dĩ nhiên là như vậy rồi, nhưng tôi nghĩ đó có thể là do tấm thẻ bằng xương.”


      “Tấm thẻ bằng xương mà trước đây ông tới phải ?”


      “Phải. Tôi với ông tôi cần nó cho việc nghiên cứu mà tôi theo đuổi vào lúc đó, và có lẽ ông nghĩ tôi cố chiếm nó cho bằng được, những người khác cũng muốn bằng mọi cách. Tuy nhiên... à, mặc xác, thậm chí tôi còn biết nó đúng là thứ tôi nghĩ trong đầu hay .” Khuôn mặt ông trong ánh sáng đèn trông khô khan và già cỗi.


      “Ông nghĩ nó là cái gì?”


      Sturrock nốc hớp rượu rồi nhăn mặt như thể đó là dược phẩm.


      “Điều này nghe ra ngớ ngẩn, nhưng... này, tôi tin nó có thể là chứng cứ của thứ chữ viết thời xa xưa của người Da Đỏ.”


      Knox muốn bật cười. Đúng là nghe ra ngớ ngẩn - chuyện phiêu lưu của trẻ con. Ông chưa từng nghe chuyện gì nực cười như thế.


      “Điều gì làm cho ông tin như vậy?” Ông hề nghĩ Sturrock là người người ngu dốt, dù cho ông này có khuyết điểm. Có lẽ Sturrock sai lầm và đó là thiếu sót của ông ta; đó cũng là lý do tại sao ở tuổi lục tuần ông vẫn mặc chiếc áo choàng kiểu cổ xưa với khuy măng sét sờn.


      “Tôi có thể thấy điều ông nghĩ là ngớ ngẩn. Tôi có lý do. Tôi nghiên cứu vấn đề này hơn năm.”


      Knox thể dừng: “Nhưng ai cũng biết có chuyện đó! tí bằng chứng gì cả. Nếu từng có thứ chữ viết như vậy, phải có vết tích... phải có tài liệu hoặc ghi chép, hoặc chứng cứ truyền khẩu... nhưng mà có gì cả.”


      Sturrock nhìn ông cách nghiêm túc.


      Giọng của Knox mang ý hòa giải: “Tôi xin lỗi nếu mình có ý bác bỏ, nhưng chuyện này là... quái dị.”


      “Có lẽ vậy. Nhưng số người vẫn tin là chuyện đó có thể đúng. Ông có nhìn nhận như vậy ?”


      “Có. Có, dĩ nhiên là họ có thể tin.”


      “Và nếu tôi tìm kiếm nó, những người khác cũng tìm.”


      “Điều này có lẽ cũng đúng.”


      “Vậy , điều mà tôi thường nghĩ là như thế này: người mà tôi tới, Kahon’wes, là nhà báo, nhà văn. Người Da Đỏ, nhưng là người có thiên bẩm. Có học thức, thông minh, có tài viết ra câu văn nghe hay ho, đại loại như thế. Tôi vẫn nghĩ ấy có thể lai dòng máu da trắng, nhưng tôi chưa từng hỏi. ấy có niềm hãnh diện cách cuồng tín; bị ám ảnh bởi ý niệm cho rằng người Da Đỏ, vốn có nền văn hóa vĩ đại của riêng họ, theo mọi mặt là ngang hàng với người da trắng. ấy có niềm tin sôi sục giống như số tín đồ tôn giáo. ấy nghĩ tôi là người thông cảm với quan điểm của ; mà đúng thế, đến mức nào đó... Tinh thần ấy được vững vàng, chàng tội nghiệp - sa vào tật uống rượu khi làm chuyện gì đó gây tiếng vang như mong muốn.”


      “Ông muốn ám chỉ điều gì?”


      “Ý tôi ấy, hoặc người nào đó giống ấy, vốn nồng nhiệt tin vào sắc tộc và văn hóa Da Đỏ, làm bất cứ việc gì để nắm được chứng cứ như vậy.”


      “Người này quen biết Jammet ?”


      Sturrock lộ vẻ hơi ngạc nhiên: “Tôi thực biết. Nhưng nhiều người nghe chuyện - ông nhất thiết cần phải biết ai đó muốn cái họ có. Chỉ tới lúc tôi nghe Jammet về tấm thẻ trong quán cà phê ở Toronto tôi mới quen biết ấy. Jammet phải là người kín tiếng.”


      Knox nhún vai. Ông tự hỏi liệu có phải Sturrock thực kéo ông ra khỏi nhà mình chỉ để kể câu chuyện lạ lùng này hay . “Bây giờ cái Kahon’wes đó sống ở đâu?”


      “Việc này tôi biết. Lần cuối cùng tôi gặp ấy là nhiều năm về trước. Tôi biết ấy đây đó bán đảo, viết các bài báo. Như tôi , ấy sa vào tật nghiện rượu rồi biệt tăm biệt tích. Tôi chỉ nghe ấy qua bên kia biên giới.”


      “Ông kể cho tôi nghe chuyện này vì ông nghĩ ấy là nghi phạm phải ? đủ cơ sở vững chắc, ông có nghĩ vậy ?”


      Sturrock nhìn vào ly rượu cạn. Bụi rơi vào ly, khiến cho ít rượu còn sót lại trở nên sánh đặc.


      “Có lần, Kahon’wes với tôi về thứ chữ viết cổ xưa. Ý tôi là điều khả dĩ có thứ chữ viết này. Trước đó, tôi chưa từng nghe tới.” Sturrock cười hiu hắt, vành môi mím lại: “Dĩ nhiên là tôi nghĩ ấy điên khùng.” Ông nhún vai trong dáng điệu khiến cho Knox nhận rằng ông xem dường bi ai cách lạ kỳ.


      “Rồi tôi đối mặt với tấm thẻ. Tôi còn nhớ ấy gì. Điều tôi kể cho ông có thể bất lợi cho tôi, nhưng tôi nghĩ ông cần biết tất cả kiện. Có lẽ nó quan trọng, tôi chỉ kể cho ông những gì tôi biết. Tôi muốn hung thủ bị trừng phạt chỉ vì tôi ra.”


      Knox nhìn xuống, cảm thấy lại có thêm chuyện phi lý: “Tiếc là ông tiết lộ thông tin này sớm hơn, trước khi tù nhân trốn thoát. Có lẽ ông có thể nhận dạng được .”


      “Thực vậy sao? Ông nghĩ... À, à.”


      Nhìn vẻ mặt của Sturrock, Knox hề tin ông này vừa mới nhận ra việc. Knox bắt đầu nghi ngờ toàn bộ câu chuyện. Có lẽ Sturrock có động lực nào khác để kéo chú ý đến người có hai dòng máu, hầu đánh lạc hướng chú ý về mình. Thực tế là, càng suy nghĩ ông càng thấy câu chuyện trở nên khó tin. Knox thắc mắc liệu thực có tấm thẻ hay ; chỉ có Sturrock đề cập đến nó chứ ai khác.


      “À, Ông Sturrock ạ, cảm ơn ông cho tôi biết. Chuyện này có thể… hữu ích. Tôi thảo luận với Ông Mackinley.”


      Sturrock dang hai tay: “Tôi chỉ muốn giúp mang kẻ giết người ra trước công lý.”


      “Dĩ nhiên rồi.”


      “Còn có chuyện khác.”


      Knox nghĩ: À, bây giờ chúng ta đến chủ đề chính yếu.


      “Tôi tự hỏi có thể nào ông bao cho tôi thêm ít đồng tiền nhơ bẩn ?”




      quãng đường ngắn, lạnh lẽo bước về nhà, Knox chợt nhớ ra, ràng đến mức gớm ghiếc và nhức buốt, câu ông với Mackinley lúc trước: “Chính mắt tôi thấy ý tưởng của ông về công lý được thực ra sao.”


      Ông bảo Mackinley (hoặc ít nhất cho phép Mackinley tạo ấn tượng) rằng ông trở lại để gặp tù nhân sau khi Mackinley tra vấn. Ông chỉ có thể hy vọng rằng Mackinley quá say hoặc quá chộn rộn nên để ý.


      Trong những tình huống này đấy là hy vọng khổ sở.


      ***


      Trong khi ăn sáng, Parker về khách thăm viếng trong đêm. Con chó sói mà chúng tôi thấy là con cái, còn tuổi, có lẽ mới hai tuổi và chưa trưởng thành hoàn toàn, ông nghĩ nó dõi theo chúng tôi cả vài ngày nay vì lý do hiếu kỳ, luôn cách xa khỏi tầm mắt chúng tôi. Có lẽ nó muốn giao phối với con Sisco, và ra làm thế rồi.


      Tôi hỏi: “Nếu ta có chó nó có theo ?”


      Parker nhún vai: “Có thể.”


      “Làm thế nào ông biết đêm qua nó ở đấy?”


      “Tôi biết điều này. Tôi chỉ đoán.”


      “Tôi mừng vì ông cho biết.”


      “Vài năm trước…” Parker ngưng lại, như thể lấy làm ngạc nhiên với chính mình vì ra mà được hỏi. Tôi chờ đợi.


      “Vài năm trước, tôi tìm thấy con sói non. Tôi đoán mẹ nó bị giết, hoặc nó bị đuổi khỏi bầy. Tôi cố nuôi nó như chó nhà. Trong thời gian, nó sống sung sướng. Nó giống như thú cưng, bà biết chứ... trìu mến với chủ. Nó liếm tay tôi rồi lăn tròn, ra chiều muốn chơi đùa. Nhưng rồi nó lớn lên, và chơi đùa nữa. Nó nhớ rằng nó là sói, phải là thú cưng. Nó nhìn chăm chăm vào khoảng xa xa. Rồi ngày nọ, nó bỏ . Sắc tộc Chippewa có cụm từ gọi việc này - có nghĩa ‘chứng bệnh suy tư cật lực’. Bà thể thuần hóa con thú hoang dã, bởi vì nó luôn nhớ gốc gác của nó và khát khao muốn quay về.”


      Dù cố gắng, tôi thể hình dung ra việc trai trẻ Parker chơi đùa với con sói non.




      Suốt bốn ngày, bầu trời ngả xám và hạ xuống thấp, khí ẩm như thể chúng tôi qua đám mây mù mịt. Chúng tôi dần dần lên, lúc nào cũng băng qua rừng cây, dù cho cây cối thay đổi: tán cây thấp hơn, thông và liễu nhiều hơn, tuyết tùng ít hơn. Nhưng bây giờ cây rừng thưa thớt hơn, cây cối thu lại thành lùm bụi, và điều khó tin nhưng có là chúng tôi đến bìa rừng; điểm cuối của rừng vốn có vẻ như có điểm cuối.


      Chúng tôi ra bình nguyên rộng khi mặt trời chiếu qua trần mây và soi sáng cả quang cảnh. Chúng tôi đứng rìa biển trắng đó từng làn sóng tuyết lan đến chân trời theo hướng bắc, đông và tây. Từ lúc đứng bên bờ Vịnh Georgian, tôi chưa từng thấy những khoảng xa như thế, khiến cho tôi chóng mặt. Phía sau chúng tôi là rừng cây; phía trước là quang cảnh khác mà tôi chưa từng thấy bao giờ, sáng lấp lánh, trắng và mênh mông dưới ánh mặt trời. Nhiệt độ hạ xuống vài độ; có gió, riêng cái lạnh giống như bàn tay nhàng nhưng cương quyết đè chặt lên lớp tuyết.


      Tôi cảm thấy bấn loạn giống như lần đầu tiên đối mặt với rừng nguyên sinh ở Sông Dove: quá bao la, quá trống trải cho con người, và nếu mạo hiểm ra bình nguyên này, chúng tôi dễ bị nguy khốn như đàn kiến đĩa thức ăn. Ở đây, đúng là có chỗ nào để núp. Tôi cố ngăn chặn ước muốn quay trở lại dưới tán cây như tôi theo dấu chân của Parker khỏi vùng rừng quen thuộc, thân thiện. Tôi thấy mình gần gũi với những con thú đào bới dưới lớp tuyết trong mùa đông, để sống dưới đất, trong hang hốc.


      ra khu bình nguyên phải là bằng phẳng, mà có đầy những gò đống đất và tuyết che giấu các bụi cây và đá tảng. Parker với tôi rằng cả bình nguyên là đầm lầy, và là địa ngục phải vượt qua trước khi đông cứng. Ông chỉ đến khoảnh trống nổi bọt, nơi ai đấy bị chìm xuống: là trong những người chúng tôi theo dấu. Hiển nhiên là chúng tôi được dễ dàng hơn. Ngay cả thế, mặt đất nhấp nhô đến nỗi sau hai tiếng đồng hồ tôi hầu như thể cất thêm bước nào được nữa. Tôi cắn răng mà chú tâm đến việc nhấc từng chân , nhưng càng lúc tôi càng tụt lại phía sau. Parker phải dừng lại chờ cho tôi theo kịp.


      Tôi bực tức. Việc này là quá khó khăn. Mặt mũi và tai tôi lạnh cóng, nhưng dưới lớp trang phục tôi đổ mồ hôi. Tôi muốn nơi trú và nghỉ ngơi. Tôi khát nước đến nỗi lưỡi có cảm giác như bọt biển khô khốc trong miệng.


      Tôi la lên: “Tôi thể!”


      Parker bước lại phía tôi.


      “Tôi tiếp được. Tôi cần nghỉ.”


      “Chúng ta chưa xa đủ để nghỉ. Thời tiết này có thể thay đổi.”


      “Tôi màng. Tôi cử động được.” Tôi chìm xuống đến đầu gối trong tuyết, như là cách phản đối. Tôi cảm thấy thoải mái đến nỗi tôi nhắm mắt trong cơn sướng thỏa.


      “Vậy bà phải ở đây.”


      Vẻ mặt và giọng của Parker hề thay đổi, nhưng ông quay người bước . Tôi nghĩ ông có ý định ấy, khi ông đến chiếc xe trượt tuyết và hai con chó bồn chồn và vướng víu nhau, ông hề nhìn ngoái lại. Ông giật dây hai con chó và chúng bắt đầu chạy .


      Tôi nổi giận, ông sẵn sàng bỏ và để tôi ở lại đây. Mắt đẫm lệ điên tiết, tôi cố nhấc chân và bắt đầu bước cách đau đớn theo sau chiếc xe trượt tuyết.


      Nỗi giận dữ thúc đẩy tôi tới trong tiếng đồng hồ, đến lúc ấy tôi quá mệt nên có cảm giác gì. Và rồi, cuối cùng, Parker dừng lại. Ông pha trà và sắp xếp lại các chiếc túi chiếc xe trượt tuyết, rồi ra dấu cho tôi ngồi lên. Ông sắp các chiếc túi thành kiểu chỗ ngồi cho tôi tựa lưng. Bây giờ tôi cảm động sâu sắc.


      “Các con chó xoay xở được ?”


      “Chúng ta có thể xoay xở.”


      Tôi hiểu ông gì, cho đến khi ông cột sợi dây nữa vào chiếc xe trượt tuyết để hỗ trợ hai con chó. Ông quấn vòng da quanh trán, rồi dựa người vào sợi dây kéo, thét tiếng ra lệnh cho hai con chó, cho đến khi chiếc xe trượt tuyết được kéo lên khỏi lớp tuyết đông cứng, ông kéo và kéo căng thêm rồi bắt nhịp bước như trước. Tôi xấu hổ vì làm gánh nặng cho ông, vì làm khó khăn thêm trong khi đến gần mức giới hạn của chịu đựng. Ông than phiền. Tôi cố cũng than phiền, nhưng thể mình làm tốt như ông.


      Bám vào chiếc xe trượt tuyết khi nó trồi lên hụp xuống qua các đụn tuyết, tôi nhận ra rằng khu bình nguyên quả là đẹp. Quang cảnh sáng rỡ khiến cho tôi chảy nước mắt, và tôi lóa mắt phải theo thể chất, mà vì có ấn tượng mạnh đối với thuần khiết rộng lớn, trống . Chúng tôi qua những bụi rậm có nhánh lá mang tuyết giăng thành mạng, và qua những hòn băng bắt lấy ánh nắng rồi phản chiếu lại thành những cầu vồng. Bầu trời là mầu xanh da đồng được đánh bóng; gợn gió, tiếng động của bất cứ loại gì. im lìm tạo cảm giác đè nặng.


      như nhiều người, tôi bao giờ cảm thấy thoải mái trong vùng hoang dã. gian trống rỗng khiến cho tôi nghẹt thở. Tôi nhận ra những triệu chứng của cơn kích động mới chớm và cố trấn áp chúng. Tôi cố nghĩ về đêm tối, và thoải mái từ tầm nhìn mù lòa này. Tôi cố nghĩ mình là người bé và chẳng quan trọng gì cả, đáng cho ai để ý. Tôi luôn cảm thấy điều này là dễ chịu, bởi vì khi tôi là đáng kể còn ai muốn làm khổ tôi?




      lần, tôi biết người đàn ông được Thượng đế tiếp xúc. Dĩ nhiên là có nhiều đàn ông và phụ nữ như thế trong bệnh viện tâm thần tôi sống - đến mức tôi thường tưởng tượng là nếu người lạ từ miền đất khác đến nhà chúng tôi, ông ta hẳn nghĩ mình lỡ sa vào nơi chốn mà tất cả nhân vật linh thiêng nhất của xã hội chúng tôi tựu tập. Matthew Smart bị dằn vặt về cuộc trò chuyện. Ông là kỹ sư nảy sinh ý tưởng là năng lượng của hơi nước lớn đến nỗi nó có thể cứu thế giới tránh khỏi tội lỗi. Chính ông được Thượng đế giao phó công việc chế tạo chiếc máy ấy, và bỏ ra nhiều nguồn lực để khởi động dự án này. Khi ông cạn tiền, dự kiến và điên rồ của ông bị phát , nhưng bị bứt ra khỏi chiếc máy là cách tra tấn mà ông chịu nổi, bởi vì ông nghĩ rằng nếu mình bỏ phế công việc tất cả chúng tôi sa vào Địa ngục, ông biết cá nhân mình quan trọng như thế nào trong dự kiến của mình, và luôn tóm lấy mỗi người trong chúng tôi để cầu khẩn giúp ông trốn thoát hầu có thể tiếp tục công việc thiết yếu của mình. Trong số những linh hồn bị đày đọa ấy, hầu như tất cả đều than van nỗi khổ riêng tư, lời cầu khẩn của ông là lời đau lòng nhất mà tôi từng nghe. hoặc hai lần tôi muốn liều chích cho ông mũi thuốc để giúp ông thoát khỏi nỗi thống khổ (nhưng dĩ nhiên là liều đến mức chịu đựng nổi). Đấy là nỗi dằn vặt khi biết cá nhân mình là quan trọng.




      Parker thét ra lệnh cho hai con chó, và chúng tôi lập tức dừng lại. Chúng tôi vẫn ở trong vùng đồng nhà trống, còn trông thấy rừng cây, và tôi chắc mình còn có thể chỉ ra điều này.


      Ông bước về phía tôi: “Tôi nghĩ tôi biết họ đâu.”


      Tôi nhìn quanh, dĩ nhiên là thấy gì cả. Khu bình nguyên trải dài theo mọi hướng. Nó trông như biển cả. có ánh mặt trời, tôi biết mình theo hướng nào.


      Ông chỉ về hướng ngược chiều với mặt trời lặn xuống bên tay trái chúng tôi: “Đằng kia là thương điếm của Công ty gọi là Nhà Hanover. Còn cách vài ngày đường. Dấu vết chỉ đường tới đó. Có địa điểm được gọi là Himmelvanger - ngôi làng tôn giáo. Người nước ngoài. Tôi nghĩ họ là người Thụy Điển.”


      Tôi dõi mắt theo ngón tay của ông và săm soi nhìn khoảng cách kéo dài đến hướng tây, nghĩ về bệnh viện tâm thần và những bệnh nhân mộ đạo náo động.


      “Thế là, Francis...” Tôi khó ra hy vọng của mình, vì cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ họng.


      “Khi đêm tối xuống, chúng ta tới đó.”


      “À…”


      Tôi thể gì thêm, e mình phá hủy món quà may mắn lớn lao này. Trong ánh sáng ban ngày, thình lình tôi để ý là mái tóc của Parker phải đen, mà có những vết màu nâu đậm nhạt, và có vết trắng nào.


      Ông lại thét ra lệnh cho hai con chó, tiếng thét hoang dã vang dội quanh vùng đồng bằng trống như tiếng hú của con thú, và theo đó ông giật sợi giây kéo, rồi chiếc xe trượt tuyết phóng về trước. Hơi thở xộc ra từ người tôi, nhưng tôi màng.


      Tôi biểu lộ lòng tri ân của mình, theo cách của riêng tôi.


      ***

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Espen biết rằng vợ mình, Merete, nghi ngờ điều gì đó. đề nghị hai người gặp nhau trong thời gian, chờ cho tình hình ổn thỏa. Line làm việc trong nỗi giận dữ, đá các con gà khi chúng đến gần, chọc mạnh đầu kim vào tấm chăn thêu, kéo các sợi chỉ quá mạnh và làm cho mối thêu nhăn nhúm. Chỉ còn có việc làm cho vui là chăm sóc cậu trai trẻ. Dĩ nhiên là mọi người đều biết bị giam lỏng vì vụ án kinh hoàng. Hôm nay, trông nhợt nhạt và bất động khi đến thay tấm trải giường cho .


      “Bây giờ còn sợ tôi nữa chứ?”


      Line nhìn qua khung cửa sổ. nhận ra quanh quẩn bên mình.


      mỉm cười: “, dĩ nhiên là . Tôi hề tin có chuyện đó. Đúng ra, tôi nghĩ họ đều ngu ngốc.”


      ra với giọng điệu sôi nổi khiến cho cảm thấy sốc.


      “Tôi vậy với cái người Scotland, nhưng ấy cho là mình làm nhiệm vụ. ấy nghĩ tiền bạc là tất cả chứng cứ mà ấy cần. Tôi đoán họ mang tôi về và có phiên tòa. Vì thế, mọi việc phải tùy vào ấy.”


      Line thay xong tấm trải giường; lại nằm xuống. nhận thấy các khuỷu chân và khuỷu tay của mảnh mai. mảnh mai thêm. Trông non trẻ và chơ vơ đến nỗi máu sục sôi lên: “Nếu có thể được tôi rời khỏi nơi này. Tin tôi , sống ở đây cứ như là chết.”


      “Tôi nghĩ có cuộc sống tốt đẹp ở đây, lánh xa tất cả cám dỗ và tội lỗi.”


      đúng như vậy.”


      trở về Toronto ?”


      thể được. Tôi có tiền. Chính vì lý do này mà tôi đến sống ở đây. Cuộc sống khó khăn đối với phụ nữ đơn độc có con cái.”


      “Nếu có tiền sao? Liệu trở về được ?”


      Line nhún vai: “ ích gì mà nghĩ đến chuyện này. Trừ khi chồng tôi thình lình trở về, với gia sản bằng vàng. Nhưng ấy về.” mỉm cười với vẻ chua xót.


      “Line...” Francis cầm lấy tay , khiến cho ngưng lại nụ cười. có dáng vẻ nghiêm túc, làm cho tim đập mạnh. Khi đàn ông thể dáng vẻ ấy khuôn mặt chỉ có ý nghĩa.


      “Line, tôi muốn nhận lấy số tiền này. Tôi có việc gì phải cần tiêu tiền. Dù sao nữa Per cho phép họ tịch thu, nên nếu nhận lấy có thể cất giấu, rồi ra vào lúc nào đó - có lẽ là vào mùa xuân.”


      Line nhìn mà cảm thấy kinh ngạc lạ lùng: “, chắc có ý... Đó là... , tôi thể…”


      “Tôi nghiêm túc mà. Bây giờ nhận lấy . Nếu chỉ uổng phí thôi. Đó là tiền của Laurent - tôi biết hẳn ấy cũng muốn nhận hơn là để cho những người kia lấy . Rồi nó về đâu? Có phần chắc là vào túi của họ.”


      Tim đập nhanh lan đến cổ họng. Quả là cơ may!


      biết gì.”


      “Tôi biết chính xác mình gì. được hạnh phúc ở đây. Hãy dùng số tiền đó mà bắt đầu cuộc sống mới. còn trẻ, còn đẹp, nên giam mình ở đây với mấy ông có vợ... phải được hạnh phúc.” Francis dần.


      Line nắm lấy bàn tay kia của : “ nghĩ tôi đẹp hay sao?”


      Francis mỉm cười, có phần ngượng nghịu: “Dĩ nhiên. Ai cũng nghĩ vậy.”


      “Đúng vậy sao?”


      có thể nhận ra theo cách họ nhìn .”


      cảm nhận niềm vui sướng dâng trào, và vào lúc ấy cúi xuống đặt môi mình lên môi . Môi nồng ấm nhưng bất động, và dù nhắm mắt, lập tức biết mình sai lầm khủng khiếp. Có vẻ như đôi môi co lại vì kinh tởm, như thể bị con ốc sên hoặc con giun đất chạm phải. mở mắt ra và thu người lại chút, cảm thấy hoang mang. nhìn hướng khác, khuôn mặt lộ vẻ kinh sợ.


      cố giãi bày: “Tôi...” thể hiểu được mình làm gì sai trái. “Tôi nghĩ tôi đẹp.”


      đẹp. Nhưng tôi có ý... Đó phải là lý do tôi trao tiền cho . Tôi có ý đó.”


      Có vẻ như muốn tránh càng xa càng tốt đến mức tấm chăn cho phép.


      “Ôi... Chúa tôi.” Line cảm thấy nóng bừng bừng và buồn nôn vì hổ thẹn. Làm thế nào chính có thể gây ra chuyện tồi tệ hơn thế nữa? Như thể sáng nay thức dậy và nghĩ về tất cả những việc thực điên rồ mình làm hôm nay, rồi bác bỏ việc bày tỏ cảm nghĩ của mình đối với Espen trong các buổi cầu nguyện sáng sớm, và chọc mũi kim vào cái mông tròn lẳn của Britta (hai việc chỉ mới có trong ý nghĩ), mà thay vào đó lại hôn trai trẻ bị bắt giữ về tội giết người. bắt đầu cười, và rồi cũng thình lình như thế, khóc.


      “Tôi rất tiếc. Tôi biết chuyện gì xảy ra với mình. Bây giờ tôi còn là chính mình nữa. Tôi cứ làm chuyện điên rồ.” quay mặt .


      “Line, đừng khóc. Tôi rất tiếc. Tôi mến , tôi thực mến. Và tôi thực nghĩ đẹp. Nhưng tôi phải là... đó là lỗi của tôi. Đừng khóc.”


      Line dùng tay áo lau đôi mắt và sống mũi, giống như bé Anna hay làm như thế. hoặc hay ý nghĩ vừa chớm trong đầu. muốn quay lại vì nếu vẫn còn lộ vẻ kinh tởm chịu nổi.


      đúng là tử tế. Tôi nhận món tiền, nếu thực có ý đó, bởi tôi nghĩ mình thể sống ở đây. Tôi biết chắc như vậy.”


      “Tốt. nhận .”


      Bây giờ mới quay lại. Francis ngồi dậy giường, cầm chiếc túi da. nhận lấy cuộn giấy bạc và cố ngăn ước muốn đếm nó, bởi vì như thế là tỏ ra vô ơn. Tuy nhiên, dường như ít nhất là bốn mươi đô la (bốn mươi đô la! Mà lại là đô la Mỹ), rồi nhét cuộn tiền vào bên trong áo blouse.


      Dù sao nữa, có thấy việc này hay cũng chẳng hề gì.




      Sau đó, ngồi trong gian bếp, lén lút ăn phó mát đầy miệng, Jens chạy vào, mặt đỏ bừng vì kích xúc.


      “Đoán ra chuyện gì ? Có thêm khách tới đây!”


      Jens và Sigi chạy ra, Line giận dỗi chạy theo, rồi thấy hình dạng của hai người và chiếc xe trượt tuyết. Những người Na Uy tụ tập chung quanh và đỡ người ngồi xe xuống. Người này lảo đảo và phải được nâng đỡ. Line thoáng thấy gương mặt trông dữ dằn và đen đúa, rồi nhìn qua người kia và nhận ra đó là phụ nữ da trắng. Quả là bất thường khi trông thấy phụ nữ như thế - dù qua lớp trang phục dày, bà vẫn có phong thái tao nhã - lại cùng người bản địa trông hung ác như thế, đến nỗi thoạt đầu ai biết phải hay làm gì. ràng là người phụ nữ kiệt sức nên Per phải trao đổi với người bản địa. Line nghe các câu đầu, nhưng rồi nghe tiếp câu sau, bằng tiếng : “Chúng tôi tìm Francis Ross. Bà này là mẹ ấy.”


      Ý nghĩ đầu tiên của Line, xấu hổ, là Francis muốn đòi lại khoản tiền. cũng cảm nhận nỗi ghen tị. Ngay cả sau kiện bối rối ban chiều, vẫn nghĩ mình có mối quan hệ độc nhất với trai trẻ; là người bạn và cũng là đồng minh của - người duy nhất ở Himmelvanger có thái độ bề với . muốn mình bị thay thế, cho dù trong tình cảm của nghi phạm về tội giết người.


      Line ép bàn tay vào người, bên ngoài cuộn giấy bạc và giữ ở đó.


      thầm thề nguyện với mình là bây giờ ai được lấy món tiền này.


      ***


      Những người đàn ông và phụ nữ với vẻ mặt háo hức và phấn khích nâng tôi dậy, đỡ cho tôi đứng lên khi tôi loạng choạng. Tôi hiểu được tại sao họ tỏ ra vui mừng đến thế khi gặp chúng tôi, và rồi tôi cảm thấy kiệt sức, hai tai lùng bùng với những rung động và tiếng ca hát kỳ lạ. Khi những người bao quanh gật đầu và mỉm cười và líu lo đáp lại lời Parker gì đấy, tôi hiểu được gì ngoài tiếng lao xao và kiện là đôi mắt tôi, dù nóng bỏng, vẫn ráo hoảnh. Có lẽ tôi bị mất nước; có lẽ tôi ngã bệnh. can gì; Francis còn sống và chúng tôi tìm được nó, đấy là điều quan trọng nhất. Thậm chí tôi còn cảm tạ Thượng đế, nếu những kênh thông tin với Người han rỉ từ lâu vẫn còn để mở.


      Tôi nghĩ mình thành công trong việc kiềm chế cảm xúc khi trông thấy con tôi. hai tuần trôi qua kể từ khi nó rời khỏi nhà; nó trông xanh xao, tóc xem dường đen hơn bao giờ hết; và nó mảnh mai, thân hình trẻ con dưới tấm chăn. Tuồng như tim tôi đập mạnh đến mức gần vỡ toang, khiến tôi gần bị tắc nghẹn. Tôi năng gì được, chỉ nghiêng người xuống để ôm lấy nó và cảm nhận xương xẩu nó sắc nhọn dưới lớp da. Hai cánh tay nó choàng qua hai bờ vai tôi, tôi có thể ngửi mùi của nó, khiến cho tôi hầu như chịu nổi. Rồi tôi phải thu người lại vì tôi còn nhìn được nó nữa, mà tôi cần nhìn nó. Tôi vuốt tóc nó, mặt nó. Tôi ôm chặt hai bàn tay nó trong hai bàn tay tôi. Tôi thể dừng vuốt ve nó.


      Nó nhìn tôi, chuẩn bị cho diện của tôi - tôi nghĩ thế - nhưng có vẻ như nó vẫn ngạc nhiên, và bóng ma của nụ cười lập lờ khuôn mặt của nó.


      “Ma-man. Mẹ đến. Làm thế nào mẹ đến được?”


      “Francis, cha mẹ rất lo lắng...”


      Tôi vuốt ve hai bờ vai và hai cánh tay nó, cố kiềm chế dòng lệ. Tôi muốn làm cho nó bối rối. Hơn nữa, tôi cần phải khóc nữa; bao giờ nữa.


      “Mẹ ghét xa mà.”


      Hai mẹ con tôi cùng cười to, run rẩy. Trong khoảnh khắc, tôi cho phép mình nghĩ đến việc khi về nhà chúng tôi bắt đầu lại; làm thế nào để còn có những cánh cửa đóng sập, còn có nỗi nín lặng ỉ. Sau đó, chúng tôi được hạnh phúc.


      “Pa-pa cũng đến đây ?”


      “À... cha con thể xa khỏi trang trại. Cha mẹ nghĩ chỉ người tốt hơn.”


      Francis nhìn xuống tấm vải giường. Đấy nghe như là lời giải thích khập khiễng. Tôi ước gì mình đưa ra lời dối trá có tính thuyết phục hơn, nhưng việc ấy vắng mặt lên nhiều điều hơn là bất kỳ giải thích nào. Francis rút hai bàn tay về khỏi hai bàn tay tôi, nhưng có vẻ như tay nó tuột ra. Nó vẫn thất vọng, dù có những chuyện khác diễn ra.


      “Cha rất vui được gặp lại con.”


      “Ông ấy nổi giận.”


      phải, đừng ngớ ngẩn.”


      “Mẹ đến đây bằng cách nào?”


      “Với người chuyên nghề dò tìm tên là Ông Parker. Ông tử tế muốn dẫn mẹ , và...”


      Dĩ nhiên là từ khi con tôi rời khỏi Sông Dove, nó biết những chuyện diễn ra. Nó biết Parker đúng là ai, hoặc có thể là ai.


      “Họ nghĩ con giết Laurent Jammet. Mẹ biết điều này, phải ?” Giọng của nó nghe thản nhiên.


      “Con ạ, đó là nhầm lẫn. Mẹ thấy ấy… Mẹ biết con làm chuyện ấy. Ông Parker quen biết Monsieur Jammet. Ông ấy có ý tưởng...”


      “Mẹ thấy ấy à?” Nó nhìn tôi, mắt mở tròn, mà tôi biết với dáng vẻ bị sốc hay là thông cảm. Dĩ nhiên là nó ngạc nhiên. Cả nghìn lần mỗi ngày từ lúc ấy, tôi vẫn nghĩ lại lúc tôi đứng ở khung cửa ngôi nhà gỗ của Jammet, cho đến khi hồi ức của quang cảnh kinh khiếp này bị bào nhẵn. Nó còn làm cho tôi bị sốc nữa.


      “Mẹ tìm thấy ấy.”


      Francis khép mắt lại, như thể có cảm nghĩ khác thình lình xâm chiếm lấy nó. Trong khoảnh khắc tôi nghĩ nó tức giận, cho dù có lý do nào khiến cho nó phải tức giận.


      “Con tìm thấy ấy.”


      Nó nhấn mạnh ngôn từ cách nhàng nhưng nhầm lẫn được. Như tuồng nó thấy cần phải vạch .


      “Con tìm thấy ấy, và theo dõi theo người gây án, nhưng rồi con mất dấu. Ông Moody tin con.”


      “Francis à, ấy tin. Mẹ thấy các dấu chân mà con theo dõi. Con phải kể cho ấy tất cả những gì con thấy, rồi ấy hiểu.”


      Francis thở hắt ra - dấu hiệu khinh thường mà nó hay biểu lộ ở nhà mỗi khi tôi tỏ ra ngu ngốc: “Con kể cho ông ấy tất cả.”


      “Nếu con... tìm thấy ấy, tại sao cho cha mẹ biết? Tại sao lại mình theo dõi ? Nếu tấn công con sao?”


      Francis nhún vai: “Bởi vì nếu chần chừ, con mất dấu .”


      Tôi ra - bởi vì nó hẳn có cùng ý nghĩ - rằng thế nào nữa nó cũng mất dấu.


      “Pa-pa có nghĩ con làm chuyện đó ?”


      “Francis... dĩ nhiên là . Làm thế nào con như thế được?”


      Nó lại mỉm cười - nụ cười méo mó, đau khổ. Tuổi nó còn quá nên đáng lẽ nó nên có cách cười như thế, và tôi biết đấy là do lỗi của tôi. Tôi thể giúp cho tuổi thơ của nó được hạnh phúc, và bây giờ khi nó lớn lên tôi thể bảo vệ nó chống lại những khổ ải và khó khăn trần thế.


      Tôi đưa bàn tay vuốt má nó: “Mẹ xin lỗi.”


      Nó chẳng hỏi tôi xin lỗi về việc gì.


      Tôi tiếp tục trò chuyện với nó, về việc tôi với Moody như thế nào để hiểu sai lầm. Tôi về tương lai, và làm thế nào để phải lo lắng gì nữa. Nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn lên trần nhà, nó lắng nghe tôi, và cho dù hai bàn tay tôi nắm lấy hai bàn tay nó, tôi biết mình đánh mất nó. Tôi mỉm cười, cố tạo thái độ vui tươi gương mặt và trong cử chỉ, thao thao về chuyện nọ chuyện kia, bởi vì hai mẹ con tôi còn có thể làm được gì khác?


      ***


      Hôm nay, vùng Vịnh yên ắng. Cả ngày hôm qua, trong cơn bão tuyết, tiếng nước gào thét đập vào bờ đá tạo ra tiếng rầm rì lan tỏa cả thị trấn. Lúc trước Knox nghĩ rằng bờ đá hẳn phải có hình dạng lạ lùng để trong điều kiện thời tiết nào đó phát ra thanh gầm gừ trầm lắng nhưng dứt như thế. Theo tầm mắt người ta có thể thấy qua màn tuyết cuồn cuộn - vốn xa lắm - con Vịnh có màu xám và trắng, mặt nước bị gió thổi xé toạc và nổi sóng mạnh mẽ. Vào những thời khắc như thế này, người ta mới hiểu được tại sao cư dân chọn đúng địa điểm để xây nhà ở Sông Dove, tránh xa con Vịnh rộng lớn và lường trước được.


      Khi màn đêm xuống, ít người ra khỏi nhà. Lớp tuyết dầy lên gần nửa mét, nhưng ẩm ướt, và rắn chắc lại. Những vết chân người và bánh xe chạy ngang dọc con đường, những làn đường đông đúc nhất tạo nên những rãnh sâu dơ bẩn nền tuyết trắng. Những làn đường ít người chỉ có dấu vết lờ mờ. Dấu vết chạy dài từ nhà đến cửa hàng, từ nhà nọ đến nhà kia. Bạn có thể nhận biết những ai ở Caulfield được thích và những ai ít ra ngoài.


      Bây giờ Knox theo vết lờ mờ, chân ông ướt và lạnh thêm sau mỗi bước . Điều gì cõi đời này ám ảnh ông khiến cho ông ra ngoài mà mang giày ủng cao su? Ông cố nhớ lại khoảnh khắc trước khi mình bước ra khỏi nhà, để tìm ra mình nghĩ gì, nhưng nhớ được. lỗ đen trong tâm trí ông. Trong thời gian gần đây ông thường có lỗ đen như thế. Ông thấy đó là điều đáng bận tâm.


      Khi đến ngôi nhà, tất cả đều yên ắng. Ông bước vào phòng khách nơi đứa con Susannah liến thoắng hay diện, nhưng ngạc nhiên thấy Scott và Mackinley ngồi ghế bành. thấy bóng dáng người nào trong gia đình ông. Ông có cảm tưởng hai người ngồi đợi mình.


      “Chào hai vị... À, John, tôi xin lỗi, chúng tôi nghĩ có khách tối nay.”


      Scott hạ tầm mắt xuống, lộ vẻ ngượng nghịu, cắn môi lại.


      Mackinley lên tiếng. Giọng ông ta bây giờ nghe rắn rỏi và tỉnh táo: “Chúng tôi cùng nhau đến đây tối hôm nay.”


      Knox hiểu ý, đóng cánh cửa lại sau lưng ông. Trong khoảnh khắc ngắn, ông chợt nghĩ mình phải phủ nhận tất cả; phải chỉ rằng vì say rượu mà Mackinley nghe mấy chuyện có thực, nhưng rồi gạt bỏ ngay ý nghĩ này.


      Mackinley bắt đầu: “Ít ngày trước, ông rằng ông quay lại kho chứa hàng, rằng Adam và tôi là hai người cuối cùng gặp tù nhân. Adam bị trừng phạt vì khóa cửa kho chứa hàng. Nhưng hôm nay, ông lại với tôi rằng chính mắt ông nhìn thấy tù nhân sau khi tôi gặp rồi trở về.”


      Mackinley ngả người dựa vào lưng ghế bành, lộ vẻ tự mãn của thợ săn giăng chiếc bẫy chuẩn xác.


      Knox liếc qua Scott; ông này nhìn ông thoáng rồi quay nhìn qua hướng khác. Knox cảm nhận nỗi khao khát muốn gian dối để cười to dâng lên trong ông. Có lẽ đúng thực là cuối cùng ông đãng trí. Ông băn khoăn nếu bây giờ bắt đầu ra mình có thể dừng lại được .


      “Điều tôi thực là chính mắt tôi thấy ý tưởng của ông về công lý được thực ra sao.”


      “Thế ông phủ nhận việc này phải ?”


      “Tôi thấy, và việc đó làm cho tôi kinh tởm. Vì thế tôi có động thái nhằm tránh trò hề của công lý. Đấy là việc ông hẳn làm.”


      Scott nhìn Knox, như thể lúc trước tin nhưng bây giờ thu can đảm để đối đầu: “Ý ông muốn là ông... phóng thích tù nhân?” Giọng ông này nghe căm phẫn.


      Knox hít hơi thở sâu: “Đúng. Tôi quyết định rằng đấy là việc tốt nhất phải làm.”


      “Ông điên rồi hay sao? Ông có thẩm quyền để làm việc như vậy.” Câu này là do Scott ra, lộ vẻ khó chịu như vừa ăn phải khoai tây xanh.


      “Tôi vẫn còn là quan tòa ở đây, tôi tin như thế.”


      Mackinley đằng hắng : “Đây là vụ việc của Công ty. Tôi nắm quyền chỉ đạo. Ông cố tình làm sai lạc quy trình của công lý.”


      “Đây phải là vụ việc của Công ty. Ông chỉ tìm cách làm ra vẻ như vậy. Nhưng nếu Công ty có liên quan gì đến vụ việc, công lý càng phải tỏ ra thiên vị. Điều này xảy ra được trong khi ông bắt giam người kia.”


      Sắc mặt Mackinley đỏ bừng, hơi thở sâu và gấp gáp: “Tôi báo cáo về chuyện của ông.”


      Knox săm soi móng ngón tay cái của mình khi trả lời: “À, ông cứ làm theo cách ông nghĩ cần phải làm. Tôi đâu hết. Mặt khác, ông... tôi nghĩ đến lúc ông tìm chỗ ở khác trong thị trấn này. Tôi tin ông Scott có thể giúp ông trong việc này, cũng như trong những việc khác. Chào hai ông.”


      Knox đứng dậy và giữ cho cánh cửa mở ra. Hai người đàn ông đứng dậy và ngang qua ông, đôi mắt Mackinley chiếu ra điểm cố định ngoài hành lang, Scott theo sau và nhìn xuống đất. Knox nhận biết hai người dừng lại bên ngoài và xì xào to với nhau, rồi bước . Ông thấy tiếc việc mình làm, mà cũng sợ hãi. Đứng trong hành lang có ánh đèn, Andrew Knox cùng lúc nhận ra ba điều: trạng thái chùng xuống, run rẩy, như thể sợi dây buộc suốt đời thình lình được thả lỏng; ước muốn được gặp Thomas Sturrock, vào lúc này là người duy nhất có thể hiểu ông; và kiện là lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, ông còn bị đau nhức ở các khớp xương nữa.


      ***


      Tuyết rơi ngớt trong hai ngày kế tiếp, và ngày sau lạnh hơn ngày trước. buổi sáng, Jacob và Parker ra rồi trở về với ba con chim và con thỏ. Có trời mà biết được làm thế nào hai người nhìn ra các con vật trong thời tiết như thế này. phải là nhiều, nhưng hai người có động thái tốt, bởi vì người Na Uy có thêm các miệng ăn phải chăm lo.


      Tôi bỏ thời giờ để ngồi cùng Francis, cho dù nó ngủ nhiều hoặc giả vờ ngủ. Tôi lo lắng cho nó; và lo cho vết thương ở đầu gối nó sưng lên và hẳn là gây đau. Per cho biết mình có ít kiến thức về y khoa, và xương bị gãy, chỉ bị sai khớp, và chỉ cần thời gian để lành lại. Sau khi kiên nhẫn hỏi han - Francis tự ra gì cả - tôi biết được đôi điều về chuyến của nó, và tôi lấy làm ngạc nhiên lạ lùng lẫn cảm động được biết nó được xa như thế. Tôi tự hỏi khi biết được Angus hãnh diện vì nó hay . Trước khi tôi đến, có phụ nữ tên Line chăm sóc cho nó, nhưng bây giờ tôi đảm nhận tất cả nghĩa vụ. Xem dường ấy vui khi thấy tôi đến và muốn lánh mặt tôi, cho dù tôi thấy trò chuyện với Parker cách mê mải trong nhà kho phía đối diện. Tôi thể mường tượng ra hai người có chuyện gì mà trao đổi với nhau. Tôi phải thú nhận rằng có ý nghĩ len lỏi vào đầu óc mình: dù sao chăng nữa, ấy chỉ là phụ nữ chồng, cho dù đấy phải do lỗi của . Và phải công nhận là trông khá đẹp theo hình thức da ngăm ngăm của người nước ngoài. Khi được giới thiệu với nhau, chào tôi với ánh mắt kém thân thiện. Tôi cảm ơn chăm sóc tốt cho Francis, và thoái thác, bằng tiếng sõi, nhưng với vẻ sưng sỉa mà tôi hiểu được. Rồi tôi nhận ra rằng khi đến đây, tôi chiếm lấy vị trí của và đẩy trở lại công việc thường ngày mà bị các phụ nữ có chồng sai khiến, có lẽ vì ở góa. Francis rất tử tế, và nó mến .


      Moody - hoặc Jacob thường xuyên hơn - ngồi canh bên ngoài cánh cửa, như thể họ chờ cho tôi kêu thét là Francis tấn công tôi, rồi họ xông vào mà cứu sống tôi. Tôi có cái nhìn khác đối với Moody. Ở Sông Dove, xem dường tử tế và rụt rè, người thực thi pháp luật bất đắc dĩ. Ở đây, lộ vẻ thiếu kiên nhẫn và nóng nảy. nhận lấy bộ áo quyền lực và khoác lên người mà có vẻ biết điều. Tôi cầu chuyện với trong riêng tư. luôn từ chối, viện cớ bận bịu với nhiều nhiệm vụ cấp bách. Nhưng sau hai ngày tuyết rơi dứt, ai cũng biết chỉ chờ đợi chứ có việc gì làm, và tôi có thể nhận ra điều này trong mắt khi cố đưa ra lời giải thích khác.


      “Được rồi, Bà Ross. Chúng ta nên đến... à, phòng tôi.”


      Tôi theo dọc hành lang, và người phụ nữ tên Line ngang qua chúng tôi, ném ánh mắt xấu xa về phía Moody.


      Phòng của Moody cũng có khí chủng viện như phòng của tôi, chỉ có điều vật dụng của nằm la liệt bàn ghế và sàn nhà, trông như vừa có kẻ trộm lẻn vào. vơ lấy quần áo của mình các chiếc ghế rồi vứt lên mặt giường. Khi ngồi xuống, tôi nhìn thấy mặt bàn bên cạnh mình phong thư đề người nhận là S. Knox. Tôi thấy thú vị về điều này. Tôi chắc chắn cố ý cho tôi xem; và lúc sau điều này được xác nhận khi quơ các món mặt bàn lại thành đống lộn xộn. tất bật với các món bừa bộn lúc, và tôi nhận ra rằng trong những tình huống khác mình có thể cảm thông với . chỉ lớn hơn Francis vài tuổi, đơn, và chỉ mới đến đất nước này lâu.


      hắng giọng vài lần, trước khi mở lời: “Bà Ross, tôi hoàn toàn hiểu được bà quan ngại về Francis. Đó là lẽ tự nhiên, vì bà là mẹ nên mới cảm thấy như vậy.”


      “Và cũng là lẽ tự nhiên mà phải tìm ra thủ phạm của tội ác kinh khiếp này.” Tôi cách nhàng, nhưng vẻ mặt của biến thành tức tối phiền hà. “Francis cũng muốn tìm ra kẻ chịu trách nhiệm, như nó kể cho nghe.”


      Moody kiềm chế thái độ để ra vẻ kiên nhẫn và chịu đựng trong hoàn cảnh thử thách: “Bà Ross, tôi thể cho bà biết tất cả lý do của tôi để cho rằng con trai bà là nghi phạm, nhưng những lý do này là rất bức xúc. Bà phải tin tôi.”


      “Tôi vẫn nghĩ rằng, đối với tất cả những người khác tôi đến, nhưng với tôi nên cho biết những lý do ấy là gì.”


      “Bà Ross, đây là việc của công lý. Có những lý do chính đáng cho hành động của tôi. Giết người là tội ác rất nghiêm trọng.”


      Tôi : “Các dấu chân. Dấu vết kia. Chuyện này sao?”


      thở dài: “ trùng hợp. Dấu vết mà kẻ... con trai bà theo để tìm nơi an toàn.”


      “Hoặc là dấu vết của kẻ giết người.”


      “Tôi hoàn toàn hiểu bà muốn tôi tin con trai bà vô tội. Đó là lẽ tự nhiên và đúng lý. Nhưng ấy bỏ trốn khỏi Sông Dove với số tiền của nạn nhân để dõi theo kẻ giết người, và rồi khai gian về việc này. Các kiện đều quy về kết luận. Tôi bị kết tội bỏ bê nhiệm vụ của mình nếu có động thái đối với việc này.”


      Tôi nín thở trong khoảnh khắc, cố gắng lộ vẻ ngạc nhiên. Francis kể cho tôi nghe về khoản tiền nào bị mất cắp.


      “Nếu theo đuổi những điều khả dĩ khác chắc chắn cũng là bỏ bê nhiệm vụ. Dấu vết đó có thể là của kẻ giết người; hoặc có thể phải. Làm thế nào biết được nếu lần theo nó?”


      Moody thở dài qua đường mũi, rồi đưa tay xoa hai sống mũi nơi gọng kính đè xuống thành hai lõm màu đỏ. muốn làm bất kỳ việc gì liên quan đến dấu vết kia.


      “Trong những điều kiện nay, nhiệm vụ của tôi là đưa nghi phạm đến nơi chắc chắn. Việc điều tra thêm phải chờ cho đến khi thời tiết được thuận lợi.”


      Xem dường tỏ ra hài lòng về câu phát biểu của mình, sau khi đặt gánh nặng lên nhiệm vụ của mình thay vì lên chính cá nhân mình. Thậm chí còn nở nụ cười , như thể lấy làm tiếc để việc vuột khỏi tầm tay của mình. Tôi cũng mỉm cười vì việc tiến triển theo cách như thế, nhưng tôi còn cảm thông với cho dù đơn hay .


      Moody, đấy phải là lý do chính đáng. Chúng ta phải theo dõi dấu vết ấy, bởi vì khi thời tiết được thuận lợi - như cách - còn gì để theo dõi nữa, trong khi nhiệm vụ của là phải tìm ra chứ phải là việc gì khác. có thể để Francis cho những người ở đây trông nom, hoặc nếu tin tưởng họ để người đồng nghiệp của trông chừng nó. Parker dõi theo dấu vết, rồi và tôi biết nó dẫn đến đâu.”


      Moody lộ vẻ kinh ngạc và tức giận: “Bà Ross à, bà có quyền bảo tôi phải làm nhiệm vụ của tôi như thế nào.”


      “Mọi người đều có quyền chỉ ra tình trạng bỏ bê nhiệm vụ trong vụ việc quan trọng như thế này.”


      trừng trừng nhìn tôi, ngạc nhiên vì phải nghe ngôn từ như thế. Tôi đoán hẳn mình chạm phải vấn đề cân não; có lẽ nghĩ đến dấu vết kia và nó làm cho lo lắng. Tôi nghĩ đầu óc quy củ, và những dấu chân dẫn ra vùng hoang dã ấy là chuyện tồn đọng gây rối rắm cho .


      “Dù sao chăng nữa, nếu đúng...” Tôi thấy khó mà đồng lòng khi lời này. “Nếu đúng, biết rằng loại bỏ tất cả điều khả dĩ, rồi lương tâm thanh thản. Mặt khác, nếu vụ việc được đưa ra trước phiên tòa, hữu của dấu vết và khả năng nó dẫn đến... à, ít nhất nó khiến cho kết luận của bị chất vấn, có phải thế ?”


      Moody nhìn tôi chăm bẳm, rồi hướng đôi mắt ra ngoài khung cửa sổ. Ngay cả ở đấy, có vẻ như vẫn tìm ra câu trả lời.




      Khi tôi hỏi Francis về khoản tiền, nó từ chối trả lời. Nó thở hắt, ngụ ý rằng câu trả lời là hiển nhiên và tôi ngu xuẩn mà thấy ra. Tôi nhận thấy nó tỏ ra bực bội như từ trước đến giờ.


      “Mẹ cố giúp con. Nhưng mẹ giúp được nếu con cho mẹ biết xảy ra chuyện gì. Moody cứ cho rằng con ăn cắp khoản tiền đó.”


      Francis nhìn lên trần nhà, nhìn đến các bức tường, bất kỳ thứ gì ngoại trừ đôi mắt tôi: “Con ăn cắp.”


      “Gì cơ? Tại sao thế?”


      “Bởi vì con cần tiền nếu xa. Con có thể cần giúp đỡ để tìm ra kẻ giết người. Con có thể phải chi trả cho việc này.”


      “Con có giúp đỡ ở nhà. Tiền có ở nhà. Tại sao con dùng?”


      “Con là con thể quay về nhà.”


      “Nhưng... dấu vết biến mất nhanh như thế.”


      “Thế là mẹ cũng nghĩ đấy chính là con, phải ?”


      mỉm cười, vẫn nụ cười chua xót như trước đây.


      ... dĩ nhiên là mẹ nghĩ thế. Nhưng - mẹ ước gì con cho mẹ biết tại sao con có mặt ở đấy vào lúc nửa đêm.”


      Francis mím môi lại. hồi nó gì, đủ lâu cho tôi nghĩ mình bỏ cuộc và ra ngoài.


      “Laurent Jammet...” nó ngập ngừng, “… là người duy nhất mà con có thể trò chuyện. Bây giờ còn ai nữa. Con màng nếu con bao giờ trở về.”


      Sau chốc, tôi nhận ra mình ngừng thở. Tôi tự nhủ nó chỉ thế mà suy nghĩ, hoặc nó cố tình làm cho tôi đau khổ. Francis vẫn luôn làm cho tôi đau khổ hơn là bất cứ ai khác.


      “Mẹ tiếc con mất người bạn. Lại còn trong tình huống như thế. Mẹ ước chừng cho bất kỳ thứ gì để con trông thấy cảnh ấy.”


      Cơn giận dữ của nó ập đến tôi, cơn giận dữ của trẻ nít đến mức suýt rơi lệ: “Mẹ chỉ có thể thế thôi sao? Mẹ ước con thấy hở? Có hề gì ? Tại sao ai nghĩ đến Laurent? ấy là người bị giết. Tại sao mẹ chẳng ước ấy bị giết?”


      Nó buông người trở lại chiếc gối, đôi mắt ráo hoảnh, và cơn giận dữ nguội , cũng thình lình như khi bùng phát.


      “Mẹ xin lỗi, con ạ. Mẹ xin lỗi. Dĩ nhiên là mẹ ước thế. ai phải chết như thế. ấy là người tử tế. Có vẻ như ấy... mến cuộc sống.”


      Tôi tự nhắc nhở mình rằng tôi biết ấy rất ít, nhưng lời ấy xem ra là điều chắc chắn. Tuy thế, nếu tôi nghĩ mình an ủi Francis hoặc điều mà nó muốn nghe, tôi lại lầm, như bao lần tôi lầm.


      Giọng của nó thầm: “ ấy phải là người tử tế. ấy chai lì. ấy thích tìm ra điểm yếu của người và lấy đó để đùa cợt. Bất kỳ chuyện gì cho người khác cười theo, cần biết đó là chuyện gì. ấy màng.”


      Tôi theo kịp câu chuyện quay ngoắt này. Bỗng dưng tôi lo sợ kinh khiếp rằng Francis sắp thú nhận với tôi chuyện gì đấy. Tôi vuốt trán nó và “suỵt”, như thể nó vẫn còn là đứa bé, nhưng tôi biết mình nghĩ gì. Vì thế tôi vẩn vơ, bất kỳ điều gì, chỉ mong Francis đừng mở miệng mà ra điều gì khiến cho tôi hối tiếc.




      Parker ở trong nhà kho cùng với Jacob và người Na Uy. Có lẽ họ tách khỏi bi kịch diễn ra bên kia khoảnh sân, và bàn về chứng bệnh vẩy nến[35] nào đó, theo cách tôi nghe lõm bõm. Tôi cảm thấy bối rối mà cầu trao đổi mình với Parker, khi bây giờ chúng tôi trở về với xã hội văn minh. Tôi thoáng nhìn thấy người Na Uy nhìn tôi với vẻ dò xét, mà tôi biết chắc là họ dò xét về tình trạng hôn nhân của tôi và việc tôi chọn người đồng hành kỳ lạ này. Trong bóng tối của nhà kho, tôi nhớ lại kho chứa hàng lạnh lẽo tối tăm. Xem dường đấy là lâu lắm rồi.


      Tôi với Parker: “ Moody quan tâm đến việc theo dõi dấu vết kia. Hai chúng ta có thể phải theo dõi.”


      “Đây là việc rất khó. Tốt hơn là bà nên lưu lại đây với con trai bà.”


      “Nhưng, phải cần đến... nhân chứng.”


      Tôi nghĩ mình ra cách cẩn trọng - mà thẳng là tôi tin tưởng ông, nhưng dù sao ông tỏ vẻ bị xúc phạm.


      “Bà biết tôi trở về hay .”


      “Phải cho Moody thấy... bất cứ cái gì ta tìm ra. Nếu ta chỉ có thể dẫn Francis…”


      Parker nhún vai: “Nếu con trai bà là kẻ giết người, ấy muốn đổ tội cho ai đó. Moody chấp nhận việc này.”


      Tôi biết Parker đúng. Lần đầu tiên, tôi nhận ra nỗi vô vọng, nhận ra mệt mỏi cùng cực. Tôi cố gắng leo lên quãng dốc trơn trượt, và leo được. Bây giờ mặt đất bắt đầu chuồi dưới chân tôi, và tôi biết phải làm gì. Tôi biết rằng mình có thể trông mong Parker giúp tôi. Tôi biết tại sao ông phải giúp tôi. Nhìn vào mắt ông, tôi thấy vẻ trắc nào - có vẻ gì mà tôi nhận ra được. Tuy nhiên, nếu có thể van xin tôi vẫn sẵn lòng van xin. Hoặc thêm nhiều việc khác nữa.


      “Ông phải dẫn tôi . Tôi phải tìm ra bằng chứng là nó vô tội. ai khác quan tâm họ bắt được ai miễn là bắt được ai đấy. Tôi van ông.”


      “Nhưng nếu tìm ra được gì sao? Bà nghĩ đến việc này chưa?”


      Tôi nghĩ đến việc này, nhưng có câu trả lời. Tôi chăm chăm nhìn khuôn mặt dửng dưng của ông, nhìn đôi mắt mà thấy tròng đen và đồng tử mà chỉ thấy toàn vẻ đen tối, và cảm thấy ớn lạnh khắp cả người.


      ***

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      có loại rượu nào làm cho say ở Cánh đồng của Thiên đường. Người được chọn lên Thiên đường cần đến chất kích thích nhân tạo hoặc con đường đến quên lãng. Lúc nào họ cũng luôn hạnh phúc và thanh thản. Sau khi bị Bà Ross thuyết giảng, Donald suy tính mình cho cái gì để đổi lấy thứ rượu rum kinh tởm mà người ta nốc ở Pháo đài Edgar. Mùa đông là mùa chè chén, giúp làm dịu những đêm dài vô tận khi mà ấm cúng chỉ là hồi ức xa xôi. Chè chén giúp con người ta chịu đựng được mấy chuyện giễu cợt kinh khủng mà các đồng nghiệp cứ kể kể lại. Chè chén cũng giúp chịu đựng được các đồng nghiệp. Donald có phân nửa lọ bẹt[36] đựng whisky mà thề để dành cho chuyến trở về, nhưng bây giờ lại thèm cách nhức nhối. có cảm tưởng là mình trở về sớm.


      Tuyết biến thành mưa. Trời ấm lên và các bông tuyết trở nặng vì hơi nước, còn lơ lửng mà rơi thẳng xuống. Lớp tuyết mặt đất cũng thay đổi: từ và xốp như chăn bông, bây giờ nhão nhoẹt. Từng dúm tuyết mang nặng hơi nước trượt dài mái nhà đối diện với cửa sổ của Donald, rồi rơi xuống đất với thanh nặng nề. Các mái nhà dần dần lộ ra những mầu sắc mờ đục - màu đỏ của gỉ sắt, màu xanh của kim loại. Nước liên tục giọt từ các mái hiên. Người ta thể trốn lánh khỏi các thanh; nhàng nhưng dứt, cũng như thể trốn lánh khỏi lương tâm.


      Donald nhìn thấy ông Parker, người bản địa, bên kia khoảnh sân. Ông ta có vẻ như thu dọn đồ đạc, sẵn sàng để ra . Trong thâm tâm Donald biết mình nên với Parker và người phụ nữ. Để đảm bảo là có cái gì hết trong câu chuyện này. đấy có phải do lòng quả cảm hay ; ý nghĩ phải qua vùng bình nguyên kinh khiếp làm cho thấy hãi hùng. Mặt khác, nếu dẫn con trai kia về như là nghi phạm và rồi kết quả là nhầm lẫn, bị khiển trách, lên án, và bị xầm xì to trong các phòng chè chén. Cái tội bỏ bê nhiệm vụ là ổn cho nghiệp của . Khi đến lúc phải chọn lựa giữa vùng hoang dã và nỗi nhục nhã trong nghề nghiệp biết đằng nào đáng sợ hơn.


      Parker với từ đây đến thương điếm kia mất đến sáu ngày đường - nếu thời tiết cho phép. Donald nghĩ đây là cơ hội để mình quen biết thêm quản trị viên ở đó - có lẽ là người giúp cho thăng tiến. bảo Jacob phải ở lại để canh giữ con trai. Trong lúc này, tù nhân được an toàn ở đây.


      Jacob trông có vẻ rất nghiêm trọng: “Tôi xin lỗi, nhưng để cho tôi với họ hay hơn. Cuộc hành trình khó khăn. Tôi biết phải tìm kiếm cái gì.”


      Donald muốn gì khác hơn là ở lại Himmelvanger trong khi Jacob lặn lội qua bùn nhão và tuyết để đến nơi chốn khốn khổ kia, nhưng như vậy là ổn chút nào.


      “Jacob à, cám ơn , nhưng tôi phải và quyết định phải làm gì. Và phải có người ở lại đây.” mỉm cười với Jacob, và này nhìn lại với dáng vẻ nghiêm trọng.


      “Nếu tôi với tốt hơn. Tôi có thể... chăm sóc cho .”


      Donald mỉm cười, cảm động và lòng trung kiên của Jacob. Cũng vì cách này ra vẻ như xem như là đứa trẻ tự lo cho mình được.


      cần đâu. Dù sao Parker vẫn phải trở về đây, để đưa Bà Ross về nhà. Cũng là điều thú vị khi xem thương điếm khác của Công ty.”


      cố giữ thái độ vui vẻ hơn là nghĩ trong đầu. vẫn lo lắng, có phần kinh sợ, về viễn cảnh của vùng hoang dã lạnh lẽo phía trước.


      Jacob có vẻ suy tư, như thể dằn vặt với chính mình: “Nhưng biết ... tôi có giấc mơ. có thể nghĩ đó là ngớ ngẩn, nhưng nghe này: tôi mơ thấy tự mình. Có mối hiểm nguy. Tôi nghĩ tôi phải với .”


      Donald cố trấn áp cơn dao động trong lòng, và cất tiếng cao hơn, để xua tan ý nghĩ dị đoan trong Jacob và trong . Chuyện lố bịch của người bản địa - nghĩ Jacob lại làm mồi cho những huyễn tưởng đó.


      “Tôi lấy làm lạ mộng mị vì thứ phó mát từ sữa dê chết tiệt ăn ở đây: đủ cho bất kỳ ai cũng thấy ác mộng!”


      Jacob cười theo . này biết mình bị quở trách.


      “Quan trọng là cần để mắt đến con trai. ta có thể... ra điều gì đó quan trọng. phải cố tỏ ra thân thiết với nó.”


      Jacob lộ vẻ nghi ngại, nhưng vẫn gật đầu.


      “Nhờ bảo Ông Parker là tôi theo họ, nhé!”


      Sau khi Jacob , bỗng dưng Donald có thôi thúc kêu với theo, để lên lòng biết ơn tha thiết đội với mối quan ngại - cho dù sai lạc - và tình bạn. Ở đây, Jacob là người duy nhất quan tâm đến bất cứ chuyện gì xảy đến cho . Rồi muốn cất tiếng; là người đàn ông trưởng thành. muốn có gia nhân người bản địa để chăm sóc mình, ngay cả người ấy là Jacob.


      Donald hồi tưởng lại những thay đổi diễn ra trong mối quan hệ giữa hai người. Sau chuyến đến Sông Dove và hậu quả rùng rợn, nảy ra tình thân thiết mà đáng lẽ phải lấy làm trân quý hơn là mình nhận ra được, bởi lẽ bây giờ cảm thấy tiếc. Donald cho rằng như thế là vì bây giờ là sếp, trong khi lúc trước Mackinley chỉ khinh rẻ cả hai người, và cả hai (hoặc ít nhất là Donald) khinh rẻ lại ông ta theo cách tế nhị hơn. Bây giờ nhìn Mackinley qua lăng kính khác, với thông hiểu tốt hơn về những điều phức tạp trong việc chỉ huy. Cha luôn với rằng cuộc đời phải là chuyến chơi dã ngoại, tức là chẳng có gì để vui thú hết. Lúc còn , thường nghĩ đó là ý nghĩ lạ kỳ, quá đáng, nhưng bây giờ lời lẽ của ông là đúng lý. Muốn trưởng thành phải đón nhận những thử thách vô định chực chờ, phải tránh né tình bạn để đổi lấy trách nhiệm. Đôi lúc bạn phải từ chối tình thương mến để được tôn trọng. Và có điều nào khác xảy đến với : điều nào đó cùng hòa điệu với ý nghĩ của về Susannah. Vì chỉ khi được tôn trọng người đàn ông mới có thể nhận được tình , bởi vì đối với phụ nữ, tình phải có yếu tố kính trọng.


      xem qua những lá thư của mình: nghĩ đó là những lá thư tình, tuy chứa đựng bản chất tình cảm gì nhiều. ràng là thế, tuy là ngày nào đó, ai biết được... Có bốn lá thư, được xếp lại thẳng thắn, ghi địa chỉ người nhận, mà trao cho Per để gửi Sông Dove khi thời tiết cho phép. lấy làm vui về các lá thư này, mà chép lại trong phòng mình, thêm thắt với câu từ lạc điệu của thứ triết lý nhùng nhằng khiến cho phải mất cả hai buổi tối, dám uống rượu. hình dung ra Susannah đọc các lá thư rồi cho vào chiếc túi, hoặc gói trong chiếc khăn tay ướp nước hoa (chiếc khăn tặng cho ?) để trong ngăn kéo.


      Với đợt tình cảm dâng trào, cố mường tượng khuôn mặt đúng vào lúc mỉm cười với trong phòng đọc sách, nhưng lại kinh hoàng mà thấy rằng thể gắn chặt hình ảnh trong tâm trí mình. có ấn tượng lãng đãng về nụ cười của , mái tóc nâu mềm dịu của , làn da trắng, đôi mắt màu hạt dẻ, nhưng các hình ảnh cứ xao động và mờ nhạt, hòa nhập nhau thành hình người trọn vẹn. hiểu sao mà có thể nhớ lại khuôn mặt của chị Maria, và của người cha, đều sắc nét tuyệt đối trong gian ba chiều, nhưng hình bóng của Susannah cứ vượt khỏi tầm với của .


      ngồi viết ít dòng cho để kể cho về chuyến sắp tới của mình. bị giằng co giữa ý tưởng bên là làm cho chuyến nghe như nguy hiểm và can trường, và bên kia là muốn lo lắng quá đáng nếu đọc lá thư trước khi quay về. Cuối cùng, viết với ngôn từ nhàng, có lẽ mình trở về Caulfield trong khoảng ba tuần, và đó là cơ hội tốt để làm đại diện cho Công ty và gặp gỡ quản trị viên khác, trong khi tâm tư thanh thản về việc Francis có tội hay . gửi những lời chúc tốt đẹp nhất, và rồi thêm đoạn cuối khiến cho hơi ngạc nhiên với chính mình, gửi lời hỏi thăm nồng nàn đến chị . Trong lúc, đăm đăm nhìn vào tờ giấy, tự hỏi như thế là kỳ quặc hay , nhưng có thời giờ chép lại cả lá thư, nên cho vào phong bì, dán lại rồi đặt chung với các lá thư kia.


      ***


      Bây giờ là mười giờ tối thứ Năm, ba tuần từ khi phát thi thể của Laurent Jammet. Maria đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ của phòng đọc sách, tuy rằng có gì để nhìn. có thể nhận ra những luồng mưa đâm xuống bãi bùn nơi đáng lẽ là khu vườn hoa cảnh, nhưng bây giờ trông như chuồng bò. Phía xa hơn, chỉ có bóng tối xáo động, nơi các làn nước thỉnh thoảng bị thổi dạt hướng này hướng nọ, bắt lấy ánh sáng ai biết chiếu đến từ đâu.


      Bên trong ngôi nhà, quang cảnh khá hơn bao nhiêu. Sau mấy kiện diễn ra vào buổi chiều, Bà Knox nằm thiêm thiếp giường do ảnh hưởng của loại thuốc gì đó mà Bác sĩ Gray cho bà dùng tiếng đồng hồ trước. Bà tỏ vẻ đau khổ nhiều như Maria nghĩ, nhưng vị bác sĩ có sức thuyết phục khi đến mối hiểm nguy của cơn sốc đến chậm, nên Maria khuyên bà phải nuốt loại thuốc nước đó. Susannah lộ vẻ đau đớn hơn, nhưng tính cách Susannah là thế - cơn giông bão ập đến bất chợt rồi sau đó là trời quang mây tạnh. Tuy thế, tình hình vẫn còn nổi gió, cho dù ở dưới này Maria nghe được gì cả. Ngôi nhà yên ắng như là tang tóc.


      Sau khi tranh cãi diễn ra - rất nhiều tranh cãi, khi các bậc trưởng thượng trong thị trấn đạt đồng thuận chưa hề có tiền lệ, cha bị bắt giam vì tội làm sai lạc quy trình của công lý. Bởi vì, dù sao chăng nữa ông là quan tòa được giả định của cộng đồng này chứ phải người mang hai dòng máu lại lôi thôi lếch thếch, nên ông bị giam trong kho chứa hàng, mà người ta quyết định đưa ông vào nhà của John Scott. Có nghĩa là ông bị giam trong căn phòng kế bên phòng của Ông Sturrock, và các bữa ăn được mang đến cho ông. Phòng ông rất giống phòng của Ông Sturrock và tiền phòng cũng ngang bằng, nhưng cha của Maria phải trả tiền cho đặc ân được cư ngụ ở đây.


      Cùng với Ông Mackinley và Archie Spence, lúc năm giờ rưỡi chiều nay John Scott đến gõ cửa nhà ông Knox. Maria ra mở cửa, đưa họ vào phòng khách rồi tìm cha . Trong hai mươi phút, họ đóng cửa lại trao đổi với nhau, rồi cha ra để giải thích rằng, thực tế, ông bị bắt giữ. Ông nở nụ cười , như thể đùa cợt với chuyện vui cười. Trong khi vợ ông giận dữ phản kháng và Susannah khóc rấm rứt, Maria chỉ đứng mà thể nghĩ ra phải gì. Mẹ xông vào phòng khách mà la lối với những người ở đây. Họ ngồi há hốc miệng và sợ hãi mà nghe bà miệt thị. ràng John Scott dao động tinh thần trong kế hoạch bắt cha ngay tại nhà, nhưng Mackinley vẫn kiên quyết, mắt và môi ông ta lộ nét vui mừng. Cha chấm dứt cuộc tranh cãi bằng cách rằng ông ở lại dọc con đường, chỉ đến khi vị quan tòa từ St Pierre được mời đến để phân xử. Ông hỏi - mà có vẻ châm biếm - rằng họ có quy định khoản tiền bảo lãnh cho ông được tại ngoại hay . Hiển nhiên là mấy người kia quên khuấy việc này. John Scott mở miệng nhưng thốt ra được lời nào. Mackinley đằng hắng rồi họ xem xét, qua hôm sau đưa ra con số. Vấn đề là họ thực cần phải hỏi cha cách tiến hành thủ tục như thế nào.


      Cuối cùng, Knox chấm dứt vụ việc khi cầu họ ra về; ông đến giờ dùng bữa tối, và họ làm cho đầu bếp phải chờ đợi. Dĩ nhiên là ông đến Mary trong bếp, nhưng nghe ra như thể ông trách móc những người đến bắt mình khiến cho ông ăn muộn. Mackinley nhíu mày, cho dù có vẻ như cha nhận ra. Maria nghĩ ông tỏ thái độ xuề xòa: đấy giống như là ông thấy vui vì bị bắt, như là họ sa vào chiếc bẫy do ông giăng ra. Ba người phụ nữ nhìn theo người chồng và người cha của họ đưa những người kia ra khỏi nhà, sau khi hỏi họ muốn mượn dù hoặc giày ủng cao su hay . Mackinley và những người kia từ chối, dù lúc này tuyết rơi dày, dù trong nhà vẫn có dư các thứ cho họ mượn.


      ***


      Sturrock lắng nghe những tiếng bước chân thang lầu. Ông nằm nghỉ giường, suy nghĩ về Bà Ross và về việc bà có đuổi kịp đứa con trai hay , mà ông đinh ninh nó mang theo tấm thẻ bằng xương. Những kiện hỗn loạn trong mấy ngày vừa qua khiến cho ông nghĩ mình nên lưu lại đây lâu hơn nữa. Bây giờ tuyết tan, có lẽ đến lúc ông nên trốn thoát. Nhưng dù có đâu ông lại rời xa hơn khỏi tấm thẻ mà ông khát khao, và chắc chắn họ dẫn con trai trở về đây khi tìm ra nó. Ông thở dài; chai whisky làm bạn với ông mấy ngày qua gần cạn. Đó là câu chuyện đời ông: tiến gần bất kỳ cái gì có giá trị trường cửu nhưng vẫn còn xa mục tiêu đạt được, hoặc còn rượu để uống.


      Đến đây, ông ngồi dậy và hiểu ra tiếng động ấy là gì: có lẽ là người láng giềng, ông mở cửa phòng và thấy ông Mackinley và John Scott, cùng với người mà ông quen biết.


      Scott bước đến ông, sau khi đóng lại cánh cửa của căn phòng đối diện: “À, Ông Sturrock. Tôi định đến để báo cho ông...”


      láng giềng mới phải ?” Sturrock hỏi với nụ cười, điều khả dĩ cho cuộc trao đổi hay ho là lý do của lạc quan.


      hẳn.” Sturrock nhận ra ánh mắt khinh miệt mà Mackinley ném đến phía sau đầu Scott. “, chúng tôi lâm vào tình thế bối rối của, à... phải giam giữ quan tòa, Ông Knox... và vì chúng tôi thể giam ông ấy ở kho chứa hàng, hà hà, có vẻ như ngôi nhà này cũng tốt như bất cứ nơi nào khác, trong lúc này.”


      Scott ngưng lại, ít mồ hôi lấm tấm trán, ông này trông như khá căng thẳng, mặt đỏ hơn bao giờ hết.


      Mackinley : “Ông Sturrock à, tôi mong chuyện này làm phiền ông.”


      Sturrock hỏi, hầu như vui vẻ: “Ý ông là ông giam Knox trong phòng kia phải ? Ông ấy làm cái quái gì vậy?”


      Hai người nhìn nhau, như thể băn khoăn Sturrock có quyền biết thông tin này .


      “Hóa ra việc tù nhân trốn thoát phải là tai nạn. Knox phóng thích ông ta, vì thế ngăn chặn guồng máy của công lý.”


      Sturrock nhận ra cặp lông mày của mình vẫn cố vươn cao vầng trán: “Trời đất, ông ấy điên hay sao?”


      Thình lình ông nghĩ ra rằng Knox lắng nghe từng lời - vì ông này có chuyện gì khác để làm. “Ý tôi , đấy là chuyện khác thường.”


      “Khác thường, đúng vậy.”


      Mackinley quay mặt , và Sturrock cảm thấy có ác cảm.


      “À... à.”


      “Đúng vậy.”


      Scott với giọng trò chuyện bình thường: “Ông Sturrock à, bữa ăn tối sắp sẵn sàng.”


      “À, cảm ơn. Cảm ơn.”


      Mackinley ra dấu cho những người kia xuống thang lầu, để lại Sturrock nhìn trân trối cánh cửa bị khóa. Khi tiếng bước chân dần, ông thầm kêu: “Ông Knox? Ông Knox?”


      “Ông Sturrock, tôi nghe ông.”


      “Đúng vậy ?”


      “Đúng vậy.”


      “À... ông ổn chứ?”


      “Khá thoải mái, cảm ơn ông. Bây giờ tôi nghỉ đây.”


      “À, chúc ngủ ngon. Cứ kêu tôi nếu ông... à, nếu ông muốn chuyện với ai đó.”


      có tiếng đáp trả nào thêm. Sturrock tự hỏi liệu nguồn thu nhập của mình cạn hay chưa.


      Maria Knox bước vào khi Sturrock ngồi bên bếp lò ở tầng dưới vốn được dùng làm quầy rượu vào ban đêm. Mưa rơi nặng hạt vài tiếng đồng hồ; còn tuyết đường, và cư dân của Caulfield bùn ngập đến mắt cá chân. Đêm khuya - ông biết chính xác bây giờ là mấy giờ, nhưng đoán đến để gặp cha . Tuy nhiên, bước thẳng đến ông. Ông biết là ai tuy hai người chưa từng chuyện với nhau.


      “Ông Sturrock phải ? Tôi là Maria Knox.”


      Ông cúi đầu chào cách trịnh trọng vì tôn trọng hoàn cảnh của . Vẻ trịnh trọng càng được nâng cao nhờ khoảng năm ly whisky ông uống, và nhờ những hồi ức ông đắm chìm vào trong tiếng đồng hồ vừa qua.


      “Tôi biết khuya, nhưng tôi mong được chuyện với ông.”


      chuyện với tôi?” Ông lại cúi đầu - là thế, ông hẳn khá say - tuy ông vẫn ra vẻ nịnh đầm: “Đây là vinh hạnh mà tôi đáng có.”


      Mặc dù có ai chung quanh nghe lỏm, với giọng : “ cần phải tâng bốc. Tôi muốn chuyện với người nào đó... à, ông phải là người trong chúng tôi, và dường như cả thị trấn nổi điên rồi.”


      “Ý muốn ... tình trạng khó khăn của cha .”


      nhìn ông, xem dường vừa bực tức vừa tính toán: “Tôi biết mình làm gì ở đây. Tôi nghĩ đó là vì Ông Moody, nhân viên Công ty, về ông, và xem dường có ấn tượng tốt, mặc cho... mọi chuyện khác. Có trời mà biết tôi mong gì...”


      Rượu làm cho ông chậm suy nghĩ. Rồi ông nhận ra rằng suýt bật khóc, và nỗi bực tức là với chính .


      “Tôi biết chuyện được với ai khác. Tôi lo lắng, lo lắng. Ông Sturrock à, ông là người có kinh nghiệm, ông làm gì trong hoàn cảnh của tôi?”


      “Về việc cha phải ? có thể làm việc gì khác được ngoài chờ đợi? Tôi biết họ mời vị quan tòa ở St. Pierre vào sáng mai, hoặc khi đường được.”


      “Ông nghĩ đường lúc này được sao?”


      “Trong thời tiết như thế này à? Tôi tin là được.”


      “Tôi nghĩ tôi tối nay, để tới đó trước. biết được họ những gì về cha tôi.”


      thân … chắc có ý đó. Cố tối nay, trong cơn mưa này... là điên khùng. Cha kinh hãi. Đó là điều tồi tệ nhất mà gây ra cho ông ấy.”


      “Ông nghĩ vậy sao? Có lẽ ông đúng. Dù sao nữa, thực là tôi quá nhát gan nên dám mình. Ôi, Trời!” giấu mặt trong lòng bàn tay dù chỉ trong giây. rơi lệ. Sturrock cảm thấy ngưỡng mộ , rồi kêu ly rượu cho ông, và ly cho .


      “Ông biết Monsieur Jammet, phải ? Ông nghĩ chuyện gì xảy ra với ấy?”


      “Tôi quen thân với ấy. Nhưng ấy là người có nhiều bí mật, và người có nhiều bí mật hẳn có nhiều kẻ thù hơn là người có.”


      “Ông cái quái gì vậy?”


      “A-hem, chỉ là… à, tôi đến Caulfield - và tôi vẫn còn ở đây - bởi vì tôi muốn mua vật mà Jammet sở hữu. ấy biết việc này. Chỉ có điều vật này biến mất.”


      “Bị mất cắp hả?”


      “Có thể là vậy. Có lẽ bị Francis Ross lấy cắp. Vì thế tôi chờ cho ấy trở về.”


      “Thế ông có nghĩ Francis giết ấy ?”


      “Tôi quen biết gì với ấy hết. Nên tôi được.”


      “Tôi ... ý tôi là, tôi nghĩ.”


      nghĩ gì?”


      Maria lưỡng lự, nhìn vào ly rượu của - và ngạc nhiên thấy ly cạn: “Làm thế nào ông biết người ta làm được những gì? Trong quá khứ tôi từng nghĩ mình giỏi phán xét người khác, nhưng bây giờ mới thấy là sai.”


      ***


      Vào buổi sáng, khi ba người kia chuẩn bị ra , Jacob bước vào đứng bên cạnh giường. với Francis nhưng nhìn lên trần nhà: “Tôi nghĩ đâu, nhưng nếu tôi dò tìm theo và đánh gãy cái chân kia. hiểu ?”


      Francis gật đầu, nghĩ đến vết thương do dao đâm mà Donald chỉ cho xem.


      “Vì thế tôi cần phải ngồi đây suốt ngày.”


      Francis lắc đầu.


      Vì thế, ngạc nhiên khi Jacob trở lại. Jacob tìm được thanh gỗ trong nhà kho; thanh gỗ thẳng và chắc - thân của cây duyên mộc , có chiều dài vừa đủ. bóc lớp vỏ thân cây, gọt đẽo mọi chỗ lồi, rồi mài nhẵn phần chĩa nhánh phía để làm thành hình chữ Y. Francis ngắm nhìn đôi tay với lòng ngưỡng mộ bất đắc dĩ; quả là kỳ lạ khi thấy thân cây có chất lượng của cây nạng.


      Jacob dùng mảnh chăn cũ để quấn lấy chung quanh phần phía : “Đáng lẽ tôi phải dùng da, nếu phần này ngấm nước.”


      “Ý là trong khi tôi chạy trốn.”


      Ban đầu, khi Francis những điều thiếu suy nghĩ hoặc ngu xuẩn mà màng kia nghĩ gì về mình, Jacob đùa hay , mà chỉ liếc nhìn với vẻ nghi ngờ. Nhưng bây giờ, Jacob mỉm cười. Francis nghĩ này lớn tuổi hơn mình bao nhiêu.




      Francis nghĩ cả hai người được nhõm vì cái Moody hay căng thẳng và lo âu ra . Và chính càng được nhõm thêm, tuy thấy mình có lỗi khi nhìn nhận, vì bà mẹ cũng . Mỗi khi bà ngồi trong phòng là có sức nặng của ngôn từ ra giữa hai người khiến cho thấy khó thở. ra hết mọi điều mất nhiều năm.


      Trước khi ra , mẹ bước vào phòng và nhìn qua Jacob; này đứng dậy ra ngoài mà lời.


      Bà ngồi bên giường , khoanh hai tay lại: “Đoàn của mẹ ra . Đoàn của mẹ theo dấu vết mà con theo - Ông Parker biết nó dẫn đến đâu. Tiếc là con được, phòng khi tìm ra người ấy, nhưng... ít nhất đoàn có thể tìm ra.”


      Francis gật đầu. Nét mặt của bà trông nghiêm nghị và quyết đoán nhưng lộ vẻ mệt mỏi; những đường hằn chung quanh mắt bà càng sâu hơn bao giờ. Lòng dâng lên niềm biết ơn đối với bà, vì làm thay việc định làm trong khi bà rất sợ vùng hoang dã.


      “Cảm ơn mẹ. Mẹ phải can đảm lắm mới làm được việc này.”


      Bà xoắn lấy đôi vai , như thể vì bực mình. Nhưng bà bực; bà vui. Bà vuốt má , các ngón tay chạy vòng quanh cằm . người nào khác đôi lúc có cử chỉ rất giống như thế. Francis cố nghĩ về điều này.


      “Đừng có ngốc. Mẹ với Parker và Moody; có gì phải can đảm.”


      Hai mẹ con cùng nở nụ cười ngượng ngập, hiu hắt. Francis cố kiềm chế nỗi khát khao kể cho bà nghe . ra với ai đó được nhàng, để trút gánh nặng. Nhưng ngay cả trong thời khắc cho phép mình tưởng tượng, biết mình thể được gì.


      Rồi bà , khiến cho ngạc nhiên: “Con biết mẹ thương con, phải ?”


      Francis cảm thấy lúng túng. gật đầu, lẩn tránh ánh mắt bà, vì lý do nào .


      “Cha con cũng thương con.”


      Francis nghĩ: “, ông ấy thương con; mẹ biết ông ấy ghét con như thế nào.” Nhưng gì.


      “Có chuyện gì khác con có thể với mẹ ?”


      Francis thở dài. Quả là có nhiều chuyện bà biết.


      “Ông Moody nghĩ tấm thẻ bằng xương có thể là quan trọng. Nếu nó có giá, nó có thể là... nguyên do. Con muốn mẹ giữ nó ?”


      Francis muốn rời xa nó, nhưng thể nghĩ đến lý do chính đáng nào để từ chối, nên trao cho bà chiếc túi da với tấm thẻ đựng bên trong. Bà lấy tấm thẻ ra, ngắm nghía. Bà đọc nhiều và biết nhiều, nhưng bà nhìn chăm chăm các dấu hiệu có góc cạnh, nhíu mày tỏ vẻ hiểu.


      ấp úng: “Mẹ cẩn thận với nó.”


      Bà nhìn : bà là người luôn cẩn thận với mọi vật.


      ***


      Mùa hè năm rồi, trước khi trường học nghỉ hè, khá sớm để các cậu con trai phụ giúp cha thiếu người giúp việc, chuyện có tiền lệ xảy đến với . hề suy nghĩ nhiều về những chuyện như thế này, cũng như mọi cậu bé trong vòng bán kính mười dặm, Francis phải lòng Susannah Knox.


      học lớp và chắc chắn là hoa khôi trong năm học ấy; người thanh mảnh, vui vẻ, với vẻ mặt duyên dáng. Hàng đêm mơ tưởng đến Susannah, và ban ngày hình dung mình và bên nhau - trong tình huống thay đổi mù mờ nhưng luôn lãng mạn, như chèo con thuyền vịnh, hoặc chỉ cho xem những chỗ núp bí mật trong khu rừng. Khi nhìn qua lớp học hoặc cười đùa với đám bạn sân trường là đủ khiến cho toàn thân xúc động, da như bị kim châm, hơi thở ngừng lại, mặt nóng bừng bừng. quay mặt , giả vờ quan tâm, và vì có bạn thân nên bí mật của được giữ kín. biết rằng mình phải là người duy nhất lâm vào nỗi mê đắm này, và rằng có thể chọn ứng viên lớn tuổi hơn và được mến hơn so với , nhưng dường như nghiêng về ai cả. Có lẽ cũng thành vấn đề nếu làm thế; phải mong làm thế. chỉ muốn lồng ghép vào những giấc mơ của mình, thế là đủ.


      dịp - buổi chơi dã ngoại mùa hè hàng năm, diễn ra vào cuối học kỳ, khi cả trường kéo nhau xuống bãi cát bên bờ vịnh. Dưới đôi mắt biếng nhác của hai thầy giáo buồn chán, bọn học trò ăn bánh mỳ kẹp thịt, uống nước ướp gừng rồi bơi lội, la thét và té nước cho đến khi trời tối. Francis vẫn chán ghét những cuộc vui chơi bị thúc ép và định ở nhà, nhưng cuối cùng cũng bởi vì Susannah tham dự, và vì sắp rời trường học, biết làm thế nào còn trông thấy lại hình bóng của vốn khơi dậy tình cảm nồng nàn trong .


      tìm chỗ ngồi xa nơi Susannah và số lớp cuối trung học ngồi, nhưng rồi phút sau Ida Pretty đến bên . Ida hơn hai tuổi, láng giềng kế cận nhà . Trong gia đình đông người của , chỉ thích mỗi . Ida ăn sắc sảo và vui tính, nhưng có thể khiến cho khó chịu. thích Francis và luôn muốn quấy rầy ; theo dõi cách cần mẫn (nhưng kín đáo) như theo dõi Susannah.


      Giờ đây ngồi với chiếc giỏ của mình và đôi mắt nhìn qua làn nước.


      “Tôi đoán trời mưa. Hãy nhìn đám mây kia. Đáng lẽ họ phải chọn ngày đẹp trời hơn, nghĩ sao?”


      Giọng của nghe chừng chứa đầy hy vọng. Là người hay bất mãn và đơn như , chia sẻ với nỗi chán ngán đối với những kiện được cho là có tính cộng đồng và vui thú. băn khoăn với câu hỏi liệu ngồi mình u uất hoặc ngồi với bé gây phiền hà đằng nào hay hơn. Nhưng trông cách Susannah thầm trò chuyện say sưa với đám bạn có lẽ dù làm gì Susannah vẫn chẳng để ý tới. Và còn có mấy đứa con trai ở lớp lượn lờ, ra vẻ lo chuyện của mình nhưng ở trong tầm nghe của các ; hoặc đùa nghịch, reo hò, thi nhau ném đá xuống nước xem ai ném xa nhất.


      Khi trời về chiều, các hoạt động lơi dần; đám học trò tiêu thụ xong bánh mỳ, đập ruồi nhặng, trút bỏ lớp quần áo ngoài. Nhóm của Susannah tách ra thành từng nhóm hai hoặc ba người; dạo cùng với Marion Mackay. Francis ngả người, đầu tựa lên phiến đá, chiếc nón che lấy đôi mắt. Ánh mặt trời xuyên qua lớp vải dệt, làm cho hoa mắt cách dễ chịu. Ida chìm vào im lặng bực tức, đọc quyển Puddenhead Wilson[37].


      Khi xoay đầu qua lại nhè làm cho ánh mặt trời tuần tự chiếu vào mắt rồi biến mất, Ida hỏi: “ nghĩ gì về Susannah Knox?”


      “Hả?”


      Dĩ nhiên là nghĩ về Susannah. Bây giờ có mặc cảm phạm tội nên cố gạt ra khỏi đầu óc mình.


      “Susannah Knox. nghĩ gì về ấy?”


      “Tôi nghĩ ấy trông được.”


      “Mọi người trong trường đều nghĩ ấy hầu như là người đẹp nhất mà họ từng thấy.”


      vậy sao?”


      “Ừ, đúng vậy.”


      biết Ida nhìn mình hay . Tim đập thình thịch, nhưng giọng nghe chán chường: “ ấy khá đẹp.”


      nghĩ vậy hả?”


      “Tôi nghĩ vậy.”


      Bắt đầu có chuyện gây khó chịu rồi đây. kéo chiếc nón ra khỏi mặt mình, nheo mắt với Ida. ngồi với hai đầu gối gập lên, hai bờ vai quanh hai tai. Khuôn mặt nhắn của nhăn nhó dưới ánh nắng, trông đau khổ và tức giận.


      hỏi: “Tại sao?”


      “Có quan trọng gì ?”


      “Có quan trọng gì hả? Là chuyện ấy đẹp hả?”


      “Ừ.”


      “Tôi biết. Còn tùy.”


      “Tùy ra sao?”


      “Tùy vào người tới. Tôi đoán nó quan trọng đối với ấy. Ôi trời, Ida!”


      lại kéo chiếc nón lên mắt, và lúc sau nghe tiếng đứng dậy rồi cáu kỉnh bước . hẳn thiếp , bởi vì thức dậy khi lại ngồi xuống, có phần ngạc nhiên và tự hỏi đâu, và tại sao nóng thế. Chiếc nón tuột khỏi mặt , và thấy lóa mắt, những tia màu đỏ bắn lên trước mắt . Da mặt căng và mềm ra. bị bỏng nắng.


      “Tôi ngồi đây lúc có làm phiền ?”


      Giọng phải của Ida. Francis ngồi dậy, và thấy Susannah Knox mỉm cười với mình. Cơn sốc lan xuống sống lưng như nước đá.


      . , phiền gì hết.”


      nhìn quanh. Bãi cát vắng vẻ hơn lúc trước; đám con ngồi với giờ thấy đâu.


      “Tôi nghĩ mình ngủ thiếp .”


      “Tôi xin lỗi làm thức giấc.”


      sao. Tốt thôi. Chắc là tôi bị bỏng nắng.”


      xoa trán mình. Susannah nghiêng người về phía , săm soi nhìn từ khoảng cách có vẻ như rất gần. có thể nhìn thấy từng sợi lông mi cong; lông măng li ti vàng hoe đôi má .


      nở nụ cười làm mê đắm lòng người. Mặt trời lấp ló phía sau lưng , chiếu vầng hào quang quanh đầu , mái tóc nâu biến thành những sợi vàng và bạch kim. Francis cảm thấy khó thở. Ít nhất, nếu bây giờ đỏ mặt vẫn nhận ra.


      Sau khi nghĩ ra chuyện gì khôn ngoan hơn, cuối cùng gắng gượng : “Thế là, có thấy vui ?”


      “Cái gì, ở đây hả? Tôi nghĩ tàm tạm. vài quấy rầy quá. Emlyn Pretty xô Matthew mặc đủ quần áo xuống nước rồi cười cợt cả giờ. Như thế là kém cỏi.”


      “Vậy hả?”


      Trong thâm tâm, Francis cảm thấy vui sướng. Trước đây gặp chuyện may với Emlyn. May là phải bị xô xuống nước.


      Thế rồi, dù cố nghĩ ra, vẫn biết nên chuyện gì khác. nhìn ra làn nước hồi lâu, cầu mong cho nguồn cảm hứng.


      Xem chừng Susannah bận tâm; đưa tay giật giật đuôi tóc, suy nghĩ mông lung, rồi : “Ida có phải là bạn ?”


      Câu hỏi từ trời rơi xuống khiến cho Francis nghẹn họng vì kinh ngạc. Rồi cười to. Quả là ý tưởng kỳ quặc. câu hỏi kỳ quặc.


      ! Ý tôi , ấy chỉ là bạn thôi. Nhà ấy kế nhà tôi, biết mà. Phía thượng nguồn sông. ấy hơn tôi hai tuổi.”


      “À... ở kế gia đình Pretty hả?”


      hẳn phải biết, cũng như ai ai đều biết ai ở đâu. Hai tay càng bận rộn thêm mái tóc. làm gì, thể biết được; chắc hẳn là việc vớ vẩn đòi hỏi tập trung cao độ.


      Cuối cùng, vắt lọn tóc qua bên với cử động cả quyết, rồi lắc cái đầu cho tóc vướng vào mặt: “ biết , thứ Bảy tới chúng tôi picnic, chỉ vài người thôi, ở hồ ngâm mình[38]. có thể cùng nếu thích. Chỉ có Maria, biết mà, chị tôi, Marion và Emma, có lẽ Joe…”


      Cuối cùng nhìn , nhưng đọc được ý nghĩa từ đôi mắt . Francis thấy như là bóng đen che khuất mặt trời, những nét người nhạt nhòa và sáng lóe trông như thiên thần Trường Chủ Nhật[39].


      “Thứ Bảy hả? Hừm...” hiểu việc gì diễn ra. Nhưng có vẻ như Susannah - người con Susannah Knox duy nhất - mời picnic; buổi picnic có chọn lọc mà chỉ những người bạn thân cận nhất của mới được mời (và còn có Joe Bell, nhưng ai cũng biết ta hay quấn quít Emma Spence). Rồi thình lình nghĩ có lẽ đây là chuyện đùa cợt kinh khủng. Nếu mời dự buổi picnic trong tưởng tượng sao? Nếu thứ Bảy có ai ở đó, hoặc tệ hơn nữa, có đám con trai năm cuối dòm ngó và cười nghiêng cười ngửa vì hồ đồ.


      Nhưng có vẻ như phải đùa cợt. vẫn còn nhìn , và rồi thoát ra tiếng cười ngắn, bồn chồn: “Trời đất ơi! Làm cho con phải chờ đợi hả?”


      “Xin lỗi. Hừm... chỉ thế này, tôi phải bàn với cha tôi... trước, để xem ông cần tôi làm việc nhà hay . Dù sao vẫn cảm ơn. Nghe tử tế.”


      Tim đập mạnh vì kinh sợ. thế hay ?


      “À, được. Cho tôi biết nhé?” Với vẻ dứt khoát, đứng dậy.


      “Ừ, tôi báo. Cảm ơn.”


      Lúc ấy, trông càng đẹp hơn bao giờ, vẻ mặt nghiêm túc và kiều, mái tóc mềm mại xõa xuống. mỉm nụ cười rồi quay . nghĩ có vẻ buồn. ngả người ra và đặt chiếc nón lên đôi mắt, để có thể bí mật ngắm quay lại phần kia của bãi cát, nơi nhập bọn với vài học sinh năm cuối. Bỗng dưng có cảm giác kỳ diệu lan tỏa khắp người. mời tham dự picnic. , người mà trước đây chưa từng với hơn mười tiếng: mời dự picnic!


      Francis nhìn mấy học trò tuổi hơn mình, đứng sát nhau cách nguy hiểm bên bờ nước, ném từng mẩu gỗ xuống cho nó lướt lên đập xuống mặt nước, bắn bọt trắng xóa. Tiếng gào thét nghe xa xôi đến kỳ lạ. nghĩ đến ngày thứ Bảy tới. Từ lâu, cha bỏ ý định bắt phải giúp đỡ công việc trong ngày nghỉ cuối tuần. nghĩ đến buổi picnic ở hồ ngâm mình bên con sông, nơi các cây sồi và liễu nhuộm lấm tấm mặt nước màu trà; và các trong trang phục mùa hè ngồi trò chuyện.


      biết mình tham dự.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Những đồng mùa đông






      Bác sĩ Watson là mẫu người giám đốc dám nghĩ dám làm ở bệnh viện tâm thần. mơ đến việc tạo tên tuổi cho mình, viết bài chuyên môn và rồi được mời trình bày ở những hội nghị chuyên đề, nơi có nhiều phụ nữ mến mộ vây quanh. Tuy nhiên, tạm thời, những phụ nữ duy nhất gần mất trí ít nhiều, và trong số này chọn tôi để giết thời giờ trong khi chờ đến ngày đủ nổi tiếng để ra .


      Tôi ở trong bệnh viện tâm thần được ít tháng đến, và suốt thời gian này người ta râm ran đồn đại về vị giám đốc mới. Cuộc sống trong bệnh viện tâm thần chung là vô cùng chán ngán, nên bất kỳ thay đổi nào cũng là đầu đề cho mọi người tranh luận sôi nổi, như là việc thay đổi món cháo yến mạch trong bữa ăn sáng, hoặc việc dời giờ may vá từ ba đến bốn giờ chiều. Vì thế mà vị giám đốc mới là biến cố quan trọng, thổi ngọn lửa cho các cuộc đồn đại và suy đoán kéo dài nhiều tuần. Và khi đến, người ta lấy làm thất vọng. Trẻ trung và đẹp trai, có khuôn mặt tươi sáng, hiền hòa và giọng cao trầm dễ nghe. Chỉ trong vòng nửa tháng, tất cả phụ nữ đều đem lòng . Tôi phải mình phải là hờ hững hoàn toàn, nhưng quả là buồn cười khi thấy số phụ nữ tự làm đẹp cho mình bằng mấy dải ruy băng và hoa lá cành để mong thu hút chú ý của . Watson lúc nào cũng tỏ ra nịnh đầm và có sức quyến rũ, thích cầm lấy tay họ mà tỏ lời khen ngợi, khiến cho họ cười khúc khích và đỏ bừng mặt. Mùa hè năm ấy, các phòng ngủ của phụ nữ đều vang tiếng thở dài trong đêm.


      Vì tôi thích trò tôn thờ thần tượng, thế nên tôi ngạc nhiên khi được gọi đến văn phòng của Watson và thắc mắc liệu mình làm gì sai trái. Tôi thấy cúi mình chiếc máy trông kỳ lạ đặt ở giữa phòng. Lập tức tôi đoán đấy là chiếc máy đặt giữa các ống nước vòi tắm hoa sen, được thiết kế để tạo cho bệnh nhân tâm thần cảm giác mạnh nào đấy, nhưng tôi chi tiết nó vận hành như thế nào, và cảm thấy khá lo lắng.


      Watson nhìn lên và mỉm cười: “À, chào Hay[40].” trông rất lấy làm vui với chính mình. ra, tôi lại kinh ngạc hơn do thay đổi trong căn phòng, vì với người tiền nhiệm căn phòng tối tăm và trông buồn thảm, lại có mùi hơi khó chịu. Đấy là căn phòng đẹp (cả bệnh viện tâm thần gây ấn tượng tốt với cung cách tân cổ điển); trần cao, với cửa sổ vòm rộng nhìn ra sân vườn. Watson cho lấy các tấm màn nặng nề treo từ các cửa sổ, và bây giờ ánh sáng từ hướng nam tràn ngập. Các bức tường được sơn màu hồng nhạt, có hoa đặt bàn, và đá cùng dương xỉ được xếp đặt cách nên thơ dọc chân tường.


      Tôi thể ngăn nụ cười: “Xin chào.”


      thích văn phòng của tôi ?”


      “Vâng, rất thích.”


      “Tốt. Sở thích của giống tôi. Tôi nghĩ điều quan trọng là làm cho khung cảnh của mình trông hấp dẫn. Nếu con người sống trong cảnh xấu xí làm thế nào họ được hạnh phúc?”


      Tôi nghĩ nghiêm túc hoàn toàn, và lí nhí lời lẽ gì đấy vô nghĩa, nghĩ rằng may mắn mà có quyền thay đổi khung cảnh cho hợp với sở thích của mình.


      tiếp: “Dĩ nhiên là căn phòng càng trở nên hấp dẫn hơn khi có ở đây.”


      biết cung cách của , tôi vẫn cảm thấy hơi đỏ mặt, nhưng cố giấu diếm bằng cách nhìn những bệnh nhân khác qua khung cửa sổ, lúc này dạo hoặc bị nhân viên lôi tuột .


      Chúng tôi vẩn vơ trò chuyện lúc, và tôi đoán cố tìm hiểu tình trạng yếu đuối tinh thần của tôi và liệu tôi có xu hướng lên cơn bạo lực hay . Xem dường hài lòng với những gì tôi , bởi vì bắt đầu giảng giải về chiếc máy. Về cơ bản đấy là chiếc hộp để tạo ra hình ảnh, và mình muốn nghiên cứu bệnh nhân. nghĩ việc này giúp tìm hiểu thêm về bệnh tâm thần và cách chữa trị, cho dù tôi hề hiểu làm thế nào đạt kết quả này.


      Đặc biệt là hình như muốn tạo ra hình ảnh của tôi: “ có gương mặt rất thích hợp cho máy chụp ảnh, sáng sủa và diễn cảm, đấy chính là điều cần thiết.”


      Tôi lấy làm vui với ý nghĩ là đặc biệt chú ý đến mình, và như thế là thay đổi hay hay so với các công việc hàng ngày. Như tôi , cuộc sống trong bệnh viện tâm thần là cực kỳ tẻ nhạt, ngoại trừ các cơn co giật kỳ lạ hoặc hành động muốn tự tử.


      Đôi mắt nhìn xuống bàn, giải thích: “Điều tôi suy nghĩ là loạt những nghiên cứu về, à... , trong những tư thế biểu trưng cho vài điều kiện tinh thần. À, lấy ví dụ... có triệu chứng mà chúng tôi gọi là mặc cảm Ophelia[41], được gọi theo tên của nhân vật bị ảnh hưởng, trong vở kịch nổi tiếng...” nhìn tôi để xem tôi có hiểu .


      Tôi : “Tôi biết câu chuyện này.”


      “À, tốt lắm... Thế ... xem, minh họa cho triệu chứng này là... tư thế đau khổ, với vòng hoa đầu và đại khái như thế. hiểu ý tôi chứ?”


      “Tôi nghĩ tôi hiểu.”


      “Việc này giúp ích cho tôi rất nhiều với bài chuyên môn tôi viết. Các bức ảnh minh họa tiền đề của tôi, đặc biệt đối với những người chưa bao giờ bước chân đến bệnh viện tâm thần và thấy khó mà mường tượng được.”


      Tôi gật đầu cách lễ độ, và khi thêm, tôi hỏi: “Tiền đề của là gì?”


      có vẻ hơi ngạc nhiên: “À. Tiền đề của tôi là, à... rằng có số mẫu hình đối với bệnh tâm thần; số dáng vẻ và hoạt động thể chất thường diễn ra đối với những mẫu hình khác nhau, để chỉ ra tình trạng tâm thần của họ. Rằng, tuy mỗi bệnh nhân có tiền sử riêng, họ đều ở trong những nhóm có chung các đặc điểm và dáng vẻ. Và rằng...” ngưng lại, hiển nhiên là suy tư, “... qua việc nghiên cứu lặp lặp lại và tập trung, chúng ta có thể khám phá thêm nhiều cách để chữa trị cho những người vô phúc tội nghiệp này.”


      “À.” Tôi mà tự hỏi mình - là trong những người vô phúc ấy - có những dáng vẻ gì đặc biệt hay . Có vài hình ảnh phù hợp tự ra.


      tiếp: “Và có thể vui lòng dành cho tôi chút thời giờ để ăn trưa cùng với tôi trong mấy ngày này, được ?”


      Chỉ nghĩ đến việc này là tôi phát thèm. Thức ăn trong bệnh viện tâm thần đủ bổ dưỡng nhưng nhạt nhẽo, khó nuốt và nhàm chán. Tôi nghĩ có giả thuyết (có lẽ thậm chí là tiền đề) cho rằng vài hương vị có tính kích thích nguy hiểm, ví dụ quá nhiều thịt hoặc quá nhiều mỡ hoặc quá cay làm dấy lên tính mẫn cảm tinh tế, gây ra náo động. Tôi thấy vui vì được làm người mẫu, nhưng chỉ hứa hẹn về thức ăn hợp khẩu vị cũng đủ làm cho tôi xiêu lòng.


      “Thế ,” mỉm cười, và tôi nhận ra bồn chồn, “ chấp nhận việc này ?”


      Tôi cảm thấy băn khoăn vì bồn chồn - đối với tôi? Hoặc đối với điều khả dĩ là tôi từ chối? Rồi tôi gật đầu. Có lẽ trọn đời tôi chẳng bao giờ hiểu được làm thế nào xuất trong các bức ảnh với vòng hoa đầu chữa được bệnh tâm thần, nhưng tôi là ai mà lại từ chối?


      Hơn nữa, là người đẹp trai, tử tế và trẻ trung, trong khi tôi là đứa con mồ côi trong bệnh viện tâm thần có người bảo hộ và thấy có triển vọng được xuất viện. Tuy tình huống này có khác thường đến đâu cuộc đời tôi vẫn thể nào tệ hại hơn được nữa.


      Chuyện diễn ra như thế. Khởi đầu, tôi đến văn phòng khoảng hoặc hai lần mỗi tháng. Watson thu thập số kiểu trang phục và cùng các món trang trí để tạo ra khung cảnh. bắt đầu với khung cảnh được gọi là u uất, mà tôi cảm thấy mình rất phù hợp để diễn tả. sắp đặt chiếc ghế bên khung cửa sổ, rồi tôi ngồi với bộ áo màu ảm đạm, tay cầm quyển sách và nhìn xa xăm ra ngoài như thể - theo cách - tôi mơ đến người mất. Đáng lẽ tôi có thể với rằng trong đời còn có những nỗi khổ tồi tệ hơn là mất người , nhưng tôi giữ mồm giữ miệng mà nhìn ra ngoài khung cửa sổ, lại mơ đến các món thịt rừng nấu rượu poóc-tô, cà ri gà, và nấm trifle[42] nấu với nhục đậu khấu.


      Bữa ăn trưa có các món ngon lành như tôi tưởng tượng ra. Tôi lo lắng vì mình ăn uống với tất cả vẻ thanh nhã của nông nô, và mỉm cười nhìn tôi khi tôi xúc miếng bánh nhân đào và quế lần thứ hai và thứ ba. Tôi ăn đến căng bụng, phải vì thiếu chất trầm trọng, mà chỉ vì từ lâu được ăn ngon, ăn món cay nồng và ngọt dịu. Lần đầu tiên trong bốn năm (trừ dịp Giáng sinh) được nếm lại các món nhiều gia vị cùng phó mát xanh cùng rượu vang quả là thần tiên. Tôi như thế, và cười lớn, và có vẻ rất vui. Khi tiễn tôi ra cửa văn phòng, nắm lấy hai tay tôi và nhìn sâu vào mắt tôi mà thốt lời cảm ơn.


      Như tôi đoán trước, tôi được gọi đến văn phòng thường xuyên hơn, và khi chúng tôi quen biết với nhau hơn việc ngồi làm mẫu cũng kém nghiêm túc. Ý tôi là dần dà tôi ăn mặc ít , rồi đến lúc tôi ngả người dựa vào đám dương xỉ với tấm vải muxơlin mỏng quấn quanh. Tôi nghĩ rằng còn quá sớm để từ bỏ việc giả vờ đóng góp vào tiến bộ của y khoa. Watson - hoặc Paul theo tên bây giờ tôi gọi - tiến hành các nghiên cứu theo ý thích, đôi lúc tỏ vẻ như có lỗi, mắt chớp chớp quay để tránh ánh mắt tôi như thể bối rối khi cầu tôi làm những việc như thế.


      tỏ ra tử tế và chín chắn, quan tâm đến ý kiến của tôi, trong khi nhiều người đàn quen biết tôi bên ngoài bệnh viện tâm thần quan tâm như thế. Tôi mến , rồi ngày lúc dùng bữa xong, tôi cảm thấy hạnh phúc khi nắm lấy bàn tay tôi, run rẩy. dịu dàng, khát khao, tỏ ra sợ hãi vì sai trái, và mỗi lần chúng tôi gặp nhau đều ngỏ ý xin lỗi vì tuân theo bản năng của mà lợi dụng tôi. Tôi hề bận tâm. Đối với tôi, đấy là bí mật tràn đầy xúc cảm, nỗi khao khát ngọt ngào, cho dù luôn bồn chồn và hoảng hốt khi chúng tôi thành thân với nhau, cách vội vã, sau bữa ăn trưa thịnh soạn, trong văn phòng khóa kín cửa.


      tỏa mùi nhà kính, mùi lá cà chua và đất ẩm, mà tôi thấy nồng nồng và thỏa mãn. Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ về mùi hương ấy là tôi nghĩ đến bánh nhân trái cây với kem hoặc bít tết trong rượu -nhắc. Thậm chí đêm nọ, nhiều năm sau, trong căn lều lạnh lẽo giữa rừng, khi tôi ngửi mùi hương ấy từ Parker tôi lại nhớ đến món bánh sô la đăng đắng.


      Tôi nghĩ mình chẳng bao giờ biết được chuyện gì xảy ra. Vì lý do nào đấy, Watson bị thất thế. Theo tôi được biết phải là do tôi, chắc chắn là ai ra gì cả, nhưng buổi sáng y tá trưởng thông báo Bác sĩ Watson phải ra thình lình, và trong vòng ít ngày có người thay thế. ngày còn ở đấy, ngày kế ra . Hẳn mang theo chiếc máy cùng các tấm hình. vài tấm trông đẹp; những bóng màu tối nền kính, tỏa ánh lung linh như bạc khi tôi nghiêng ra phía có ánh sáng. Khi cảm thấy u uất - thường khi như thế bây giờ - tôi tự nhắc nhở rằng run rẩy khi chạm đến tôi; rằng có thời tôi là niềm hứng khởi cho ai đó.




      Chúng tôi băng qua vùng bình nguyên trong ba ngày mà thấy quang cảnh thay đổi gì cả. Cơn mưa kéo dài trong hai ngày làm lớp tuyết tan chảy, khiến cho bước trở nên khó khăn. Bùn ngập đến mắt cá chân, và nếu như thế nghe ra chẳng có gì nhiều tôi phải nhấn mạnh là khá tồi tệ. Mỗi bước chân bị dính theo hàng cân bùn đất, còn chiếc váy của tôi trĩu nặng vì thấm nước. Vì bị nặng nề với váy như phụ nữ Parker và Moody trước cùng với chiếc xe trượt tuyết.


      Mưa tạnh vào cuối ngày thứ hai, và khi tôi vừa thầm cảm ơn bất kỳ đấng linh thiêng nào còn phù hộ cho mình, đợt gió bắt đầu và vẫn thổi mãi từ lúc ấy. Gió làm cho mặt đất khô lại và việc đứng được dễ dàng hơn, nhưng nó thổi từ hướng đông-bắc nên rất lạnh, đến nỗi tôi kinh qua tượng mà trước đây mình chỉ nghe , đấy là nước mắt đóng băng ở khóe mắt. Sau tiếng đồng hồ, mắt tôi đỏ nhừ.


      Bây giờ Parker và hai con chó dừng lại để chờ cho tôi theo kịp. Ông đứng gò nhô lên tí, và khi chúng tôi loạng choạng bước đến bên ông, tôi thấy tại sao ông đứng đợi: cách vài trăm mét phía trước là cụm tòa nhà - vật thể đầu tiên do con người xây nên mà chúng tôi trông thấy kể từ lúc rời Himmelvanger.


      “Chúng ta theo đúng con đường,” Parker , tuy rằng “con đường” là từ ngữ mà tôi thấy đúng.


      Moody nhìn qua đôi tròng kính: “Đó là nơi chốn nào vậy?” Thị lực của kém cỏi, càng kém thêm vì ánh sáng xám lờ mờ xuyên qua trần mây.


      “Đó là thương điếm trước kia.”


      Từ đây, tôi nhìn thấy có điều gì đấy ổn; nó có tính sát khí của tòa nhà trong cơn ác mộng.


      “Ta nên đến xem. Phòng trường hợp đến đây.”


      Khi đến gần hơn, tôi nhận biết chuyện gì xảy ra. Thương điếm bị đốt trụi; mấy chiếc bè nằm chỏng chơ nổi bật nền trời, mấy cây xà gãy đổ chĩa lên qua các góc cạnh sai lệch. Những bức tường còn sót lại đều thành than màu đen, và võng xuống. Nhưng điều kỳ lạ nhất là các cấu trúc gần đây bị bao phủ trong tuyết tan chảy ban ngày và đông cứng ban đêm, từng lớp này qua lớp khác nước tan chảy rồi đông lại nên bộ khung trần trụi phồng to lên và được băng tráng lớp ngoài. Đấy là quang cảnh khác thường: đen đúa, phồng rộp, lóng lánh; các tòa nhà phủ băng như thể bị sinh vật dị dạng nuốt chửng. Tôi - và tôi nghĩ cả Moody nữa - cảm thấy như là chuyện kinh dị.


      Tôi chỉ muốn thoát khỏi nơi này.


      Parker giữa các bức tường, xem xét mặt đất. Ông chỉ tay đến đống hình thù rệt nền đất ở góc: “Ai đó để lại quần áo.”


      Tôi hỏi ông ai lại làm như thế. Tôi có linh cảm mình muốn biết.


      “Đây là Chỏm Elbow. Bà có nghe tới bao giờ chưa?”


      Tôi lắc đầu, tin chắc đây là thêm chuyện tôi biết tốt hơn.


      “Công ty XY xây nên nơi này. Công ty Vịnh Hudson ưa việc họ xây thương điếm ở đây, nên đốt rụi nó.”


      “Làm thế nào ông biết được?”


      Parker nhún vai: “Ai cũng biết. Mấy chuyện như vậy xảy ra.”


      Tôi nhìn về hướng Moody, cách tôi gần ba mươi mét, qua cánh cửa biến mất, mò mẫm giữa đống đổ nát mà lúc trước có lẽ là đàn dương cầm.


      Tôi nhìn ngoái lại Parker để xem ông có mưu đồ gì xấu , nhưng khuôn mặt ông vẫn biểu lộ cảm xúc gì cả. Ông nhặt lên mảnh vải cứng, đóng băng và căng nó ra - từng mảnh băng vỡ vụn phát ra thanh phản đối - để cho thấy hình thù chiếc áo sơ mi, có lẽ lúc trước là màu xanh lam nhưng bây giờ quá dơ bẩn nên khó mà biết màu gì. Mảnh áo ngấm nước, lem luốc và để mặc ở đây cho thối rữa.


      Thình lình, tuy muộn màng, tôi nhận ra tầm quan trọng: “Đấy có phải là máu ?”


      “Tôi biết. Có lẽ vậy.”


      Ông sục sạo thêm chung quanh, và thốt lên tiếng kêu thỏa mãn. Lần này, chính tôi cũng hiểu tại sao - có những dấu vết của đống lửa, đen đủi và phủ bồ hóng, gần chân tường.


      “Mới đây phải ?”


      “Cách đây khoảng tuần. Thế là người của ta đến đây, và nghỉ qua đêm. Nếu bắt chước ta còn bị tồi tệ hơn nữa.”


      “Nghỉ đêm ở đây à? Nhưng còn sớm. Ta nên tiếp, đúng ?”


      “Nhìn lên trời xem.”


      Tôi nhìn lên; trần mây, bị chia ra thành bốn khung bởi những cây xà, xuống thấp và xám xịt. Nhuốm màu trận bão tuyết.


      Khi nghe qua dự tính, Moody vẫn tỏ ra lạc quan: “Nhưng chuyện gì thế - thêm hai ngày để tới Nhà Hanover hay sao? Tôi nghĩ ta nên tiếp.”


      Parker bình tĩnh trả lời: “ có cơn bão tuyết. Ta vui mà có chỗ trú.”


      Tôi có thể thấy đầu óc của Moody quay cuồng: có nên phản đối hay hoặc Parker có chịu nghe hay . Nhưng gió thổi đến, và nhụt chí; bầu trời trở nên xấu xí và hung hãn. Dù cho thương điếm bị bỏ phế trông xa lạ và huyền bí, vẫn còn tốt hơn là có gì cả.


      Theo đó, chúng tôi dựng lều giữa chốn hoang tàn. Parker dựng nên chái trú thân rộng dựa vào trong các bức tường còn sót lại, rồi gia cố bằng những thanh gỗ đen đủi. Tôi lo âu vì trông nó vững chắc hơn là chỗ trú thân tôi thấy ông làm lúc trước, nhưng vẫn theo chỉ dẫn của ông và đem đồ đạc từ chiếc xe trượt tuyết xuống. Trong mấy ngày qua, tôi quen dần với những công việc cần thiết cho tiện nghi và sinh tồn; tôi chất thức ăn bên trong (ông có nghĩ chúng tôi bị giam hãm trong nhiều ngày?), trong khi Moody kiếm củi - ít nhất đầy rẫy chung quanh - và cậy phiến băng những bức tường để đun nước. Chúng tôi làm việc nhanh nhẹn vì lo màn đêm buông xuống nhanh và gió thổi mạnh thêm.


      Khi chúng tôi xong xuôi các bước chuẩn bị tuyết thổi phần phật chung quanh, châm chích vào mặt như đàn ong. Chúng tôi bò vào chái trú thân; Parker đốt lửa để đun nước. Moody và tôi ngồi đối mặt với cửa ra vào được giằng với những cây xà lớn, nhưng những cây xà này bắt đầu ngả nghiêng như thể có người cố chui vào. Trong tiếng đồng hồ kế tiếp, gió càng lúc càng mạnh cho đến lúc mỗi người thể nghe người khác gì. thanh gầm rú nghe kỳ quái, cùng với tiếng vải bạt đập phành phạch và tiếng các súc gỗ của bức tường kêu răng rắc nghe kinh khiếp. Tôi cái chái trú thân có chịu đựng được hay , hoặc đổ sụp dưới sức mạnh và trọng lượng của tuyết và băng bên . Parker có vẻ lo lắng, dù tôi dám đánh cược là Moody cũng sợ hãi như tôi; mắt mở rộng sau tròng kính, và luôn giật nẩy người vì thanh chung quanh.


      Moody hỏi: “Hai con chó ở bên ngoài ổn chứ?”


      “Ổn. Chúng nằm sát bên nhau mà giữ hơi ấm cho nhau.”


      “À. Ý tưởng hay.” Moody cười, nhìn qua tôi, rồi hạ tầm mắt khi thấy tôi cười theo làm bạn đồng hành của .


      Moody uống trà rồi cởi giày ủng và bít tất ra, cho thấy bàn chân phủ máu khô. Vào những đêm trước, tôi thấy tự chăm sóc cho bàn chân, nhưng đêm nay tôi tỏ ý muốn giúp. Có lẽ đấy là do tôi nghĩ về Francis, rằng hai người cách nhau bao nhiêu tuổi; có lẽ đấy là do cơn bão tuyết bên ngoài và ý nghĩ rằng tôi cần đến tất cả những người bạn mình có thể tìm được. ngả người ra và duỗi từng chân cho tôi lau và băng bó bằng những dải vải lanh, vốn là tất cả những gì chúng tôi có. Tay tôi được nhàng, nhưng vẫn im lìm trong khi tôi lau các vết thương với cồn rồi băng chặt lại. Qua khóe mắt mình, tôi thấy dường như Parker nhìn hai chúng tôi, dù rằng với làn khói tỏa từ đống lửa và từ dọc tẩu của ông, tôi nhìn và có thể nhìn lầm. Khi tôi băng bó xong xuôi, Moody rút ra cái lọ bẹt trao cho tôi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy cái lọ này. Tôi tiếp nhận với lòng cảm kích; đấy là whisky, đặc biệt ngon, nhưng hương vị dịu nồng lan tỏa dọc theo cổ họng tôi, làm tôi chảy nước mắt. trao cái lọ bẹt cho Parker nhưng ông chỉ lắc đầu. Bây giờ nghĩ lại, tôi chưa từng thấy ông chạm đến rượu.


      Moody lại mang vào bộ bít tất thấm máu và giày ủng - nếu để ra ngoài quá lạnh. “Bà Ross ạ, nếu bà theo được mà chân bị phồng rộp bà hẳn là phụ nữ mạnh mẽ của vùng sâu.”


      Tôi giải thích: “Tôi mang giày da đanh nên chân bị chà xước gây phồng rộp. nên cố mua đôi khi chúng ta đến Nhà Hanover.”


      “À. Vâng.” quay sang Parker: “Ông Parker, ông nghĩ chừng nào chúng ta tới đó? Tối nay cơn bão tuyết này dứt ?”


      Parker nhún vai: “Có thể. Nhưng dù vậy, tuyết làm ta khó hơn. Có lẽ phải mất hai ngày.”


      “Ông tới đó chưa?”


      lâu rồi.”


      “Có vẻ như ông rành đường .”


      “Đúng.”


      khoảnh khắc im lặng, kém thân thiện. Tôi hiểu tại sao có kém thân thiện, nhưng tôi biết chắc là có.


      Moody hỏi tiếp: “Ông quen biết quản trị viên ở đó ?”


      “Họ ông ấy là Stewart.”


      Tôi nhận ra ông trả lời chính xác câu hỏi.


      “Stewart... ông biết tên ?”


      “James Stewart.”


      “À, tôi có phải là cùng người ... Gần đây tôi nghe câu chuyện về người tên James Stewart, nổi tiếng vì chuyến đường dài trong điều kiện mùa đông kinh khủng. Tôi tin đó là cả kỳ công.”


      Như lúc nào, vẻ mặt của Parker vẫn biểu lộ cảm xúc: “Tôi chắc được.”


      “À... ra thế.” Giọng Moody nghe như rất lấy làm vui. Tôi đoán nếu người ta quen biết ai ở vùng này, sau khi nghe về người nào đấy trước khi gặp mặt cũng giống như có người bạn cũ.


      Tôi hỏi Parker: “Thế ông quen biết ông ấy, phải ?”


      Ông nhìn qua tôi: “Tôi gặp ông ấy khi làm việc cho Công ty. Nhiều năm về trước.”


      Giọng của ông nghe như ông muốn tôi hỏi han thêm.


      Dĩ nhiên là Moody nhận ra: “Tốt, tốt, hẳn là rất hay... cuộc tái hợp.”


      Tôi mỉm cười. Nơi Moody có vẻ gì đấy dễ mến, dễ quậy tưng như con bò đực trong cửa hàng đồ sứ… Rồi tôi nhớ lại việc mà cố làm, và nụ cười của tôi lịm tắt.




      Tuyết vẫn rơi ngớt, và cơn gió cuồng nộ cũng thế. Theo đồng lòng ai ra, tấm bạt được chắn thành bức màn nên tạo được cho tôi khoảng riêng tư. Tôi nằm xuống giữa hai người đàn ông, cuộn mình giữa các lớp chăn, cảm thấy hơi nóng từ than hồng làm rát da mặt nhưng muốn cử động. Rồi Moody nằm xuống bên tôi, và cuối cùng Parker dập tắt đống lửa và cũng nằm xuống, gần đến nỗi tôi cảm nhận được ông và ngửi được mùi hương của nhà kính mà ông mang theo. gian tối như mực, nhưng tôi nghĩ mình nhắm mắt suốt đêm, trong khi gió vẫn gầm rú và đập vào vải bạt phành phạch lung lay như là có sống. Tôi có cảm giác kinh hãi là chúng tôi bị chôn vùi dưới tuyết, hoặc các bức tường đổ ụp xuống và đè chúng tôi bên dưới; tôi tưởng tượng ra mọi số phận khủng khiếp khi nằm với quả tim đập thình thịch và đôi mắt căng mở. Nhưng hẳn tôi thiếp ngủ, bởi vì tôi có giấc mơ, cho dù tôi nghĩ mình nằm mơ trong nhiều tuần.


      Thình lình tôi thức giấc mà thấy - tôi nghĩ thế - căn lều biến mất. Gió gào thét như có hàng nghìn tử thần[43] vây quanh, và gian dày đặc tuyết, làm cho tôi hoa mắt. Tôi nghĩ mình thét lên, nhưng thanh thoát ra giữa cơn cuồng nộ. Parker và Moody quỳ gối, cố khép lại cửa căn lều bị gió thổi tốc ra. Cuối cùng họ giằng lại được tấm bạt, nhưng tuyết rơi vào thành từng cụm bên trong căn lều. Tuyết rơi lên trang phục và trong tóc chúng tôi. Moody thắp đèn lên; run bắn. Ngay cả Parker cũng được bình thản như thường ngày.


      Moody lắc đầu và phủi lớp tuyết khỏi hai chân: “Này, tôi hai vị làm gì, nhưng tôi cần uống thứ gì đó.”


      rút ra cái lọ bẹt, nốc hớp rồi trao cho tôi. Tôi trao lại cho Parker; ông này lưỡng lự rồi nhận lấy. Moody mỉm cười như thể cảm nhận chiến thắng cá nhân. Parker nhóm lửa để pha trà, và ba chúng tôi đều lấy làm cảm kích, quây quần chung quanh với những ngón tay nóng rát. Tôi run rẩy, mặc dù biết vì lạnh hoặc vì bị sốc, và vẫn còn run cho đến khi tôi hớp ngụm trà pha đường. Tôi nhìn hai người đàn ông hút dọc tẩu mà ghen tị; đấy là thứ khác tạo cảm giác ấm áp và xoa dịu, cũng như miếng gỗ hồng sắc dùng để chèn đôi hàm răng tôi đánh lập cập[44].


      Khi whisky cạn, Moody : “Tuyết rơi dày ngoài kia.”


      Parker gật đầu: “Tuyết ngoài kia càng dầy trong này càng ấm.”


      Tôi : “Quả là ý nghĩ hay. Ta ấm và thoải mái trong khi bị ngộp thở cho đến chết.”


      Parker mỉm cười: “Ta có thể dễ dàng đào bới để thoát ra ngoài.”


      Tôi mỉm cười lại với Parker, ngạc nhiên khi thấy ông dễ chịu đến thế, rồi tôi nhớ lại giấc mơ trước khi mình thức giấc, và tôi giấu mặt sau tách nước trà. phải là tôi nhớ chính xác mình mơ thấy gì; chỉ là cảm giác nồng ấm lan tỏa trong tôi khiến cho tôi quay mặt , giả vờ ho, hầu hai người nhận ra đôi má tôi đỏ bừng.




      Gần giữa trưa, cơn bão tuyết dịu hẳn. Khi tôi thức dậy lần nữa, trời sáng, có thêm tuyết dạt vào các góc căn lều và lấp đầy các khoảng trống giữa ba chúng tôi. Khi tôi ra khỏi lều, trời vẫn nổi gió và xám xịt, nhưng trông huy hoàng so với đêm qua. Cái lều bị vùi lấp phân nửa dưới lớp tuyết dày mét; toàn quang cảnh trông khác hẳn dưới lớp tuyết: đẹp đẽ hơn, có vẻ báo trước điềm gở như tối qua. Phải mất vài phút tôi mới nhận ra rằng, cho dù Parker trấn an, quả phần bức tường sụp đổ trong đêm, tuy gây nguy hiểm cho chúng tôi. Tôi cố nghĩ đến chuyện gì xảy ra nếu chúng tôi giăng lều cách sáu, bảy mét về phía đông. Chúng tôi làm thế, đấy là điều cốt yếu.


      Ban đầu, tôi e sợ hai con chó bị chôn thây; khi nhìn quanh tôi thấy dấu hiệu gì của chúng, trong khi ngày thường chúng thường sủa đòi ăn. Rồi biết từ đâu Parker xuất với cây gậy dài chọc xuống lớp tuyết, gọi hai con chó với tiếng kêu sắc lẻm lạ lùng mà ông dùng để thông tin với chúng. Thình lình trông như có vụ nổ gần ông, rồi con Sisco phóng lên từ đống tuyết, theo sau là con Lucie. Chúng nhảy đến ông, sủa mãnh liệt, cả thân hình vẫy qua lại, rồi ông vuốt ve chúng. Hẳn ông thấy nhõm mà tìm ra hai con chó; bình thường ông chẳng hề chạm đến chúng, nhưng bây giờ ông mỉm cười, tỏ ra vui mừng. Tôi chưa hề thấy ông mỉm cười với tôi như thế. Hoặc dĩ nhiên là với ai cũng thế.


      Tôi đến chỗ Moody vụng về thu nhặt các món trong lều: “Để tôi làm cho.”


      “À, Bà Ross muốn làm hả? Cảm ơn. Bà làm cho tôi xấu hổ. Sáng nay bà cảm thấy thế nào?”


      nhõm, cảm ơn hỏi thăm.”


      “Tôi cũng vậy. Quả là đêm lý thú, phải ?”


      mỉm cười, trông gần như láu lỉnh. Sáng nay cũng có vẻ sảng khoái. Có lẽ đêm qua mỗi người trong chúng tôi đều sợ hãi hơn là mình muốn nhìn nhận.


      Rồi sau đấy, khi chúng tôi tiếp tục về hướng đông-bắc, ngay cả khi loạng choạng bước lớp tuyết dày cả mét, ba người gần nhau hơn, Parker điều chỉnh nhịp bước theo hai chúng tôi, như thể chúng tôi là ba người tìm thấy niềm an ủi khi bên nhau.


      ***


      Espen lên tiếng cách khẩn trương: “Line à, tôi cần chuyện với em.”


      Line cố kiềm chế cảm giác quay cuồng trong tim khi nghe gọi tên . Trong vài ngày qua, hai người trao đổi với nhau lời nào.


      “Cái gì? Em nghĩ vợ nghi ngờ lắm đó.”


      Đôi mắt toát vẻ van nài khiến cho hầu như bật khóc vì vui mừng.


      “Tôi chịu nổi. Nhiều ngày qua thậm chí em còn nhìn tôi.”


      Line buông xuôi và mỉm cười. Rồi ôm lấy , ép sát người vào , hôn lên mặt , môi , cổ . Rồi kéo theo mình, mở cánh cửa dẫn vào phòng chứa vật dụng lau chùi, và đóng cánh cửa lại.


      Vật lộn với trang phục trong gian tối tăm của gian nhà kho, ép người vào chồng xà phòng và cái gì đó như là cây chổi, Line có ảo giác dằn xóc, rời rạc. Đấy như thể là vì có ánh sáng nên họ được miễn tội. Thậm chí thể ai ở đây với mình. Hẳn cũng cảm thấy thế - họ có thể là bất kỳ phụ nữ nào và đàn ông nào, ở bất kỳ nơi nào. Chẳng hạn như Toronto. Và rồi biết mình làm gì.


      Line cố tách đôi môi ra khỏi làn da để : “Em thể ở đây. Em sắp ra . Ngay lúc có thể được.”


      Espen lùi lại. có thể nghe tiếng thở, nhưng thể nhìn khuôn mặt trong bóng tối này.


      “Đừng, Line à, tôi chịu nổi nếu có em. Chúng ta có thể cẩn trọng. ai biết được.”


      Line cảm nhận cuộn giấy bạc trong túi, và đầu óc tràn ngập với quyền lực của nó: “Em có tiền.”


      “Ý em gì, em có tiền?”


      Trước khi đến để hành nghề xây dựng ở Himmelvanger rồi lưu lại, Espen chưa từng có tiền trong đời, luôn sống theo cách tay làm hàm nhai.


      Line mỉm cười trong bí mật: “Em có bốn mươi đô la. Đô la Mỹ.”


      “Cái gì?”


      “Chỉ có biết chuyện này.”


      “Làm thế nào em có được?”


      “Đó là bí mật!”


      Khuôn mặt Espen thoát ra nụ cười với vẻ hồ nghi. Theo cách nào đó, nhận ra. có thể cảm nhận run rẩy khi cười.


      “Chúng ta có thể cưỡi hai con ngựa. Chỉ cần mất ba ngày là đến Caulfield, chúng ta có thể mặc tất cả quần áo và dẫn các đứa trẻ theo. Rồi ta có thể đáp tàu hơi nước Toronto... hoặc Chicago. đâu cũng được. Em có đủ tiền để kiếm căn nhà trong khi ta tìm việc.”


      Giọng Espen nghe ra có phần hoảng hốt: “Nhưng Line à, bây giờ là giữa mùa đông. Nếu chờ cho đến mùa xuân tốt hơn - còn các đứa trẻ sao?”


      Line cảm thấy thoáng thiếu kiên nhẫn: “Tuyết rơi - ra là trời ấm áp! muốn chờ đợi để làm gì?”


      Espen thở dài: “Hơn nữa, khi em ‘các đứa trẻ’, em có ý Torbin và Anna, phải ?”


      Line trông chờ điều này. Tất cả là do lỗi của Merete. Ước gì ấy chết . này chẳng làm được gì và ai ưa ; thậm chí Per cũng mến trong khi ông mến mọi người khác.


      à, em biết là khó khăn, nhưng ta thể dẫn theo tất cả bọn trẻ. Có lẽ sau này, khi ta có nhà, có thể trở về mà đón chúng, nhé?”


      Trong thâm tâm, tin việc này khó xảy ra. tưởng tượng được là Merete - hoặc ngay cả Per - lại để Espen dẫn các đứa trẻ để sống với đứa lăng loàn. Nhưng Espen mến ba đứa con của .


      “Chẳng bao lâu nữa, chúng ta có thể sống với nhau. Nhưng bây giờ... em phải bây giờ. Em thể ở đây.”


      “Tại sao phải vội như vậy?”


      Đây là con bài át chủ của Line, mà khôn khéo khai thác: “À, em hầu như chắc... , em tin chắc là em chuẩn bị cho gia đình.”


      khoảnh khắc im lặng bao trùm. Line thầm nghĩ hẳn phải biết việc xảy ra như thế nào.


      “Tại sao lại thế được? Chúng ta cẩn thận!”


      “À... phải lúc nào chúng ta cũng cẩn thận.” chẳng cẩn thận gì cả - nghĩ đáng lẽ chuyện này xảy ra sớm hơn nếu cứ muốn làm theo ý mình. “ Espen à, giận em chứ?”


      . Tôi em. Chỉ có điều...”


      “Em biết, Nhưng chính vì thế mà em thể chờ cho đến mùa xuân. Chẳng bao lâu người ta biết được. Đây này...” cầm lấy bàn tay rồi luồn dưới eo mình.


      “Ôi, Line...”


      “Thế chúng ta phải , đúng , trước khi tuyết rơi trở lại? Kẻo ...”


      Kẻo , hai người dám nghĩ đến hậu quả ra sao.




      Chiều hôm ấy, Line vào phòng con trai. chờ cho đến khi Jacob ra ngoài và khuất bóng trong khu chuồng gia súc, rồi bước vào. Chiếc chìa khóa ở phía ngoài cánh cửa - bây giờ khi Moody , ai xem nghiêm túc việc khóa cửa.


      Francis ngạc nhiên nhìn lên khi bước vào. Từ lúc mẹ - ngày hôn trao tiền cho - chưa từng trở lại đây mình. Máu vẫn dồn lên mặt mỗi khi nghĩ về chuyện này. Francis vẫn mặc bộ quần áo của mình và ngồi chiếc ghế gần cửa sổ. cầm mảnh gỗ và con dao - gọt đẽo món gì đó. Line giật nảy mình - hình dung vẫn phải cần nằm giường, yếu ớt và xanh xao.


      Trước khi có thể dừng lại, : “À, thức.”


      “Vâng, tôi khỏe lên nhiều rồi. Ngay cả Jacob cũng tin tưởng tôi mà đưa con dao ấy cho tôi.” cầm con dao ra dấu, và mỉm cười với : “ được an toàn.”


      “Bây giờ được chưa?”


      “Tôi có thể đứng, với cây nạng.”


      “Thế tốt.”


      ra vẻ lo lắng: “ ổn ? Ý tôi , mọi việc ổn , bên ngoài cánh cửa đó?”


      “Vâng... tức là, , hẳn vậy. Tôi đến để cầu việc. Tôi cần giúp, về chuyến của từ Caulfield... hứa tiết lộ gì nhé? Ngay cả đối với Jacob?”


      ngạc nhiên nhìn chăm chăm: “Vâng, được rồi.”


      “Tôi chuẩn bị ra . Tôi phải bây giờ, trước khi tuyết lại rơi. Chúng tôi định mang theo ngựa và về hướng nam. Tôi cần chỉ đường.”


      Francis ra vẻ kinh ngạc: “Đường Caulfield hả?”


      gật đầu.


      “Nhưng nếu tuyết rơi khi đường sao?”


      “Mẹ được. Trong tuyết. Cưỡi ngựa còn dễ hơn.”


      “Ý và hai đứa trẻ phải ?”


      “Đúng.”


      ngẩng đầu, cảm thấy máu dồn lên cổ rồi lan đến tận chân tóc. Francis quay người, tìm chỗ đâu đó để đặt mảnh gỗ và con dao xuống. Trong khi rút ra cây viết chì và tờ giấy mang theo người, nghĩ: bây giờ mình lại xấu hổ. Mặc kệ, có chuyện chẳng đặng đừng. Xem chừng chẳng ghen tức.


      ***


      Vị quan tòa từ St. Pierre ngồi đối diện với Knox trong phòng ngủ-kiêm-nhà giam và thở dài. Ông là người béo lùn, trọng tuổi, ít nhất bảy mươi, với đôi mắt trắng đục như sữa phía sau thấu kính thạch xem chừng quá nặng nề đối với sống mũi gầy yếu.


      “Theo cách tôi hiểu đúng ý của ông, ông ông ‘ thể đồng ý với cách thức tàn bạo của Mackinley khi cưỡng bách lời khai của William Parker’, nên ông phóng thích ông ấy.”


      “Chúng tôi có cơ sở để giam ông ấy.”


      “Nhưng ông Mackinley ông ấy khai ra được ở đâu trong thời gian có nghi vấn.”


      “Ông ấy có khai ra. có ai xác nhận cho ông ấy, nhưng đối với người làm nghề đặt bẫy có gì là lạ.”


      “Hơn nữa, ông Mackinley rằng tù nhân tấn công ông ấy. Còn vết thương của tù nhân là do hành động tự vệ mà có.”


      “Ông Mackinley bị vết trầy sướt nào, và nếu bị tấn công ông ấy hẳn kể cho mọi người. Tôi nhìn thấy tù nhân. Đó là tấn công đầy ác ý. Tôi biết tù nhân khai .”


      “Hừm. Tôi có nghe qua người tên William Parker. Có lẽ ông biết rằng chính người tên William Parker có hồ sơ liên quan đến việc hành hung nhân viên của Công ty Vịnh Hudson chứ?”


      Knox nghĩ: Ôi, .


      Vị quan tòa từ St. Pierre tiếp: “Chuyện đó xảy ra khá lâu rồi, nhưng ông ta là nghi can của vụ tấn công khá nghiêm trọng, ông thấy đó, nếu ông chỉ cần chờ thêm thời gian ngắn mọi việc hẳn sáng tỏ.”


      Knox đáp: “Tôi vẫn tin ông ấy là thủ phạm mà chúng tôi truy tầm. Chỉ vì người làm việc gì đó sai trái - thời gian trước - có nghĩa là ông ta làm thêm việc sai trái.”


      “Đúng vậy. Nhưng nếu bản chất người đó là hung hãn, xu hướng đó có thể bùng lên lần nữa và lần nữa. Cùng người thể hung hãn và rồi hiền lành.”


      “Tôi chắc mình đồng ý với ông ở điểm này. Đặc biệt là nếu hành động hung hãn xảy ra lúc người ta còn trẻ.”


      “Đúng. Được rồi. Còn có nghi can nào khác tự do ?”


      “Tôi muốn mình phải ra theo cách đó. Tôi phái hai người theo dõi trai trẻ mất tung tích gần thời điểm đó. Họ chưa trở về.”


      Ông tự hỏi: Và họ ở nơi chốn chết tiệt nào? gần hai tuần lễ rồi.


      “Tôi được biết bà mẹ của ấy cũng mất tung tích?”


      Knox đáp: “Bà ấy tìm đứa con trai mình.”


      “À ra thế.” Ông tháo ra gọng kính vốn hằn thành vệt đỏ sống mũi ông, rồi dùng ngón tay chà sát. Ánh mắt của ông chiếu đến Knox ràng muốn : “Quả thực ông gây rối rắm cho cái thị trấn này.”


      “Ông định làm gì với tôi?”


      Vị quan tòa từ St. Pierre lắc đầu: “Vụ việc này quả thực rất bất thường.” Đầu ông vẫn tiếp tục lắc khẽ, như thể khi bắt đầu đó là chuyển động vĩnh cửu: “Bất thường nhất, rất khó mà biết tôi phải suy nghĩ ra sao, Ông Knox ạ. Nhưng tôi nghĩ, trước mắt, tôi có thể tin tưởng ông mà cho ông về nhà. Miễn là ông - hà hà - rời khỏi nước.”


      “Hà hà. . Tôi làm chuyện đó.”


      Knox đứng lên, muốn mỉm cười lại với nụ cười khô khan của người kia. Ông nhìn ra rằng mình cao hơn người kia cả cái đầu.




      được tự do, Knox cảm thấy kỳ lạ là mình muốn về nhà vội. Ông dừng lại rồi theo thôi thúc mà gõ cửa phòng của Sturrock. Sau giây, cánh cửa mở ra.


      “Ông Knox! Tôi vui mừng thấy ông lại được tự do. Tôi đoán vậy, hay là ông trốn thoát?”


      . Tôi được tự do, ít nhất là vào lúc này. Tôi có cảm tưởng như mình là con người mới.”


      Dù cho mỉm cười và giọng điệu ra vẻ khôi hài, ông chắc Sturrock nhận ra là mình đùa cợt. Ông chưa bao giờ thành công nhiều trong việc đùa cợt - ngay cả lúc còn trẻ - mà ông nghĩ là do điều gì đó liên hệ tới phong thái thâm trầm của mình. Khi còn là luật sư trẻ tuổi, ông nhận ra rằng cảm xúc mà ông thường tạo cho người ta là nỗi hoảng hốt và mặc cảm phạm tội, như thể ông ra đòn phủ đầu. Việc này cũng có tác dụng của nó.


      “Vào đây.” Sturrock đưa ông vào bên trong như thể Knox là người mà ông muốn gặp nhất đời.


      Knox tự cho phép mình tự mãn về thái độ này, và đón nhận ly whisky: “Này, chúc sức khỏe!”


      “Chúc sức khỏe! Tôi xin lỗi đây phải là rượu mạch nha, nhưng dù sao ta ở đây... Bây giờ xin cho tôi biết, ông thấy đêm trong nhà giam là như thế nào?”


      “À...”


      “Tôi ước gì có thể rằng mình chưa từng kinh qua, nhưng buồn thay, đúng. Cách đây lâu rồi, ở Illinois. Nhưng vì phần đông mọi người đều là tội phạm ở dưới đó, nên tôi có nhiều bạn tốt...”


      Hai người trò chuyện lúc, mỗi người đều thoải mái với người kia. Chai rượu vơi dần khi khung cửa sổ tối đen. Knox nhìn lên bầu trời và có thể nhận ra các mái nhà là màu đen nặng trĩu, báo hiệu thời tiết xấu thêm. Phía dưới, bóng người vội vã bước ngang con đường vào của hiệu bên dưới, ông nhìn ra đó là ai. Ông nghĩ có lẽ tuyết rơi nữa.


      “Thế ông vẫn lưu lại đây, chờ cho con trai trở về phải ?”


      “Vâng, tôi nghĩ vậy.”


      khoảnh khắc im lặng kéo dài; whisky cạn. Cả hai nghĩ đến cùng việc.


      “Ông phải làm giàu cho cái quán này bằng... tấm thẻ xương.”


      Sturrock nhìn xéo qua ông, ánh mắt đầy suy tính: “Tôi nghĩ phải như vậy.”


      ***

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Vào buổi tối ngày thứ sáu, lần đầu tiên họ nhìn thấy đích đến. Donald bước lê theo sau - ngay cả Bà Ross có thể nhanh hơn vì chân bị phồng rộp. thể nào bỏ rơi đôi giày ủng gây cực hình, nhưng ngay cả với cái chân hoàn toàn được băng bó kín, mỗi bước là cơn đau cực độ. Hơn nữa, vết thương bị dao đâm lại đau nhức, mà giữ bí mật đối với hai người kia. Ngày hôm qua, tin rằng vết sẹo sưng tấy trở lại, và lấy lý do dừng bước để lo chuyện riêng tư cởi nút áo để xem xét. Vết sẹo vẫn kín, nhưng sưng và rỉ ra ít chất dịch trong. lo lắng sờ để xem chất dịch tiết ra từ đâu. Có lẽ cuộc hành trình đầy gian khổ làm cho mất sức; khi họ dừng lại nó phục hồi.


      Vì thế, vui mừng tột độ khi nhận ra thương điếm từ đằng xa - mà trong những thời khắc bị đau đớn nghĩ nó hữu. Vào lúc này, Donald nghĩ có gì vinh quang cho bằng được nằm chiếc giường trong thời gian dài. vui mừng nhớ lại rằng bí mật của hạnh phúc là biến đổi giống như sau hồi đập đầu vào tường rồi dừng lại.


      Nhà Hanover nhằm khu đất cao; con sông chảy vòng bao bọc ba phía. Có cây cối túm tụm nhau phía sau, là cây cối đầu tiên mà họ nhìn thấy sau nhiều ngày - những cây cáng lò uốn cong, còi cọc và những cây thông rụng lá, tuy chỉ cao hơn đầu người chút nhưng vẫn là cây. Con sông trải rộng và lặng lờ nhưng bị đóng băng - nhiệt độ chưa xuống thấp lắm - và mang màu đen nền tuyết trắng. Khi họ tiến đến khá gần mà vẫn chưa thấy bóng người, Donald cảm nhận mối sợ hãi dai dẳng là ở đây chẳng có người nào cả.


      Thương điếm được xây dựng theo cách thức như Pháo đài Edgar nhưng ràng là cũ kỹ hơn. Hàng cọc tường thành nghiêng ngả; các tòa nhà màu xám và xác xơ qua những đợt tấn công dồn dập của thời tiết. chung, tất cả đều sờn mòn, cho dù có nỗ lực để phục hồi nhưng bộ mặt bên ngoài vẫn lên bỏ phế. Donald mơ hồ nhận ra lý do cho tình trạng này. Bây giờ họ ở sâu trong vùng Nền đá Canada phía nam Vịnh Hudson. Có thời, vùng này là nguồn phong phú của lông thú cho Công ty, nhưng lúc ấy lâu lắm rồi. Nhà Hanover là phế tích của những vinh quang ngày xưa, giống như cơ quan teo lại thân thể. Nhưng bên ngoài tường thành và chĩa ra phía bình nguyên là vòng những khẩu đại bác , và sau đợt bão tuyết có người nào đó chịu khó ra bên ngoài và quét dọn lớp tuyết khỏi các khẩu súng này. Những hình thù màu đen ngồi xổm, tương phản với tuyết, là dấu hiệu duy nhất cho thấy hoạt động của con người.


      Cánh cổng của tường thành khép hờ, và có những dấu vết do con người để lại đây đó. Dù ba người và chiếc xe trượt tuyết nền tuyết trong ít nhất giờ, vẫn có ai ra đón tiếp.


      “Nơi này trông hoang vắng.” Donald nhận xét, mắt nhìn qua Parker để chờ xác định. Parker trả lời, nhưng đẩy cánh cửa, và chỉ đẩy được dăm bảy phân cánh cửa bị kẹt do sức nặng của lớp tuyết phía sau. Khoảnh sân bên trong được quét tuyết - là cái tội nặng ở Pháo đài Edgar.


      “Ông có chắc đúng là nơi đây ?” Donald hỏi, và rồi thấy mình khó mà chống lại thân người mình ngã xuống để cởi đôi giày ủng ra. thể chịu nổi cơn đau thêm thời khắc nào nữa.


      Parker trả lời: “Đúng.”


      Donald nhìn quanh khoảnh sân hoang vu: “Có lẽ nó bị bỏ hoang.”


      , bị bỏ hoang.” Parker nhìn qua cuộn khói mỏng tỏa lên từ phía sau nhà kho thấp. Cuộn khói có cùng màu như bầu trời. Donald cố vươn mình lên đôi chân - nỗ lực siêu nhiên - và lảo đảo vài mét.


      Rồi người đàn ông bước quanh góc ngôi nhà và đứng sững lại: người cao lớn, da sẫm với đôi vai mạnh mẽ và mái tóc dài, trông hoang dại. Dù cho cơn gió lạnh băng, chỉ mặc chiếc áo lót bằng vải bông mềm mở ra đến thắt lưng. ta đăm đăm nhìn họ, miệng há hốc, lộ vẻ khó hiểu, thân hình rộng chùng xuống và tê cóng vì lạnh. Bà Ross trân trối nhìn như thể trông thấy hồn ma. Parker bắt đầu giải thích với rằng họ từ xa đến, rằng Donald là nhân viên Công ty, nhưng trước khi ông dứt, ta quay người trở lại theo lối đến. Parker nhìn Bà Ross và nhún vai. Donald nghe bà thầm: “Tôi nghĩ ta say,” và mỉm cười chán nản với chính mình. ràng là bà có kinh nghiệm giết thời gian trong mùa đông ở thương điếm tĩnh lặng.


      Bà Ross hỏi: “Ta có nên theo ấy ?” Cũng như mọi lần, bà có ý hỏi Parker, nhưng Donald lê bước tới, chân tê cóng nhưng thời may còn đau nữa.


      Đây là thương điếm của Công ty, vì thế cảm thấy bây giờ mình nên lấy quyền dẫn dắt: “Tôi tin chắc có ai đó ra trong phút. Bà Ross biết , ở thương điếm trong mùa đông, đặc biệt là thương điếm bị lập như thế này, nhân viên tìm mọi cách để được khuây khỏa mà giết thời giờ.”


      Hai con chó vẫn còn ở bên ngoài cánh cổng, bây giờ sủa và vẫy vùng mãnh liệt. Có vẻ như chúng thích đứng yên mà cắn nhau. Như bây giờ, hình như chúng cố giết nhau. Parker quay lại la thét với chúng, cầm cây gậy quật chúng; chiến thuật trông hay ho gì nhưng có hiệu quả.


      Sau ít phút, có tiếng bước chân mặt tuyết và người đàn ông khác vòng quanh góc tòa nhà. Donald nhõm thấy đó là người da trắng, có lẽ lớn hơn vài tuổi, với gương mặt nhợt nhạt, âu lo, và mái tóc hoe đỏ bù xù. này lộ vẻ bị làm phiền hà nhưng tỉnh táo.


      ta cáu kỉnh cất tiếng: “Trời ơi! Như vậy đúng là...”


      “Xin chào!” Donald càng vui hơn khi nghe ngữ Scotland.


      Người đàn ông trấn tĩnh lại phần nào: “À... xin chào. Tôi xin lỗi, lâu lắm rồi chúng tôi mới có khách, mà lại trong mùa đông... bất thường. Tôi quên cách cư xử…”


      Donald chìa bàn tay ra, lắc lư: “Donald Moody, kế toán Công ty ở Pháo đài Edgar.”


      “À, Ông Moody. Ờ... Nesbit. Frank Nesbit, phó quản trị viên.”


      Trong khoảnh khắc, Donald hoang mang vì cụm từ “phó quản trị viên”, vì đó là chức danh chưa từng nghe đến, nhưng vẫn nhớ mình nên tỏ ra bay bướm đối với Bà Ross: “Xin giới thiệu đây là Bà Ross, và đây là...” Parker quay lại, trông có vẻ đe dọa khi cầm cây gậy tay, “... à, Parker, người dẫn đường cho chúng tôi đến đây.”


      Nesbit bắt tay với họ, rồi nhìn xuống chân của Donald, lấy làm kinh hãi: “Trời ơi, chân ... có giày ủng sao?”


      “Có chứ, nhưng tôi bị khó chịu nên cởi ra, đằng kia... có chi đâu, mà. Chỉ là mấy bong bóng nước, biết đó.”


      Donald cảm thấy cảm giác như đầu tênh dễ chịu, và tự hỏi liệu mình sắp ngã xuống hay . Nesbit có vẻ vội vàng đưa họ vào bên trong, tuy trời tối và lạnh thêm. có vẻ như lo lắng và luống cuống, tự hỏi có nên cho họ ở trong nhà khách bị bỏ hoang, hoặc chính phải ra khỏi khu nhà của mình để nhường cho họ.... Cuối cùng, sau khi dao động trong khoảng thời gian mà đối với Donald như cả hàng giờ vì cái chân mất cảm giác, Nesbit dẫn họ vòng qua góc tòa nhà, dọc hành lang ánh sáng rồi mở ra cánh cửa của gian phòng rộng, được sưởi ấm.


      “Có lẽ xin quý vị vui lòng chờ ở đây trong chốc lát. Tôi tìm người đốt lò sưởi và mang món nóng gì đó. Xin lỗi...”


      Nesbit ra ngoài, đóng sầm cánh cửa lại. Donald khập khiễng đến lò sưởi trống và buông người xuống chiếc ghế kế bên.


      Parker ông chăm sóc hai con chó, rồi biến mất. Donald nghĩ đến Pháo đài Edgar, nơi khách viếng thăm luôn là lý do cho niềm hồ hởi, và được đối xử như hoàng gia. Có lẽ phân nửa số nhân viên bỏ ; nhận thấy lò sưởi rất dơ bẩn, rồi thể chống chọi được nữa với cơn kiệt sức chờ cho có lý do mà nhắm mắt lại.


      Moody!”


      Tiếng của bà sắc lẻm, khiến cho phải mở mắt ra.


      “Hả? Vâng, Bà Ross?”


      “Ta nên gì về lý do tại sao ta đến đây, nên ra tối nay. Để xem thể như thế nào . Ta muốn họ chuẩn bị đề phòng rồi chống chế.”


      “Tùy ý bà.” lại nhắm mắt. cần ngủ rồi mới có thể thảo luận cách thông suốt. Quả là hạnh phúc khi được thoát ra khỏi cái lạnh cắt da.




      có cảm tưởng mình mới thiếp chỉ trong chốc lát, nhưng khi mở mắt, lò sưởi được đốt, còn Bà Ross thấy đâu. Khung cửa sổ tối đen; biết bây giờ là mấy giờ. Nhưng quả là xa hoa được ngồi trong gian ấm áp mà muốn cử động. Ước gì có chiếc giường; nó trả lại sinh lực cho . Rồi tuy vẫn còn mệt nhọc, vẫn nhận ra có người khác trong phòng. quay đầu và thấy phụ nữ mang hai dòng máu, người mang vào tô nước nóng và ít bông băng. gật đầu với rồi ngồi sàn, kế bên đôi chân , bắt đầu tháo ra lớp vải lanh dính máu khô.


      “Cám ơn .” Donald có phần ngượng nghịu vì việc chăm sóc, và vì lớp bông băng cũ trông gớm ghiếc. thể kiềm nén ngáp cái như muốn trẹo quai hàm: “Tôi là... Donald Moody, kế toán Công ty ở Pháo đài Edgar. Tên là gì?”


      ít nhìn , chỉ lo rửa vết thương chân . Donald tự cho phép mình ngả đầu tựa thành ghế, thấy mừng vì phải nhiều hoặc thậm chí phải suy nghĩ. Có thể cho đến ngày mai mới thi hành nhiệm vụ của mình. Từ bây giờ đến lúc ấy, theo nhịp độ bàn tay người phụ nữ da ngăm đen lau chùi chân , có thể ngủ và ngủ và ngủ.


      ***


      Khoảnh sân hoàn toàn tối đen, và tôi thể nghe tiếng hai con chó nữa, như thế quả là điều lạ lùng. Bình thường, khi chó từ bên ngoài đến tất cả các con chó thi nhau sủa và gầm gừ. Nhưng ở đây, khi chúng tôi đến hoàn toàn yên ắng. Tôi lên tiếng gọi Parker. trận gió thổi quật quanh tôi và ít bông tuyết đâm vào mặt tôi. có tiếng trả lời, và tôi lại kinh sợ; có lẽ vì bây giờ chúng tôi đến đây, ông ta bất kỳ đâu đấy để lo công chuyện riêng của ông. Ngay khi tôi vừa cảm thấy lệ dâng lên khóe mắt, có người mở cánh cửa bên tay trái tôi và luồng ánh sáng hình chữ nhật tỏa xuống mặt tuyết.


      Có tiếng tranh cãi nóng vội, và tôi nghe tiếng của Nesbit: “ được gì về ông ấy tốt hơn, nếu biết tay tôi. Đúng ra, tốt hơn mà đứng ngoài vụ này.”


      Tôi nghe tiếng kia - nhưng đấy là tiếng của phụ nữ phản ứng lại. kịp nghĩ ngợi cho thông suốt, tôi bước vào bóng tối của mái hiên. Nhưng tôi còn nghe gì nữa, cho đến khi Nesbit chốt lại cuộc tranh cãi - nếu đúng là tranh cãi - với lời càu nhàu: “Ôi, vì Chúa, cứ làm như muốn. Chỉ cần chờ cho đến khi ông ấy trở về.”


      Cánh cửa đóng sầm và Nesbit bước ngang qua khoảnh sân, bàn tay chải qua tóc nhưng làm cho tóc bớt lù xù. Tôi mở cánh cửa rồi khép lại sau lưng mình và bước ngang qua khoảnh sân để gặp , làm như là lúc ấy tôi vừa mới ra ngoài.


      “À, Nesbit, ở đây...”


      “À, Bà...” ngưng bặt, hai bàn tay giơ lên.


      “Ross.”


      “Bà Ross, đúng rồi. Tôi xin lỗi. Tôi vừa...” cười: “Tôi xin lỗi vì bỏ bê bà. Có ai đốt lò sưởi chưa? Xin bà thứ lỗi cho chúng tôi lúc này. Tôi e chúng tôi neo người, và vào mùa này trong năm...”


      cần thiết phải xin lỗi. Chúng tôi đến đây quá bất ngờ làm phiền .”


      làm phiền. làm phiền gì hết. Công ty tự hào có tính hiếu khách và đại loại như thế... Còn hơn là hân hạnh, xin bà tin .” mỉm cười với tôi, dù có vẻ gượng gạo: “Xin mời bà dùng bữa tối với tôi... dĩ nhiên là cả Ông Moody và Ông Parker nữa.”


      Moody thiếp ngủ khi tôi ra ngoài. Tôi e ấy có nhiều bong bóng nước.”


      “Còn bà có sao? Phải đó là đáng kể. Bà từ đâu?”


      “Chúng ta vào bên trong nhé? Trời lạnh quá...”


      Tôi chắc phải mở đầu câu chuyện như thế nào. Tôi muốn bàn với Parker về việc này, nhưng Parker đâu mất. Tôi theo Nesbit dọc hành lang khác - dường như có nhiều cửa mở ra hành lang này - rồi vào gian phòng ấm cúng, có lò sưởi cháy. chiếc bàn loại cao cấp đặt ở giữa phòng, với hai chiếc ghế. tường là những ảnh màu của ngựa đua và võ sĩ đoạt giải, được cắt ra từ các tạp chí.


      “Xin mời bà ngồi. Vâng. Ở đây có phần ấm hơn, phải ? gì bằng lò sưởi nóng ở nơi chốn quái quỷ này.”


      Rồi thình lình bước ra khỏi phòng mà báo trước, khiến cho tôi tự hỏi chuyện gì vừa xảy ra. Tôi chưa mở miệng gì hết.


      Trong số các võ sĩ và ngựa đua có vài ảnh đẹp, và tôi thấy rằng đồ nội thất cũng thuộc loại tốt; hàng nhập khẩu chứ phải nội địa. Chiếc bàn làm bằng gỗ xà cừ, bóng lên qua sử dụng và thời gian; hai chiếc ghế có lưng dựa hình đàn lia, có lẽ là hàng Ý. Phía lò sưởi treo tấm ảnh thể cảnh săn được lồng khung mạ vàng, nền đậm và áo choàng đỏ sáng rực của thợ săn. Và có ly cốc bằng thủy tinh chì nặng, được chạm cách tinh tế với hình những con chim. người nào đó ở đây có đầu óc thưởng ngoạn và có văn hóa, và tôi nghĩ đấy phải là Nesbit.


      Nesbit quay trở vào với thêm chiếc ghế: “Bình thường, bà biết chứ...” ta như thể mình khỏi chúng tôi chỉ có hai người, “… ý tôi là nhân viên cấp cao, vì thế chúng tôi rất thầm lặng. Tôi cầu bữa tối, để... A ha, dĩ nhiên là vậy!” Vừa ngồi xuống ta đứng bật dậy: “Tôi nghĩ bà thích ly -nhắc. Tôi có loại ngon. Tự tôi mang đến, từ Kingston[45], mùa hè hai năm trước.”


      “Chỉ ly thôi. Tôi sợ nếu uống thêm gục tại chỗ.” Đấy là . Lần thứ nhất sau nhiều ngày, gian ấm cúng ngấm vào tay chân tôi, khiến cho đôi mắt tôi nặng trĩu.


      “Được, chúc sức khỏe. Chuyện gì khiến cho bà và hai người bạn của bà đến đây - để chúng tôi bất ngờ có hân hạnh đón tiếp?”


      “Chúng tôi từ Himmelvanger - biết chỗ ấy ?”


      Nesbit đăm đăm nhìn tôi qua đôi mắt nâu mãnh liệt: “, , tôi biết.”


      “Đấy là cộng đồng tín đồ Lutheran. Người Na Uy. Họ muốn xây dựng cộng đồng nơi họ có thể sống tốt đẹp trong tầm nhìn của Thượng đế.”


      đáng khâm phục.”


      Những ngón bàn tay phải của ngừng mân mê đuôi cây bút chì, xoay qua xoay lại, khẽ gõ mặt bàn; và tôi nhớ ra cái gì đấy. Laudanum, hoặc có lẽ strychnine. Có Trời mà biết được vận rủi nào mang đến đây, cách xa dược sĩ và bác sĩ.


      “Chúng tôi đến đây bởi vì...” Tôi ngưng lại, thở nặng nề: “Quả là đau đớn mà kể lại... đứa con trai tôi bỏ khỏi nhà. Lần cuối cùng người ta thấy nó là ở Himmelvanger, và từ đó, có dấu chân dẫn đến hướng này.”


      Khuôn mặt của Nesbit, đôi mắt mãnh liệt khiến tôi rùng mình, bây giờ có phần dịu lại. Có lẽ trông chờ điều gì khác.


      “Dấu chân dẫn đến hướng này phải ? Đến tận đây hay sao?”


      “Có vẻ như thế, mặc dù sau cơn bão tuyết, chúng tôi thể dám chắc.”


      xác nhận với vẻ suy tư: “Đúng vậy.”


      “Nhưng Ông Parker nghĩ có thể là ở đây. có nhiều khu định cư trong vùng này, ra tôi tin là có rất ít.”


      “Đúng. Chúng tôi khá là biệt lập. ấy... trẻ lắm , con trai bà đó?”


      Tôi nhìn xuống: “Mười bảy. có thể hiểu được tôi lo lắng đến thế nào.”


      “Vâng, đương nhiên. Còn Ông Moody...”


      Moody có lòng tốt mà cùng tôi bởi vì chúng tôi đến thương điếm Công ty. Tôi biết ấy rất muốn gặp quản trị viên của .”


      “À, vâng, hẳn rồi. Này, Ông Stewart vắng trong chuyến ngắn, nhưng hay hai ngày nữa ông ấy trở về.”


      “Ông ấy có láng giềng ?”


      . Ông ấy săn. Đó là sở thích của ông ấy.”


      Nesbit uống cạn ly rượu rồi rót thêm. Tôi nhấm nháp ly của mình cách chậm rãi: “Thế là... chưa trông thấy hay nghe đến người lạ mặt nào hay sao?”


      “Tiếc là . có ai hết. Nhưng có lẽ ông ấy gặp bộ lạc Da Đỏ, hoặc người đặt bẫy... Đủ mọi loại người đến và . Bà ngạc nhiên khi biết người ta lang thang khắp cùng ngay cả trong mùa đông.”


      Tôi lại thở dài và ra vẻ tuyệt vọng, mà khó khăn phải làm thế. rót thêm rượu vào ly của tôi.


      Cánh cửa mở, và phụ nữ Da Đỏ thấp, béo, mà tôi thể đoán tuổi, bước vào với chiếc khay. Với tia nhìn ra vẻ đe dọa về phía Nesbit, : “ kia, ấy muốn ngủ.”


      “Vâng, được rồi Norah. À, để xuống... cảm ơn. Chị xem có thể tìm ông kia được ?”


      Giọng ông có vẻ mỉa mai. Người phụ nữ đặt vội chiếc khay xuống bàn với tiếng động mạnh.


      Với vẻ phô trương vụng về, Nesbit mở chiếc khay ra và tiếp cho tôi đĩa bít tết nai sừng tấm và bắp băm. Chiếc đĩa trông đẹp, kiểu , nhưng món bít tết được tươi và có nhiều xương xẩu; ngon hơn nhiều so với các món chúng tôi ăn dọc đường. Tôi phải cố gắng giữ cho đôi mắt nhắm lại và giữ tinh thần còn lanh lợi. Nesbit ăn ít nhưng uống rượu liên tục, vì thế may mà ý tưởng của được sắc bén lắm. Tôi mong ra nhiều hơn bây giờ, tối nay, trong khi có lý do nào mà nghi ngại.


      “Thế , những ai sống ở đây? Có nhiều người ?”


      “Chúa tôi! ! Chúng tôi là nhóm rất . Ở đây phải chính xác là trung tâm của xứ sở lông thú. còn nữa.” mỉm cười cách chua cay, nhưng tôi nghĩ phải do tham vọng cá nhân bị ngăn trở: “Có Ông Stewart, quản trị viên, là trong những người tốt nhất mà bà có thể mong gặp. Rồi có gia nhân khiêm tốn của bà đây, chỉ làm chuyện sai vặt...!” làm động tác giả cúi đầu chào với vẻ mỉa mai: “… và rồi có vài gia đình hai dòng máu và bản địa quanh đây.”


      “Người phụ nữ mới vào, Norah, là vợ của nhân viên phải ?”


      “Phải.” Nesbit lại nốc thêm whisky.


      “Còn các nhân viên tải hàng làm gì trong mùa đông?” Tôi nghĩ đến người mặc quần áo phong phanh đứng sân. ta có vẻ như đứng vững được.


      Dường như Nestbit đọc được ý nghĩ của tôi: “À, có rất ít công việc, như bây giờ, tôi e họ... dễ bị cám dỗ. Mùa đông rất dài.”


      Đôi mắt mất tập trung, trông như thủy tinh, chớm đỏ màu máu, tuy tôi do rượu hay do cái gì khác.


      “Nhưng dù thế người ta vẫn di chuyển đây đó…”


      “Đúng, có môn săn bắn và đại loại như vậy cho đàn ông - và Ông Stewart... Tôi thích.” ra điệu bộ thanh lịch để tỏ vẻ kinh tởm: “Dĩ nhiên là có đặt bẫy ít. Chúng tôi có gì được nấy.”


      Tôi cố giữ giọng của mình được bình thản nhưng pha chút buồn rầu: “Có ai sống ở đây từ hướng tây-nam lúc gần đây ? Tôi chỉ băn khoăn liệu dấu vết chúng tôi thấy có thể là nhân viên của , mà phải của con trai tôi. Nếu thế, chúng tôi biết mà... tìm nơi khác.”


      nhân viên của chúng tôi…?” tỏ vẻ rất mơ hồ, lông mày nhíu lại trông buồn cười. Nhưng mà, say. “Tôi nghĩ ra... , theo tôi được biết, tôi có thể hỏi...”


      mỉm cười với tôi cách thẳng thắn. Tôi biết dối, nhưng tôi quá mệt mỏi nên khó mà chắc chắn mọi điều. Ước muốn thiết tha được nằm xuống ngủ bỗng dưng trở nên bức thiết như cơn đau về thể chất. Thêm phút nữa tôi thể gượng nổi.


      “Xin lỗi, Nestbit, tôi... phải nghỉ.”


      Nesbit đứng dậy nắm chặt cánh tay tôi, như thể nghĩ tôi sắp té ngã hoặc chạy mất. Ngay cả gió lạnh thình lình ngoài hành lang thể giúp cho tôi được tỉnh táo.




      Có cái gì đấy đánh thức tôi. Trời gần tối hẳn, vắng lặng ngoại trừ tiếng gió thổi. Trong khoảnh khắc, tôi nghĩ có người nào khác trong phòng, và tôi ngồi dậy với tiếng kêu mà tôi kiềm chế được. Khi mắt tôi quen với bóng tối, tôi nhận ra có ai ở đây. Nhưng có cái gì đấy đánh thức tôi, và tôi cảnh giác, tim đập thình thịch, tai cố lắng nghe thanh nhất. Tôi cầm lấy cây đèn nhưng hiểu sao muốn thắp sáng. Tôi rón rén bước ra cánh cửa. Cũng có ai bên ngoài.


      Những tiếng răng rắc và kẽo kẹt vang lên từ lớp mái gỗ, do gió thổi luồn dưới các tấm ngói. Và tiếng răng rắc lạ kỳ, rất . Tôi lắng nghe ở mỗi cánh cửa hồi lâu trước khi mở chốt nhìn vào trong. phòng bị khóa; phần lớn các phòng khác trống , nhưng qua khung cửa sổ của phòng trống tôi thấy ánh sáng lờ mờ màu lam nhạt bên ngoài, bức màn ánh sáng nhấp nháy ở hướng bắc chiếu xuyên qua bóng tối và cho tôi thấy cảnh tượng này.


      Tôi mở cánh cửa và thấy Moody, khuôn mặt non trẻ và trông yếu đuối khi mang kính. Tôi nhanh chóng đóng cánh cửa lại. Tôi nghĩ đến Parker. Tôi phải tìm Parker. Tôi cần chuyện với ông. Về những gì tôi làm, và trước khi tôi làm chuyện gì đấy ngu xuẩn tưởng tượng nổi. Nhưng bên trong vài cánh cửa kế tiếp, tôi thấy gì cả, rồi cánh cửa khiến tôi rùng mình vì sốc. Nesbit nằm ngủ say sưa, và nằm kế bên là người phụ nữ Da Đỏ dọn bữa tối, cánh tay béo quàng qua ngực , màu sẫm nổi màu da trắng như sữa. Hai người thở lớn tiếng. Tôi có cảm tưởng là ghét ta, nhưng hai người ở đây, và có vẻ ngây thơ về giấc ngủ của họ gây xúc cảm cách lạ kỳ. Tôi nhìn họ lâu hơn là mình muốn và rồi, phải vì họ bất ngờ thức dậy, tôi cẩn thận đóng cánh cửa.




      Cuối cùng, tôi tìm ra Parker ở nơi mà tôi ít ngờ nhất: trong chuồng gia súc, kế bên hai con chó. Ông quấn người trong tấm chăn mà ngủ, mặt hướng về cánh cửa. Thình lình cảm thấy hoang mang, tôi thắp đèn và ngồi xuống để chờ. Mặc dù trong nhiều ngày hai chúng tôi từng ngủ cách nhau ít mét trong lều, nhưng dưới mái gỗ có vẻ như phải phép khi tôi nhìn ông ngủ, ngồi bó gối ổ rơm bên cạnh ông, như là tên trộm.


      Sau chốc, ánh sáng làm cho ông thức dậy.


      “Ông Parker, tôi đây, Bà Ross.”


      Xem dường ông tỉnh hẳn nhanh chóng, chứ phải như tôi phải sật sừ lúc. Gương mặt ông vẫn biểu lộ cảm xúc như bao giờ, hiển nhiên là ông tức giận mà cũng ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây.


      “Có chuyện gì xảy ra sao?”


      Tôi lắc đầu: “Có cái gì đấy đánh thức tôi, nhưng tôi tìm thấy gì cả. Tối qua ông đâu?”


      “Tôi chăm sóc hai con chó.”


      Tôi chờ cho ông thêm, nhưng có gì.


      “Tôi dùng bữa tối với Nesbit. ấy hỏi chúng ta làm gì. Tôi chúng ta tìm con trai tôi bỏ nhà ra , và lần cuối cùng được trông thấy ở Himmelvanger. Tôi hỏi ấy gần đây có ai ở đây trở về sau chuyến hay , và ấy biết. Nhưng tôi nghĩ ấy thẳng thắn lắm.”


      Parker ngồi dựa vào bức tường của chuồng gia súc và nhìn tôi với vẻ suy tư: “Tôi chuyện với cặp vợ chồng. Họ gần đây có ai ra , nhưng họ vui. Khi chuyện họ nhìn ra xa, hoặc nhìn qua vai tôi.”


      Tôi biết ý nghĩa ra sao. Thế rồi, rất nhưng ràng, như thể từ nơi xa xôi, tôi nghe tiếng gì đấy khiến cho tôi ớn lạnh xương sống. tiếng tru lâng lâng, thê lương nhưng lãnh đạm. bản giao hưởng của những tiếng tru. Hai con chó thức giấc và tiếng tru trầm trầm phát ra từ góc chuồng gia súc.


      Tôi liếc qua Parker, nhìn đôi mắt đen của ông: “Chó sói?”


      “Đằng xa.”


      Tôi biết chúng tôi được bao bọc bởi tường thành vững chắc, và bức thành này được trang bị đại bác, nhưng dù sao thanh vẫn làm cho tôi kinh hãi. Tôi nhớ đến khu nhà cho thuê chật chội. Tôi cảm thấy an toàn ở đấy. Có lẽ tôi run bắn lên, và xích lại gần Parker hơn.


      Parker : “Họ thiếu thốn nhiều thứ ở đây. Việc săn bắn khá. có nhiều thực phẩm.”


      “Làm thế nào như vậy được? Đây là thương điếm Công ty.”


      Ông lắc đầu: “Có thương điếm được quản lý tốt.”


      Tôi nghĩ đến Nesbit trong cái nôi ma túy. Nếu ta có nhiệm vụ quản lý thương điếm và các hàng hậu cần, đấy phải là điều ngạc nhiên.


      “Nesbit là người nghiện. Nha phiến hay đại loại như thế. Và...” Tôi nhìn ổ rơm: “ ta... có quan hệ với phụ nữ Da Đỏ.”


      Tôi thể kiềm chế nhìn vào đôi mắt ông lúc này mở to ra. Cả hai chúng tôi đều gì, như thể là bị thôi miên. Bỗng dưng tôi nhận biết mình thở rất mạnh, và tôi tin chắc ông có thể nghe tim tôi đập. Ngay cả các con sói im lặng, lắng nghe.


      Tôi quay mặt , cảm thấy đầu óc tênh: “Tôi nên quay về. Tôi chỉ nghĩ nên tìm ông để... bàn bạc sáng mai phải làm gì. Tôi nghĩ tốt hơn nên giấu lý do ta đến đây. Tôi với Moody như thế, tuy sáng mai ấy muốn làm gì tôi .”


      “Tôi nghĩ chúng ta phải đợi Stewart trở về mới biết được.”


      “Ông biết gì về ông ấy?”


      Sau phút đắn đo, Parker lắc đầu: “Để đến khi gặp tôi mới biết được.”


      Tôi chờ thêm khoảnh khắc, nhưng còn lý do nào để ngồi thêm. Khi tôi đứng lên, tay tôi chạm phải chân ông ổ rơm. Tôi biết chân ông đặt ở đấy, tôi xin thề, hoặc là ông cử động để chạm đến tôi. Tôi giật bắn người như bị bỏng, rồi nhấc lấy cây đèn. Trong ánh sáng lung linh và bóng tối, tôi nhận biết vẻ mặt ông ra sao.


      “Chúc ngủ ngon.”


      Tôi nhanh chóng bước ra sân, cảm thấy khó chịu vì ông đáp lại. Gió lạnh lập tức làm mát làn da của tôi, nhưng giúp gì được cho ý nghĩ quay cuồng trong tôi; chủ yếu là nỗi khao khát quay vào trong chuồng gia súc và nằm kế bên ông ổ rơm. Để thả lỏng mình trong mùi hương và ấm áp của ông. Cái gì thế - nỗi sợ hãi và bơ vơ phủ lấy tôi? Việc thân thể của ông chạm vào thân thể tôi ổ rơm chỉ là do sơ suất. sơ suất. người chết; Francis cần tôi giúp đỡ; chính vì thế mà tôi ở đây, có lý do nào khác.


      Vầng quang lờ mờ phương bắc trông như giấc mơ đẹp, và gió ngừng thổi. Bầu trời cao cách chóng mặt và quang đãng; khí lạnh căng căng và ù ù cho biết có gì giữa tôi và chiều sâu vô tận của gian. Tôi ngẩng đầu cao lên bầu trời sau cảm giác chóng mặt. Tôi nhận ra rằng mình con đường gian nan, bao quanh mọi phía là bất định và thảm họa tiềm tàng. có gì ở trong tầm kiểm soát của tôi cả. Bầu trời mở rộng bên như là vực thẳm, và có gì chắn đỡ khi tôi rơi, có gì ngoại trừ mê cung kỳ lạ của những vì sao.


      ***

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :