Sự Hiền Hòa Của Sói - Stef Penney(Trinh thám, Bestseller)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Ann Pretty ngạc nhiên vì gặp lại tôi nhanh đến thế sau khi vay cà phê của tôi, và thái độ của chị trở nên dè dặt, mặc dù tôi đến phải để đòi lại khoản vay mượn. Ida ngồi bên bếp, lầm lì lật qua các trang giấy. Nó ngước nhìn lên, khuôn mặt nhợt nhạt như bị ma ám. bé lên mười lăm tuổi và tôi thấy thú vị nơi nó, có lẽ là vì nó ở tuổi bằng với Olivia lúc trước. Cũng bởi vì nó thiếu hòa hợp với gia đình Pretty, như con quạ trong đàn gà chạy trốn - nó người mảnh khảnh, có nước da ngăm đen, sống theo nội tâm, và theo lời người ta nó sáng dạ. bé vừa khóc.


      Ann vang lên tuy đứng gần tôi: “Chị Ross! Chị có tin tức gì về con trai ?”


      “Angus tìm nó.”


      Bây giờ, ở đây tôi chắc mình giữ được mãi vẻ bề ngoài bình thản. Nếu Angus chuyện với tôi tôi biết trò chuyện cùng ai?


      “À, con cái hay làm khổ thế đó.” Chị liếc tia nhìn nghiêm khắc về phía Ida. bé cắm cúi tấm vải, làm việc thêu may với những đường móc sát nhau.


      “Chồng tôi được vui khi ra , nên tôi hỏi đâu. Và khi trở lại, bối rối vì chuyện Jammet. Dù cho chị có gì về ấy, vẫn là người tốt. tử tế đối với Jammet.”


      “Quả là lúc gay go. Có Trời mà biết chúng ta rồi ra sao.”


      Ida buông tiếng thở dài . Đầu bé nghiêng xuống nên tôi thấy khuôn mặt, nhưng tôi biết nó lại khóc.


      Ann cũng thở dài, giọng sắc lẻm: “Này con kia, tao biết tại sao mày lại khóc. Mày đâu có quen thân với ấy.”


      Ida khụt khịt mà gì.


      Ann quay sang phía tôi, lắc đầu: “Tôi tội nghiệp cho mẹ của Jammet. Theo tôi được biết, bà ấy có ai khác. Chị có biết hai tháng trước ấy Chicago ? Xin hỏi chị, người như ấy Chicago để làm gì?”


      “Tôi ước gì họ Chicago chứ đừng bận tâm về Francis nữa; cứ tiếp tục truy lùng nó mãi là vô lý.”


      “À ra thế?”


      Ida lại nấc lên tiếng, và bây giờ bờ vai bé rung lên.


      “Ida, thôi có được ? lên lầu chứ đừng ngồi đó mà sụt sùi. Chúa tôi...”


      Ida đứng dậy bước nhìn hai chúng tôi.


      “Cái đứa con đó, nó làm cho tôi điên lên. Chị phải vui vì có con ...” Khi vừa đến đây, chị nhớ đến Olivia, và tôi tin chị muốn tỏ lời xin lỗi, nhưng rồi loại bỏ ý nghĩ điên rồ này ra khỏi đầu óc. “Nhưng chị thử với đứa kia.”


      Tôi nhìn nhận rằng đúng.


      “Đó là dòng máu trong người phát tiết ra. Chị làm gì được. Chị hề biết cha mẹ của nó là ai, đúng ? Ai biết được họ phải là trộm đạo và dân du thủ du thực? Đó là chất Ireland trong con người của nó. tin tưởng họ được. Khi còn ở Kitchener[20], có đám người Ireland, mình để hở chút là họ ra tay ăn trộm. Ý tôi phải về Francis của chị, xin chị nhớ cho, nhưng bản chất bọn họ là vậy. Bản chất là vậy, nên chị phải trông chừng.”


      Tôi tin chị cố tỏ ra tử tế, cho dù thốt lên lời lẽ xúc phạm; chỉ vì chị biết phải làm gì khác.


      “Ida có chuyện gì thế? Chị nên quá khắt khe với nó, chị cần nhớ mình ra sao ở tuổi nó.”


      Ann khịt mũi: “Tôi bao giờ ở tuổi đó. Từ lúc lên mười tôi trông nom nhà cửa, có thời giờ rảnh rỗi mà ngồi than thở.” Chị liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt ranh mãnh khôi hài thường theo sau là câu đùa cợt xói vào tôi: “Chị biết tôi nghĩ gì ? Tôi cho là nó Francis của chị. Nó ra, nhưng tôi nghĩ tôi biết.”


      Tôi kinh ngạc đến mức gần như phá lên cười: “Ida?” Khó mà tin được; nó chỉ là đứa con gầy trơ xương chứ là gì khác. Và tôi bao giờ nghĩ nhà Pretty có nhiều thời giờ mà để ý đến Francis. Có chuyến cắm trại với kết quả thất bại toàn diện mà Angus và Jimmy nài ép hai đứa con trai cùng, rồi Francis chịu với George và Emlyn. Hai ngày sau, họ trở về và Francis lời về chuyện này. Sau vụ đó, tôi còn muốn khuyến khích nó giao du với họ nữa.


      “Chúng nó thân nhau ở trường, trước khi thằng bé ra .”


      “Để tôi chuyện với bé. Tôi còn nhớ mình ra sao ở tuổi chị. Chị biết , tôi luôn nghĩ bé nhắc cho tôi nhớ lại chính mình khi còn trẻ.” Tôi mỉm cười với Ann, thích thú với ý nghĩ là nếu con chị giống tôi đấy là cơn ác mộng tồi tệ nhất của chị.


      Tôi dò theo tiếng nức nở để tìm thấy Ida trong phòng ngủ chật hẹp, nhìn ra khung cửa sổ. Ít nhất, tôi chắc chắn đăm đăm nhìn ra khung cửa sổ, cho dù nghiêng người.


      “Mẹ cháu lúc này cháu thích học.”


      Ida nhìn lên với đôi mắt đỏ hoe và làn môi cong cớn: “Thích hả? đúng.”


      “Francis vẫn cháu là người sáng dạ.”


      vậy sao?” Trong chốc, nét mặt bé dịu . Thế là có lẽ Ann đúng.


      “Nó bảo cháu giống như học giả. Có lẽ cháu tiếp tục học được ở trường Coppermine - cháu nghĩ đến việc này chưa?”


      “Hừm. biết Ma-ma và Pa-pa có cho .”


      “À, có đủ con trai trông nom nhà cửa rồi, đúng ?”


      “Cháu nghĩ vậy.”


      Tôi mỉm cười với bé, và nó gần như mỉm cười lại. bé có khuôn mặt thon , xương xẩu, với những vết nhám dưới hai con mắt. ai nghĩ nó đẹp.


      “Bà Ross ạ, bà có được học nhiều ?”


      “Có. Việc học là rất đáng giá.”


      Gần như thế. Chắc chắn tôi học đến nơi đến chốn, nếu trong thời gian ấy tôi ở trong bệnh viện tâm thần. Bây giờ bé nhìn tôi với vẻ ngưỡng mộ, và tôi ước ao mình là con người như trong ý nghĩ của nó. Tôi có thể là người dạy dỗ cho nó - trước đây tôi chưa từng có ý tưởng này, nhưng đấy là ý tưởng vui vui. Có lẽ đấy là phần bù đắp khi người ta có tuổi.


      “Francis cần tiếp tục học. ấy thông minh.” Má nó ửng đỏ khi quen ra ý kiến cá nhân.


      “À, có lẽ đúng. Thời gian gần đây nó trò chuyện với tôi. Cháu hiểu ra: khi cháu làm mẹ, con cái cháu muốn nghe cháu.”


      “Cháu kết hôn. bao giờ.”


      Nét mặt bé lại thay đổi - trở lại vẻ u tối.


      “Lúc trước tôi cũng từng như thế, cháu biết ? Nhưng đời phải lúc nào cũng diễn ra như cháu nghĩ.”


      Vì lý do nào đó, tôi mất bé. Lệ lại trào lên khóe mắt nó.


      “Ida... Tôi Francis có gì với cháu trước khi nó ? Về việc nó đâu, hoặc đại khái như thế?”


      bé lắc đầu. Khi nó ngước mặt lên, tôi kinh ngạc thấy đôi mắt nó lộ nỗi đau khổ. Buồn rầu pha vẻ gì đấy - tức giận chăng? Vẻ gì đấy đối với Francis.


      , ấy gì.”




      Tôi trở về nhà mà cảm thấy tồi tệ hơn so với lúc ra . Tôi trông mong Angus trở về cùng với Francis, nên trong đêm khuya khi về mình, tôi lấy làm ngạc nhiên. Da dẻ nhăn nheo vì mệt nhọc và chuyện mà nhìn đến tôi.


      đến Hồ Swallow. Thấy dấu vết của ai đó - hơn người, như ban ngày. Nhưng nó có ở đấy. có ai câu cá ở đó, thề mà thế. Nhưng vẫn tiếp tục tìm kiếm: Nếu Francis có qua đó chạy trốn.”


      Tôi nghĩ thầm: Còn trở về. quay bước về nhà. Tôi muốn đương đầu. Tôi quyết định mà mình muốn suy nghĩ gì nữa.


      “Thế em tìm nó.”


      cười nhạo như phần lớn các ông chồng khác. Tôi biết liệu mình thầm mong ngăn cản tôi , ít nhất là tranh cãi và van xin tôi đừng , đừng làm việc gì ngu xuẩn và can đảm và nguy hiểm như thế. Dù sao chăng nữa, làm gì cả. Tôi nghĩ về các nhân viên Công ty ở Caulfield - họ đến đây nhanh, để xem Francis về chưa. Nhìn tận bộ mặt ranh mãnh của chúng tôi để xem chúng tôi sợ hãi đến đâu. Tôi còn sức lực nào mà giả vờ. Tôi nhìn thẳng vào họ và cho họ thấy tôi sợ hãi.


      Tôi sợ đến chết khiếp.


      ***


      Gần giữa trưa, Donald và Jacob quay lại Caulfield, và Donald kiếm được chiếc xe cút kít để thu giữ gia sản được cất giấu của Jammet. Cảm thấy ngượng vì ý nghĩ của mình lúc trước, phái Jacob mình để mang cái thùng về. thấy người vì việc này, và thêm lợi điểm là có thời gian dùng bữa trưa với bà Knox và hai con . Nhưng họ vừa bắt đầu với món thịt heo khi đặt chân đến nhà họ.


      bắt đầu cách tự nhiên: “Tôi thắc mắc gặp được Ông Sturrock ở đây hay khi quay lại. Tôi nghĩ ông ấy quen biết chồng bà từ lâu.”


      Bà Knox nhìn với vẻ bị đánh động: “Ông Sturrock...? Thomas Sturrock...?” Hai nhanh chóng trao đổi nhau tia nhìn có ý nghĩa.


      “À tôi chỉ biết họ chứ biết tên ông ấy, nhưng... tôi nghe ông ấy quen với chồng bà... Xin lỗi... tôi có lắm lời ...?”


      Đúng là Bà Knox tái mặt , nhưng giọng vẫn cố trấn tĩnh: “ sao, Moody à, tôi chỉ ngạc nhiên, thế thôi. Trong thời gian dài tôi nghe đến tên ông ấy.”


      Donald nhìn xuống đĩa thức ăn của mình, bối rối và ngượng nghịu. Susannah chăm chăm nhìn chị .


      Maria đằng hắng rồi : “ Moody à, tôi muốn giải thích là chúng tôi có hai chị họ, Amy và Eve, chơi trong rừng rồi mất tích hẳn. Bác Charles dẫn vài người cố sức tìm, và Ông Sturrock ở trong nhóm này. Ông ấy được biết tiếng là Người Dò tìm - biết chứ, là người chuyên tìm trẻ con bị dân Da Đỏ bắt cóc. Ông ấy tìm thời gian, nhưng hề thấy gì.”


      Susannah nhanh nhẩu tiếp: “Ông ấy chỉ tiêu hết tiền của bác Charles, khiến cho bác chết trong đau khổ.”


      Maria với Donald: “Ông ấy lên cơn đột quỵ.”


      Bà Knox im lặng quay mặt .


      Donald kinh ngạc. Từ nét mặt của Susannah, hiểu rằng đó là chuyện mà ngày trước định kể cho nghe, mà thêm thắt. Và phiền hà vì bị truất quyền kể chuyện.


      Cuối cùng, : “Tôi lấy làm tiếc. Quả là chuyện kinh khủng.”


      Bà Knox : “Đúng vậy. Cả chị tôi và chồng ấy đều hồi phục được. Maria ông ấy lên cơn đột quỵ là đúng, nhưng ông ấy chỉ hưởng thọ được năm mươi hai tuổi. Vụ việc khiến cho ông ấy suy sụp.”


      Susannah ném ánh mắt trong niềm vui chiến thắng đến chị.


      Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, thanh duy nhất là từ chiếc nĩa của Donald chạm vào đĩa thức ăn, và bất chợt cảm thấy mình thô lỗ khi cứ tiếp tục ăn, nên bàn tay cầm chiếc nĩa giơ lửng lơ cao. Ngay cả tiếng nhai thức ăn nghe ồn ào cách kinh tởm, nhưng bây giờ khi miệng đầy làm gì được.


      Bà Knox mỉm nụ cười rắn rỏi: “Tôi mong vừa miệng với món thịt heo.” Bà là người nội trợ luôn hãnh diện.


      Donald : “Ngon lắm.” nhận ra là bên tay phải mình, Susannah buông nĩa xuống.


      Maria : “Chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi. Mười bảy hoặc mười tám năm. Nhưng chưa cho biết Francis Ross về nhà chưa? Hay là ngày mai ra chốn lùm bụi?”


      Donald thấy cảm kích đối với : “Vào lúc này, ấy chưa về. Cha mẹ ấy lo lắng.”


      “Họ có nghĩ ấy mất tích, giống như...” Susannah ngưng lại trước khi dứt câu.


      “Francis Ross thích vào rừng. ấy giống như người bản địa. Hẳn ấy biết chốn hoang dã như trong lòng bàn tay.”


      “Dù sao chăng nữa, chúng ta biết vụ việc khi tìm ra ấy. Jacob là người theo dõi dấu vết rất giỏi. Trễ ít ngày đối với ấy vẫn sao.”




      Bây giờ, sau bữa ăn trưa, Donald ngồi trong phòng đọc sách, xem qua ghi chép của từ ngày hôm qua và thêm vào những kiện buổi sáng. vừa quyết định tìm người mang tên Sturrock Susannah bước vào mà gõ cửa. nhảy dựng lên, và điều khó tin xảy ra là khi vội vã đánh đổ chiếc ghế.


      “Chết tiệt! Tôi xin lỗi, tôi...”


      “Ôi, trời ơi...”


      Susannah bước đến giúp nhấc lên chiếc ghế, hai người đứng sát nhau, cùng cười to, hai khuôn mặt cách nhau vài phân. Donald bước lùi ra sau, bỗng dưng cảm thấy kinh hãi là cảm nhận tim đập thình thịch.


      : “Tôi đến để xin lỗi. Chúng tôi tiếp đãi đúng mức. biết , tôi mong chúng tôi đối xử với theo cách khác, khi gặp lần sau.”


      Vẻ mặt trông khá nghiêm túc, nhưng đôi má thoáng ửng đỏ. Donald cảm thấy chấn động với niềm tin kỳ lạ là người con đẹp này mến mình, và ý nghĩ này tràn ngập người như vừa nhấp hớp rượu mạnh. mong mình nhe răng ra cười như kẻ ngốc nghếch.


      Knox à, có gì phải xin lỗi.”


      “Xin gọi tôi là Susannah.”


      “Susannah.”


      Đây là lần đầu tiên gọi tên khi đối diện với , và việc này làm cho nở nụ cười. Cảm giác của tên làn môi, và thấy khuôn mặt ngước lên , khiến cho tim cháy bỏng.


      là người tiếp chuyện quyến rũ nhất, và giúp làm vui trong... công việc này. Tôi... tôi thấy vui khi đến đây - ý tôi là vui vì Mackinley chọn tôi cùng.”


      “Nhưng tôi đoán ngày mai , rồi chúng tôi gặp lại nữa.”


      “À... tôi nghĩ Công ty cần theo dõi các việc ở đây... Ai biết được, tôi có thể quay lại sớm hơn là nghĩ.”


      “À. Tôi hiểu.”


      ra vẻ buồn rầu khiến cho có đủ can đảm để tiếp: “Nhưng, biết , nếu... viết thư cho tôi là tuyệt, và... kể cho tôi nghe về những chuyện ở đây.”


      “Ý là, giống như báo cáo?”


      “À... đúng, dù rằng tôi cũng muốn biết... như thế nào. Tôi muốn viết thư cho , nếu phiền.”


      mong viết thư cho tôi hả?” Giọng của tỏ vẻ ngạc nhiên cách dễ mến.


      “Tôi rất mong.”


      khoảnh khắc im lặng khi cả hai ngừng thở, nhận biết ra họ những gì, và rồi Susannah mỉm cười đáp: “Tôi cũng mong.”




      Donald vui sướng cách điên cuồng, cảm thấy người tràn đầy sinh lực mà từ lâu nhận ra. thầm cảm kích, rồi, còn biết mình làm gì, chạy ra khỏi nhà, làm điều nghịch lý là muốn được mình để vui mừng với niềm hạnh phúc trọn vẹn vừa tìm được. đến cửa hàng của Scott, nghĩ rằng bất cứ chuyện gì diễn ra ở Caulfield John Scott hẳn phải biết. nhanh qua khung cửa, cố giữ nở nụ cười ngốc nghếch - dù sao chăng nữa người chết - rồi thấy phụ nữ có vóc người thanh mảnh, khuôn mặt bầu bĩnh, đứng sau quầy phục vụ. Bà nhìn lên khi nghe tiếng động ở ngạch cửa, thoạt đầu tỏ vẻ kinh hãi rồi nhanh chóng trấn tĩnh.


      John Scott vắng, nhưng Bà Scott tỏ ra khá hữu ích. Donald nhận thấy bà có vẻ lơ đãng, và cố giữ tập trung khi cho biết rằng Ông Sturrock cư ngụ trong nhà bà, và có lẽ lúc này ở đấy; bà chắc.


      cứ tự nhiên đến gặp. Người giúp việc ở đó...” Bà Scott bỏ lửng câu , như thể vừa nhớ ra điều gì. “, để tôi cho người báo tin, như vậy hay hơn.”


      qua cánh cửa sau. Qua khung cửa sổ, Donald nhìn lên đám mây bầu trời trông giống những mẩu phó mát, và nhớ lại làn môi dịu mềm của Susannah.




      Thomas Sturrock có cung cách khiến cho Donald cảm thấy dễ gần - khi được nghe ông là Người Dò tìm, hình dung người sống trong hoang dã với cử chỉ thô kệch và có tính khí khó chịu như từng chịu đựng ở Pháo đài, nhưng rồi ngạc nhiên và vui mừng thấy mình gặp quý ông thanh lịch.


      “Xin phép cho tôi được hỏi, làm thế nào ông đến việc làm cái nghề này?”


      Hai người uống thứ cà phê đắng của Scott, ngồi hai chiếc ghế mà Bà Scott đặt gần bếp lò.


      Sturrock nhìn vào chiếc cốc với vẻ thất vọng rồi mới trả lời: “Tôi từng làm qua nhiều việc, và từng viết về chủ đề nếp sống của người Da Đỏ, rồi có người biết được và cầu tôi trợ giúp trong vụ đứa bé bị bắt cóc. Tôi giúp được, thế là những người khác nhờ tôi giúp. Tôi hề chuẩn bị làm nghề này, nó chỉ tự nhiên mà tới. Bây giờ tôi quá già với nghề này.”


      “Còn món vật mà ông đến tìm, ông có chứng cứ gì bằng văn tự cho biết Jammet muốn giao nó cho ông ?”


      . Lần cuối cùng tôi gặp ấy dự kiến mình bị giết.”


      “Ông biết ấy có những kẻ thù nào sao?”


      . ấy có thể đòi giá cao, nhưng đó phải là động cơ để giết chết người.”


      “Đúng, thể nào.”


      “Lần đầu tiên ấy cho tôi xem mẩu xương, tôi xin phép chép lại chữ khắc ghi đó, khiến cho ấy biết tôi quan tâm nên từ chối, và bán mẩu xương cho tôi.”


      “Nhưng lúc ấy ông mua nó à?”


      . thấy đó, tôi có tiền. Nhưng ấy đồng ý giữ nó cho đến khi tôi có thể trả tiền. Bây giờ tôi có tiền, nhưng, dĩ nhiên là...” - ông dang tay trong dáng điệu thất vọng - “tôi biết nó ở đâu.”


      “Tôi trao đổi với Ông Knox về chuyện này. Chúng tôi chưa tìm ra di chúc. Nếu ông Knox đồng ý, tôi dám là ông ấy bán nó cho ông. Đấy là, giả dụ chúng tôi tìm ra được nó.”


      Thình lình Donald nghĩ ra mà thầm hỏi liệu có phải Sturrock tìm mẩu xương ấy hay . nhớ lại những dấu chân bên ngoài ngôi nhà gỗ. Ba loại dấu chân. Ba người đến ngôi nhà gỗ đêm qua.


      Moody à, là rộng lượng. Tôi cảm ơn.”


      “Vật đó là loại gì? Nó là thứ gì đó từ La Mã hay Ai Cập hở?”


      “Tôi biết chắc đó là cái gì. Có vẻ như giống cái gì như vậy, vì lý do đó mà tôi muốn mua - tôi định mang nó đến người làm việc ở bảo tàng có kiến thức về những thứ như vậy.”


      Donald gật đầu, tuy vẫn hiểu tại sao Sturrock quan tâm đến món này. Nhưng biết chắc điều là nếu có người quan tâm đặc biệt đến món vật, cần phải cảnh giác tìm hiểu. Liệu có phải Sturrock tìm đến và Jammet từ chối bán mẩu xương, nên Sturrock giết ấy? Hoặc liệu Sturrock bán mẩu xương cho ai khác? Dù là trong tình huống nào có vẻ như Sturrock phải là kẻ sát nhân. Nhưng đúng là ông tìm ra mẩu xương, vốn ràng là có giá. Thế , bây giờ ai giữ mẩu xương này?


      Donald rời cửa hàng sau khi Sturrock cho biết ông lưu lại Caulfield trong vài ngày tới. tự hỏi tại sao mình nhớ ra mà hỏi ông về hai đứa con nhà Seton - có lẽ vì thấy khó tin là con người có cử chỉ lịch thiệp này lại là người lừa đảo như nhà Knox mô tả. tự hỏi - phải là lần thứ nhất - có phải vì thiếu kinh nghiệm mà mình có ấn tượng tốt quá nhanh hay . có nên đặt nghi vấn thêm, giống như Mackinley, vốn phán xét con người dựa nguyên tắc, cho rằng chẳng sớm muộn họ làm ông thất vọng - và điều này thường là đúng, hay ?


      đường, gặp Maria mang chiếc giỏ. nhấc mũ chào, và mỉm cười . Có vẻ như tỏ ra thân thiện hơn hồi sáng, nhưng muốn bắt chuyện với nếu lên tiếng trước.


      “Chào Moody. Cuộc điều tra diễn tiến ra sao?”


      “À, tiến triển chậm, cám ơn .”


      im lặng, như thể chờ cho tiếp, nên : “Tôi vừa trao đổi với Ông Sturrock.”


      tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ gật đầu như thể đoán trước: “Rồi sao?”


      “Tôi nghĩ ông ấy là người dễ mến. Có học, nhạy cảm... giống như những gì tôi hình dung lúc đầu.”


      “Tôi nghĩ ông ấy phải có vẻ dễ mến mới lừa đảo hết tiền của bác tôi - số tiền khá lớn, tôi tin là vậy.”


      Donald hẳn phải nhíu mày suy nghĩ, bởi vì tiếp: “Tôi biết bác tôi vì quá tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ việc gì, nhưng người có danh dự đáng lẽ phải cho ông ấy hiểu là có hy vọng tìm ra hai đứa con , vì vậy nên từ chối lấy tiền. Đáng lẽ về sau này cần phải tỏ ra tử tế hơn. Chứ cuối cùng, bác tôi vừa mất con cái vừa mất cả tiền bạc cho cuộc sống, và ông ấy... à, tuồng như tự hủy hoại đời mình. Đó là sau khi bác tôi qua đời. Tôi nghĩ ra chuyện này nghe kinh khiếp, nhưng... tôi vẫn đoán hai đứa trẻ bị chó sói ăn thịt. Những người khác cũng thế, và tôi nghĩ họ đúng. Nhưng hai ông bà bác của tôi bao giờ chấp nhận chuyện đó.”


      “Làm thế nào họ chấp nhận cho được?”


      “Như vậy có tồi tệ hơn nhiều so với điều họ nghĩ hay ?”


      “Tôi nghĩ cuộc sống, với bất kỳ giá nào... vẫn tốt hơn là cái chết.”


      Maria nhìn với đôi mắt dò xét - như nông dân đánh giá con ngựa. nghĩ bao giờ tìm được người chồng nếu đánh giá đàn ông như thế.


      “Có lẽ đàn sói mang tới số phận tồi tệ hơn là cái chết.” Câu sáo rỗng phát ra từ cửa miệng nghe như lời đùa cợt xấu xa.


      “Thực chắc nghĩ như vậy.” cảm thấy ngạc nhiên vì mình có can đảm đối nghịch với .


      Maria nhún vai: “Vài năm trước, có hai đứa trẻ chết đuối trong vịnh. Đó là tai nạn kinh hoàng. Dĩ nhiên là cha mẹ chúng than khóc, nhưng vẫn sống tiếp. Bây giờ họ có vẻ hạnh phúc - cũng hạnh phúc như bất kỳ ai trong chúng ta.”


      “Có lẽ vì biết chắc xảy ra chuyện gì nên người ta khó chịu đựng được.”


      “Như vậy lại khiến cho kẻ vô liêm sỉ lợi dụng niềm hy vọng, cho đến khi vơ vét hết sạch.”


      Donald lại ngạc nhiên về lý lẽ của . mơ màng nhớ lại lời của người cha, trong giọng điệu giảng giải: “Ý muốn gây sốc là tính trẻ con, rồi mất khi trưởng thành.” Tuy vậy, Maria có vẻ gì là thiếu trưởng thành. tự nhủ rằng mình còn cần phải đồng ý với người cha nữa; hai người cách xa nhau qua hai lục địa.


      Donald như chống chế: “Ông Sturrock có vẻ như người giàu có.”


      Maria nhìn qua phía sau Donald xuống con đường, rồi nhìn đến với nụ cười. Đôi mắt màu xanh, giống như đôi mắt Susannah. “Chỉ vì thích ai đó nhưng có nghĩa là tin tưởng được họ.” Rồi khẽ nghiêng đầu - như cách chế giễu phép lịch - bước xa khỏi .




      Suốt cả buổi chiều còn lại và buổi tối, Donald xem xét qua mấy món sản của Jammet, nhưng cũng như những người trước, thể tìm ra món gì liên quan đến cái chết của Jammet. Tất cả sản của Jammet được gom vào chỗ khô ráo trong nhà kho, Jacob giám sát việc tom góp ở ngôi nhà gỗ vì lý do bảo vệ, và cùng Jacob xếp lại các món trong các thùng và hộp. Tất cả cộng lại thành tài sản nhoi đến mức đáng ngạc nhiên. Donald cố nghĩ đến việc tài sản của mình nhoi ra sao khi các đồng nghiệp của sắp xếp nếu thình lình xa lìa cõi trần ai này. Chẳng hạn so với tình cảm sâu đậm dành cho Susannah mớ tài sản đó chẳng là gì cả. dặn lòng mình phải viết thư cho ngay sau khi rời Caulfield - là chuyện phi lý, vì hai người vẫn còn ở chung mái nhà, và vì Donald quyết định chờ cho đến khi Mackinley và Knox quay về, thế còn lưu lại đây hoặc hai ngày nữa.


      xin tấm ảnh của , để lưu giữ. Dĩ nhiên, phải là dự trù mình bị giết. Chỉ dự phòng thôi.


      ***

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Khi tôi còn là đứa con , khi cha mẹ tôi còn sống, tôi thường bị khổ sở bởi những kiện mà người ta gọi là “có vấn đề”. Tôi có nỗi sợ hãi đến tê liệt cả người khiến cho tôi thể cử động được, thậm chí cũng được gì. Tôi có cảm tưởng như đất dần trôi , và dường như tôi thể tin cậy nơi mặt đất dưới chân mình - quả là cảm giác đáng sợ. Các bác sĩ đo nhịp mạch cho tôi và nhìn vào mắt tôi rồi với tôi rằng cái chứng gì đó biến mất khi tôi trưởng thành (tôi nghĩ họ có ý đến hôn nhân). Tuy nhiên, trước khi có thể kiểm chứng giả thuyết này, mẹ tôi qua đời trong tình huống mù mờ. Tôi tin rằng bà tự tử, dù cha tôi bảo phải. Bà dùng thuốc laudanum[21] quá liều, dù có chủ đích hay . Tôi càng thêm khổ sở với các cơn sợ hãi cho đến lúc cha tôi chịu được nữa mà đưa tôi vào - cần quanh co về điểm này - bệnh viện tâm thần, dù cho nó có cái tên lạ lùng chỉ bệnh viện chữa trị người bị suy nhược. Rồi cha tôi cũng qua đời, để lại tôi cho người giám hộ thiếu tận tâm, thế là tôi được đưa vào bệnh viện tâm thần công - đấy là tôi trung thực ra bản chất đích thực của bệnh viện này.


      Trong bệnh viện tâm thần công, laudanum được sử dụng rộng rãi. Ban đầu người ta cấp thứ thuốc này cho các cơn hoảng loạn đến dại người, rồi cuộc sống tôi phải tùy thuộc vào nó, thay cho cha mẹ và bạn bè mình. Thuốc được dùng để trấn áp bệnh nhân gây rối, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng tôi thích được tự mình dùng thuốc, nên tôi dùng mưu mẹo để tìm cách lấy được thuốc. Tôi thấy dễ thuyết phục các nhân viên nam cấp thuốc cho mình, và vị Giám đốc - trai trẻ duy tâm có tên Watson - tôi có thể nắm thóp ta. khi bạn quen làm việc gì bạn thường quên tại sao khởi đầu bạn làm việc ấy.


      Sau đó, khi chồng tôi nghĩ thói quen của tôi là rào cản cho tình thân quen giữa hai chúng tôi tôi dùng thuốc nữa. Hay đúng hơn, ném phần thuốc laudanum của tôi, khiến cho tôi phải chịu đựng mà có thuốc. là người duy nhất nghĩ rằng cần phải trải qua phiền hà đó. Đấy giống như là tỉnh táo lại sau cơn say xỉn dài, và trong thời gian tôi cảm thấy tuyệt vời. Nhưng trong cơn tỉnh táo, bạn nhớ lại những gì mà bạn quên - chẳng hạn tại sao ban đầu bạn cần đến loại thuốc ấy. Trong những năm về sau, khi gặp chuyện khó khăn, tôi biết tại sao mình bị nghiện thuốc, thế nên trong mấy ngày qua tôi nghĩ đến laudanum thường xuyên như là tôi nghĩ đến Francis. Tôi biết rằng mình có thể đến hiệu thuốc để mua. Tôi nghĩ đến việc này cả ngày lẫn đêm. Lý do duy nhất ngăn cản tôi là vì tôi là chỗ dựa duy nhất đời cho Francis. Và cho đến lúc này tôi chẳng giúp gì được cho nó cả.


      Năm ngày sau khi Francis rời khỏi nhà, trong khi bộ dọc theo con đường mòn dẫn đến ngôi nhà gỗ của Jammet, tôi nghe tiếng động phía trước. con chó chạy băng ngang đường tôi kêu ăng ẳng; con chó tôi chưa từng biết, to lớn, lông bờm xờm, có vẻ hoang dại - loại chó kéo xe trượt tuyết. Tôi dừng lại: có ai đấy ở trong ngôi nhà gỗ.


      khoảnh đất cao phía sau ngôi nhà, tôi lẻn vào lùm bụi để núp. con côn trùng cắn vào cổ tay tôi. Cuối cùng, người đàn ông ra khỏi ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Hai con chó chạy đến bên ông, kể cả con chó tôi trông thấy con đường mòn lúc trước. Tôi nín thở nơi núp, và khi gương mặt ông quay về phía mình, tôi cảm thấy ớn lạnh cả sống lưng. So với người Da Đỏ người này cao lớn, lực lưỡng hơn, mặc áo choàng màu lam có mũ trùm đầu, và quần may bằng da thú. Nhưng chính gương mặt của ông khiến cho tôi nghĩ đến người nhân tạo. Ông có vầng trán thấp và rộng, hai gò má nhô cao, sống mũi và miệng chúc xuống giống như mỏ chim ưng, tạo dáng dấp hoang dã và tàn bạo. Những nếp nhăn hằn sâu dưới làn da màu đồng hai bên miệng. Tóc đen và bù xù. Tôi chưa từng thấy người nào xấu xí đến thế - khuôn mặt như thể được chiếc rìu cùn tạc từ thớt gỗ. Nếu Shelley[22] cần có hình mẫu cho quái vật kinh khiếp con người này hẳn là nguồn cảm ứng hoàn chỉnh.


      Tôi chờ đợi, dám thở mạnh cho đến khi ông ta quay vào ngôi nhà gỗ, rồi tôi rón rén ra khỏi chỗ núp. Trong chốc, tôi suy tính phải làm gì - về tìm Angus và kể cho nghe, hoặc phóng đến Caulfield mà báo cho Knox? Hôm nay tôi quyết định đối diện với người này, bởi vì tôi lập luận rằng là con người nguy hiểm. Dù nghĩ gì chăng nữa, tôi thấy khó mà tin rằng người có bộ mặt như thế lại có tính chất dữ dằn và tàn bạo. Cuối cùng, tôi trở về và thấy Angus ở nhà. im lặng nghe tôi kể, rồi cầm lấy khẩu súng trường xuống con đường mòn.


      Sau này, tôi biết được rằng đến ngôi nhà gỗ và bước thẳng vào bên trong. Angus gọi ông, và với lời lẽ mà tôi tin chắc là lễ độ rằng đưa ông đến Caulfield, vì đây là trường vụ án mà ông ta có quyền diện nơi đó. Người đàn ông lưỡng lự nhưng chống cự. Ông nhấc khẩu súng trường của mình rồi trước , qua gần năm kilômét để đến Vịnh. Angus dẫn ông đến tận cửa sau nhà Knox. Trong khi cả hai chờ đợi, người đàn ông lạ mặt nhìn ra Vịnh với thái độ kiêu hãnh, xa cách, như thể màng người ta đối xử với mình ra sao. Đến khi Angus quay về nhà, người lạ mặt bị bắt giữ. Angus lấy làm tội nghiệp cho hai con chó mà Knox muốn cho vào sân vườn ông, nên dẫn chúng về nhà, cho rằng chúng làm phiền gì cả. Tôi nghĩ hẳn có cảm tình với người lạ mặt nên mới chịu khó như thế.


      ***


      Andrew Knox ngồi đối diện Mackinley, hút dọc tẩu. Ngọn lửa trong lò sưởi soi rọi ánh sáng màu cam ấm áp lên khuôn mặt hai người - ngay cả khuôn mặt Mackinley cũng bớt tái . Knox thể chia sẻ niềm thỏa mãn hiển nhiên của Knox. Họ thẩm vấn người lạ mặt trong tiếng đồng hồ mà thu lượm được thông tin gì quan trọng ngoại trừ tên ông này là William Parker, người đặt bẫy thú rừng cùng với Jammet trước đây. Ông khai mình biết Jammet chết, mà chỉ ngang qua, ghé thăm ấy và thấy ngôi nhà gỗ trống trơn, ông lục soát ngôi nhà để tìm hiểu chuyện gì xảy ra.


      Mackinley phá tan bầu im lặng: “Ông bảo kẻ sát nhân quay lại trường vụ án. Nhưng nếu ông ta muốn có các khẩu súng hoặc đại loại như thế, mà lần đầu tiên tìm được, hẳn ông ta có thể chờ cho đến khi tình hình lắng dịu rồi quay lại để tìm kiếm lần nữa.”


      Knox nhìn nhận này.


      “Hoặc có lẽ ông ta bỏ quên vật gì đó và quay lại để tìm.”


      “Chúng ta tìm thấy món gì lúc trước có ở đó.”


      “Có lẽ chúng ta sai sót.”


      Hai hàm răng Knox cắn lấy đường rãnh mòn cái dọc tẩu; đấy là cảm giác dễ chịu - hàm răng và cán ăn khớp hoàn toàn với nhau sau thời gian dài sử dụng. Mackinley quá vội kết án người đặt bẫy thú rừng, muốn giải quyết vấn đề dựa theo kiện thay vì ngược lại. Knox muốn vạch ra điểm này nhưng nỡ xúc phạm niềm tự hào của Mackinley - dù gì nữa, Mackinley vẫn là người chủ trì.


      “Có khả năng là ông ấy đúng như lời : chỉ là người đặt bẫy có quen biết với Jammet, và biết kia chết.”


      “Nhưng ai lại rình mò quanh ngôi nhà hoang chứ?”


      “Đó phải là hành vi phạm tội - mà cũng phải bất thường.”


      “Hành vi phạm tội nhưng khả nghi. Chúng ta phải suy diễn theo cách đúng nhất theo những gì ta có.”


      “Chúng ta có gì cả. Tôi chắc ta có đủ cơ sở để bắt giữ ông ấy hay .”


      Knox khăng khăng cho rằng người đàn ông phải là tù nhân nên phải được đối xử tử tế. Ông sai Adam mang khay thức ăn đến kho chứa hàng nơi ông ấy bị cầm giữ, và đốt đống lửa. Ông ghét phải cầu Scott cho đặc ân khác, nhưng cũng thể cho phép giam giữ người đàn ông trong căn phòng, dù là căn phòng được khóa kín, trong cùng ngôi nhà của người vợ và hai con . Dù cho người đàn ông giải thích, vẫn có nét gì đó gương mặt ông khiến tạo ra ý nghĩ đen tối và kinh hoàng. Nó gợi cho ông nhớ đến những gương mặt trong các cuộc chiến tranh với người Da Đỏ: những gương mặt được sơn màu vằn vện, phạm thánh, xa lạ.




      Lần thứ hai họ mở khóa cửa kho chứa hàng, giơ cao ngọn đèn bão, để soi rọi người đàn ông ngồi bất động gần đống lửa. Ông quay mặt lại khi cánh cửa mở ra.


      Knox gọi: “Ông Parker ạ, chúng tôi muốn trao đổi với ông thêm.”


      Họ ngồi những chiếc ghế được mang vào từ trước cho mục đích này. Parker gì mà cũng quay lại để đối diện với họ. Chỉ có hơi thở ông, được ngưng tụ thành lớp hơi nước mờ nhạt mặt, cho thấy đó là người còn sống.


      Mackinley hỏi: “Làm thế nào ông mang tên Parker?” Giọng điệu của ông nghe xúc phạm, như thể ông kết tội người đàn ông dối trá về tung tích của mình.


      “Cha tôi là công dân , Samuel Parker. Ông nội tôi cũng là người .”


      “Cha ông có phải là nhân viên Công ty ?”


      “Suốt đời ông ấy làm việc cho Công ty.”


      “Nhưng ông .”


      “Tôi .”


      Mackinley nghiêng người về phía trước, việc nhắc đến Công ty thu hút ông như là thỏi nam châm. “Ông từng làm việc cho họ chứ?”


      “Tôi học việc. Bây giờ tôi làm nghề đặt bẫy.”


      “Và ông giao dịch với Jammet?”


      “Đúng.”


      “Bao lâu rồi?”


      “Nhiều năm rồi.”


      “Tại sao ông rời Công ty?”


      “Để phải mang ơn ai.”


      “Ông có biết Laurent Jammet là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ ?”


      Người đàn ông nhìn Mackinley, có phần thích thú. Knox liếc qua nhìn Mackinley - liệu Mackinley biết chuyện ấy qua người Pháp kia ?


      “Tôi giao dịch với công ty nào; tôi giao dịch với Jammet.”


      “Ông có phải là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ ?”


      Lần này Parker cười lên khô khan: “Tôi phải là nhân viên của công ty nào hết. Tôi đặt bẫy rồi bán lông thú, thế thôi.”


      “Nhưng giờ ông có lông thú gì cả.”


      giờ là mùa thu.”


      Knox đặt bàn tay cảnh báo lên cánh tay của Mackinley, cố giữ giọng thân thiện và đúng lý: “Ông cần hiểu tại sao chúng tôi đưa ra những câu hỏi này - Jammet gặp phải cái chết tàn bạo. Có thể cần tìm hiểu những gì liên quan đến ấy, nhằm đưa hung thủ ra trước công lý.”


      ấy là bạn tôi.”


      Knox thở dài. Trước khi ông có thể thêm gì khác Mackinley lại hỏi: “Vào ngày và đêm mười bốn tháng Mười - sáu ngày trước - ông ở đâu?”


      “Tôi với ông rồi. Tôi từ Nhà Sydney về miền nam.”


      “Có ai trông thấy ông ?”


      “Tôi mình.”


      “Ông rời Nhà Sydney lúc nào?”


      Lần đầu tiên người đàn ông ngập ngừng: “Tôi ở tại Nhà Sydney, mà chỉ về hướng đó.”


      “Nhưng ông là ông từ Nhà Sydney.”


      “Tôi Nhà Sydney để các ông biết tôi ở đâu. Đó là hướng tôi xuất phát. Tôi trong rừng.”


      “Ông làm gì ở đó?”


      “Săn thú.”


      “Nhưng ông bây giờ phải là mùa lông thú.”


      “Săn thú lấy thịt.”


      Mackinley nhìn qua Knox và nhíu mày: “Đấy là việc bình thường vào mùa này trong năm hay sao?”


      Parker nhún vai: “Bình thường vào bất kỳ mùa nào trong năm.”


      Knox hắng giọng: “Cám ơn, Ông Parker. À... bây giờ chỉ có thế.” Ông cảm thấy ngượng ngùng về giọng của mình, nghe như giọng của người già, cầu kỳ, cũng giống như đàn bà.


      Hai người đứng dậy chuẩn bị ra về, rồi Mackinley quay lại người đàn ông ngồi bên đống lửa. Ông cầm cốc nước của mình từ chiếc khay rồi rót nước dập tắt đống lửa.


      “Đưa cho tôi túi thuốc của ông.”


      Parker nhìn Mackinley; ông này chớp mắt. Đôi mắt của Parker mờ đục trong ánh đèn bão. Ông ra vẻ như muốn giết chết Mackinley ngay tại chỗ. Ông tháo chầm chậm chiếc túi từ cổ mình rồi trao cho Mackinley. Mackinley đưa tay đón nhận nhưng Parker muốn buông tay ra.


      “Làm thế nào tôi biết mình được nhận lại?”


      Knox bước đến, nóng lòng muốn giải tỏa khí căng thẳng: “Ông được nhận lại. Đích thân tôi lo việc này.”


      Parker buông tay ra. Hai người bước ra ngoài, mang theo ngọn đèn bão và để cho người bị cầm giữ ở lại trong bóng tối và khí lạnh. Knox hé mắt nhìn lại khi đóng cánh cửa, nhìn thấy - hoặc ông chỉ tưởng tượng ra? - người mang hai dòng máu như là nét tối đen trong khoảng tối đen.


      Khi hai người quay về thị trấn im lìm, Knox hỏi: “Tại sao ông làm vậy?”


      “Ông muốn ta phóng lửa đốt chỗ ấy rồi tẩu thoát hay sao? Tôi biết hạng người này. Họ bứt rứt gì cả. Ông có thấy cách nhìn tôi ? Như thể muốn lột da đầu tôi ngay lúc đó.”


      Ông giơ cao túi thuốc trước cây đèn bão - chiếc túi bằng da, được trang trí đẹp đẽ bằng hoa văn thêu. Bên trong là mọi thứ cần thiết cho người đàn ông sinh tồn - đá lửa, bùi nhùi, thuốc lá sợi, vài mẩu thịt khô. Nếu có những thứ này trong hoang dã ông ta chết.


      Mackinley hồ hởi: “Này, ông thấy thế nào? Ông ta đổi tình tiết để chúng ta thể kiểm chứng nơi ông ta qua. Ông ta có thể ở Sông Dove tuần trước mà ai biết được.”


      Knox nghĩ ra được điều gì để trả lời. Ông cũng cảm thấy có nhiều chuyện khả nghi vì Parker ngập ngừng - khoảng hở hé lộ trong thái độ tự tin của người đàn ông; nhưng ông biết phải gì.


      Cuối cùng, ông : “Điều này phải là bằng chứng.”


      “Điều này chỉ lé lộ phần. Ông thiên về giả thuyết là con trai làm việc đó hay sao?”


      Knox thở dài, cảm thấy rất mệt mỏi, nhưng chưa đủ mệt nên muốn về hùa: “Chuyện về Công ty Bắc Mỹ là như thế nào? Tôi chưa từng nghe.”


      “Đó phải là công ty chính thức, nhưng có thể trở thành chính thức. André bảo tôi là Jammet có liên can. Ông ấy cũng thế. Các nhà buôn Canada gốc Pháp bàn bạc việc thành lập công ty để đối nghịch với chúng ta. Họ được Mỹ hỗ trợ; thậm chí số người cũng có lợi ích trong chuyện này.”


      Nét mặt Mackinley trở nên căng thẳng. Ông là người có tư tưởng trung thành giản đơn; ý nghĩ về người Canada gốc chống lại Công ty khiến cho ông đau xót. Đối với Knox chuyện này đáng ngạc nhiên lắm. Công ty luôn được những người giàu có ở London điều hành, phái các đại diện (mà họ gọi là gia nhân) thuộc địa để bòn rút tài nguyên. Đối với những người sinh tại Canada đấy là quyền lực từ nước ngoài, lo vơ vét cho đến khi mảnh đất cạn kiệt, chỉ ban phát lại chút cơm thừa cá cặn.


      Ông chọn lựa ngôn từ cách thận trọng: “Thế Jammet có thể bị xem là kẻ thù của Công ty Vịnh Hudson phải ?”


      “Nếu ông có ý nhân viên Công ty có thể giết ấy... tôi xin ông tin chắc rằng bao giờ có chuyện đó.”


      “Tôi có ý gì cả. Nhưng nếu đúng như vậy chúng ta thể làm ngơ. Jammet quan hệ mật thiết ra sao với Công ty Bắc Mỹ đó?”


      “Ông ta biết. Chỉ biết trước kia Jammet đề cập chuyện này.”


      “Có chắc là André ở Sault khi Jammet bị giết?”


      “Theo bà chủ nhà ông ấy nằm trong góc bar, biết trời trăng gì. Ông ấy thể nào giết Jammet ở Sông Dove cùng lúc đó.”


      Knox cảm thấy bứt rứt dồn dập vì những kiện diễn ra trong buổi tối. Vì thái độ nhiễu và cả quyết của Mackinley, vì diện quê kệch và mạnh mẽ của người bị cầm giữ, thậm chí vì chàng Jammet bất hạnh và cái chết nhếch nhác của này. Cộng đồng non trẻ ở Caulfield vẫn luôn an bình, có nhà tù và chưa bao giờ cần đến nhà tù. Bây giờ, trong ít ngày qua, ở đâu ông cũng nhìn thấy bạo lực và nỗi chua cay.




      Vợ ông vẫn còn thức khi ông lên lầu. Ngay cả khi người đàn ông tên Parker mất dạng, ông này vẫn còn làm vướng bận tâm trí mọi người. Tên sát nhân có thể lảng vảng trong thị trấn, chỉ ngăn cách với họ bởi mấy bức tường bằng ván gỗ mỏng. Người đàn ông ấy có vẻ gì đó khiến cho người ta dễ dàng tin rằng ông có tội. Dĩ nhiên là ông ấy thể làm gì với dung mạo của mình, và nên bị phán xét theo bề ngoài. Liệu ông có làm thế hay ?


      Trong khi thay quần áo, ông nhận xét: “Có người dễ làm cho ta thấy khó ưa.”


      đến người bị cầm giữ, hay là ông Mackinley?”


      Knox cố ghìm giữ nụ cười. Ông nhìn vợ và thấy bà có vẻ mệt mỏi: “Em ổn chứ?”


      Ông thích mái tóc bà gợn sóng được thả lỏng, cũng có màu nâu bóng như khi họ cưới nhau. Bà lấy làm hãnh diện với mái tóc mình, mỗi đêm đều dành năm phút để chải cho đến khi tóc gẫy và bám vào chiếc lược.


      “Em định hỏi cùng câu hỏi ấy.”


      ổn. mong chuyện này chóng xong xuôi. thích Caulfield khi nó an bình và nhàm chán.”


      Bà nhích vào trong khi ông nằm lên giường giữa hai tấm chăn: “ có nghe tin tức gì khác ?”


      Qua giọng bà, ông có thể đoán ra rằng đấy phải là tin vui. “Tin tức khác à? Tin gì thế?”


      Bà thở dài: “Sturrock ở đây.”


      “Sturrock Người Dò tìm hở? Ở Caulfield?”


      “Vâng. Moody gặp ông ấy. Có vẻ như ông ấy quen biết Jammet.”


      “Trời đất!” Ông bao giờ thôi ngạc nhiên bởi những gì bà vợ nghe qua từ lời đồn đại. Ông lặp lại: “Trời đất!” Ông nằm xuống, bao nỗi hồ nghi vẫn đọng đầy trong trí óc. Ai lại nghĩ Jammet có nhiều mối quan hệ vô hình như thế? mãnh lực kỳ lạ lan rộng từ ngôi nhà gỗ trống trơn, lôi kéo những người khó tin và khó ưa đến Caulfield để tìm kiếm cái gì ai biết. Trong mười năm ông chưa gặp lại Thomas Sturrock, kể từ thời gian ngắn trước khi Charles qua đời. Ông cố quên lần gặp gỡ ấy. Bây giờ ông thể nào nghĩ đến lý do vô thưởng vô phạt khiến cho Sturrock diện ở đây.


      có nghĩ ông ấy là kẻ giết người ?”


      “Ai?” Trong khoảnh khắc, ông nhớ bà đến ai.


      “Còn ai nữa! Dĩ nhiên là người bị cầm giữ. có nghĩ ông ấy làm điều đó ?”


      Knox : “Em ngủ .” Rồi ông hôn bà.


      ***


      Vào ngày trước khi họ ra về, Donald dành thời giờ quý báu để xem qua cửa hàng của Scott nhằm tìm món quà cho Susannah. định mua cho cây bút mực; tuy nó là món quà chia tay thích hợp, nhưng có thể thấy đó là lời nhắc nhở lộ liễu về lời hứa viết thư cho . có nhiều thứ để lựa chọn, cuối cùng mua chiếc khăn tay thêu, bỏ qua ngụ ý rằng nghĩ khóc khi xa - có lẽ nghĩ đến điều này.


      Chiều hôm ấy, Susannah thơ thẩn nhiều tiếng đồng hồ trong phòng đọc sách của gia đình, chờ cho Donald gặp do tình cờ, trong khi lật qua quyển sách. có cơ hội đọc xong cả quyển sách cho đến lúc nhận biết chuyện gì diễn ra, nhưng đọc xong; phần lớn các tiểu thuyết trong phòng đều gây nhàm chán, được chọn lựa bởi cha khi còn trẻ, hoặc bởi Maria vốn có sở thích lạ kỳ. Donald nghe tiếng ho của , và rón rén mở cánh cửa, giữ tay sau lưng.


      “Chúng tôi ra về ngày mai, trước khi trời sáng, nên chúng tôi thể từ giã lúc đó.”


      vội đặt xuống quyển sách về đề tài câu cá và nghiêng người nhìn Donald: “ ở đây buồn tẻ.”


      Donald mỉm cười, quả tim muốn nổi loạn trong lồng ngực: “Tôi mong cho là tôi quá tự tiện, nhưng tôi mua cho món này. Tôi muốn tặng món gì đó trước khi ra về.”


      giơ ra chiếc hộp , được gói trong giấy dầu của cửa hàng và được cột lại bằng ruy băng.


      Susannah mỉm cười, tháo chiếc hộp, mở ra chiếc khăn tay: “Ôi, đẹp quá! Moody, là tử tế.”


      “Xin gọi tôi là Donald.”


      “Ôi, Donald. Cảm ơn nhiều. Tôi giữ nó luôn bên mình.”


      “Tôi thấy có vinh dự nào lớn hơn.”


      suýt ra rằng ghen tị biết bao với chiếc khăn tay, nhưng mất tự tin, có lẽ như thế là điều may. biết Susannah chiếc khăn tay giống như thế, mua ở cùng cửa hàng, được trai trẻ tặng năm trước. Nhưng bây giờ Susannah ửng hồng đôi má, trông như rạng rỡ từ bên trong.


      “Bây giờ tôi thấy ngượng vì có gì tặng để đáp lại.”


      “Tôi mong được đáp lại gì cả.” suýt dám ra rằng mình muốn có nụ hôn, nhưng lại đủ can đảm. “Chỉ cần thỉnh thoảng biên thư cho tôi, nếu quá bận.”


      “À vâng, tôi viết thư cho . Và có lẽ, nếu quá bận, có thể thỉnh thoảng gửi thư cho tôi.”


      “Mỗi ngày!” ra cách khinh suất.


      “Ôi, tôi nghĩ quá bận. Tôi chỉ mong việc này ... nguy hiểm.”


      Những phút còn lại trong phòng đọc sách trôi qua trong khí mê mẩn ngọt ngào. Donald biết gì thêm, nhưng nhận ra rằng quả bóng ở bên phần sân mình, và cuối cùng thu hết can đảm để nắm lấy bàn tay . Rồi có ai đó đánh lên tiếng kẻng trong tiền sảnh - hiệu báo giờ dùng bữa tối - và thu bàn tay về, nếu ai biết được chuyện gì kế tiếp diễn ra. Chỉ nghĩ đến đó là cảm thấy quay cuồng.




      Chỉ có hai con đường rời khỏi Sông Dove: hướng nam về vịnh, hoặc hướng bắc dọc theo con sông qua khu rừng. Jacob chọn con đường mòn vượt quá trang trại Price. Angus Ross bảo họ ông thấy những dấu hiệu là Francis qua Hồ Swallow, và Jacob chỉ dừng lại để xem xét dấu vết xem đó có phải là dấu vết của Francis hay . Con đường mòn thoáng đãng; họ bước nhanh, qua hồ nước sau giữa trưa. Jacob quỳ xuống để xem xét gần hơn.


      “Dấu vết cũ vài ngày, nhưng có hơn người đàn ông qua đây.”


      “Cùng lúc hay sao?”


      Jacob nhún vai.


      “Có thể là nhà buôn người Pháp đó. Ông ta qua đây phải ?”


      “Hơn người đàn ông theo hướng này: hai loại dấu chân, kích thước khác nhau.”


      Họ thêm vài dặm theo dấu chân. Đến nhánh sông hợp lưu với hồ nước, dấu mòn rẽ về hướng tây và nối tiếp theo đó, qua vùng đất đá có dấu chân người. Donald bước theo Jacob vì nghĩ này biết phải làm gì, rồi nhõm khi thấy khoảnh đất gần dòng nước, nơi các dấu chân ép lá cây và rêu xuống mặt bùn.


      “Người này bộ cả sáu, bảy ngày. mệt mỏi và đói. Tôi nghĩ ta nên nhanh hơn. Ta có thể bắt kịp.”


      “Nhưng đâu? Đường này dẫn đến đâu?”


      Jacob biết. Dấu mòn vẫn nối dài, ngoằn ngoèo qua rừng cây dọc con sông, luôn dốc cao lên, nhưng có dấu hiệu cho thấy nó dẫn đến đâu ngoại trừ vào vùng hoang dã mênh mông.


      Họ dừng lại để nghỉ trong khi còn ánh nắng. Jacob chỉ cho Donald cách chặt cành cây để làm chỗ trú. Dù sống ở Canada hơn năm, đây là lần đầu tiên Donald nếm trải cuộc sống bản địa, và vui vì bao điều mới lạ. xóa quá khứ và vỏ bọc mọt sách, cầu kỳ, để cuối cùng trở thành con người của hành động, con người gian truân vùng biên cương, nhà Phiêu lưu đích thực của Công ty. thích thú nghĩ đến lúc kể lại kinh nghiệm của mình cho đám đàn ông ở Pháo đài Edgar.


      Sau khi họ dựng chỗ trú rồi đốt đống lửa và Jacob dọn món cháo bắp nấu với thịt, Donald ngồi gập người bên đống lửa, lấy giấy bút ra biên thư cho Susannah. chưa nghĩ đến việc gửi lá thư cho bằng cách nào, nhưng đoán có cư dân sống dọc đường để nhờ gửi . viết “Susannah thân mến” rồi dừng lại. Liệu có nên mô tả dấu mòn hôm nay, khu rừng với tán lá xanh đậm và vàng chói, những tảng đá màu tím nhạt dưới lớp rêu sáng loáng, cách thu xếp chỗ ngủ? bác bỏ các chi tiết này vì e thấy chán ngắt, rồi viết “Quả là điều thú vị nhất...”, rồi hiểu sao sức nóng của ngọn lửa khiến ngã ra bất tỉnh, đến nỗi Jacob phải xốc lên cho tỉnh lại và đặt ngồi dưới mái lá bulô, nhưng lại ngã ra các cành cây linh sam. Cơn kiệt sức ập đến người như búa bổ, và quá mệt nên thấy vầng trăng soi rọi tạo những bóng tối thần tiên cành cây kẽ lá. Chắc chắn là quá mệt nên thấy Jacob quan sát những tinh thể băng sáng lòa chung quanh, và nhíu mày suy tư.


      ***


      Qua nhiều năm tôi gầy dựng được bộ sưu tập sách hay tuy rằng gò bó về chủ đề, và tôi cho Ida mượn số sách. như bà mẹ, bé lấy làm cảm kích và có vẻ như cảm động vì tôi tin tưởng mà cho mượn những thứ quý giá như thế. Nhưng bây giờ, dường như đầu sách quý giá nhất vẫn quan trọng. trong những quyển sách tôi cho bé mượn là từ điển, quyển sách mà tôi quý trọng cả hai mươi năm. Tôi giữ quyển từ điển này bên mình khi ở trong bệnh viện tâm thần để bù lại phần giáo dục bị dở dang, nhưng Ida đặc biệt xin mượn vì nhà Pretty chưa hề trông thấy quyển sách nào như thế.


      Mẹ tôi cho tôi quyển từ điển ấy thời gian ngắn trước khi bà qua đời, như là để đền bù cho nỗi mất mát diễn ra sau đấy. Bạn có thể nghĩ đây chỉ là phần đền bù bé, nhưng nó phải hoàn toàn vô dụng. Tôi ghét gặp phải những từ ngữ trong sách mà mình hiểu nghĩa nên vẫn kiên trì tra cứu những từ này: “trong trẻo”, “lắm điều”, “được hàm ý”[23]. Tôi tra cứu từ “tự tử” sau khi mẹ tôi qua đời. Tôi nghĩ việc này có thể giúp tôi hiểu được tại sao bà làm thế. Định nghĩa là chuẩn xác và súc tích, là hai tố chất mà bà có. “Hành động tự hủy diệt” nghe như là cố tình và quá khích, trong khi mẹ tôi có tính mơ mộng và hiền hòa, thường đãng trí. Tôi hỏi cha tôi, để xem ông có thể giải thích được - tôi đoán ông hiểu bà trong khi tôi còn hoang mang. Ông quát tháo và huyên thuyên rằng đấy là việc càn bậy - mẹ tôi hẳn bao giờ làm thế, thậm chí mới nghĩ đến việc này là tội lỗi. Thế rồi, ông khóc, khiến cho tôi bối rối cùng cực. Tôi vòng tay ôm lấy ông, cố an ủi trong khi ông nức nở. Sau hoặc hai phút, hai cha con đứng bên nhau trong trạng thái vờ vịt của tình phụ tử vốn tạo bất kỳ khác biệt nào - hoặc hai phút mà tưởng chừng kéo dài cả giờ - rồi tôi buông ông ra mà bước khỏi phòng. Có vẻ như ông để ý.


      Tôi nghĩ cả hai cha con tôi đều hiểu nhiều về bà.


      Sau này, tôi nhận ra rằng cha tôi tức giận bởi vì tôi đoán ra . Giờ đây, gần đến tuổi của mẹ tôi khi bà qua đời, tôi biết mình thành công đường đời ra sao: đứa con độc nhất của tôi bỏ nhà ra trong những tình huống kinh khủng, và ràng là tôi thể đổ lỗi mọi chuyện cho dòng máu Ireland của nó. Tôi dự phần trong số mệnh của nó, mà tôi chưa biết tổn hại ra sao.


      Tôi cảm thấy nhõm phần nào khi trò chuyện cùng Ida. Hôm nay, bé tươi vui hơn; lại thêm hương vị ngồi lê đôi mách về người đàn ông bị cầm giữ trong kho chứa hàng. Ida nhại lại thái độ mặt sưng mày sỉa của Scott khi cho phép sử dụng phần bất động sản quý giá của ông cho mục đích như thế. bé cũng dặm thêm ít chi tiết thú vị - các tìm thấy dấu hiệu cho biết người đàn ông này ngang trang trại của họ đường đến ngôi nhà gỗ của Jammet, như thế có nghĩa là ông từ hướng bắc. Nghĩa là có thể ông gặp Francis. Nghĩa là tôi nên dọ hỏi ông, cho dù ông là kẻ giết người chăng nữa.


      bé cũng nhắc đến Thomas Sturrock, người ngụ trong nhà Scott. Liệu tôi có biết rằng ông này là Người Dò tìm nổi tiếng nhưng thất bại trong vụ hai con nhà Seton? Cả thị trấn kháo nhau về ông. Tôi gật đầu cách mập mờ, và tôi chưa từng nghe gì cả. Tôi thắc mắc tại sao ông nhắc đến vụ kia khi chúng tôi trao đổi với nhau về vụ án mạng ở đây. Lại thêm trường hợp mà tôi là người biết sau cùng.




      Tôi đoán trước Knox kiếm chuyện rầy rà vì tôi muốn tiếp xúc người bị cầm giữ. Ông cho rằng tôi thu lượm được gì, rằng họ cật vấn ông, rằng việc này gây bất lợi, rằng việc này là phù hợp, và cuối cùng, rằng việc này là nguy hiểm. Tôi vẫn giữ thái độ đúng lý. Tôi biết nếu mình kiên trì ông nhượng bộ, và đúng là ông nhượng bộ sau nhiều cái lắc đầu và nhiều tiếng thở dài. Tôi trấn an ông là tôi sợ ông ấy, dù cho ông ấy trông dễ sợ đến đâu - ông ấy chịu thiệt nếu có thái độ hay (ngoại trừ khi bị kết tội, khi tôi đoán ông bị kết tội trong bao nhiêu vụ án mạng vẫn thế, nhưng tôi ra suy nghĩ này). Dù sao chăng nữa, Knox kiên quyết phái gia nhân của ông với tôi, với lời căn dặn phải ngồi ở cửa kho chứa hàng và để mắt trông chừng mọi việc.


      Adam mở khóa cửa kho chứa hàng; lúc này ít hàng hóa khô bên trong được thu dọn để người bị giam giữ có nhiều khoảng trống. Có hai cửa sổ gần trần nhà tạo cơ hội trốn thoát nhoi, nhưng ông ngồi gục đầu tấm nâng hàng và quan tâm khi cửa mở. Có lẽ ông ngủ - chỉ cựa mình khi Adam gọi ông, rồi chậm chạp ngồi lên, kéo tấm chăn mỏng quanh người. có lửa sưởi ấm; có vẻ như bên trong lạnh khắc nghiệt hơn và thấm sâu hơn so với bên ngoài.


      Tôi quay qua Adam: “Các định để cho ông ấy chết cóng hay sao?”


      Adam lẩm bẩm - nghe như là việc đốt trụi tất cả chúng tôi - và tôi ra lệnh cho tìm ít viên đá nóng để hơ chân, và ít cà phê. Adam ngạc nhiên nhìn tôi: “Tôi được phép rời khỏi bà.”


      tìm ngay. Đừng có nhố nhăng; chúng tôi thể ngồi chuyện ở đây trong cái lạnh như thế này. Tôi chắc chắc ổn cho đến khi quay lại.” Tôi trừng mắt nhìn cách nghiêm khắc cho đến khi quay , luống cuống khóa lại cánh cửa sau khi bước ra ngoài.


      Người bị giam giữ nhìn đến tôi, mà ngồi như tượng đá. Tôi kéo chiếc ghế đến gần tấm nâng hàng và ngồi xuống. Tôi lo lắng nhưng cố lộ nét mặt. Nếu muốn ông giúp tôi nên ra vẻ như mình tin cậy nơi ông. Rốt cuộc, tôi suy nghĩ phải ăn ra sao với ông.


      “Ông Parker ạ, tên tôi là Bà Ross. Tôi đến đây để nhờ ông giúp đỡ. Tôi xin lỗi lợi dụng việc ông bị... cầm giữ.”


      Ông nhìn tôi mà cũng tỏ vẻ rằng tôi diện ở đấy. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ ông lãng tai.


      Tôi tiếp tục, lần này lớn hơn: “Ông Parker, tôi được biết ông từ phía bắc, ngang qua Hồ Swallow, phải ?”


      Sau chốc, ông : “Chuyện này liên quan tới bà ra sao?”


      “Chuyện là thế này: tôi có đứa con trai, Francis. Bảy ngày trước nó khỏi nhà. Tôi nghĩ nó về hướng bắc. Nó quen biết ai ở đấy. Tôi lo lắng. Tôi muốn hỏi ông trông thấy dấu hiệu nào...? Nó chỉ mười bảy tuổi. Nó có... tóc đen. Người hơi mảnh khảnh.”


      Chỉ có thế. thể cách nào khác, và dù sao chăng nữa tôi thấy cổ họng mình thắt nghẹn đến mức tôi chắc mình được thông suốt.


      Có vẻ như Parker suy tư: khuôn mặt ông còn trông lạnh lùng như trước, và đôi mắt đen của ông nhìn thẳng vào mắt tôi: “Bảy ngày trước hả?”


      Tôi có thể tự trách mình. Đáng lẽ tôi phải tám. Hoặc chín. Tôi gật đầu.


      “Và người ta tìm thấy Jammet sáu ngày trước.”


      “Ông Parker ạ, con tôi giết ấy.”


      “Làm sao bà biết được?”


      Tôi cảm thấy cơn giận dữ dâng trào với lời lẽ hạch sách của ông. Dĩ nhiên là tôi biết. Tôi là mẹ của nó mà. “Tôi còn giống như là bạn thân thiết của nó.”


      Lúc ấy, Parker có thái độ bất ngờ: ông bật cười. Giống như giọng , tiếng cười của ông trầm trầm và khô khan, nhưng phải khó chịu. “Tôi cũng là bạn thân thiết của Jammet. Tuy vậy, có vẻ như Ông Knox và Ông Mackinley nghĩ tôi giết ấy.”


      Tôi bị lùi vào thế thụ động vì câu này. “À... tôi đoán họ hiểu ông. Nhưng tôi nghĩ người vô tội làm hết sức mình để giúp đỡ phụ nữ trong hoàn cảnh của tôi. Việc làm này xác định người ấy có tư cách tốt.”


      Liệu tôi tưởng tượng, hoặc đúng thực là ông mỉm cười? Đôi môi ông xoắn lại tí: “Thế nếu tôi giúp bà, bà nghĩ Ông Mackinley thả tôi ra hay ?”


      Tôi thể ông mỉa mai hay , “Ông Parker ạ, việc này tùy thuộc vào những tình huống mà tôi biết gì hết, chẳng hạn như ông có phạm tội hay .”


      “Tôi phạm tội. Bà có phạm tội ?”


      “Tôi...” Tôi biết gì cho thông suốt. “Tôi tìm thấy ấy. Tôi trông thấy những gì gây ra cho ấy.”


      Bây giờ, ông có vẻ thực ngạc nhiên. Tôi có cảm tưởng xác đáng rằng ông muốn biết tôi trông thấy những gì. Và, tôi nghĩ nhanh trong đầu, nếu ông muốn biết, có lý do cho rằng ông phải là hung thủ.


      “Bà tìm thấy ấy hả? Họ cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào.”


      Nếu ông dối, quả thực ông đóng kịch rất tài tình, ông nghiêng người về phía trước. Tôi cố gắng nghiêng người tránh ra xa, nhưng khuôn mặt của ông trông kinh khiếp. Tôi có thể cảm nhận cơn giận dữ toát ra từ ông.


      “Kể cho tôi bà trông thấy những gì. Rồi tôi có thể giúp bà.”


      “Tôi làm thế được. Tôi thể mặc cả với ông.”


      “Vậy tại sao tôi phải giúp bà?”


      “Tại sao ông chịu giúp?”


      Thình lình ông đứng dậy, bước nhanh đến bức tường của kho chứa hàng - chỉ vài bước, nhưng tôi nao núng trước khi trấn tĩnh lại được, ông thở dài. Có lẽ ông quá quen với việc người ta sợ ông. Tôi thắc mắc Adam ở đâu với cà phê - có vẻ như ta hàng tiếng đồng hồ.


      “Tôi là đứa con hai dòng máu, bị kết tội giết người da trắng. Bà có nghĩ họ quan tâm đến tình tiết tôi là bạn ấy ? Bà có nghĩ họ tin vào những lời tôi ?”


      Parker đứng trong vùng tối của kho chứa hàng, và tôi thể nhìn nét mặt ông. Rồi ông quay lại tấm nâng hàng: “Tôi mệt mỏi rồi. Tôi cố nhớ lại. Ngày mai bà hãy hỏi tôi.”


      Ông nằm xuống chiếc giường, kéo tấm chăn lên người, quay lưng về phía tôi.


      “Ông Parker ạ, tôi xin ông suy nghĩ về chuyện này.” Tôi chắc mình biện luận có kết quả. “Ông Parker...?”




      Khi Adam quay lại, tôi đứng chờ bên trong cánh cửa. nhìn tôi với vẻ kinh ngạc, bình cà phê bốc hơi như là núi lửa bé tí trong khí ẩm ướt.


      Tôi bảo : “Ông Parker và tôi trao đổi tạm xong. Nhưng cứ để cà phê lại đây.”


      Adam có vẻ vui nhưng vẫn làm theo lời tôi, thận trọng đặt cái bình và chiếc cốc khoảng cách xa khỏi ông.


      Và có vẻ như mọi việc là thế.


      ***

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đôi lúc Andrew Knox ước gì mình phải là người lớn tuổi danh giá trong cộng đồng. Khi nghỉ hành nghề luật sư, ông thoát khỏi mấy kẻ luôn nài nỉ ông lập lại trật tự cho cuộc sống rối rắm, lôi thôi của họ. Mấy kẻ dối trá và lừa đảo nhưng vẫn nghĩ rằng thế gian toa rập chống lại họ, rằng dù họ gây bất công cho người khác, những phiền lụy của họ phải là do chính họ gây ra. Và như thể chưa đủ trong khi cả thị trấn xôn xao vì khả năng kẻ sát nhân lẩn khuất gần đâu đó, đến phiên John Scott tìm đến phòng đọc sách của Knox, sách lấy lại kho chứa hàng, hoặc đòi phải được đền bù thỏa đáng vì dành tòa nhà để sử dụng cho lợi ích của thị trấn - theo cách ông - nếu ông đưa vấn đề lên chính phủ. Knox chúc cho ông được may mắn. Và Mackinley vội vã ra về - Knox nghi ông này muốn tự mình thu được lời thú tội hầu có thể mang phạm nhân diễu hành như là chiến lợi phẩm. Knox bị kẹt giữa mấy kẻ đầy tham vọng và còn muốn dính dáng đến họ.


      Và rồi còn có vụ việc liên quan đến Sturrock, mà ông thể làm ngơ.


      Mary gõ cửa, rằng Bà Ross muốn gặp ông - lần nữa. Người phụ nữ này muốn để cho ông yên. Ông gật đầu và thầm thở dài - ông có cảm tưởng nặng trĩu là nếu bị từ chối, bà ta đứng chờ mãi bên ngoài hành lang hoặc thậm chí ở ngoài đường.


      Bà bắt đầu trước khi kịp đóng lại cánh cửa: “Ông Knox...”


      “Bà Ross, tôi tin cuộc trao đổi của bà có ích chứ?”


      “Ông ấy chịu trao đổi. Nhưng ông ấy biết chuyện nào đấy. Ngày mai tôi phải trở lại.”


      “Tôi thể cho phép bà làm như thế, bà thấy...”


      “Ông ấy làm chuyện đó.”


      Giọng bà nghe chắc nịch đến nỗi ông trân trối nhìn bà, há hốc miệng, rồi mới nhớ ra mà ngậm miệng lại.


      “Điều gì khiến cho bà tin chắc như vậy? Trực giác của phụ nữ hay sao?”


      Bà mỉm cười với vẻ mỉa mai - thái độ khó chịu nơi phụ nữ: “Ông ấy muốn biết Jammet chết như thế nào. Ông ấy biết. Và tôi tin chắc ông ấy biết điều gì đấy về Francis. Nhưng ông ấy tin tưởng Ông Mackinley công tâm đối với người... có hai dòng máu.”


      Knox nghi là Parker cũng tin mình, nhưng vì phép lịch mà bà ra.


      “Có lẽ bà cũng biết ông ấy làm gì ở ngôi nhà gỗ của Jammet chứ?”


      “Tôi hỏi ông ấy.”


      Knox nhíu mày. Toàn bộ vụ việc vượt khỏi tầm kiểm soát. Ông quên rằng chỉ mới phút chốc trước ông muốn thoát ra khỏi các trách nhiệm, nhưng bây giờ vợ của nông dân muốn tháo bỏ trách nhiệm cho ông vô lý hết sức.


      “Tôi lấy làm tiếc, việc này là được. Chúng tôi dự định chuyển người bị giam giữ nơi khác càng sớm càng tốt. Chúng tôi thể để bất kỳ ai đến chuyện với tùy thích.”


      “Ông Knox...” Bà bước bước đến gần ông, gần như là (nếu bà là đàn ông) dọa nạt ông: “Con trai tôi ở trong rừng mà nhân viên Công ty có thể truy tìm được. Nó có thể lạc đường. Nó có thể bị thương. Nó là con tôi và nếu ông ngăn chặn tôi tìm ra theo bất kỳ cách thức nào có thể được, có lẽ ông chịu trách nhiệm đối với cái chết của nó.”


      Knox phải cố gắng để phải bước lùi lại. Có vẻ gì đó nơi bà - hoặc có lẽ cảm nhận về yếu kém của mình mà người phụ nữ cao lớn này khơi gợi. Khi nhìn thấy đôi mắt sắt đá của bà - đôi mắt của màu xám kỳ lạ và tính cứng cỏi - ông nhận ra bà có ý chí mãnh liệt.


      “Tôi vẫn nghĩ rằng ông, hơn cả mọi người khác, hiểu tình cảnh ra sao nếu mất đứa con. Liệu ông từ chối giúp đỡ tôi dù cho có thể giúp đỡ hay sao?”


      Knox thở dài, cảm thấy tức giận vì bà sử dụng thảm kịch nhà Seton để gây sức ép cho mình, nhưng ông cũng nhận ra rằng vì thế mà mình nhượng bộ. Chỉ cần con trai lạc hậu quả rắc rối đến nỗi ông dám nghĩ tới. Và có lẽ Mackinley cần phải biết. Nếu ông cẩn trọng ai cần phải tìm hiểu.


      Ông bảo bà quay lại sáng sớm hôm sau, rất sớm, khẩn cầu bà phải giữ kín, rồi thở dài khi bà ra về. Ông nghĩ người mẹ hành động như thế để bảo vệ đứa con là lẽ tự nhiên; chỉ có điều nếu bà khóc lóc hoặc mềm mỏng hơn là tự nhiên hơn nữa (và ông lấy đó mà cảm thông hơn).




      “Ông Knox!” Mackinley xông vào phòng đọc sách của ông mà gõ cửa. ràng là càng ngày càng ai chịu nổi cái ông này: cứ thong dong vào nhà người ta như là nhà mình. “Tôi nghĩ thêm ngày là được, ông thấy sao?”


      Knox nhìn Mackinley cách mệt mỏi: “Được cái gì hở Ông Mackinley?”


      “Được lời thú tội. ích gì mà vội vã.”


      “Nếu ta thú tội sao?”


      “Úi chao, tôi nghĩ thành vấn đề.” Mackinley nở nụ cười xảo quyệt: “Cứ tước tự do với bọn này chẳng bao lâu họ quỵ lụy. Họ chịu nổi việc cầm giữ, giống như thú vật.”


      Knox nhìn Mackinley với vẻ căm ghét.


      Mackinley nhận ra cử chỉ ấy: “Tôi nghĩ trước bữa ăn tối, tôi buổi làm việc nữa.”


      “Tôi có công việc giấy tờ khẩn. Việc kia gác lại được ?”


      “Ông Knox ạ, tôi thấy cần làm phiền đến ông. Tôi sẵn sàng thẩm vấn mình.”


      “Tôi nghĩ hai người chúng ta cùng diện ... tốt hơn.”


      “Tôi nghĩ mình có nguy hiểm gì cả.” Ông kéo vạt áo vét để cho thấy khẩu súng lục giắt ở thắt lưng.


      Knox cảm thấy ngập tràn tức giận: “Ông Mackinley à, tôi đến an toàn của ông. ra, đó là cần thiết phải có hơn nhân chứng đối với bất kỳ lời khai nào.”


      “Thế tôi dẫn Adam theo, nếu ông lo điều đó. Xin vui lòng trao cho tôi chìa khóa.”


      Knox đành nén giận mà mở ngăn kéo chứa hai chìa khóa của kho chứa hàng. Ông tự hỏi mình có nên thay đổi ý kiến mà theo Mackinley hay . Ông bắt đầu nghi Mackinley là hung thủ, nhưng dĩ nhiên ông này phải thế, mà là nhân viên được trọng vọng của Công ty.


      Ông trao chìa khóa và gắng gượng mỉm cười: “Adam ở trong bếp.”




      Sau khi Mackinley ra , Knox nghe tiếng trong phòng khách. Hai con của ông cãi vã nhau. Ông định can thiệp như từng làm khi hai đứa còn , nhưng đủ nghị lực. Hơn nữa, bây giờ hai đứa con là hai phụ nữ trưởng thành. Ông lắng nghe những tiếng quen thuộc: giọng của Susannah hòa vào nước mắt, tiếng của Maria theo cung cách thuyết giảng khiến cho ông cau mày, tiếng cánh cửa đóng sầm, rồi bước chân chạy lên thang lầu. Phụ nữ trưởng thành là như thế.


      ***


      Sturrock trò chuyện với Bà Scott, và bà nhìn lên tôi với vẻ lo lắng thường nhật, có lẽ tương tự như trong trường hợp ông chồng đến để trách cứ. Tôi có cảm tưởng như họ trao đổi khá thân mật với nhau: khi tôi bước vào cửa hàng họ kín đáo rời xa nhau như thể cho thấy xong xuôi. Tôi cảm thấy bất bình; tôi nghĩ ông ấy về phe với mình. Dường như Ông Sturrock có thói quen thào trò chuyện với các bà vợ của thiên hạ.


      Ông quay về phía tôi và mỉm cười, mái đầu bạc cúi xuống: “Bà Ross ạ, bà tìm ra nơi chốn ấm áp nhất và tiếp đãi lịch nhất ở Caulfield vào cái ngày lạnh giá này.”


      Tôi gật đầu, hơi cứng nhắc. Vì lý do nào đấy, tôi muốn ông ấy nhận ra mình.


      “Bà Ross, tôi pha cho bà cốc cà phê nhé! Cà phê dùng trong nhà.” Có vẻ như bà có thêm can đảm vì diện của Sturrock để tự chuyên với cà phê của ông chồng.


      “Cảm ơn bà. Thế hay quá.”


      Tôi muốn uống cốc cho dù phải trả cái giá cắt cổ. Tôi thấy lạnh tận xương tủy. Cái lạnh ở kho chứa hàng. Cái lạnh của vụ án mạng. Dù chắc với Knox, tôi vẫn Parker có phải là thủ phạm hay . Ban đầu tôi đinh ninh là phải, nhưng ngay khi Adam khóa lại cánh cửa kho chứa hàng tin tưởng này nhạt phai.


      Để cho qua chuyện, tôi và ra vẻ mình hờn dỗi: “Ông cho tôi biết là ông quen biết với Ông Knox.”


      “Tôi nhớ . Tôi xin lỗi.”


      “Đáng lẽ ông có thể đến gặp ông ấy mà hỏi về các vật dụng của Jammet. Ông cần phải lẩn lút như kẻ trộm.”


      Giống như tôi. Tôi có cảm tưởng như bị phản bội. Tôi thích ông hơn khi ông hành động lẩn lút như tôi.


      “Xưa kia tôi có quen biết Ông Knox. Tôi nghĩ bây giờ ông ấy nhận ra tôi nữa.”


      “Ông ấy có biết ông ở đây ?”


      “Tôi nghĩ ông ấy khó mà biết.”


      “Tôi có ý tọc mạch. Tôi chỉ cảm thấy… có bất lợi.”


      Trong khoảnh khắc, chúng tôi im lặng uống cà phê.


      “Bà Ross ạ, tối hôm đó tôi có ý đánh lừa bà, xin bà tin như vậy. Đôi lúc con người ta cảm thấy thất vọng vì vị thế của mình trong việc. Chúng ta luôn muốn làm người hùng phải ? Hoặc là người hùng của câu chuyện hoặc... là gì cả.”


      “Tôi tin chắc ông làm hết sức mình.”


      Ông thở dài. Tôi có phần tin nơi ông, nhưng nhận ra đấy là vì ông có sức thu hút chứ phải do tôi nổi tiếng có tài phán xét gì cả.


      “Nếu ông tìm được ở đó, thể làm gì khác được.”


      Ông mỉm cười: “Nhưng có người - mà tôi tin chắc bà nghe - rằng tôi tìm kiếm quá lâu, và rằng tôi vẫn còn nuôi hy vọng trong khi đáng lẽ nó phải bị vùi lấp.”


      “Nếu bậc cha mẹ muốn nuôi hy vọng ai làm gì được để ngăn chặn họ.”


      Câu này nghe gay gắt hơn là ý tôi muốn , và Sturrock nhìn tôi với vẻ trắc hùng hồn mà tôi thấy lúc trước. Phần yếm thế trong tôi tự hỏi có bao nhiêu gia đình - khổ sở vì lo lắng - khi nhìn thấy dáng vẻ ấy mà cảm thấy được an ủi.


      Dĩ nhiên là hoàn cảnh của tôi cần đến hành động chứ thể chỉ có lòng trắc . Cái gì đó quay cuồng trong tôi, tên nhưng đáng sợ, bây giờ thình lình kết tinh lại. Và tôi biết rằng mình còn có thể trông cậy nơi ai được nữa, bất kỳ ai. Rốt cuộc rồi họ chỉ làm cho tôi thất vọng.


      ***


      Knox đến gặp Sturrock nơi nhà Scott. Ông tự báo tin cho gia nhân, rồi Scott ra tiếp ông, nhìn ông với vẻ hiếu kỳ, nhưng ông lý do tại sao mình đến đây. Chuyện này liên quan gì tới họ, nên cứ để cho họ buôn chuyện (dù sao họ vẫn buôn chuyện, mặc ông cho phép hay ). Có lẽ họ nghĩ rằng Sturrock là nghi phạm khác trong vụ án mạng.


      Ông được đưa vào gian phòng phía sau ngôi nhà mà gia đình Scott cho các doanh nhân hay lại thuê ngắn hạn. Gia nhân gõ cửa, và khi Sturrock trả lời, Knox bước vào.


      Thomas Sturrock già kể từ lần cuối hai người gặp nhau. Nhưng mười năm qua rồi - và mười năm giữa hai cái tuổi năm mươi và sáu mươi có thể tạo khác biệt giữa thời đỉnh cao và thời lẩm cẩm. Knox băn khoăn tự hỏi mình có già như thế .


      Sturrock vẫn đứng thẳng người và thanh lịch như thuở nào, nhưng trông gầy hơn, khô khan hơn, yếu đuối hơn. Ông đứng dậy khi Knox bước vào, che giấu nỗi ngạc nhiên - hoặc bất kỳ cảm nhận nào - với nụ cười: “Ông Knox. Tôi nghĩ mình nên thấy ngạc nhiên.”


      “Ông Sturrock.” Hai người bắt tay nhau. “Tôi mong ông vẫn khỏe.”


      “Tôi vẫn có việc để bận bịu sau khi về hưu.”


      “Tốt. Tôi nghĩ ông biết tại sao tôi đến đây.”


      Sturrock nhún vai, có phần cường điệu. Dù cho khuy măng sét sờn và quần bị lấm lem, ông vẫn tạo cho người ta có cảm tưởng ông là người thích chưng diện. Đấy là điểm bất lợi cho ông.


      Knox cảm thấy ngượng ngập. Ông quên ảnh hưởng từ diện của Sturrock và gần như tự thuyết phục mình rằng lời đồn đại râm ran quanh Caulfield là đúng .


      “Tôi lấy làm tiếc về… à, ông biết đó. Tôi biết người ta bàn tán ra sao. Chẳng dễ chịu gì cả.”


      Sturrock mỉm cười: “Tôi muốn phản bác lại họ, nên ông cứ yên tâm về chuyện này.”


      Knox gật đầu, tỏ ra nhõm: “Tôi chỉ lo về phần vợ tôi. Đó có thể là nguyên nhân khiến cho vợ tôi và hai con tôi khổ sở... Tôi nghĩ ông hiểu được.”


      “Vâng, đương nhiên.”


      Knox nhận ra là Sturrock đồng tình; mình tin nơi ông ta được, ông ta muốn phục hồi danh dự.


      “Dù sao nữa, chuyện gì khiến cho ông đến Caulfield? Tôi nghe mọi chuyện lạ lùng.”


      Với nụ cười, Sturrock đáp: “Tôi mong mọi chuyện đều đúng.”


      Ngay lúc đó, Knox nghe tiếng cọt kẹt bên ngoài căn phòng. Ông nhàng đứng dậy và đến mở cánh cửa.


      John Scott đứng đó với chiếc khay, cố làm ra vẻ như vừa mới đến. Ông với chân thành thiếu thuyết phục: “Tôi nghĩ hai ông có thể muốn dùng chút rượu.”


      Knox đón nhận chiếc khay với ánh mắt nghiêm khắc: “Cảm ơn. Ông chu đáo quá. Tôi tin là ông cần tôi viết báo cáo hậu thuẫn cho ông đòi tiền đền bù phải ?”


      Scott trở nên mặt sưng mày sỉa và rồi, vì muốn giải tỏa tình thế, tỏ thái độ cùng mưu đồ bí . Hất hàm về phía Sturrock, ông thầm: “Ông ấy là người lý thú.”


      Da mặt Scott đỏ hồng và bóng nhẫy cách bất an dưới ngọn đèn. Bỗng dưng Knox liên tưởng đến con heo trang trại của cha mẹ ông thường ụt ịt cách điệu hạnh để tìm xin vài mẩu thức ăn, cái mõm hay chọc qua hàng rào ở cuối khu vườn, ông ngạc nhiên vì các hình ảnh tương đồng đến nỗi ông chỉ gật đầu rồi đưa chân đóng lại cánh cửa.


      Ông đặt chiếc khay lên mặt bàn. “Ông Scott chỉ là người bán hàng tạp hóa, chủ nhà máy xay và doanh nhân, mà cũng là tờ công báo của địa phương.” Ông rót ly whisky cho Sturrock. “Trong khi ông ở đây, tôi giúp gì được ? Ngoại trừ cho ông phòng trong nhà tôi, vì việc này ... hợp cách.”


      “Ông có lòng tử tế mà hỏi đến.” Có vẻ như Sturrock suy nghĩ về vụ việc, trong khi cần thiết phải suy nghĩ. Ông kể cho Knox nghe lý do mình đến đây, và Knox hứa làm hết sức mình tuy trong thâm tâm cảm thấy kỳ quặc về lời cầu.


      Mất thêm nửa giờ và mất vài đô la, Knox ra khỏi ngôi nhà, rồi thấy bước chân mình hướng đến kho chứa hàng, tòa nhà lớn vươn cao, có cửa sổ, tách biệt khỏi những ngôi nhà sáng đèn.


      Ông dừng lại bên ngoài - hầu như còn ánh sáng - lắng nghe tiếng động bên trong, ông nghe được gì cả, rồi rút ra chiếc chìa khóa, tin rằng Mackinley ra về.


      Ngay cả trước khi đôi mắt ông làm quen được với khung cảnh tối tăm bên trong, ông nhận ra có cái gì đó thay đổi. Người tù quay lại để đối diện với ông.


      “Ông Parker? Tôi là Ông Knox.”


      Bây giờ, người đàn ông mới cử động và để lộ khuôn mặt. Trong khoảnh khắc, trí não của Knox hiểu được đôi mắt ông ghi nhận những gì - khuôn mặt xuất , như lúc trước, giống như bản khắc của khuôn mặt, chỉ có điều là bản khắc chưa hoàn chỉnh, hoặc bị hủy hoại bởi con dao cùn. Knox rùng mình khi nhận ra đôi lông mày rậm, lưỡng quyền cao, và máu thắm đậm làn da.


      “Trời ơi, chuyện gì xảy ra?” ông kêu lên, trước khi bộ não bắt kịp lời khiến cho ông ngừng bặt.


      Giọng của người đàn ông nghe khàn khàn nhưng có xúc cảm: “Đến lượt ông hả?”


      “Ông ấy làm gì?” Đáng lẽ ông phải nhất quyết cùng Mackinley. Đáng lẽ ông phải lắng nghe nỗi nghi kỵ của mình. Chết tiệt cái tên đó! hủy hoại tất cả.


      “Ông ta nghĩ có thể thúc ép tôi khai. Nhưng tôi thể khai việc mà mình làm.”


      Knox bước tới bước lui trong cơn kích động. Ông nhớ lại lời trấn an của Bà Ross rằng Parker vô tội, và có phần đồng ý với bà. Ông cảm thấy bấn loạn như là nghệ sĩ xiếc tung hứng thình lình thấy có quá nhiều quả bóng trong trung, và nghĩ rằng những thảm kịch sắp diễn ra, theo đó là nỗi nhục nhã.


      “Tôi ... tìm cho cái gì đó cho việc này.”


      có cái gì bị vỡ.”


      “Tôi... tôi xin lỗi. Việc này chưa từng xảy ra trước đây.”


      “Tôi muốn cho ông biết chuyện mà tôi cho ai khác.”


      Knox nhìn người đàn ông chăm chăm trong niềm hy vọng mông lung.


      “Laurent có kẻ thù. Và những kẻ thù tệ hại nhất là nhân viên của Công ty. Nếu còn sống ấy là mối đe dọa cho họ. Chết rồi ấy còn là mối đe dọa nữa.”


      “Đe dọa như thế nào?”


      ấy là người thành lập Công ty Bắc Mỹ. Nhưng hơn thế nữa, ấy là đồng nghiệp trước đây của họ, giống như tôi. Công ty ưa người quay lại chống lại họ.”


      “Những ai ở Công ty?”


      im lặng kéo dài.


      “Tôi biết.”


      Knox cảm nhận dòng mồ hôi chảy dài xuống ngực, bất chấp khí lạnh trong kho chứa hàng. Điều gì đó ra trong tâm trí ông, điều gì đó ngu xuẩn và khinh suất và khăng khăng, điều gì đó giống như bất kỳ việc nào ông làm trước đây - và ông biết mình phải làm gì.




      Trong suốt bữa ăn tối ấy, ông thấy Mackinley ba hoa do ảnh hưởng của rượu vang và quan tâm của phụ nữ. Mackinley cất tiếng oang oang cùng với màu đỏ gương mặt, dẫn giải đức tính của những nhân viên quan trọng trong Công ty mà ông từng biết. Ông thảo luận về việc quản trị viên Công ty nổi danh nhờ dập tắt cuộc cãi vã giữa hai bộ tộc người Da Đỏ khiến hai bên bị thiệt, và rồi nhân viên tiền tiêu được ngưỡng mộ cách đặc biệt, người màng bộ hàng trăm dặm giữa mùa đông. Hiển nhiên là ngay cả người bản địa hành nghề hướng đạo cũng ngưỡng mộ tài năng của này trong việc định hướng và sinh tồn trong hoang dã, vì thế chứng tỏ người bản địa chẳng có kỹ năng thiên bẩm gì khá hơn người da trắng (đặc biệt là người da trắng gốc Scotland).


      Knox nhìn Mackinley ba hoa, góp chuyện nhưng cố che giấu nỗi kinh tởm. Sau đó, vợ ông hỏi ông ổn , ông mỉm cười mình chỉ mệt mỏi, nhưng có gì đáng lo.


      Từ lúc này, người ta buôn chuyện về ông; các lời đồn đại lan xa, kể rằng ông thiếu năng lực, đạt tiêu chuẩn. May mắn là ông về hưu. Nếu thanh danh của ông là cái giá phải trả cho công lý, ông chẳng màng.


      Trước đây ông ngậm miệng đối với . Ông có thể ngậm miệng lần nữa.







      Những cánh đồng của thiên đường






      thất bại. vài ngày qua, nằm thin thít trong căn phòng này, người yếu ớt hầu như cử động nổi. Chân trái đau nhức từng chập, khiến cho phải thức dậy trong đêm. Từ chiếc giường hẹp, xem xét các bức tường quét vôi trắng, các chiếc ghế gỗ, cửa sổ có rèm chỉ cho thấy bầu trời. Khi nhổm dậy dựa hai cùi tay, có thể thấy chóp tháp của ngôi nhà thờ, được sơn màu đỏ mờ đục. Trong phần lớn thời gian, bầu trời có màu xám, hoặc trắng. Hoặc đen.


      bớt run rẩy. Bây giờ biết mình hẳn lên cơn sốt sau khi rơi xuống bãi lầy. băng qua dòng nước lặng lờ có than bùn - dòng nước tĩnh lặng đến mức có những cầu vồng trông như váng dầu bề mặt - thế rồi khi đến bờ bên kia trượt chân và đâm bổ xuống vũng lầy. thấy kinh khiếp bởi tốc độ mình chìm xuống, vội nắm lấy dúm lau sậy, soài thân người rộng ra trong bùn để bị chìm tiếp. có thể thấy mình bị hút xuống dưới, bùn tràn vào miệng và mũi, làm nghẹt cổ họng. hét to lên, như là câu phát biểu về tình huống hơn là tiếng kêu cầu cứu - cần làm thế, vì thể ràng cách đau đớn. Có vẻ như phải mất nhiều tiếng đồng hồ mới nhấc người lên được, rồi bò lên bờ qua khoảnh cây việt quất[24]. Việt quất cho quả có vị ngon, an toàn; bộ rễ cắm sâu vào đất đá. nằm mệt lả. Chân trái bị thương như thế nào đó và cơn đau ở đầu gối khiến cho nôn ọe khan. ăn đúng mức trong ba ngày - hoặc lâu hơn thế nữa? nhớ ra. Nhưng nhớ lại lúc người ta tìm được , hoặc lúc họ mang đến đây. tỉnh lại trong căn phòng quét vôi trắng và tự hỏi có phải cái chết trông như thế hay : căn phòng màu trắng trống trơn, nơi các thiên thần bay lượn qua lại, chuyện qua đầu lưỡi.


      Rồi cơn sốt hạ, và nhận ra căn phòng phải là trống trơn, và các thiên thần đứng trông bình thường, dù hiểu họ gì.


      Có hai phụ nữ chăm sóc cho , bón cho ăn súp và làm những việc khiến cho ngượng ngùng khi nhớ lại. Nhưng họ hẳn ngang bằng tuổi mẹ , và đối xử với như là con cái của họ. Họ làm việc nhanh nhẹn, nghiêm túc, trải vải giường, xoa đầu . Hôm qua - nghĩ đó là hôm qua - người đàn ông bước vào, trao đổi với trong các phụ nữ, rồi đến nhìn . Ông ngang tuổi cha ; có hàm râu rậm hợp thời trang gì cả, và có cặp mắt lồi.


      Ông hỏi trong ngữ kỳ lạ: “Êtes-vous Français?”[25]


      Francis cảm thấy đánh động là người đàn ông biết tên [26], nhưng sau đó mới biết đó là tiếng Pháp. tự hỏi mình phải gì. Có nhiều điều biết.


      Rồi người đàn ông quay lại người phụ nữ và với thanh phát ra từ cổ họng: “Enk-lish?”[27]


      Francis nhìn chăm chăm người đàn ông và quyết định mình năng gì cả. Có lẽ tốt nhất là như thế.


      Người đàn ông và người phụ nữ nhìn nhau. Người đàn ông nhún vai, và lúc ông khoanh hai tay lại, bắt đầu lên tiếng. Sau phút, Francis nhận ra rằng ông cầu nguyện. Người phụ nữ cũng cầu nguyện, nhưng bằng cách lắng nghe người đàn ông. Trang phục của họ giản dị - loại vải thô với màu đen, trắng và xám, giống như bầu trời của họ.




      Mới gần đây - trong khoảng tiếng đồng hồ vừa qua - bắt đầu nhớ lại các việc: nhớ mình lê bước qua từng dặm rồi từng dặm dọc theo bờ sông khi con sông cắt ngang qua vùng rừng cây, xa hơn là từng trong đời, theo dấu vết của người đàn ông ấy. Từ cái đêm ở ngôi nhà gỗ gặp lại ông ta, và tận dụng mọi kỹ năng để theo các dấu vết. Vùng đất đãi ngộ . Mỗi khi nghĩ mình bị lạc lối - sau khi nhiều tiếng đồng hồ, xem xét và tìm kiếm nhưng thấy dấu vết gì mặt đất, ngay khi nghĩ mình qua ngã rẽ của ông - lại bắt gặp dấu vết khác: vết giày da đanh lá cây, hoặc vũng nước tiểu làm tan sương giá. thấy nhiều loại dấu vết của ông ta và vệt đống lửa mà ông vội quét qua. biết ông ăn khi nào. chưa từng thấy ai di chuyển nhanh đến thế.


      Francis chỉ dám đốt lửa lần, và sau đó mất ngủ, e sợ người đàn ông biết mình bị theo dõi và tìm ra . Nhưng có chuyện gì xảy ra. cẩn thận theo sát quá, luôn nhìn về phía trước để nhận ra cái bẫy. Cuối cùng, tính cẩn thận làm hại . Vào ngày thứ tư, lạc mất khỏi dấu vết. Nó rời xa vùng rừng để hướng lên vùng cao hơn rồi rẽ về hướng tây-nam đến khu trơ trụi, có cây to - chỉ là vùng cao nguyên bụi rậm, lầy lội, nơi mà bùn nhão khiến phải chậm lại và thêm cơn gió từ hướng bắc thổi sắc như dao qua chiếc áo da sói. chầm chậm; lớn lên quen với việc trú dưới tán lá cây, bây giờ lo lắng bị phát giữa khoảng trống trải.


      Sau vài tiếng đồng hồ như thế, gần rơi xuống dòng sông khác, hơn, chảy qua bãi lầy. Nước đục mù mờ; thấy dấu hiệu chỉ ra chỗ nào băng qua được. Rồi loạng choạng, thoát ra được. Đấy là nơi mà lần đầu tiên sợ hãi. Dĩ nhiên là từ đầu đến giờ vẫn sợ hãi, nhưng bây giờ mới thấy vùng đất hoàn toàn thắt chặt lấy , sắp để mặc cho chết, mà người ta bao giờ tìm ra . Bộ xương của nằm phơi dưới bầu trời, bị tẩy trắng và xối rửa như các bộ xương nai nằm rải rác chung quanh. vẫy vùng, ngập đến thắt lưng, cho đến khi trời tối. cũng cất tiếng kêu, cầu may người đàn ông ở gần đó - ít nhất cái chết dưới tay ông ta đến nhanh. Ít nhất cái chết là do con người. Nhưng bằng cách nào đó, bằng cách nào đó, nhấc mình lên được. Đến lúc này hoàn toàn kiệt sức.


      Cuối cùng vẫn thế: bất tỉnh bên bờ sông ấy, kiệt sức và lạnh cóng. thất bại.




      nghĩ bây giờ là buổi chiều: dùng ít súp tiếng đồng hồ trước, và rồi phải ngượng nghịu với trong hai phụ nữ, người có mái tóc đen, khi sử dụng cái bô giường. dám nhìn bà, và bà cười lên như thể thấy thực buồn cười, và bà có vẻ gì là ngượng ngùng.


      thấy quần áo mình ở đâu cả, nhưng biết có nên hỏi ai , và nếu nên hỏi biết hỏi bằng cách nào. có thể hỏi người đàn ông nếu ông này quay lại. Nhưng nghĩ mình hỏi, bằng tiếng Pháp hoặc tiếng cũng thế. Viễn cảnh năng gì quả là dễ sợ. Nếu năng, có lẽ ai hỏi han gì cả. lấy làm tiếc mình thất bại, nhưng chỉ tiếc ít thôi - làm những gì có thể làm được. Lý do để rời khỏi nơi đây càng mờ mịt, từ thế giới xa lạ. thế giới đau đớn, phải là thế giới mà muốn trở về. Điều quan tâm nhất là phiến xương ở đâu.


      Khi trong hai phụ nữ quay lại - người có mái tóc khô vàng hoe và tiếng cười vang vang - cố diễn đạt bằng ít điệu bộ. Bà khiến cho liên tưởng đến mẹ của Ida - có cùng tính cách thực tiễn trần tục. Trong khi bà tất bật quanh , tấn chăn giường, sờ trán , bắt lấy ánh mắt của bà, rồi đưa hai bàn tay lên cánh tay đối diện, ra dáng điệu khoác vào chiếc áo, rồi giơ bàn tay ra hiệu hỏi. Bà hiểu, níu lấy chiếc váy của mình để trả lời, và líu lo tràng. mỉm cười, mong muốn có người bên mình. Rồi ra dấu viết lòng bàn tay, và vẽ hình thù tấm thẻ trong khí. Bà nhíu mày, rồi có vẻ như hiểu ra. Bà nhìn với vẻ tán thành, nhưng bước ra khỏi căn phòng.


      buổi tối, nhiều tháng trước, Laurent lấy ra mảnh xương từ nơi cất giấu (lúc ấy say) và cho Francis xem, rồi hai người cùng nhau nghiên cứu những hoa văn hình gậy vẽ con người và những dấu hiệu có góc cạnh, trông tương tự như chữ viết. Laurent nghĩ Francis có thể biết đấy là gì Francis cố nhớ lại về những gì học ở trường: kiểu chữ tượng hình Ai Cập, chữ Hy Lạp cổ đại, hình vẽ trong các quyển sách của mẹ , nhưng thể nhớ cái gì tương ứng với những dấu hiệu ấy. Cách duy nhất để có thể xác định chiều đứng là từ những người hình gậy xếp hàng dọc theo rìa. Laurent bảo rằng nhận được mảnh xương từ nhà buôn ở Mỹ, rằng gặp quý ông ở Toronto ngỏ ý muốn mua với khoản tiền lớn. Hai người cùng cười cợt về tính điên rồ của người có tiền. Rồi, sau đó, Laurent bảo Francis có thể nhận lấy mảnh xương. Francis từ chối, vì lo âu đối với món gì đó mà mình hiểu được. Ai biết được - có lẽ đó là lời nguyền? Nhưng Laurent trao cho , thế nên khi nhận như vậy thực phải là ăn cắp. Còn mấy chuyện kia, phải chấp nhận để được sống sót. cũng mang theo súng, nếu trông thấy nó. Phần kia trong - phần mà chịu đựng trong những năm dài ở trường làng - hỏi nếu có súng làm gì? Thậm chí còn nhẫn tâm bắn con thỏ.


      Khi mở mắt lại, người đàn ông có bộ râu ngồi kế giường . Ông đặt quyển sách xuống - ông chờ cho đến khi tỉnh dậy. Francis nhìn tựa sách, nhưng ngữ văn trông như mớ phụ lộn xộn. Người đàn ông mỉm cười với . Răng ông cáu màu, càng thêm tương phản với màu đỏ của đôi môi. Francis chăm chăm nhìn lại ông, nhưng vẻ gì đó khuôn mặt ông dịu , bởi vì mặt ông sáng lên do vui mừng và ông vỗ vai . Ông lại hỏi là người Pháp hay người . chợt có ý nghĩ là những người tìm ra có lẽ trông thấy người mà theo dõi. Ai biết được, có lẽ người ấy đến đây? có thể bỏ qua ý tưởng về đối thoại, nhưng như thế phải bỏ qua luôn hy vọng của mình. ngạc nhiên mà nhận ra mình sẵn sàng để bỏ qua.


      liếm đôi môi khô khốc và cáu bẩn. giọng khàn khàn: “Người .”


      Người đàn ông vui mừng: “Người ! Tốt. biết tên là gì ?”


      Francis lưỡng lự giây đồng hồ, rồi ra mà nghĩ ngợi: “Laurent.”


      “Laurent? À, Laurent. Vâng. Tốt. Tôi là Per.” Ông quay mặt gọi lớn: “Britta! Đến đây.”


      Người phụ nữ có nước da trắng trẻo xuất từ đâu đó gần đấy, mỉm cười với . Per trao đổi với bà trong ngôn ngữ của họ.


      : “Laurent, chào mừng .”


      “Bà ấy được tiếng nhiều. Tiếng của tôi giỏi hơn. biết mình ở đâu ?”


      Francis lắc đầu.


      ở tại Himmelvanger. Tên có nghĩa Cánh đồng của Thiên đường. Tên nghe hay, phải ?”


      Francis gật đầu. Trước đây chưa hề nghe qua tên này. Giọng của vẫn nghe lạ lùng và yếu ớt: “Sông nào...?”


      “Sông? À, chúng tôi tìm thấy ... vâng. À, con sông có tên. Jens săn... và thấy ở đó. Quả là đáng ngạc nhiên.” Theo cách người đàn ông ra dấu, kia tìm thỏ rừng nhưng thay vào đó tìm ra trai trẻ bẩn thỉu lê lếch.


      Francis cố nở nụ cười vui, đôi môi vẫn cảm thấy khó khăn: “Tôi có thể chuyện với Jens được ?”


      Per lộ vẻ ngạc nhiên: “Chắc chắn là được. Nhưng bây giờ... đau yếu. Hãy ngủ và ăn uống. chóng khỏi. Britta và Line chăm sóc tốt, phải ?”


      Francis gật đầu. mỉm cười với Britta, lúc ấy cười khúc khích.


      Per nghiêng người xuống và nhặt lên quần áo của Francis: “Sạch hết, phải ? Và cái này...” Ông đưa ra chiếc túi của Laurent, và Francis cầm lấy.


      “Cám ơn ông nhiều. Và cám ơn... Jens tìm thấy tôi. Tôi hy vọng gặp ông ấy sớm.”


      Hai người kia mỉm cười và gật đầu.


      Britta với Per, và ông này kéo lùi chiếc ghế của mình khi đứng lên với tiếng lẩm bẩm thỏa mãn: “Bây giờ ngủ , Britta bảo tôi. Nhé?”


      Francis gật đầu.


      nghĩ về cha mẹ mình ở trang trại. đoán họ lo lắng cho mình, tuy rằng họ có lo lắng nhiều đến mức tìm hay lại là chuyện khác. Bây giờ người ta hẳn tìm ra Laurent. Họ nghĩ gì? Liệu họ có nghĩ làm chuyện đó ?


      Ý nghĩ khiến gần như mỉm cười.


      ***

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Line ở bên ngoài cùng với Torbin và Anna khi Britta ra cho biết trai trẻ được. Line nghĩ người có tên Laurent là điều kỳ lạ. Trước đây có biết người Pháp tên Laurent, khi Janni còn sống. Tiếng của khá hơn mọi người, còn khá hơn Per, nên thầm lấy làm vui. có ý nghĩ che chở cho từ khi Jens mang đến, thân người vắt ngang lưng lừa, và bây giờ nghĩ đó là đúng lý - có thể là cầu nối giữa và những người khác.

      Torbin và Anna chạy đến giữa đàn gà kêu oang oác.

      Mặt đỏ hồng vì lạnh, Torbin hỏi: “Chúng con gặp chú ấy bây giờ được ?”

      “Chưa, chưa được. Chú ấy còn rất yếu. Ta làm cho chú ấy kiệt sức.”

      đâu. Chúng con như là chuột nhắt bé . Chuột nhắt bé tí.” Anna giả làm tiếng chuột kêu chút chít.

      Line : “ lâu đâu. Khi chú ấy có thể đứng dậy và đứng.”

      Anna ngay: “Giống như Lazarus[28].” bé muốn đặt người lạ vào khung cảnh thế giới có hình dạng Himmelvanger của .

      giống như Lazarus. Chú ấy chết.”

      “Gần như thế! Đúng ?” Torbin hy vọng có thêm chất bi kịch.

      “Đúng, gần như thế. Chú ấy bất tỉnh.”

      “Ừ, giống như thế này. Ma-man, xem này!” Torbin ngã xuống nền tuyết và giả bộ bất tỉnh, mà theo cách diễn dịch của nó, cái lưỡi thè ra bên miệng. Trông giống như nụ cười. Lúc nào Torbin cũng có thể làm cho cười. Nó là đứa trẻ kìm nén được, lay chuyển, như quả bóng cao su đặc. Nó gợi cho liên tưởng nhiều đến Janni, trong khi Anna giống như Janni đầu thai lại kiếp sau - gò má cao, tóc nâu, đôi mắt xanh lam sâu thẳm. nụ cười vô cùng ngọt ngào, chỉ nở ra đôi lần mỗi năm, nhưng gây hiệu ứng mãnh liệt vì hiếm hoi.

      Hai đứa trẻ trèo lên máng gà và băng ngang khoảnh sân. Line có nhiệm vụ cho gà ăn, rồi giúp Britta may chăn bông. Britta có nhiều thời gian cho riêng mình, nhưng vẫn đến đây làm việc này. thích đến chơi ở nhà trú cho đàn gà, được xây chắc chắn chống lại những ngọn gió đông với lớp mái dốc để chống tuyết. Tất cả nhà cửa ở Himmelvanger đều có cấu trúc chắc chắn và dễ chịu. Mọi thứ đều phải được xây cẩn thận, bởi vì xây cho Thượng đế: lắp ghép qua mộng đuôi én[29], tường hai lớp, mái dốc được lợp ngăn nắp với ngói gỗ tuyết tùng mỗi tấm mái gần giống hình quả tim. Tháp nhọn ngôi nhà nguyện , với cây thập tự được sơn phết. Trong mười năm, nó chống đỡ gió và thời tiết trong mùa đông Canada. Thượng đế che chở cho họ.

      Dân cư ở đây đón nhận với lòng tử tế và chiếu cố, thậm chí còn có nhiều lời khuyên bảo. Line à, nên cầu nguyện thêm, nên đặt niềm tin nơi Thượng đế, nên hòa công việc với đức tin và như thế đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên ngưng than khóc vì Janni, bởi vì bây giờ ấy về với Thượng đế, nên ấy được hạnh phúc. cố gắng thực những việc này, bởi vì cuộc đời hàm ơn họ. Khi Janni biến mất - vẫn cảm thấy khó khăn khi “chết”, dù là cho riêng mình - có hai đứa con có tiền. bị đuổi ra khỏi nơi cư ngụ và biết đâu. suy tính trở về Na Uy nhưng có tiền mua vé tàu. suy tính cùng hai con gieo mình xuống sông St. Lawrence[30]. Và rồi người bạn kể cho nghe về Himmelvanger. Viễn cảnh sống trong cộng đồng tôn giáo mẫu mực vừa xa xôi vừa khôi hài. Nhưng họ là người Na Uy, và họ cần người làm lao động chăm chỉ. Quan trọng hơn, họ đòi hỏi tiền nong.

      Điều trái khoáy là theo cùng hướng mà Janni theo trong chuyến cuối cùng của . Hoặc là, nếu phải chuyến cuối cùng của , là lần cuối trông thấy . tìm việc làm và gặp người Na Uy lúc ấy sắp làm việc cho Công ty Vịnh Hudson. Công việc theo mùa hứa hẹn lương cao, nhưng ở xa, mãi tận miền tây-nam, Đất Rupert. phải xa Line và hai đứa con trong hơn năm, nhưng họ có tiền để mua ngôi nhà. Đấy là cách tắt cho cuộc sống mà họ mong muốn: ngôi nhà và mảnh đất cho riêng mình. Line phải làm công việc giặt giũ và mạng vá quần áo bẩn thỉu của người khác; phải cắn răng mà làm lụng cho kẻ ngu ngốc.

      Sau khi , chỉ nhận được lá thư của . Janni giỏi viết thư, nên trông mong những lá thư tình nồng nàn, nhưng dù thế, lá thư trong sáu tháng vẫn khiến đau buồn. kể trong thư là cuộc sống giống như mình hình dung lúc đầu - và người bạn được chỉ định làm việc chung với nhóm tù phạm người Na Uy mà Công ty đón nhận. Bọn người này thô lỗ và đầy bạo lực, lập nên băng đảng mà các nhân viên khác lánh xa. Janni cảm thấy bất an vì phải nhập bọn với đám người này, nhưng việc phân chia theo quốc tịch quan trọng hơn là theo hoàn cảnh pháp luật. Nhưng cho biết có vài người tốt trong bọn họ, và định trở về gặp lại Line cùng hai con và tìm địa điểm xây nhà. có lời lẽ thương , có tình âu yếm; đấy giống như là lá thư viết cho bà dì. Và sau đó, Line nhận được gì nữa.

      Khi mùa hè đến, thiếu kiên nhẫn chờ đợi, và họ hỏi tin tức của . Toronto nóng bức và ẩm ướt; đàn nhặng hút máu làm cho hai đứa trẻ khổ sở, khu nhà cho thuê rẻ tiền chật chội, nồng nực mùi nước thải. trở nên cáu bẳn, dễ tức giận. Thế rồi, vào tháng Bảy nhận được lá thư ghi gửi cho “Gia đình của Jan Fjelstad”. Phong thư ghi nhầm địa chỉ, bị bóc ra rồi được ghi lại địa chỉ mới với nét chữ của trẻ con. Lời lẽ cứng nhắc trong thư tỏ ý tiếc thông báo là vào tháng Giêng chồng ở trong nhóm người Na Uy nổi loạn và trốn khỏi nơi làm việc, mang theo tài sản có giá trị của Công ty. Họ biến mất trong vùng hoang dã, chắc chắn là bỏ mình trong những cơn bão tuyết quét qua vào tháng ấy. Tuy nhiên (lá thư cẩn thận ghi thêm), nếu do may rủi kỳ lạ mà họ còn sống, họ là những kẻ trốn lánh pháp luật.

      Thoạt đầu, Line tin vào chuyện này. vẫn chờ đợi chồng trở về, nghĩ rằng họ hẳn nhầm với người khác. nhủ lòng mình rằng người dễ nhầm lẫn giữa những cái tên Na Uy. tin Janni trộm cắp món gì. Bản chất của phải thế.

      đến văn phòng của Công ty ở Toronto, đòi gặp ai đó, và trai trẻ người có mái tóc màu cát tiếp trong phòng làm việc của . tỏ vẻ lịch , cất tiếng xin lỗi, nhưng có lý do mà nghi ngờ nội dung của lá thư. vụ nhân công bỏ trốn, và tuy cá nhân biết về những người có liên can, tin rằng lá thư thông báo chính xác. Line lớn tiếng với trai trẻ, và giận dữ. Có vẻ như nhận ra rằng mình về cái chết của người chồng, của mọi nỗi niềm cho cuộc đời người vợ. chạy ra khỏi văn phòng và tiếp tục chờ đợi.

      Nhưng nhiều tuần trôi qua mà vẫn về, rồi cạn tiền. Cuối cùng, dù có tin hay vẫn thế thôi; dù đấy là hay phải chọn quyết định. Thế là, vào buổi sáng tháng Chín, cùng với hai con lên đường trong ba tuần đến nơi có địa danh kỳ quặc là Himmelvanger, quãng đường gần bằng với cuộc hành trình cuối cùng của Janni, để rồi đến cái tên kém kỳ quặc là Nhà máy[31] Nai Sừng tấm.



      Đấy là ba năm về trước, và quen với cuộc sống mới. Trong khoảng thời gian đầu, tin chắc Janni tìm ra mình; trước khi rời Toronto cho mọi người biết mình đâu. ngày nào đó, cưỡi con ngựa khỏe mạnh chạy vào sân vườn, cất tiếng gọi tên , rồi bỏ mặc bất gì việc gì làm mà chạy đến đón . Trong khoảng thời gian đầu, mỗi ngày đều nghĩ như thế. Thế rồi, dần dà, thôi buông thả mình trong chuyện mộng mơ ấy. trở nên biếng nhác và trầm cảm, cho đến lúc Sigi Jordal thôi thúc tâm với mình. Line khóc, đó là lần đầu tiên khóc sau khi đến đây, rồi thú nhận với Sigi rằng đôi lúc muốn tìm đến cái chết. Đó là tội lỗi. Các thành viên của cộng đồng tìm đến, mỗi người thay phiên nhau khuyên nên hối lỗi đối với cái tội lớn nhất là vô hy vọng, nên chấp nhận Thượng đế trong con tim và để Người xóa nỗi thất vọng. nhanh chóng trấn an họ rằng mình (thình lình) chấp nhận Thượng đế, và Người dẫn dắt mình ra khỏi vùng tối tăm của ưu phiền. Bằng cách nào đó, chính thái độ giả vờ giúp an ủi ; đôi lúc tự hỏi liệu mình có tin tưởng dù nửa hay . nhà thờ, ngồi nhìn ánh nắng chiếu vào, dõi theo hạt bụi cho đến khi mắt cay sè. Tâm tư lan man cách dễ chịu. cầu nguyện, hẳn thế, nhưng cũng cảm thấy đơn.

      Trong khoảng thời gian này, Espen Moland bắt đầu tỏ mối quan tâm. có gia đình (cộng đồng chỉ dành cho những gia đình) và các con chơi đùa với Torbin cùng Anna, nhưng mối quan tâm đối với chỉ về tinh thần. Lúc đầu cảm thấy ngán ngẩm, biết rằng việc này hoàn toàn bị lên án. Nhưng trong thâm tâm cảm thấy thích. Espen làm cho thấy mình xinh đẹp trở lại. là phụ nữ đẹp nhất ở Himmelvanger và rằng làm cho mê mẩn. Line lắp bắp trả lời nhưng ngầm công nhận. Espen hẳn là đẹp trai, như Janni; nhưng lanh lợi và có tính hài hước, luôn thắng thế trong các cuộc tranh luận và trao đổi. Quả là dễ chịu đến kỳ lạ khi nghe lời lẽ ngọt ngào từ người bao giờ ngưng đùa cợt, đến mức còn làm ngơ được nữa. Cuối cùng, vài tháng trước, họ bắt đầu dấn thân vào tội lỗi. Đấy là nghĩ thế, dù thấy mình có tội. Chỉ cần cẩn trọng. thể gánh nổi thảm họa khác.



      Bây giờ Line nghe tiếng đến, huýt sáo trong những giai điệu do nghĩ ra. đến nhà nuôi gà? Đúng thế - cánh cửa mở ra.

      “Line! Cả ngày chưa gặp em!”

      “Em có việc phải làm, biết mà.”

      “Dĩ nhiên rồi, nhưng nếu gặp em, buồn lắm.”

      “À, chắc hẳn rồi.”

      đến sửa lại mái ngói bị thủng.”

      mang thắt lưng đồ nghề - là thợ mộc của họ - và Line ngước nhìn qua mái ngói.

      có lỗ thủng.”

      “À, có thể có. Tốt nhất là nên đề phòng. muốn mấy quả trứng của ta bị ướt, phải ?”

      cười khúc khích. Espen luôn làm cho cười, cả những lúc ra chuyện ngu xuẩn nhất. vòng cánh tay ôm ngang eo , ép vào sát người , và có cảm giác thân quen như thân người mình tan chảy khi diện bên .

      “Britta chờ em.”

      “Thế hả? Trong ít phút nhận biết.”

      Khó mà giữ tư cách cho có chừng mực, ngay cả trong cộng đồng tôn giáo khắt khe như ở đây. hôn lên cổ , đôi môi nóng bỏng lướt làn da . Nếu rời xa bây giờ xem như đầu hàng hẳn.

      “Bây giờ phải lúc.” luồn người ra khỏi vòng tay , hơi thở gấp gáp.

      “Trời ơi, hôm nay em trông đẹp quá. có thể…”

      “Dừng lại!”

      thích tia mắt khẩn cầu của . Quả là tuyệt diệu được biết có năng lực làm cho người hạnh phúc đến thế. Nhưng nếu ra khỏi nhà nuôi gà ngay bây giờ, có thể bắt đầu ra những ngôn từ ấy khiến cho máu dồn lên mặt , xóa nhòa mọi lý lẽ phải trái. Những ngôn từ xấu xa, thô tục mà bao giờ ra, nhưng tạo mãnh lực lạ kỳ, gần như là phép mầu, áp đảo hoàn toàn. Janni hề ăn như thế, nhưng chỉ vì giỏi ăn . Đúng là trước đây chưa từng kinh qua cách mình cảm nhận về Espen; có vẻ như thay đổi theo cách mà đôi lúc cảm thấy đáng báo động, như thể ngồi chiếc ca nô mỏng manh như giấy vượt qua con lũ - bồng bềnh, hồ hởi, nhưng chắc mình kiểm soát được.

      cố lách mình ra xa, nhưng trong sâu thẳm khát khao , rồi mỉm cười, giống như trong khoảnh khắc vừa qua, để nghĩ - lạy Trời - rằng quan tâm.

      Bên ngoài nhà nuôi gà xóa nụ cười môi, cố nghĩ đến cái gì khác; cái gì đó khó chịu, như mùi hôi của các con heo, chứ phải Espen và đôi môi ngọt dịu nhưng thô tục. ngồi cùng Britta để làm công việc may vá, và gần đây Britta thường nhìn với cặp mắt sắc lẻm, có ý hạch hỏi. thể nào biết được, nhưng có lẽ để lộ ra dáng vẻ gì đó. cố nghĩ về đứa con trai đau yếu, nhưng hình như tạo hiệu quả. Thay vào đó, tưởng tượng mình nhấc lên tấm chăn và nhìn xuống thân thể trần trụi của . trông thấy làn da màu đồng hấp dẫn, cảm nhận mượt mà...

      Trời ơi! Espen làm vẩn đục cả tâm tư . Có lẽ nên lẻn vào nhà thờ trong ít phút mà cầu nguyện; cố nghĩ ra chuyện gì đó khiến cho phải tủi thẹn.

      ***

      Trời lạnh giá: ngày lạnh nhất trong năm ngày họ theo dấu mòn. trận gió thổi xuống từ vùng Cực Bắc quất mưa đá vào mặt họ. Đôi mắt Donald cay sè, nước mắt đông cứng đôi má , khiến cho làn da nứt nẻ và thô ráp. Nước từ đâu đó cũng đông lại bộ ria , nên kéo chiếc túi che mặt bao quanh phần dưới khuôn mặt, cho đến lúc nó đông cứng vì độ ẩm trong hơi thở , và phải tháo nó ra trong đau rát để tránh ngộp thở. cảm thấy lạnh cóng và đuối hơi tuy rằng Jacob mang phần lớn vật dụng, vì Donald thể theo kịp nếu chia sẻ mang phân nửa.

      Sau ngày thứ hai, Donald thấy mỗi cử động đều gây đau nhức ở đâu đó thân người mình. Trước đây, vẫn thường nghĩ mình là chàng trai trẻ khỏe mạnh, nhưng bây giờ thấy rằng mình bắt đầu hiểu ra chịu đựng là như thế nào. Jacob lầm lũi trước, vai mang trọng lượng nặng, theo những lối tắt để thăm dò dấu mòn. Đến chiều tà, hai người dừng lại, Jacob thu nhặt cành khô rồi đốt đống lửa, lại chặt cành cây làm chỗ trú cho hai người. Lúc đầu, Donald tỏ ý muốn tự làm lấy phần mình, nhưng rồi quá mệt và vụng về nên giúp gì được; nếu để cho Jacob làm mọi việc có thể dựng lên chỗ trú nhanh hơn. cách hiền từ nhưng cương quyết, Jacob bảo ngồi xuống mà lo đun ít nước.

      Sáng sớm ngày này, họ rời khỏi vùng rừng cây, bắt đầu qua cao nguyên trơ trụi có nhiều gò đống, nơi mà dường như có gì che chắn cho họ chống lại ngọn gió từ Vịnh Hudson đóng băng. Mặc cho quần áo dày cộm, ngọn gió vẫn len lỏi vào những vùng da mềm với những cú quất rát buốt. Họ nhanh chóng nhận ra rằng cao nguyên này là bãi lầy mênh mông. Những vũng nước màu đen rỉ lên từ lớp đất bên dưới, đóng băng bề mặt. Lau sậy và liễu đón nhận những bông tuyết thổi đến rồi giữ lại thành cuộn. Khó mà tìm được khoảnh đất cứng để có vài bước liên tiếp vững chắc. Jacob còn cố giữ cho chân mình được khô, mà đành phải theo những bước đều đặn lên gò này xuống vũng khác. Dù cho quyết chí theo kịp, ba lần Donald phải kêu Jacob chậm chân lại, và bây giờ Jacob thường dừng bước để chờ . Jacob cố ra vẻ như phải yếu đuối, mà dừng lại để cho biết về tình hình của dấu mòn. ràng là Jacob thấy khó khăn hơn mà dõi theo dấu mòn địa hình như thế này, nhưng càng màng. Hôm qua thấy khó mà quan tâm đến việc họ tìm được Francis hay ; hôm nay chợt nghĩ ra rằng thậm chí mình có thể trở về được từ chuyến này. chắc mình có màng đến trong hai việc hay .

      Hai người càng qua thêm nhiều xác chết thú rừng. Bây giờ họ qua bộ xương của con nai hẳn nằm ở đây từ lâu vì thịt được rỉa hết, chỉ còn lại màu nâu vàng. Cái đầu lâu con thú hướng về phía họ, chung quanh là những khúc xương khác vương vãi, nhìn Donald qua lõm mắt, thầm nhắc về nỗ lực vô vọng.

      Donald cố chuyển tâm tư của mình hướng đến Susannah, để đóng sập cánh cửa giữa thể chất chịu đựng và tinh thần cảm nhận. Thay vào đó, thất vọng mà nghe văng vẳng tiếng của người cha rao giảng cho : “Hãy chú tâm vào việc, Donnie[32]. Hãy chú tâm vào việc. Tự vực mình lên! Ta phải làm những việc ta muốn làm.” cảm nhận lại nỗi bực tức ngày xưa dâng trào lên bề mặt như khí đầm lầy. Cha - kế toán viên ở Bearsden - bao giờ phải qua đầm lầy vô tận trong mùa đông Canada.

      Được nhét bên trong lớp áo, gần quả tim , là ba lá thư viết cho Susannah. thất vọng vì ngôn từ mình thiếu hùng biện, nhưng tự an ủi là khó mà viết cho dí dỏm trong khi cố ngồi sát vào đống lửa để nhìn cho cháy tóc. e sợ các trang thư bị ố nhòe và bám bùn đất, lại còn có lẽ hôi mùi khói, nếu tệ hại hơn. Có lẽ, nếu họ gặp khu dân cư, có thể chép lại giấy sạch , hoặc thậm chí viết lại từ đầu theo văn phong cải thiện. Như thế có lẽ là hay nhất.



      Lúc bốn giờ chiều, Jacob tỏ ra hoang mang. bảo Donald ngồi chờ trong khi thăm dò theo vòng tròn rộng, rồi ra dấu cho Donald theo mình. Trong thời gian, họ lần theo những dấu chân. Donald thầm rủa cái công việc vô giá trị, nhưng vì quá mệt nên hỏi han gì. màn tuyết mỏng rơi xuống, và tầm nhìn xa bị hạn chế. khí vừa ẩm ướt vừa sắc buốt. Jacob thở ra những hơi dài, thói quen mỗi khi suy tư cật lực.

      “Tôi nghĩ ở đây họ theo những đường khác nhau.”

      Donald xem xét mặt đất nhưng thấy cái gì chỉ ra rằng có người qua đây.

      “Họ rời khỏi vùng rừng cây cùng lúc. Cho đến điểm đó dấu vết rất , nhưng tôi nghĩ người thứ hai chậm lại. Bây giờ người theo đường kia, bởi vì có dấu chân đóng băng trong bùn chỉ về hướng đó. Nhưng ở khoảng cách xa và khó mà theo dấu chân trong đầm lầy. Tôi nghĩ người thứ hai mất dấu, theo đường này…” chỉ đến chỗ mặt đất dốc lõm xuống thành dấu cạn: “Đây là dấu vết cho thấy chân ai đó bị lún, rồi tiếp tục . Đáng lẽ tôi nhận ra từ trước.”

      Donald thầm công nhận là đúng. “ nghĩ Francis là dấu mòn thứ hai hả?”

      “Dấu mòn thứ nhất là người nhanh, quen với việc đường dài. ta biết phải đâu mà cần phải dừng lại để định hướng. À vâng, dấu mòn thứ hai là thanh niên, và ta mệt.”

      “Nhưng họ muốn đến cái chỗ chết tiệt nào vậy? Tôi có ý rừng cây là chuyện, nhưng ở đây... Trời đất ơi, nhìn xem! ai sống ở đây được!”

      Theo tầm mắt họ có thể nhìn phóng tới có gì cả, chỉ có mấy lùm bụi và vũng lầy. Địa hình có sắc thái gì để được gọi là hấp dẫn (Donald nghĩ đúng thế) - có nét tương phản giữa núi non và thung lũng, có hồ, có cây cối. Nếu vùng đất này có đặc tính, đó là ảm đạm, vô cảm, thù nghịch.

      Jacob : “Tôi biết vùng này, nhưng có những trạm tiền tiêu đâu đó, xa hơn về phía bắc.”

      “Trời đất! Tội nghiệp cái bọn đáng thương phải sống ở đó.”

      Jacob mỉm cười. Donald rơi vào vai trò của tay mơ và là trợ giáo, tình huống dễ thở. Dễ biết phải gì. Dễ biết người kia phản ứng ra sao. Trong mấy ngày qua, họ thiết lập mối quan hệ tương tự.

      “Người ta sống ở khắp nơi. Nhưng họ đây là Xứ Chết đói.”

      Donald thốt lên câu phạm thánh. “Thế ta nên tìm ra ấy càng sớm càng tốt.” cần phải ra lựa chọn thứ hai.

      “Có lẽ người đầu tiên đến trong những trạm tiền tiêu phía kia.” Jacob chỉ vào ngọn gió gầm rít, theo hướng trông có vẻ gì là hứa hẹn hơn các hướng khác.

      “Còn người thứ hai sao?”

      “Tôi biết. Có lẽ bị lạc đường.”

      Họ lại tiếp tục chuyến khổ sở, lần theo những bụi cỏ và tảng đá thình lình nhô lên giữa trảng thực vật đầm lầy. Những tảng đá này có nhiều màu kỳ lạ - xanh lục đậm, hoặc tím, hoặc màu cam u tối. Đôi lúc có vũng nước đen đá đóng băng cứng rắn, những lúc khác chân họ đạp xuống mảng băng mỏng rồi ngập trong vũng tối đen kinh khủng của nước và bùn lạnh buốt. Donald cảm thấy kinh hoàng với ý nghĩ họ chỉ tìm thấy thi hài - là khả năng rất dễ xảy ra. Làm thế nào có ai đó sống sót ở đây, lạc đường và độc? cố tự nhủ rằng hai người còn cách xa phía sau cái xác, rồi lại có ý nghĩ khủng khiếp là Jacob có thể bỏ lại, mà có chủ ý, và rồi , Donald, độc y như chàng trai trẻ kia. sống sót được bao lâu? cố bám theo cái bóng đen phía trước, nhất quyết để chuyện đó xảy ra. Lại có tượng sinh lý học trái khoáy là vết thương ở mạn sườn đau nhức trở lại, nhắc cho nhớ về thể chất mỏng manh của mình - hoặc có phải nó nhắc cho rằng Jacob, bây giờ là người bảo vệ mạng sống của , mới gần đây cầm dao đâm ?

      Cuối cùng, hai người đến dòng sông chảy ngoằn ngoèo vô hình qua vùng đất. Đen như dầu thô giữa hai bờ băng giá.

      Jacob dừng lại, chỉ đến vũng bùn hỗn độn đóng băng thành những chỏm và khe: “Có những người ở đây. Và con ngựa. Tôi có thể ta nhập đoàn với họ.”

      Jacob mỉm cười, và Donald cố tỏ vẻ vui lòng. Nhưng chủ yếu thấy mình tiếp được nữa. mang trong lòng nỗi căm ghét đối với địa hình mà trước đây chưa từng thấy. Con người có mục đích gì để đến đây. Ý nghĩ về người cưỡi ngựa nhặt được trai trẻ càng thêm khủng khiếp - có Trời biết được bây giờ hai người mình phải bộ bao xa. hiểu được tại sao Jacob chịu ngựa; lại nghĩ đến khả năng là toàn thể vụ việc chỉ là để làm nốt cái thủ đoạn mà con dao kia làm chưa đến nơi đến chốn.

      Jacob dẫn đường xa khỏi con sông, và Donald lê lếch theo, đôi mắt vẫn dán lên mặt đất xảo trá, chết lặng dưới bước chân của họ.



      Thình lình Jacob dừng bước và Donald bước ngay đến sau lưng ta, cảm giác mờ mịt về quanh cảnh chung quanh. Jacob nắm lấy cánh tay , và cười vào mặt : “ Moody, nhìn kìa! Nhìn!”

      ta chỉ xuống mặt tuyết và bóng tối nhá nhem thầm bao phủ quanh họ. Và trong khoảng màu xám xoáy lốc, nhìn ra những điểm ánh sáng. cười nhăn nhở, và cảm thấy bầu máu nóng dâng lên đến cằm - đôi môi nứt nẻ. Nhưng có gì dập tắt được niềm vui. có những ngôi nhà, cư dân, ấm cúng... có ngọn lửa, và thậm chí tốt hơn nữa, những bức tường! Những bức tường ngăn cách giữa và thời tiết. Trong khoảnh khắc sướng thỏa, sống lại nỗi kích động lúc trước khi nhìn thấy vầng trăng, cảm nhận lại niềm vui vô bờ của đứa con trai mười bốn tuổi, và kinh qua niềm hạnh phúc thuần khiết mà có vẻ như tất cả mệt nhọc trong mấy ngày qua, tất cả thiếu thốn trong năm rưỡi qua, đều rất đáng giá. lập cập vỗ vai Jacob, tin chắc rằng chàng này là người giỏi nhất, người cao quý nhất mà mình từng gặp trong đời.

      Bốn mươi phút sau, họ vào khoảnh sân rộng, bao quanh là những ngôi nhà tề chỉnh bằng gỗ. Có những chuồng gia súc được quây rào kín, bên trong bốc hơi nước; ngôi nhà thờ với ngọn tháp, cùng là cây thánh giá sơn màu đỏ nhòe. Ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ soi rọi khoảnh sân băng giá, trông như xứ thần tiên. Donald kiềm chế những giọt lệ biết ơn khi hai người đến tòa nhà lớn nhất, và gõ cánh cửa.

      ***

      Lúc còn là đứa con cũng như lúc ở trong bệnh viện tâm thần, tôi thường nghĩ rằng khi kết hôn người ta bao giờ cảm thấy đơn nữa. Có lúc tôi hồ nghi liệu mình còn hết đơn hay ; tôi đoán số phận mình là kẻ bên lề xã hội, hoặc tệ hại hơn, là già chồng. Tôi có bạn bè trong bệnh viện tâm thần, ngay cả bác sĩ Watson cũng là người bạn đặc biệt; nhưng làm bệnh nhân của bác sĩ chữa bệnh điên giúp cho tôi cảm nhận mình sống trong thế giới bình thường, hoặc được an toàn. Chồng tôi mang lại cho tôi điều mà tôi hề mong đợi trước đấy: cảm nhận về tính cách hợp pháp. Và cảm nhận rằng ở đây, có người mà tôi có thể bộc bạch tất cả. Tôi cần phải giả vờ. Tôi nghĩ điều tôi là, tôi ấy. Tôi biết ấy tôi, tôi chỉ biết khi nào điều này còn là .

      Đêm khuya; tôi lại mất ngủ vì nghĩ ngợi về cuộc gặp gỡ kế tiếp với người bị giam giữ; Knox đồng ý cho tôi quay lại, miễn là tôi phải rất kín đáo. Tôi nghĩ ông cảm thấy xúc phạm vì tôi lợi dụng thảm kịch của vợ ông mà chống lại ông, và tôi phải thầm cảm ơn ông đồng ý. Ông e sợ người nhân viên của Công ty. Ông cũng sợ rằng mình suy nghĩ quá yếu mềm. Tôi nằm kề bên chồng tôi, và Angus trong giấc ngủ quay người ôm lấy tôi, là hành động mà hề thể trong thời gian dài. Tôi dám nhúc nhích, tự hỏi biết - hoặc mơ thấy - làm gì hay . Sau lúc, khụt khịt rồi quay người , lại đưa lưng về phía tôi. Và tôi chưa từng cảm thấy đơn đến thế, ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối nhất ở bệnh viện tâm thần sau khi cha tôi qua đời. Nếu Olivia còn sống, liệu mọi việc khác biệt ? Nếu Francis bao giờ đến với hai vợ chồng tôi?

      Mấy câu hỏi đâu vào đâu. Cách thức tôi thích hỏi.

      Tôi ghét tính yếu mềm trong con người mình - cách độc thoại có điểm dừng thay cho hành động, và nhiều lúc (thường là trong đêm khuya) tôi ước gì mình giống như Ann Pretty. Chị có thể may mà mang họ Pretty, nhưng đôi lúc tôi nghĩ chị là mẫu người hoàn chỉnh của nhà tiên phong trong vùng hoang dã, cá thể có xương sống giỏi sinh tồn, mạnh mẽ, giàu tưởng tượng, tẩn mẩn. Chị phải thức trong đêm mà thắc mắc chồng mình - hoặc bất kỳ ai khác - nghĩ về mình ra sao. Chị mất đứa con mình trong vùng hoang dã.

      Tôi bước ra khỏi giường, và rồi để kiếm việc nào đó mà làm, tôi bắt đầu chuẩn bị cái túi cho cuộc hành trình mà tôi trù định. , tôi thiết tha lắm với việc này; tôi phải đối diện với cơn sợ hãi vùng hoang dã, tôi thiếu can đảm. Ai biết được, có lẽ Moody và kia về đây cùng với Francis. Tôi màng nếu họ bắt giữ nó, miễn là họ tìm được nó và nó bình an. Rồi có lẽ chính nó bị giam trong kho chứa hàng ở Caulfield, run rẩy trong khoảng gian trống trải như hang động mờ mịt, nhưng được an toàn. Tự nhủ lòng mình như thế, tôi thu nhặt những bộ quần áo dày nhất và thực phẩm trữ được lâu. Đấy có phần giống như chuẩn bị picnic; nếu tôi nghĩ như thế việc xem dường tồi tệ lắm.

      Tiếng gõ cửa khe khẽ làm cho tôi ngạc nhiên lắm: tôi nghĩ về Francis, thế nên có lẽ chuyện phải đến là niềm khát khao của tôi được đáp ứng. Tôi nắm chặt cánh cửa trong nỗi vui mừng để chuẩn bị kéo cánh cửa mở rộng, tập trung ngôn từ để thốt ra với con tôi, cùng với những dòng lệ, trong màn đêm vẫn còn bao trùm. Tôi nhìn quanh, thầm tên của nó - điều kỳ lạ là tôi thầm, như thể tôi có linh cảm.

      người đứng trong bóng tối - tôi đoán để làm cơn sốc, hầu đôi mắt tôi phải tìm kiếm nó, và chỉ dần dần tôi mới nhận ra người ấy là ai.

      Người bị giam giữ giơ bàn tay lên trong cử chỉ làm nguôi giận: “Xin bà đừng la lớn.”

      Tôi trân trối nhìn. Tôi la lớn. Tôi lấy làm hãnh diện phải vì la lớn, ngay cả trong hoàn cảnh gay go.

      “Tôi xin lỗi làm bà giật mình. Knox trả tự do cho tôi. Tôi định đì tìm con trai bà, bởi vì tôi nghĩ ấy trông thấy kẻ sát nhân. Nhưng tôi cần đồ tiếp tế, và khẩu súng của tôi bị tịch thu. Và tôi tin bà giữ các con chó của tôi.”

      Tôi chăm chăm nhìn ông mà thấy khó tin, hiểu lắm ông gì.

      “Bà Ross ạ, tôi cần bà giúp, và bà cần tôi giúp.”

      Thế là, việc diễn ra như sau: hai người cần nhau hợp tác với nhau; liên quan gì đến tin cậy hoặc lòng tử tế hoặc ý niệm tình cảm. Tôi hiểu việc ông về Knox và tại sao ông ấy trả tự do cho ông theo cách lén lút như thế, nhưng xem qua khuôn mặt bị thương tích của ông tôi có thể tin rằng Mackinley gây ra việc này. Parker cần khẩu súng và thực phẩm và các con chó, còn tôi cần người hướng đạo để theo dấu Francis, và có thể ông nghĩ Francis ăn cởi mở hơn nếu có tôi ở đấy - Francis cũng cần thứ. Thế là trong khi chồng tôi ngủ say lầu, chúng tôi sắp xếp hành trang, riêng tôi chuẩn bị ra vùng hoang dã với nghi phạm trong vụ án mạng. Điều tệ hại hơn nữa là với người mà tôi chưa được giới thiệu đàng hoàng. Tôi quá sốc nên cảm thấy sợ hãi, quá kích xúc nên màng về hành động phải phép này. Tôi đoán nếu bạn mất cái gì quý giá nhất, tiếng tăm và danh dự chỉ là chuyện tầm phào. (Hơn nữa, trong tình huống tồi tệ nhất, tôi có thể tự nhắc nhở rằng có lúc tôi bán danh dự của mình còn rẻ hơn thế này. Tôi có thể tự nhắc nhở như thế khi cần.)

      màn tuyết mỏng rơi xuống từ phía Sông Dove, hai con chó thầm chạy bên cạnh Parker. tiếng đồng hồ sau khi qua khỏi ngôi nhà của Pretty, ông đến chỗ cất giấu giữa các đám rễ cây và nhanh chóng làm chiếc xe trượt tuyết từ những vật liệu ông tìm được ở đây - loại cỗ xe , mảnh mai bằng gỗ liễu với vị trí trông giống như kiểu chỗ ngồi được lót bằng da thuộc. Tôi suýt cảm ơn ông về tính chu đáo này ông chất thực phẩm và chăn mền lên chỗ ngồi đó. Hai con chó bị kích động vì tuyết và xe trượt, sủa lên vài tiếng. Suốt việc này, kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ, Parker nhìn đến tôi hoặc lời. Tôi nghĩ ông màng đến việc tách tôi ra khỏi danh dự của tôi. Ông giật giây cương rồi tiếp tục lên đường, tiến về phía bắc, dọc Sông Dove, chỉ được hướng dẫn bởi thanh của dòng nước, và ánh lờ mờ, vô định hình, dường như xuất phát từ tuyết.

      Tôi theo ông, hay va vấp vì loại giày da đanh mà tôi quen thuộc nhưng ông cứ bắt buộc tôi mang. Tôi nhất quyết phàn nàn, cho dù thể ra sao.

      ***

      Tuy hiếm hoi, nhưng vẫn có người từ phương xa đến Himmelvanger; thường là người Da Đỏ đến trao đổi hàng hóa và tin tức. Per cầu tiếp đãi tất cả, vì họ là láng giềng, và người ta phải sống hòa thuận với láng giềng. Và họ cũng là con cái của Thượng đế, cho dù sống trong cảnh tồi tàn và dốt nát. Đôi lúc họ tìm đến khi người thân của họ bị bệnh và thuốc men của họ có hiệu quả. Họ đến với vẻ mặt u sầu và tinh thần nặng trĩu, chăm chú nhìn khi người đàn ông Na Uy phân phát ít liều laudanum hoặc ipecac hoặc camphor, hoặc chính dược phẩm cổ truyền của Na Uy vốn cũng thường thiếu công hiệu. Mỗi lần như thế, Per hy vọng giống như những lần khác.

      Người da trắng chìa ra bàn tay cóng lạnh. Băng giá đóng quanh rìa tròng kính của , làm cho khuôn mặt trông lạ lùng, như con chim cú.

      “Xin lỗi xâm phạm. Chúng tôi là nhân viên Công ty Vịnh Hudson, và chúng tôi có công việc ở đây.”

      Per càng thêm kinh ngạc, tự hỏi Công ty có thể cần cái quái gì nơi mình. “Xin mời vào. Các ông hẳn cóng lạnh. Bàn tay ông...” Bàn tay mà ông bắt lấy thâm tím vì thời tiết buốt giá, còn sức lực, như miếng thịt đông lạnh.

      Per bước lùi lại, nhường chỗ cho họ vào nơi trú ấm áp: “Các ông có gia súc ?”

      . Chúng tôi bộ.”

      Per nhíu mày, dẫn họ vào phòng gần gian bếp, rồi gọi Sigi và Hilde đến; hai người này cố xoay xở để mang đến món thịt hầm và bánh mỳ và cà phê cho hai người.

      Sigi tròn xoe đôi mắt vì hiếu kỳ đối với hai người khách lạ: “Trời đất, Per ơi, Thượng đế đưa đến chúng ta mọi loại khách trong mùa đông này.”

      Per đáp lời có phần gay gắt - ông thích người ta buôn chuyện và loan truyền lời đồn đại, trong khi ông chưa hiểu được chuyện gì. May mắn là hai người khách hiểu tiếng Na Uy. Họ mỉm cười cách ngốc nghếch vì đói khát và mỏi mệt, xoa hai bàn tay rồi sa xuống thức ăn với cử chỉ nồng nhiệt biết ơn.



      Khi hơi ấm bắt đầu lan đến hai bàn tay, Donald có cảm giác đau và ngứa, và dưới ánh đèn hai bàn tay trông bầm tím. phụ nữ mang đến thau đựng tuyết và bắt chà xát hai bàn tay trong đó, rồi dần dần hai bàn tay lấy lại cuộc sống đau đớn. Người phụ nữ mỉm cười với khi chăm sóc , nhưng năng gì - Per giải thích rằng họ là người Na Uy, và phải ai cũng được tiếng .

      “Thế hai nhân viên Công ty làm gì ở đây trong tháng Mười này?”

      ra, đây hẳn là công việc của Công ty.” Donald thấy khó mà kiềm hãm nụ cười của mình - vẫn tin vào vận may của mình khi những tìm được nơi cư trú, mà còn tìm được chốn văn minh và con người văn minh như Per Olson để chuyện.

      “Hai đường đâu phải ?”

      Giọng của ông ám chỉ việc này là thể được. Donald cố gắng mở miệng khi miệng đầy bánh hạnh nhân. (Hạnh nhân! Họ được may mắn ở đây.)

      “Chúng tôi đường tìm người. Chúng tôi theo dấu chân của người này từ Sông Dove ở vùng Vịnh, lên đến con sông cắt ngang cao nguyên, và rồi dấu chân dẫn đến đây.” nhìn qua Jacob để được xác nhận, nhưng có vẻ như Jacob ngượng ngập với diện của những người khác, nên chỉ nghiêng đầu.

      Per lắng nghe cách nghiêm túc, và rời khỏi phòng lúc. Donald đoán ông ra để bàn bạc với vài người khác, bởi vì khi ông trở lại, có người theo mà ông giới thiệu là Jens Andreassen.

      Per : “Jens có đôi điều muốn kể cho hai nghe.”

      Jens, người bẽn lẽn, cử chỉ chậm chạp với cái lưỡi có vẻ như quá lớn so với miệng, kể lại việc mình tìm thấy con trai bên bờ sông, gần như chết. Ông mang con trai đến Himmelvanger, nơi người ta chăm sóc cho . Ông bằng tiếng Na Uy, và Per chậm rãi thông dịch lại, cố gắng sử dụng đúng từ ngữ.

      Donald có thể nhận ra thái độ che chở của Per; Francis là con chiên lạc bầy mà Thượng đế dẫn dắt đến cho ông chăm sóc.

      “Hai nghi ngờ ấy về chuyện gì? Chuyện gì xảy ra?”

      Donald muốn tiết lộ tất cả tình tiết. Nếu Per muốn che chở cho Francis, muốn đối đầu với Per. “À, có vụ tấn công nghiêm trọng.”

      Per nhìn lên, đôi mắt nhợt nhạt mở to; khi ông thông dịch cho Jens hiểu, cả hai nhìn nhau trong dáng vẻ bị sốc.

      “Dĩ nhiên là chúng tôi chắc Francis phạm tội; nhưng chúng tôi cần tìm ra ấy. Mẹ của vô cùng lo lắng cho dù có bất cứ chuyện gì.”

      Per nhíu mày: “Ai là Francis?”

      “Người con trai. Tên ấy là Francis Ross.”

      Per suy nghĩ hồi, rồi : “ con trai này tên mình là Laurent.”

      Donald và Jacob nhìn nhau. Donald thấy lạnh cả sống lưng vì phát điều chắc chắn.

      Per cho ý kiến: “Có thể đây là người khác.”

      Donald cất tiếng mà giấu nỗi kích xúc: “Dấu chân dẫn đến đây. Khó mà nhầm lẫn được. ấy là người với mái tóc đen. ấy giống người , người... Pháp hoặc Tây Ban Nha đúng hơn.” Đấy là mô tả của Maria.

      Per cắn đôi môi đỏ trông như con : “Nghe có vẻ như là ấy.”

      ấy còn gì nữa?”

      “Chỉ là... là ấy tìm việc làm mới, nhưng người hướng đạo bỏ lạc. ấy đường về hướng tây-bắc với người Da Đỏ làm hướng đạo.” Đôi mắt của Per khẽ nhấp nháy về phía Jacob.

      Per quay sang Jens và giải thích điều này. Jens lại cất tiếng, để trả lời câu hỏi nào đó.

      “Jens ấy nghĩ điều kỳ lạ là tìm thấy con trai đó mình. con trai này thể... thể đến đây mình, trong thời tiết như thế này.”

      “Tại sao ?”

      con trai rất mỏi mệt, rất... kiệt sức. ấy hẳn thể xa như vậy trừ khi được giúp đỡ hoặc... bị cưỡng ép.”

      Donald nghĩ mặc cảm phạm tội là động lực mạnh.

      Per tiếp tục: “Tôi cũng nghĩ đó là điều kỳ lạ. ấy mình cần có việc làm để kiếm tiền, nhưng ấy lại mang theo nhiều tiền, bốn mươi đô la. ấy cũng có vật này, và rất lo lắng muốn giữ nó.”

      Per nhặt lấy từ sàn nhà vật mà Donald để ý; chiếc túi da mà người Da Đỏ mang quanh cổ để đựng thuốc lá và bùi nhùi. Ông mở chiếc túi, xốc ra cuộn giấy bạc, và tấm thẻ mỏng bằng xương hoặc ngà, lớn bằng bàn tay, được khắc những hình thù và những dấu hiệu . Tấm thẻ rất dơ bẩn. Donal nhìn trân trối tấm thẻ, cổ họng co thắt, và đưa bàn tay ra.

      “Vật này thuộc về Laurent Jammet.”

      “Laurent Jammet?”

      “Nạn nhân của vụ tấn công.”

      Per chăm chăm nhìn Donald: “ ‘thuộc về’. À ra thế.”



      Khi họ được đưa đến phòng bệnh, Donald lập tức hiểu ra miêu tả của Maria về Francis. phụ nữ trẻ, da ngăm đen đứng lên khi cánh cửa mở, nhìn họ với dáng điệu hồ nghi rồi bước ra ngoài, chiếc váy đập sột soạt vào hai ống quần cách ngổ ngáo. con trai im lặng nhìn khi họ ngồi xuống, rồi Per giới thiệu . Tương phản với màu vải giường trắng, làn da có màu vàng bủng, trông như người Nam Mỹ. Tóc đen và dài; đôi mắt màu xanh lam và sâu. Maria cũng trông đẹp trai; đứa trẻ bô trai. Donald hiểu Francis đẹp trai ở chỗ nào, nhưng có vẻ gì trẻ con trong thái độ thù địch phát tiết từ con người ta. Đôi mắt xanh nhìn chăm chăm chớp, khiến cho Donald lóng ngóng và ngượng nghịu. Donald rút ra quyển sổ tay rồi chỉnh lại chiếc ghế, và quyển sổ tay rơi xuống sàn nhà. rủa thầm và nhặt nó lên, cố phớt lờ cảm giác nóng bừng cổ và mặt. nhìn đến Francis, và bây giờ Francis tránh ánh mắt , rồi đằng hắng.

      Per cố tìm cách trấn an: “Đây là Moody, nhân viên Công ty Vịnh Hudson. ấy từ Sông Dove. ấy cha mẹ rất lo lắng cho .”

      “Chào Francis.”

      Francis khẽ gật đầu, như thể Donald đáng cho ta quan tâm.

      có biết tại sao tôi đến đây ?”

      Francis chăm chăm nhìn .

      là Francis Ross phải ?”

      Francis nhìn xuống, và Donald hiểu đó là cách xác nhận. Donald quay sang nhìn Per lúc này chăm chăm nhìn con trai.

      “À... ở Sông Dove, có biết người tên Laurent Jammet ?”

      con trai nuốt nước bọt. Donald nhận thấy có vẻ như các bắp cơ hàm của ta căng cứng, và rồi ta gật đầu, khiến cho Donald ngạc nhiên.

      “Lần cuối cùng thấy ấy là khi nào?”

      khoảnh khắc im lặng dài, và Donald tự hỏi liệu con trai chịu ra hay .

      “Tôi thấy ấy khi chết. Tôi thấy người giết ấy, nên tôi theo dõi trong bốn ngày, rồi tôi mất dấu.”

      Giọng con trai đơn điệu và . Donald chăm chăm nhìn ta, cảm thấy vừa kích động vừa khó tin. phải tự nhắc mình cần tiến hành cách cẩn thận, làm từng bước; phải chờ cho đến khi bước vững trước khi bước tiếp, tương tự khi qua vùng đầm lầy như trong địa ngục kia. đặt quyển sổ tay vững vàng lòng mình.

      “Cho tôi biết nhìn thấy... chuyện gì, cách chính xác... và diễn ra khi nào.”

      Francis thở dài: “Vào đêm tôi ra … Đó là... nhiều ngày trước. Tôi nhớ.”

      Per nhàng chen vào: “ ở đây năm ngày rồi.” Donald nhíu mày với ông. Per nhìn lại với thái độ hòa nhã ngầm cho biết mình có lỗi.

      “Thế là… năm ngày trước đó, có lẽ vậy? Tôi đến ngôi nhà gỗ của Laurent Jammet. Trời tối, và tôi nghĩ ấy có ở đó. Rồi tôi thấy người đàn ông bước ra và khỏi. Tôi vào, và thấy ấy.”

      “Thấy ai?”

      “Jammet.”

      con trai lại nuốt nước bọt, hiển nhiên với khó khăn. Donald chờ hồi lâu cho ta tiếp tục.

      ấy vừa... chết. Thân người còn ấm, máu chưa đặc. Vì thế mà tôi biết người kia là kẻ sát nhân.”

      Donald ghi chép lời của Francis. “Người... đàn ông đó, quen biết ?”

      .”

      có nhìn ra nhân dạng ông ta như thế nào ?”

      “Chỉ thấy đó là người bản địa, tóc dài. Tôi thoáng nhìn thấy mặt ông ta, nhưng trời tối quá. Tôi thấy nhiều.”

      Donald ghi chép, và giữ nét mặt trung lập: “ có thể nhận ra ông ta nếu gặp lại ông ta ?”

      Mất lúc lâu mới có câu trả lời: “Có lẽ.”

      “Quần áo ông ta như thế nào - ông ta mặc gì?”

      Francis lắc đầu: “Lúc đó trời tối. Quần áo màu sẫm.”

      “Ông ta ăn mặc giống tôi ? Hay giống như người đặt bẫy? hẳn phải có cảm tưởng gì đó.”

      “Giống như người đặt bẫy.”

      đến nhà của Jammet để làm gì?”

      “Chúng tôi là bạn với nhau.”

      “Lúc đó là mấy giờ?”

      “Tôi biết. Mười . Có lẽ nửa đêm.”

      Donald nhìn lên, cố nhìn vẻ mặt con trai và cùng lúc ghi chép lời ta. “Khuya như vậy hả?”

      Francis nhún vai.

      có thường đến thăm ấy vào giờ giấc như vậy ?”

      ấy ngủ sớm. ấy phải là nông dân.”

      “Thế là... trông thấy thi hài. Và rồi làm gì?”

      “Tôi theo người kia.”

      có về nhà... lấy đồ đạc ?”

      . Tôi lấy vài món của Jammet.”

      nghĩ đến việc kể cho cha mẹ hay sao? Hoặc cầu ai đó giúp, ai đó có năng lực tốt hơn để đối phó với chuyện như thế này?”

      có thời giờ. Tôi muốn mất dấu người kia.”

      muốn mất dấu người kia. Thế lấy theo những món gì?”

      “Chỉ mấy thứ tôi cần. áo choàng... Thức ăn.”

      “Còn gì nữa ?”

      “Tại sao? Có hề gì ?” Francis ngước mặt để nhìn Donald: “ nghĩ tôi giết ấy hay sao?”

      Donald nhìn lại, trầm tĩnh : “ có giết ấy ?”

      “Tôi vừa - Tôi trông thấy kẻ giết người. ấy là bạn tôi. Tại sao tôi lại giết ấy?”

      “Tôi chỉ cố tìm hiểu chuyện gì diễn ra.”

      Per khẽ cử động, như tuồng có ý cảnh cáo. Donald có nên cật vấn chàng trai trẻ thêm, hoặc thẳng thừng kết tội ta. lần mò trong bóng tối, giống như bác sĩ phẫu thuật tay mơ, biết tìm ra đâu là cơ quan chủ yếu của .

      Per : “ con trai rất mệt mỏi.”

      Đúng là con trai xem dường mệt mỏi, làn da căng bộ xương.

      “Chỉ thêm chốc thôi, xin vui lòng. đến nhà của ... của Jammet lúc nửa đêm, thấy ấy chết, rồi theo người mà nghĩ là kẻ sát nhân, nhưng mất dấu .”

      “Đúng.” con trai nhắm hai mắt lại.

      “Mảnh xương đó là cái gì?”

      Francis lại mở mắt ra, lần này là do kinh ngạc.

      biết tôi muốn gì, phải ?”

      “Tôi biết đó là cái gì.”

      mang nó theo bên mình. hẳn phải có lý do.”

      ấy cho tôi.”

      ấy cho hả? Đó là vật có giá.”

      thấy nó chưa? Tôi nghĩ nó có giá.”

      “Còn về khoản tiền sao? ấy cũng cho , phải ?”

      . Nhưng tôi cần giúp đỡ để tìm... người đàn ông. Tôi có thể phải... chi trả cho ai đó.”

      “Xin lỗi, tôi hiểu. Chi trả cho ai đó để làm gì?”

      Francis quay mặt : “ có ý gì?”

      Per lại đằng hắng và nhìn qua Donald. xếp lại quyển sổ tay với vẻ miễn cưỡng.



      Bên ngoài, Per nắm lấy cánh tay Donald, : “Xin lỗi, nhưng tôi phải lo cho sức khỏe của cậu ấy. Khi được Jens mang vào cậu ấy gần như chết.”

      sao đâu.” Donald thực nghĩ thế, nhưng dù sao chăng nữa là khách ở đây. tiếp: “Nhưng tôi mong ông hiểu cho là, trong tình huống này, tôi phải đặt ta dưới quản thúc. Kể cả số tiền của ta, và đại loại như vậy.”

      Per có thói quen đứng nghiêng về phía bất cứ người nào ông tiếp chuyện, mà Donald nhận ra rằng có lẽ do ông thấp người. Đứng kề bên, với đôi mắt nhạt màu và hơi lồi, có vẻ như Per thoang thoảng tỏa ra mùi của dê.

      “Đó là quyết định của , được thôi.”

      “Vâng. Đúng vậy. Thế … tôi muốn cử người canh gác bên ngoài phòng ta.”

      “Để làm gì? ấy khó mà rời khỏi Himmelvanger, cho dù chân lành lặn, đứng được.”

      “À, được thôi...” Donald cảm thấy mình xuẩn ngốc, bỗng dưng nhận ra tuyết rơi bên ngoài cửa sổ. “Miễn là chúng ta có thể để mắt trông chừng ta.”

      Với ánh mắt hướng lên trần nhà, Per cách nghiêm trang: “Nơi đây chẳng có gì bí mật cả.”

      ***

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Qua khung cửa sổ, Andrew Knox nhìn tuyết rơi với tâm trạng lẫn lộn. mặt, ông nhận ra có trêu đùa nào đó của chị rằng em Susannah quan hệ tình cảm với Donald, và vì thế ông có mối quan ngại của người cha về cái nhân viên trẻ của Công ty dấn thân vào chốn lùm bụi. Mặt khác, ông cảm thấy nhõm khi nghĩ về dấu chân của người bị giam giữ bị lấp dưới lớp tuyết. Đó là tuyết khô, tuyết mùa đông thực , che phủ mặt đất cho đến mùa xuân năm sau. Dĩ nhiên là ông than thở về điều này với Mackinley và những người còn lại, và giúp tổ chức người tình nguyện thành những nhóm tìm kiếm để ít nhất xác nhận phương hướng của kẻ đào tẩu.


      Sau khi họ ra , Knox mời Adam vào phòng đọc sách và giảng cho bài học dài về mức độ nghiêm trọng trong sai sót của . Adam phản đối mạnh mẽ rằng nhớ rất quàng dây xích và khóa cánh cửa, và Knox nhìn nhận có thể có cách giải thích khác cho vụ đào tẩu, nên vì lý do này Adam bị mất việc. Lời lẽ của Adam là pha trộn giữa phản đối đúng lý và lòng biết ơn bực bội; cả hai người biết làm đúng, nhưng họ cũng biết có giới hạn trong việc người làm tranh luận với ông chủ. Cuộc đời công bằng.


      Như thể vụ việc này chưa đủ phức tạp, tiếng đồng hồ trước có lời đồn đại khác thường từ Sông Dove rằng Bà Ross biến mất, và người ta râm ran buôn chuyện là bà bị kẻ đào tẩu bắt cóc. Knox kinh hoàng với cố này, bối rối về vai trò của mình trong đó. Có phải bằng cách nào đó ông gây ra chuyện này khi cho phép bà tiếp xúc với người đàn ông? Hoặc việc hai người biến mất đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên? Ông phải nhìn nhận rằng có lẽ phải vậy. Suy tính lại, ông phải hy vọng là bà bị bắt cóc, bởi vì nếu tự mình có cơ may sống sót trong thời tiết như thế này.


      Khi ông báo tin cho bà vợ và hai con , ông cẩn thận nhấn mạnh mình tin chắc rằng người bị giam giữ khỏi Caulfield càng xa càng tốt. Như ông đoán trước, vợ con ông tỏ ra kinh hoàng đối với tin Bà Ross mất tích. Đó là cơn ác mộng của bất kỳ phụ nữ da trắng nào sống trong vùng đất hung dữ này; cho dù ông trấn an họ rằng đây chỉ là tin đồn. Nhưng trong đầu óc mọi người, việc người bị giam giữ đào tẩu và người phụ nữ bị bắt cóc chứng tỏ Parker có tội.


      Mackinley đón nhận tin tức với nét mặt nghiêm trọng trong thỏa mãn, dù cho ông mắng nhiếc ngu dốt của Adam và trách móc việc Caulfield thiếu cơ sở thích hợp để giam giữ phạm nhân. Bây giờ ông gia nhập trong những nhóm tìm kiếm, lùng sục mọi dấu vết dọc bờ vịnh. Sau khi gặp Mackinley để cho biết về đào tẩu, Knox phải tự giam mình trong phòng đọc sách với ly rượu -nhắc, rồi ông lên cơn run rẩy mãnh liệt. May mắn là triệu chứng qua trong chốc lát, nhưng ông vẫn đủ can đảm để ra ngoài và đối mặt với mọi người.


      “Pa-pa ổn chứ?” Maria gọi ông “pa-pa” trong thời gian dài mà ông còn nhớ được. đến sau lưng ông và đặt hai bàn tay lên hai vai ông: “Quả là chuyện kinh khủng.”


      “Có thể còn tồi tệ hơn nữa. Nó luôn tồi tệ hơn.”


      Maria trông như vừa khóc - lại thêm thói quen trẻ con mà ông nghĩ đứa con từ bỏ. Ông biết lo lắng cho chính , mà cho tiếng tăm của ông.


      “Con chịu được người ta gì.”


      “Con đừng kết luận vội. Tất cả chúng ta cho rằng mình biết những chuyện gì diễn ra, nhưng tất cả chỉ là ức đoán. Nếu con muốn biết cha nghĩ gì…” Ông tỏ ra thận trọng với chính mình: “Phần lớn người bị giam giữ trốn thoát được xa. Có lẽ ông ta bị bắt lại trong vòng hoặc hai ngày.”


      “Con chịu được khi nghĩ về người phụ nữ tội nghiệp đó.”


      “Chưa ai chuyện với chồng bà. Cha trao đổi với ông ấy. Có lẽ rồi có chuyện gì cả.”


      “Mackinley tỏ vẻ tức giận đến nỗi con nghĩ ông ấy sắp đánh Adam.”


      “Ông ta bị thất vọng, ông ta nghĩ việc kết tội giúp ông ta thăng chức.”


      Maria đằng hắng với vẻ miệt thị: “Con tin sau vụ việc này chúng ta trở về cuộc sống bình thường.”


      “À… chỉ sau vài tháng chúng ta còn nhớ gì nhiều.”


      Ông liếc ra khung cửa sổ và băn khoăn liệu con có cảm thấy được thuyết phục hay . lần nữa, đầu óc ông quay cuồng về điều khả dĩ của thảm họa sắp đến. Khi ông nhìn quanh ( vài giây sau? phút? ông chắc) Maria ra ngoài. Ông bị mê hoặc vì quang cảnh trắng xóa bên ngoài. Những bông tuyết rơi lả tả như lông vũ và bao bọc lấy lớp khí mặt đất, lọn này chỉ tiếp giáp ít với lọn kia.


      Lớp tuyết hoàn hảo để che lấp mọi dấu vết.




      Susannah phản ứng với mọi tin tức căng thẳng trong ngày bằng cách mặc thử các chiếc áo trong phòng , gạt qua bên những kiểu quá lỗi thời. Nghi thức này diễn ra hàng tháng, mỗi khi Susannah cảm thấy cái ách của xứ sở đè nặng quá khó chịu đôi vai . Maria đứng ngoài lối nhìn em kéo dải ruy băng của chiếc áo màu lục với vẻ khinh bỉ. cảm thương em lo lắng với những chuyện như vòng eo và khổ tay áo trong thời gian khủng hoảng.


      “Susannah à, cái áo đó mặc rất vừa với em. Đừng xé.”


      Susannah nhìn lên: “Em thể ăn mặc với mấy thứ điên khùng này, trông quá lố bịch.” thở dài và ném chiếc áo xuống. Dải ruy băng làm buồn lòng được chính tay Maria kết với những đường chỉ li ti, chắc chắn.


      Maria nhặt chiếc áo lên: “Ta có thể thay tay áo mới, có lẽ với đăng ten, tháo phần này ra và thay đường viền cổ áo, thế là thành thời trang.”


      “Em cũng nghĩ vậy. Còn ta làm gì với cái này?” cầm lên tấm vải sợi bông in hoa văn những cành cây hai màu.


      “Hừm... khăn lau đĩa.”


      Susannah cười - tiếng cười ha hả trong chốn riêng tư ở nhà, trái ngược với tiếng ngoài công cộng mà mẹ giống phụ nữ quý phái hơn. “Trông chán quá, phải ? Em biết mình nghĩ gì.”


      “Matthew Fox, theo như chị còn nhớ.”


      Susannah ném chiếc áo về phía chị: “Càng có thêm lý do để dùng làm khăn lau đĩa.”


      Maria ngồi giường, chung quanh là mấy món bị phế thải. “Em viết thư cho Donald Moody chưa?”


      Susannah tránh ánh mắt của chị: “Em viết thế nào được? có cách gì gửi thư cả.”


      “Chị nghĩ em hứa?”


      “À, ấy cũng hứa, nhưng em chưa nhận được gì, còn ấy biết em ở đâu.”


      “À, sớm có tin tức nào đó. Chị nghĩ họ nghe tin về người bị giam giữ, và nhận ra họ truy lùng sai đối tượng.”


      Maria ngả người nằm xuống giữa những chiếc áo: “Chị nghĩ em mến ấy.”


      ấy trông được.” Đôi má Susannah ửng đỏ, khiến cho cảm thấy bực mình. Maria nhìn em mà cười.


      “Thôi ! Nhưng em phải làm gì?”


      “À, chị nghĩ em có thể viết vài bức thư dài nồng nàn, cột dải ruy băng màu hồng, rồi giữ bên cạnh quả tim.”


      Maria vui vì thấy Susannah thẹn thùng. thấy nhiều trai trẻ tỏ lộ mến em cách nồng nàn và nghĩ mình được đáp lại, nhưng chỉ sau khoảng tuần Susannah quan tâm đến nữa, đôi mắt hướng đến điều gì khác hấp dẫn hơn ở gần đâu đó. Ngăn kéo ở bàn trang điểm của em chứa đầy chứng tích tình được đáp ứng. Ngăn kéo của Maria mang gánh nặng như thế, nhưng điều này khiến cho chị ghen tị với em; hề có. biết em cảm thấy phiền hà đối với mọi mối quan tâm, vốn chỉ tạo thêm áp lực cho người con trẻ phải cư xử như quý . Tất cả thanh niên khi thấy khuôn mặt và dáng người của Susannah đều nhận ra cơ bản về - rằng có tính thực dụng sâu sắc, thích bơi và câu cá hơn là tham gia những buổi tiệc trà thanh lịch. chán ngán cách trò chuyện trừu tượng và bối rối khi nghe lời lẽ hoa mỹ.


      Vì lẽ Maria biết được những điều này, ghen tị khi em được nhiều thanh niên để ý đến. Và vì lẽ Maria biết, khi rất mến trai trẻ dạy học ở trường năm rồi, Susannah thành thực mong mang lại hạnh phúc cho chị mình. phải do lỗi của Susannah khi Robert gặp em, nhưng tình cảm của ta bị đảo lộn rồi cuối cùng ta lắp bắp tỏ tình với em. ta phải lẻn trở về Samia chuyến tàu sớm nhất do sợ hãi vì phản ứng khủng khiếp của Susannah. kể cho chị nghe, nhưng chẳng chóng chày tin đồn cũng râm ran đây đó, giống như mọi tin khác ở Caulfield. Sau thời gian thầm đau khổ, Maria tạo ra hình tượng bằng sáp của Robert Fisher rồi chầm chậm nướng ngọn lửa trong phòng ngủ. Điều kỳ lạ là việc này giúp cho thoải mái hơn.


      Từ lúc đó, Maria gần như có lời thề nguyện là đương nữa, vì mường tượng được có người nào đạt đến lý tưởng của mình về người đàn ông - đấy là cha . Dù sao chăng nữa, chắc hôn nhân và hạnh phúc gia đình là tất cả những gì đáng tán dương. Ở Caulfield và Sông Dove, phụ nữ phải làm lụng quần quật với tốc độ chóng mặt, đến nỗi khi các ông đạt đến thời kỳ mà bạn có thể gọi là đỉnh cao, các ông này trông như kết hôn với mẹ của các bà. Đấy là tình cảnh mà Maria muốn hình dung ra cho mình.


      Nhưng có vẻ như Donald là người đàn ông đàng hoàng và thông minh. Từ lâu Maria có thói quen là khi vừa gặp ai lần đầu, tỏ ra khiêu khích và dễ nổi cáu, nhằm đánh thức người quá nông cạn nên nhìn chiều sâu trong tâm hồn . Đó là cách thức tự vệ, càng được củng cố là đúng sau mối tình may. Donald vẫn chịu đựng, cho dù đó là vì Susannah, và tôn trọng Donald về điều này. Và rồi, khi hai người gặp nhau đường sau khi gặp Sturrock, có ấn tượng về lời lẽ của , thậm chí đến mức tự hỏi liệu những gì được nghe về Người Dò tìm là đúng hay .


      “Còn cái này sao?” Susannah đưa ra chiếc áo bằng len có màu lam nhạt, mà ngày xưa thích. “Em muốn mặc lại, nếu thay đổi tay áo theo cách nào đó.”


      Có vẻ như gạt Donald ra ngoài mọi ý nghĩ của mình. Theo khía cạnh, ngay khi rời Caulfield còn diện theo cách có ý nghĩa nào, và trở thành thể trừu tượng, tình trạng đình chỉ. Maria nghĩ có lẽ Susannah bao giờ viết thư cho . tự hỏi nếu Donald để ý đến Susannah như lần đầu tiên hai người gặp nhau, có nên để ý đến . Ý nghĩ này dĩ nhiên là điên rồ.




      Knox lấy cái bẫy và tự lái xe đến Sông Dove để gặp Angus Ross. Ông xác định được nguồn của lời đồn, và tự trách mình tin ngay vào lời đồn này. Kể từ khi lời đồn lan ra, ông nghe thêm những câu chuyện ly kỳ hơn: rằng nhà Maclaren bị giết giường của họ; rằng đứa trẻ mất tích; thậm chí rằng người bị giam giữ đích thân trói Knox khi trốn thoát. Vì thế mà ông mong Bà Ross có mặt ở nhà.


      Ông thấy Ross sửa hàng rào cánh đồng cách xa nhà. Ross vẫn tiếp tục làm việc khi ông đến gần, chỉ đứng thẳng dậy và ra dấu chào hỏi khi ông còn cách ít bước. Ai cũng biết Ross có tính ít , cũng như biết vợ ông này màng đến đất lề quê thói, nhưng Ross vẫn chào hỏi ông cách thân thiện.


      “Angus.”


      “Andrew, tôi mong vẫn khỏe.”


      “Vẫn thường thôi.” Ross là trong số ít người ở Sông Dove lấy làm khó khăn mà kêu tên của Knox. “Tôi biết tại sao ông đến đây.”


      Ross có đôi mắt và tóc màu nhạt, và tác phong lù đù. Ông khiến cho Knox liên tưởng đến đá hoa cương phong hóa: người Pict đặc trưng, ông và bà vợ cùng có tính bướng bỉnh, dù bà là người khá thanh lịch và trông giống người , tuy cứng cỏi như đá lửa. Đá hoa cương và đá lửa. Đấy là mẫu người mà thiên hạ thể nào hình dung được trong những tình huống thân mật. (Knox xoay chuyển ý nghĩ khỏi việc này với run rẩy trong tinh thần và tự trách mình.) Và cả hai người đều rất khác biệt với Francis đến nỗi ai cũng biết phải là con ruột của họ.


      “Vâng, hôm nay chúng tôi nghe nhiều tin đồn huyễn hoặc. Mọi người đều dao động với việc người bị giam giữ trốn thoát. Đây là chuyện vô cùng may.”


      “À, đúng thế. Bà ấy , nhưng phải vì bị cưỡng ép.”


      Knox im lặng để chờ có thêm thông tin. Nhưng Ross chịu thêm.


      “Ông biết bà ấy đâu ?”


      tìm Francis. Bà ấy tìm. Bà chịu đựng được nỗi lo lắng.”


      Knox kinh ngạc đối với vẻ trầm tĩnh của Ross.


      “Tôi đoán họ gặp người của Công ty.”


      “Bà ấy mình sao?”


      Ross khẽ nhún vai, nhìn Knox: “Nếu ông hỏi người bị giam giữ có cùng bà ấy , tôi được. Tôi thể tưởng tượng được tại sao ông ta muốn giúp bà ấy, còn ông nghĩ sao?”


      “Ông có lo lắng ? Vợ ông, ra ngoài kia... vào mùa này trong năm?”


      Ross nhặt lên cái rìu và cái cuốc chim rồi về phía ngôi nhà: “Vào đây uống trà.”


      Knox nhận ra rằng mình có chọn lựa khác.


      Ross cho Knox thấy ông cần lo lắng về an nguy nhất thời của vợ ông. Hiển nhiên là bà mang theo đủ thứ cần thiết. Ông đọc tờ ghi chú bà để lại, chuẩn xác nhưng diễn cảm. Câu “đừng để ý đến những gì nghe” có thể hàm ý việc người bị giam giữ trốn thoát, nhưng cũng có thể đúng. Knox thắc mắc liệu Ross có ghen hay , là mối quan tâm của người chồng mà bà vợ có khả năng trốn với người đàn ông khác, cho dù đấy là tình huống kỳ quặc ra sao. Ông thể phát tâm tư này.


      Khi dùng trà, Knox ức đoán về tình trạng cuộc hôn nhân của Ross. Có lẽ trong mấy năm sau này, hai người còn hòa hợp với nhau nữa. Có lẽ Ross vui vì bà vợ ra . Và vì đứa con trai ra .


      “Vào lúc này, có lẽ tốt nhất nếu ông gì về việc này với ai cả. Tôi rằng tôi trao đổi với ông và rằng có chuyện gì phải lo. Chúng tôi muốn có thêm nhiều ... hoảng hốt.”


      Ông dự trù có thêm nhiều người ra về hướng bắc, và cảm thấy tiếng cười điên dại dâng lên cổ họng khi nghĩ đến điều này. phản ứng thích hợp càng ngày càng diễn ra thường xuyên khi ông già . Có lẽ đó là do tình trạng lão suy. Ông nuốt tiếng cười - đây là công việc nghiêm túc. Nhưng có lẽ cần thiết có thêm người, bởi vì hy vọng rằng Donald Moody và Jacob có mặt tại chỗ - cho dù chỗ đó ở đâu chăng nữa.


      Ross gật đầu: “Nếu ông muốn vậy được.”


      “Tôi có đúng khi nghĩ rằng ông có ý định theo vợ ông?”


      khoảnh khắc im lặng. Đối với đa số đàn ông, câu hỏi đó bị xem là thái độ khinh thường.


      “Tôi đâu? Trong thời tiết như thế này tôi biết chắc bà ấy đâu. Như tôi , có phần chắc là bà ấy gặp người của Công ty.”


      Có phải bây giờ ông tự minh chứng cho mình? Knox cảm thấy có ác cảm. Ông bắt đầu nhận thấy tính chịu đựng như thế là khó chịu, chưa đến đáng ghét.


      Knox đứng lên: “Này... cảm ơn ông thẳng thắn với tôi. Tôi thành thực mong gia đình ông chóng ổn thỏa như xưa.”


      Ross gật đầu, cảm ơn Knox đến thăm, và xem dường bận tâm về nỗi quan ngại hoặc niềm phấn khởi.


      Knox cảm thấy nhõm khi từ giã Angus Ross. Ông kinh qua những cảm nghĩ tương tự qua cách đối xử với người bản địa - những người bày tỏ cảm xúc nồng nàn như người da trắng - và quả là lao tâm khổ tứ khi mất nhiều thời gian với người mà nụ cười bất chợt gây cảm tưởng như là yếu đuối của con trẻ.


      ***


      Mặc chiếc áo choàng mùa đông được cho mượn, Sturrock lần mò qua lớp tuyết mới, xem xét mặt đất để tìm dấu vết của đường đào tẩu. Bên tay phải ông, người đàn ông tên Edward Mackay cũng làm như thế. Bên tay trái ông, trai trẻ dùng cây gậy chọc xuống mặt đất chỗ này chỗ nọ. Sturrock nhận ra rằng đây là công việc vô vọng. Mọi việc đều được thực sai ngay từ đầu. Khi người ta phát người bị giam giữ tẩu thoát, tin tức rò rỉ nhanh chóng như vết dầu loang, cùng lúc trong mọi gia đình ở Caulfield, và cư dân đổ xô ra để săm soi và nêu giả thuyết, vì thế xóa mọi dấu chân lân cận. Dù sao chăng nữa, tuyết nhuyễn như bột bắt đầu rơi trong đêm, có lẽ che giấu tất cả dấu vết, nhưng có quá nhiều người can dự nên thể thu thập thông tin từ trường.


      Khi Sturrock đến mặt đất chung quanh kho chứa hàng là biển bùn và tuyết bẩn, và ai biết cần tìm kiếm ở đâu. Vì thế, người khỏe mạnh được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm theo hướng khác nhau, lùng sục mặt đất thành từng hàng mười người. Theo cách này, họ quét qua vùng đất chung quanh Caulfield, phá hủy tất cả thông tin mà mặt đất có thể cung cấp. Sturrock phản đối vì lý do này, nhưng ông là người ngoài đến đây nên chỉ được lắng nghe cách lịch rồi bị phớt lờ. có vài tin báo nhầm lẫn, khi nhóm người tìm kiếm hô hoán lên rằng họ thấy vết chân hoặc dấu hiệu của đường qua, cuối cùng đó chỉ là tượng thiên nhiên hoặc dấu vết của thú rừng.


      Tâm tư của Sturrock hướng về ngôi nhà của Scott, nơi ông cất giấu giấy tờ dưới tấm nệm giường (ông kiểm tra để biết chắc có chuột bọ dùng giấy làm bữa ăn sáng), ông sẵn sàng lưu lại lâu nếu cần, tin rằng mình có thể xin Knox cho vay thêm tiền, trong khi chờ đợi con trai của Bà Ross và tấm thẻ xương xuất trở lại. Ông tin chắc rằng ai ở đây biết tấm thẻ đó là cái gì. Chính ông cũng biết, và chỉ có đầu óc hiếm hoi - như đầu óc của ông - mới biết cách nghĩ ra câu chuyện gì đó ly kỳ.




      Lần đầu tiên Sturrock gặp Laurent Jammet là năm rồi, vào ngày u ám, lộng gió ở Toronto. Lúc nào vẫn vậy, Sturrock cứ ôm đồm làm việc này việc nọ mà có đủ phương tiện, và luôn bị bà chủ nhà Pratt lên mặt dạy đời. Bà là trong số những người - đáng buồn là có nhiều người - nhận ra rằng Sturrock là người sinh ra để làm những việc tinh tế trong cuộc sống, và rằng ông giúp tăng giá trị ngôi nhà cho thuê ọp ẹp của bà. Để vực dậy từ những kinh nghiệm thương đau và nghĩ làm thế nào khắc phục tình thế, ông đến trong những quán cà phê mà ông mong có thể xin vay chút tiền. Khi xoay tròn chiếc cốc cà phê trong tay, ông nghe lỏm cuộc trò chuyện từ bàn kế bên.


      người, với giọng tiếng Pháp, mình làm ăn buôn bán với ông ở Vịnh Thunder, và được ông này tặng món vật kỳ lạ, có vẻ chẳng có giá trị gì cả nên mãi lúc gần đây mới để ý tới. đó là tấm thẻ bằng ngà với nhiều vết khắc đó, “giống như nét chữ gì đó của Ai Cập”.


      Theo giọng, người kia dường như là chàng người Mỹ vô tích lợi dụng đường biên giới dài để trốn lánh chiến tranh. ta : “Đó phải là chữ Ai Cập mà là những hình vẽ, như là chim chóc hoặc đại khái như vậy.” Hiển nhiên là họ chuyền cho nhau món vật quanh chiếc bàn để xem xét.


      Người thứ ba : “Tôi biết đó là gì. Có lẽ là chữ Hy Lạp.”


      Người Pháp : “Thế có lẽ nó có giá.”


      Đến lúc này, Sturrock đứng dậy tự giới thiệu mình với ba người. Ông có kỹ năng giỏi ám chỉ xa gần là làm việc với đủ lớp người từ công nhân hầm mỏ đến bá tước, và ông là trong số ít người da trắng được những tù trưởng Da Đỏ hai bên đường biên giới tin cậy và mến. Chính vì thế mà ông trở thành người tìm kiếm giỏi, và người Mỹ nghe danh Sturrock, nên cũng là yếu tố thuận lợi trong trường hợp này.


      Ông bảo mình nghiên cứu về khảo cổ, và có thể hỗ trợ họ. Người Mỹ làm cho ông khoái chí với nhiều lời thỉnh cầu ông cung cấp thông tin cho họ, và ông thỏa mãn họ bằng cách nghiên cứu món vật trong tay ông. Ông làm ra vẻ xem nó là thứ đáng màng tới, trong khi thực ra ông chẳng biết ất giáp gì cả. Từ ít kiến thức về nền văn hóa Hy Lạp và Ai Cập - các nghiên cứu của ông được phóng đại chút ít - món vật kia chẳng thuộc nền văn hóa nào. Nhưng óc tò mò của ông bị kích thích bởi những hình thù xíu chung quanh những dấu có góc cạnh trông tương tự như chữ viết. Chúng làm cho ông liên tưởng đến mẫu hình những nhân vật trong lịch sử người Da Đỏ mà ông trông thấy, được thêu dây thắt lưng. Cuối cùng ông trả lại mảnh ngà cho người Pháp có tên là Jammet, và mình nắm , nhưng biết nó phải là Ai Cập, Latinh, hoặc Hy Lạp, và như thế thuộc trong những nền văn minh vĩ đại thời xa xưa.


      người lấy làm thương hại cho Jammet, : “Thế có lẽ nó là Da Đỏ cổ đại, nên có may mắn đấy nhé!”


      Họ cùng nhau cười lớn. Sau đó, họ chia tay nhau, và Sturrock lưu lại thêm tiếng đồng hồ, nhâm nhi cà phê mà người Pháp đãi.


      Trong những ngày kế tiếp, ông càng suy nghĩ thêm về chuyện này mà bỏ qua được. Sturrock bộ dọc con đường (ông có tiền để cưỡi ngựa) trong khi hình ảnh của tấm thẻ và những dấu kỳ lạ nhảy múa trước mắt ông. Dĩ nhiên là ai cũng biết người Da Đỏ có chữ viết. Họ chưa bao giờ có.


      Mặc dù vậy. Mặc dù vậy.


      Sturrock trở lại quán cà phê và gặp lại người Pháp, như thể tình cờ, bên ngoài nhà nghỉ - mà ông cẩn thận nhận xét là thuộc khu vực giàu có hơn là nơi ông ở. Họ trò chuyện lúc, rồi Sturrock mình trao đổi với người bạn, người biết nhiều về các chữ viết cổ xưa, và quan tâm muốn xem tấm thẻ. Nếu ông có thể mượn tấm thẻ vài ngày để cho bạn mình xem, có lẽ ông định được giá của tấm thẻ. Jammet chứng tỏ mình là con buôn có bản lĩnh khi từ chối rời xa tấm thẻ nếu được trả khoản tiền lớn. Sturrock nghĩ mình cẩn thận che giấu mối quan tâm, và cảm thấy xúc phạm vì được tin tưởng, nhưng Jammet cười và vỗ vai ông, mình giữ tấm thẻ cho ông cho đến khi ông có đủ tiền để mua. Sturrock giả vờ lãnh đạm, rồi ậm ừ cầu chép lại các dấu hiệu, để chắc chắn là tấm thẻ đáng được quan tâm. Jammet lấy tấm thẻ ra, cảm thấy vui vui, rồi nguệch ngoạc viết lên mảnh giấy.


      Từ lúc đó, ông mang mảnh giấy đến các viện bảo tàng ở Toronto và Chicago, đến các giáo sư đại học và nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, và thấy ai bác bỏ giả thuyết của mình. Ông mình nghĩ nó có thể là gì, mà chỉ hỏi nó có thể thuộc chữ viết Ấn-Âu[33] hay . Các học giả cho rằng . Họ loại bỏ tất cả chữ viết của Cựu Thế giới. Nếu ông biết nguồn gốc của tấm thẻ thực là hay, nhưng ông ngại đánh động nhà buôn kia về mối quan tâm của ông. Trong những tháng kế tiếp, tấm thẻ còn là mối quan tâm nữa. Nó trở thành nỗi ám ảnh.




      Theo lời ông kể với Moody, ông lao vào cuộc nghiên cứu qua tình cờ. Sturrock là nhà báo nổi danh, sau khi thử làm việc trong các lĩnh vực luật, kịch nghệ và giáo hội. Nghề cuối cùng này được thành công nhất: ông lập nên giáo xứ gồm vài trăm giáo dân vốn bị tài dí dỏm và hùng biện của ông lôi cuốn, nên ông phất lên - cho đến khi quan hệ tình cảm giữa ông và người vợ của giáo dân hàng đầu bị phát , và ông phải chạy thoát khỏi thị trấn. Nghề làm phóng viên thích hợp với những tố chất theo quy tắc của ông. Đấy là nghề đa dạng, dễ hòa đồng, cho phép ông bày tỏ ý kiến bằng ngôn từ hoa mỹ. Nhưng hơn thế nữa, ông khám phá mình có tài năng giỏi vận động quần chúng. Khởi đầu lấy cảm hứng từ những ý tưởng lãng mạn về dã man của tầng lớp quý tộc, dần dà ông viết về các vụ người Da Đỏ. Dù bị lạm dụng do mấy chuyện huyễn ảo thơ mộng, ông vẫn cảm thấy khuấy động bởi thực tế mình nhận biết được. Đặc biệt là ông làm quen với người đàn ông tên là Joseph Lock, ở tuổi bát tuần, sống trong cảnh nghèo túng gần Ottawa, kể cho ông nghe các câu chuyện về sắc tộc Pennacook của mình, và làm thế nào họ bị đuổi ra khỏi mảnh đất của họ ở Massachusetts. Joseph là trong số ít người còn lại, nếu phải là người cuối cùng, của sắc tộc mình. Sturrock xuất sắc viết lại câu chuyện - ông thường nghe kể, và tin là thực - về cảnh ngộ khốn khổ của Joseph, và sau đó thường được mời đến nhà nhiều nhân vật quan trọng ở Toronto và Ottawa. Ông nghĩ rằng mình tìm được chỗ đứng độc đáo mà ai chen chân vào được.


      Tuy nhiên, cũng như những nỗ lực khác, có gì tồn tại mãi. Danh tiếng của ông dẫn dắt ông gặp gỡ thêm nhiều người Da Đỏ, trẻ tuổi hơn, giận dữ hơn là Joseph, và những bài viết của ông, thay vì mô tả sống động cảnh cơ hàn và than van những bất công trong quá khứ (có nhiều cách cho bạn mô tả), lại càng ngày càng khiêu khích như thể muốn mở trận bút chiến. Bỗng dưng Sturrock thấy các chủ bút ngại đăng bài viết của mình. Họ đưa ra nhiều lý do mơ hồ, hoặc đổ lỗi cho độc giả có mối quan tâm kiên định, ông biện luận rằng công chúng cần được thông tin về tâm tư của người bản địa. Các chủ bút lầm bầm về những vụ bên quốc quan trọng hơn, và nhún vai. Các cánh cửa đóng sập lại đối với ông. Những lời mời hợp tác càng ngày càng thưa thớt, ông cảm thấy bất công, và cảm thấy mình bị đối xử như người Da Đỏ từng bị đối xử.


      Vào khoảng thời gian này, gia đình người Mỹ có đứa con trai bị mất tích sau vụ tấn công của người Da Đỏ. Mặc dù việc này xảy ra ở phía nam Ngũ Đại Hồ, ở Michigan, người cha nghe về Sturrock, và vì thông minh và bấu víu được ai nên tin rằng Sturrock có thể giúp được. Bấy giờ Sturrock gần năm mươi tuổi, nhưng ông dấn thân vào công việc với óc tưởng tượng và tinh thần năng động. Có lẽ phần vì ông là người ngoài nên người Da Đỏ đón tiếp ông, tin tưởng nơi ông. Sau vài tháng, ông tìm ra đứa con trai sống với sắc tộc Huron ở Wisconsin. Đứa con trai đồng ý quay về với gia đình.


      lần nữa, Thomas Sturrock được trọng vọng. Sau kết quả tốt đẹp đầu tiên, ông nhận thêm vài công việc tìm kiếm trẻ em bị bắt cóc, và hai phần ba trong các vụ là thành công. Vấn đề khó khăn phải là tìm ra các trẻ em này, mà là thuyết phục chúng trở về với cuộc sống trước kia. Ông có tài thuyết phục.


      Thế rồi, sau vài ba năm, ông nhận được lá thư của Charles Seton. Trường hợp nhà Seton là khó khăn nhất trong phần lớn vụ việc ông biết, vì năm năm trôi qua từ khi hai đứa trẻ mất tích, và có chứng cứ nào để rằng chúng bị người Da Đỏ bắt cóc. Tuy thế, dựa vào những thành công trước kia mà ông tỏ ra tự tin. Ông muốn từ chối công việc mà ông nghĩ có thể mang đến danh vọng cho nghiệp của mình. Ông kiếm sống, nhưng ai làm giàu bằng cách tìm con cái của di dân nghèo.


      Khi tình hình vượt quá tầm kiểm soát ông nhận ra. Sau năm năm, Charles Seton vẫn còn đau khổ cùng cực. Bà vợ ông này qua đời vì mất con, càng khiến cho ông thêm đau đớn. Ông còn làm việc kiếm tiền, mà bỏ ra mọi khoản tiền để tìm kiếm hai đứa con . Việc tìm kiếm này trở thành nguồn sống duy nhất của ông. Đáng lẽ Sturrock phải nhận ra những dấu hiệu của người mà lời khuyên giải nào giúp nguôi ngoai được, có gì bù lại cho mất mát. Hy vọng của Sturrock trong việc tìm ra hai đứa trẻ tàn lụi dần. Người ta tin rằng chúng chết tức thời, thi hài bị thú rừng tha . Sau năm tìm kiếm, Sturrock bắt đầu nghiêng về giả thuyết này, nhưng Charles Seton muốn nghe. thể nào trao đổi với ông về chuyện như thế.


      Trong thời gian này, khi lại giữa Hồ Ontario và Vịnh Georgian, Sturrock gặp trai trẻ người Da Đỏ tên Kahon’wes, phóng viên có tính chiến đấu viết về những hoàn cảnh đau khổ của người Da Đỏ. Kahon’wes sốt sắng gặp Sturrock vì muốn có thêm nhiều nguồn tin. Dù Sturrock nghĩ này thể giúp gì nhiều, họ vẫn trở thành đôi bạn.


      Kahon’wes gọi ông là Sakota:tis, có nghĩa là Nhà Thuyết giáo, Sturrock cảm thấy tự mãn vì quan tâm, và vì trai trẻ lý tưởng hóa con người ông. Trong nhiều đêm, hai người trao đổi về các cuộc chiến ở Mỹ và về các chính trị gia ở Ottawa. Họ về văn hóa, về nhận định cho là người Da Đỏ thuộc Thời kỳ Đồ đá, và định kiến mà nền văn hóa có chữ viết chê bai nền văn hóa chỉ có tiếng . Kahon’wes kể cho ông nghe về cuộc khai quật dọc Sông Ohio tìm ra những phế tích khổng lồ xây bằng đất nện và những vật có niên đại từ trước Công Nguyên. Khi tìm ra những di chỉ này, các nhà khảo cổ học người da trắng muốn tin rằng người Da Đỏ có thể giống như nền văn minh của các nhà xây dựng và chạm khắc (và do đó, người Da Đỏ có thể được người da trắng kế tục cách tàn bạo, cũng như người Đa Đỏ, theo giả thuyết, kế tục những sắc tộc khác).


      Chính những cuộc trò chuyện này, kéo dài cả thập kỷ, trở lại vương vấn Sturrock khi ông qua các đường phố Toronto để dọ hỏi về tấm thẻ bằng xương. Ông bắt đầu tưởng tượng ra bài viết của mình về đề tài này, và cơn chấn động quét qua Bắc Mỹ khi độc giả đón nhận bài viết. Việc cho đăng tải bài nghiên cứu như thế có thể cứu giúp rất nhiều cho những người bạn Da Đỏ của ông, và đồng thời cũng giúp ông được nổi tiếng. Nhưng ông thấy buồn vì thể hỏi ý kiến Kahon’wes: chàng này sa vào tật nghiện rượu và sống cầu bơ cầu bất phía bên kia biên giới. Đấy là số phận bao trùm lên những người ra khỏi con đường đó họ sinh ra.




      Thế là, trong khi Sturrock lê bước lớp tuyết, ông để ý đến địa hình kỳ lạ, ảm đạm, và những người cùng (tất cả đều là nghiệp dư), ý nghĩ của ông quay về với Kahon’wes, và với tham vọng từ lâu chưa thực được. Để có phần thưởng này bao nhiêu công sức chờ đợi và bao nhiêu khổ ải đều đáng giá.


      ***


      Ngoài thời gian sống với chồng, tôi ít khi có quan hệ xã hội với người đàn ông khác, thế nên tôi thấy khó mà phán đoán điều gì là bình thường hay bất thường. Ngày thứ ba từ khi rời Sông Dove, tôi bước theo sau Parker và chiếc xe trượt tuyết và nhớ lại rằng ông với tôi tổng cộng năm câu, nên tôi tự hỏi mình làm gì sai trái hay . Dĩ nhiên tôi biết rằng tình huống này là bất thường, và tôi lại là người ít , nhưng dù sao tôi vẫn thấy bất an về im lặng của ông. Trong hai ngày, tôi đủ hứng khởi để hỏi han, và phải dùng hết sức lực để bắt kịp đà tiến như là tra tấn, nhưng hôm nay xem dường dễ hơn chút; chúng tôi đến khoảnh đất tương đối bằng phẳng, có những cây tuyết tùng chắn gió lạnh. Chúng tôi di chuyển qua vùng tranh tối tranh sáng dưới tán cây, chỉ có thanh răng rắc dưới bước chân và tiếng rì rào của rễ bò cây liễu mặt tuyết.


      Parker theo con đường dọc bờ sông mà ngần ngừ giây phút nào, và tôi chợt nghĩ ra rằng ông biết chính xác nơi chúng tôi đến. Khi chúng tôi dừng lại để dùng cà phê và bánh mỳ bắp, tôi hỏi: “Đây là lối Francis qua phải ?”


      Ông gật đầu. Ông là người rất hà tiện lời .


      “Thế là... ông thấy dấu vết đường đến Sông Dove?”


      “Vâng. Hai người theo đường này, trong khoảng thời gian gần nhau.”


      “Hai người hở? Ý ông là nó cùng với người khác?”


      người theo người khác.”


      “Làm sao ông biết được?”


      loại dấu vết luôn ở phía sau dấu vết kia.”


      Ông ngưng lại chừng phút. Tôi gì.


      “Họ đốt những đống lửa cách xa nhau. Nếu cùng nhau họ chỉ đốt đống lửa.”


      Tôi cảm thấy mình có phần ngu dốt, vì để ý đến điều này. Parker toát ra vẻ tự mãn tinh tế. Hoặc có lẽ tôi tưởng tượng. Chúng tôi đứng phía đống lửa xíu, và chiếc cốc làm cho đôi bàn tay lạnh cóng của tôi ấm lại - cảm giác vừa dễ chịu vừa đau đớn. Tôi giơ chiếc cốc lên để hơi nước nóng phả lên mặt, biết rằng sau đó tôi đau thêm, nhưng vì quen giữa mùa đông nên tôi bỏ qua cảm giác dễ chịu phù du này.


      trong hai con chó cất tiếng sủa. luồng gió thổi qua những cành cây nặng trĩu tuyết khiến cho tấm màn những bông tuyết rơi xuống nền đất. Tôi thấy làm thế nào ông có thể lần mò theo các dấu vết dưới lớp tuyết. Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, ông : “Bốn người để lại dấu mòn rộng.”


      “Bốn người?”


      “Các nhân viên Công ty, những người theo con trai của bà. khó theo dấu vết của họ.”


      Tôi tưởng tượng, hay tôi thấy bóng ma của nụ cười?


      Ông nuốt ực để uống cạn cốc rồi bước ra xa ít mét để tiểu. Dường ông có khả năng mà tôi nhận thấy nơi những người quen sống ngoài trời: uống nước nóng mà bị bỏng. Miệng ông hẳn phải như da thuộc. Tôi quay mặt và ngắm hai con chó, lúc này ngồi xuống sát nhau để giữ hơi ấm. Điều kỳ lạ là con chó nhất, lông màu cát, tên Lucie nhưng ông phát “Lucee”, theo cách của người Pháp. Vì thế tôi đặc biệt có cảm tình với con chó này - nó xem dường thân thiện và tin tưởng, như loài chó là phải thế, khác với con chó đực Sisco trông giống chó sói, với đôi mắt xanh trông bất ổn và tiếng gầm gừ nghe đe dọa. Tôi chợt nhận ra là có tương đồng giữa hai con chó và hai người trong chuyến này. Tôi Parker có cùng ý nghĩ này , mặc dù dĩ nhiên là tôi tên mình cho ông biết, và ông cũng hỏi.


      Trong khí lạnh giá, cà phê nguội nhanh chóng đến mức có tôi có thể uống ngon lành trong nửa phút, và phải nuốt nhanh. Chỉ chốc lát sau cà phê lạnh hẳn.


      Đến tối, Parker dựng lều và đốt đống lửa cho tôi ngồi kế bên, làm cho hai bàn tay và mặt tôi nóng rát nhưng lưng lạnh cóng. Trong khi ấy, ông dùng rìu đốn số cành cây thông. (Tôi đoán sau này Angus than vãn về mất mát của mình, quả là tệ; đáng lẽ ấy phải nghĩ đền điều này trước khi bỏ bê đứa con trai.) Parker tước cho sạch các cành lớn để làm cái khung cho nơi trú kế thân cây to để chắn gió hoặc, nếu có cây đổ, phía sau chùm rễ bị bật khỏi mặt đất. Ông đặt những cành non còn lá mặt đất, sắp xếp trông như những tia nắng mặt trời, lá ở trung tâm. Lần đầu trông thấy như thế, tôi nghĩ nó giống như địa điểm để tế thần, và tôi phải dập tắt ý nghĩ này trước khi tản mạn xa thêm. Rồi ông phủ lên tấm vải bạt mà tôi lấy từ tầng hầm ở nhà. Tấm bạt được neo vào đất bằng những nhánh cây và với tuyết được xúc lên bằng cái bay, cho đến khi các bức tường được đắp lên cao và giữ hơi ấm bên trong. Phía trong, ông dùng cành cây để chống lên phần tấm bạt hầu tạo bức tường ngăn đôi. Đấy là cử chỉ duy nhất của ông về khuôn phép, và tôi lấy làm mừng.


      Ông chuẩn bị chỗ trú như thế trong thời gian vừa đủ cho tôi đun nước và chuẩn bị món cháo yến mạch cùng ruốc thịt, thêm ít quả dâu nhăn nhúm. Tôi quên mang theo muối nên hương vị chán ngắt, nhưng là tuyệt được ăn món nóng sốt và cảm thấy nó nóng bỏng xuống cổ họng. Rồi trà đường, để cho khẩu vị ngọt ngào trở lại, trong khi tôi tưởng tượng đến cuộc trò chuyện rôm rả nếu người nào khác làm hướng đạo cho tôi - hoặc là người bắt giữ tôi? Rồi, vì mệt lả (ít nhất là trường hợp của tôi), hai chúng tôi chui vào lều và các con chó tìm đường lẻn vào theo, rồi Parker dùng hòn đá để bít lối vào.


      Đêm đầu tiên, tôi bò vào căn lều như là đường hầm tối đen mà tim đập thình thịch, co mình dưới tấm chăn, quá sợ nên dám cử động, và chờ đợi số phận tệ hại hơn cái chết. Tôi nín thở, nghe ngóng trong khi Parker trở mình và thở chỉ cách tôi vài phân. Con chó Lucie uốn éo thân mình - hoặc là bị đẩy - dưới tấm rèm để co rút bên tôi, và tôi thấy dễ chịu với cơ thể ấm áp nhắn nằm kế bên mình. Rồi dường như Parker ngưng cử động, nhưng tôi kinh hoàng nhận biết phần của người ông ép sát vào tấm rèm vải bạt - và vì thế sát vào lưng tôi. có chỗ cho tôi xê dịch ra xa - mặt tôi gần như sát với tấm vải bạt phủ tuyết. Tôi chờ đợi cho chuyện kinh hoàng nào đấy diễn ra - dù sao chăng nữa tôi vẫn ngủ được - và rồi dần dần, tôi cảm nhận ít hơi ấm tỏa ra từ ông. Mắt tôi mở trừng trừng mà thấy gì, tai tôi căng ra để cố nghe ngóng thanh nhất, nhưng có chuyện gì xảy ra. Đến lúc nào đấy, tôi thiếp . Cuối cùng, dù đỏ mặt khi nhớ lại, tôi nhìn nhận cách dàn xếp này tuyệt: vẫn có gian riêng tư nhưng mỗi người trong chúng tôi chia sẻ cho nhau hơi ấm.


      Sáng hôm sau, tôi thức dậy thấy ánh sáng mờ nhạt chiếu qua tấm vải bạt. Chiếc kén của tôi ngột ngạt, lại nồng nặc mùi chó. Chiếc lều lạnh giá, nhưng khi bò ra ngoài tôi kinh ngạc thấy bên trong ấm hơn nhiều so với ngoài trời. Tôi tin chắc Parker nhìn tôi khi tôi co dãn chân tay cách khiếm nhã, mái tóc tôi xổ ra và lõa xõa khắp mặt mũi, nhưng may mà ông ấy cười mà cũng chăm chú nhìn thái quá. Ông trịnh trọng trao cho tôi cốc trà, rồi tôi đứng dậy và cố vuốt tóc cho ngay thẳng, thầm ước gì mình mang theo chiếc gương . Quả là điều lạ lùng khi tính phù hoa vẫn bám đuổi trong những tình huống thiếu phù hợp nhất. Nhưng rồi, tôi tự nhủ, tính phù hoa là trong những tố chất phân biệt chúng ta với loài thú, vì thế có lẽ chúng ta nên hãnh diện về điều này.




      Tối hôm ấy - tối thứ ba - tôi quyết định có nỗ lực hơn với người đồng hành câm nín. Khi dùng món thịt hầm, tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi có cảm tưởng mình phải chuẩn bị nguyên cớ, có thể như thế, và trong vài tiếng đồng hồ suy tính phải những gì.


      “Ông Parker, phải rằng tôi rất cảm kích vì ông dẫn tôi theo, và tôi đánh giá cao nỗ lực của ông khi giúp tôi được thoải mái.”


      Trong ánh lửa hồng, khuôn mặt ông là chiếc mặt nạ của những bóng tối gì xâm nhập được, cho dù bóng tối có hiệu quả xóa những vết bầm đôi má ông và làm dịu nét cứng cỏi của ông.


      “Tôi biết tình huống này là khá... bất thường, nhưng tôi mong rằng chúng ta vẫn là bạn đồng hành tốt với nhau.”


      Tôi nghĩ “bạn đồng hành” là ngôn từ nghe hay; thân thiết nhưng hàm ý tình cảm cá nhân quá đáng.


      Ông nhìn qua tôi, trong khi nhai mẩu sụn dai. Tôi nghĩ ông tiếp tục câm nín, như thể tôi diện hoặc tôi là sinh vật quan trọng gì lắm, như con bọ hung, nhưng rồi ông nuốt thức ăn và : “Bà có bao giờ nghe ấy chơi vĩ cầm chưa?”


      Phải mất lúc tôi mới vỡ lẽ ông về Laurent Jammet.


      Và rồi tôi mường tượng mình đứng bên ngoài ngôi nhà gỗ bên bờ sông gần nhà, nghe giai điệu ngọt ngào lạ lùng và thấy Francis chạy ra khỏi khung cửa, khuôn mặt nó biến đổi vì cười lớn - và tôi bất động vì hoang mang.


      Trong đời mình tôi khóc nhiều. Cuộc đời nào cũng có lúc khó khăn - đối với người đến tuổi như tôi bây giờ - vượt đại dương và mất cha mẹ cùng đứa con - nhưng tôi nghĩ đúng là cuộc đời mình gặp khó khăn hơn nhiều người khác. Nhưng dù thế, tôi luôn nghĩ rằng ích gì mà khóc, cứ như là bạn nghĩ người nào đấy có thể trông thấy và thương hại bạn, và họ nghĩ có thể làm gì đấy cho bạn - trong khi ngay từ đầu tôi thấy rằng chẳng ai giúp gì mình được cả. Trong mấy ngày này tôi khóc cho Francis, bởi vì tôi quá bận bịu dối và che giấu và trù định kế hoạch để giúp nó, và có lẽ nếu khóc tôi phung phí phần năng lượng nhoi của mình. Vì thế mà tôi biết bây giờ cái gì thay đổi, khiến cho những dòng lệ chảy xuống đôi má tôi, vạch ra những đường ấm nồng làn da. Tôi nhắm mắt lại, quay mặt vì xấu hổ, mong rằng có lẽ Parker để ý. Đấy phải như là Parker có thể giúp, ngoài việc hướng dẫn tôi trong rừng như ông làm. Tôi xấu hổ bởi vì có vẻ như tôi kêu gọi lòng từ tâm của ông; phó thác thân mình cho lòng khoan dung của ông, khi mà tôi biết ông chẳng khoan dung gì cả.


      Nhưng khi khóc, tôi nhận ra niềm khoái cảm thú vị; những giọt nước mắt làn da mặt tôi như là những ngón tay nồng ấm vỗ về tôi.


      Khi tôi mở mắt ra, Parker pha trà xong, ông hỏi tôi giải thích.


      “Xin ông thứ lỗi. Con trai tôi thích nhạc của ấy.”


      Ông trao cho tôi chiếc cúp thiếc. Tôi uống ngụm và ngạc nhiên, ông cho thêm đường, loại thuốc đa năng cho mọi chứng bệnh, ước gì chúng ta có thể làm ngọt dịu mọi nỗi ưu phiền dễ dàng đến thế.


      “Khi chúng tôi làm việc họp đoàn với nhau, ấy thường chơi nhạc cho chúng tôi nghe. Các ông chủ cho phép ấy mang theo cây đàn vĩ cầm trong các chuyến tải hàng. Họ biết dù phải mang nặng thêm nhưng vẫn đáng giá.”


      “Ông làm việc với ấy hở? Với Công ty phải ?”


      Tôi nhớ lại tấm ảnh của Jammet chụp với nhóm nhân viên tải hàng và cố soát xét trong ký ức xem Parker có phải là trong những người này , nhưng nhớ ra.


      lâu lắm rồi.”


      “Trông ông có vẻ như ... nhân viên của Công ty.” Tôi vội mỉm cười, vì e lời mình gây xúc phạm.


      “Ông nội tôi là người . Tên ông cũng là William Parker[34]. Quê ông ở Hereford.”


      Bây giờ Parker hút dọc tẩu. Đấy là dọc tẩu của chồng tôi, vì dọc tẩu của ông bị tịch thu.


      “Hereford? Ở hở?”


      “Bà biết vùng này à?”


      . Tôi nghĩ ở đấy có ngôi giáo đường rất đẹp.”


      Ông gật đầu, như thể diện của ngôi giáo đường tự nó là điều hiển nhiên.


      “Ông có biết về ông ấy nhiều ?”


      nhiều. Cũng như phần lớn những người khác, ông nội tôi ở yên chỗ. Ông cưới bà nội tôi là người Cree, nhưng ông trở về . Họ có người con, đó là cha tôi. Cả đời ông làm việc cho Công ty.”


      “Còn mẹ ông sao?”


      tia xúc động tỏa ra khuôn mặt ông: “Hừ... ông ấy cưới phụ nữ người Mohawk từ cơ sở truyền giáo người Pháp.”


      “À…” Tôi chỉ ngắn gọn, như thể đấy là giải thích điều gì. Mà đúng thế, người Iroquois nổi tiếng về tầm vóc cao lớn và thể lực. Và cũng có lẽ (cho dù lẽ tự nhiên là tôi thế), họ có ngoại hình tốt. “Ông là người Iroquois. Vì thế mà ông cao lớn đến thế.”


      “Mohawk, phải Iroquois.” Ông đính chính lời tôi cách nhàng mà tỏ vẻ bực bội.


      “Tôi nghĩ họ là như nhau.”


      “Bà có biết ‘Iroquois’ có nghĩa là gì ?


      Tôi lắc đầu.


      “Có nghĩa ‘rắn chuông’. Đó là cái tên mà những kẻ thù của họ gọi họ.”


      “Tôi xin lỗi. Tôi biết.”


      Đôi môi ông cong lại trong dáng điệu mà tôi bắt đầu nhận ra đấy là nụ cười. Giọng ông nghe ấm cúng, vui vui: “Mẹ tôi được cho là phải trở thành tín đồ Công giáo tốt để được nhà dòng giáo dục, nhưng bà luôn là người Mohawk.”


      Tôi mỉm cười qua ánh lửa bập bùng. Luôn vẫn là điều dễ chịu khi biết rằng nghi phạm mến mẹ mình.


      Cốc trà của tôi gần cạn; dĩ nhiên là lạnh băng. Tôi muốn hỏi về cái chết của Jammet nhưng e sợ làm đảo lộn mối giao tiếp tế nhị giữa hai người. Thay vào đấy, tôi ra dấu hỏi: “Mặt ông bây giờ như thế nào?”


      Ông đưa hai ngón tay sờ da mặt: “ còn đau nhiều nữa.”


      “Tốt. còn sưng nữa.” Tôi nghĩ đến Mackinley. Xem dường ông này chịu bỏ qua dễ dàng. “Tôi đoán có người vẫn cố muốn theo dấu chúng ta.”


      “Dù cho họ làm vậy, với lớp tuyết này, họ mất dấu. Và họ chậm lại.”


      “Nhưng ông có thể tìm ra dấu chứ?”


      Tôi quan ngại thêm vì việc này. Vì tuyết rơi - trông dường mỏng manh, dễ chịu, khô ráo - tôi tin chắc rằng Francis trú thân ở ngôi làng nào đấy. Tôi tin vào việc này vì tôi phải có niềm tin.


      “Vâng.”


      Tôi tự nhắc nhở mình rằng ông là người chuyên đặt bẫy thú rừng và quá quen với việc theo dấu những con vật qua lớp tuyết. Nhưng tự tin này bắt nguồn từ việc khác nữa. Tôi lại có cảm tưởng rằng ông biết dấu chân dẫn đến đâu.


      Trong khoảnh khắc chúng tôi ngồi im lặng, trong khi tôi ghen tị với nhịp độ và nghi thức hút dọc tẩu, làm cho người đàn ông trông bận rộn và chìm trong suy tư cho dù ông làm và nghĩ gì cả. Và tuy thế, tôi cảm thấy an bình hơn mấy lúc gần đây. Chúng tôi đường đến đích. Tôi làm việc gì đấy để giúp Francis.


      Tôi làm việc gì đấy để chứng tỏ tôi thương mến nó biết dường nào, và điều này là quan trọng, bởi vì tôi e nó quên.


      ***

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :